ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

MAI ANH DŨNG

KHẢO SÁT TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ

CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

THÁI NGUYÊN – 2013

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

MAI ANH DŨNG

KHẢO SÁT TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ

CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS: Vũ Anh Tuấn

THÁI NGUYÊN – 2013

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số

liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công bố

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2013

trong một công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Mai Anh Dũng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa

Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, cùng toàn thể các thầy cô

giáo đã tham gia giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu khoa học cho tập thể lớp

Cao học K19 - Văn học Việt Nam; Sở Giáo dục và Đào tạo Yên Bái; Phòng

Giáo dục và Đào tạo huyện Văn Yên; Ban Giám hiệu và tập thể giáo viên

trường THCS Lương Thế Vinh huyện Văn Yên đã tạo điều kiện để tôi có cơ

hội học tập và nghiên cứu khoa học.

Xin chân thành cảm ơn thầy giáo - nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa

các dân tộc Hoàng Việt Quân - Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Yên

Bái đã tạo điều kiện giúp đỡ nhiệt tình trong suốt quá trình tôi tập hợp tư liệu

và tìm hiểu về con người, văn học - văn hóa dân tộc Mông ở Yên Bái; đồng

bào dân tộc Mông ở huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải đã giúp đỡ tôi rất

nhiều trong những chuyến đi thực địa.

Xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS Vũ Anh

Tuấn - người thầy rất nghiêm khắc, tận tình trong công việc đã truyền thụ cho

tôi nhiều kiến thức quý báu cũng như kinh nghiệm nghiên cứu khoa học trong

suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2013

Tác giả luận văn

Mai Anh Dũng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ ...................................................................................................

Lời cam đoan....................................................................................................

Lời cảm ơn .......................................................................................................

Mục lục ........................................................................................................... i

MỞ ĐẦU........................................................................................................1

NỘI DUNG ....................................................................................................7

Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ CỦA

DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI...........................7

1.1. Sơ lược về điều kiện tự nhiên, đặc điểm xã hội và đời sống văn hóa

của dân tộc Mông ở Yên Bái .................................................................7

1.1.1. Đặc điểm địa - chính trị Yên Bái ......................................................7

1.1.2. Đặc điểm lịch sử văn hóa dân tộc Mông ở Yên Bái ..........................8

1.2. Truyện cổ tích, truyện cổ tích thần kỳ ..................................................11

1.2.1. Truyện cổ tích.................................................................................11

1.2.2.Truyện cổ tích thần kỳ .....................................................................13

1.3. Tình hình sưu tầm và khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc

Mông lưu hành ở Yên Bái ...................................................................18

1.3.1. Trước Cách mạng tháng Tám - 1945 ..............................................18

1.3.2. Sau Cách mạng tháng Tám - 1945 ..................................................19

1.4. Khảo sát văn bản ..................................................................................23

1.4.1. Đặc điểm bản kể .............................................................................23

1.4.2. Tính dị bản .....................................................................................25

1.5. Phân nhóm truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái....27

Chương 2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ NỘI DUNG TRONG TRUYỆN CỔ

TÍCH THẦN KỲ CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở

YÊN BÁI...................................................................................30

2.1. Những phương diện cơ bản về mặt nội dung ........................................30

2.1.1. Truyện về người mồ côi..................................................................30

i

2.1.2. Truyện về người em........................................................................38

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2.1.3. Truyện về người con riêng..............................................................43

2.1.4. Truyện về người mang lốt...............................................................46

2.1.5. Truyện về người dũng sĩ .................................................................52

2.2. Những điểm tương đồng và khác biệt về nội dung phản ánh giữa

truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái với

truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Kinh ...............................................57

2.2.1. Những điểm tương đồng......................................................................57

2.2.2. Những điểm khác biệt..........................................................................58

Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH

THẦN KỲ CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI ..60

3.1. Kết cấu truyện ......................................................................................60

3.1.1. Phần mở đầu...................................................................................60

3.1.2. Phần nội dung.................................................................................62

3.1.3. Phần kết thúc ..................................................................................65

3.2.1. Đặc điểm xây dựng nhân vật chính. ................................................66

3.2.1.1. Nghệ thuật giới thiệu nhân vật. ...............................................66

3.2.1.2. Nghệ thuật sử dụng yếu tố thần kỳ..........................................67

3.2.2. Đặc điểm nhân vật người kể chuyện. ..............................................68

3.2.2.1. Nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần thuật

thuần túy.................................................................................69

3.2.2.2. Nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần thuật

xen với ngôn ngữ đối thoại của nhân vật chính .......................71

3.3. Không gian - thời gian nghệ thuật. .......................................................74

3.3.1. Không gian nghệ thuật....................................................................74

3.3.2. Thời gian nghệ thuật.......................................................................75

3.4. Một số biểu tượng trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông

lưu hành ở Yên Bái.............................................................................77

KẾT LUẬN..................................................................................................82

TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................85

ii

PHỤ LỤC.........................................................................................................

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.

1.1 Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Mỗi dân tộc lại có những

nét riêng về bản sắc văn hóa cũng như phong tục tập quán. Điều đó phần lớn

được thể hiện trong những lời ru, câu hò, điệu hát… và cả trong những câu

chuyện cổ tích được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Trong những năm

gần đây, thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng về việc chăm lo phát triển

văn hóa dân tộc, những người làm công tác văn hóa tư tưởng, văn nghệ dân

gian cùng những người yêu thích văn học dân tộc đã tiến hành sưu tầm truyện

dân gian trên khắp mọi miền đất nước. Số lượng các truyện cổ tích nói riêng

và truyện dân gian nói chung được sưu tầm ngày càng nhiều, góp phần làm

cho kho tàng văn học dân tộc ngày càng phong phú và giàu đẹp hơn. Song để

có được cái nhìn toàn diện, có cách đánh giá đúng đắn về giá trị truyện cổ tích

của mỗi dân tộc, khi tiến hành khảo cứu chúng ta phải tìm hiểu thêm về vị trí

địa lý, địa hình, lịch sử, lễ hội, phong tục tập quán… để thấy được các yếu tố

bên ngoài tác động, chi phối đến sự hình thành, phát triển của mỗi tác phẩm

văn học; thấy được sức sống bền bỉ của văn học dân tộc trong không gian,

thời gian. Việc khảo sát truyện cổ tích của mỗi dân tộc sẽ đánh giá được một

cách chính xác giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật trong mỗi truyện dân gian

của từng dân tộc. Qua việc khảo sát, ta sẽ thấy được nguồn gốc tộc người, đặc

điểm tính cách cũng như lối sống của từng dân tộc trong cộng đồng các dân

tộc Việt Nam.

1.2 Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa

miền Tây Bắc và Trung du Bắc Bộ của Việt Nam. Ở vị trí cửa ngõ miền Tây

Bắc của Tổ quốc, đây còn là điểm dừng chân của các dòng người thiên di từ

đồng bằng Bắc Bộ lên, từ phương Bắc xuống sinh cư lập nghiệp. Hiện nay,

vùng đất Yên Bái là nơi quần cư của hơn 30 dân tộc anh em với dân số gần 70

1

vạn người, trong đó dân tộc Mông chiếm 8,1%. Hầu hết người Mông ở Yên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bái sống ở các triền núi cao. Họ cư trú tập trung chủ yếu ở Trạm Tấu và Mù

Cang Chải. Là một người con được sinh ra trên mảnh đất Yên Bái anh hùng,

ngay từ thời ấu thơ tôi đã biết đến người Mông qua điệu múa khèn; được nghe

tiếng đàn Môi, lời hát giao duyên mộc mạc nhưng đằm thắm; được xem ném

Còn, đánh Pao trong lễ hội Gầu tào; được nghe những câu chuyện cổ tích

thần kỳ của người Mông. Qua đó, tôi nhận thấy rằng bản sắc văn hóa của

người Mông vô cùng phong phú, độc đáo. Đó là những nét riêng để phân biệt

văn hóa Mông với văn hóa các dân tộc anh em trên địa bàn cư trú. Truyện cổ

tích thần kỳ là một trong những yếu tố làm nên bản sắc văn hóa của người

Mông ở Yên Bái nói riêng và của cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung.

Người Mông luôn coi những câu chuyện cổ tích thần kỳ của dân tộc mình như

một báu vật để truyền lại cho con cháu đời sau.

1.3 Năm học 2002 - 2003, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho phát hành

bộ sách giáo khoa mới. Nhằm giúp học sinh tăng cường sự hiểu biết về văn

học của từng địa phương, qua đó bồi dưỡng cho các em tình yêu quê hương

đất nước, chương trình sách giáo khoa Ngữ văn ở bậc học THCS đã dành ra

thời lượng 5 tiết/lớp/năm học để mỗi tỉnh (thành phố) giới thiệu về văn học

của địa phương mình cho học sinh. Năm học 2008 - 2009, Sở Giáo dục và

Đào tạo Yên Bái đã biên soạn công trình Ngữ văn địa phương trung học cơ

sở nhằm cung cấp tài liệu giảng dạy và học tập cho giáo viên và học sinh

THCS trong toàn tỉnh. Qua công trình trên, đội ngũ tác giả đã giới thiệu về

văn học các dân tộc tỉnh Yên Bái như: dân tộc Kinh, dân tộc Thái, dân tộc

Dao, dân tộc Cao Lan và dân tộc Mông. Nhờ đó độc giả có thể thấy được

truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông cũng như truyện cổ tích của các dân

tộc anh em khác lưu hành ở Yên Bái có một vị trí rất quan trọng trong kho

tàng văn học dân gian.

1.4 Là giáo viên dạy Ngữ văn ở trường THCS Lương Thế Vinh

2

(huyện Văn Yên – tỉnh Yên Bái), tôi nhận thấy rằng việc khảo sát truyện dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

gian của dân tộc nói chung và truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông ở Yên

Bái nói riêng sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn đầy đủ hơn về truyện dân gian

của dân tộc Mông ở Yên Bái. Với những lý do trên, chúng tôi đã quyết định lựa

chọn đề tài Khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên

Bái để làm đề tài nghiên cứu. Việc lựa chọn đề tài này mặc dù gặp rất nhiều khó

khăn và vất vả, song nếu thành công chắc chắn nó sẽ có nhiều hữu ích.

2. Lịch sử vấn đề.

Tìm hiểu về văn hóa cũng như truyện cổ tích của mỗi dân tộc trong

mấy thập kỷ gần đây đã được những người làm công tác văn hóa tư tưởng,

văn nghệ dân gian cùng những người yêu thích văn học dân tộc lưu tâm. Xét

riêng ở tỉnh Yên Bái, việc sưu tầm nghiên cứu về văn hóa Mông cũng như

truyện kể dân gian Mông đã được chú ý. Cho đến nay, văn học cũng như

truyện cổ tích của dân tộc Mông ở Yên Bái mới chỉ được sưu tầm, dịch và

giới thiệu trên một số công trình hay tạp chí của địa phương và trung ương.

Qua quá trình khảo sát, chúng tôi chưa thấy có công trình nào giới thiệu

đầy đủ về truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái. Bên

cạnh đó, việc khảo sát các giá trị về nội dung và nghệ thuật của các truyện cổ

tích thần kỳ cũng chưa được tiến hành. Có thể những điều đó chưa phải là

mục đích của các công trình đã nghiên cứu. Về truyện dân gian của dân tộc

Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi mới chỉ thấy luận văn Khảo sát truyền

thuyết các dân tộc lưu hành ở Yên Bái của Thạc sĩ Phùng Thị Phương Hạnh

đề cập đến vấn đề này. Một số công trình khác của Lò Ngân Sủn, Trần Hữu

Sơn, Doãn Thanh, Minh Khương, Đinh Sơn, Hoàng Hạc, Hoàng Việt Quân

lại tập trung vào nghiên cứu văn hóa, dân ca, lịch sử mang tính tổng hợp chứ

không phải là công trình nghiên cứu văn học.

Chúng tôi nhận thấy rằng số lượng truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc

Mông lưu hành ở Yên Bái không những phong phú về số lượng mà còn đa

3

dạng trong việc thể hiện nội dung. Bên cạnh những điểm tương đồng trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

một vài truyện kể thì truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên

Bái có nhiều điểm khác biệt so với truyện cổ tích của các dân tộc anh em

khác. Chính điều đó đã làm nên sức hấp dẫn của truyện cổ tích thần kỳ của

dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.

Trên cơ sở kế thừa thành tựu của những người đi trước, chúng tôi mong

muốn trong một giới hạn nhất định đề tài Khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của

dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái sẽ là cơ hội để mình tiến hành tìm hiểu

các giá trị về nội dung và nghệ thuật làm nên giá trị của truyện dân gian dân

tộc Mông trên tinh thần khoa học và toàn diện nhất có thể, từ đó hướng tới

một cách hiểu và cách lý giải thuyết phục về cái hay, cái độc đáo và hấp dẫn

của truyện cổ tích dân tộc Mông ở Yên Bái. Hy vọng rằng việc nghiên cứu đề

tài này là một đóng góp của người viết trong việc phát hiện về bản sắc văn

hóa của dân tộc.

3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu.

3.1. Đối tượng nghiên cứu:

Khi thực hiện công việc, chúng tôi sẽ đặt trọng tâm vào đối tượng

chính: Truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái được sưu

tầm và giới thiệu trên các sách, báo, tạp chí; các phương tiện thông tin đại

chúng của trung ương và địa phương. Tiêu biểu là các công trình sau:

- Nàng Nu - truyện cổ dân tộc Mông do Minh Khương sưu tầm, Nhà

xuất bản Văn hóa dân tộc (1997).

- Suối nước mắt - Tập truyện dân gian vùng Văn Chấn do Phạm Đức

Hảo sưu tầm, Nhà xuất bản văn hóa dân tộc (1996).

- Ông vua ngốc - truyện cổ các dân tộc Hoàng Liên Sơn do Lò Ngân

Sủn biên tập, in tại xí nghiệp in Hoàng Liên Sơn (1989).

3.2. Phạm vi nghiên cứu:

Trong giới hạn của đề tài luận văn, chúng tôi sẽ tập trung vào việc khảo

sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái. Qua đó chỉ

4

ra những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật trong các truyện.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3.3. Mục đích nghiên cứu:

Truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông là một tiểu loại đặc sắc, đậm

đà màu sắc văn hóa Mông. Qua việc nghiên cứu đề tài Khảo sát truyện cổ tích

thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi muốn góp phần gìn

giữ, bảo tồn và giới thiệu những nét đặc sắc trong truyện cổ tích của dân tộc

Mông ở Yên Bái đến độc giả và những người quan tâm đến vấn đề này.

4. Những đóng góp mới của luận văn.

4.1 Về lý luận:

- Thống kê và phân loại được truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông

lưu hành ở Yên Bái.

- Hiểu được mối quan hệ hữu cơ giữa văn học và các yếu tố ngoài văn

học: lịch sử tộc người, quan niệm sống, vùng đất, địa bàn cư trú, văn hóa…

Đó là những nhân tố quan trọng góp phần làm nên sức sống của truyện cổ tích

thần kỳ của dân tộc Mông.

4.2 Về nhận thức:

Kết quả mà luận văn đạt được chính là những giá trị nội dung cũng như

những giá trị nghệ thuật làm nên sự hấp dẫn trong truyện cổ tích thần kỳ của

dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.

Mặt khác, kết quả mà luận văn nghiên cứu sẽ là nguồn tư liệu hữu ích

cho việc nghiên cứu và giảng dạy của giáo viên đứng lớp sau này khi giảng

dạy về văn học địa phương ở Yên Bái cũng như văn học các dân tộc thiểu số

ở Việt Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích đề ra trong

phạm vi tự giới hạn, trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng phối hợp

một số phương pháp sau:

- Phương pháp thống kê, phân loại.

- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Từ việc khảo sát, thống kê, phân

loại, chúng tôi tiến hành tìm hiểu các giá trị về nội dung và nghệ thuật làm nên

5

nét riêng trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Phương pháp đối chiếu, so sánh: Để làm nổi bật tính địa phương trong

truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi có so

sánh, đối chiếu với truyện cổ tích thần kỳ của người Việt và các thể loại tự sự

dân gian khác.

- Phương pháp điền dã: Chụp hình, ghi chép các thông tin có liên quan

đến truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành.

Trong các phương pháp nghiên cứu trên thì thống kê phân loại là

phương pháp được áp dụng tích cực trong quá trình xử lí tư liệu. Các tư liệu

được thống kê phân loại là cơ sở để đưa ra những phân tích, so sánh khoa học

có sức thuyết phục của đề tài. Bên cạnh đó, phương pháp nghiên cứu liên

ngành cũng được chúng tôi sử dụng trong cả quá trình nghiên cứu nhằm giải

mã văn hóa với một số biểu tượng trong văn học dân tộc Mông, từ đó làm

sáng tỏ những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật. Điều này cũng phù hợp

với xu hướng nghiên cứu hiện nay.

Song song với việc vận dụng phối hợp các phương pháp trên, chúng tôi

còn vận dụng những kiến thức đã học được về các khoa học liên ngành như:

lý luận văn học, thi pháp học, phong cách học, phương pháp luận nghiên cứu

văn học… để phục vụ hiệu quả cho việc nghiên cứu cụ thể các vấn đề người

viết đã chọn làm đề tài cho luận văn.

6. Cấu trúc của luận văn.

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của luận văn được

thể hiện trong 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu

hành ở Yên Bái.

Chương 2: Những đặc điểm về nội dung trong truyện cổ tích thần kỳ

của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.

Chương 3: Những đặc điểm về nghệ thuật trong truyện cổ tích thần kỳ

6

của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ CỦA DÂN TỘC

MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI

1.1. Sơ lược về điều kiện tự nhiên, đặc điểm xã hội và đời sống văn

hóa của dân tộc Mông ở Yên Bái

1.1.1. Đặc điểm địa - chính trị Yên Bái

Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa. So với các tỉnh

miền núi khác, Yên Bái có một vị trí địa lý khá đặc biệt. Phía Bắc giáp với

tỉnh Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp tỉnh Tuyên Quang,

phía Tây giáp tỉnh Sơn La. Yên Bái nằm giữa hai vùng Đông Bắc và Tây Bắc,

nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa miền Tây Bắc và Trung du Bắc Bộ. Vì vậy

mà cả đặc điểm tự nhiên và kinh tế văn hóa xã hội của tỉnh có mối quan hệ

giao lưu và mang dấu ấn của cả ba vùng. Yên Bái là tỉnh giữ vị trí trọng yếu

về kinh tế và quân sự của Việt Nam và có lợi thế trong quá trình giao lưu với

các tỉnh bạn.

Yên Bái có diện tích tự nhiên là 6.888 km2 với ¾ là núi đồi; 01 thành

phố (Yên Bái), 01 thị xã (Nghĩa Lộ) và 07 huyện (Yên Bình, Lục Yên, Trạm

Tấu, Trấn Yên, Văn Chấn, Văn Yên, Mù Cang Chải). Về địa hình, Yên Bái

cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc và được kiến tạo với ba dãy núi lớn đều có

hướng chạy là Tây Bắc - Đông Nam. Phía Tây của Yên Bái có dãy núi Hoàng

Liên Sơn - Pú Luông kẹp giữa sông Hồng và sông Đà, tiếp đến là dãy núi cổ

Con Voi nằm kẹp giữa sông Hồng và sông Chảy. Phía Đông có dãy núi đá vôi

kẹp giữa sông Chảy và sông Lô. Địa hình của Yên Bái tuy có phức tạp nhưng

vẫn được chia thành hai vùng lớn: vùng cao và vùng thấp. Vùng cao có độ

cao trung bình từ 600m trở lên (chiếm 67,56%). Vùng thấp có độ cao dưới

7

600m là phần diện tích còn lại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Do điều kiện khách quan và chủ quan mà địa giới của tỉnh Yên Bái

trước kia và ngày nay có nhiều thay đổi, song từ bao đời nay Yên Bái vẫn là

một vùng đất quan trọng của Tổ quốc. Dưới thời Hùng Vương, Yên Bái thuộc

Bộ Tân Hưng. Dưới thời Lý, Yên Bái thuộc châu Đăng. Dưới thời Trần, Yên

Bái thuộc lộ Quy Hóa. Từ thời Lê đến thời Nguyễn, Yên Bái nằm trong phủ Quy

Hóa, tỉnh Hưng Hóa. Ngày 27 tháng 12 năm 1975, Yên Bái đã sáp nhập với tỉnh

Lào Cai và Nghĩa Lộ lấy tên là Hoàng Liên Sơn. Từ tháng 8 năm 1991 cho đến

nay, Yên Bái được tách thành tỉnh riêng (bao gồm cả Nghĩa Lộ).

Với đặc điểm vị trí thuận lợi như thế, Yên Bái đã trở thành điểm thu

hút với các tộc người, các dòng người di cư đi tìm những vùng đất mới để

khai hoang và thiết lập lãnh địa của mình. Tỉnh Yên Bái đã thu hút được cả

những tộc người di cư từ phương Bắc xuống, từ phía Đông và từ phía Tây

sang. Từ đồng bằng lên. Chính vì vậy mà Yên Bái rất phong phú các thành

phần dân tộc, số dân tương đối đông và họ định cư ở đây từ rất sớm. Điều này

rất quan trọng đối với sự hình thành lịch sử văn hóa, văn học, truyền thống và

phong tục tập quán của từng dân tộc trên địa bàn cư trú.

1.1.2. Đặc điểm lịch sử văn hóa dân tộc Mông ở Yên Bái

Dân tộc Mông còn được gọi với tên khác là dân tộc Mèo (hay Miêu).

Theo công trình nghiên cứu Một số nét đặc trưng các dân tộc tỉnh Yên Bái

do Ban Dân vận và dân tộc tỉnh Yên Bái xuất bản vào tháng 6 năm 2000 thì

người Mông ở Yên Bái có 4 ngành: Mông hoa (Mông lềnh, ở Mù Cang Chải

gọi là Mông linh), Mông đen (Mông dú, ở Mù Cang Chải gọi là Mông đu),

Mông trắng (Mông đư, ở Mù Cang Chải gọi là Mông đơ), Mông đỏ (Mông

si). Trong đó người Mông đen chiếm số lượng đông hơn cả.

Người Mông ở tỉnh Yên Bái có khoảng 55.000 người, cư trú tập trung

tại 40 xã thuộc 5 huyện: Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Văn Chấn, Văn Yên, Trấn

Yên. Theo công trình nghiên cứu Tìm hiểu dân ca dân tộc Mông của tác giả

8

Hoàng Việt Quân (N.X.B Văn hóa Dân tộc, 2004) thì người Mông có 5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngành: Mông hoa (Mông lềnh), Mông đen (Mông dú), Mông xanh (Mông

chúa), Mông trắng (Mông đư), Mông đỏ (Mông si). Các nhóm Mông trên tuy

có sự khác nhau đôi chút về tiếng nói nhưng lại cùng thuộc nhóm ngôn ngữ

Mông - Dao. Cả bốn nhóm Mông đều mặc vải lanh nhuộm chàm, riêng váy

của ngành Mông trắng để nguyên vải mộc. Chính chất liệu lanh đã tạo nên sự

khác biệt giữa trang phục của người Mông với trang phục của các dân tộc

khác. Đàn ông Mông thường mặc quần đũng thấp, áo cài vạt sang một bên,

thân áo lưng ngắn để hở một khoảng bụng. Phụ nữ mặc váy nhiều lớp, phủ

ngoài tạp dề trước và sau, áo ngắn cài khuy một bên, trên ống tay áo có khoác

nhiều khoang vải. Trên nền y phục, sắc độ các màu nguyên: đỏ, vàng, xanh,

đen cùng với kĩ thuật dệt, thêu, ghép màu vải, vẽ sáp ong, dân tộc Mông đã

tận dụng, sử dụng phương tiện tạo hình trên y phục.

Theo các nhà nghiên cứu thì người Mông có nguồn gốc chung với

người Dao. Từ thế kỉ VII đến thế kỉ IX sau công nguyên, Mông với Dao mới

tách ra thành hai cộng đồng riêng biệt. Những nhóm Mông đầu tiên di cư đến

Việt Nam cách đây chừng hơn 300 năm. Người Mông từ Quý Châu (Trung

Quốc) vào Lào Cai cách ngày nay hơn 200 năm. Trong đợt thiên di từ Quý

Châu đến Lào Cai vào đợt thứ 2 (từ năm 1840 đến năm 1869), có một đoàn từ

Bắc Hà xuống Phố Lu lên SaPa đi Than Uyên và tới Mù Cang Chải của Yên

Bái. Những người Mông chọn Mù Cang Chải làm điểm dừng chân lập kế sinh

nhai, lấy tên là “Xáo Mông”, sau đó họ mở rộng địa bàn sinh sống sang các

huyện lân cận như Trạm Tấu và Văn Chấn (Yên Bái). Đầu những năm 2000,

một phần đồng bào Mông mới đã di chuyển từ Lào Cai, Hà Giang và Sơn La

sang Yên Bái để định cư. Dân tộc Mông cư trú ở vùng đất cao nhất của tỉnh

Yên Bái. Dù có sống xen cư với các dân tộc khác nhưng họ vẫn quần tụ với

nhau thành cộng đồng và ở sống chủ yếu ở độ cao từ 700m - 1800m. Cuốn

Lịch sử Đảng bộ huyện Mù Cang Chải (1957 - 2002) xuất bản năm 2002

9

ghi rõ: “Đầu thế kỉ XVIII, người Mông từ Lào Cai vượt dãy Hoàng Liên Sơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vào cư trú tại Nậm Kim và phát triển lên Mù Cang Chải (Lồng Cống, Lồng

Mù). Người Mông coi Lồng Cống, Lồng Mù là “vùng đất tổ” khi chết phải chỉ

đường cho về đây. Nhóm đầu tiên đến thuộc họ Vàng rồi đến các họ Thào,

Giàng, Sùng, Cứ, Hờ, Hảng, Mua, Lý, Phàng, Lầu… trong đó họ Giàng là

đông nhất”.

Về văn hóa, có thể khẳng định văn hóa của dân tộc Mông là văn hóa di

cư. Trong quá trình thiên di từ Quý Châu (Trung Quốc) sang Việt Nam, người

Mông đã mang theo những phong tục tập quán, lối sống, tín ngưỡng. Tuy đến

định cư tại vùng đất mới song người Mông vẫn luôn bị ám ảnh bởi những gì

đã diễn ra trong quá khứ của họ. Điều đó được thể hiện rõ qua các bài dân ca

Mông, các câu chuyện cổ mà họ mang theo trong quá trình thiên di tới vùng

đất mới. Người Mông ở Yên Bái có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Nói

đến văn hóa lễ hội dân tộc Mông, các nhà nghiên cứu đều khẳng định rằng

Gầu tào là lễ hội quan trọng nhất. Trong những ngày diễn ra lễ hội Gầu tào,

điệu múa khèn luôn là nghi lễ mở hội “chù Gầu tào”, sau đó là các trò chơi:

đám hát gầu plềnh (giao duyên trai gái), đám đánh tù lú (đánh quay), tâu tí

(cầu lông gà), đánh mảy pao. Trong lễ hội Gầu tào, những nghệ nhân điêu

luyện người Mông thường thổi khèn múa tua tài với nhiều động tác khá phức

tạp như trồng cây chuối, đi qua đòn ống bắc trên chảo thắng cố…

Về văn học, người Mông ở Yên Bái có một kho tàng văn học dân gian

rất phong phú, gồm nhiều thể loại: thần thoại, truyện cổ tích, các thể loại dân

ca và tục ngữ… Có loại được kể như văn xuôi, có loại kể dưới dạng truyện

thơ, bài ca mang tính chất li kì, hấp dẫn. Có thể nói rằng dòng đời của người

Mông luôn tắm mình trong các lễ nghi phong tục tập quán, các hoạt động đời

sống thực tiễn gắn liền với sinh hoạt văn hóa truyền thống mang đậm tính

nguyên hợp. Trong cộng đồng của mình, người Mông vẫn kể chuyện cổ tích

cho con cháu của mình nghe. Có thể nói truyện cổ tích đóng một vai trò quan

trọng góp phần làm nên sức hấp dẫn của văn học dân tộc Mông ở Yên Bái nói

10

riêng và của văn học Việt Nam nói chung.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Người Mông cũng có chữ viết riêng. Chữ của người Mông ngày nay có

được là do cha đạo Sanina (cha đạo thuộc dòng thừa sai Paris vào truyền đạo

ở Việt Nam tạo nên bằng cách Latinh hóa theo mẫu chữ quốc ngữ). Những

con chữ cũng đã góp phần lưu giữ lại những nét văn hóa cổ truyền đặc sắc của

dân tộc Mông (trong đó có truyện cổ tích thần kỳ).

