intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP: " ẢNH HƯỞNG CỦA PHƯƠNG PHÁP CHO ĂN GIÁN ĐOẠN LÊN SỰ TĂNG TRƯỞNG CỦA CÁ TRA ( Pangasianodon hypophthalmus) GIỐNG"

Chia sẻ: Cung Ru | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:34

61
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thí nghiệm đựơc tiến hành trong thời gian 12 tuần, nghiên cứu ảnh hư sự cho ăn gián đọan lên tăng trưởng của cá tra giống (Pangasianodon hypophthalmus Trong suốt thời gian thí nghiệm cho ăn gián đọan, ở nghiệm thức đối chứng (NT1) ăn theo nhu cầu (ăn đên no) với chế độ 2lần/ngày. Các nghiệm thức còn lại cho ăn v độ: cho ăn 7 ngày: gián đọan 2 ngày (NT2); cho ăn 7ngày: gián đọan 3ngày (NT3); cho ăn 7ngày: gián đọan 4 ngày (NT4). Tất cả các nghiệm thức đều được cho ăn giống như nghi...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP: " ẢNH HƯỞNG CỦA PHƯƠNG PHÁP CHO ĂN GIÁN ĐOẠN LÊN SỰ TĂNG TRƯỞNG CỦA CÁ TRA ( Pangasianodon hypophthalmus) GIỐNG"

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA THỦY SẢN LÊ THỊ TIỂU MI ẢNH HƯỞNG CỦA PHƯƠNG PHÁP CHO ĂN GIÁN ĐOẠN LÊN SỰ TĂNG TRƯỞNG CỦA CÁ TRA ( Pangasianodon hypophthalmus) GIỐNG LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2009 1
  2. LỜI CẢM TẠ Em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Thanh Phương và chị Nguyễn Hương Thùy đã tận tình hướng dẫn em trong suốt thời gian thực hiện thí nghiệm và hoàn thành báo cáo. Xin cảm ơn quý Thầy Cô, Cán bộ Khoa Thuỷ sản, Bộ môn Dinh Dưỡng và Chế Biến Thủy Sản đã giúp đỡ động viên em trong suốt thời gian thực hiện đề tài này. Cuối cùng xin cảm ơn đến gia đình, người thân, các anh chị và các bạn đã tạo mọi điều kiện để em có thể hoàn thành tốt đề tài. Lê Thị Tiểu Mi Xin chân thành cảm ơn! 2
  3. TÓM TẮT Thí nghiệm đựơc tiến hành trong thời gian 12 tuần, nghiên cứu ảnh hư sự cho ăn gián đọan lên tăng trưởng của cá tra giống (Pangasianodon hypophthalmus Trong suốt thời gian thí nghiệm cho ăn gián đọan, ở nghiệm thức đối chứng (NT1) ăn theo nhu cầu (ăn đên no) với chế độ 2lần/ngày. Các nghiệm thức còn lại cho ăn v độ: cho ăn 7 ngày: gián đọan 2 ngày (NT2); cho ăn 7ngày: gián đọan 3ngày (NT3); cho ăn 7ngày: gián đọan 4 ngày (NT4). Tất cả các nghiệm thức đều được cho ăn giống như nghi thức đối chứng (ăn đến no, 2lần/ngày, cho ăn 3-5% trọng lượng thân). Kết thúc thí nghiệm, cá được cho ăn gián đọan ở chế độ cho ăn 7 ngày: gián đọan 3 ngày (NT3) có trọng luợng cơ thể cao hơn (67,13± 4,8) và FCR nhỏ hơn (1,32±0,07) cá đựơc cho ăn hàng ngày (65,08±5,94 và 1,62± 0,14) (NT1), và sự khác bi này có nghĩa thống kê (p>0,05). Không có sự khác biệt về thành phần hóa học củ cá như độ ẩm, tro, lipid, NFE, Prorein, năng lượng giữa các nghiệm thức (p>0,05). 3
  4. MỤC LỤC Trang Phần 1.................................................................................................................. 1 Đặt vấn đề ........................................................................................................... 1 1.1. Giới thiệu .................................................................................................................1 1.2. Mục tiêu ...................................................................................................................2 1. 3. Nôi dung thực hiện..................................................................................................2 1.4. Thời gian nghiên cứu ...............................................................................................2 1.5. Địa điểm nghiên cứu ................................................................................................2 Phần 2.................................................................................................................. 3 Tổng quan tài liệu .............................................................................................. 3 2.1. Tình hình nghiên cứu, phát triển và việc sử dụng thức ăn trong nuôi cá tra ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) ...........................................................................3 2.2. Đặc điểm sinh học cá tra ..........................................................................................4 2.2.1. Hệ thống phân loại ...............................................................................................4 2.2.2. Đặc điểm phân bố .................................................................................................5 2.2.3. Đăc điểm dinh dưỡng............................................................................................5 2.2.4. Đặc điểm sinh trưởng............................................................................................5 2.3. Nhu cầu dinh dưỡng của cá.....................................................................................6 2.3.1. Nhu cầu về protein (Nhu cầu về chất đạm)...........................................................6 2.3.2. Nhu cầu về năng lượng .........................................................................................6 2.3.3. Nhu cầu về lipid ....................................................................................................7 2.3.4. Nhu cầu về carbohydrate ......................................................................................7 2.4. Một số nghiên cứu về phương thức cho ăn đối với sự tăng trưởng của cá ..............7 Phần 3................................................................................................................ 