1.2. Truyện cổ tích, truyện cổ tích thần kỳ

1.2.1. Truyện cổ tích

Kể từ khi truyện cổ tích được quan tâm nghiên cứu, nhiều nhà nghiên

cứu đã đưa ra định nghĩa về truyện cổ tích theo quan niệm và cách hiểu của

họ. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (NXB Giáo dục Việt Nam, 2011),

nhóm tác giả PGS. Lê Bá Hán - PGS.TS Trần Đình Sử - GS. Nguyễn khắc

Phi đã đưa ra định nghĩa về truyện cổ tích như sau: “Truyện cổ tích là một thể

loại truyện dân gian nảy sinh từ xã hội nguyên thủy nhưng chủ yếu phát triển

trong xã hội có giai cấp với chức năng chủ yếu là phản ánh và lí giải những vấn

đề xã hội, những số phận khác nhau của con người trong cuộc sống muôn màu

muôn vẻ khi đã có chế độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng (chủ yếu là gia đình

phụ quyền), có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh xã hội quyết liệt” [18.368].

Trong cuốn Giáo trình Văn học dân gian (NXB Giáo dục Việt Nam,

2012), nhóm tác giả PGS.TS. Vũ Anh Tuấn - PGS.TS. Phạm Thu Yến - TS.

Nguyễn Việt Hùng - ThS. Phạm Đặng Xuân Hương lại đưa ra định nghĩa:

“Truyện cổ tích là sáng tác dân gian thuộc loại hình tự sự, chủ yếu sử dụng

yếu tố nghệ thuật kì ảo để thể hiện cái nhìn hiện thực của nhân dân với đời

sống, bộc lộ quan niệm về đạo đức cũng như về công lí xã hội và ước mơ một

cuộc sống tốt đẹp hơn của nhân dân lao động” [82.116].

Trong công trình nghiên cứu khoa học Truyện cổ tích trong con mắt

các nhà khoa học, GS. Chu Xuân Diên cho rằng sẽ thật khó khăn khi phải

xác định cho khái niệm truyện cổ tích một nội dung thật chặt chẽ, theo ông thì

11

truyện cổ tích có ba nội dung sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

“1. Truyện cổ tích đã nảy sinh từ trong xã hội nguyên thủy, do đó có

những yếu tố phản ánh quan niệm thần thoại của nhân dân về các hiện tượng

tự nhiên, xã hội và có ý nghĩa ma thuật (…) chủ đề chủ yếu của nó là chủ đề

xã hội, phản ánh nhận thức của nhân dân về cuộc sống xã hội muôn màu,

muôn vẻ với những xung đột đặc trưng cho các thời kỳ lịch sử (…).

2. Truyện cổ tích nói lên những quan điểm đạo đức, những quan niệm về

công lí xã hội và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn về cuộc sống hiện tại.

3. Truyện cổ tích là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú của nhân

dân” [06.204].

Với tinh thần thâu tóm các đặc điểm chung của truyện cổ tích, trong cuốn

Văn học dân gian, Hoàng Tiến Tựu đã khái quát về thể loại này như sau:

“Truyện cổ tích là một loại truyện gắn liền với quá trình tan rã của chế

độ công xã nguyên thủy, hình thành gia đình phụ quyền và phân hóa giai cấp.

Nó đặc biệt nói về các xung đột giữa người với người trong phạm vi gia đình

và xã hội. Nó dùng một thứ tưởng tượng hư cấu riêng, kết hợp các thủ pháp

nghệ thuật đặc thù khác để phản ánh đời sống và mơ ước của nhân dân, đáp

ứng nhu cầu nhận thức, thẩm mĩ, giáo dục giải trí của họ” [84.42]. Đây được

coi là khái niệm tương đối đầy đủ và sáng rõ về truyện cổ tích. Theo cách

hiểu này, ta có thể nắm bắt nội dung cơ bản và hình thức sáng tạo một cách

chung nhất của truyện cổ tích.

Qua việc tìm hiểu khái niệm về truyện cổ tích trong các công trình

nghiên cứu cũng như trực tiếp đọc các truyện cổ tích của Việt Nam và thế

giới, chúng tôi nhận thấy một số điểm cơ bản về thể loại cổ tích như sau:

Truyện cổ tích ra đời trong xã hội có sự phân chia giai cấp, đề cập và quan

tâm trước hết đến những nạn nhân xấu số cho nên chức năng chủ yếu của nó

là nhằm an ủi, động viên, bênh vực cho thân phận, phẩm chất của con người.

Chính vì thế mà thông qua mỗi câu chuyện, nhân dân lao động thường gửi

12

gắm ước mơ về một thế giới tốt đẹp, về sự công bằng, về sự thưởng phạt công

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

minh. Từ chức năng thể loại đó, ta có thể thấy truyện cổ tích có những đặc

trưng cơ bản như:

- Truyện cổ tích xây dựng một thế giới hư cấu, kì ảo.

- Truyện cổ tích là câu chuyện đã hoàn tất trong quá khứ, đã trọn vẹn

về cốt truyện, nhưng đồng thời cũng mang tính mở đặc trưng của văn bản văn

học dân gian ở cấp độ chi tiết, môtip.

- Truyện cổ tích mang tính giáo huấn cao, mỗi câu chuyện là một bài

học về đạo đức, ứng xử, về lẽ công bằng, thưởng phạt công minh.

Về việc phân loại, có rất nhiều cách phân loại truyện cổ tích, song hiện

nay chúng ta thấy phổ biến nhất là phân chia ra làm ba tiểu loại: truyện cổ

tích loài vật, truyện cổ tích thần kỳ và truyện cổ tích sinh hoạt. Ở Nga, cách

phân chia này đã có từ năm 1865 do Ô. Mi lơ đề xuất. Cách phân loại này

được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Đây cũng là cách phân loại hợp

lí, vì ngoài tiêu chí chính là đề tài thì những yếu tố nghệ thuật khác (nhân vật,

tính kì ảo) cũng được tính tới trong khi phân loại. Chúng tôi thống nhất với

cách phân loại trên và trên cơ sở đó tìm hiểu về truyện cổ tích thần kỳ như

một tiểu loại nổi bật và đặc sắc của thể loại tự sự dân gian này.

1.2.2.Truyện cổ tích thần kỳ

Có thể nói truyện cổ tích thần kỳ là một sản phẩm sáng nghệ thuật độc

đáo và có ý thức của người xưa. Tuy ra đời, tồn tại và phát triển trong một

thời gian dài, hòa chung với mạch nguồn của văn học dân tộc song cho tới

nay các nhà nghiên cứu văn học dân gian vẫn chưa đưa ra một thuật ngữ

thống nhất về tiểu loại này. Hiện nay, các nhà nghiên cứu khoa học đã tìm tòi,

phân định bản chất, đặc điểm của truyện cổ tích thần kỳ.

Trong công trình Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (tập 1), Nguyễn

Đổng Chi đã đưa ra quan niệm: “Cổ tích thần kỳ là loại truyện tương đối có

nhiều nhân tố ảo tưởng nhất. Những truyền thuyết thần bí, kỳ quái, những

13

truyện người, truyện vật nhưng bên trong đầy dẫy những sự can thiệp của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

huyền diệu đều có thể xem là cổ tích thần kỳ” [04.53]. Chính nhân tố ảo

tưởng đã tạo nên bao tình tiết kì thú, hấp dẫn mạnh mẽ trí tưởng tượng của

người nghe, thế giới không thực trong truyện cổ tích thần kỳ giúp người ta

thực hiện hóa những ước muốn không tưởng. Một phần của truyện cổ tích

thần kỳ là tàn dư của những tưởng tượng gắn liền với mê tín, ma thuật và các

hình thức tôn giáo thời nguyên thủy.

Nguyễn Đổng Chi còn cho rằng tác giả của truyện cổ tích thần kỳ nhiều

khi đã sử dụng lực lượng siêu nhiên để thắt nút, mở nút câu chuyện mà không

cần biết điều đó có hợp lý hay không.

Khi bàn luận về “Tinh thần phê phán xã hội và lý tưởng dân chủ - nhân

đạo trong truyện cổ và các thể tài dân gian khác ở giai đoạn đầu của chế độ

phong kiến”, nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh cũng phân tích đặc điểm của

truyện cổ tích thần kỳ. Từ khái niệm chung “truyện cổ về xã hội”, nơi phản

ánh xung đột xã hội diễn ra trong phạm vi gia đình phụ quyền và sự nảy sinh

của lý tưởng dân chủ - nhân đạo của nhân dân, tác giả đã tìm ra đặc điểm

chung của truyện cổ tích thần kỳ. Theo Cao Huy Đỉnh thì truyện cổ tích thần

kỳ vẫn mang đậm nội dung về hiện thực xã hội, tình cảm tự nhiên, đạo đức

thực tiễn và ước mơ lãng mạn của nhân dân lao động. Khi “yếu tố thần kỳ

(…) trở thành những biện pháp nghệ thuật của chủ nghĩa lãng mạn và chủ

nghĩa tượng trưng rất đậm đà và phổ biến trong hàng loạt truyện cổ xã hội.

Có thể gọi chung đó là truyện cổ tích thần kỳ” [11.56].

Cao Huy Đỉnh đã kết luận: “truyện cổ tích thần kỳ có nội dung dân chủ

và tính chất dân tộc”. Như vậy, có thể nói rằng nội dung phản ánh của truyện

cổ tích thần kỳ xoay quanh cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người

tốt và kẻ xấu, và cuối cùng bao giờ cái ác, cái xấu cũng bị tiêu diệt. Truyện cổ

tích thần kỳ bao giờ cũng kết thúc có hậu, đó chính là quan điểm thẩm mĩ tích

cực, lạc quan của nhân dân lao động. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra được một

14

định nghĩa ngắn gọn, súc tích và trọn vẹn về truyện cổ tích thần kỳ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trong công trình Đặc điểm nghệ thuật truyện cổ tích thần kỳ của dân

tộc Mông ở Hà Giang, tác giả Hạng Thị Vân Thanh đã trích dẫn quan niệm

của A.M.Nôvicôva về truyện cổ tích thần kỳ như sau: “Trong nhận thức của

người nguyên thủy, cả hai thế giới đó (thế giới hiện thực, thế giới tưởng

tượng) hợp thành một thực tại thống nhất (…). Truyện cổ tích thần kỳ (…) là

những tác phẩm nghệ thuật mang tư tưởng rõ ràng về sự chiến thắng của con

người đối với lực lượng độc ác, đen tối, miêu tả những nhân vật lý tưởng hóa

sau khi đi qua những thử thách ban đầu, nhờ có sự giúp đỡ của các phương tiện

thần kỳ đã đạt được điều mong muốn…”[72.27]. Theo đó, chúng tôi nhận thấy

có ba bước hình thành liên tục của truyện cổ tích với tư cách là một thể loại:

- Thứ nhất: Những truyện kể cổ xưa nhất mang tính chất thần thoại có

mục đích thực dụng nhằm ngăn cấm việc vi phạm những qui tắc sinh hoạt

nhất định.

- Thứ hai: Truyện kể cổ xưa phức tạp dần lên do những môtíp có tính

chất xã hội, những môtíp về những trợ thủ thần kỳ dẫn đến sự ra đời của

truyện cổ tích thần kỳ.

- Thứ ba: Truyện cổ tích hình thành do nhào nặn lại những đề tài cổ

xưa và những ý niệm thần thoại, cùng với việc khẳng định tư tưởng chiến

thắng, khẳng định công lý và việc sáng tạo ra những công thức kể chuyện cổ

tích độc đáo.

Nhà nghiên cứu văn học dân gian Lê Chí Quế nhận định rằng: “Truyện

cổ tích thần kỳ, như tên gọi của nó, yếu tố thần kỳ đóng vai trò quan trọng

trong kết cấu và quá trình dẫn dắt câu chuyện (…) trong truyện cổ tích thần

kỳ yếu tố niềm tin nhạt dần. Người kể chuyện chỉ mượn yếu tố thần kỳ để làm

phương tiện hỗ trợ cho hoạt động của con người, qua đó truyền đến cho con

người một bài học giáo huấn nào đấy” [63.95]. Tuy nhiên, trong cuốn giáo

trình Văn học dân gian Việt Nam, tác giả Lê Chí Quế vẫn chưa đưa ra được

định nghĩa cụ thể về truyện cổ tích thần kỳ ngoài việc xác định đặc điểm bản

15

chất thể loại của truyện cổ tích thần kỳ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Theo tác giả Chu Xuân Diên, truyện cổ tích thần kỳ có những yếu tố cổ

xưa có liên quan đến những quan niệm thần thoại và tín ngưỡng của con

người thời thị tộc, bộ lạc “…nội dung chính của truyện cổ tích thần kỳ là đời

sống xã hội của con người và số phận của con người trong xã hội có giai cấp.

Nhân vật trung tâm của truyện cổ tích thần kỳ là (…) nạn nhân của chế độ tư

hữu tài sản, của chế độ gia đình phụ quyền và của cả chế độ xã hội có giai

cấp” [06.205]. Truyện cổ tích thần kỳ đã miêu tả những nhân vật bất hạnh

theo khuynh hướng lí tưởng hóa. Phải nhờ vào các yếu tố thần kỳ can thiệp

vào cốt truyện thì truyện mới có thể từ miêu tả hiện thực cuộc sống đi đến kết

cục có tính chất ước mơ dành cho nhân vật trung tâm của truyện.

Trong cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, tác giả Đinh Gia

Khánh đã chia truyện cổ tích thành hai tiểu loại là truyện cổ tích lịch sử và

truyện cổ tích thế sự. Cách phân chia của tác giả dựa trên tiêu chí tính chất sự

kiện được phản ánh trong nội dung mỗi truyện. Theo ông, truyện cổ tích dù ở

tiểu loại nào dù nhiều hay ít cũng có sự tham gia của yếu tố thần kỳ. Vì “yếu

tố kỳ diệu, siêu nhiên chính là một thủ pháp nghệ thuật gắn với nội dung lãng

mạn của truyện” [28.347].

Trong công trình Cổ tích thần kỳ người Việt, đặc điểm cấu tạo cốt

truyện, Tăng Kim Ngân cũng coi truyện cổ tích thần kỳ là một tiểu loại của

truyện cổ tích Việt Nam. Tác giả cho rằng truyện cổ tích thần kỳ có những

đặc điểm riêng về nhiều mặt, trong đó tiêu chí cơ bản để phân biệt nó với hai

tiểu loại cổ tích còn lại là ở “vai trò quan trọng của yếu tố thần kỳ trong việc

chi phối quá trình phát triển hệ thống tình tiết của cốt truyện”[40.25]. Về

mặt nội dung của truyện cổ tích thần kỳ, tác giả Tăng Kim Ngân cũng thống

nhất với ý kiến của các nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên, Cao Huy Đỉnh và Lê

Chí Quế.

Trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, nhà nghiên cứu Hoàng

16

Tiến Tựu đã phân tích, lý giải về truyện cổ tích thần kỳ. Tuy nhiên, ông vẫn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chưa đưa ra được khái niệm về truyện cổ tích thần kỳ một cách súc tích và

trọn vẹn nhất. Theo tác giả, gốc rễ sâu xa và nguồn gốc quan trọng của truyện

cổ tích thần kỳ là từ thế giới quan nguyên thủy và từ đời sống xã hội có giai

cấp, “truyện cổ tích thần kỳ chính là sản phẩm của giai đoạn phát triển cao

nhất của thể loại cổ tích” [84.57], khi mà phương pháp sáng tác và phương

tiện nghệ thuật đã thay đổi phù hợp với trình độ tư duy và nhu cầu nhận thức

trước thực tại phong phú, phức tạp hơn. Cũng theo đó, Hoàng Tiến Tựu đã

đưa ra bốn đặc điểm nổi bật của truyện cổ tích thần kỳ:

- Thứ nhất: Đối tượng miêu tả, phản ánh của truyện cổ tích thần kỳ

luôn hướng về nhân vật người và những xung đột xã hội.

- Thứ hai, lực lượng thần kỳ giữ “vai trò quan trọng đặc biệt” trong

việc giải quyết những mâu thuẫn, xung đột trong truyện.

- Thứ ba, thế giới trong truyện cổ tích thần kỳ là thế giới tồn tại trong

trí tưởng tượng của người kể, trong đó, do tác giả dân gian dùng biện pháp

hư cấu và tưởng tượng để nối liền hiện thực và lý tưởng.

- Thứ tư, thành phần nhân vật trong truyện cổ tích thần kỳ đông đảo,

đa dạng và phức tạp, tạo nên nét độc đáo so với các tiểu loại khác của tự sự

dân gian.

Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học xuất bản năm 2011, nhóm tác

giả PGS. Lê Bá Hán - PGS.TS Trần Đình Sử - GS. Nguyễn khắc Phi đã đưa

ra định nghĩa về truyện cổ tích thần kỳ một cách khái quát như sau: Truyện cổ

tích thần kỳ là một bộ phận quan trọng và tiêu biểu nhất của thể loại cổ tích.

Ở loại truyện này nhân vật chính vẫn là con người trong thực tại, nhưng các

lực lượng thần kỳ, siêu nhiên có một vai trò rất quan trọng. Hầu như mọi

xung đột trong thực tại giữa người với người đều bế tắc, không thể giải thích

nổi nếu thiếu yếu tố thần kỳ”[18.368]. Cách nêu khái niệm của nhóm tác giả

trên rất súc tích, dễ nhớ, đồng thời cũng nêu ra được đặc điểm nổi bật của

17

truyện cổ tích thần kỳ. Vì vậy, chúng tôi thống nhất lựa chọn cách hiểu này.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1.3. Tình hình sưu tầm và khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân

tộc Mông lưu hành ở Yên Bái

Trên cơ sở định hướng thực hiện mục đích của đề tài, chúng tôi cơ bản

tìm hiểu đối tượng qua nguồn tư liệu đã được xuất bản. Qua đó chọn ra những

truyện nằm trong đối tượng nghiên cứu.

1.3.1. Trước Cách mạng tháng Tám - 1945

Trước Cách mạng tháng Tám - 1945, hầu như chưa có người Việt Nam

nào bắt tay vào công việc sưu tầm, biên dịch, nghiên cứu về truyện cổ tích của

dân tộc Mông. Kể từ khi thực dân Pháp chiếm SaPa (1888), nhất là sau năm

1905, cha cố - đại úy Savina cùng với các công sứ Pháp ở Lào Cai xây dựng

kế hoạch truyền đạo Thiên chúa vào vùng dân tộc Mông nhằm ru ngủ tinh

thần đấu tranh quyết liệt của nhân dân ta, cha cố - đại úy Savina mới dành

thời gian nghiên cứu đời sống văn hóa tinh thần của người Mông. Trong cuốn

hồi ký Cát bụi chân ai (N.X.B Hội nhà văn, 1993) của nhà văn Tô Hoài thì

linh mục Savina đã từng ở nhà thờ SaPa, cùng thời kì cha cố Hiền người Pháp

ở nhà thờ Sọa Hồ trên núi ở Nghĩa Lộ. Linh mục Savina đã viết cuốn Lịch sử

dân tộc Mèo và bộ Từ điển Pháp - Mèo in ở Hồng Kông năm 1924.

Năm 1942, nhà in Viễn Đông xuất bản cuốn sách với nhan đề Vùng

cao của Cresson - một viên chánh sứ người Pháp ở Yên Bái - dày 142 trang,

khổ 18 x 22cm, đã mô tả khá chi tiết thiên nhiên hùng vĩ và các dân tộc sinh

sống ở vùng cao Yên Bái, trong đó có dân tộc Mông. Năm 2011, tạp chí Văn

nghệ Yên Bái số 49 đã đăng một đoạn trích với tiêu đề Đến Púng Luông do

An Thế Cường dịch từ cuốn Vùng cao của chánh sứ Cresson.

Điểm qua những công trình có tên trên, chúng tôi mới chỉ nhận thấy các

tác giả mới chỉ tập trung vào việc nghiên cứu về phong tục tập quán và các

vấn đề liên quan đến văn hóa dân gian. Việc nghiên cứu của các tác giả không

hướng tới khai thác và thúc đẩy văn học, văn hóa dân gian phát triển mà chỉ

18

nhằm mục đích truyền đạo Thiên chúa hoặc âm mưu xâm lược nước ta. Chưa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

có một cuốn sách nào sưu tầm, dịch và giới thiệu về truyện cổ tích của dân tộc

Mông ở Yên Bái.

1.3.2. Sau Cách mạng tháng Tám - 1945

Sau Cách mạng tháng Tám - 1945, cùng với việc chú trọng thúc đẩy

nền văn học nước nhà phát triển nhằm mục đích phục vụ cho đời sống tinh

thần, phát triển nhận thức cho người dân, đặc biệt là phục vụ cho phong trào

cách mạng Việt Nam, được sự quan tâm, khuyến khích của Đảng và nhà

nước, đã có nhiều nghệ nhân và tác giả dân gian bỏ công sức đi điền dã, khai

thác, sưu tầm, nghiên cứu, công bố bài viết của mình trên các phương tiện

thông tin đại chúng, in trong các tập san, tạp chí văn hóa, văn nghệ ở địa

phương và trung ương. Công việc này lúc đầu mới chỉ diễn ra trên quy mô

nhỏ hẹp và thiên về tính chất cá nhân, phải từ năm 1954 - 1960 công tác

nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian ở Yên Bái mới được chú trọng.

Những tên tuổi nổi bật trong công tác sưu tầm và nghiên cứu văn học

dân tộc Mông giai đoạn đầu là Hoàng Đình Quý (Hà Giang), Lê Trung Vũ,

Doãn Thanh (Lào Cai), Minh Khương (Yên Bái). Tác giả Minh Khương đã có

rất nhiều năm gắn bó với dân tộc Mông , thông thạo song ngữ Việt - Mông đã

sưu tầm được nhiều tư liệu, tự mình biên soạn rồi in thành sách.

Ở giai đoạn sau, nhiều tác giả của Chi hội Văn hóa dân gian Lào Cai và

Yên Bái đã để tâm đến công việc sưu tầm nghiên cứu văn hóa và văn học dân

tộc Mông. Các tác giả tiêu biểu là Trần Hữu Sơn, Hoàng Việt Quân, Bùi Huy

Mai, Phạm Tuất… Họ chính là những người yêu mến văn hóa, văn học dân

tộc Mông. Bên cạnh đó, còn có những nhà nghiên cứu, sưu tầm, dịch truyện là

con em đồng bào dân tộc Mông như Hạng Mí De, Dương Thị Phương, Hạng

Thị Vân Thanh (Hà Giang). Họ là những người luôn có ý thức giữ gìn và bảo

tồn các thành tựu văn hóa dân tộc với tinh thần tự giác và thái độ tự hào.

Ngoài ra, những người yêu mến văn chương, gắn bó với dân tộc Mông như:

19

đội ngũ cán bộ ngành văn hóa, các phóng viên, các thầy cô giáo, học sinh học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sinh trường phổ thông và chuyên nghiệp…. Họ đã tích cực góp phần vào công

việc bảo tồn và lưu truyền văn hóa, văn học dân tộc Mông ở Yên Bái.

* Một số thành tựu nổi bật trong việc sưu tầm dân ca:

- Dân ca Mèo ở Lào Cai do Doãn Thanh sưu tầm (N.X.B Văn học, 1967).

- Dân ca Mèo (Jăngx gâux H.Môngz) do Doãn Thanh sưu tầm, biên dịch

(Hội Văn học nghệ thuật Lào Cai, in song ngữ, 1967).

- Hoa chàm nở do Minh Khương sưu tầm và dịch (Ban văn giáo Khu tự trị

Tây Bắc, 1974).

- Tập thơ ca Mặt trời hoa mây (Luz hmuz păngx huôz) do Minh Khương

sưu tầm, dịch (Ty Văn hóa Hoàng Liên Sơn phối hợp với Phòng Văn hóa

Thông tin huyện Trạm Tấu, 1977).

- Dân ca Mông tập I do Nguyễn Tài Tuệ, Trịnh Lại sưu tầm, ghi âm, phỏng

dịch (N.X.B Văn hóa, 1979).

- Tập thơ ca các dân tộc Lời hát biên cương (Đruôz Đirv têz gơu li lut txax)

do Châu A Chin và Minh Khương sưu tầm, dịch (Ty Văn hóa thông tin

Hoàng Liên Sơn, 1980).

- Tập sách Những bài ca đánh giặc ngoại xâm của người Mông (H.Môngz

li jăngx ntâuk chuôv tir châuz txênhz tê goưk) do Doãn Thanh sưu tầm và

biên soạn (Hội văn nghệ Ty Văn hóa thông tin và Ban chỉ đạo pháo đài quân

sự tỉnh Hoàng Liên Sơn, 1981).

- Tập sách Dân ca Mông do Doãn Thanh sưu tầm và dịch; Hoàng Thao tuyển

và chỉnh lý; Chế Lan Viên viết bài giới thiệu (N.X.B Văn học, 1984).

- Tập sách Văn hóa Mông của tác giả Trần Hữu Sơn (N.X.B Văn hóa dân

tộc, 1996).

Bên cạnh đó, để thúc đẩy và duy trì công tác sưu tầm nghiên cứu văn

hóa, văn học dân tộc Mông (cũng như các dân tộc khác) ở địa phương, Yên

Bái đã có nhiều ấn phẩm, tạp chí văn hóa văn nghệ. Tiêu biểu là: Thơ ca Yên

20

Bái, Thơ văn Nghĩa Lộ; tập san: Văn nghệ Yên Bái (trước 1975 đến nay); báo,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tập san Văn nghệ Hoàng Liên Sơn (1976 - 1991). Các ban ngành, huyện thị

cũng cho ra đời những ấn phẩm. Nhờ những tạp chí và ấn phẩm trên, các công

trình nghiên cứu về văn hóa và văn học của dân tộc Mông đã đến được với

độc giả.

`Qua các công trình nghiên cứu đã nêu trên, ta có thể nhận thấy rằng

việc nghiên cứu sưu tầm văn hóa và văn học dân tộc Mông ở Yên Bái đã diễn

ra khá sôi nổi. Các tác giả của những công trình ấy hầu hết là những người

yêu và say mê sưu tầm, nghiên cứu về văn hóa, văn học dân gian dân tộc

Mông. Để có được kết quả đáng tự hào như vậy, các tác giả đã có cả một quá

trình lặn lội gian khổ qua những chuyến đi thực tế đến với đồng bào Mông,

giúp họ lưu giữ lại những nét văn hóa cổ truyền của dân tộc mình trong các

trang sách.

* Một số thành tựu nổi bật trong việc sưu tầm truyện cổ tích của dân tộc

Mông lưu hành ở Yên Bái:

Trước hết, chúng tôi phải khẳng định rằng việc sưu tầm, nghiên cứu

truyện cổ tích của dân tộc Mông gắn liền với việc sưu tầm văn học dân gian

của dân tộc Mông. Đây là một công việc rất khó khăn vì Yên Bái là một tỉnh

rộng, dân cư thưa thớt, phần lớn đồng bào dân tộc Mông lại sống ở các triền

núi cao, nhiều người còn chưa biết đọc, biết viết, thậm chí còn chưa thạo tiếng

Kinh. Điều đó đòi hỏi các nhà sưu tầm, nghiên cứu phải thực sự tâm huyết với

văn hóa, văn học dân tộc Mông. Từ năm 1989 đến nay, các tác giả như Minh

Khương, Phạm Đức Hảo, Lê Vân đã dành công sức sưu tầm và biên tập

truyện cổ tích của dân tộc Mông ở Yên Bái. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa

có một công trình nào giới thiệu được đầy đủ về truyện cổ tích của dân tộc

Mông ở Yên Bái.