12 Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 3.1. Chuẩn bị thí nghiệm...............................................................................................12 3.1.1. Cá thí nghiệm ......................................................................................................12 3.1.2. Quá trình thuần hóa trước thí nghiệm .................................................................12 3.1.3. Bể thí nghiệm ......................................................................................................12 3.1.4. Thức ăn thí nghiệm .............................................................................................13 3.1.5. Các vật liệu thí nghiệm khác...............................................................................13 3.2. Bố trí thí nhiệm ......................................................................................................14 3.3. Chăm sóc theo dõi..................................................................................................14 3.4. Phương pháp thu mẫu và ghi nhận kết quả ............................................................15 3.5. Tính tóan một số chỉ tiêu .......................................................................................16 3.6. Phương pháp xử lý số liệu .....................................................................................16 Phần 4................................................................................................................ 17 Kết quả và thảo luận........................................................................................ 17 4.1 Kết quả theo dõi các chỉ tiêu môi trường................................................................17 4.2 Tỷ lệ sống (SR) .......................................................................................................17 4.3 Tăng trưởng của cá .................................................................................................18 4
  5. Phần 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Giới thiệu Ngành thủy sản Việt Nam được xem là ngành kinh tế mũi nhọn so với các ngành kinh tế khác. Mỗi năm ngành thủy sản đem lại thu nhập cho nền kinh tế với giá trị rất cao. Thực vậy, tại nghị Quyết đại hội đại biểu Đảng toàn Quốc lần thứ IX một lần nữa khẳng định thủy sản là một trong những mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2001 – 2020. Nghị Quyết nêu “Phát huy lợi thế lớn của ngành thủy sản tạo thành một ngành xuất khẩu mũi nhọn, vươn lên hàng đầu trong khu vực” Chính vì vậy mà sản lượng và diện tích nuôi thủy sản tăng liên tục trong những năm qua. Cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) là một trong những lòai cá da trơn góp phần làm tăng sản lượng thủy sản xuất khẩu. Theo VASEP, trong 7 tháng đầu năm 2008, giá trị xuất khẩu cá tra mới đạt khoảng trên dưới 750 triệu USD. Dự kiến trong 5 tháng còn lại của năm 2008, mỗi tháng ngành thủy sản sẽ xuất khẩu được khỏang 100 triệu USD cá tra. Như vậy năm 2008, kim ngạch xuất khẩu cá tra đạt 1,2 tỷ USD cao hơn 200 triệu USD so với năm 2007 (www.kinhtenongthon.com.vn). Cá tra được nuôi từ lâu và rất phổ biến ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, bởi những ưu điểm như lớn nhanh, nuôi được ở mật độ cao và nuôi ở nhiều loại hình mặt nước khác nhau. Đặc biệt là chất lượng thịt ngon, tỷ lệ fillet cao, đang được thị trường thế giới ưa chuộng. Nghề nuôi cá tra thâm canh đã gây không ít những khó khăn cho các hộ nuôi cá tra, mà nhất là về thức ăn. Theo Trần Thị Thanh Hiền và ctv., (2004), trong điều kiện nuôi thủy sản nói chung, thức ăn chiếm tỷ lệ cao trong tổng chi phí chung (50–75%). Tuy nhiên, cho cá ăn với khối lượng thức ăn nhiều hay tần số cho ăn quá dày trong ngày không đồng nghĩa với vịêc cá sẽ tăng trọng nhanh, ngược lại khi cá ăn một khối lượng lớn thức ăn cá sẽ tiêu hóa chậm, thức ăn không sử dụng triệt để và làm giảm sự hấp thụ chất dinh dưỡng (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2004). Bên cạnh đó, thức ăn không được cá sử dụng hết sẽ dẫn đến ô nhiểm môi trường và kéo theo nhiều bệnh nguy hiểm xảy ra, mang lại hiệu quả kinh tế thấp. Để góp phần khắc phục tình trạng trên, đề tài “Ảnh hưởng của cho ăn gián đọan lên tăng trưởng của cá tra (Pangasianodon hypophthalms) gi ống” được thực hiện. 5