Năm 1989, Nhà xuất bản Hội Văn học - Nghệ thuật Hoàng Liên Sơn đã

giúp các tác giả Lê Vân, Minh Khương, Hà Lâm Kỳ, Vàng Thung Chúng, Tô

21

Giang, Lù Dín Siềng, Sần Quáng, Sần Cháng cho ra mắt tập truyện Ông vua

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngốc - Truyện cổ Hoàng Liên Sơn dày 52 trang, bao gồm 10 truyện sưu tầm

được trong toàn tỉnh Hoàng Liên Sơn. Trong đó có 1 truyện cổ của dân tộc

Tày, 1 truyện cổ của dân tộc Mường, 1 truyện cổ của dân tộc Nùng, 4 truyện

cổ của dân tộc Giáy, 1 truyện cổ của dân tộc Cao Lan và 2 truyện cổ tích của

dân tộc Mông là: Hạt muối (Lê Vân sưu tầm) và Nhà Tếnh (Minh Khương

sưu tầm).

Năm 1996, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc đã giúp tác Phạm Đức Hảo

xuất bản tập truyện Suối nước mắt – tập truyện dân gian các dân tộc vùng

Văn Chấn dày 90 trang, bao gồm 11 truyện của các dân tộc do tác giả sưu

tầm và biên soạn ở huyện Văn Chấn (Yên Bái). Trong đó có 2 truyện cổ tích

của dân tộc Mông là: Sự tích núi hai bà cháu và Hoàng tử rùa.

Năm 1997, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc đã giúp tác giả Minh

Khương ra mắt tập truyện Nàng Nu - Truyện cổ dân tộc Mông dày 118

trang, bao gồm 21 truyện cổ tích dân tộc Mông do tác giả sưu tầm và biên

soạn ở hai huyện vùng cao là Trạm Tấu và Mù Cang Chải.

Lược kê 24 truyện cổ tích của dân tộc Mông do các tác giả sưu tầm và

biên soạn chúng tôi thấy: huyện Trạm Tấu có 9 truyện, do 2 nghệ nhân kể:

Mặt đất lồi lõm, Ông tiên ở núi Ngũ Sơn, Nù Phay học khèn, Nàng Nu,

Nàng Nao và Xênh, Củ và Kỷ, Chuyện năm cha con, Sao Pàng (đều do

Giàng Trờ Xang, xã Trạm Tấu kể), Sự tích đuôi gấu (Giàng A Lử, xã Trạm

Tấu kể). Huyện Mù Cang Chải có 12 truyện do 6 người kể: Trời chết (Thào

Khua Kỷ, ở huyện lỵ kể), Sự tích khèn Mông, Chuyện Xí Xang (Lý Pàng

Tủa, xã La Pán Tẩn kể), Sự tích gà mái ấp trứng vịt, Chín người con trai,

Tồng Của gọi được chim dư vay, Kề Tấu (Lý Trờ Say, xã La Pán Tẩn kể),

Chua Thênh và A Sở, Cô gái tóc xanh, A Xang (Giàng Nủ Chu, xã La Pán

Tẩn kể). Huyện Văn Chấn có 2 truyện do 2 người kể: Sự tích núi hai bà cháu

(Lý Hạ Chu kể), Hoàng tử rùa (Giàng A Su kể). Còn truyện cổ tích Hạt muối

22

do Lê Vân sưu tầm không ghi rõ tên và địa chỉ người kể.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Với nguồn tư liệu đã xuất bản có trong tay, chúng tôi nhận thấy rằng:

Truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái tương đối

phong phú về số lượng và nội dung phản ánh. 24 truyện cổ tích thần kỳ chưa

phải là con số lớn nhưng đây là điều đáng quý cho công việc khảo sát của

chúng tôi. Chúng tôi cảm ơn và trân trọng những thành quả khoa học mà các

nhà nghiên cứu, sưu tầm đi trước đã làm được.

1.4. Khảo sát văn bản

1.4.1. Đặc điểm bản kể

Khảo sát 24 truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái,

chúng tôi nhận thấy một số đặc điểm nổi bật của các văn bản đó là sự phong phú

về nội dung. Song các văn bản ấy có một số đặc điểm chung như sau:

Thứ nhất: Các bản kể là của dân tộc Mông ở Yên Bái.

Các văn bản được sưu tầm phần lớn là truyện cổ tích thần kỳ của dân

tộc Mông lưu hành ở Yên Bái. Yếu tố này đã chi phối dẫn dắt hầu hết các câu

chuyện được kể. Một số môtíp như: sợi lanh, con bò, con ngựa, khèn Mông,

hội Gầu tào, số ba, số chín… được nhắc lại nhiều lần. Đó là những hình ảnh

gắn bó mật thiết với đời sống vật chất và tinh thần của người Mông trên núi

cao. Truyện Sự tích núi Hai Bà Cháu còn gắn với địa danh cụ thể (suối Hoa,

thôn Pính Pé, xã Cát Thịnh, huyện Văn Chấn). Những chi tiết trên chứng tỏ

rằng, khi sống trên vùng núi cao trong một địa bàn nhất định, người Mông đã

bảo tồn được văn hóa của dân tộc mình. Điều này đã được thể hiện trong văn

học cũng như các sáng tác truyền miệng của họ. Chính điều đó làm nên sự

khác biệt giữa truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông ở Yên Bái với truyện

cổ tích thần kỳ của các dân tộc khác trên địa bàn cùng cư trú. Vì người Mông

sống ở trên núi cao nên họ cho rằng mình gần với trời. Khi có bế tắc, các nhân

vật thường tìm cách lên trời, trực tiếp gặp Xếnh Lầu (thần trời) rồi được Xếnh

Lầu bày cho cách để giải quyết. Nhiều khi thần trời cũng xuống trần hoặc cho

23

hoàng tử, công chúa, tiên nữ… xuống hạ giới để giúp những người tốt bụng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhưng gặp phải hoàn cảnh éo le dưới trần gian thoát khỏi các bế tắc. Điều này

đã làm nên sự thống nhất mà đa dạng trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc

Mông lưu hành ở Yên Bái.

Thứ hai: Mỗi truyện chỉ có một bản kể.

24 truyện cổ tích được sưu tầm là 24 bản kể khác nhau. Nội dung của

truyện tập trung vào các đề tài: người mồ côi, người em, người con riêng,

người mang lốt, người dũng sĩ. Tuy nội dung của các truyện đều hướng tới

giải quyết mọi xung đột trong thực tại giữa người với người nhưng mỗi truyện

lại có một cách dẫn dắt khác nhau. Cuối mỗi câu chuyện bao giờ cũng là

chiến thắng của cái thiện đối với cái ác, cái tốt đẹp đối với sự xấu xa. Điều đó

cho thấy bao giờ nhân dân cũng dành thiện cảm đối với những người gặp

nhiều bất hạnh trong cuộc sống, đó là những người mồ côi, người em út,

người con riêng…. Sự nhìn nhận này bị chi phối bởi chính đặc trưng của văn

học dân gian mà truyện cổ tích thần kỳ là một tiểu loại.

Thứ ba: Bản kể biểu hiện sự kế thừa và chuyển hóa của thể loại.

Cũng như các thể loại và tiểu loại văn học dân gian khác, truyện cổ tích

thần kỳ của dân tộc Mông ở Yên Bái cũng có bản kể khó xác định được đúng

đặc trưng thể loại thể loại. Hiện tượng này đã xuất hiện ở các truyện Mặt đất

lồi lõm, Ông tiên trên núi Ngũ Sơn, Sự tích gà mái ấp trứng vịt. Những

truyện trên có dấu hiệu của truyền thuyết, nó tập trung vào việc lí giải các

hiện tượng xảy ra trong tự nhiên và xã hội như: Con người sinh ra từ đâu? Vì

sao mặt đất lại lồi lõm? Vì sao gà mái lại ấp trứng vịt? Vì sao các con vật có

màu lông khác nhau?... Song nếu xét theo đúng đặc trưng thể loại thì chúng

tôi xét chúng vào tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ. Vì trong cả ba truyện trên,

việc giải thích các hiện tượng tự nhiên và xã hội chỉ là phụ, sự việc chính thể

hiện ở chỗ nó tập trung vào giải quyết mọi xung đột trong thực tại giữa người

với người thông qua việc trợ giúp của các lực lượng thần kỳ, siêu nhiên...

24

Chúng tôi coi những tác phẩm trên là truyện cổ tích hóa từ thần thoại. Có thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nói đây là một đặc thù riêng trong truyện cổ tích của dân tộc Mông lưu hành ở

Yên Bái. Từ đây chúng ta thấy được mối quan hệ giữa các thể loại của văn

học dân gian.

1.4.2. Tính dị bản

Đặc điểm dị bản trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu

hành ở Yên Bái khá đặc biệt. Một số văn bản có nét tương đồng với truyện cổ

tích của người Kinh. Song trong mỗi bản kể ấy, tính dị bản diễn ra ở rất nhiều

phương diện như: tên tuổi, đặc điểm của nhân vật; không gian; lời của người

kể chuyện…

Truyện Hạt muối có nhiều điểm tương đồng với truyện Người nông

dân và con quỷ của người Kinh. Ngoài những điểm tương đồng, giữa hai

truyện còn có những chi tiết dị biệt. Trong truyện Hạt muối, tác giả người

Mông kể về sự thông minh, mưu trí của chàng trai Mông nghèo khổ khi lừa

được tên vua gian ác qua ba lần thách đấu trên mảnh đất của hắn. Vua muốn

lấy phần gốc, anh trồng lúa; vua lấy cả gốc lẫn ngọn, anh trồng ngô; vua

muốn lấy cả gốc cả ngọn cả giữa, anh trồng khoai sọ. Kết truyện, anh nông

dân bị tên vua bỉ ổi hạ lệnh chém đầu vì cả hắn và bọn nịnh thần đều nhất loạt

khẳng định rằng “đường còn ngon hơn muối”. Tên vua cuối cùng cũng bị

chết vì thiếu muối. Trong truyện Người nông dân và con quỷ, tác giả người

Kinh cũng kể về sự thông minh, mưu trí của người nông dân khi lừa được con

quỷ gian ác trên mảnh đất của hắn: Quỷ muốn ngọn thì anh trồng củ cải; quỷ

muốn gốc thì anh trồng lúa; quỷ muốn cả gốc lẫn ngọn thì anh trồng ngô. Kết

truyện, quỷ bị thua nên bỏ chạy vào rừng. Qua những chi tiết ở hai bản kể

trên, ta thấy được mật độ các chi tiết khác biệt là tương đối nhiều.

Truyện Chua Thênh và A Sở có nhiều điểm tương đồng với truyện

Cây khế của người Kinh. Song bên cạnh đó giữa hai truyện cũng có những

điểm dị biệt. Trong truyện Chua Thênh và A Sở, cả hai nhân vật chính đều có

25

tên riêng. Là anh nên Chua Thênh đã chiếm hết gia tài, hắn chỉ để lại cho A

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Sở vật thừa kế là con cáo nhỏ. Nhờ có tài múa khèn, cáo đã giúp A Sở trở nên

giàu có. Vì quá tham lam, độc ác, cuối cùng Chua Thênh cũng bị trừng trị

đích đáng. Trong truyện Cây khế, hai nhân vật chính đều không có tên riêng.

Người anh cũng chiếm hết gia tài còn người em chỉ được thừa kế tài sản là

một cây khế. Khi ăn khế, chim phượng hoàng đã trả ơn cho người em bằng

vàng, cuộc sống của chàng trở nên giàu có. Người anh tham lam nên bị chim

phượng hoàng hất xuống biển sâu.

Truyện Nàng Nao và Xênh cũng có môtíp gần với truyện Tấm Cám.

Chỉ có điều các chi tiết đã thay đổi đôi chút. Nếu như trong truyện Tấm Cám,

trước khi đi xem hội, “mẹ con Cám đã lấy một đấu thóc và một đấu gạo, trộn

lẫn với nhau, rồi bắt Tấm phải lựa riêng ra”. Bụt đã cho một đàn chim sẻ đến

nhặt đỡ Tấm. Tấm khóc vì không có quần áo mới mặc đi xem hội, Bụt đã bảo

Tấm đào lọ xương cá bống và cô đã thấy “quần áo, một đôi giày và một con

ngựa”. Trong lễ hội, Tấm đã gặp được nhà vua. Trải qua quá trình đấu tranh

lâu dài với mẹ con Cám, cuối cùng Tấm đã giành lại được ngôi vị hoàng hậu

còn mẹ con Cám bị tiêu diệt. Trong truyện Nàng Nao và Xênh, ngày xuân

đến, mẹ con Xênh cũng mặc váy áo mới đi chơi hội Gầu tào và bắt Nao “phải

đem bồ thóc nhặt hết cứt chuột rồi đem xay giã, sàng sảy sạch trấu”. Hồn ma

mẹ Nao đã giúp nàng làm gạo nấu cơm và rồi chỉ cho Nao đến chỗ máng bò

lấy bộ váy áo mới tinh. Trong lễ hội Gầu tào, Nao đã gặp Sì Na - con một vị

quan ở địa phương đã về nghỉ hưu. Họ đem lòng yêu nhau. Trải qua quá trình

đấu tranh lâu dài với mẹ con Xênh, đến lúc chết, cả gia đình Nao vẫn được

sống quây quần bên nhau: Sì Na hóa thành con ong mật, Nao hóa thành cây

chàm xanh mướt, đứa con trai hóa thành chim liếu điếu còn mẹ con Xênh

cũng bị tiêu diệt.

Bên cạnh đó còn có những truyện như Hoàng tử Rùa, Kề Tấu gần

giống với các truyện Hoàng tử Dê, Công chúa Ếch, Sọ Dừa của người Kinh.

26

Các nhân vật trong bốn câu chuyện trên đều có xuất thân rất cao quý. Họ có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thể là người trời, hoàng tử, công chúa ở trên thiên đình, vì mắc lỗi nên bị đày

xuống trần gian chịu tội. Bên cạnh đó, cũng có những nhân vật vì cảm thương

sâu sắc đối với gia đình nông dân nghèo, hiếm muộn nhưng tốt bụng nên đã

tình nguyện đầu thai vào làm con trong gia đình đó. Các nhân vật đều phải

vượt qua những khó khăn thử thách để trở thành người có hình dạng xinh đẹp

như lúc ban đầu. Hầu hết họ ở lại dưới trần gian, sống sung sướng và được

hưởng hạnh phúc lâu dài bên người vợ, người chồng thân yêu của mình.

Qua việc tìm hiểu đặc điểm của các bản kể và tính dị bản trong truyện

cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi thấy giữa

truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông với truyện cổ tích thần kỳ của dân

tộc Kinh có những nét tương đồng trong một số tình tiết. Tính dị bản được thể

hiện ở chính sự phong phú của các bản kể và chính sự phong phú của các bản

kể cũng tạo nên tính dị bản ở cấp độ cao hơn - cốt truyện. Từ đó có thể thấy

rằng các tác phẩm văn học dân gian đã được lưu truyền, khúc xạ, có sức sống

mạnh mẽ trong không gian và thời gian.

1.5. Phân nhóm truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành

ở Yên Bái

Bảng 1:

Nhóm truyện Tên truyện Tổng số (truyện)

- Chuyện Xí Xang.

- Hạt muối.

- Mặt đất lồi lõm.

13 - Nàng Nu. Truyện về người mồ côi

(54,17%) - Nhà Tếnh.

- Nù Phay học khèn.

- Sự tích núi Hai Bà Cháu.

27

- Sự tích gà mái ấp trứng vịt.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Sự tích khèn Mông.

- Rì Tủa.

- Tồng Của gọi được chim

Dư Vay.

- Trời chết.

- Mủa Gầu Chủ.

2 - A Xang. Truyện về người em

(8,33%) - Chua Thênh và A Sở.

2 - Nàng Nao và Xênh. Truyện về người con

(8,33%) - Sao Pàng. riêng

3 - Cô gái tóc xanh. Truyện về người mang

(12,50%) - Hoàng tử rùa. lốt

- Kề Tấu.

4 - Chuyện năm cha con.

(16,67%) - Chín người con trai. Truyện về người dũng

- Củ và Kỷ. sĩ

- Sự tích đuôi gấu.

* Tiểu kết chương 1:

Là một vùng đất có vị trí địa lý thuận lợi, nhờ có sự ưu đãi của thiên

nhiên nên từ lâu Yên Bái đã thu hút được đồng bào dân tộc các khắp nơi đến

sinh sống. Xuất phát từ lịch sử di cư và phong tục tập quán, dân tộc Mông đã

lựa chọn cho mình vùng đất phù hợp để an cư lạc nghiệp. Kể từ khi dừng

28

chân, khai hoang và thiết lập lãnh địa, dân tộc Mông đã mang theo bản sắc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

văn hóa của mình tới vùng đất Yên Bái, lưu giữ và truyền lại cho con cháu

muôn đời sau.

Truyện dân gian của các dân tộc nói chung và truyện cổ tích thần kỳ

của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái nói riêng khá phong phú và đặc sắc.

Việc sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu ngày càng được chú trọng với đội ngũ

nghệ nhân, nhà văn, nhà nghiên cứu… Trong kho tàng ấy, truyện cổ tích thần

kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở nơi đây chiếm một vị trí quan trọng bởi các

tác phẩm chính là sự ghi chép, phản ánh đời sống của đồng bào dân tộc Mông

một cách độc đáo của tác giả dân gian.

24 truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái được

chúng tôi sắp xếp và trình bày theo nội dung phản ánh. Mỗi nội dung đều có

29

những nét độc đáo, hấp dẫn riêng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

CHƯƠNG 2

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ NỘI DUNG TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH

THẦN KỲ CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI

2.1. Những phương diện cơ bản về mặt nội dung

2.1.1. Truyện về người mồ côi

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện cổ tích phát triển

phong phú và chiếm ưu thế hơn cả. Trong đó nhân vật trung tâm của những

câu chuyện cổ tích thần kỳ là những con người thấp hèn trong xã hội, những

con người bị tước đoạt quyền sống, không có khả năng tự bảo vệ mình, bị

ngược đãi một cách bất công, bị thiệt thòi hay mất mát những quyền lợi chính

đáng. Đó là những người mồ côi, người con riêng, người em út. Đặc biệt,

nhân vật mồ côi được xem là hình tượng nghệ thuật nổi bật, chiếm ưu thế

trong truyện cổ tích thần kỳ.

Truyện cổ tích của dân tộc Mông ở Yên Bái cũng thường xuất hiện các

nhân vật mồ côi, người con riêng của chồng. Trong số 24 truyện cổ tích thần

kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi thấy có tới 13 truyện có

nhân vật mồ côi (chiếm 54,17%). Nếu kể cả truyện nhân vật mồ côi là người

con riêng hay người em út thì số truyện lên tới 17 truyện (chiếm 70,83%).

Trong đó có 10 truyện kể về chàng trai mồ côi cả cha lẫn mẹ, 3 truyện kể về

hai anh em (hoặc chị em) mồ côi cha mẹ, 1 truyện kể về 6 anh em mồ côi

cha mẹ, 3 truyện kể về người con riêng. Có thể nói truyện người mồ côi là

dạng truyện phổ biến nhất của truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu

hành ở Yên Bái. Nhân vật mồ côi là nhân vật thường gặp nhất khiến cho nó

có thể kết hợp với nhiều kiểu nhân vật khác như nhân vật “người em”, “người

đội lốt”.

Cốt truyện của kiểu truyện người mồ côi thường theo một mô hình

30

thống nhất như sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nhân vật sinh ra đã bị mồ côi hoặc vì một lý do nào đó mà cha/mẹ qua đời;

Người mồ côi chịu nhiều đau khổ, thiệt thòi nhưng lại rất hiền lành, chăm chỉ;

Người mồ côi bị áp bức, bóc lột bất công;

Người mồ côi nhận được sự giúp đỡ của lực lượng siêu nhiên, vượt qua thử thách

Người mồ côi cưới được vợ/chồng đẹp, cuộc sống trở nên giàu có;

Kẻ xấu bị trừng trị đích đáng.

Nhìn chung, nhân vật mồ côi thường là hình ảnh về con người có số

phận hẩm hiu, bất hạnh, sinh ra trong đói nghèo, sống cô đơn trơ trọi một

mình nơi núi rừng hoang vu. Tài sản của người mồ côi thường được miêu tả

với số lượng duy nhất, có khi chẳng có thứ gì. Họ thường sống ở trong những

căn lều tồi tàn, rách nát ở cuối bản hay trong tận vùng núi sâu và thường phải

phát nương, làm rẫy, cày ruộng, đánh bắt… để sinh sống.

Nhân vật mồ côi trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu

hành ở Yên Bái là hình ảnh của những con người chịu nhiều đau khổ, thiệt

thòi trong cộng đồng xã hội. Họ mang vẻ đẹp chung của những con người lao

động hiền lành, chăm chỉ và giàu lòng yêu thương. Khi cha mẹ mất, sáu anh

em trai trong truyện Sự tích khèn Mông đã thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn

nhau. Ban ngày họ chăm chỉ cùng nhau làm nương rẫy để có được miếng cơm

ăn, tối về sáu anh em lại quây quần bên tiếng khèn trầm bổng thắm thiết nghĩa

tình. Còn Xí Xang trong truyện Xí Xang cũng là một chàng mồ côi cha mẹ.

Xí Xang ở với ông chú, “hằng ngày chàng phải đi phát rừng làm nương rẫy”

31

rất vất vả để nuôi sống bản thân mình. Chàng mồ côi trong truyện Nàng Nu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cũng vậy. Ngay từ nhỏ, mồ côi đã không biết cha mẹ mình là ai. Khi còn là nô

lệ của nhà vua, chàng phải làm biết bao nhiêu công việc, từ chặt cây đốn gỗ

đến phát nương làm rẫy, thế nhưng mồ côi lại luôn bị nhà vua cho ăn cơm

hẩm, mặc áo rách, thường xuyên bị quân lính đánh đập. Chàng Tồng Của

trong truyện Tồng Của gọi được chim Dư Vay cũng mồ côi cha mẹ từ “lúc

mới lọt lòng, phải bú sữa vượn mà sống, Lớn lên chàng phải tự làm nương ở

vùng biển hồ”. Cha mẹ của Rì Tủa trong câu chuyện Rì Tủa cũng chết sớm,

chàng phải ở với người chú ruột, ngày ngày đi chăn trâu và mò cá. Như vậy,

cùng là thân phận mồ côi song mỗi một nhân vật lại có một hoàn cảnh xuất

thân khác nhau. Tuy nhiên, họ giống nhau ở chỗ ai cũng có ý chí, nghị lực và

tinh thần mạnh mẽ để vượt qua số phận dù luôn bị áp bức bóc lột bất công.

Nhân vật mồ côi cũng thường phản ứng mạnh mẽ với những bất công

của gia đình và xã hội để đòi quyền lợi chính đáng cho bản thân mình. Trước

sự áp bức bóc lột của tên vua độc ác, chàng mồ côi trong câu chuyện Hạt

muối đã phản ứng lại bằng việc quyết tâm không đi ở nữa mà chuyển sang

làm thuê cho nhà vua, làm được bao nhiêu thì hưởng công bấy nhiêu. Chàng

Rì Tủa trong truyện Rì Tủa cũng phản ứng lại lệnh của nhà vua khi vua cho

lệnh triệu tập chàng vào cung: “Lính báo hai, ba lần mà Rì Tủa làm lơ như

không biết gì. Sau vua phải cho binh gia mang võng đến khiêng chàng mới

đi”. Khi Rì Tủa về, vua cũng phải nhượng bộ bằng cách cho quân lính khiêng

chàng và đưa tiễn mẹ con công chúa út về nhà.

Không chỉ thông minh, cần cù, khéo léo và có lòng nhân hậu, nhân vật

mồ côi trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái còn

có lòng kiên trì khi vượt qua nhiều gian nan thử thách để đến được cái đích

của mình. Có thể nói môtíp thử thách các nhân vật mồ côi có vị trí đặc biệt và

chiếm một số lượng lớn trong truyện cổ tích. Hầu hết các nhân vật mồ côi đều

32

phải trải qua thử thách để từ đó bộc lộ được tính cách của mình. Người con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trai của nàng Nu trong truyện Nàng Nu cũng phải trải qua rất nhiều thử thách

trước người ông ngoại rất đáng sợ, nhiều mưu, tinh quái, hay tìm cách hãm

hại để ăn thịt cháu. Cả ba lần chơi trốn tìm, dù ông ngoại hóa thân vào các vật

khác như con ngựa đực, quả đào, ngọn măng mà người cháu vẫn tìm ra.

Người ông còn hóa thành con suối to, nước chảy dữ như thác đổ, rồi thành

mây mù dày đặc làm trời tối đen như mực, một quả núi đá dựng lên chắn

ngang đường hay lửa cháy cao ngất trời cũng không ngăn cản được bước

chân đi tìm cha của đứa cháu. Để gặp lại nàng Út và được xum vầy một nhà

cùng đứa con trai kháu khỉnh, chàng Xí Xang trong truyện Xí Xang đã phải “cõng

chín thùng nước đặt lên chín đỉnh núi”, công việc nặng nhọc đó đã làm cho thân

chàng “gầy yếu như que củi khô”, thế nhưng để đến được với bến bờ hạnh phúc

Xí Xang đã kiên trì và quyết tâm vượt qua tất cả những gian phía trước.

Để giành được hạnh phúc cho mình, người mồ côi trong truyện cổ tích

thần kỳ của dân tộc Mông luôn luôn phải trải qua những khó khăn thử thách.

Đó là các thế lực ở bên ngoài xen vào phá hoại hoặc muốn tước đoạt tình yêu

và hạnh phúc của họ. Trải qua bao gian nan thử thách, nhân vật mồ côi đã bộc

lộ được sự dũng cảm, lòng chung thủy sắt son của mình đối với người chồng,

người vợ thân yêu. Chàng Tồng Của trong truyện Tồng Của gọi được chim

Dư Vay cũng đã phải trải qua năm lần thách đấu với tên vua độc ác nếu không

sẽ bị hắn cướp mất người vợ xinh đẹp. Lần thứ nhất, con nghé đực của Tồng

Của đã húc cho con trâu cà to lớn của nhà vua lòi mắt, vỡ sọ, lăn ra chết,

khiến cho nhà vua tái mặt, chịu thua. Lần thứ hai, con ngựa của nhà vua đã bị

con ngựa còi cọc của Tồng Của đá bay mất cái hàm dưới trong vòng chưa đầy

một hiệp thi đấu, khiến con ngựa của nhà vua lăn ra chết, còn hắn thì giật

mình sợ hãi. Lần thứ ba, con gà chọi của Tồng Của cũng đá bục diều, thủng

ức con gà của nhà vua, làm cho nhà vua tức sôi tim. Lần thứ tư, Tồng Của bắn

33

cả ba lần đều trúng bia trong khi nhà vua không bắn trúng bia lần nào, làm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cho hắn xấu hổ, cạn lý. Phải đến lần thứ năm, khi Tồng Của gọi được chim

Dư Vay thì tên vua độc ác mới bị tiêu diệt. Trước sự háo sắc, tham lam, độc

ác của nhà vua, nàng Nu trong truyện Nàng Nu đã phải dùng đến phép thuật

giết chết hắn để bảo vệ hạnh phúc cho gia đình mình.

Bên cạnh đó, để thắng được các thế lực tàn ác, đen tối, nhân vật mồ côi

trong các câu chuyện cổ tích thần kỳ luôn nhận được sự giúp đỡ của các

phương tiện thần kỳ như cứu vật thì được trả ơn hay nhận được sự gúp đỡ của

các vị thần. Đây là một môtíp khá phổ biến trong các truyện cổ tích thần kỳ

nói chung và trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông ở Yên Bái nói

riêng. Các nhân vật mồ côi luôn giúp đỡ các con vật bị hại, bị nạn hoặc tha

mạng cho chúng. Sau đó họ được các con vật giúp vượt qua khó khăn thử

thách hoặc được trả ơn bằng cách tìm vợ hay giúp nhân vật trở nên giàu có.