  6. 1.2. Mục tiêu Nhằm tìm ra phương pháp cho ăn hữu hiệu để tăng hiệu quả sử dụng thức ăn và giảm chi phí thức ăn trong nuôi cá tra thâm canh. 1. 3. Nôi dung thực hiện So sánh tăng trưởng, tỉ lệ sống, thành phần hóa học,.. của cá khi cho ăn gián đọan khác nhau. Bên cạnh, theo dõi các chỉ tiêu về môi trường trong hệ thống bể nuôi. 1.4. Thời gian nghiên cứu Từ tháng 02/2009 đến tháng 06/2009. 1.5. Địa điểm nghiên cứu Thí nghiệm được bố trí tại Khoa Thủy sản – Trường Đại học Cần Thơ 6
  7. Phần 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Tình hình nghiên cứu, phát triển và việc sử dụng thức ăn trong nuôi cá tra ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) Trong những năm gần đây, nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL phát triển mạnh. ĐBSCL là nơi đóng góp một sản lượng thủy sản lớn trong tổng sản lượng cả nước. Chỉ riêng với nghề cá da trơn diện tích lên trên 3.600 ha gấp đôi so với cách đây 5 năm, với sản lượng mỗi năm đạt nửa triệu tấn cá thương phẩm phục vụ chế biến xuất khẩu (www.thuonghieunongsan.org.vn). Cuối tháng 10 năm 2008, ĐBSCL có 5.102 ha diện tích nuôi, tăng 11% so với năm 2007, với sản lượng trên 1 triệu tấn, xuất khẩu trên 535.000 tấn qua 117 Quốc Gia, kim ngạch xuất khẩu đạt 1250 tỷ USD (www.agriviet.com ). Nghề nuôi cá tra phát triển mạnh cả về diện tích lẫn sản lượng. Trong vòng 10 năm từ 1997 đến 2006, diện tích cá tra tăng 7 lần, năng suất tăng 3,6 lần từ 225000 tấn đến 825000 tấn (VASHEP, 2007). Theo hiệp hội chế biến và xuất khẩu Việt Nam (Vashep) cá tra là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 2 của thủy sản Việt Nam sau mặt hang tôm, và đến cuối năm 2007 xuất khẩu cá tra, cá basa đạt kỷ lục 1 tỷ USD (www.hptrad.com.vn). ĐBSCL có truyền thống nuôi cá tra phổ biến trong bè, nuôi cá bè chiếm phân nửa số tỉnh của vùng nhưng tập trung nhất ở 2 tỉnh An Giang và Đồng Tháp, chiếm tới 60% số bè nuôi. Nghề nuôi cá tra hiện đã chủ động hòan tòan về con giống, 100% giống cá tra cung cấp cho nuôi là từ sinh sản nhân tạo. Với sự phát triển lâu đời và ngày càng phổ biến, kỹ thuật nuôi cá tra, ba sa rất đa dạng và không ngừng được cải tiến để thích ứng với thực tế sản xuất. Loại thức ăn sử dụng, phương pháp cho ăn và quản lý thức ăn cũng thay đổi nhiều tùy theo điều kiện nuôi ở các vùng khác nhau. Nuôi cá ao thì khoảng 76% số hộ nuôi ao ở khu vực Cần Thơ – Vĩnh Long sử dụng thức ăn viên công nghiệp, cao hơn hơn kết quả báo cáo của Trương Quốc Phú và Trần Thị Thanh Hiền (2003) với khoảng 46% hộ nuôi ao ở Cần Thơ sử dụng thức ăn viên công nghiệp. Điều này cho thấy thức ăn viên ngày càng được áp dụng rộng rãi hơn trong nuôi ao cá tra, basa. Sự khác biệt trong sử dụng thức ăn giữa 2 hình thức nuôi được thể hiện rất rõ ở Long Xuyên. Ở hình thức nuôi ao, tỷ lệ hộ nuôi sử dụng thức ăn tự chế và thức ăn viên công nghiệp là tương đương. Trong khi đó, thức ăn tự chế với phương thức cho ăn phối hợp được áp dụng hết sức phổ biến trong nuôi cá. Mặc dù thức ăn viên công nghiệp được chứng minh là có những ưu điểm và được khuyến cáo sử dụng trong nuôi cá bè, thức ăn tự chế 7
  8. sử dụng các nguyên liệu tươi sống vẫn đang là loại thức ăn phổ biến nhất ở ĐBSCL. Việc sử dụng rộng rãi thức ăn loại thức ăn tự chế này đã và đang gây ra những hậu quả nhất định cho môi trường nuôi và do đó cũng ảnh hưởng đến chính điều kiện nuôi cá của người dân. Khi ương nuôi cá tra thâm canh thì mật độ khỏang 60– 80 con/m2/ao, từ 100- 150 con/m3/lồng bè. Năng suất đạt rất cao, từ 80- 100 tấn/ha/ao, nuôi trong lồng bè đạt tới 100–300kg/m3. Theo công ty Cửu Long feed, khi nuôi cá tra nếu sử dụng thức ăn tự chế 5–8%, thì thức ăn viên chỉ cần 2–3% trọng lượng thân (cùng hàm lượng đạm 30%) , sau 6–7 tháng nuôi cá đạt 1–1,5 kg/con. Thức ăn tự chế được sử dụng rất phổ biến ở khu vực Long Xuyên và Châu Đốc. Ở khu vực Cần Thơ – Vĩnh Long thì hầu hết hộ nuôi sử dụng thức ăn viên công nghiệp, một số ít hộ nuôi cá ao (khoảng 24%) vẫn đang sử dụng thức ăn tự chế. Tuy nhiên, dù sử dụng thức ăn tự chế là chính, người nuôi vẫn sử dụng thức ăn viên công nghiệp trong 1–1,5 tháng đầu khi cá còn nhỏ. Ngoài ra, một số hộ còn sử dụng thức ăn viên công nghiệp trong khoảng thời gian 1 tháng cuối vụ nuôi nhằm cải thiện chất lượng sản phẩm. Tỷ lệ người dân áp dụng phương thức phối hợp cho ăn này khá cao, đặc biệt là những hộ nuôi bè ở Châu Đốc và Long Xuyên. Đối với hình thức nuôi, loại thức ăn sử dụng cho hình thức nuôi bè và nuôi ao khác nhau rõ rệt. Trong khi thức ăn tự chế được sử dụng rộng rãi trong nuôi cá bè thì thức ăn viên công nghiệp là loại thức ăn chính trong bè (86,7%). Tương tự, 100% hộ nuôi bè ở Châu Đốc sử dụng thức ăn tự chế trong đó 93% số hộ áp dụng phương thức cho ăn phối hợp. Như vậy, thức ăn tự chế đóng vai trò chủ đạo trong nuôi cá tra, basa trong bè. Thức ăn viên ngày càng được sử dụng rộng rãi trong nuôi cá ao. Thức ăn viên cũng quan trọng trong sử dụng thức ăn tự chế theo phương thức phối hợp. Tóm lại thức ăn viên được sử dụng rộng rãi hơn trong nuôi cá tra trong ao. Hầu hết người dân sử dụng thức ăn tự chế theo hướng phối hợp. Sử dụng thức ăn viên trong tháng đầu, thức ăn tự chế trong các tháng giữa vụ và có thể bổ sung thức ăn tự chế vào tháng cuối vụ. FCR trong nuôi cá ao nằm trong khoảng 2,0 – 3,5 nếu thức ăn tự chế và 1,5 – 1,7 nếu sử dụng thức ăn viên (Lê Thanh Hùng và Hùynh Phạm Việt Huy, 2006). 2.2. Đặc điểm sinh học cá tra 2.2.1. Hệ thống phân loại Theo W.Rainboth (http://www.fistenet.gov.vn) cá tra thuộc: Ngành: Chordata Lớp: Osteichtheyes Bộ: Siluriformes 8