Điều khác biệt trong các truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông là các con

vật ở đây thường gắn liền với không gian núi rừng như vượn, cáo, bướm,

kiến… và các vị thần thường là thần núi, Xếnh Lầu (thần Trời), Long Vương.

Chàng Nhà Tếnh trong truyện Nhà Tếnh khi nhìn thấy “xác con bướm chết

treo trên cây vọng cách, buộc bằng một sợi chỉ đỏ và một sợi chỉ xanh” đã

“bắt một con cóc giết làm ma… lấy đất sét nặn thành cái trống, chặt trúc làm

cái kèn” rồi “than khóc và mang bướm đi chôn ở đồi cỏ Pào”. Con bướm ấy

lại chính là con gái của Xếnh Lầu. Cảm động trước hành động tốt của Nhà

Tếnh, Xếnh Lầu đã tặng chàng chiếc hộp Khư Lứ - hộp thần có thể dùng để

chữa bệnh - và sau này còn gả con gái út của mình cho Nhà Tếnh. Chàng Dúa

Phử trong truyện Sự tích gà mái ấp trứng vịt đã cho Đầu Lâu ăn cá rồi còn

đón nó về nhà cùng sinh sống. Cảm động trước lòng tốt của Dúa Phử, Đầu

Lâu đã bày cho chàng cách chặt tre làm sàn nhà để thoát ra khỏi vụ lụt lội.

Thấy tổ kiến bị nạn, Dúa Phử đã đã vớt để lên bè, vì thế khi nước ngập lên

đến trời, đàn kiến đã giúp chàng vào kho của Ngọc Hoàng tha đầy gạo về sàn,

34

giúp cả gia đình sống sót qua trận lụt.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Có thể nói rằng các yếu tố thần kỳ không phải là yếu tố quyết định

trong các truyện cổ tích thần kỳ nhưng nó là yếu tố quan trọng để giúp cho

các nhân vật mồ côi vượt qua được những khó khăn, thử thách một cách dễ

dàng hơn, từ đó giúp các nhân vật trong truyện giành được hạnh phúc. Đồng

thời, yếu tố thần kỳ cũng thể hiện được ước mơ, khát vọng, quan niệm đạo

đức “ở hiền gặp lành” của người lao động.

Đối lập với các nhân vật mồ côi trong truyện cổ tích thần kỳ bao giờ

cũng là hệ thống các nhân vật phản diện. Các nhân vật này bao giờ cũng được

xây dựng theo một đặc điểm, một môtíp chung. Đó là những con người xấu

xa, gian xảo, tàn ác, luôn tìm cách bóc lột, lừa gạt, hãm hại hay cướp đoạt

những thứ mà nhân vật mồ côi có được. Đó là những nhân vật đại diện cho

quyền lực trong gia đình như dì ghẻ, anh trai, chị dâu; những nhân vật đại

diện cho giai cấp thống trị trong xã hội như vua, quan. Kết thúc truyện, bao

giờ các nhân vật phản diện cũng đều phải trả giá bằng cái chết. Tên vua Nà

Trư độc ác và háo sắc trong truyện Tồng Của gọi được chim Dư Vay đã dùng

đủ mọi thủ đoạn bỉ ổi để cướp nàng Pàng Li - vợ chàng Tồng Của. Tội ác của

hắn thấu lên đến tận cả trời xanh. Cuối cùng vua Nà Trư đã bị chim Dư Vay

phóng ra một tia sáng xanh giết chết. Tên vua trong truyện Nàng Nu mới chỉ

nghe nói chàng mồ côi có được người vợ vô cùng xinh đẹp, “máu dê máu

ngựa đã bốc lên óc”, hắn liền truyền lệnh cho quân lính dẫn đường đến ngay

nhà chàng mồ côi. Khi mới nhìn thấy một bàn chân của nàng Nu, vua đã ngây

ngất mê mệt và “gạ chàng mồ côi đổi nhà đổi vợ lấy dinh cơ và bẩy người vợ

của vua”. Sự độc ác và háo sắc của hắn đã bị nàng Nu ra tay trừng trị. Trong

truyện Hạt muối, tên vua độc ác cũng bóc lột kiệt quệ sức lao động của chàng

trai mồ côi: “Trời chưa sáng đã phải cắt xong cỏ ngựa rồi trở về phát nương

mãi đến sẩm tối. Cơm tối xong chàng lại phải xay ngô, nấu rượu, làm hết mọi

35

việc trong nhà rồi mới được đi ngủ”. Hắn cảm thấy cay cú khi lần nào thách

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đấu cũng bị thua chàng trai. Vua và bọn quan nịnh thần đã dùng đến thủ đoạn

hèn hạ và bỉ ổi nhất để giết chàng mồ côi: Tất cả bọn chúng đều nhất loạt

khẳng định rằng “Đường còn ngon hơn cả muối”. Vua hả hê khi chém đầu

được chàng mồ côi nhưng kết cục, hắn cũng bị chết ở trên thuyền vì hơn một

tháng không có muối ăn.

Tuy bị nhân vật phản diện hành hạ, bóc lột nhưng bao giờ các nhân vật

mồ côi, những con người đại diện cho tầng lớp nhân dân lao động, đại diện

cho cái thiện, cái đẹp cũng luôn gặp may mắn, nhận được sự giúp đỡ của thần

tiên, kết thúc luôn gặp điều tốt đẹp và có cuộc sống sung túc, hạnh phúc.

Chàng mồ côi trong truyện Nàng Nu cuối cùng đã được hưởng hạnh phúc bên

người vợ đẹp và đứa con trai yêu quý sau bao nhiêu năm xa cách. Cả gia đình

chàng lúc nào cũng “vui như ngày hội Gầu tào”. Chàng Nhà Tếnh trong

truyện Nhà Tếnh được Xếnh Lầu đón về trời và gả cho chàng người con gái

út. Cuối truyện, chàng Xí Xang trong truyện Xí Xang đã được gặp lại người

vợ hiền xinh đẹp sau bao năm xa cách. Hai vợ chồng “sum họp một nhà, sinh

được đứa con trai kháu khỉnh, lại giàu có như xưa”. Nhờ vào tài đức của

mình, cuối cùng chàng Tồng Của trong truyện Tồng Của gọi được chim dư

vay còn được mọi người suy tôn lên làm vua trị vì thiên hạ còn người vợ đẹp

của chàng thì lên ngôi hoàng hậu.

Có thể nói việc xây dựng môtíp hai tuyến nhân vật đối lập nhau như

vậy trong các câu chuyện cổ tích thần kỳ phản ánh mâu thuẫn giữa hai lực

lượng đối lập trong xã hội Mông thời kỳ bấy giờ; đồng thời cũng nói lên khát

vọng của nhân dân lao động mong muốn có được một cuộc sống ấm no, tự do,

bình yên, hạnh phúc.

Vậy vì sao nhân vật người mồ côi trong truyện cổ tích thần kỳ của dân

tộc Mông lưu hành ở Yên Bái lại nhiều như vậy? Qua quá trình khảo cứu,

36

chúng tôi thấy: xã hội bộ lạc nguyên thủy chuyển sang gia đình nhỏ lẻ, chế độ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hôn nhân một vợ một chồng đã khiến cho nhiều thành viên của cộng đồng

không thể tìm được gia đình cho mình. Những đứa trẻ trước đây chỉ biết đến

người mẹ sinh ra chúng, đến giờ bị bỏ rơi khi xã hội sắp xếp lại các gia đình,

khiến chúng biến thành những đứa con mồ côi. Qua các nguồn tư liệu đã sưu

tầm được, chúng tôi khẳng định rằng văn hóa của dân tộc Mông là văn hóa di

cư. Trong quá trình thiên di từ Quý Châu (Trung Quốc) đến Lào Cai, Bắc Hà,

Phố Lu, SaPa, Than Uyên, Văn Bàn, Mù Cang Chải, Trạm Tấu… do không

gian và thời gian cách trở đã làm cho nhiều đứa trẻ bị thất lạc. Như vậy, cả

một lớp người được gọi là mồ côi - hệ quả tất yếu của sự biến chuyển xã hội -

và những con người bị bỏ rơi, không nơi nương tựa đó được truyện cổ tích

Mông xem như những nạn nhân đau khổ, bất hạnh cần được quan tâm chia sẻ.

Theo chúng tôi, kiểu truyện người mồ côi còn phản ánh những mâu

thuẫn trong phạm vi gia đình, chủ yếu là về vấn đề thừa kế, tư hữu. Vấn đề

đạo đức chỉ là biểu hiện, kết quả của những hành động đó. Từ vấn đề gia

đình, truyện cổ tích đã phản ánh các vấn đề thuộc phạm vi xã hội. Tuy nhiên,

do trình độ nhận thức còn hạn chế nên tác giả dân gian chưa thể lí giải được

những vấn đề của xã hội mà chỉ giải quyết chúng trong phạm vi từng gia đình

và trong từng trường hợp cụ thể.

Qua các nhân vật mồ côi, ta thấy được quan niệm của đồng bào Mông

bắt nguồn từ tín ngưỡng dân gian. Họ cho rằng sống thiện sẽ gặp lành, được

thay đổi kiếp, sống ác sẽ gặp điều dữ hoặc thành con vật sống vất vưởng trong

rừng, có khi bị trời trừng trị…. rất giống với quan niệm của người Kinh và

đạo Phật “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”. Đó cũng là ước mơ về công lý,

công bằng xã hội. Điều đáng chú ý là ở chỗ: tác giả dân gian Mông đã hiểu

sâu sắc ước mơ, nguyện vọng chính đáng của nhân dân lao động nên các

truyện cổ tích về người mồ côi đã làm rõ vấn đề cái thiện thắng cái ác, cái tốt

37

đẹp chiến thắng cái xấu xa. Cái thiện phải được nâng niu, truyền tụng, được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đề cao. Người thiện phải được tin dùng, được hưởng ấm no, hạnh phúc. Cái

ác phải bị trừng trị thích đáng. Đó chính là thái độ rõ ràng, dứt khoát, là lập

trường chính đạo của nhân dân lao động.

2.1.2. Truyện về người em

Truyện cổ tích thần kỳ thường kể lại những sự việc xảy ra trong đời

sống gia đình và xã hội của con người. Đó có thể là những mâu thuẫn giữa

các thành viên trong gia đình phụ quyền, vấn đề tình yêu hôn nhân, những

quan hệ xã hội. Nói cách khác, nội dung chính của truyện cổ tích thần kỳ là

đời sống xã hội và số phận con người. Truyện về đề tài người em thể hiện rất

rõ điều đó.

Có thể nói vấn đề chủ yếu mà các truyện về đề tài người em đề cập đến

thông qua xung đột giữa các anh chị em có quyền thừa kế. Vấn đề này có liên

quan đến thời điểm ra đời của truyện cổ tích. Khi chế độ thị tộc tan rã, gia

đình phụ hệ thay thế dần cho gia đình mẫu hệ. Xã hội hình thành theo mô

hình mới, gia đình nhỏ, cá thể. Hệ quả là những người thừa trong xã hội xuất

hiện ngày càng nhiều, trở thành nạn nhân của xã hội. Ngoài những người mồ

côi, người đi ở trong xã hội, trong mỗi gia đình cũng nảy sinh nhiều mâu

thuẫn. Quyền lực trong gia đình lúc này thuộc về người cha, quyền thừa kế

trong gia đình lúc này thuộc về người anh cả (trước kia trong gia đình thị tộc,

người con nhỏ về sau được ở cùng với mẹ và được thừa hưởng tài sản của

mẹ). Sự thay đổi đột ngột về quyền lực và quyền thừa kế đã khiến các thành

viên trong gia đình bỡ ngỡ, lúng túng và va chạm với nhau. Những vấn đề của

đời sống như thế đã đặt ra trong truyện cổ tích nhiệm vụ mới, đòi hỏi phải

phản ánh kịp thời và giải quyết các mâu thuẫn đó.

Cốt truyện của kiểu truyện người em thường rất đơn giản và thường

mang tính chất lặp lại, theo thuật ngữ gọi là dạng “kết cấu đồng quy”. Có

nghĩa là truyện xây dựng hai nhân vật thành hai tuyến song song, đối lập với

38

nhau. Cốt truyện thường theo một mô hình thống nhất với nhau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hai anh em trở nên mồ côi;

Người anh cả chiếm hết gia tài, người em chỉ được chia phần rất nhỏ;

Người em lao động chăm chỉ, tốt bụng nên đủ sống;

Người em giúp đỡ những người xung quanh;

Người em được trả ơn, trở nên giàu có, có địa vị;

Người anh thấy vậy đề nghị đổi vị trí cho người em;

Người anh bắt chước người em nhưng do xấu bụng nên phải trả giá.

Trong các truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái

có 2 truyện về đề tài người em (chiếm 8,33%). Nhân vật người em trong các

truyện cổ tích thần kỳ đều là những người mồ côi. Họ sống với anh trai hoặc

người chị dâu trong gia đình phụ quyền. Người em thường bị đối xử hết sức

tàn tệ, bất công. Họ phải làm nhiều công việc nặng nhọc nhưng lại được

hưởng thụ lượng của cải rất ít ỏi. Mặc dù vậy, người em trong các truyện cổ

tích thần kỳ rất ít khi than thân trách phận. Họ luôn coi công việc phải làm là

bổn phận và nghĩa vụ của mình. Chàng A Sở trong truyện Chua Thênh và A

Sở mồ côi cha mẹ từ sớm. Người anh trai là Chua Thênh đã chiếm hết nhà

cửa, trâu ngựa, lợn gà và ruộng nương. Còn nhỏ tuổi nhưng A Sở bị anh trai

coi như người đi ở, chàng phải ngủ một mình ở lều nương rét mướt để canh

thú rừng phá hoại trong những mùa lúa ngô chín. Chua Thênh còn thường

xuyên đánh A Sở sưng hết mình mẩy và cho chàng ăn đói mặc rách. Mặc dù

39

vậy A Sở vẫn chăm chỉ làm lụng mà không hề oán trách người anh trai. Nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vật A Xang trong truyện A Xang cũng là một chàng trai mồ côi. Vì anh trai đi

làm ăn xa nên A Xang phải ở với người chị dâu lười biếng. Chàng phải lo

toàn bộ mọi việc trong gia đình, từ việc nương đến việc vườn, từ cái ăn đến

cái uống. Trời nắng nóng như thiêu, cả khăn lẫn áo ướt đầm đìa mồ hôi

nhưng A Xang vẫn mải miết cày từ đầu nương đến cuối nương. Tuy ngô lúa

theo vai A Xang về chất đầy sàn nhưng người chị dâu chỉ cho chàng ăn bột

chề đắng - thứ lúa mạch vỏ hạt cứng. Những lúc buồn khổ nhất, A Xang cũng

chỉ biết ngửa mặt lên trời than vãn mấy câu chứ không hề dùng lời lẽ và hành

động của mình để phản kháng lại người chị dâu tham lam, ích kỉ.

Do chăm chỉ lao động và sống tốt bụng nên nhân vật người em thường

xuyên nhận được sự giúp đỡ của những người xung quanh, họ được trả ơn và

trở nên giàu có. Điều đặc biệt, những nhân vật đứng ra giúp đỡ người mồ côi

thường là những lực lượng siêu nhiên như Xếnh Lầu, Tiên nữ, Long Vương,

thần núi, động vật có tài năng… Khi bắt được con cáo ăn trộm cá, chàng A Sở

trong truyện Chua Thênh và A Sở không những không giết cáo sấy khô mang

về cho anh trai làm thức ăn mà còn lấy cơm nguội và cá nướng cho cáo ăn no

nê. Trời rét, A Sở còn khoác áo ấm cho cáo và ôm nó lội qua suối. Cảm tấm

lòng tốt của chàng, cáo đã nói: “... Anh không có cha mẹ, em cũng thế. Em

biết hát, biết múa khèn. Em sẽ theo anh đi múa hát lấy tiền thì đời sống sẽ

sung sướng”. Hành động của cáo sau đó đã giúp cho A Sở có“cửa nhà sang

trọng, của cải đầy ắp”. Ngay cả khi đã chết đi rồi cáo vẫn giúp đỡ A Sở làm

cho chàng ngày càng trở nên giàu có. Xương đầu cáo làm cái gáo múc cám

lợn khiến cho đàn lợn nhà A Sở lớn nhanh như thổi; lược làm từ xương đầu

cáo giúp cho tóc A Sở dài nhanh, óng mượt như tơ, ngày nào chàng cũng có

tóc bán; lưỡi câu làm từ xương đầu cáo giúp cho A Sở câu được nhiều cá, bán

được nhiều tiền. Lòng tốt của A Sở không chỉ được thể hiện bằng việc nâng

niu, trân trọng cáo cùng những kỉ vật được làm từ xương cáo mà còn thể hiện

40

ở tình thương dành cho người anh trai của mình. Dù biết Chua Thênh xấu tính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

xấu nết nhưng bất kì lúc nào hắn cần giúp đỡ A Sở cũng giúp đỡ rất nhiệt

tình: từ việc cho mượn cáo, mượn gáo múc cám lợn đến việc cho mượn lược,

mượn lưỡi câu. Lòng tốt của A Sở còn được thể hiện qua việc chữa bệnh sưng

cổ họng cho Long Vương, vì thế chàng đã được ngài tặng cho chiếc ô hoa

thần. Khi yêu tinh bắt mất người vợ đẹp của chàng, thần núi đã bày cách và

đưa A Sở đi tìm vợ. Anh còn được chim đại bàng đưa đưa đường chỉ lối tới

tận hang của đại bàng để chàng vào cứu vợ. A Sở còn dùng thỏi đá ngọc chữa

bệnh cho mọi người trong vùng mà không lấy tiền vì thế ai cũng quý mến.

Trong truyện A Xang ta thấy cuộc đời của người em chồng chịu bao cay

đắng, tủi cực. Quá khổ, A Xang chỉ biết than thân trách phận một mình, lời

của chàng đã thấu đến tận trời cao. Xếnh Lầu đã cho con gái xuống trần bầu

bạn và giúp đỡ A Xang có cuộc sống hạnh phúc và giàu có.

Tuy nhiên, để có được vợ đẹp, có nhiều vàng bạc và cuộc sống hạnh

phúc, nhân vật mồ côi cũng phải trải qua bao nhiêu khó khăn, thử thách.

Chàng A Xang trong truyện A Xang phải tự tay mình đánh một thanh kiếm

dài, rũa mài thật sắc, kiếm sáng bóng như gương soi, khi chàng vung kiếm

phạt ngang thì bốn chân con bò đứt phăng, bò ngã lăn ra đám cỏ. A Xang

phải trải qua thử thách khi chiến đấu với hổ ác, chàng đã dùng kiếm thần

chém đứt phăng cổ nó mới đến được với nàng Tồng. Theo lời thần núi, suốt

một năm ròng chàng A Sở trong truyện A Sở phải kiếm đủ da cáo may quần

áo mới đủ điều kiện đi tìm vợ; chàng phải vượt qua các vách đá dựng đứng,

chiến thắng yêu tinh trong cuộc thi múa khèn mới cứu được người vợ yêu quý

của mình.

Đối lập với tuyến nhân vật chính diện bao giờ cũng là tuyến nhân vật

phản diện. Hai tuyến nhân vật này luôn được tác giả dân gian đặt song song

với nhau để làm nổi bật đặc điểm tính cách của các nhân vật. Nếu như nhân

vật chính diện là những người em lương thiện, chăm chỉ, thật thà, nhân hậu,

41

tốt bụng thì nhân vật phản diện thường lười biếng, ích kỉ, tham lam, tàn nhẫn,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

độc ác. Đó là những người anh trai, người chị dâu cậy quyền cậy thế để bóc

lột sức lao động của người em út dưới quyền mình. Họ chính là hiện thân của

cái xấu, cái ác. Dù làm ra tất cả của cải trong gia đình nhưng chàng A Xang

trong truyện A Xang chỉ cần một con bò đực và một cuộn lanh để thử kiếm -

vũ khí mà nàng Tồng yêu cầu - nhưng người chị dâu bủn xỉn đã đưa ra nhiều

lí lẽ để từ chối vì chị ta không muốn mất bất cứ một thứ gì. Phải đến khi Rì

Gàng - bạn của A Xang - đưa ra cái lý của người Mông thì người chị dâu mới

chịu bằng lòng. Nhân vật Chua Thênh trong truyện Chua Thênh và A Sở là

hiện thân của sự tham lam. Khi Chua Thênh nghe thiên hạ đồn rằng cuộc sống

của A Sở giờ đây đã “trở thành khá giả… nhà cửa sang trọng, của cải đầy

ắp” hắn ta đã giả vờ hối hận rồi mượn con cáo của em để kiếm tiền. Ngoài sự

tham lam ra, Chua Thênh còn lộ rõ bản tính keo kiệt, tàn nhẫn và độc ác. Hắn

“không cho cáo ăn uống no đủ, khi đi lại buộc dây vào cổ kéo qua suối, qua

đường rậm”. Không được cáo giúp, Chua Thênh đã lấy gậy đánh chết cáo rồi

vứt xác xuống ruộng. Khi không đạt được mục đích của mình thì tội ác của

Chua Thênh càng ngày càng tăng lên. Hắn thực hiện một loạt các hành động

sau đó: vứt cái gáo đầu lâu cáo vào bếp lửa -> bẻ gẫy lược xương đầu cáo vứt

vào bếp lửa.

Kết thúc truyện, bao giờ những nhân vật phản diện - cái xấu, cái ác -

cũng bị trừng trị một cách thỏa đáng. Vì sợ bị trị tội, người chị dâu của A

Xang trong truyện A Xang đã bỏ trốn vào trong rừng sâu, biến thành con

vượn và bị bắn chết. Bọn giặc ở nước láng giềng sang quấy nhiễu cướp đất

cũng bị lưỡi kiếm thần của A Xang và Rì Gàng dẹp yên. Sau bao nhiêu tội ác

đã gây ra, người anh trai của A Sở trong truyện Chua Thênh và A Sở đã “sợ

xanh mắt bỏ chạy về nhà, phát sốt, lên giường nằm rên hừ hừ” và không bao

giờ trở dậy nữa. Con yêu tinh độc ác cuối cùng cũng bị hổ cắn chết. Với

những tình tiết trên, ta thấy truyện Chua Thênh và A Sở đã tuân thủ chặt chẽ

42

mô hình “kết cấu đồng quy”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ngoài mô hình “kết cấu đồng quy”, cũng có nhiều truyện mà cuộc đấu

tranh giữa người em với người anh/chị diễn ra quyết liệt với nhiều tình tiết

hơn, nhiều môtíp hơn. Các tình tiết trong cốt truyện được nhắc đi nhắc lại bao

nhiêu lần tùy thuộc vào số nhân vật anh/chị em trong gia đình. Sự nhắc lại các

tình tiết, môtíp trong truyện thường là người anh/chị lặp lại như lần đầu tiên

nhưng thất bại (thuộc môtíp “Sự bắt chước thất bại”) và với mỗi một sự lặp

lại tác giả dân gian có thể nhắc lại y nguyên hoặc lược bớt/thêm vào một vài

câu chữ, điều đó tạo nên nhịp điệu của truyện kể. Nếu cần thiết tạo ra sự hồi

hộp, tác giả có thể kéo dài câu chuyện bằng các lời kể, sự miêu tả hoặc cũng

có khi lược bớt để nhanh đi đến kết thúc cho câu chuyện. Đó là mô hình kết

cấu trong truyện cổ tích thần kỳ về mảng đề tài người em.

Trong các truyện về đề tài người em, nhân dân ta thường lí tưởng hóa

nhân vật người em: hiền lành, tốt bụng, chăm chỉ và có phần cam chịu. Đối

lập hẳn với người em là người anh/chị tham lam, độc ác và nhiều thủ đoạn.

Người em đã chiến thắng trong cuộc đấu tranh với người anh bằng tài năng và

đức hạnh của mình (đạo đức phù hợp với quan niệm dân gian nên được ủng

hộ). Nó thể hiện lòng khát khao công lý, hạnh phúc cho những con người nhỏ

bé, bất hạnh, tốt bụng vốn chịu nhiều thiệt thòi trong đời sống thực. Nhưng để

thực hiện được ước mơ đẹp đẽ đó, chỉ có thể nhờ sự “ra tay” hỗ trợ của các

yếu tố thần kỳ.

2.1.3. Truyện về người con riêng

Truyện cổ tích thường phản ánh và lý giải những xung đột, mâu thuẫn

trong gia đình. Những mâu thuẫn này mang tính chất riêng tư nhưng lại phổ

biến trong toàn xã hội có giai cấp: xung đột giữa anh em trai, xung đột giữa

chị em gái, xung đột giữa chị em cùng cha khác mẹ, xung đột giữa con ruột và

con nuôi, xung đột giữa dì ghẻ và con chồng. Dù gắn với đề tài gia đình hay

đề tài xã hội, ý nghĩa xã hội của truyện cổ tích cũng rất sâu sắc. Nó phản ánh

43

được những xung đột, mâu thuẫn giữa cái thiện và cái ác, xung đột giữa các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tầng lớp trong một xã hội phân chia giai cấp. Mâu thuẫn giai cấp trong xã hội

phụ quyền thể hiện qua xung đột giữa nhân vật bề trên và bề dưới. Truyện cổ

tích có khuynh hướng ca ngợi, bênh vực nhân vật bề dưới và lên án nhân vật

bề trên (trong thực tế, không phải người con, người em nào cũng tốt, người

mẹ ghẻ, người anh trưởng nào cũng xấu) nghĩa là truyện cổ tích chống lại cái

bất công, vô lý của xã hội phụ quyền nói chung chứ không đi vào từng số

phận riêng lẻ, thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của nhân dân ta.

Những câu chuyện kể về người con riêng thường được tác giả dân gian

xây dựng với nhiều tình tiết khá xúc động. Người con riêng thường chịu nhiều

thiệt thòi. Họ bị thiếu thốn về vật chất và tình cảm. Tiêu biểu cho mảng truyện

về người con riêng là các truyện Nàng Nao và Xênh, Sao Pàng (2/24 truyện,

chiếm 8,33%). Cô bé Nao trong truyện Nàng Nao và Xênh xuất thân trong

“gia đình rất nghèo, đói rách qua năm này đến năm khác”. Ngay từ khi còn

rất nhỏ, Nao đã bị bố mẹ bỏ ở nhà một mình để lên sườn núi đào khoai mang

về ăn. Do một lần đi nương hái rau ăn, mẹ của Nao cởi váy phủ kín lên hòn đá

to bằng con bò mà bà bị biến thành con bò. Nao trở nên mồ côi mẹ từ đó,

nàng chỉ biết khóc gọi mẹ hết cả hơi. Bố Nao đi lính biên ải và lấy thêm người

vợ mới, sinh được thêm người con gái tên là Xênh. Cô gái Sao Pàng trong

truyện Sao Pàng thì bị mồ côi mẹ năm lên 6 tuổi. Sau đó bố cô lấy luôn người

vợ kế, sinh được hai đứa con, một gái và một trai. Cả Nao và Sao Pàng đều là

những cô gái hiền lành, chịu thương chịu khó. Nếu như nàng Nao ngày nào

cũng phải đi chăn bò, xe lanh, dệt vải thì cô gái Sao Pàng cũng “chăm chỉ

công việc nhà, hết lòng chăm sóc các em”.

Nhân vật người con riêng thường hay được đưa vào mối quan hệ dì ghẻ

- con chồng. Dì ghẻ bao giờ cũng tham lam, độc ác, lắm mưu nhiều kế,

thường tìm đủ mọi cách để hãm hại con chồng. Trong khi đó người chồng

thường nể vợ, bạc nhược, bất lực, im lặng, không những không bảo vệ con đẻ

44

của mình mà còn tiếp tay cho cái ác. Vì vậy, nhân vật người con riêng thường

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hay phải chịu nhiều nỗi đau khổ, truân chuyên, thậm chí bị đày đọa, bị giết

hại thảm thương. Là một cô gái ngoan ngoãn, xinh đẹp, chăm chỉ công việc

nhà nhưng Sao Pàng trong truyện Sao Pàng luôn bị mụ dì ghẻ căm ghét, ngày

nào mụ cũng thầm nguyền rủa cô gái: “Sao thuồng luồng không đến bắt mày

đi? Bao giờ mày mới khuất mắt tao?”. Mụ còn ép bố của Sao Pàng đẩy cô

xuống vực sâu cho chết. Trong truyện Nàng Nao và Xênh, mụ dì ghẻ còn lấy

cớ cúng ma để giết bò (mẹ của Nao hóa thành). Bất lực trước sự độc ác của

người vợ kế, bố Nao chỉ biết bỏ trốn vào rừng và hóa thành con Sơn dương.

Đến ngày lễ hội Gầu tào, khi hoa đào và hoa Tớ dảy nở đỏ núi đồi, hai mẹ con

Xênh được mặc váy áo mới tinh đi dự hội và bắt Nao phải ở nhà đem bồ thóc

nhặt hết cứt chuột rồi đem xay giã, sàng sảy sạch trấu. Mụ còn hát bài ca mồ

côi để mỉa mai hoàn cảnh của Nao: “Mày mồ côi mẹ/ Mồ côi mồ cút/ Váy áo

rách nát/ Bọ chó trứng rận làm ổ/ Mày mồ côi mẹ/ Mồ côi vào câu ca/ Quần

áo rách tướp/ Bọ chó chấy rận tha…”. Sự độc ác của mẹ con Xênh lên đến

đỉnh điểm khi chúng cướp người yêu của Nao, giết hại Nao để cướp chồng và

con của cô.

Do cần cù, hiền lành và tốt bụng nên người con riêng bao giờ cũng

nhận được sự giúp đỡ của lực lượng thần kỳ và những người xung quanh. Sau

khi bị người cha đẻ nhẫn tâm đẩy xuống vực sâu cho gẫy chân, vỡ đầu, cô gái

Sao Pàng trong truyện Sao Pàng đã được thần núi giúp đỡ, ngày ngày thần

cho chim muông tha hoa quả đến chữa bệnh và nuôi sống cô gái. Rồi một

chàng trai đã ra tay cứu giúp Sao Pàng, đem lòng yêu thương và cùng cô xây

tổ ấm, “họ đẹp đôi đẹp lứa, chịu khó làm ăn và trở nên giàu có nhất vùng”.

Nàng Nao trong câu chuyện Nàng Nao và Xênh cũng may mắn khi có được

tình yêu của chàng Sì Na. Tình yêu thương của chàng trai thể hiện qua các

hành động: gắp thịt nạc từ bát mình sang bát Nao, đưa cô gái bỏ trốn khỏi nhà

mẹ con Xênh. Ngay cả đến lúc chết, Nao vẫn được hưởng niềm hạnh phúc

45

bên cạnh chồng con. Thần trời đã sai các thần tướng xuống trần gian làm phép

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

để Nao được hóa thành cây chàm xanh mướt, Sì Na - chồng nàng - hóa thành

con ong mật và Tấu Cấu - đứa con trai đáng thương của cả hai vợ chồng - hóa

thành con chim liếu điếu: “Ong và chim quấn quýt bên cây chàm. Ong tìm

hoa lấy mật. Chim líu ríu hát ca”.

Nếu như trong phần kết truyện người con riêng luôn giành chiến thắng

và được hưởng hạnh phúc thì ngược lại, những nhân vật phản diện, tiêu biểu

cho cái xấu, cái ác, đại diện cho giai cấp thống trị không bao giờ đạt được

mục đích. Họ luôn bị trừng phạt và gặp kết cục bi thảm. Vì quá độc ác, dì ghẻ

của Sao Pàng đã gián tiếp gây ra cái chết cho hai đứa con của mụ: “Hai đứa

con người dì ghẻ không thấy Sao Pàng về, nó nhớ chị cứ luôn mồm hỏi bố và

khóc lóc. Hai bé kém ăn gầy còm hẳn đi, ốm yếu mắc bệnh rồi chết”. Trước

cái chết của các con, mụ dì ghẻ cũng đã phát điên phát cuồng, khóc lóc thảm

thiết, chửi bới lung tung, còn ông bố độc ác của cô gái mồ côi thì như người

mất trí, hắn đã phải xuống cõi âm ty để chịu tội. Vì quá độc ác, mẹ con nhà

Xênh trong câu chuyện Nàng Nao và Xênh đã bị núi đá sụp lở, vùi lấp, kéo

xuống địa ngục.

Qua truyện cổ tích về đề tài người con riêng ta thấy nhân vật người con

riêng trong truyện cổ tích thần kỳ là hình ảnh của những con người chịu đau khổ

mọi mặt sâu sắc. Họ được tác giả dân gian hư cấu với những phẩm chất đẹp đẽ.

Cơ sở của sự hư cấu dựa vào yếu tố thần kỳ, thể hiện ước mơ mong muốn về

công bằng xã hội và mong ước giành lại hạnh phúc cho người bất hạnh.

2.1.4. Truyện về người mang lốt

Kỳ ảo là một trong những yếu tố quan trọng, được các tác giả truyện

dân gian sử dụng như một phương tiện để chuyển tải thế giới quan, lý giải các

hiện tượng trong đời sống xã hội, cũng như tăng thêm phần hấp dẫn cho câu

chuyện. Yếu tố kỳ ảo xuất hiện nhiều trong truyện về người mang lốt. Kiểu

nhân vật này góp phần làm cho nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện cổ

46

tích đặc sắc hơn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông ở Yên Bái cũng thường xuất

hiện các nhân vật mang lốt. Trong tổng số 24 truyện cổ tích thần kỳ được

khảo sát, chúng tôi thấy số truyện xuất hiện người mang lốt là 3/24 (chiếm

12,5%). Như vậy, truyện về người mang lốt không phải là dạng truyện phổ

biến nhất của truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái

song nó có thể kết hợp với nhiều kiểu nhân vật khác như nhân vật “người

em”, “người mồ côi” để làm cho câu chuyện li kì, phong phú và hấp dẫn hơn.

Truyện về người mang lốt là kiểu truyện cổ tích quen thuộc (kiểu

truyện về nhân vật xấu xí mà tài ba). Truyện thường kể về nhân vật mang một

vẻ ngoài xấu xí, dị dạng, mang lốt một con vật nhưng lại có một tâm hồn

trong sáng, tốt bụng, đặc biệt là có tài năng khác thường. Tên của nhân vật

cũng thường được dùng để đặt tên truyện. Cốt truyện thường theo một mô

hình thống nhất như sau:

Nhân vật mang lốt mơ ước lấy được cô gái/ chàng trai đẹp;

Bố mẹ cô gái/ chàng trai đưa ra những thử thách;

Nhân vật vượt qua các thử thách một cách tài tình, thần kỳ;

Nhân vật đã trút bỏ lốt xấu xí và lấy cô gái/ chàng trai;

Hai vợ chồng sống hạnh phúc, có khi chàng trai được lên ngôi vua.

Tiêu biểu trong nhóm truyện người mang lốt là các truyện: Hoàng tử

rùa, Cô gái tóc xanh, Kề Tấu.

Hầu hết nhân vật người đội lốt có nguồn gốc xuất thân cao quý. Họ là

các hoàng tử, công chúa hoặc tiên nữ được xuống trần đầu thai vào các gia

đình nông dân tốt bụng nhưng hiếm muộn. Chàng Rùa trong truyện “Hoàng

47

tử rùa” vốn là con trai thứ bảy của vua trời, “thích bơi dưới suối, tập leo núi,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đi săn, đi lấy củi nên người cậu vạm vỡ khỏe mạnh như một lực sĩ. Tính tình

cậu phóng khoáng, yêu cảnh trí thiên nhiên, yêu quý con người”. Vì cảm tấm

lòng tốt của gia đình người nông dân hiếm muộn, chàng đã đồng ý đầu thai

vào nhà họ dưới hình dạng một con rùa có mai bằng đồng. Điều đặc biệt, Rùa

không cần ăn uống gì mà vẫn sống và không hề lớn lên chút nào. Nàng Gầu

Dua trong truyện Cô gái tóc xanh cũng là một tiên nữ. Nàng nhận lời đầu vào

gia đình nhà nghèo, hiếm muộn nhưng tốt bụng. Nét khác biệt giữa Gầu Dua

và mọi người xung quanh là nàng có “mái tóc xanh biếc như mây mùa hạ óng

mượt như tơ”. Nhân vật Kề Tấu trong truyện Kề Tấu xuất thân cũng là người

trời được đầu thai xuống trần gian. Chàng mồ côi cha mẹ từ bé và phải làm

con nuôi cho người cô ruột góa chồng. “Kề Tấu chậm lớn, còi cọc lùn tè.

Mười bẩy, mười tám tuổi mà như đứa bé năm sáu tuổi,… không biết nói”. Như

vậy, cả ba nhân vật trong các truyện trên đều có những nét khác thường. Nếu

như Hoàng tử Rùa xuất hiện dưới lốt một con rùa bé nhỏ, nàng Gầu Dua có mái

tóc xanh biếc thì chàng Kề Tấu có hình dạng nhỏ bé hơn người bình thường.

Các nhân vật đội lốt thường có hình dạng xấu xí, tuy nhiên họ luôn mơ

ước lấy được cô gái/chàng trai đẹp, có xuất thân cao quý. Năm lên mười tám

tuổi, chàng Rùa đòi cưới vợ. Người mà chàng muốn lấy làm vợ là cô con gái

thứ ba của vua 12 nước chư hầu. Cô công chúa “vừa tròn 16 tuổi, có sắc đẹp

đến mức chim đang bay trông thấy nàng thì rơi xuống, cá dưới suối đang bơi

trông thấy nàng thì nổi lên, hổ sói trông thấy nàng thì nhắm mắt lại”. Năm 20

tuổi, Kề Tấu cũng đòi lấy con gái thứ chín của vua. Đó là một nàng công chúa

rất xinh đẹp. Nàng Gầu Dua thì yêu say đắm mỗi chàng Xáy Dùa bởi chàng

có nhiều phẩm chất đáng quý. Đó là một chàng láng giềng mồ côi nhưng

“khôi ngô tuấn tú thông minh hiền lành, chăm chỉ làm ăn. Chàng còn thích

thổi kèn và học vẽ”.

Để lấy được người vợ, người chồng như ý muốn, nhân vật mang lốt

48

thường phải trải qua các khó khăn thử thách của gia đình bên kia. Đến đây, ta

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thấy có môtíp “nhân vật thử thách”. Đây là một môtíp khá phổ biến trong các

truyện cổ tích. Thông qua các thử thách, nhân vật sẽ bộc lộ được hết tài trí

cũng như lòng dũng cảm, can đảm của mình. Để cưới được con gái thứ ba của

nhà vua, chàng Rùa trong truyện Hoàng tử Rùa đã phải trải qua bốn thử

thách của nhà vua: phát ba quả đồi ở Chổn Tìu, đi đốt nương, gieo thật đều ba

thúng hạt kê lên đồi vừa đốt và thu lại hết kê vừa gieo, không thiếu một hạt.

Chàng Kề Tấu trong truyện Kề Tấu cũng phải thực hiện lời thách đấu của nhà

vua: thi đấu chó, đấu lợn, nếu thắng mới được mang lễ vật đến rước dâu.

Tuy nhiên, nhân vật đội lốt luôn vượt qua thử thách của đối phương

một cách tài tình, thần kì. Một phần do họ luôn nỗ lực phấn đấu để cố gắng

vượt qua các thử thách mà đối phương đưa ra, mặt khác họ luôn nhận được sự

giúp đỡ của các lực lượng siêu nhiên từ bên ngoài. Chàng Rùa trong truyện

Hoàng tử Rùa đã nhận được sự giúp đỡ của thần gió, ba thần mặt trời và

hàng vạn loài chim. Lần thứ nhất, thần gió đã dùng sức mạnh của mình xoáy

vào ba khu rừng ở Chổn Tìu làm cho tất cả các cây cối ở đó đổ nát hết. Khu

rừng sạch hơn cả người đi phát. Lần thứ hai, ba thần mặt trời đã chiếu vào

khu rừng vừa phát, làm cho khu rừng bốc cháy dữ dội. Lần thứ ba, thần gió lại

giúp chàng Rùa rải đều ba thúng hạt kê lên đồi. Lần thứ tư, hàng vạn loài

chim đã đến giúp chàng nhặt sạch kê, không thiếu một hạt. Chàng Kề Tấu

trong truyện Kề Tấu cũng dễ dàng vượt qua các thử thách của nhà vua. Lần

thứ nhất, con chó còi cọc của Kề Tấu đã cắn gẫy cả bốn chân con chó xồm to

lớn của nhà vua. Lần thứ hai, quả bí đao của chàng đã biến thành con lợn to

hơn lợn của nhà vua, nó to đến nỗi “không vào lọt cái cửa chuồng trâu”. Lần

thứ ba, những chiếc lá dong mà chàng cho người trải kín đường từ nhà trai

đến nhà gái đã biến thành thảm bạc, ngoài ra còn có thêm bảy hũ vàng chín

hũ bạc. Vì chàng Xáy Dùa nghèo quá, không có gì để dạm hỏi, cưới xin nên

nàng Gầu Dua trong truyện Cô gái tóc xanh đã được Tiên ông giúp của cải

49

không thiếu thứ gì, nàng đã giao cho Xáy Dùa vàng bạc để lo liệu dạm hỏi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cưới xin. Như vậy, trong cả ba truyện về người đội lốt ta thấy lực lượng thần

kỳ đóng một vai trò vô cùng quan trọng, giúp cho các nhân vật chính vượt qua

được những khó khăn thử thách mà đối phương đặt ra để đạt được ước mơ

của mình.

Sau khi vượt qua các trở ngại, các nhân vật đội lốt được kết hôn với cô

gái/chàng trai mà họ mơ ước. Đến lúc ấy họ mới trút bỏ lốt xấu xí đi và trở lại

hình dáng xinh đẹp như thuở ban đầu. Khi đi chơi ở chợ, chàng Rùa trong

truyện Hoàng tử Rùa đã hóa thành “một chàng trai hiên ngang, tuấn tú, vầng

trán rộng, đôi mắt vừa thông minh, nhanh nhẹn, vừa dịu dàng, nhân hậu.

Chàng mặc bộ quần áo bằng gấm đen có viền chung quanh bằng lụa đỏ, làm

nổi bật nước da mịn màng nhưng có phần sương gió. Cưỡi trên lưng con

ngựa có màu mận chín, trông chàng như một kỵ sỹ anh hùng, oai phong lẫm

liệt… Tiếng chàng như tiếng nhạc ngọt ngào như mật ong” làm cho cả ba

nàng công chúa đều mê mẩn tâm thần. Đêm tân hôn, chàng đã trút mai rùa,

hiện nguyên hình và kể cho vợ nghe những bí mật của cuộc đời. Chàng Kề

Tấu trong truyện Kề Tấu cũng được thần trời cho cái lược đồi mồi, ước gì

được nấy. Nhờ có lược thần, trong lễ hội Gầu tào Kề Tấu đã trở thành một

chàng trai khôi ngô tuấn tú, làm hài lòng vợ còn mọi người xung quanh thì

ngạc nhiên, trầm trồ bàn tán.

Sau khi kết hôn, được trở lại với hình dáng ban đầu, nhân vật đội lốt

đôi khi vẫn phải trải qua thử thách. Tên quan trong truyện Cô gái tóc xanh vì

thấy nàng Gầu Dua “rất xinh đẹp, mặt tròn như mặt trăng, mắt sáng, mũi

thẳng, má hồng như quả đào chín, môi đỏ như cánh hoa đào” nên đã mê tít

mắt. Hắn muốn cướp nàng về làm vợ. Trong những lần chồng thi giải câu đố

và thi múa với tên quan, Gầu Dua đã giúp kế làm cho hắn phải cứng lưỡi, thổi

khèn không ra tiếng, nhảy múa ngã xiêu vẹo, xấu hổ và hóa thành con gấu

chạy trốn vào rừng. Chàng Kề Tấu trong truyện Kề Tấu đã phải ra chiến trận

50

để dẹp yên bọn giặc biên giới. Chàng đã bí mật dùng lược thần làm vũ khí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khiến cho quân giặc chết hết. Ẩn bên trong sự cứng cỏi của Kề Tấu là lòng

nhân đạo sâu sắc. Chàng đã dùng lược thần ước cho quân giặc sống lại và tha

chết cho chúng.

Kết thúc truyện bao giờ các nhân vật đội lốt cũng được hưởng hạnh

phúc. Vợ chồng nàng Gầu Dua được sống yên ổn, hạnh phúc, được mọi người

mến phục. Ngoài việc được hưởng cuộc sống hạnh phúc bên người thân yêu,

cả chàng Rùa và Kề Tấu đều được lên làm vua, trị vì thiên hạ.

Vậy vì sao lại xuất hiện kiểu nhân vật người mang lốt? Khi nghiên cứu

về mối quan hệ giữa truyện cổ tích, nhiều tác giả như Mêlêtinxki, Propp, Lốt-

man…. đã lí giải nguồn gốc của các truyện kể từ những nghi lễ dân gian, thấy

được sự chuyển hóa của cấu trúc nghi lễ thành những tín hiệu ngôn ngữ

truyện kể. Theo đó, một trong những nguồn gốc phổ biến của truyện kể bắt

nguồn từ nghi lễ trưởng thành của con người với các biểu hiện của sự hành

xác: con người bị đun, nấu, băm, chặt, mang các hình thức hóa trang thể hiện

tín ngưỡng vật tổ… Quan niệm chung về nghi lễ trưởng thành là mốc chuyển

giao của con người từ thế giới tuổi thơ, non nớt, bẩn thỉu sang giai đoạn

trưởng thành (đẹp đẽ, khỏe mạnh, đích thực là thành viên của cộng đồng và

được quyền kết hôn). Cho nên những thử thách về mặt thể xác trong khi hành

lễ mang tính chất bắt buộc để sau đó mỗi con người trở thành một thành viên

đích thực của cộng đồng.

Trong hai truyện “Hoàng tử rùa” và “Kề Tấu” ta thấy cả hai nhân vật

chính đều mang lốt xấu xí, vượt qua nhiều thử thách cuối cùng họ đã có hình

dáng đẹp đẽ. Sự hoàn thiện cái đẹp cũng đồng nghĩa với việc tiêu diệt cái xấu,

cái ác khỏi thế gian, đem lại hạnh phúc cho cá nhân họ và toàn thể cộng đồng

dân cư nơi họ đang sinh sống. Truyện Hoàng tử Rùa còn giải thích cho ta

biết thêm một chi tiết nữa, đó là vì sao người Mông không ăn thịt rùa.

Đặc biệt, trong kiểu truyện người đội lốt, phần thưởng cho mỗi nhân

vật chính bao giờ cũng là sự kết hôn mà không phải là những phần thưởng về

51

vật chất. Điều đó chứng tỏ mối liên hệ của mỗi câu chuyện cổ tích với cấu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trúc chức năng của nghi lễ trưởng thành. Mặc dù nghi lễ và mỗi câu chuyện

cổ tích có thể không trùng khít với nhau, truyện kể có thể kéo dài về phía

trước hay phía sau trong khi nghi lễ đã chấm dứt trong một khuôn khổ của nó,

nhưng có thể thấy chức năng cơ bản của nghi lễ trưởng thành để con người

sang một ngôi khác, có quyền được kết hôn và chung sống hạnh phúc như

mỗi câu chuyện cổ tích đã kể.

Có thể thấy ước mơ công lý, dân chủ của người Mông được thể hiện và

thực hiện hoàn tất trong mảng truyện về người đội lốt. Và các mâu thuẫn,

xung đột ở các truyện này dường như cũng được mở rộng hơn, đẩy cao hơn.

Đó không phải là mâu thuẫn trong gia đình mà là xung đột xã hội (vua, quan

ác – người có tài, người đội lốt).

Qua truyện cổ tích người đội lốt, theo chúng tôi người Mông ở Yên Bái

muốn thể hiện quan niệm về mối quan hệ giữa hình dáng bên ngoài và phẩm

chất bên trong của người dân lao động: Trong thực tế, có sự đối lập giữa hình

dáng bên ngoài (xấu xí, dị dạng) với phẩm chất bên trong của nhân vật (tốt

đẹp, tài năng). Điều quan trọng là người dân luôn coi trọng phẩm chất bên

trong của mỗi nhân vật, khẳng định giá trị của con người nằm ở đạo đức, tài

năng chứ không phải hình dáng bên ngoài. Nếu phải lựa chọn thì nhân dân hết

sức đề cao phẩm chất, tư cách của con người. Đó cũng là quan niệm về vẻ đẹp

hoàn thiện của con người: là sự kết hợp giữa vẻ đẹp tâm hồn, tính cách, tài

năng và vẻ đẹp của hình thức. Vẻ đẹp tỏa sáng từ trí tuệ, tâm hồn cùng với hình

thức đẹp đẽ luôn là chuẩn mực, là khát vọng của nhân dân lao động. Khi con

người biết cố gắng phấn đấu để vượt qua các thử thách sẽ có được điều đó.

2.1.5. Truyện về người dũng sĩ

Có thể nói truyện về người dũng sĩ (hay truyện về các chàng trai khỏe)

là một đóng góp độc đáo của kho tàng truyện cổ tích các dân tộc anh em. Kiểu

truyện này thường xây dựng những nhóm nhân vật anh hùng, dũng cảm, có tài

năng đặc biệt. Họ có thề là anh em ruột, anh em kết nghĩa, bạn bè thân thiết

52

hay cha con.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trong 24 truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên

Bái, chúng tôi thấy có 4/24 truyện kể về người dũng sĩ (chiếm 16,67%). Đó

là các truyện: Chín người con trai, Chuyện năm cha con, Củ và Kỷ, Sự

tích đuôi gấu.

Về hoàn cảnh xuất thân của các nhân vật, ở mỗi truyện nhân vật người

dũng sĩ lại có hoàn cảnh xuất thân khác nhau. Vì bà mẹ già hiếm hoi ăn một

lúc cả chín múi cam chín đỏ do ông tiên trên núi ban tặng nên chín anh em trai

trong truyện Chín người con trai đã ra đời cùng một lúc. Chính vì thế nên họ

có gương mặt giống nhau như đúc. Củ và Kỷ trong truyện Củ và Kỷ lại xuất

trong một gia đình nghèo. Ngay từ nhỏ hai anh em đã bị mồ côi cha, còn

người mẹ của họ thì cũng bị yêu tinh bắt mất. Chính vì thế, hai anh em đã

phải đi ở cho người bác ruột, làm nương rẫy để sinh sống. Năm cha con trong

truyện Chuyện năm cha con lại được giới thiệu là người của “một bộ tộc ở

cạnh một khu rừng. Giữa rừng có một cái hồ rất rộng, quanh năm nước chảy

xanh biếc”. Lao Tráng trong truyện Sự tích đuôi gấu thì có nhà ở ngoài bản.

Chàng có sở thích “ban đêm lần vào bản ăn trộm ngựa của dân, dắt được

ngựa là phi nước đại, bay như thần gió”.

Tuy các nhân vật dũng sĩ có hoàn cảnh xuất thân không giống nhau

nhưng họ có những điểm chung. Nhìn chung, nhân vật người dũng sĩ thường

là hình ảnh về những con người thông minh, nhanh trí, có sức khỏe và nghị

lực phi thường, họ không ngại gian khó, luôn đoàn kết một lòng quyết tâm

diệt trừ cái xấu, cái ác, giành lại hạnh phúc cho cá nhân và cộng đồng. Trong

truyện Chín người con trai, nhân vật nào cũng khỏe mạnh, mưu trí và đặc

biệt hơn là mỗi chàng trai lại có một cái tài riêng. Nếu chỉ bằng tài năng của

một người thì sẽ không sao thắng được thử thách của tên vua lắm mưu nhiều

kế. Chín anh em đã đoàn kết bên nhau, mỗi người đảm nhiệm một việc mà

thắng được mưu gian của nhà vua: Phi Thếnh hóa phép chuyển được những

53

ngôi nhà lớn lên núi cao theo ý nhà vua chỉ trong vòng một đêm; Tăng Tơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hứng một loạt đạn do quân lính của nhà vua bắn vào đầu mà không sao cả;

Phì Nhênh để mặc cho lính chất củi quanh chàng cao như núi và châm lửa

đốt, chàng vẫn bình thản như không; Lao Vừ bị đun trong vạc lớn suốt một

ngày, vạc cháy đỏ lừ, dây cháy ra tro mà chàng chẳng hề sao cả; Xảo Dề bị

dìm xuống suối sâu ba ngày đêm, dây trói mủn ra như mùn đất, còn chàng da

dẻ vẫn hồng hào, miệng đang ngậm một con cá, mỗi tay còn xách một con cá

lên theo. Lao Dề, Sang Chu, Chua Khơ thì đến giúp Xảo Dề băm ba con cá bỏ

đầy chín chảo gang kếch xù; Tủa Chù xách búa chẻ chân mình làm củi, nấu

chín các chảo cá dâng lên nhà vua. Ở Chuyện năm cha con, tác giả dân gian

Mông còn giúp ta thấy rõ: để đánh thắng được bẩy con rồng vàng ở dưới hồ

hằng ngày vẫn bắt dân bản và người con cả là Lao Pếnh ăn thịt thì từng người

dù có khỏe mạnh tài giỏi đến đâu cũng khó lòng thực hiện được. Người cha

rồi đến người con thứ hai là Xảo Chơ nhảy xuống hồ đánh nhau với bọn rồng

đều bị chúng ăn thịt. Người con thứ ba là Tằng Xử cũng bị thua, phải nhảy lên

bờ bàn với em đi luyện tập cung kiếm để giết rồng. Bên cạnh đó, nhân vật

dũng sĩ cũng có thể là người dân thường. Chàng Lao Tráng trong truyện Sự

tích đuôi gấu tuy “tính tình tinh nghịch, rong chơi suốt ngày, suốt tháng”

nhưng khi đã trót nhảy lên lưng hổ chàng lại rất thông minh nhanh trí khi

tương kế, tựu kế lừa được hổ và cả con gấu to khỏe.

Để thể hiện được hết tài năng của mình, người dũng sĩ cũng phải trải

qua rất nhiều những khó khăn thử thách. Họ phải thực hiện một nhiệm vụ nào

đó như: diệt yêu quái, diệt thú dữ hay hoàn thành một nhiệm vụ nào đó mà

nhân vật địch thủ giao cho. Địch thủ của những người dũng sĩ bao giờ cũng là

hiện thân của cái xấu, cái ác. Đó là yêu tinh, hổ dữ, rồng ác, hay tên vua có

nhiều gian kế. Hai anh em Củ và Kỷ trong truyện Củ và Kỷ phải bốn lần vượt

qua các thử thách của con yêu tinh: Lần thứ nhất, yêu tinh hóa thành con ngựa

trắng, Kỷ đã nhảy lên lưng ngựa quất cho nó bảy roi khiến yêu tinh phải rú

54

lên và hiện nguyên hình. Lần thứ hai, yêu tinh mang một gùi hạt vừng quải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khắp nương, hai anh em Củ và Kỷ đã nhặt được hết sạch toàn bộ số hạt vừng.

Lần thứ ba, Củ biến thành cái ghế, Kỷ biến thành cái điếu làm yêu tinh không

phát hiện ra. Lần thứ tư, yêu tinh xếp củi khô xung quanh hai anh em để đốt

nhưng Củ và Kỷ không chết. Chỉ đến yêu tinh hóa thành cây gỗ trôi trên suối,

Củ lấy búa chặt đứt nó mới“hiện nguyên hình, nằm chết”. Chàng Lao Tráng

trong truyện Sự tích đuôi gấu cưỡi lên lưng hổ mà lầm tưởng là con ngựa bất

kham lông mượt, chân to mình dài, béo khỏe. Cả một đêm Lao Tráng đã dùng

sức lực quần cho con hổ cả đêm mệt lử, đau hết cả mồm và răng. Chàng còn

dùng sức mạnh của hai cánh tay giật đứt đuôi con gấu to khỏe khiến cho cả hổ

và gấu sợ xanh mặt, chạy thẳng vào rừng mà không bao giờ dám quay trở lại.