  9. Họ: Pangasiidae Giống: Pangasianodon Lòai: Pangasianodon hypophthalmus (Sauvage, 1878). 2.2.2. Đặc điểm phân bố Cá tra phân bố ở lưu vực sông Mekong, có mặt ở cả 4 nước Lào, Việt Nam, Capuchia và Thái Lan. Ở Việt Nam, cá tra phân bố trên sông Tiền, sông Hậu và nhiều nhất là vùng hạ lưu. Theo Nguyễn Văn Trọng và ctv., (1992) cho biết trong bộ cá da trơn có 72 lòai, nhưng Phạm Văn Khánh (1996) cho biết riêng họ Pangasiidae ở Châu Á có 2 giống và 21 loài. Riêng giống cá Tra có 19 loài trong đó 9 loài phát hiện ở Việt Nam. Cacot (1999), cho biết ở hạ lưu sông Cửu Long có 11 loài chủ yếu thuộc giống Pangasius trong đó có 2 loài nuôi rất phổ biến ở ĐBSCL là cá tra và cá basa. 2.2.3. Đăc điểm dinh dưỡng Cá tra là loài ăn tạp. Trong tự nhiên cá có thể ăn được mùn bã hữu cơ, rể cây thủy sinh, rau quả, tôm tép, cua, côn trùng, ốc và cá. Cá nuôi trong ao sử sụng được các loại thức ăn khác nhau như cá tạp, thức ăn nguyên, cám, tấm, rau muống,…Thức ăn có nguồn gốc động vật sẽ giúp cá lớn nhanh hơn. Tính ăn của cá ổn định khi cá có hình dạng và cấu tạo như cá trưởng thành (khỏang 3 tuần tuổi). Hệ tiêu hóa của cá đã hòan chỉnh, dạ dày đã có đủ các hệ men tiêu hóa do đó cá sử dụng được nhiều loại thức ăn khác nhau. Nhưng những lọai thức ăn có nguồn gốc động vật vẫn đươc cá ưa thích hơn, đặc biệt những lọai thức ăn là các xác chết động vật đang thối rữa. Tuy nhiên, những lọai thức ăn có nguồn gốc thực vật như các lọai bèo, rau muống cá vẫn có khả năng sử dụng tốt nhưng sinh trưởng của cá chậm hơn so với những cá sử dụng thức ăn có sử dụng thức ăn có nguồn gốc động vật. Ngòai ra, cá tra còn sử dụng rất tốt những loại thức ăn do con người cung cấp. 2.2.4. Đặc điểm sinh trưởng Cá còn nhỏ tăng nhanh về chiều dài, cá sẽ bước vào thời kỳ tích lũy mỡ khi đạt 2,5 kg. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng của cá tra phụ thuộc nhiều vào điều kiện môi trường, mật độ thả nuôi, đặc biệt là chất lượng của thức ăn sử dụng (theo Dương Nhựt Long, 2003). Cá lớn nhanh khi nuôi trong ao, sau một năm nuôi cá đạt trọng lượng 1 – 1,5kg /con, trong những năm sau cá lớn nhanh hơn. Cá nuôi trong ao có thể đạt đến 25kg/con ở cá mười tuổi. Sau khỏang 3 – 4 năm nuôi cá có thể đạt tới trọng lượng 2,5 – 3,5 kg/con. Và lúc này sự sinh trưởng về chiều dài có sự giảm xuống do cá bắt đầu có sự tích lũy cho quá trình thành thục sinh dục. 9
  10. Một điều khá đặc biệt ở cá tra là hầu như cá không có hiện tượng bị chai, tức là còi. Trong trường hợp cá có thể trọng nhỏ do thiếu thức ăn trong thời gian dài, nhưng nếu cung cấp thức ăn đủ trở lại cá vẫn sinh trưởng bình thường (Nguyễn Văn Kiểm, 1999). 2.3. Nhu cầu dinh dưỡng của cá 2.3.1. Nhu cầu về chất đạm (protein) Chất đạm là chất dinh dưỡng được đặc biệt chú ý trong thức ăn. Nó là thành phần chủ yếu cấu tạo nên cơ thể động vật. Chất đạm là một chất hữu cơ chính chiếm khoảng 65-75% khối lượng khô của cơ thể (Halver, 1989, trích bởi Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2004). Nhiệm vụ chính của chất đạm chính là xây dựng cấu trúc cơ thể. Chất đạm trong thức ăn cung cấp các amino acid qua quá trình tiêu hóa và thủy phân. Trong ống tiêu hóa, các amino acid được hấp thụ vào máu và đi đến các mô, cơ quan, tham gia vào quá trình sinh tổng hợp chất đạm của cơ thể phục vụ cho quá trình sinh trưởng, sinh sản và duy trì cơ thể. Nếu thức ăn không cung cấp đầy đủ nhu cầu chất đạm cá sẽ chậm hoặc ngừng tăng trưởng, thậm chí có thể giảm khối lượng. Mặt khác, nếu hàm lượng chất đạm trong thức ăn vượt quá nhu cầu thì chỉ một phần được sử dụng để tạo thành chất đạm mới, phần còn lại sẽ được chuyển hóa dạng năng lượng, điều này làm giá thành thức ăn tăng lên là không cần thiết (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2004) Nhu cầu chất đạm là lượng chất đạm tối thiểu có trong thức ăn nhằm thỏa mãn nhu yêu cầu các amino acid để đạt tăng trưởng tối đa (NRC, 1993). Theo Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2004 cá tra giống (2 – 3 gam) nhu cầu chất đạm tối ưu là 38%. 2.3.2. Nhu cầu về năng lượng (energy) Mọi họat động sống của một động vật đều cần năng lượng. Nhu cầu năng lượng thực sự của cá rất khó xác định mà người ta dựa vào tỷ lệ và chất đạm tối ưu. Tỷ lệ tối ưu này rất quan trọng bởi vì thức ăn vượt quá nhu cầu năng lượng sẽ giảm sự bắt mồi của cá, ngược lại nếu thức ăn thiếu năng lượng thì chất đạm trước tiên sẽ được dùng để cung cấp năng lượng thỏa mản nhu cầu của cơ thể (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2003). Nhu cầu năng lượng (thô) trong thức ăn cho cá Trơn là 2750 – 3100 kcal/kg. Ở cá Trơn, 1kg thức ăn cho 12,2 Mj thì cho cá tăng trọng 22,7 Mj (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2004). 10