Chín anh em trai trong truyện Chín người con trai cũng phải trải qua rất

nhiều các thử thách mà tên vua độc ác đưa ra. Cùng một lúc, không được tháo

dỡ, họ phải chuyển toàn bộ những ngôi nhà lên núi cao mà không làm cho

ngôi nhà suy xuyển. Tiếp đó, từng nhân vật phải trải qua các thử thách: đứng

yên để cho bọn lính của nhà vua bắn một loạt đạn vào đầu, bị đốt, bị luộc, bị

dìm xuống suối sâu; … Năm cha con trong Chuyện năm cha con thì phải

chiến đấu với bẩy con rồng vàng độc ác, hay bắt người để ăn thịt.

Nhân vật dũng sĩ đôi khi còn là người có tài năng kì lạ hoặc được trợ

giúp bởi một lực lượng siêu nhiên nào đó. Khá nhiều câu chuyện cổ tích thần

kỳ khác của người Mông nói về tình cảm gia đình, bạn bè hợp sức chung lòng

cùng với sự giúp đỡ của thần tiên đã làm cho nhân vật chính chiến thắng được

các thế lực thiên nhiên và các thế lực thống trị tàn ác trong xã hội. Điều đó

chứng tỏ rằng từ lâu đời người Mông ở Yên Bái đã có ý thức đoàn kết anh

em, gia đình, dòng họ, hàng xóm láng giềng và đoàn kết cộng đồng dân tộc.

Đó cũng là cơ sở thuận lợi cho việc tiếp thu, kế thừa và phát huy truyền thống

tốt đẹp về sau này. Chín anh em trong truyện Chín người con trai ngoài sức

khỏe, sự thông minh ra họ đều có phép lạ nên có thể “hóa phép cho các tòa

55

nhà bay đến sườn núi theo ý định”. Trên đường đi diệt trừ yêu tinh để cứu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mẹ, hai nhân vật chính trong truyện Củ và Kỷ thường xuyên được các lực

lượng siêu nhiên giúp đỡ: “giữa đường họ gặp con diều hâu chỉ lối, đến ngã

ba đường họ gặp con quạ chỉ đường đi tiếp… Mặt trời đã xuống núi, mây kéo

đến, Củ và Kỷ gặp con cú chỉ đường lên hang yêu tinh”. Trong bốn lần thách

đấu với yêu tinh, Củ và Kỷ cũng thường xuyên “được mẹ giúp phép” biến

thành các đồ vật và giành chiến thắng. Mẹ của Củ và Kỷ còn đưa cho hai anh

em những vũ khí như: một cái búa, một cái cung, hai cái tên thần để chặt phá

chuồng hổ, giết hổ để cứu hai cô gái Mông xinh đẹp. Chàng Phi Khơ trong

Chuyện năm cha con cũng được “ông cụ già đầu tóc bạc phơ, da dẻ hồng hào”

bày cho cách luyện một thanh bảo kiếm cùng chiếc nỏ thần để giết rồng vàng.

Trải qua bao khó khăn thử thách, các nhân vật dũng sĩ trong các truyện

cổ tích thần kỳ cuối cùng cũng giành được chiến thắng. Nhưng hầu hết họ

không nhận công danh về mình mà trở về nhà làm nhiệm vụ bình thường.

Chàng Lao Tráng trong truyện Sự tích đuôi gấu đã làm cho cả hổ và gấu sợ

xanh mặt, chạy thẳng vào rừng và làm cho gấu bị mất đuôi từ đấy. Củ và Kỷ

trong câu chuyện cùng tên đã giết được yêu tinh và hổ, tìm lại được mẹ. Hơn

thế nữa, họ đã tìm được hạnh phúc đến trọn đời cho riêng mình khi cưới được

hai cô gái Mông xinh đẹp. Chàng Phi Khơ trong Chuyện năm cha con sau

khi thu phục được bảy con rồng vàng đã cưỡi rồng bay lên trời gặp Xếnh Lầu

để lấy giống thóc, ngô về vãi khắp đồi nương, bãi bồi, đồng ruộng, giúp loài

người có thóc, ngô ăn hằng ngày. Có thể nói đây là một hành động cao cả,

một cái kết thúc đẹp. Trước tài phép của chín anh em trong truyện Chín

người con trai, tên vua xảo trá và gian ác đã khiếp sợ, hổ thẹn bỏ dinh cơ trốn

vào rừng sâu rồi bị rắn thần cắn chết. Mọi người đã suy tôn chín chàng trai lên

làm vua, làm quan để trị vì thiên hạ.

Nhìn chung, các truyện dũng sĩ thường đề cao những người lao động tài

giỏi, anh hùng, thể hiện trí tưởng tượng táo bạo của nhân dân, sự phát triển

56

của tư duy và nhận thức cuộc sống của con người. Môtíp truyện người dũng sĩ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái tương đối

giống với môtíp về truyện người dũng sĩ của các dân tộc anh em khác trong

cộng đồng người Việt. Điều đó thể hiện quá trình giao lưu văn hóa cũng như

sự tương đồng về tâm lí xã hội, cảm xúc của con người. Những người dũng sĩ

trong truyện cổ tích mang bóng dáng của cộng đồng anh hùng trong thần thoại

và sử thi. Đây cũng là nét tiêu biểu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của

nhóm truyện này, thể hiện tư duy nghệ thuật cao, sự chặt chẽ về cốt truyện.

2.2. Những điểm tương đồng và khác biệt về nội dung phản ánh

giữa truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái với

truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Kinh

Qua việc khảo sát những phương diện nội dung cơ bản trong truyện cổ

tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi nhận thấy giữa

các truyện cổ tích có cả những điểm tương đồng và khác biệt. Dù ở mảng đề

tài người mồ côi, người con riêng, người em út hay đề tài về người đội lốt,

người dũng sĩ thì bao giờ truyện cũng có kết thúc tốt đẹp. Từ những đặc điểm

tương đồng và khác biệt ấy chúng ta thấy những vấn đề chung và riêng mà

người Mông ở Yên Bái muốn thể hiện.

2.2.1. Những điểm tương đồng

Hầu hết các câu chuyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở

Yên Bái đều bắt nguồn từ tín ngưỡng dân gian. Họ cho rằng sống thiện chết

sẽ gặp lành, được thay đổi kiếp, được đầu thai vào nhà khác để tiếp tục làm

người. Khi sống, con người làm nhiều điều ác thì lúc chết sẽ gặp điều dữ.

Những vướng mắc lớn trong quan hệ nợ máu, sự lường gạt, phản bội, oan

hồn… sẽ đầu thai vào nhà ấy để đòi nợ và báo thù. Người sống thiện khi chết

hồn sẽ được lên với trời, với tổ tiên. Còn kẻ sống ác khi chết thường bị đẩy

xuống âm phủ, nơi tối tăm có rắn rết và ma quỷ hành tội. Đối với người Mông

thì con quạ bao giờ cũng đen, giai cấp thống trị là bọn vua quan, bọn nhà giàu

57

hà hiếp bóc lột nhân dân bao giờ cũng ác, chúng đều bị trừng trị thích đáng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Người mồ côi chăm làm, hiền lành bị bóc lột, bị cướp vợ bao giờ cũng thắng

bọn vua quan thống trị. Người anh tham lam, người vợ kế độc ác… đều bị trị

tội. Người anh hùng vì dân vì nước sau này sẽ được suy tôn.

2.2.2. Những điểm khác biệt

Nếu như truyện cổ tích của dân tộc Kinh tập trung vào ba tiểu loại là:

cổ tích loài vật, cổ tích thần kỳ và cổ tích sinh hoạt thì truyện cổ tích của dân

tộc Mông lưu hành ở Yên Bái chủ yếu là tiểu loại cổ tích thần kỳ. Truyện cổ

tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái tập trung vào 5 mảng đề

tài chính: người mồ côi, người em, người con riêng, người mang lốt và người

dũng sĩ. Ở mỗi mảng đề tài cách xây dựng nhân vật và các tình tiết lại có sự

khác nhau. Các truyện cổ tích tuy phong phú về nội dung phản ánh xã hội

nhưng chủ yếu tập trung vào việc giải quyết mối quan hệ giữa người với

người. Loại nhân vật phổ biến trong truyện là người mồ côi (17/24 truyện =

70,83%). Nhân vật mồ côi là hình ảnh của những con người chịu đau khổ mọi

mặt sâu sắc, họ phản ứng mạnh mẽ và được tác giả dân gian hư cấu đẹp đẽ.

Cơ sở của sự hư cấu dựa vào yếu tố thần kỳ, thể hiện ước mơ mong muốn về

sự công bằng xã hội và mong ước giành lại được hạnh phúc cho người nghèo.

Trong xã hội, người mồ côi có số phận hẩm hiu. Trong gia đình, khi bố mẹ

qua đời, nếu còn lại mấy người thì sự bất hạnh giành cho người con út. Người

anh cả trong nhà chiếm hết quyền thừa kế di sản, biểu hiện lòng tham lam và

hiểm độc đối với người em út. Tuy nhiên cái tốt đẹp bao giờ cũng thuộc về

người em út mồ côi.

* Tiểu kết chương 2:

Tóm lại, nội dung truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở

Yên Bái có những đặc trưng cơ bản sau:

Truyện cổ tích tập trung vào năm mảng đề tài sau: người mồ côi, người

em, người con riêng, người mang lốt và người dũng sĩ. Trong đó truyện mảng

58

truyện về người mồ côi là nhiều nhất. Những phương diện nội dung này đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tạo nên nét đặc trưng nổi bật trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông

lưu hành ở Yên Bái.

Truyện cổ tích thần kỳ nổi lên hai loại xung đột: xung đột xã hội và

xung đột giữa con người với những trở lực của thiên nhiên. Trong đó, xung

đột xã hội là nội dung chủ yếu. Đề tài về sự xung đột của con người với

những trở lực của thiên nhiên trong truyện cổ tích thần kỳ có thể coi là sự tiếp

nối hợp quy luật đề tài về cuộc đấu tranh của con người nhằm tìm hiểu và chế

ngự những sức mạnh trong tự nhiên. Từ đó làm nảy sinh một số truyện kết

hợp cả hai đề tài ấy (Nàng Nu, Nhà Tếnh, Rì Tủa, Củ và Kỷ).

Xung đột trong truyện cổ tích thần kỳ luôn luôn được giải quyết nhờ

sự can thiệp của các lực lượng thần kỳ. Nhân vật chính trong các truyện ít

59

nhiều có tính chất thụ động.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

CHƯƠNG 3

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ

CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI

3.1. Kết cấu truyện

Xét trong kho tàng văn học dân gian, ở thể loại tự sự, mỗi loại có một

mô hình kết cấu riêng. Mô hình đó được coi như bộ khung chung cho tất cả

những tác phẩm. Từ bộ khung chung ấy, tác giả dân gian đã tạo nên những tác

phẩm mang nội dung phong phú. Bởi vậy cũng giống như truyện cổ tích của

các dân tộc khác, truyện cổ tích thần kỳ của người Mông lưu hành ở Yên Bái

cũng có mô hình khái quát chung đặc trưng của của tiểu loại này.

Truyện cổ tích thần kỳ bao giờ cũng tập trung vào giải quyết mối quan

hệ chủ yếu giữa người với người. Dù truyện kể về người mồ côi, người em,

người con riêng, hay người mang lốt, người dũng sĩ cũng đều phải tuân theo

một môtíp cốt truyện truyền thống gồm ba phần:

- Phần mở đầu

- Phần nội dung

- Phần kết thúc

Tuy nhiên dấu hiệu chia tách ba phần trong kết cấu nội dung của mỗi

truyện cổ tích khác nhau: có truyện cổ tích mỗi phần nội dung có sự chia tách

cụ thể, tách biệt nhưng cũng có những truyện cổ tích thì sự chia tách ấy có

phần mờ nhạt hơn. Nhưng dù dài hay ngắn, vắn tắt hay tỉ mỉ thì truyện cổ tích

thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái bao giờ cũng có một mô hình

kết cấu chung như trên.

3.1.1. Phần mở đầu

Phần nội dung này nằm ở phần đầu tiên của mỗi truyện cổ tích. Nó chỉ

chiếm một phần nhỏ nội dung. Nhiệm vụ của phần mở đầu là giới thiệu câu

chuyện. Qua đó, chúng ta sẽ xác định được nhân vật chính của câu chuyện,

60

các sự kiện liên quan đến đời sống của nhân vật. Tuy không phải là phần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chính yếu của một truyện cổ tích nhưng phần mở đầu đóng vai trò rất quan

trọng. Bởi nhờ có phần này mà chúng ta định hình để tiếp nhận nội dung ở phần

tiếp theo. Ở một số truyện cổ tích thần kỳ, chính nhờ nội dung này mà người đọc

hiểu được sâu hơn, yêu mến và khâm phục hơn nhân vật trong tác phẩm.

Mô hình thế giới được cấu tạo từ ba thành tố cơ bản là: thời gian -

không gian - vạn vật. Ta có thể thấy đầy đủ ba thành tố này trong phần mở

đầu của truyện cổ tích. Đại đa số các truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông

lưu hành ở Yên Bái đều mở đầu bằng một môtíp quen thuộc: “Ngày xửa ngày

xưa, ở một làng kia, có một chàng trai/ cô gái…”. Công thức mở đầu như vậy

không chỉ cho thấy thế giới quan, nhân sinh quan của người xưa mà còn cho

thấy nghệ thuật dẫn truyện đặc sắc của tác giả dân gian.

Khi đọc truyện Chín người con trai, ta thấy tác giả dân gian đã giới

thiệu một cách khái quát về các nhân vật: ai cũng khỏe mạnh, mưu trí, mỗi

người có một cái tài riêng. Song nếu chỉ bằng tài năng của một người thì sẽ

không sao thắng được thử thách của nhà vua. Họ đã đoàn kết bên nhau, mỗi

người một công việc mà thắng được mưu gian của nhà vua. Hay trong truyện

Chuyện Xí Xang, qua phần mở đầu, ta không chỉ biết nhân vật chính tên là Xí

Xang, xuất thân là một chàng trai mồ côi mồ cút, thiệt thòi, không biết đến người

sinh ra mình là ai mà qua đây chúng ta còn thấy những đặc điểm tính cách của

Xí Xang - một cậu bé chăm chỉ, hiền lành, tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người.

Như vậy, nội dung cơ bản của phần mở đầu nhằm mục đích giới thiệu

nhân vật. Nhân vật thường được giới thiệu qua các thông tin: tên tuổi, nguồn

gốc xuất thân, hoàn cảnh gia đình, thời gian và không gian sống. Những thông

tin này xuất hiện ở mỗi truyện cổ tích là khác nhau. Có truyện giới thiệu được

đầy đủ các chi tiết, thông tin trên nhưng cũng có trường hợp thông tin về các

nhân vật bị lược bớt. Điều này chúng tôi có thể lý giải như sau: Mỗi tác giả

dân gian là một cá thể riêng biệt, họ có không gian sống, tính cách, vốn ngôn

61

từ và cách kể chuyện riêng nên có tác giả đã coi việc giới thiệu nhân vật dài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dòng là không cần thiết. Đôi khi xuất phát từ chính tình cảm đối với nhân vật

mà tác giả dân gian đã giới thiệu một cách khá kĩ lưỡng về nhân vật chính.

Sau phần giới thiệu khái quát là phần nhận xét đánh giá của người dẫn truyện

về phẩm chất và đạo đức của nhân vật chính. Lời dẫn dắt, mào đầu này có tác

dụng tăng tính biểu cảm, lôi cuốn sự tò mò, thu hút sự chú ý của người đọc

đối với nội dung câu chuyện. Qua lời dẫn dắt, giới thiệu của người dẫn truyện

thì ấn tượng ban đầu của người đọc về nhân vật dần được hình thành. Đây là

tiền đề quan trọng cho sự tiếp nhận nội dung.

3.1.2. Phần nội dung

Đây là phần kế tiếp phần mở đầu. Phần này chiếm dung lượng nội dung

khá dài và có nhiệm vụ phát triển câu chuyện. Nội dung chính yếu của truyện

cổ tích thần kỳ nằm ở đây. Nhân vật chính được giới thiệu ở phần đầu câu

chuyện sẽ được triển khai tiếp ở phần này bằng cách đưa ra các sự việc. Hầu

hết các sự việc ấy được sắp xếp theo trình tự thời gian gắn liền với cuộc đời

của nhân vật chính. Sự việc nào xảy ra trước được thông tin trước, sự việc nào

xảy ra sau được thông tin sau. Tác giả sẽ lựa chọn các sự việc, chi tiết tiêu

biểu để triển khai cốt truyện - thường là một chuỗi các sự việc, chi tiết nối tiếp

nhau. Chính vì thế, cuộc đời của mỗi nhân vật trong truyện cổ tích thần kỳ sẽ

được người đọc nhớ tới qua chính những sự việc điển hình và chi tiết đặc sắc

đó. Cuộc đời và hành trình của nhân vật được tác giả dân gian trần thuật lại

một cách trọn vẹn với lối kể cô đúc ở phần này. Do các sự việc và chi tiết

được đặt kế tiếp nhau theo trình tự thời gian nên toàn bộ phần này của truyện

cổ tích thần kỳ chúng ta có thể mô hình hóa bằng các lược đồ. Qua các lược

đồ, chúng ta sẽ thấy cuộc đời của nhân vật chính được thể hiện qua các sự

việc. Đó chính là những chặng đường đời thể hiện sự trưởng thành của nhân

vật hay những mốc quan trọng đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời của họ.

Trong mỗi sự việc, tác giả dân gian lại xây dựng nên một chuỗi các chi tiết

62

nhằm minh họa, làm rõ các sự việc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bảng 2: Lược đồ cách tổ chức sắp xếp các sự việc trong truyện cổ tích

thần kỳ “Chua Thênh và A Sở”:

- Hai anh em mồ côi cha mẹ từ sớm. Phần

- Chua Thênh chiếm hết gia tài. mở

- A Sở bị đối xử như người đi ở. đầu

- A Sở bắt được cáo và tha chết cho cáo.

- Cáo hát và múa khèn nuôi A Sở -> chàng trở nên giàu có.

- Chua Thênh mượn cáo -> cáo không giúp -> hắn giết cáo và

quăng xác xuống ruộng.

- A Sở nhặt xương đầu cáo làm gáo múc cám -> lợn lớn nhanh.

- Chua Thênh mượn gáo múc cám lợn -> cả đàn lợn chết dần -

> hắn vứt gáo vào bếp lửa. Phần

- A Sở nhặt mảnh xương đầu cáo làm lược chải đầu-> tóc nội

chàng dài, óng mượt, bán được nhiều tiền. dung

- Chua Thênh mượn lược -> tóc hắn rối bù, mắc vào gai tre ->

hắn bẻ gẫy lược vứt gáo vào bếp lửa.

- A Sở nhặt mảnh lược làm lưỡi câu-> câu được nhiều cá, bán

được nhiều tiền.

- Chua Thênh mượn lưỡi câu-> rồng nuốt lưỡi câu, rắn quấn

vào dây -> hắn đã bị trừng trị.

- A Sở dùng hòn đá thần cứu sống Long Vương -> ngài đã gả

con gái và tặng cho chàng chiếc ô thần.

- Yêu tinh bắt vợ A Sở -> chàng thi tài và chiến thắng nó ->

cứu được vợ.

- Long Vương giúp đỡ A Sở về vật chất. Phần

- Hai vợ chồng trở nên gàu có, sống hạnh phúc. kết

63

- A Sở tiếp tục chữa bệnh cho mọi người. thúc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bảng 3: Lược đồ cách tổ chức sắp xếp các sự việc trong truyện cổ tích

thần kỳ “Kề Tấu”:

- Kề Tấu mồ côi cha mẹ từ sớm -> người cô ruột nhận về làm Phần

con nuôi. mở

- Chàng chậm lớn, còi cọc, lùn tè, không biết nói... đầu

- Năm 20 tuổi, Kề Tấu đòi mẹ đi hỏi vợ (con gái út của vua).

- Nhà vua đưa ra thử thách: đấu chó, đấu lợn, đồ thách cưới.

- Kề Tấu vượt qua tất cả thử thách nhờ các lực lượng thần kỳ. Phần

- Thần trời tặng Kề Tấu chiếc lược thần -> chàng trở thành nội

chàng trai tuấn tú. dung

- Giặc tràn sang -> Kề Tấu dùng lược thần giết giặc rồi tha

chết cho chúng về nước -> đất nước thanh bình.

Phần

- Nhà vua không có con trai -> Kề Tấu được suy tôn làm vua. kết

thúc

Qua hai sơ đồ trên, chúng ta thấy các chi tiết được lựa chọn, tổ chức và

liên kết với nhau rất chặt chẽ. Các chi tiết móc nối với nhau theo một hệ

thống. Chính vì thế, phần nội dung cung cấp cho người đọc rất nhiều sự việc

quan trọng liên quan đến cuộc đời nhân vật chính. Những sự việc ấy giúp cho

chúng ta hiểu, nhận xét và đánh giá đúng cuộc đời của mỗi nhân vật. Nội

dung của mỗi truyện cổ tích thần kỳ hay hay dở chính là do cách lựa chọn, tổ

chức, sắp xếp thông tin, sự việc của tác giả dân gian ở phần này. Họ phải khéo

léo lựa chọn các sự việc, các yếu tố thần kỳ đắt giá nhất để tránh lan man, gây

nhàm chán nhưng cũng phải cung cấp đủ những thông tin cần thiết để có thể

hiểu về cuộc đời của nhân vật. Cũng qua lược đồ trên, chúng ta thấy mỗi sự

64

việc lại được triển khai, trình bày thông qua các chi tiết nhỏ hơn. Tất cả các sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

việc, các chi tiết được kết nối với nhau chặt chẽ. Sự việc nọ nối tiếp sự việc

kia. Chi tiết nọ nối tiếp với chi tiết kia một cách tuần tự. Hầu như ở phần này,

ta không bắt gặp các sự việc, các chi tiết xảy ra trong quá khứ. Phần lớn các

sự việc được sắp xếp theo trình tự thời gian. Như vậy, đây chính là phần thể

hiện rõ nhất nội dung tư tưởng của tác phẩm và tài năng sáng tạo của tác giả

dân gian.

3.1.3. Phần kết thúc

Phần kết thúc có nhiệm vụ khép lại nội dung câu chuyện. Dung lượng

nội dung của phần này thường ngắn, có khi chỉ là một đoạn hoặc một hai câu

văn. Nhưng đây là phần quan trọng và có ý nghĩa rất sâu sắc. Nó giúp người

đọc có được cái nhìn toàn vẹn và đầy đủ về nhân vật và toàn bộ câu chuyện.

Dù được kể theo những cách khác nhau và sử dụng những môtíp khác

nhau song ở bất cứ mảng đề tài nào cũng hướng tới một cái kết chung: cái

thiện chiến thắng cái ác, sự tốt đẹp chiến thắng cái xấu xa. Nhân vật chính

diện bao giờ cũng được hưởng cuộc sống sung sướng hạnh phúc. Ngay cả đến

lúc chết, họ vẫn được quây quần và đoàn tụ bên nhau. Ngược lại, nhân vật

phản diện thường phải nhận lấy cái chết bi thảm hoặc biến thành các con vật

sống chui lủi trong rừng sâu. Điều đặc biệt là họ thường bị trừng trị bởi các

lực lượng siêu nhiên chứ không phải bởi các nhân vật chính diện.

Trong đoạn kết của truyện Sao Pàng, cô gái Sao Pàng hiền lành tốt

bụng, sẵn sàng giúp đỡ mọi người cuối cùng cũng trở nên giàu có, được xây

tổ ấm bên chàng trai Mông tốt bụng. Mụ dì ghẻ thì phát điên phát cuồng, khóc

lóc thảm thiết, chửi bới om xòm. Ông bố đẻ - kẻ tiếp tay cho cái ác thì phải

xuống cõi âm ty mà chịu tội. Sau khi được hóa kiếp, nàng Nao trong truyện

Nàng Nao và Xênh vẫn được hưởng hạnh phúc bên cạnh chồng con. Còn mẹ

con mụ dì ghẻ bị núi đá sụp lở vùi lấp, chúng bị kéo xuống địa ngục chịu tội.

3.2. Đặc điểm xây dựng nhân vật.

Cũng giống như các thể loại tự sự dân gian khác, hệ thống nhân vật của

65

truyện cổ tích bao gồm nhân vật người dẫn truyện, nhân vật chính và các nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vật phụ. Nhân vật phụ trong truyện cổ tích thần kỳ thường không được chú

trọng nhiều bởi đó chỉ là những nhân vật nền để tác giả dân gian khắc họa

nhân vật chính.

3.2.1. Đặc điểm xây dựng nhân vật chính.

Nếu như nhân vật chính của truyện truyền thuyết là những người liên

quan đến lịch sử thì nhân vật trong truyện cổ tích thần kỳ là những người mồ

côi, người em, người con riêng, người đội lốt, người dũng sĩ. Nhân vật chính

bao giờ cũng được các tác giả dân gian chú trọng khắc họa sao cho thật ấn

tượng, hấp dẫn bằng những thủ pháp nghệ thuật độc đáo.

3.2.1.1. Nghệ thuật giới thiệu nhân vật.

Qua việc khảo sát nghệ thuật xây dựng nhân vật chính trong truyện cổ

tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi thấy ở phần mở

đầu của hầu hết các truyện có phần giới thiệu về nguồn gốc xuất thân của

nhân vật. Các nhân vật không những xuất thân trong những gia đình nông dân

nghèo khó mà họ còn là những đứa trẻ mồ côi, chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh.

Trong các truyện cổ tích thần kỳ đã khảo sát, chúng tôi nhận thấy nhân

vật mồ côi là nhân vật thường gặp nhất. Họ là hình ảnh của những con người

chịu nhiều cơ cực, thiệt thòi và bất hạnh trong cộng đồng người Mông. Phần

giới thiệu về các nhân vật dù kĩ lưỡng hay sơ lược chúng ta vẫn biết được họ

xuất thân trong gia đình nghèo khổ. Hơn thế nữa họ là những đứa trẻ mồ côi,

bơ vơ. Không chỉ xuất hiện ở nhóm chủ đề trên, ngay cả những tác phẩm

thuộc nhóm truyện về người em, người dũng sĩ ta cũng bắt gặp những nhân

vật có nguồn gốc xuất thân tương tự như vậy. Một số truyện như Mặt đất lồi

lõm, Sự tích gà mái ấp trứng vịt nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng như cốt

truyện lại mang màu sắc của truyện thần thoại, tuy nhiên “yếu tố thần thoại”

không nhiều. Theo quan điểm của chúng tôi sự giao thoa giữa thần thoại và

truyện cổ tích thần kỳ là do hai nguyên nhân cơ bản sau:

Thứ nhất: Theo quy luật phát triển của loại hình tự sự dân gian, sự ra

66

đời của các thể loại từ thần thoại đến truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn… bao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

giờ cũng có sự “gối sóng” chứ không bị cắt đứt hoàn toàn. Để chuẩn bị cho

một thể loại mới ra đời thường diễn ra hiện tượng “rạn nứt”, “biến đổi” thể

loại cũ. Điều đó có nghĩa là thể loại cũ không còn giữ được tính chất đặc

trưng của nó. Như vậy, một số truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu

hành ở Yên Bái vẫn còn vương vấn bóng dáng của truyện thần thoại, những

tác phẩm này được ra đời từ rất sớm, vào thời điểm truyện thần thoại, truyền

thuyết đang có sự vận động, biến đổi, báo hiệu sự “phá vỡ” thi pháp các thể

loại trước để truyện cổ tích ra đời.

Thứ hai: Do quá trình lưu truyền, một số thần thoại, truyền thuyết bị

“đồng hóa” một phần với cổ tích - thể loại ra đời sau nó - một cách vô thức do

sự vô tình hoặc suy nghĩ đơn giản của nhân dân. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến

cho rằng các nhà nghiên cứu văn học dân gian truyện trong quá trình sưu tầm,

ghi chép, dịch đã thêm bớt các chi tiết cho câu chuyện thêm phần ly kì, hấp

dẫn. Chính điều đó làm nên sự cộng gộp cổ tích với thần thoại và truyền

thuyết cùng các thể loại khác với nhau.