  11. 2.3.3. Nhu cầu về chất béo (lipid) Chất béo là nguồn dinh dưỡng cung cấp năng lượng tốt nhất cho động vật thủy sản. Việc bổ sung chất béo thích hợp sẽ giảm nhu cầu cầu chất đạm. Ngòai ra, chất béo còn tham gia vào cấu trúc của màng tế bào, cung cấp các acid béo thiết yếu. Đối với cá, hàm lượng chất béo thay đổi theo lòai, tuy nhiên mức độ đề nghị từ 6 – 10%. Ở cá tra, mức độ sử dụng tối đa chất béo trong thức ăn là 4 – 8% (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2004). 2.3.4. Nhu cầu về chất bột đường (carbohydrate) Carbohydrate được xem là nguồn nguyên liệu cung cấp năng lượng rẻ tiền nhất cho động vật thủy sản. Carbohydrate chiếm tỷ lệ trên 75% ở thực vật trong khi ở động vật hiện diện với số lượng nhỏ và tồn tại chủ yếu dưới dạng glucogen (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2004). Ở cá da trơn, trong việc phối chế thức ăn thì carbohydrat được sử dụng để làm nguồn cung cấp năng lượng và bổ sung một tỷ lệ nhỏ chất béo vừa cung cấp năng lượng vừa cung cấp axit béo thiết yếu (Trần Thanh Hùng, 2000). Theo Hùynh Thị Tú và Nguyễn Thanh Phương (2000), thức ăn chứa 26% chất bột đường cho sinh trưởng tốt nhất ở cá tra bần (Pansasius kynyit), còn cá basa (Pangasius bocourti) là 35,5%. Đối với cá tra (2,9g) thì khả năng sử dụng chất bột đường nằm trong khỏang 30-45% thì cho tăng trưởng tốt (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 2004). 2.4. Một số nghiên cứu về phương pháp cho ăn và tăng trưởng của cá Thức ăn là vật chất cơ bản cung cấp năng lượng giúp cho động vật nuôi sinh trưởng, phát triển, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Nhưng quyết định năng suất và hiệu quả kinh tế của việc nuôi cá phần lớn phụ thuộc vào kỹ thuật cho ăn có hợp lý hay không. Cách cho ăn hợp lý tức là trong các điều kiện ngọai cảnh khác nhau, vừa thỏa mản đều đặn nhu cầu dinh dưỡng của vật nuôi vừa đạt được sự chuyển hóa thức ăn cao nhất. Theo Võ Thị Cúc Hoa (1997), nhiều kinh nghiệm cho thấy nếu cho cá ăn với số lượng bằng 13,5% trọng lượng thân, sau đó nếu đột nhiên giảm thấp còn 10% thì thể trọng cá giảm không giữ được trọng lượng như trước. Điều đó cho thấy thể trọng của cá thay đổi theo sự biến động của số lượng thức ăn. Đặng Đình Tám (1995) đã nghiên cứu về nhịp cho ăn của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus), thí nghiệm được tiến hành với nhịp cho ăn như sau: cho cá ăn từ 6 đến 18 giờ, 18giờ đến 8 giờ sáng hôm sau, cho cá ăn cả ngày và đêm. Kết quả cho thấy cá ăn cả ngày và đêm cho tăng trưởng cao nhất. 11
  12. Phạm Văn Huy (1996) khi nghiên cứu về ảnh hưởng của khẩu phần ăn lên sinh trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá basa giống (Pangasius bocourti) với bố trí với 5 nghịêm thức tương đương với các khẩu phần ăn theo trọng lượng thân 1%, 3%, 6%, 9%, 12%. Kết quả là cá tăng trưởng cao nhất với khẩu phần 9%. Trần Bình Tuyên (2000), nghiên cứu về sự ảnh hưởng của các phương thức và tần số cho ăn đối với sự tăng trưởng của cá tra bần (Pangasius kunyit). Về phương pháp cho ăn, thí nghiệm được bố trí như sau: cá được cho ăn theo ban ngày (từ 6 giờ sáng đến 18 giờ chiều cùng ngày), ban đêm (từ 18 giờ chiều đến 6 giờ sáng hôm sau), cả ngày và đêm. Kết quả cho thấy, phương thức cho ăn ban đêm và ngày đêm cho cá tăng trưởng cao nhất. Về tần số cho ăn với nhịp 2, 3 và 4 lần/ngày cho kết quả nghiệm thức 3 lần/ngày cho cá tăng trưởng cao nhất. Nguyễn Kim Thùy (2008) khi nghiên cứu về ảnh hưởng của tần số cho ăn lên sự tăng trọng của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) giai đọan giống, thí nghịệm được tiến hành với 4 nghiệm thức với tần số cho ăn 2, 3, 4, 8 lần/ngày. Kết quả cho thấy tốc độ tăng trưởng cao nhất ở nghiệm thức 3lần/ngày. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng ở nghiệm thức cho ăn 2 và 3 lần/ngày không có ý nghĩa về mặt thống kê, vì vậy cho ăn 2 lần/ ngày có hiệu quả kinh tế nhất. Cá được cho ăn dưới nước. Nếu thức ăn không được sử dụng trong một khỏang thời gian nào đó không chỉ có nghĩa là hao tốn chi phí mà còn giảm chất lượng nước (Tom Levell, 1989). Vì vậy, khẩu phần ăn, phương thức cho ăn là những yếu tố mà người nuôi cần chú ý để đầu tư thức ăn đúng mức mang lại hiệu quả kinh tế, góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường. Hiện nay, đã có nhiều nghiên cứu về tần số cho ăn, khẩu phần ăn theo trọng lượng. Nhưng phương pháp cho ăn gián đọan chưa được nghiên cứu nhiều. Theo Davies el at., (2006) tần số cho ăn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống và thành phần filê. Cho ăn tối ưu ở một tần số nhất định sẽ tiết kiệm được chi phí. Chi phí thức ăn chiếm 30-70% tổng chi phí điều hành của một doanh nghiệp, khi cho ăn quá mức sẽ không mang lại hiệu quả kinh tế, còn gây ảnh hưởng đến chất lượng nước. Xác định tần xuất cho ăn thích hợp là cần thiết để tối ưu cho tăng trưởng, và tỷ lệ sống tốt hơn. Giảm mức độ cho ăn nhưng v ẫn đãm bảo tốc độ tăng trưởng của cá điều đó chỉ thực hiện ở việc cho ăn gián đọan. Theo Lê Thanh Hùng (2008), số lần cho ăn trong ngày ảnh hưởng đến tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn. Để đạt tăng trưởng tối ưu, số lần cho ăn thay đổi theo giống loài thủy sản, trọng lượng cá, môi trường nuôi và chất lượng thức ăn. Và khi cho cá ăn gián đoạn trong khoảng thời gian giới hạn, liệu có ảnh hưởng đến tăng trưởng và sự thay đổi thành phần hoá học bên trong cơ thể cá. 12
  13. Theo Wootton, (2003), khi cho cá ăn gián đọan thì tốc độ tăng trưởng của cá sẽ có 4 khả năng xảy ra. Một là tăng trưởng của cá có thể phục hồi lại đầy đủ như tăng trưởng bình thường. Hai là tăng trưởng của cá có thể tăng trưởng nhanh hơn tăng trưởng lúc đầu. Ba là tăng trưởng của cá chỉ phục hồi lại một phần so với tăng trưởng lúc đầu. Và cuối cùng là cá không có khả năng phục hồi tăng trưởng khi cho ăn gián đọan một thời gian. Theo Amin et al,. (2005) trọng lượng mất đi trong khỏang thời gian gián đọan đó sẽ tăng cân trở lại hay có khả năng phục hồi tăng trưởng sau khi bị giới hạn nguồn thức ăn ăn vào. Singh and Balange (2005) thí nghiệm trong 8 tuần trên cá chép Ấn Độ (Cirrhinus mrigala) ở giai đoạn giống, so sánh tăng trưởng và thành phần cơ thể của cá giữa các chế độ cho ăn: cá được cho ăn hằng ngày (2 lần) và cá cho ăn gián đoạn 1, 2 hoặc 4 tuần sau đó được cho ăn trở lại theo nhu cầu của cá. Kết quả cho thấy, cá cho ăn gián đoạn 2 tuần có trọng lượng cơ thể cao hơn và FCR thấp hơn cá được cho ăn hằng ngày. Các thành phần chất đạm, chất béo, tro, độ ẩm sau khi kết thúc thí nghiệm không có sự khác nhau giữa các chế độ cho ăn (trừ thành phần chất đạm trong cá cho ăn gián đoạn 4 tuần thì thấp hơn). Theo kết quả nghiên cứu của Wang et al., (2008) khi nghiên cứu cho ăn gián đọan ở cá rô phi (Oreochromis niloticus) có trọng lượng trung bình 6,6g sau 12 tuần thí nghiệm cá được cho ăn 2 lần một ngày ở các chế độ cho ăn: 1 tuần không cho cá ăn: 2 tuần cho ăn trở lại, 2 tuần không cho cá ăn: 4 tuần cho ăn trở lại, 4 tuần không cho cá ăn: 8 tuần cho ăn trở lại thì trọng lượng cơ thể thấp hơn cá được cho ăn hằng ngày nhưng có SGR cao hơn. Không có sự khác biệt về hiệu quả sử dụng chất đạm và thành phần hóa học trong cơ thể cá giữa các chế độ cho ăn so với các được cho ăn hằng ngày. Nghiên cứu về cho cá ăn gián đoạn trên bể được thực hiện bởi Chatakondi et al ., (2001) với cá nheo Mỹ (I. punctatus) giai đoạn giống, cá được cho ăn hằng ngày (đối chứng) theo nhu cầu và so sánh tăng trưởng với cá được cho ăn gián đoạn 1, 2 và 3 ngày sau đó cho ăn trở lại thì tiêu thụ thức ăn cao hơn cá được cho ăn hằng ngày. Sau 10 tuần thí nghiệm, nhịp độ tăng trưởng trung bình của cá ở các nghiệm thức cho ăn gián đoạn là 40%, 180% và 191% tương ứng với các nghiệm thức cho ăn gián đoạn 1, 2 và 3 ngày, cao hơn cá trong nghiệm thức đối chứng. Hơn nữa, khối lượng cuối của cá chu kì gián đoạn cho ăn 3 ngày cao hơn so với các nghiệm thức khác và các nghiệm thức có hiệu quả sử dụng thức ăn cao hơn nghiệm thức đối chứng. Như vậy, thí nghiệm cho cá ăn gián đoạn trong ao làm gia tăng sản lượng, hiệu quả sử dụng thức ăn tăng thì người nuôi cá có thể giảm chi phí thức ăn và những vấn đề về chất lượng nước. Wu et al., (2004) nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian cho cá nheo Mỹ (Ictalurus punctatus) trong ao đất, cá được ăn 1 lần/ngày, 2 lần/ ngày, cho ăn 1 13
  14. lần/ ngày liên tục 6 ngày sau đó bỏ đói cá 1 ngày, khẩu phần ăn là 5% khối lượng thân thì sau 5 tháng kết quả cho thấy tốc độ tăng trưởng, hệ số thức ăn, tỉ lệ sống không có sự khác biệt giữa các nghiệm thức. Kim and Lovell (1995) khi nghiên cứu trên cá nheo Mỹ (I. punctatus) thì khi không cho cá ăn 0, 3, 6, 9 tuần sau đó tiếp tục cho cá ăn trở lại hằng ngày theo nhu cầu thì sau 18 tuần thí nghiệm, cá ở nghiệm thức không cho ăn 3 tuần cho kết quả khối lượng như cá ở nghiệm thức được cho ăn hằng ngày và tăng trưởng cao hơn các nghiệm thức còn lại. Nghiên cứu của Li et al., (2005) cho thấy không có sự khác nhau về năng suất nuôi cá nheo Mỹ (I. punctatus) giai đoạn giống giữa các chế độ cho ăn theo chu kì 1: 6, 1: 4 và 2:5 (ngày không cho cá ăn: ngày cho cá ăn) so với cá đối chứng được cho ăn hằng ngày thì thấy không có sự khác biệt về các thông số môi trường nước giữa các nghiệm thức và điều này cho thấy cho ăn gián đoạn không ảnh hưởng đến tăng trưởng và góp phần giảm chi phí sản xuất và ô nhiễm môi trường. Ali el at.,(2006) thí nghiệm trên cá Labeo rohita giống trong thời gian 90 ngày với chế độ cho ăn như sau cho ăn hàng ngày (1lần/1ngày, với 3% trọng lượng thân); 5 ngày cho ăn: 5 ngày không cho ăn; 10 ngày cho ăn và 10 ngày không cho ăn. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về thành phần hóa học của cơ thể cá giữa các chế độ cho ăn khác nhau. Nghiên cứu này khẳng định có sự phục hồi trăng trưởng ở cá Labeo rohita. Thí nghiệm của Amin et al., (2005) kéo dài 18 tuần được thực hiện trên cá tra (Pangasius hypophthalmus). So sánh tăng trưởng, nhu cầu thức ăn hằng ngày, hệ số thức ăn của cá được cho ăn hằng ngày theo nhu cầu với nhóm cá được cho ăn gián đoạn theo chu kì: 1 ngày cho ăn:1 ngày không cho ăn, 2 ngày cho ăn:2 ngày không cho ăn, 5 ngày cho ăn/5 ngày không cho ăn. Kết quả cho thấy trọng lượng cơ thể, tốc độ tăng trưởng của cá ở chế độ cho ăn 1 ngày cho ăn:1 ngày không cho ăn không có khác biệt so với cá được cho ăn hằng ngày và lớn hơn các chế độ cho ăn còn lại trong thí nghiệm. Hơn nửa, cá được cho ăn hằng ngày có FCR lớn nhất. Từ kết quả thí nghiệm cho thấy nuôi cá tra có thể giảm được chi phí thức ăn với chế độ cho ăn 1 ngày cho ăn:1 ngày không cho ăn nhưng vẫn đảm bảo tăng trưởng, hạn chế ô nhiễm môi trường. Nghiên cứu của Eroldogan et al., (2008) về ảnh hưởng của các chế độ cho ăn khác nhau trên cá Trác vàng (Sparus aurata) giai đoạn giống. Sau 48 ngày thí nghiệm kết quả cho thấy với các chế độ cho cá ăn như: cho cá ăn 2 ngày:nghỉ 1 ngày, giảm 50% lượng thức ăn 2 ngày:2 ngày cho ăn bình thường theo nhu cầu, giảm 50% lượng thức ăn 6 ngày:6 ngày cho ăn bình thường theo nhu cầu thì tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng đặt biệt của cá thấp hơn cá được cho ăn hằng ngày theo nhu cầu. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng chất đạm và hệ số thức ăn của cá được 14
  15. cho ăn giảm 50% lượng thức ăn 2 ngày:2 ngày cho ăn bình thường là tốt nhất. Thành phần chất đạm của cá cho ăn chế độ giảm 50% lượng thức ăn 6 ngày:6 ngày cho ăn bình thường, ít hơn các chế độ cho ăn khác, trong khi các thành phần lipit, tro, độ ẩm không có sự khác nhau giữa các chế độ cho ăn so với đối chứng. Theo báo cáo của Li và Robinson (2006) trong mùa vụ sinh trưởng của cá nheo Mỹ Ictalurus punctatus, người nuôi cá cho cá ăn 7 ngày trong tuần, nhưng cũng có một số người họ thường cho cá ăn 6 ngày (ngày chủ nhật cá không được cho ăn) hoặc 5 ngày trong tuần (ngày thứ 7 và ngày chủ nhật cá không được cho ăn). Những tài liệu cho thấy, cá được cho ăn 6 ngày một tuần giảm 3,3% sản lượng, và cá được ăn 5 ngày một tuần giảm 6,9% sản lượng so với cá được cho ăn 7 ngày một tuần trong mùa vụ tăng trưởng. Hệ số thức ăn giảm 4,8% và 7,9% tương ứng cho cá được cho ăn 6 ngày và 5 ngày mỗi tuần so với cá được cho ăn 7 ngày mỗi tuần. Tuy nhiên, sản lượng cá cho ăn gián đoạn 1, 2 ngày/tuần và 1 ngày không cho ăn/5 ngày cho ăn không có sự khác nhau so với cá được cho ăn hằng ngày. Tương tự khi tác giả thí nghiệm trên bể với các chế độ cho cá ăn gián đoạn 0, 1, 2, 3, 4 ngày/tuần, 1:4, 3:7 (không cho ăn: cho ăn), cho thấy cá không được cho ăn 1 ngày trong tuần tăng trưởng như cá được cho ăn hằng ngày, FCR thấp nhất khi cá được cho ăn gián đoạn 2 ngày trong tuần. Kết quả này cho thấy nuôi cá nheo Mỹ có thể cho cá ăn 5 hoặc 6 ngày trong tuần nhất là trong giai đoạn kinh tế khó khăn có thể giảm được chi phi sản xuất. Với những kết quả nghiên cứu trên cho thấy, phương thức cho ăn gián đọan làm tăng hiệu quả khả năng sử dụng thức ăn, có sự đền bù hay phục hồi tăng trưởng sau một khỏang thời gian ngắn gián đọan, góp phần giảm chi phí thức ăn trong sản xuất và giảm sự biến động chất lượng nước môi trường ao nuôi. 15
  16. Phần 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Chuẩn bị thí nghiệm 3.1.1. Cá thí nghiệm Cá thí nghiệm có nguồn gốc sinh sản nhân tạo. Kích cỡ cá được chọn đồng đều với khối lượng ban đầu 26-27 (g/con). Các không có dấu hiệu nhiễm bệnh hay dị tật, xây xát,.... Hình 3.1. Cá tra thí nghiệm. 3.1.2. Thuần cá trước thí nghiệm Cá được thuần trong bể thí nghiệm một tuần trước khi thí nghiệm chính thức được tiến hành để cá quen với môi trường sống mới. Trước khi thí nghiệm thì xác định lại trọng lượng cá thí nghiệm. 3.1.3. Bể thí nghiệm Bể thí nghiệm là 12 bể nhựa có thể tích tổng là 500 lít/bể, mỗi bể chứa 400 lít nước với chiều cao cột nước là 700 cm. Các bể được đánh số từ 1 đến 12 để bố trí thí nghiệm và tiện theo dõi. Trước thí nghiệm bể được vệ sinh sạch bằng chlorine và xà phòng rồi rửa lại bằng nước sạch. Bể sau đó được lắp đặt sục khí 16
  17. và cho nước vào và sục khí liên tục một tuần cho bay hết chlorine. Nước cấp cho bể là nước giếng. 3.1.4. Thức ăn thí nghiệm Thức ăn sử dụng trong thí nghiệm là thức ăn viên nổi phổ hiệu Cargill, đây là một trong những lọai thức ăn được sử dụng phổ biến trong nuôi cá tra. Thức ăn có kích cỡ viên là 2li. Bảng 3.1. Thành phần hoá học của thức ăn thí nghiệm (theo nhà sản xuất). Chỉ tiêu Thành phần hoá học Ẩm độ 11 Tro 2,5 Đạm 30 Chất béo 2,5 Xơ 6 Năng lượng (KJ/kg) 2.800 Hình 3.3. Thức ăn thí nghiệm (trên) và hệ thống bể thí nghiệm (dưới). 17
  18. 3.1.5. Các vật liệu thí nghiệm khác  Máy đo oxy, nhịêt độ, pH.....  Các hóa chất: chlorine, formon,....  Hệ thống bơm và sục khí.  Tủ nung, tủ sấy, tủ đông,...  Dụng cụ phân tích mẫu trong phòng thí nghiệm.  Dụng cụ dùng trong thí nghiệm: vợt, xô,... 3.2. Bố trí thí nhiệm Thí nghiệm được bố trí hòan tòan ngẫu nhiên với 3 lần lập lại cho mỗi nghiệm thức (NT). Thí nghiệm được bố trí như sau:  Nghiệm thức 1 (đối chứng): cá được cho ăn hàng ngày  Nghiệm thức 2: cho cá ăn hàng ngày và liên tục 7 ngày sau đó không cho ăn 2 ngày rồi tiếp tục cho ăn lại liên tục 7 ngày.  Nghiệm thức 3: cho cá ăn hàng ngày và liên tục 7 ngày sau đó gián đoạn 3 ngày.  Nghiệm thức 4: cho cá ăn hàng ngày và liên tục 7 ngày sau đó gián đoạn 4 ngày. Khi cho ăn thì cho cá ăn 5-7%, nhưng theo dõi khi cá ăn no thì dừng lại (cho ăn đến no). Mật độ cá bố trí là 50 con/bể và tổng thời gian thí nghiệm là 12 tuần. 3.3. Chăm sóc theo dõi Trong quá trình thí nghiệm, cá được cho ăn 2 lần/ngày (sáng 9 giờ, chiều 17 giờ). Lượng thức ăn cho cá với các khẩu phần định sẵn từ 5-7% và còn căn cứ thêm vào khả năng sử dụng của cá. Hàng ngày theo dõi họat động của cá và đặc bịêt là quản lí chặt chẽ thức ăn để tính chính xác lượng thức ăn mà cá sử dụng. Thức ăn thừa được vớt ra khỏi bể và đếm số viên thức ăn. Xác định khối lượng bình quân của 1 viên thức ăn bằng cách cân 30-50 viên thức ăn khô để tính ra khối lượng trung bình của 1 viên thức ăn. Môi trường: nhiệt độ đo 2 ngày/ lần và pH và Oxy thì đo hàng tuần. Thay nước: nước trong bể được thay 20-30% hàng ngày bằng phương pháp chảy tràn trước khi cho cá ăn vào buổi sáng và trước khi cho ăn vào buổi chiều. 18
  19. Định kỳ (2-3 ngày) vệ sinh đáy bể thí nghiệm bằng cách dùng ống siphone cặn ở đáy bể. 3.4. Phương pháp thu mẫu và ghi nhận kết quả Sinh trưởng: thu mẫu mỗi 30 ngày. Khối lượng cá được xác định bằng cân điện tử và chiều dài được xác định bằng thước đo, giấy kẻ mỗi ô 1 mm. Chiều dài được tính là chiều dài chuẩn (từ chóp mõm đến cuống đuôi). Thành phần hóa học: trước khi bố trí thí nghiệm bắt ngẫu nhiên 10 con cá để phân tích thành phần sinh hóa. Sau khi thí nghiệm thu 5-7 con/bể để phân tích thành phần sinh hóa. Mẫu cá được giữ đông lạnh và và bảo quản ở nhiệt độ (- 200C) cho đến khi phân tích. Thành phần hóa học của cơ thể cá và thức ăn thí nghiệm được phân tích theo phuơng pháp AOAC (2000) gồm ẩm độ, chất đạm, chất béo, tro và năng lượng. Ẩm độ: xác định bằng cách sấy mẫu trong tủ sấy ở nhiệt độ 1050C khoảng 4- 5giờ (đối với mẫu khô), 24 giờ (mẫu tươi). Tro: xác định bằng cách đốt cháy mẫu và nung trong tủ nung ở nhiệt độ 0 560 C trong 4 giờ đến khi mẫu có màu trắng hoặc màu xám. Chất đạm: xác định theo phương pháp Kjieldah qua 3 công đọan gồm, công phá, chưng cất và chuẩn độ. Mẫu được công phá đạm trong 1,5 giờ ở nhiều mức độ 110–3700 nhờ xúc tác H202 và H2S04 đđ. Sau khi công phá mẫu được chưng cất giải phóng N2 trong dung dịch kiềm (Na0H) và hấp thu trong dung dịch acid boric có sự hiện diện của chất chỉ thị metyl red. Sau đó chuẩn độ để xác định hàm lượng đạm trong mẫu bằng H2S04 0,1N. Chất xơ: được xác định bằng dung dịch thủy phân trong dung dịch axid và bazơ, xơ thô là phần còn lại trong 2 dung dịch này. Chất béo: xác định bằng phương pháp thủy phân trong hệ thống Soxlet với dung môi là chloroform. Chất béo trong mẫu được chiết xuất nhờ quá trình rửa tuần hòan của chloroform (nóng). Carbohydrate ( NFE): NFE = 100 – (đạm + chất béo + xơ + tro + độ ẩm). Năng lượng: đo bằng máy đo năng lượng Parr. 3.5. Tính tóan một số chỉ tiêu 19
  20. Tỷ lệ sống (%) (survival rate - SR) SR (%) = 100 x (số cá thu họach/số cá ban đầu). Tăng khối lượng (weight gain - WG) WG (g/con) = Khối lượng cuối (g/con) – Khối lượng đầu (g/con). Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (daily weight gain - DWG) DWG (g/ngày) = (W2–W1)/T Trong đó: W1: Khối lượng trung bìng của cá ban đầu. W2: Khối lượng trung bình của cá kết thúc thí nghiệm. T: ngày thí nghiệm Hệ số thức ăn (feed conversion rate - FCR) FCR = Lượng thức ăn sử dụng (kg)/tăng trọng của cá (kg). Hiệu quả sử dụng thức ăn (feed conversion efficiency – FCE) F = 1/FCR Hiệu quả sử dụng đạm (protein efficiency ratio - PER) PER = (W2 – W1)/đạm ăn vào. Trong đó: W1: Khối lượng cá trước thí nghiệm W2: Khối lượng trung bình của cá kết thúc thí nghiệm. Hệ số lấy thức ăn (Food intake - FI) FI = Lượng thức ăn sử dụng/số ngày thí nghiệm 3.6. Phương pháp xử lý số liệu Số liệu được xử lí bằng chương trình Excel version 5.0 và Statistica. So sánh trung bình giữa các nghiệm thức dựa vào phân tích ANOVA và phép thử DUNCAN. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2