Có thể nói rằng hiện tượng giao thoa trong nghệ thuật xây dựng nhân

vật cũng như cốt truyện trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu

hành ở Yên Bái là một đặc điểm độc đáo do cả nguyên nhân chủ quan và

khách quan đưa đến. Nguyên nhân chủ quan là do sự vận động nội tại của loại

hình tự sự dân gian. Nguyên nhân khách quan là do tính truyền miệng của văn

học dân gian nói chung và của tiểu loại cổ tích thần kỳ nói riêng.

3.2.1.2. Nghệ thuật sử dụng yếu tố thần kỳ

Qua việc khảo sát 24 truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành

ở Yên Bái, chúng tôi thấy yếu tố thần kỳ được sử dụng ở tất cả các truyện cổ

tích. Có những truyện như Nàng Nu, Chín người con trai, Hoàng tử rùa, Kề

Tấu…yếu tố thần kỳ xuất hiện dày đặc song có truyện như Nàng Nao và

Xênh, Sao Pàng yếu tố này chỉ xuất điểm xuyết. Việc sử dụng yếu tố thần kỳ

67

nhiều hay ít còn tùy thuộc vào từng nội dung chủ đề. Những truyện cổ tích về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

người đội lốt, người dũng sĩ yếu tố thần kỳ thường nhiều hơn. Ngược lại,

những truyện cổ tích về người con riêng, người em yếu tố này thường ít hơn.

Điều này hoàn toàn dễ hiểu bởi nhân vật thuộc nhóm cổ tích về người đội lốt,

người dũng sĩ các nhân vật còn mang ảnh hưởng của kiểu nhân vật thần thoại,

những nhân vật này thường gặp nhiều những khó khăn thử thách mà người

bình thường khó có thể vượt qua được như đi lên trời, xuống thủy cung, đánh

nhau với yêu tinh, … Còn nhân vật của nhóm cổ tích người mồ côi, người con

riêng và người em gần gũi hơn với tiểu loại cổ tích sinh hoạt, chính vì thế yếu

tố thần kỳ chỉ xuất hiện khi nhân vật gặp những bế tắc mà tự mình không thể

giải quyết nổi. Thực tế cho thấy, trong truyện cổ tích, các giả dân gian thường

sử dụng yếu tố thần kỳ để giải quyết những vấn đề của xã hội, cụ thể hơn đó

là những vấn đề xung đột về lợi ích. Con người trong xã hội khi đó chỉ là

những nạn nhân, những thân phận nhỏ bé của xã hội, họ chưa có đủ khả năng

để giải quyết những vấn đề của đời sống cho nên giả dân gian phải mượn hình

thức kì ảo để thực hiện những ước mơ của con người. Như vậy tác giả dân

gian sử dụng yếu tố hoang đường để tạo nên một môi trường mà ở đó có các

yếu tố hoang đường xuất hiện, sau đó đặt nhân vật vào trong môi trường ấy.

Có thể nói, yếu tố thần kỳ là phương tiện chủ đạo được các tác giả dân

tộc Mông ở Yên Bái chuộng sử dụng. Yếu tố này kết hợp với việc miêu tả

thực làm cho các câu chuyện trở nên mềm mại, li kì và hấp dẫn hơn chứ

không làm cho tác phẩm khô cứng, đơn điệu. Bên cạnh yếu tố thần kỳ, sự

miêu tả và cách tổ chức nội dung khéo léo của tác giả dân gian cũng góp phần

làm cho nhân vật hiện lên sống động và ấn tượng.

3.2.2. Đặc điểm nhân vật người kể chuyện.

Truyện cổ tích là một loại hình tự sự dân gian. Cũng như các thể loại tự

sự dân gian khác, nhân vật người kể chuyện của truyện cổ tích giữ một vai trò

vô cùng quan trọng. Họ chính là người dẫn dắt, tổ chức câu chuyện. Người kể

68

chuyện có quyền quyết định xem chuyện sẽ được kể như thế nào và kể những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

gì. Bên cạnh đó, đặc trưng của văn học dân gian là tính diễn xướng nên nhân

vật người kể chuyện lại càng giữ vai trò quan trọng.

Qua việc khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở

Yên Bái, chúng tôi nhận thấy nhân vật người kể chuyện ở tất cả các truyện cổ

tích đều dùng ngôi thứ ba số ít. Tức là họ đóng vai trò là người chứng kiến,

sau đó kể lại câu chuyện theo trình tự thời gian chứ không trực tiếp tham gia

vào câu chuyện. Trong quá trình kể chuyện, người kể thường giấu mình đi,

không xưng tên, chỉ xuất hiện trong lời trần thuật. Nghệ thuật trần thuật của

nhân vật người kể chuyện cũng rất phong phú. Ngoài nhiệm vụ kể cho câu

chuyện được hay, gây ấn tượng và hấp dẫn được người nghe, người kể

chuyện còn phải làm cho người nghe tin rằng câu chuyện đó là có thật. Người

nghe tin rằng người kể chuyện là người đã từng chứng kiến hoặc biết tường

tận, chính xác về câu chuyện mà anh ta kể. Ngoài mục đích kể chuyện để giải

trí, người kể chuyện còn làm thêm nhiệm vụ truyền bá tư tưởng đạo lý, hướng

người nghe tới cái chân - thiện - mĩ, làm nhiều việc có ích cho gia đình và

cộng đồng xã hội. Thành công của nhân vật người kể chuyện thể hiện ở chỗ,

sau khi nghe xong câu chuyện anh ta kể, người nghe tin vào tính chân thực

của mỗi tác phẩm. Muốn vậy, người kể chuyện phải sắp xếp các tình tiết của

câu chuyện một cách có hệ thống, hợp tình hợp lí. Nhân vật người kể chuyện

được người nghe xác định chủ yếu thông qua ngôn ngữ trần thuật và vai trò

trần thuật của họ trong mỗi câu chuyện.

3.2.2.1. Nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần thuật

thuần túy

Nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần thuật thuần túy có

nghĩa là toàn bộ nội dung của câu chuyện cổ tích được người kể chuyện dùng

nguyên lời trần thuật của mình để trần thuật lại. Ngoài ngôn ngữ trần thuật

của nhân vật người kể chuyện thì không có ngôn ngữ của nhân vật khác.

69

Những truyện cổ tích của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái chủ yếu sử dụng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngôn ngữ kể và tả. Sự đặc sắc của truyện cổ tích dân tộc Mông lưu hành ở

Yên Bái là tác giả dân gian chỉ sử dụng ngôn ngữ trần thuật thuần túy mà vẫn

tạo nên được những tác phẩm giàu tình tiết với nội dung hấp dẫn. Nói đến văn

bản chỉ sử dụng ngôn ngữ trần thuật thì chúng ta thường hay quan niệm: cách

kể chuyện này có ảnh hưởng nhất định tới sự sinh động, hấp dẫn của truyện

cổ tích. Chẳng hạn như việc người kể chuyện sử dụng thuần túy ngôn ngữ

trần thuật dễ khiến người nghe rơi vào thế bị động khi tiếp nhận nội dung. Nội

dung tư tưởng của mỗi câu chuyện ít nhiều chịu sự áp đặt chủ quan của người

kể chuyện. Người nghe không có cơ hội và cơ sở để đánh giá câu chuyện. Nói

chung khi nói đến văn bản chỉ sử dụng ngôn ngữ trần thuật thuần túy là chúng

ta không mấy ấn tượng nhưng đối với truyện cổ tích Mông lưu hành ở Yên

Bái điều đó không còn đúng. Bởi so với những truyện không sử dụng ngôn

ngữ trần thuật thuần túy thì nội dung của các truyện cổ tích này hấp dẫn và

sinh động không kém. Chỉ có điều, với lối kể chuyện như thế này thì nhiệm

vụ của nhân vật người kể chuyện trở nên đặc biệt quan trọng.

Vậy vì sao ngôn ngữ trần thuật của người kể chuyện lại chiếm ưu thế

tuyệt đối trong truyện cổ tích dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái? Qua việc

khảo sát chúng tôi nhận thấy rằng nguyên nhân chủ yếu là do văn học dân

gian nói chung và truyện cổ tích nói riêng là loại hình văn học truyền miệng.

Tính truyền miệng của văn học dân gian sẽ đem lại cho văn học tính đa dạng,

phong phú về nội dung khi mà văn học dân gian hưng thịnh. Mặt khác, khi

văn học dân gian không còn giữ được vị trí độc tôn trong đời sống tinh thần

của nhân dân thì tính truyền miệng trong văn học dân gian dễ bị mai một và

lãng quên nhanh nhất. Hiện tượng các truyện cổ tích chỉ còn lại ngôn ngữ trần

thuật của người kể chuyện theo chúng tôi cũng không nằm ngoài quy luật này.

Đặc tính truyền miệng cùng với thời gian, khi các câu chuyện cổ tích được kể

lại và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác khiến cho truyện cổ tích của

70

dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái bị mất dần các tình tiết không tiêu biểu và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thêm vào các tình tiết quan trọng trong cốt truyện khiến cho cốt truyện của

các câu chuyện cổ tích ấy ngày càng phong phú hơn. Đến khi các câu chuyện

cổ tích được sưu tầm, biên tập lại và in thành sách thì chỉ còn lại cốt truyện cơ

bản được sắp xếp theo một trình tự nhất định cùng với ngôn ngữ trần thuật

của người kể chuyện.

3.2.2.2. Nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần

thuật xen với ngôn ngữ đối thoại của nhân vật chính

Trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái thì

kiểu trần thuật phổ biến của người kể chuyện là lối sử dụng ngôn ngữ trần

thuật xen với ngôn ngữ đối thoại của nhân vật chính. Tất cả các văn bản có sử

dụng kiểu trần thuật này chúng ta đều thấy có sự sáng tạo của người kể

chuyện. Người kể chuyện trong lúc này chỉ giữ vai trò là người dẫn dắt câu

chuyện. Sự dẫn dắt ấy sẽ làm cho câu chuyện thêm phần phong phú, hấp dẫn và

sinh động. Trong những câu chuyện cổ tích có kiểu trần thuật xen kẽ ta thấy

được những tình huống gay cấn, kịch tính, hóm hỉnh, bất ngờ của câu chuyện.

Nó thể hiện sự linh hoạt của người kể trong quá trình dẫn dắt câu chuyện.

Điểm nổi bật của ngôn ngữ đối thoại trong truyện cổ tích thần kỳ của

dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái là: các nhân vật thường xưng “ta” (ngôi thứ

nhất) và dùng câu rút gọn trong khi giao tiếp. Chính vì thế mà ta thấy câu

thoại của các nhân vật thường rất cô đúc, lời nói của nhân vật có ý nghĩa hơn

rất nhiều lời miêu tả. Thông qua lượt lời của các nhân vật, ta ít thấy họ sử

dụng từ ngữ bay bổng mà đi trực tiếp vào vấn đề. Đây có thể coi là đặc trưng

của truyện cổ tích Mông vì lối giao tiếp của các nhân vật trong truyện gần với

lối giao tiếp trong đời sồng hằng ngày trong đời sống của người Mông.

“Một hôm trời mưa tầm tã chẳng ai ra khỏi nhà. Kề Tấu đang nằm

bỗng nhiên tung chăn dậy gọi mẹ:

- Bây giờ con đã gần 20, phải lấy vợ, mẹ đi hỏi cho con.

71

- Thế con định lấy ai?

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Lấy con gái thứ chín của vua.

- Nhà ta nghèo, làm sao lấy được con vua?

Kề Tấu nằn nì mãi, người mẹ mừng con biết nói, chiều con đành nhận

lời đi hỏi vợ cho con.

Trên đường đi người mẹ nghĩ: gia đình mình nghèo, con mình lại xấu

xí, lấy thế nào được con vua? Đi đến nửa đường bà quay về bảo con:

- Nhà ta nghèo họ không gả…”.

(Trích truyện: Kề Tấu).

Đoạn trích trên thuật lại cuộc trò chuyện giữa chàng Kề Tấu với người

mẹ của mình. Điều đặc biệt, ta thấy hai mẹ con chàng Kề Tấu dùng rất nhiều

những câu rút gọn. Nếu không hiểu về văn hóa giao tiếp trong đời sống hằng

ngày của người Mông ta sẽ thấy nhân vật Kề Tấu thật khiếm nhã khi nói trống

không với mẹ và mẹ của chàng cũng liên tục sử dụng các câu thoại theo kiểu

“bằng vai phải lứa” với con. Thực ra, so với vốn từ ngữ của người Việt thì

vốn từ của người Mông rất hạn chế, họ rất ít khi sử dụng từ đồng nghĩa mà sử

dụng các từ đồng âm khi giao tiếp. Để hiểu được ý nghĩa của các từ ngữ đó, ta

phải chú ý đến ngữ cảnh giao tiếp. Bên cạnh đó, người Mông lại sống ở các

triền núi cao, mật độ dân cư thưa thớt vì vậy khi thông tin người ta phải nói

ngắn gọn súc tích, miễn sao truyền tải được thông tin đến người nghe càng

nhanh và chính xác càng tốt. Chính vì thế, truyện cổ tích của người Mông đã

phần nào thể hiện được bản sắc văn hóa dân tộc Mông ở trong đó.

“Xí Xang khỏe lại tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người nên trong vùng ai

cũng mến. Một hôm chàng gặp một ông già tóc bạc phơ, da đỏ như trái hồng

chín. Ông già khoan thai nhìn xuống tảng đá to phẳng lỳ trò chuyện với Xí Xang:

- Ông tuy già nhưng biết đao biết kiếm. Thấy cháu hiền từ lại có sức

khỏe, ông muốn truyền lại cho cháu. Ý cháu thế nào?

- Cháu rất thích học. – Xí Xang đáp.

72

- Tại sao cháu lại thích? – Ông già hỏi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Trước đây nghe chú cháu kể chuyện, rằng có ông tiên dùng kiếm thần

giết được yêu quái để cứu người bị hại. Vùng này nhiều suối khe rừng rậm,

rừng già bát ngát, có nhiều hổ báo, trăn tinh bắt trâu bò lợn, hại con người.

Cháu muốn học để bảo vệ thân mình và trừ thú ác giúp người lương thiện.

Ông già mỉm cười gật đầu, chòm râu bạc rung rung tỏ ý hài lòng, hẹn

sẽ gặp lại. Sau đó ông già dạy đao kiếm cho Xí Xang”.

(Trích: Chuyện Xí Xang).

Trong đoạn trích trên, người trần thuật kể lại cuộc đối thoại giữa Xí

Xang và ông tiên. Trong quá trình đối thoại, xuất hiện lời của hai nhân vật

giao tiếp nhưng lời của nhân vật chính nhiều hơn, dài hơn lời của nhân vật

phụ. Lời của nhân vật phụ là cái cớ để Xí Xang bộc lộ những suy nghĩ của

mình. Điều này đã thể hiện sự linh hoạt trong nghệ thuật kể của người kể

chuyện. Ngoài ra, ta còn thấy có nhân vật thứ ba trong đoạn đối thoại. Lời của

nhân vật thứ ba (người chú) cũng được nhân vật trích dẫn khi giao tiếp.

Việc sử dụng đan xen ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ đối thoại của

người kể đã mang lại nhiều ý nghĩa tích cực:

Thứ nhất: Nội dung của truyện cổ tích thần kỳ trở nên sinh động và cụ

thể hơn, đây chính là một cơ sở góp phần tăng niềm tin của người đọc đối với

nội dung câu chuyện. Tăng tính xác thực cho nội dung câu chuyện. Bởi câu

chuyện được người kể chuyện kể lại mà như đang diễn ra. Người đọc như

phần nào được chứng kiến diễn biến của câu chuyện.

Thứ hai: Nhân vật hiện lên sống động, gần gũi hơn. Ta thấy, nhân vật

được nói tức là nhân vật được sống. Qua lời nói, ta sẽ thấy nhân vật có hồn

hơn, có cá tính hơn. Những cuộc đối thoại sẽ tạo nên mối quan hệ giữa các

nhân vật trong truyện cổ tích thần kỳ. Từ đó người nghe sẽ được tiếp nhận nội

dung của truyện cổ tích thần kỳ một cách khách quan hơn. Mối tương quan

giữa các nhân vật người kể chuyện với các nhân vật khác trở nên hài hòa hơn.

Người kể chuyện không nắm quyền tuyệt đối mà đã kể câu chuyện tự nó hiện

73

lên thông qua ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3.3. Không gian - thời gian nghệ thuật.

Cùng với nhân vật, không gian và thời gian nghệ thuật cũng là những

phương diện nghệ thuật quan trọng góp phần xây dựng nên một tác phẩm văn

học. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật đều là hình thức tồn tại

của thế giới nghệ thuật, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, mang đầy

tính biểu trưng và tính quan niệm. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ

thuật trong văn học dân gian có nhiều điểm khác biệt so với văn học viết. Sự

khác biệt này còn diễn ra ở từng thể loại của nó. Thần thoại, truyền thuyết, cổ

tích, ca dao… đều có những đặc trưng riêng về không gian nghệ thuật và thời

gian nghệ thuật.

3.3.1. Không gian nghệ thuật.

Không gian nghệ thuật trong tác phẩm là sự mô hình hóa các mối liên

hệ về thời gian, xã hội, đạo đức của bức tranh thế giới thể hiện quan niệm về

trật tự thế giới và sự lựa chọn của nhà văn. Nghiên cứu không gian nghệ thuật

của truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi

thấy có những đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất: Không gian hoang sơ

Đó là một không gian mà ở đó con người rất thưa thớt, cảnh vật hoang

sơ, âm u với rừng rậm, hang sâu, các làng bản hoang sơ, tiêu điều. Đó là kiểu

không gian mà ở đó lực lượng của thiên giới và hạ giới có thể qua lại với

nhau một cách đơn giản mà không cần đến một thế lực thần tiên hay một phép

màu nhiệm nào. Không gian của thiên giới và hạ giới gần như không có giới

hạn hay rào chắn nào. Chính vì vậy mà khi cần, ông Trời hay người của nhà

Trời có thể xuất hiện để chỉ dẫn cho con người dưới hạ giới. Hoặc nếu không

thì con người dưới hạ giới có thể dắt nhau đi hỏi người nhà Trời. Có nghĩa là,

khi xây dựng không gian nghệ thuật của những truyện cổ tích thần kỳ loại

74

này, tác giả dân gian quan niệm về con người, thế giới còn rất nguyên sơ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thứ hai: Chuyển dịch và mở rộng không gian

Tác giả dân gian xây dựng không gian nghệ thuật có sự dịch chuyển từ

điểm này tới điểm khác. Bao giờ sự xuất hiện của nhân vật cũng ở một địa

điểm - đó là nơi họ sinh sống hằng ngày; sau khi một biến cố lớn xảy ra, họ

đến một không gian mới. Không gian này hoàn toàn xa lạ với họ. Điểm đến

này hoàn toàn không nằm trong dự định và kiểm soát của họ. Đây là vùng đất

mới - không gian mới. Khi các nhân vật xuất hiện ở đây, chúng ta cảm nhận

họ đã mất hoàn toàn phương hướng để định vị về vùng đất cũ. Tại đây, họ

thiết lập cuộc sống mới cho mình.

Để thể hiện được nội dung chính của mỗi câu chuyện cổ tích thần kỳ,

nhân dân còn xây dựng kiểu không gian được mở rộng. Đó là điểm dừng của

nhân vật ở vùng đất mới. Bắt đầu từ đây, không gian lại được mở rộng dần ra

cùng với sự xuất hiện của con người. Chính sự mở rộng không gian này gắn

liền với ý nghĩa thiết lập cuộc sống ở một vùng đất mới.

3.3.2. Thời gian nghệ thuật

Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể nghiệm được ở trong tác

phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay

chậm, với chiều dài thời gian quá khứ, hiện tại hay tương lai. Thời gian nghệ

thuật luôn gắn liền với thời gian tâm lý. Qua việc khảo sát truyện cổ tích thần

kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi thấy thời gian nghệ thuật

của của các truyện cổ tích thần kỳ chủ yếu là kiểu thời gian phiếm chỉ, mơ hồ

- đây là kiểu thời gian đặc thù trong truyện cổ tích của người Việt. Ở phần mở

đầu của mỗi truyện cổ tích, bao giờ thời gian ấy cũng được đề cập.

Các câu chuyện được kể không có mốc thời gian bắt đầu hay khoảng

thời gian diễn ra. Cụm từ được dùng để bắt đầu kể câu chuyện và thiết lập

thời gian nghệ thuật trong tác phẩm là: ngày xưa, ngày xửa ngày xưa, thuở

xưa, thời xa xưa, xưa, thời xưa,… Từ đó, diễn biến câu chuyện được kể lại

75

với nhiều chi tiết, sự việc nhưng tất cả các chi tiết, sự việc đều không được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhắc tới yếu tố thời gian hoặc yếu tố thời gian rất mơ hồ: một hôm, mặt trời

lên đến lưng chừng núi, hôm sau, ngày qua ngày, một sớm mai…Cũng có khi

tác giả sử dụng những cụm từ chỉ thời gian cụ thể: chín tháng mười ngày, ba

hôm sau, bẩy ngày bẩy đêm.. những những từ này không đủ để tạo nên thời

gian nghệ thuật cụ thể. Cuối cùng, khi kết thúc câu chuyện, người đọc cũng

không có căn cứ nào để xác định được thời gian của câu chuyện. Cách xây

dựng thời gian như thế khiến người đọc chỉ có thể biết được rằng từng có một

câu chuyện như thế đã diễn ra và được người dẫn truyện kể lại. Việc xây dựng

thời gian nghệ thuật phiếm chỉ trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông

lưu hành ở Yên Bái là một đặc điểm nghệ thuật nổi bật. Giải thích hiện tượng

này theo chúng tôi đó là do sự giao thoa thể loại của truyện cổ tích các dân tộc

với nhau.

Cũng giống như các thể loại tự sự dân gian khác, thời gian nghệ thuật

của các truyện cổ tích luôn được xây dựng theo trật tự tuyến tính. Các sự việc

được kể theo trình tự thời gian. Cái gì xảy ra trước được trần thuật trước, cái

gì xảy ra sau được trần thuật sau. Trình tự ấy gắn liền với sự xuất hiện nhân

vật chính cũng như hoạt động của họ. Biên độ và nhịp điệu thời gian của

truyện cổ tích thần kỳ thường có sự thay đổi nhưng không đột biến. Ở phần

mở đầu, khi giới thiệu về nhân vật chính nhịp điệu câu chuyện thường chậm,

thong thả. Nhưng kể từ khi câu chuyện xuất hiện các biến cố thì nhịp điệu kể

nhanh hơn. Tuy nhiên khi nhân vật kể chuyện xuất hiện và trực tiếp tham gia

vào các hành động thì nhịp điệu kể có sự xen kẽ: thời gian như trôi nhanh hơn

cùng với các hành động liên tiếp của nhân vật, nhưng khi nhân vật dừng lại

đối thoại thì thời gian lại như chậm lại và dừng lại ở cuộc đối thoại ấy. Thời

gian trần thuật ở phần cuối tác phẩm thường được tác giả trần thuật với nhịp

điệu chậm hơn.

Như vậy, cùng với các yếu tố nghệ thuật khác, thời gian nghệ thuật

trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái đã góp

76

phần làm cho nội dung câu chuyện trở nên sinh động và hấp dẫn hơn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3.4. Một số biểu tượng trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc

Mông lưu hành ở Yên Bái

Văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật mà đặc điểm

cơ bản của hình tượng nghệ thuật là sự tái hiện thế giới, làm cho con người và

cuộc sống hiện lên y như thật. Nhưng hình tượng cũng là hiện tượng đầy tính

ước lệ. Bằng hình tượng, nghệ thuật sáng tạo ra một thế giới hoàn toàn mang

tính biểu tượng. Cho nên, biểu tượng là đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng

hình tượng của văn học nghệ thuật. Khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân

tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi thấy có một số biểu tượng sau:

Bảng 4: Một số hình ảnh biểu tượng trong truyện cổ tích thần kỳ của

dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái:

STT Hình ảnh biểu tượng Tần số xuất hiện % Số truyện

16 15,24 11 1. Con bò

9 8,57 8 2. Con cá

15 14,29 13 3. Con ngựa

14 13,33 11 4. Hòn đá

5 4,76 5 5. Hội Gầu tào

Số 3 13 12,38 12 6.

Số 9 19 18,10 13 7.

9 8,57 9 8. Mặt trời

5 4,76 5 9. Lanh

Từ những số liệu trong bảng thống kê trên, ta thấy số 9 có tần số xuất

hiện nhiều nhất so với các biểu tượng còn lại (19 lần, chiếm 18,1%), tiếp đó là

con bò: 16 lần (15,24%), con ngựa: 15 lần (14,29%), hòn đá: 14 lần

(13,33%)... Chúng tôi xin lý giải bốn trong số chín biểu tượng trên.

+) Số 9: Trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông, số 9 biểu

tượng cho độ cao của bầu trời: chín tầng trời, chín tầng mây (Lần ấy, mưa to

77

như thác đổ, nước trút xuống. Mưa dồn dập không biết bao nhiêu ngày đêm,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nước dâng ngang chín tầng trời- Mặt đất lồi lõm). Số chín còn dùng để biểu

thị chiều dài và chiều rộng của không gian (Chàng bật dậy thấy nàng Út mỉm

cười, tay cầm cái ô, tay dắt đôi ngựa. Hai người nhảy phắt lên ngựa phi như

bay, băng qua chín núi, tám đèo đến một bãi cỏ rộng và bằng phẳng… - Kề

Tấu). Ngoài ra, số 9 còn biểu thị cho sự giàu có, đầy đủ, sung túc (“Đêm ấy,

anh em họ mạc của nàng Nu ở trên trời xuống làm cho vợ chồng nàng được

chín gian nhà mới, mang cho chín con lợn, chín hũ rượu, ăn một bữa xáo dề

mừng nhà mới”- Nàng Nu). Đối với người Mông ở Yên Bái thì số 9 là con số

của sự an lành, hạnh phúc và thuận lợi vì nó gần với sự viên mãn, tròn đầy.

Số 9 còn tượng trưng cho sự toàn vẹn, hòa hợp của trời và đất. Các thầy

phong thủy cũng xem con số này là số may mắn vì nó không bao giờ thay đổi

cho dù ta nhân nó với bất cứ số nào: 9 x 2 = 18 (8 + 1 = 9), 9 x 3 = 27 (7 + 2 =

9), 9 x 9 = 81 (8 + 1 = 9)… Người Mông ở Yên Bái thường chuộng số lẻ,

trong các số tự nhiên thì số 9 là số lẻ lớn nhất chính vì thế khi đi rước dâu, sắp

đặt đồ vật thờ cúng hoặc trang trí đồ vật trong nhà, họ thường lựa chọn con số

này. Vì thế số 9 cũng xuất hiện rất nhiều lần trong truyện cổ tích thần kỳ của

dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.

+) Con bò: Có thể nói bò là vật nuôi gắn bó thân thiết đối với người

Mông ở Yên Bái từ rất xa xưa. Chính vì thế hình ảnh của nó cũng xuất hiện

nhiều trong truyện cổ tích thần kỳ. Khi giới thiệu về các nhân vật mồ côi, tác

giả dân gian thường gán cho họ hành động chăn bò: “Thuở xưa có chàng Nhà

Tếnh cha mẹ mất sớm, chàng ở với Dúa Pủa, người anh con ông bác. Dúa

Pủa cũng không còn bố mẹ, không có anh em. Nhưng còn cái nhà gỗ ba gian

và đàn bò, Dúa Pủa hơn Nhà Tếnh mấy tuổi, làm nương rẫy để sống. Nhà

Tếnh hàng ngày đi chăn bò… - Nhà Tếnh”. Cũng có khi bò giúp đỡ người tốt

và trừng phạt kẻ xấu: “Hôm sau, Xênh mạng sợi lên núi tìm bò, nhờ giúp.

Nhưng Xênh quên mất lời Nao dặn là phải quấn sợi vào đầu bò, nên bị bò hất

78

tung sợi xuống khe. Xênh trở về nhà nói cho mẹ biết và khóc lóc kêu ca mấy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngày liền. Dì ghẻ tức giận bảo giết bò đi. Nao đến lũng rau bên rừng nói cho

bò biết…- Nàng Nao và Xênh”. Trên thực tế, bò được người Mông nuôi để

bừa nương và ruộng bậc thang. Bên cạnh đó, trong những lễ hội, đám cưới,

đám ma, họ thường mổ bò lấy thịt đãi khách. Số lượng bò cũng dùng để phân

biệt kẻ giàu người nghèo trong xã hội xưa. Nhà giàu có thường có nhiều gia

súc, trong đó bò đóng vai trò quan trọng. Trong những đám cưới lớn, có gia

đình đã giết tới hai, ba con bò để làm tiệc đãi khách. Có thể nói, đối với người

Mông con bò có vai trò vô cùng quan trọng, nó gần gũi với người dân lao

động như con trâu của người Kinh vậy.

+) Con ngựa: Người Mông xưa thường dùng ngựa làm phương tiện đi

lại, bên cạnh đó nó còn giúp con người thồ hàng về bản xa trên những con

đường gồ ghề, trắc trở. Trong các chuyến đi săn, ngựa còn giúp các chàng trai

Mông vượt núi, băng đèo, qua những vách đá hiểm trở để săn bắt thú. Trong

lễ hội, các chàng trai thường thi tài đua ngựa bắn cung để chinh phục những

cô gái Mông xinh đẹp. Phiên chợ Mông cũng không thể thiếu được món

Thắng cố - được làm từ nội tạng của ngựa. Chính vì thế trong truyện cổ tích

thần kỳ của dân tộc Mông, hình ảnh con ngựa được nhắc lại rất nhiều lần.

Song ngựa trong truyện cổ tích thường được nhắc tới trong vai trò là phương

tiện đi lại là chính: “Thời xa xưa có chàng Lao Tráng tính tình tinh nghịch,

rong chơi suốt ngày suốt tháng. Ban đêm, chàng lần vào bản trộm ngựa của

dân, dắt được ngựa là phi nước đại, bay như thần gió… - Sự tích đuôi gấu”;

“Đúng hẹn, A Sở mang cáo đi, lần này chàng cưỡi một con ngựa, cáo ngồi

trên lưng một con ngựa đến nhà quan, múa hát xong được thưởng tiền bạc rất

hậu…- Chua Thênh và A Sở”. Trong chiến trận, ngựa cũng làm phương tiện

để người dũng sĩ xông pha vào trận mạc: “Rì Tủa mặc áo giáp, cưỡi ngựa

hồng, điều binh khiển tướng thẳng đường biên ải tiến quân… - Rì Tủa”. Như

vậy, ngay từ xa xưa, con ngựa đã gắn bó mật thiết với đời sống vật chất và

tinh thần của người Mông vì vậy hình ảnh của nó có trong các tác phẩm văn

79

học dân gian của dân tộc Mông là hoàn toàn dễ hiểu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

+) Hòn đá: Trong đời sống hằng ngày, người Mông thường dùng hòn

đá vào nhiều công việc khác nhau: kê cột nhà, làm hàng rào chắn thú dữ, làm

kiềng đun bếp, kè ruộng bậc thang…Trong tín ngưỡng, người Mông còn có

tục thờ hòn đá hoặc núi đá thiêng. Nhiều người cho rằng khi bị ốm, cần đến

phiến đá lớn xin thần núi đá ban cho sức khỏe, nếu người ốm khỏe mạnh trở

lại, gia đình sẽ mang lễ đến thắp hương để cảm tạ. Đá cũng có công dụng tạo

lửa để đốt. Chính vì thế, nhiều truyện cổ tích Mông lưu hành ở Yên Bái có

hình ảnh hòn đá: “Con người lấy hai hòn đá siết mạnh vào nhau tóe lửa, đốt

đống gianh bốc cháy cao ngất trời. Các con vật bị nóng bỏng như bị nướng

thịt chảy mỡ… - Trời chết”; “Khi ấy, Rì Gàng vẫn bám theo A Xang, hai

người ngồi đợi ở phiến đá cao phía trên hang…- A Xang”; “A Sở đến bên

giường lấy thỏi đá ngọc đặt vào mồm ông cụ thì cái lưỡi câu bật ra ngoài.

Khỏi đau, ông cụ mừng rỡ nói: Ta là Long Vương, cháu đã chữa cho ta khỏi

bệnh, ta mang ơn cháu. Cháu muốn lấy bao nhiêu vàng bạc châu báu hay

muốn lấy thứ gì thì ta tặng…- Chua Thênh và A Sở”. Như vậy có thể nói,

hòn đá có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của

người Mông .

* Tiểu kết chương 3:

Qua tìm hiểu nghệ thuật trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu

hành ở Yên Bái, chúng tôi thấy có một số đặc điểm nghệ thuật nổi bật như sau:

Truyện cổ tích thần kỳ có mô hình kết cấu thống nhất với đầy đủ ba

phần, mỗi phần đảm nhiệm một nhiệm vụ khác nhau. Mô hình này về hình

thức giống với mô hình kết cấu của thể loại trong loại hình tự sự dân gian

nhưng cách triển khai có những điểm độc đáo riêng.

Một số truyện cổ tích thần kỳ mang màu sắc của thần thoại. Yếu tố thần

kỳ được sử dụng trong mỗi mảng đề tài là khác nhau. Bên cạnh yếu tố thần

kỳ, sự miêu tả và cách tổ chức nội dung khéo léo của tác giả dân gian cũng

80

góp phần làm cho nhân vật hiện lên sinh động và ấn tượng. Nhân vật người kể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chuyện cũng được xây dựng thành công qua hai kiểu: nhân vật người kể

chuyện dùng ngôn ngữ trần thuật thuần túy và nhân vật người kể chuyện sử

dụng ngôn ngữ trần thuật xen ngôn ngữ đối thoại của nhân vật.

Truyện cổ tích thần kỳ đã xây dựng thành công không gian và thời gian

nghệ thuật với những nét đặc sắc. Việc xây dựng không gian nghệ thuật đặc

trưng đã có hiệu quả đắc lực trong việc thể hiện nội dung chủ đề. Thời gian

nghệ thuật được xây dựng mang tính phiếm chỉ, mơ hồ.

Các biểu tượng có nhiều trong truyện cổ tích thần kỳ. Nó gắn liền với

đời sống vật chất và tinh thần của người Mông. Thông qua hệ thống các biểu

tượng, ta thấy được truyền thống văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập

quán …của người Mông ở Yên Bái. Những giá trị này được đúc kết và tích

lũy qua hàng nghìn năm lịch sử và nó đã trở thành sức mạnh, niềm tự hào, trở

thành bản sắc văn hóa, văn học của dân tộc Mông.

Những đặc điểm nghệ thuật nổi bật trên đã tạo nên đặc trưng riêng về

nghệ thuật trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.

Nó là cơ sở để chúng ta nhận diện và so sánh truyện cổ tích thần kỳ của dân

tộc Mông với truyện cổ tích thần kỳ của các dân tộc anh em khác, đồng thời

cũng là cơ sở để nghiên cứu điểm tương đồng và khác biệt về nghệ thuật giữa

81

tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ của các dân tộc anh em trên phạm vi rộng hơn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

KẾT LUẬN

Qua việc khảo sát và thống kê truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông

lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:

1. Truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái có mối

quan hệ chặt chẽ với các yếu tố địa lý địa phương và văn hóa của tộc người

Mông. Mặc dù chiếm số lượng khiêm tốn nhưng tiểu loại này rất đặc sắc. Nó

có đóng góp không nhỏ trong việc tạo nên giá trị của kho tàng truyện cổ dân

gian. Các mảng đề tài trong truyện cổ tích thần kỳ vừa có những điểm tương

đồng vừa có những điểm khác biệt thể hiện sự phong phú và độc đáo trong

tiểu loại này. Nghiên cứu truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở

Yên Bái, ngoài những phát hiện về văn học, chúng tôi còn khám phá nhiều

điều xung quanh đời sống tinh thần, văn hóa của họ. Truyện cổ tích thần kỳ là

nơi gửi gắm những ước mơ khát vọng của nhân dân về một xã hội công bằng,

dân chủ và bình đẳng.

2. Nội dung trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở

Yên Bái khá phong phú và có nhiều nét độc đáo.

Nội dung cơ bản trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu

hành ở Yên Bái bao gồm các phương diện cơ bản: truyện về người mồ côi,

truyện về người em, truyện về người con riêng, truyện về người đội lốt,

truyện về người dũng sĩ. Mỗi mảng đề tài lại có những thế mạnh và nét riêng

về nội dung. Trong đó tiêu biểu nhất là truyện về người mồ côi. Ở mảng đề tài

nào, hệ thống nhân vật cũng được xây dựng theo môtíp quen thuộc của truyện kể

dân gian, gồm hai tuyến nhân vật: nhân vật chính diện và nhân vật phản diện.

Hệ thống nhân vật được xây dựng theo lý tưởng thẩm mỹ của dân gian,

thể hiện quan niệm về con người của nhân dân: bênh vực người hiền, người

lương thiện, phản ứng lại kẻ xấu, kẻ ác, kẻ phá vỡ đạo đức dân chủ. Tuyến

nhân vật chính diện gồm những con người có nhiều phẩm chất tốt đẹp, tâm

82

hồn trong sáng, luôn có lòng tin yêu cuộc sống. Tuyến nhân vật phản diện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

gồm đầy đủ bộ mặt ghê gớm, tàn ác như: vua, quan, dì ghẻ, yêu tinh, hổ ác…

Nhóm nhân vật phụ có vai trò quan trọng, xuất hiện đông đảo trong truyện cổ

tích. Đó là Xếnh Lầu, ông tiên, Long Vương, Thần Núi, tiên nữ, người

thường, các con vật… Nhóm nhân vật phụ không chỉ giúp đỡ, quan tâm mà

còn biến ước mơ, khát vọng của người lao động nghèo khổ thành hiện thực.

Từ nội dung về truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở

Yên Bái, chúng ta thấy được tư tưởng, tình cảm, thái độ của nhân dân đối với

con người trong xã hội. Đó là sự cảm thông sâu sắc đối với những kiếp người

bất hạnh trong xã hội. Thông qua các câu chuyện cổ tích thần kỳ, ta thấy được

tác giả dân gian Mông muốn bộc lộ triết lý nhân sinh, khát vọng “cái thiện

thắng cái ác”, “ở hiền gặp lành”, “chính nghĩa thắng gian tà” một cách sâu

sắc. Đây cũng là đặc thù của truyện cổ tích.

3. Nghệ thuật xây dựng truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu

hành ở Yên Bái có nhiều điểm đặc sắc. Nó thể hiện ở các phương diện: kết

cấu tác phẩm, đặc điểm xây dựng nhân vật, xây dựng không gian và thời gian

nghệ thuật, dùng các biểu tượng. Truyện có mô hình kết cấu thống nhất với

đầy đủ ba phần, mỗi phần đảm nhiệm một nhiệm vụ khác nhau. Một số truyện

cổ tích thần kỳ mang có màu sắc của thần thoại. Yếu tố thần kỳ được sử dụng

trong mỗi mảng đề tài là khác nhau. Bên cạnh yếu tố thần kỳ, sự miêu tả và

cách tổ chức nội dung khéo léo của tác giả dân gian cũng góp phần làm cho

nhân vật hiện lên sinh động và ấn tượng. Nhân vật người kể chuyện cũng

được xây dựng thành công qua hai kiểu: nhân vật người kể chuyện dùng ngôn

ngữ trần thuật thuần túy và nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần

thuật xen ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Bên cạnh đó, truyện cổ tích thần

kỳ đã xây dựng thành công không gian và thời gian nghệ thuật với những nét

đặc sắc. Việc xây dựng không gian nghệ thuật đặc trưng đã có hiệu quả đắc

lực trong việc thể hiện nội dung chủ đề. Thời gian nghệ thuật được xây dựng

83

mang tính phiếm chỉ, mơ hồ. Các biểu tượng trong truyện cổ tích thần kỳ gắn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

liền với đời sống vật chất và tinh thần của người Mông. Thông qua hệ thống

các biểu tượng, ta thấy được truyền thống văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng,

phong tục tập quán …của người Mông ở Yên Bái.

Nói tóm lại, qua quá trình khảo sát và nghiên cứu truyện cổ tích thần kỳ

của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi thấy truyện cổ tích thần kỳ

là một tiểu loại của truyện cổ tích. Nó có đóng góp không nhỏ vào kho tàng

truyện dân gian Việt Nam. Văn học nói chung, truyện cổ tích thần kỳ nói

riêng có quan hệ mật thiết với các yếu tố địa lý, lịch sử, văn hóa… của địa

phương. Tuy nhiên cho tới nay, số lượng truyện cổ tích thần kỳ sưu tầm được

còn hạn chế. Chính vì vậy mà chúng tôi rất mong muốn các cơ quan chuyên

trách của trung ương và địa phương có phương hướng để mở rộng sưu tầm

được nhiều nhất truyện dân gian nói chung và truyện cổ tích thần kỳ nói riêng

còn tản mạn ở các địa phương và bảo tồn, phát huy giá trị của văn học dân

84

gian trong đời sống tinh thần của nhân dân ta.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Thị An (1999), Truyện kể dân gian từ góc nhìn hiện đại, Tạp chí

Văn học (3), Hà Nội.

2. Tạ Duy Anh (2006), Vẻ đẹp của nhân vật chính diện trong cổ tích, Tạp

chí Văn học và Tuổi trẻ (9), Hà Nội.

3. Nguyễn Đổng Chi (1964), Nghiên cứu về truyện cổ tích, In trong cuốn

“Kho tàng truyện cổ tích” (tập 1), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, (tập 1,2),

NXB Giáo dục, Hà Nội.

5. Chu Xuân Diên (1981), Về việc nghiên cứu thi pháp Văn học dân gian,

Tạp chí Văn học (5), Hà Nội.

6. Chu Xuân Diên (1989), Truyện cổ tích trong con mắt các nhà khoa học,

NXB Đại học Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.

7. Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian - mấy vấn đề phương pháp

luận và nghiên cứu thể loại, NXB Giáo dục, Hà Nội.

8. Nguyễn Đức Đạt (2010), Phong cách kể truyện cổ tích của Nguyễn Đổng

Chi trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ khoa học

Ngữ văn, trường ĐHSP Hà Nội.

9. Nguyễn Tấn Đắc (2006), Mô típ cái duy nhất, Tạp chí Nghiên cứu Văn

học (1), Hà Nội.

10. Nguyễn Tấn Đắc (2001), Truyện cổ dân gian đọc bằng tip và môtip,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

11. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình Văn học dân gian Việt Nam,

NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

12. Hà Minh Đức (2000), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

13. Nguyễn Xuân Đức (2003), Những vấn đề thi pháp Văn học dân gian,

85

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

14. G.N. Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học (tập 2), NXB Giáo

dục, Hà Nội.

15. Nguyễn Bích Hà (1991), Hình tượng rắn từ thần thoại đến truyện cổ

tích, Tạp chí Văn hóa dân gian (1), Hà Nội.

16. Nguyễn Bích Hà (1999), Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ ở Việt Nam

và Đông Nam Á, NXB Giáo dục, Hà Nội.

17. Nguyễn Thị Bích Hà (2005), Vận dụng lý thuyết so sánh, tìm hiểu kiểu

truyện người em trong truyện cổ tích Việt Nam và Châu Âu, Tạp chí

Nghiên cứu văn học, (4), Hà Nội.

18. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2011), Từ điển Thuật

ngữ Văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

19. Đặng Thị Thu Hà (2005), Kiểu truyện người lấy vật và sự phản ánh chủ

đề phong tục trong truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam, Luận văn Thạc

sĩ khoa học Ngữ văn, trường ĐHSP Hà Nội.

20. Phùng Thị Phương Hạnh (2011), Khảo sát truyền thuyết các dân tộc lưu

hành ở Yên Bái, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, trường ĐHSP Hà

Thái Nguyên.

21. Phạm Đức Hảo (1996), Suối nước mắt - Tập truyện dân gian các dân tộc

vùng Văn Chấn, NXB Văn hóa dân tộc.

22. Kiều Thu Hoạch (2004), Tổng tập Văn học dân gian người Việt, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

23. Kiều Thu Hoạch (2006), Văn học dân gian người Việt - góc nhìn thể

loại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

Nguyễn Thị Huế (1997), Người mang lốt - môtíp đặc trưng của kiểu 24.

truyện cổ tích về nhân vật xấu xí mà tài ba, Tạp chí Văn học (3), Hà Nội.

25. Nguyễn Việt Hùng (2006), Tính hai mặt của không gian nghệ thuật

trong truyện cổ tích, Tạp chí Văn hóa dân gian (1), Hà Nội.

26. Nguyễn Việt Hùng (2011), Sự tích vọng phu và tín ngưỡng thờ đá ở Việt

86

Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

27. Đinh Gia Khánh (1999), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích

qua truyện Tấm Cám, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

Đinh Gia Khánh - chủ biên (2000), Văn học dân gian Việt Nam, NXB 28.

Giáo dục, Hà Nội.

29. Vũ Ngọc Khánh (1998), Truyện cổ tích trong phát triển, Tạp chí Văn

học (3), Hà Nội.

30. Minh Khương (1997), Nàng Nu - truyện cổ dân tộc Mông, NXB Văn hóa

dân tộc.

31. Nguyễn Xuân Lạc (1998), Văn học dân gian Việt Nam trong nhà trường,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

32. Phan Trọng Luận - chủ biên (2002), Ngữ văn 6 (tập 1), NXB Giáo dục,

Hà Nội.

33. Phan Trọng Luận - chủ biên (2006), Ngữ văn 10 (tập 1), NXB Giáo dục,

Hà Nội.

34. Nguyễn Hiền Lương - chủ biên (2008), Tài liệu Ngữ văn địa phương

Trung học cơ sở, Sở Giáo dục và Đào tạo Yên Bái.

35. Bùi Huy Mai (2004), Dân tộc và bản sắc văn hóa vùng Văn Chấn -

Mường Lò (tập 1), NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

36. Bùi Huy Mai (2009), Dân tộc và bản sắc văn hóa vùng Văn Chấn -

Mường Lò (tập 2), NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

37. Phương Lựu (2003), Lý luận Văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

38. Tăng Kim Ngân (1983), Về việc biên soạn từ điển “típ” và “môtíp”

trong ngành Folklore thế giới, Tạp chí Văn hóa dân gian (3+4), Hà Nội.

39. Tăng Kim Ngân (1991), Khái niệm cốt truyện và sự phân biệt giữa cốt

truyện của tác phẩm văn học thành văn với cốt truyện trong truyện cổ

dân gian, Tạp chí Văn hóa dân gian (3), Hà Nội.

40. Tăng Kim Ngân (1994), Cổ tích thần kỳ người Việt – Đặc điểm cấu tạo

87

cốt truyện, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

41. Nguyễn Thị Kim Ngân (2009), Sự dịch chuyển không gian trong truyện

cổ tích thần kỳ người Việt, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, trường

ĐHSP Hà Nội.

42. Trần Đức Ngôn (1990), Một số vấn đề lý luận chung quanh việc nghiên

cứu văn bản văn học dân gian, Tạp chí Văn hóa dân gian (3), Hà Nội.

43. Trần Đức Ngôn (1991), Lý thuyết hình thái học của V.Ia.Prop và truyện

cổ tích thần kỳ người Việt, Tạp chí Văn hóa dân gian (3), Hà Nội.

44. Trần Đức Ngôn (2000), Những đặc trưng của văn bản Văn học dân gian,

In trong cuốn “Góp phần nâng cao chất lượng sưu tầm, nghiên cứu văn

hóa văn nghệ dân gian”, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

45. Phan Đăng Nhật (1981), Phương pháp nghiên cứu Văn học dân gian

trong hệ thống của các tác phẩm, Tạp chí Văn học (5), Hà Nội.

46. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB

Văn hóa, Hà Nội.

47. Bùi Mạnh Nhị (1985), Tiếp cận văn hóa dân gian địa phương từ đặc

trưng của văn học dân gian, (3), Tạp chí Văn học, Hà Nội.

48. Bùi Mạnh Nhị - chủ biên (2003), Văn học Việt Nam - Văn học dân gian,

những công trình nghiên cứu, NXB Giáo dục, Hà Nội.

49. Võ Quang Nhơn (1983), Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt

Nam, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

50. E.M.Meletixki (1998), Nhân vật của truyện cổ tích thần kỳ (Nguồn gốc

và hình tượng), NXB Văn học Phương Đông, Matxcơva, (Tư liệu thư

viện Viện Văn học - Nguyễn Văn Dao, Phan Hồng Giang dịch), Hà Nội.

51. Lò Giàng Páo (1997), Tìm hiểu về văn hóa các dân tộc thiểu số, NXB

Văn hóa dân tộc Hà Nội.

52. Lê Trường Phát (2000), Thi pháp Văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội.

53. Nguyễn Hằng Phương (1987), Hình tượng người khổng lồ trong loại

hình tự sự dân gian các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc và Tây Bắc Việt

88

Nam, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, lưu trữ tại trường ĐHSP Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

54. Đặng Thị Oanh (2006), Giải mã biểu tượng Lanh trong dân ca dân tộc

Mông, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, trường ĐHSP Hà Nội.

55. Nguyễn Tấn Phát, Bùi Mạnh Nhị (1984), Nhân vật lí tưởng và cốt truyện

của truyện cổ tích thần kỳ, In trong cuốn “Văn học Việt Nam - Văn học

dân gian, những công trình nghiên cứu”, (2003), NXB Giáo dục, Hà Nội.

56. Lê Trường Phát (1987), Về hiện tượng xen kẽ giữa văn vần và văn xuôi

trong truyện kể dân gian, Tạp chí Văn học (4), Hà Nội.

57. Lê Trường Phát (1997), Thi pháp Văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội.

Hoàng Phê (2002), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

58. Nguyễn Văn Quang (2004), Tiền sử và sơ sử Yên Bái, NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

59. Hoàng Việt Quân, Lý Kim Hoa (2000), Một số nét đặc trưng các dân tộc

tỉnh Yên Bái, Xí nghiệp in Yên Bái.

60. Hoàng Việt Quân (2004), Tìm hiểu dân ca dân tộc Mông, NXB Văn hóa

dân tộc, Hà Nội

61. Hoàng Việt Quân (2010), Bốn tiên núi Hoàng Liên, NXB Hội nhà văn,

Hà Nội

62. Lê Chí Quế (2001), Văn hóa dân gian - Khảo sát và nghiên cứu, NXB

Đại học Quốc gia, Hà Nội.

63. Lê Chí Quế (2001), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

64. Trần Hữu Sơn (1996), Văn hóa Mông, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

65. Trần Hữu Sơn (1997), Văn hóa dân gian Lào Cai, NXB Văn hóa dân

tộc, Hà Nội.

66. Chu Thái Sơn (2005), Người H’Mông, NXB Trẻ, Hà Nội.

67. Trần Đình Sử (1997), Dẫn luận Thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

68. Trần Đình Sử (2000), Mấy vấn đề thi pháp Văn học Trung đại, NXB

89

Giáo dục, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

69. Chu Thị Hà Thanh (1998), Truyện cổ tích thần kỳ với trẻ em, Tạp chí

Văn học giáo dục, Hà Nội.

70. Doãn Thanh (1997), Dân ca Mèo, NXB Văn học, Hà Nội.

71. Lê Thị Lệ Thanh (2010), Giải mã văn hóa một số hiện tượng hôn nhân

siêu nhiên trong truyện kể dân gian các dân tộc ít người, Luận văn Thạc

sĩ khoa học Văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

72. Hạng Thị Vân Thanh (2006), Đặc điểm nghệ thuật truyện cổ tích thần kỳ

của dân tộc Mông ở Hà Giang, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn,

trường ĐHSP Thái Nguyên.

73. Lê Bá Thảo (1997), Thiên nhiên Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật,

Hà Nội.

74. Hoàng Thị Thủy (2004), Khảo sát dân ca nghi lễ cúng ma dân tộc Mông,

Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, trường ĐHSP Hà Nội.

75. Hoàng Thị Thủy (2005), Nét đặc sắc trong dân ca nghi lễ cúng ma dân

tộc H’Mông, Tạp chí Văn hóa dân gian (2), Hà Nội.

76. Đặng Thái Thuyên (1983), Đề tài hôn nhân trong truyện cổ tích thần kỳ

Mường, Tạp chí Văn học (5), NXB Hà Nội.

77. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam (tập 1), NXB Giáo dục,

Hà Nội.

78. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học

dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội.

79. Vũ Anh Tuấn (1984), Suy nghĩ về một số biểu tượng đặc trưng trong

truyện cổ miền núi, Tạp chí Văn hóa dân gian (2), Hà Nội.

80. Vũ Anh Tuấn (1991), Tìm hiểu một cặp mẫu kể dân gian miền núi dưới

góc độ lợi hình, Tạp chí Văn học (4), NXB Giáo dục, Hà Nội.

81. Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Xuân Lạc (1993), Giảng văn Văn học dân gian

Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

82. Vũ Anh Tuấn - chủ biên (2012), Giáo trình Văn học dân gian, NXB

90

Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

83. Hoàng Tiến Tựu (1983), Mấy vấn đề về phương pháp giảng dạy -

Nghiên cứu Văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội.

84. Hoàng Tiến Tựu (1992), Văn học dân gian Việt Nam (tập 2), NXB Giáo

dục, Hà Nội.

85. Hoàng Tiến Tựu (1997), Bình giảng truyện dân gian, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

86. Lê Trung Vũ (1974), Tính cách của các nhân vật dũng sĩ trong truyện cổ

dân tộc Mèo, Tạp chí Văn học (2), Hà Nội.

87. Lê Trung Vũ (1975), Truyện cổ Mèo, NXB Văn hóa, Hà Nội.

88. Lê Trung Vũ (1982), Hình tượng người mồ côi trong Văn học dân gian

Mèo, Tạp chí Văn học (4), Hà Nội.

89. Lê Trung Vũ, Võ Quang Nhơn (1982), Điều ước cuối cùng, NXB Kim

Đồng, Hà Nội.

90. Lê Trung Vũ (1984), Truyện cổ H’Mông, NXB Văn hóa, Hà Nội.

91. Lê Trung Vũ (1994), Tục ngữ và câu đố Mông, NXB Văn hóa dân tộc,

Hà Nội.

92. Trương Thị Xúng, Hoàng Quyết (1995), Truyện cổ dân tộc Mông, NXB

Văn học, Hà Nội.

93. Nhiều tác giả (2000), Góp phần nâng cao chất lượng sưu tầm, nghiên

cứu văn hóa, văn nghệ dân gian, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

94. V.E.Guxep (1990), Mỹ học folklore (Hoàng Ngọc Hiến dịch), NXB Đà

Nẵng.

95. Viện Văn hóa dân gian (1989), Văn hóa dân gian - những lĩnh vực

nghiên cứu, , NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

96. Viện Văn hóa dân gian (1990), Văn hóa dân gian - phương pháp nghiên

91

cứu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN

Ruộng bậc thang La Pán Tẩn – Mù Cang Chải - Yên Bái

Ngày mùa ở Chế Cu Nha – Mù Cang Chải – Yên Bái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Lễ hội đua ngựa ở Mù Cang Chải – Yên Bái

Thiếu nữ Mông ở Phình Hồ - Trạm Tấu – Yên Bái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bừa ruộng bậc thang ở La Pán Tẩn – Mù Cang Chải – Yên Bái

Thắng cố - Món ăn truyền thống của dân tộc Mông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ảnh tác giả chụp cùng gia đình nghệ nhân Lý Nủ Chu (xã La Pán Tẩn – Mù Cang Chải – Yên Bái)

Thi đẩy gậy ở Trạm Tấu – Yên Bái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Quang cảnh chòi Mông – Mù Cang Chải – Yên Bái

Trò chơi đánh quay của trẻ em dân tộc Mông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Giã bánh giày trong ngày hội văn hóa Mông ở Mù Cang Chải

Mùa lanh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ảnh tác giả đề tài chụp cùng gia đình nghệ nhân Giàng A Chư (xã La Pán Tẩn – Mù Cang Chải – Yên Bái)

Cây cầu chống bằng Xà beng ở Phình Hồ - Trạm Tấu – Yên Bái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn