ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
MAI ANH DŨNG
KHẢO SÁT TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ
CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN – 2013
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
MAI ANH DŨNG
KHẢO SÁT TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ
CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS: Vũ Anh Tuấn
THÁI NGUYÊN – 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công bố
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2013
trong một công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Mai Anh Dũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa
Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, cùng toàn thể các thầy cô
giáo đã tham gia giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu khoa học cho tập thể lớp
Cao học K19 - Văn học Việt Nam; Sở Giáo dục và Đào tạo Yên Bái; Phòng
Giáo dục và Đào tạo huyện Văn Yên; Ban Giám hiệu và tập thể giáo viên
trường THCS Lương Thế Vinh huyện Văn Yên đã tạo điều kiện để tôi có cơ
hội học tập và nghiên cứu khoa học.
Xin chân thành cảm ơn thầy giáo - nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa
các dân tộc Hoàng Việt Quân - Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Yên
Bái đã tạo điều kiện giúp đỡ nhiệt tình trong suốt quá trình tôi tập hợp tư liệu
và tìm hiểu về con người, văn học - văn hóa dân tộc Mông ở Yên Bái; đồng
bào dân tộc Mông ở huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải đã giúp đỡ tôi rất
nhiều trong những chuyến đi thực địa.
Xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS.TS Vũ Anh
Tuấn - người thầy rất nghiêm khắc, tận tình trong công việc đã truyền thụ cho
tôi nhiều kiến thức quý báu cũng như kinh nghiệm nghiên cứu khoa học trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2013
Tác giả luận văn
Mai Anh Dũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ ...................................................................................................
Lời cam đoan....................................................................................................
Lời cảm ơn .......................................................................................................
Mục lục ........................................................................................................... i
MỞ ĐẦU........................................................................................................1
NỘI DUNG ....................................................................................................7
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ CỦA
DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI...........................7
1.1. Sơ lược về điều kiện tự nhiên, đặc điểm xã hội và đời sống văn hóa
của dân tộc Mông ở Yên Bái .................................................................7
1.1.1. Đặc điểm địa - chính trị Yên Bái ......................................................7
1.1.2. Đặc điểm lịch sử văn hóa dân tộc Mông ở Yên Bái ..........................8
1.2. Truyện cổ tích, truyện cổ tích thần kỳ ..................................................11
1.2.1. Truyện cổ tích.................................................................................11
1.2.2.Truyện cổ tích thần kỳ .....................................................................13
1.3. Tình hình sưu tầm và khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc
Mông lưu hành ở Yên Bái ...................................................................18
1.3.1. Trước Cách mạng tháng Tám - 1945 ..............................................18
1.3.2. Sau Cách mạng tháng Tám - 1945 ..................................................19
1.4. Khảo sát văn bản ..................................................................................23
1.4.1. Đặc điểm bản kể .............................................................................23
1.4.2. Tính dị bản .....................................................................................25
1.5. Phân nhóm truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái....27
Chương 2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ NỘI DUNG TRONG TRUYỆN CỔ
TÍCH THẦN KỲ CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở
YÊN BÁI...................................................................................30
2.1. Những phương diện cơ bản về mặt nội dung ........................................30
2.1.1. Truyện về người mồ côi..................................................................30
i
2.1.2. Truyện về người em........................................................................38
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2.1.3. Truyện về người con riêng..............................................................43
2.1.4. Truyện về người mang lốt...............................................................46
2.1.5. Truyện về người dũng sĩ .................................................................52
2.2. Những điểm tương đồng và khác biệt về nội dung phản ánh giữa
truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái với
truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Kinh ...............................................57
2.2.1. Những điểm tương đồng......................................................................57
2.2.2. Những điểm khác biệt..........................................................................58
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH
THẦN KỲ CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI ..60
3.1. Kết cấu truyện ......................................................................................60
3.1.1. Phần mở đầu...................................................................................60
3.1.2. Phần nội dung.................................................................................62
3.1.3. Phần kết thúc ..................................................................................65
3.2.1. Đặc điểm xây dựng nhân vật chính. ................................................66
3.2.1.1. Nghệ thuật giới thiệu nhân vật. ...............................................66
3.2.1.2. Nghệ thuật sử dụng yếu tố thần kỳ..........................................67
3.2.2. Đặc điểm nhân vật người kể chuyện. ..............................................68
3.2.2.1. Nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần thuật
thuần túy.................................................................................69
3.2.2.2. Nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần thuật
xen với ngôn ngữ đối thoại của nhân vật chính .......................71
3.3. Không gian - thời gian nghệ thuật. .......................................................74
3.3.1. Không gian nghệ thuật....................................................................74
3.3.2. Thời gian nghệ thuật.......................................................................75
3.4. Một số biểu tượng trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông
lưu hành ở Yên Bái.............................................................................77
KẾT LUẬN..................................................................................................82
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................85
ii
PHỤ LỤC.........................................................................................................
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1 Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Mỗi dân tộc lại có những
nét riêng về bản sắc văn hóa cũng như phong tục tập quán. Điều đó phần lớn
được thể hiện trong những lời ru, câu hò, điệu hát… và cả trong những câu
chuyện cổ tích được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Trong những năm
gần đây, thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng về việc chăm lo phát triển
văn hóa dân tộc, những người làm công tác văn hóa tư tưởng, văn nghệ dân
gian cùng những người yêu thích văn học dân tộc đã tiến hành sưu tầm truyện
dân gian trên khắp mọi miền đất nước. Số lượng các truyện cổ tích nói riêng
và truyện dân gian nói chung được sưu tầm ngày càng nhiều, góp phần làm
cho kho tàng văn học dân tộc ngày càng phong phú và giàu đẹp hơn. Song để
có được cái nhìn toàn diện, có cách đánh giá đúng đắn về giá trị truyện cổ tích
của mỗi dân tộc, khi tiến hành khảo cứu chúng ta phải tìm hiểu thêm về vị trí
địa lý, địa hình, lịch sử, lễ hội, phong tục tập quán… để thấy được các yếu tố
bên ngoài tác động, chi phối đến sự hình thành, phát triển của mỗi tác phẩm
văn học; thấy được sức sống bền bỉ của văn học dân tộc trong không gian,
thời gian. Việc khảo sát truyện cổ tích của mỗi dân tộc sẽ đánh giá được một
cách chính xác giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật trong mỗi truyện dân gian
của từng dân tộc. Qua việc khảo sát, ta sẽ thấy được nguồn gốc tộc người, đặc
điểm tính cách cũng như lối sống của từng dân tộc trong cộng đồng các dân
tộc Việt Nam.
1.2 Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa
miền Tây Bắc và Trung du Bắc Bộ của Việt Nam. Ở vị trí cửa ngõ miền Tây
Bắc của Tổ quốc, đây còn là điểm dừng chân của các dòng người thiên di từ
đồng bằng Bắc Bộ lên, từ phương Bắc xuống sinh cư lập nghiệp. Hiện nay,
vùng đất Yên Bái là nơi quần cư của hơn 30 dân tộc anh em với dân số gần 70
1
vạn người, trong đó dân tộc Mông chiếm 8,1%. Hầu hết người Mông ở Yên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bái sống ở các triền núi cao. Họ cư trú tập trung chủ yếu ở Trạm Tấu và Mù
Cang Chải. Là một người con được sinh ra trên mảnh đất Yên Bái anh hùng,
ngay từ thời ấu thơ tôi đã biết đến người Mông qua điệu múa khèn; được nghe
tiếng đàn Môi, lời hát giao duyên mộc mạc nhưng đằm thắm; được xem ném
Còn, đánh Pao trong lễ hội Gầu tào; được nghe những câu chuyện cổ tích
thần kỳ của người Mông. Qua đó, tôi nhận thấy rằng bản sắc văn hóa của
người Mông vô cùng phong phú, độc đáo. Đó là những nét riêng để phân biệt
văn hóa Mông với văn hóa các dân tộc anh em trên địa bàn cư trú. Truyện cổ
tích thần kỳ là một trong những yếu tố làm nên bản sắc văn hóa của người
Mông ở Yên Bái nói riêng và của cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung.
Người Mông luôn coi những câu chuyện cổ tích thần kỳ của dân tộc mình như
một báu vật để truyền lại cho con cháu đời sau.
1.3 Năm học 2002 - 2003, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho phát hành
bộ sách giáo khoa mới. Nhằm giúp học sinh tăng cường sự hiểu biết về văn
học của từng địa phương, qua đó bồi dưỡng cho các em tình yêu quê hương
đất nước, chương trình sách giáo khoa Ngữ văn ở bậc học THCS đã dành ra
thời lượng 5 tiết/lớp/năm học để mỗi tỉnh (thành phố) giới thiệu về văn học
của địa phương mình cho học sinh. Năm học 2008 - 2009, Sở Giáo dục và
Đào tạo Yên Bái đã biên soạn công trình Ngữ văn địa phương trung học cơ
sở nhằm cung cấp tài liệu giảng dạy và học tập cho giáo viên và học sinh
THCS trong toàn tỉnh. Qua công trình trên, đội ngũ tác giả đã giới thiệu về
văn học các dân tộc tỉnh Yên Bái như: dân tộc Kinh, dân tộc Thái, dân tộc
Dao, dân tộc Cao Lan và dân tộc Mông. Nhờ đó độc giả có thể thấy được
truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông cũng như truyện cổ tích của các dân
tộc anh em khác lưu hành ở Yên Bái có một vị trí rất quan trọng trong kho
tàng văn học dân gian.
1.4 Là giáo viên dạy Ngữ văn ở trường THCS Lương Thế Vinh
2
(huyện Văn Yên – tỉnh Yên Bái), tôi nhận thấy rằng việc khảo sát truyện dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gian của dân tộc nói chung và truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông ở Yên
Bái nói riêng sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn đầy đủ hơn về truyện dân gian
của dân tộc Mông ở Yên Bái. Với những lý do trên, chúng tôi đã quyết định lựa
chọn đề tài Khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên
Bái để làm đề tài nghiên cứu. Việc lựa chọn đề tài này mặc dù gặp rất nhiều khó
khăn và vất vả, song nếu thành công chắc chắn nó sẽ có nhiều hữu ích.
2. Lịch sử vấn đề.
Tìm hiểu về văn hóa cũng như truyện cổ tích của mỗi dân tộc trong
mấy thập kỷ gần đây đã được những người làm công tác văn hóa tư tưởng,
văn nghệ dân gian cùng những người yêu thích văn học dân tộc lưu tâm. Xét
riêng ở tỉnh Yên Bái, việc sưu tầm nghiên cứu về văn hóa Mông cũng như
truyện kể dân gian Mông đã được chú ý. Cho đến nay, văn học cũng như
truyện cổ tích của dân tộc Mông ở Yên Bái mới chỉ được sưu tầm, dịch và
giới thiệu trên một số công trình hay tạp chí của địa phương và trung ương.
Qua quá trình khảo sát, chúng tôi chưa thấy có công trình nào giới thiệu
đầy đủ về truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái. Bên
cạnh đó, việc khảo sát các giá trị về nội dung và nghệ thuật của các truyện cổ
tích thần kỳ cũng chưa được tiến hành. Có thể những điều đó chưa phải là
mục đích của các công trình đã nghiên cứu. Về truyện dân gian của dân tộc
Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi mới chỉ thấy luận văn Khảo sát truyền
thuyết các dân tộc lưu hành ở Yên Bái của Thạc sĩ Phùng Thị Phương Hạnh
đề cập đến vấn đề này. Một số công trình khác của Lò Ngân Sủn, Trần Hữu
Sơn, Doãn Thanh, Minh Khương, Đinh Sơn, Hoàng Hạc, Hoàng Việt Quân
lại tập trung vào nghiên cứu văn hóa, dân ca, lịch sử mang tính tổng hợp chứ
không phải là công trình nghiên cứu văn học.
Chúng tôi nhận thấy rằng số lượng truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc
Mông lưu hành ở Yên Bái không những phong phú về số lượng mà còn đa
3
dạng trong việc thể hiện nội dung. Bên cạnh những điểm tương đồng trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một vài truyện kể thì truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên
Bái có nhiều điểm khác biệt so với truyện cổ tích của các dân tộc anh em
khác. Chính điều đó đã làm nên sức hấp dẫn của truyện cổ tích thần kỳ của
dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.
Trên cơ sở kế thừa thành tựu của những người đi trước, chúng tôi mong
muốn trong một giới hạn nhất định đề tài Khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của
dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái sẽ là cơ hội để mình tiến hành tìm hiểu
các giá trị về nội dung và nghệ thuật làm nên giá trị của truyện dân gian dân
tộc Mông trên tinh thần khoa học và toàn diện nhất có thể, từ đó hướng tới
một cách hiểu và cách lý giải thuyết phục về cái hay, cái độc đáo và hấp dẫn
của truyện cổ tích dân tộc Mông ở Yên Bái. Hy vọng rằng việc nghiên cứu đề
tài này là một đóng góp của người viết trong việc phát hiện về bản sắc văn
hóa của dân tộc.
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Khi thực hiện công việc, chúng tôi sẽ đặt trọng tâm vào đối tượng
chính: Truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái được sưu
tầm và giới thiệu trên các sách, báo, tạp chí; các phương tiện thông tin đại
chúng của trung ương và địa phương. Tiêu biểu là các công trình sau:
- Nàng Nu - truyện cổ dân tộc Mông do Minh Khương sưu tầm, Nhà
xuất bản Văn hóa dân tộc (1997).
- Suối nước mắt - Tập truyện dân gian vùng Văn Chấn do Phạm Đức
Hảo sưu tầm, Nhà xuất bản văn hóa dân tộc (1996).
- Ông vua ngốc - truyện cổ các dân tộc Hoàng Liên Sơn do Lò Ngân
Sủn biên tập, in tại xí nghiệp in Hoàng Liên Sơn (1989).
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Trong giới hạn của đề tài luận văn, chúng tôi sẽ tập trung vào việc khảo
sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái. Qua đó chỉ
4
ra những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật trong các truyện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3.3. Mục đích nghiên cứu:
Truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông là một tiểu loại đặc sắc, đậm
đà màu sắc văn hóa Mông. Qua việc nghiên cứu đề tài Khảo sát truyện cổ tích
thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi muốn góp phần gìn
giữ, bảo tồn và giới thiệu những nét đặc sắc trong truyện cổ tích của dân tộc
Mông ở Yên Bái đến độc giả và những người quan tâm đến vấn đề này.
4. Những đóng góp mới của luận văn.
4.1 Về lý luận:
- Thống kê và phân loại được truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông
lưu hành ở Yên Bái.
- Hiểu được mối quan hệ hữu cơ giữa văn học và các yếu tố ngoài văn
học: lịch sử tộc người, quan niệm sống, vùng đất, địa bàn cư trú, văn hóa…
Đó là những nhân tố quan trọng góp phần làm nên sức sống của truyện cổ tích
thần kỳ của dân tộc Mông.
4.2 Về nhận thức:
Kết quả mà luận văn đạt được chính là những giá trị nội dung cũng như
những giá trị nghệ thuật làm nên sự hấp dẫn trong truyện cổ tích thần kỳ của
dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.
Mặt khác, kết quả mà luận văn nghiên cứu sẽ là nguồn tư liệu hữu ích
cho việc nghiên cứu và giảng dạy của giáo viên đứng lớp sau này khi giảng
dạy về văn học địa phương ở Yên Bái cũng như văn học các dân tộc thiểu số
ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích đề ra trong
phạm vi tự giới hạn, trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng phối hợp
một số phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Từ việc khảo sát, thống kê, phân
loại, chúng tôi tiến hành tìm hiểu các giá trị về nội dung và nghệ thuật làm nên
5
nét riêng trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Phương pháp đối chiếu, so sánh: Để làm nổi bật tính địa phương trong
truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi có so
sánh, đối chiếu với truyện cổ tích thần kỳ của người Việt và các thể loại tự sự
dân gian khác.
- Phương pháp điền dã: Chụp hình, ghi chép các thông tin có liên quan
đến truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành.
Trong các phương pháp nghiên cứu trên thì thống kê phân loại là
phương pháp được áp dụng tích cực trong quá trình xử lí tư liệu. Các tư liệu
được thống kê phân loại là cơ sở để đưa ra những phân tích, so sánh khoa học
có sức thuyết phục của đề tài. Bên cạnh đó, phương pháp nghiên cứu liên
ngành cũng được chúng tôi sử dụng trong cả quá trình nghiên cứu nhằm giải
mã văn hóa với một số biểu tượng trong văn học dân tộc Mông, từ đó làm
sáng tỏ những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật. Điều này cũng phù hợp
với xu hướng nghiên cứu hiện nay.
Song song với việc vận dụng phối hợp các phương pháp trên, chúng tôi
còn vận dụng những kiến thức đã học được về các khoa học liên ngành như:
lý luận văn học, thi pháp học, phong cách học, phương pháp luận nghiên cứu
văn học… để phục vụ hiệu quả cho việc nghiên cứu cụ thể các vấn đề người
viết đã chọn làm đề tài cho luận văn.
6. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của luận văn được
thể hiện trong 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu
hành ở Yên Bái.
Chương 2: Những đặc điểm về nội dung trong truyện cổ tích thần kỳ
của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.
Chương 3: Những đặc điểm về nghệ thuật trong truyện cổ tích thần kỳ
6
của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ CỦA DÂN TỘC
MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI
1.1. Sơ lược về điều kiện tự nhiên, đặc điểm xã hội và đời sống văn
hóa của dân tộc Mông ở Yên Bái
1.1.1. Đặc điểm địa - chính trị Yên Bái
Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa. So với các tỉnh
miền núi khác, Yên Bái có một vị trí địa lý khá đặc biệt. Phía Bắc giáp với
tỉnh Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp tỉnh Tuyên Quang,
phía Tây giáp tỉnh Sơn La. Yên Bái nằm giữa hai vùng Đông Bắc và Tây Bắc,
nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa miền Tây Bắc và Trung du Bắc Bộ. Vì vậy
mà cả đặc điểm tự nhiên và kinh tế văn hóa xã hội của tỉnh có mối quan hệ
giao lưu và mang dấu ấn của cả ba vùng. Yên Bái là tỉnh giữ vị trí trọng yếu
về kinh tế và quân sự của Việt Nam và có lợi thế trong quá trình giao lưu với
các tỉnh bạn.
Yên Bái có diện tích tự nhiên là 6.888 km2 với ¾ là núi đồi; 01 thành
phố (Yên Bái), 01 thị xã (Nghĩa Lộ) và 07 huyện (Yên Bình, Lục Yên, Trạm
Tấu, Trấn Yên, Văn Chấn, Văn Yên, Mù Cang Chải). Về địa hình, Yên Bái
cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc và được kiến tạo với ba dãy núi lớn đều có
hướng chạy là Tây Bắc - Đông Nam. Phía Tây của Yên Bái có dãy núi Hoàng
Liên Sơn - Pú Luông kẹp giữa sông Hồng và sông Đà, tiếp đến là dãy núi cổ
Con Voi nằm kẹp giữa sông Hồng và sông Chảy. Phía Đông có dãy núi đá vôi
kẹp giữa sông Chảy và sông Lô. Địa hình của Yên Bái tuy có phức tạp nhưng
vẫn được chia thành hai vùng lớn: vùng cao và vùng thấp. Vùng cao có độ
cao trung bình từ 600m trở lên (chiếm 67,56%). Vùng thấp có độ cao dưới
7
600m là phần diện tích còn lại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Do điều kiện khách quan và chủ quan mà địa giới của tỉnh Yên Bái
trước kia và ngày nay có nhiều thay đổi, song từ bao đời nay Yên Bái vẫn là
một vùng đất quan trọng của Tổ quốc. Dưới thời Hùng Vương, Yên Bái thuộc
Bộ Tân Hưng. Dưới thời Lý, Yên Bái thuộc châu Đăng. Dưới thời Trần, Yên
Bái thuộc lộ Quy Hóa. Từ thời Lê đến thời Nguyễn, Yên Bái nằm trong phủ Quy
Hóa, tỉnh Hưng Hóa. Ngày 27 tháng 12 năm 1975, Yên Bái đã sáp nhập với tỉnh
Lào Cai và Nghĩa Lộ lấy tên là Hoàng Liên Sơn. Từ tháng 8 năm 1991 cho đến
nay, Yên Bái được tách thành tỉnh riêng (bao gồm cả Nghĩa Lộ).
Với đặc điểm vị trí thuận lợi như thế, Yên Bái đã trở thành điểm thu
hút với các tộc người, các dòng người di cư đi tìm những vùng đất mới để
khai hoang và thiết lập lãnh địa của mình. Tỉnh Yên Bái đã thu hút được cả
những tộc người di cư từ phương Bắc xuống, từ phía Đông và từ phía Tây
sang. Từ đồng bằng lên. Chính vì vậy mà Yên Bái rất phong phú các thành
phần dân tộc, số dân tương đối đông và họ định cư ở đây từ rất sớm. Điều này
rất quan trọng đối với sự hình thành lịch sử văn hóa, văn học, truyền thống và
phong tục tập quán của từng dân tộc trên địa bàn cư trú.
1.1.2. Đặc điểm lịch sử văn hóa dân tộc Mông ở Yên Bái
Dân tộc Mông còn được gọi với tên khác là dân tộc Mèo (hay Miêu).
Theo công trình nghiên cứu Một số nét đặc trưng các dân tộc tỉnh Yên Bái
do Ban Dân vận và dân tộc tỉnh Yên Bái xuất bản vào tháng 6 năm 2000 thì
người Mông ở Yên Bái có 4 ngành: Mông hoa (Mông lềnh, ở Mù Cang Chải
gọi là Mông linh), Mông đen (Mông dú, ở Mù Cang Chải gọi là Mông đu),
Mông trắng (Mông đư, ở Mù Cang Chải gọi là Mông đơ), Mông đỏ (Mông
si). Trong đó người Mông đen chiếm số lượng đông hơn cả.
Người Mông ở tỉnh Yên Bái có khoảng 55.000 người, cư trú tập trung
tại 40 xã thuộc 5 huyện: Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Văn Chấn, Văn Yên, Trấn
Yên. Theo công trình nghiên cứu Tìm hiểu dân ca dân tộc Mông của tác giả
8
Hoàng Việt Quân (N.X.B Văn hóa Dân tộc, 2004) thì người Mông có 5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngành: Mông hoa (Mông lềnh), Mông đen (Mông dú), Mông xanh (Mông
chúa), Mông trắng (Mông đư), Mông đỏ (Mông si). Các nhóm Mông trên tuy
có sự khác nhau đôi chút về tiếng nói nhưng lại cùng thuộc nhóm ngôn ngữ
Mông - Dao. Cả bốn nhóm Mông đều mặc vải lanh nhuộm chàm, riêng váy
của ngành Mông trắng để nguyên vải mộc. Chính chất liệu lanh đã tạo nên sự
khác biệt giữa trang phục của người Mông với trang phục của các dân tộc
khác. Đàn ông Mông thường mặc quần đũng thấp, áo cài vạt sang một bên,
thân áo lưng ngắn để hở một khoảng bụng. Phụ nữ mặc váy nhiều lớp, phủ
ngoài tạp dề trước và sau, áo ngắn cài khuy một bên, trên ống tay áo có khoác
nhiều khoang vải. Trên nền y phục, sắc độ các màu nguyên: đỏ, vàng, xanh,
đen cùng với kĩ thuật dệt, thêu, ghép màu vải, vẽ sáp ong, dân tộc Mông đã
tận dụng, sử dụng phương tiện tạo hình trên y phục.
Theo các nhà nghiên cứu thì người Mông có nguồn gốc chung với
người Dao. Từ thế kỉ VII đến thế kỉ IX sau công nguyên, Mông với Dao mới
tách ra thành hai cộng đồng riêng biệt. Những nhóm Mông đầu tiên di cư đến
Việt Nam cách đây chừng hơn 300 năm. Người Mông từ Quý Châu (Trung
Quốc) vào Lào Cai cách ngày nay hơn 200 năm. Trong đợt thiên di từ Quý
Châu đến Lào Cai vào đợt thứ 2 (từ năm 1840 đến năm 1869), có một đoàn từ
Bắc Hà xuống Phố Lu lên SaPa đi Than Uyên và tới Mù Cang Chải của Yên
Bái. Những người Mông chọn Mù Cang Chải làm điểm dừng chân lập kế sinh
nhai, lấy tên là “Xáo Mông”, sau đó họ mở rộng địa bàn sinh sống sang các
huyện lân cận như Trạm Tấu và Văn Chấn (Yên Bái). Đầu những năm 2000,
một phần đồng bào Mông mới đã di chuyển từ Lào Cai, Hà Giang và Sơn La
sang Yên Bái để định cư. Dân tộc Mông cư trú ở vùng đất cao nhất của tỉnh
Yên Bái. Dù có sống xen cư với các dân tộc khác nhưng họ vẫn quần tụ với
nhau thành cộng đồng và ở sống chủ yếu ở độ cao từ 700m - 1800m. Cuốn
Lịch sử Đảng bộ huyện Mù Cang Chải (1957 - 2002) xuất bản năm 2002
9
ghi rõ: “Đầu thế kỉ XVIII, người Mông từ Lào Cai vượt dãy Hoàng Liên Sơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vào cư trú tại Nậm Kim và phát triển lên Mù Cang Chải (Lồng Cống, Lồng
Mù). Người Mông coi Lồng Cống, Lồng Mù là “vùng đất tổ” khi chết phải chỉ
đường cho về đây. Nhóm đầu tiên đến thuộc họ Vàng rồi đến các họ Thào,
Giàng, Sùng, Cứ, Hờ, Hảng, Mua, Lý, Phàng, Lầu… trong đó họ Giàng là
đông nhất”.
Về văn hóa, có thể khẳng định văn hóa của dân tộc Mông là văn hóa di
cư. Trong quá trình thiên di từ Quý Châu (Trung Quốc) sang Việt Nam, người
Mông đã mang theo những phong tục tập quán, lối sống, tín ngưỡng. Tuy đến
định cư tại vùng đất mới song người Mông vẫn luôn bị ám ảnh bởi những gì
đã diễn ra trong quá khứ của họ. Điều đó được thể hiện rõ qua các bài dân ca
Mông, các câu chuyện cổ mà họ mang theo trong quá trình thiên di tới vùng
đất mới. Người Mông ở Yên Bái có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Nói
đến văn hóa lễ hội dân tộc Mông, các nhà nghiên cứu đều khẳng định rằng
Gầu tào là lễ hội quan trọng nhất. Trong những ngày diễn ra lễ hội Gầu tào,
điệu múa khèn luôn là nghi lễ mở hội “chù Gầu tào”, sau đó là các trò chơi:
đám hát gầu plềnh (giao duyên trai gái), đám đánh tù lú (đánh quay), tâu tí
(cầu lông gà), đánh mảy pao. Trong lễ hội Gầu tào, những nghệ nhân điêu
luyện người Mông thường thổi khèn múa tua tài với nhiều động tác khá phức
tạp như trồng cây chuối, đi qua đòn ống bắc trên chảo thắng cố…
Về văn học, người Mông ở Yên Bái có một kho tàng văn học dân gian
rất phong phú, gồm nhiều thể loại: thần thoại, truyện cổ tích, các thể loại dân
ca và tục ngữ… Có loại được kể như văn xuôi, có loại kể dưới dạng truyện
thơ, bài ca mang tính chất li kì, hấp dẫn. Có thể nói rằng dòng đời của người
Mông luôn tắm mình trong các lễ nghi phong tục tập quán, các hoạt động đời
sống thực tiễn gắn liền với sinh hoạt văn hóa truyền thống mang đậm tính
nguyên hợp. Trong cộng đồng của mình, người Mông vẫn kể chuyện cổ tích
cho con cháu của mình nghe. Có thể nói truyện cổ tích đóng một vai trò quan
trọng góp phần làm nên sức hấp dẫn của văn học dân tộc Mông ở Yên Bái nói
10
riêng và của văn học Việt Nam nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Người Mông cũng có chữ viết riêng. Chữ của người Mông ngày nay có
được là do cha đạo Sanina (cha đạo thuộc dòng thừa sai Paris vào truyền đạo
ở Việt Nam tạo nên bằng cách Latinh hóa theo mẫu chữ quốc ngữ). Những
con chữ cũng đã góp phần lưu giữ lại những nét văn hóa cổ truyền đặc sắc của
dân tộc Mông (trong đó có truyện cổ tích thần kỳ).
1.2. Truyện cổ tích, truyện cổ tích thần kỳ
1.2.1. Truyện cổ tích
Kể từ khi truyện cổ tích được quan tâm nghiên cứu, nhiều nhà nghiên
cứu đã đưa ra định nghĩa về truyện cổ tích theo quan niệm và cách hiểu của
họ. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (NXB Giáo dục Việt Nam, 2011),
nhóm tác giả PGS. Lê Bá Hán - PGS.TS Trần Đình Sử - GS. Nguyễn khắc
Phi đã đưa ra định nghĩa về truyện cổ tích như sau: “Truyện cổ tích là một thể
loại truyện dân gian nảy sinh từ xã hội nguyên thủy nhưng chủ yếu phát triển
trong xã hội có giai cấp với chức năng chủ yếu là phản ánh và lí giải những vấn
đề xã hội, những số phận khác nhau của con người trong cuộc sống muôn màu
muôn vẻ khi đã có chế độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng (chủ yếu là gia đình
phụ quyền), có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh xã hội quyết liệt” [18.368].
Trong cuốn Giáo trình Văn học dân gian (NXB Giáo dục Việt Nam,
2012), nhóm tác giả PGS.TS. Vũ Anh Tuấn - PGS.TS. Phạm Thu Yến - TS.
Nguyễn Việt Hùng - ThS. Phạm Đặng Xuân Hương lại đưa ra định nghĩa:
“Truyện cổ tích là sáng tác dân gian thuộc loại hình tự sự, chủ yếu sử dụng
yếu tố nghệ thuật kì ảo để thể hiện cái nhìn hiện thực của nhân dân với đời
sống, bộc lộ quan niệm về đạo đức cũng như về công lí xã hội và ước mơ một
cuộc sống tốt đẹp hơn của nhân dân lao động” [82.116].
Trong công trình nghiên cứu khoa học Truyện cổ tích trong con mắt
các nhà khoa học, GS. Chu Xuân Diên cho rằng sẽ thật khó khăn khi phải
xác định cho khái niệm truyện cổ tích một nội dung thật chặt chẽ, theo ông thì
11
truyện cổ tích có ba nội dung sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
“1. Truyện cổ tích đã nảy sinh từ trong xã hội nguyên thủy, do đó có
những yếu tố phản ánh quan niệm thần thoại của nhân dân về các hiện tượng
tự nhiên, xã hội và có ý nghĩa ma thuật (…) chủ đề chủ yếu của nó là chủ đề
xã hội, phản ánh nhận thức của nhân dân về cuộc sống xã hội muôn màu,
muôn vẻ với những xung đột đặc trưng cho các thời kỳ lịch sử (…).
2. Truyện cổ tích nói lên những quan điểm đạo đức, những quan niệm về
công lí xã hội và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn về cuộc sống hiện tại.
3. Truyện cổ tích là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú của nhân
dân” [06.204].
Với tinh thần thâu tóm các đặc điểm chung của truyện cổ tích, trong cuốn
Văn học dân gian, Hoàng Tiến Tựu đã khái quát về thể loại này như sau:
“Truyện cổ tích là một loại truyện gắn liền với quá trình tan rã của chế
độ công xã nguyên thủy, hình thành gia đình phụ quyền và phân hóa giai cấp.
Nó đặc biệt nói về các xung đột giữa người với người trong phạm vi gia đình
và xã hội. Nó dùng một thứ tưởng tượng hư cấu riêng, kết hợp các thủ pháp
nghệ thuật đặc thù khác để phản ánh đời sống và mơ ước của nhân dân, đáp
ứng nhu cầu nhận thức, thẩm mĩ, giáo dục giải trí của họ” [84.42]. Đây được
coi là khái niệm tương đối đầy đủ và sáng rõ về truyện cổ tích. Theo cách
hiểu này, ta có thể nắm bắt nội dung cơ bản và hình thức sáng tạo một cách
chung nhất của truyện cổ tích.
Qua việc tìm hiểu khái niệm về truyện cổ tích trong các công trình
nghiên cứu cũng như trực tiếp đọc các truyện cổ tích của Việt Nam và thế
giới, chúng tôi nhận thấy một số điểm cơ bản về thể loại cổ tích như sau:
Truyện cổ tích ra đời trong xã hội có sự phân chia giai cấp, đề cập và quan
tâm trước hết đến những nạn nhân xấu số cho nên chức năng chủ yếu của nó
là nhằm an ủi, động viên, bênh vực cho thân phận, phẩm chất của con người.
Chính vì thế mà thông qua mỗi câu chuyện, nhân dân lao động thường gửi
12
gắm ước mơ về một thế giới tốt đẹp, về sự công bằng, về sự thưởng phạt công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
minh. Từ chức năng thể loại đó, ta có thể thấy truyện cổ tích có những đặc
trưng cơ bản như:
- Truyện cổ tích xây dựng một thế giới hư cấu, kì ảo.
- Truyện cổ tích là câu chuyện đã hoàn tất trong quá khứ, đã trọn vẹn
về cốt truyện, nhưng đồng thời cũng mang tính mở đặc trưng của văn bản văn
học dân gian ở cấp độ chi tiết, môtip.
- Truyện cổ tích mang tính giáo huấn cao, mỗi câu chuyện là một bài
học về đạo đức, ứng xử, về lẽ công bằng, thưởng phạt công minh.
Về việc phân loại, có rất nhiều cách phân loại truyện cổ tích, song hiện
nay chúng ta thấy phổ biến nhất là phân chia ra làm ba tiểu loại: truyện cổ
tích loài vật, truyện cổ tích thần kỳ và truyện cổ tích sinh hoạt. Ở Nga, cách
phân chia này đã có từ năm 1865 do Ô. Mi lơ đề xuất. Cách phân loại này
được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Đây cũng là cách phân loại hợp
lí, vì ngoài tiêu chí chính là đề tài thì những yếu tố nghệ thuật khác (nhân vật,
tính kì ảo) cũng được tính tới trong khi phân loại. Chúng tôi thống nhất với
cách phân loại trên và trên cơ sở đó tìm hiểu về truyện cổ tích thần kỳ như
một tiểu loại nổi bật và đặc sắc của thể loại tự sự dân gian này.
1.2.2.Truyện cổ tích thần kỳ
Có thể nói truyện cổ tích thần kỳ là một sản phẩm sáng nghệ thuật độc
đáo và có ý thức của người xưa. Tuy ra đời, tồn tại và phát triển trong một
thời gian dài, hòa chung với mạch nguồn của văn học dân tộc song cho tới
nay các nhà nghiên cứu văn học dân gian vẫn chưa đưa ra một thuật ngữ
thống nhất về tiểu loại này. Hiện nay, các nhà nghiên cứu khoa học đã tìm tòi,
phân định bản chất, đặc điểm của truyện cổ tích thần kỳ.
Trong công trình Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (tập 1), Nguyễn
Đổng Chi đã đưa ra quan niệm: “Cổ tích thần kỳ là loại truyện tương đối có
nhiều nhân tố ảo tưởng nhất. Những truyền thuyết thần bí, kỳ quái, những
13
truyện người, truyện vật nhưng bên trong đầy dẫy những sự can thiệp của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
huyền diệu đều có thể xem là cổ tích thần kỳ” [04.53]. Chính nhân tố ảo
tưởng đã tạo nên bao tình tiết kì thú, hấp dẫn mạnh mẽ trí tưởng tượng của
người nghe, thế giới không thực trong truyện cổ tích thần kỳ giúp người ta
thực hiện hóa những ước muốn không tưởng. Một phần của truyện cổ tích
thần kỳ là tàn dư của những tưởng tượng gắn liền với mê tín, ma thuật và các
hình thức tôn giáo thời nguyên thủy.
Nguyễn Đổng Chi còn cho rằng tác giả của truyện cổ tích thần kỳ nhiều
khi đã sử dụng lực lượng siêu nhiên để thắt nút, mở nút câu chuyện mà không
cần biết điều đó có hợp lý hay không.
Khi bàn luận về “Tinh thần phê phán xã hội và lý tưởng dân chủ - nhân
đạo trong truyện cổ và các thể tài dân gian khác ở giai đoạn đầu của chế độ
phong kiến”, nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh cũng phân tích đặc điểm của
truyện cổ tích thần kỳ. Từ khái niệm chung “truyện cổ về xã hội”, nơi phản
ánh xung đột xã hội diễn ra trong phạm vi gia đình phụ quyền và sự nảy sinh
của lý tưởng dân chủ - nhân đạo của nhân dân, tác giả đã tìm ra đặc điểm
chung của truyện cổ tích thần kỳ. Theo Cao Huy Đỉnh thì truyện cổ tích thần
kỳ vẫn mang đậm nội dung về hiện thực xã hội, tình cảm tự nhiên, đạo đức
thực tiễn và ước mơ lãng mạn của nhân dân lao động. Khi “yếu tố thần kỳ
(…) trở thành những biện pháp nghệ thuật của chủ nghĩa lãng mạn và chủ
nghĩa tượng trưng rất đậm đà và phổ biến trong hàng loạt truyện cổ xã hội.
Có thể gọi chung đó là truyện cổ tích thần kỳ” [11.56].
Cao Huy Đỉnh đã kết luận: “truyện cổ tích thần kỳ có nội dung dân chủ
và tính chất dân tộc”. Như vậy, có thể nói rằng nội dung phản ánh của truyện
cổ tích thần kỳ xoay quanh cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người
tốt và kẻ xấu, và cuối cùng bao giờ cái ác, cái xấu cũng bị tiêu diệt. Truyện cổ
tích thần kỳ bao giờ cũng kết thúc có hậu, đó chính là quan điểm thẩm mĩ tích
cực, lạc quan của nhân dân lao động. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra được một
14
định nghĩa ngắn gọn, súc tích và trọn vẹn về truyện cổ tích thần kỳ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trong công trình Đặc điểm nghệ thuật truyện cổ tích thần kỳ của dân
tộc Mông ở Hà Giang, tác giả Hạng Thị Vân Thanh đã trích dẫn quan niệm
của A.M.Nôvicôva về truyện cổ tích thần kỳ như sau: “Trong nhận thức của
người nguyên thủy, cả hai thế giới đó (thế giới hiện thực, thế giới tưởng
tượng) hợp thành một thực tại thống nhất (…). Truyện cổ tích thần kỳ (…) là
những tác phẩm nghệ thuật mang tư tưởng rõ ràng về sự chiến thắng của con
người đối với lực lượng độc ác, đen tối, miêu tả những nhân vật lý tưởng hóa
sau khi đi qua những thử thách ban đầu, nhờ có sự giúp đỡ của các phương tiện
thần kỳ đã đạt được điều mong muốn…”[72.27]. Theo đó, chúng tôi nhận thấy
có ba bước hình thành liên tục của truyện cổ tích với tư cách là một thể loại:
- Thứ nhất: Những truyện kể cổ xưa nhất mang tính chất thần thoại có
mục đích thực dụng nhằm ngăn cấm việc vi phạm những qui tắc sinh hoạt
nhất định.
- Thứ hai: Truyện kể cổ xưa phức tạp dần lên do những môtíp có tính
chất xã hội, những môtíp về những trợ thủ thần kỳ dẫn đến sự ra đời của
truyện cổ tích thần kỳ.
- Thứ ba: Truyện cổ tích hình thành do nhào nặn lại những đề tài cổ
xưa và những ý niệm thần thoại, cùng với việc khẳng định tư tưởng chiến
thắng, khẳng định công lý và việc sáng tạo ra những công thức kể chuyện cổ
tích độc đáo.
Nhà nghiên cứu văn học dân gian Lê Chí Quế nhận định rằng: “Truyện
cổ tích thần kỳ, như tên gọi của nó, yếu tố thần kỳ đóng vai trò quan trọng
trong kết cấu và quá trình dẫn dắt câu chuyện (…) trong truyện cổ tích thần
kỳ yếu tố niềm tin nhạt dần. Người kể chuyện chỉ mượn yếu tố thần kỳ để làm
phương tiện hỗ trợ cho hoạt động của con người, qua đó truyền đến cho con
người một bài học giáo huấn nào đấy” [63.95]. Tuy nhiên, trong cuốn giáo
trình Văn học dân gian Việt Nam, tác giả Lê Chí Quế vẫn chưa đưa ra được
định nghĩa cụ thể về truyện cổ tích thần kỳ ngoài việc xác định đặc điểm bản
15
chất thể loại của truyện cổ tích thần kỳ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Theo tác giả Chu Xuân Diên, truyện cổ tích thần kỳ có những yếu tố cổ
xưa có liên quan đến những quan niệm thần thoại và tín ngưỡng của con
người thời thị tộc, bộ lạc “…nội dung chính của truyện cổ tích thần kỳ là đời
sống xã hội của con người và số phận của con người trong xã hội có giai cấp.
Nhân vật trung tâm của truyện cổ tích thần kỳ là (…) nạn nhân của chế độ tư
hữu tài sản, của chế độ gia đình phụ quyền và của cả chế độ xã hội có giai
cấp” [06.205]. Truyện cổ tích thần kỳ đã miêu tả những nhân vật bất hạnh
theo khuynh hướng lí tưởng hóa. Phải nhờ vào các yếu tố thần kỳ can thiệp
vào cốt truyện thì truyện mới có thể từ miêu tả hiện thực cuộc sống đi đến kết
cục có tính chất ước mơ dành cho nhân vật trung tâm của truyện.
Trong cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, tác giả Đinh Gia
Khánh đã chia truyện cổ tích thành hai tiểu loại là truyện cổ tích lịch sử và
truyện cổ tích thế sự. Cách phân chia của tác giả dựa trên tiêu chí tính chất sự
kiện được phản ánh trong nội dung mỗi truyện. Theo ông, truyện cổ tích dù ở
tiểu loại nào dù nhiều hay ít cũng có sự tham gia của yếu tố thần kỳ. Vì “yếu
tố kỳ diệu, siêu nhiên chính là một thủ pháp nghệ thuật gắn với nội dung lãng
mạn của truyện” [28.347].
Trong công trình Cổ tích thần kỳ người Việt, đặc điểm cấu tạo cốt
truyện, Tăng Kim Ngân cũng coi truyện cổ tích thần kỳ là một tiểu loại của
truyện cổ tích Việt Nam. Tác giả cho rằng truyện cổ tích thần kỳ có những
đặc điểm riêng về nhiều mặt, trong đó tiêu chí cơ bản để phân biệt nó với hai
tiểu loại cổ tích còn lại là ở “vai trò quan trọng của yếu tố thần kỳ trong việc
chi phối quá trình phát triển hệ thống tình tiết của cốt truyện”[40.25]. Về
mặt nội dung của truyện cổ tích thần kỳ, tác giả Tăng Kim Ngân cũng thống
nhất với ý kiến của các nhà nghiên cứu Chu Xuân Diên, Cao Huy Đỉnh và Lê
Chí Quế.
Trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, nhà nghiên cứu Hoàng
16
Tiến Tựu đã phân tích, lý giải về truyện cổ tích thần kỳ. Tuy nhiên, ông vẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chưa đưa ra được khái niệm về truyện cổ tích thần kỳ một cách súc tích và
trọn vẹn nhất. Theo tác giả, gốc rễ sâu xa và nguồn gốc quan trọng của truyện
cổ tích thần kỳ là từ thế giới quan nguyên thủy và từ đời sống xã hội có giai
cấp, “truyện cổ tích thần kỳ chính là sản phẩm của giai đoạn phát triển cao
nhất của thể loại cổ tích” [84.57], khi mà phương pháp sáng tác và phương
tiện nghệ thuật đã thay đổi phù hợp với trình độ tư duy và nhu cầu nhận thức
trước thực tại phong phú, phức tạp hơn. Cũng theo đó, Hoàng Tiến Tựu đã
đưa ra bốn đặc điểm nổi bật của truyện cổ tích thần kỳ:
- Thứ nhất: Đối tượng miêu tả, phản ánh của truyện cổ tích thần kỳ
luôn hướng về nhân vật người và những xung đột xã hội.
- Thứ hai, lực lượng thần kỳ giữ “vai trò quan trọng đặc biệt” trong
việc giải quyết những mâu thuẫn, xung đột trong truyện.
- Thứ ba, thế giới trong truyện cổ tích thần kỳ là thế giới tồn tại trong
trí tưởng tượng của người kể, trong đó, do tác giả dân gian dùng biện pháp
hư cấu và tưởng tượng để nối liền hiện thực và lý tưởng.
- Thứ tư, thành phần nhân vật trong truyện cổ tích thần kỳ đông đảo,
đa dạng và phức tạp, tạo nên nét độc đáo so với các tiểu loại khác của tự sự
dân gian.
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học xuất bản năm 2011, nhóm tác
giả PGS. Lê Bá Hán - PGS.TS Trần Đình Sử - GS. Nguyễn khắc Phi đã đưa
ra định nghĩa về truyện cổ tích thần kỳ một cách khái quát như sau: Truyện cổ
tích thần kỳ là một bộ phận quan trọng và tiêu biểu nhất của thể loại cổ tích.
Ở loại truyện này nhân vật chính vẫn là con người trong thực tại, nhưng các
lực lượng thần kỳ, siêu nhiên có một vai trò rất quan trọng. Hầu như mọi
xung đột trong thực tại giữa người với người đều bế tắc, không thể giải thích
nổi nếu thiếu yếu tố thần kỳ”[18.368]. Cách nêu khái niệm của nhóm tác giả
trên rất súc tích, dễ nhớ, đồng thời cũng nêu ra được đặc điểm nổi bật của
17
truyện cổ tích thần kỳ. Vì vậy, chúng tôi thống nhất lựa chọn cách hiểu này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1.3. Tình hình sưu tầm và khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân
tộc Mông lưu hành ở Yên Bái
Trên cơ sở định hướng thực hiện mục đích của đề tài, chúng tôi cơ bản
tìm hiểu đối tượng qua nguồn tư liệu đã được xuất bản. Qua đó chọn ra những
truyện nằm trong đối tượng nghiên cứu.
1.3.1. Trước Cách mạng tháng Tám - 1945
Trước Cách mạng tháng Tám - 1945, hầu như chưa có người Việt Nam
nào bắt tay vào công việc sưu tầm, biên dịch, nghiên cứu về truyện cổ tích của
dân tộc Mông. Kể từ khi thực dân Pháp chiếm SaPa (1888), nhất là sau năm
1905, cha cố - đại úy Savina cùng với các công sứ Pháp ở Lào Cai xây dựng
kế hoạch truyền đạo Thiên chúa vào vùng dân tộc Mông nhằm ru ngủ tinh
thần đấu tranh quyết liệt của nhân dân ta, cha cố - đại úy Savina mới dành
thời gian nghiên cứu đời sống văn hóa tinh thần của người Mông. Trong cuốn
hồi ký Cát bụi chân ai (N.X.B Hội nhà văn, 1993) của nhà văn Tô Hoài thì
linh mục Savina đã từng ở nhà thờ SaPa, cùng thời kì cha cố Hiền người Pháp
ở nhà thờ Sọa Hồ trên núi ở Nghĩa Lộ. Linh mục Savina đã viết cuốn Lịch sử
dân tộc Mèo và bộ Từ điển Pháp - Mèo in ở Hồng Kông năm 1924.
Năm 1942, nhà in Viễn Đông xuất bản cuốn sách với nhan đề Vùng
cao của Cresson - một viên chánh sứ người Pháp ở Yên Bái - dày 142 trang,
khổ 18 x 22cm, đã mô tả khá chi tiết thiên nhiên hùng vĩ và các dân tộc sinh
sống ở vùng cao Yên Bái, trong đó có dân tộc Mông. Năm 2011, tạp chí Văn
nghệ Yên Bái số 49 đã đăng một đoạn trích với tiêu đề Đến Púng Luông do
An Thế Cường dịch từ cuốn Vùng cao của chánh sứ Cresson.
Điểm qua những công trình có tên trên, chúng tôi mới chỉ nhận thấy các
tác giả mới chỉ tập trung vào việc nghiên cứu về phong tục tập quán và các
vấn đề liên quan đến văn hóa dân gian. Việc nghiên cứu của các tác giả không
hướng tới khai thác và thúc đẩy văn học, văn hóa dân gian phát triển mà chỉ
18
nhằm mục đích truyền đạo Thiên chúa hoặc âm mưu xâm lược nước ta. Chưa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
có một cuốn sách nào sưu tầm, dịch và giới thiệu về truyện cổ tích của dân tộc
Mông ở Yên Bái.
1.3.2. Sau Cách mạng tháng Tám - 1945
Sau Cách mạng tháng Tám - 1945, cùng với việc chú trọng thúc đẩy
nền văn học nước nhà phát triển nhằm mục đích phục vụ cho đời sống tinh
thần, phát triển nhận thức cho người dân, đặc biệt là phục vụ cho phong trào
cách mạng Việt Nam, được sự quan tâm, khuyến khích của Đảng và nhà
nước, đã có nhiều nghệ nhân và tác giả dân gian bỏ công sức đi điền dã, khai
thác, sưu tầm, nghiên cứu, công bố bài viết của mình trên các phương tiện
thông tin đại chúng, in trong các tập san, tạp chí văn hóa, văn nghệ ở địa
phương và trung ương. Công việc này lúc đầu mới chỉ diễn ra trên quy mô
nhỏ hẹp và thiên về tính chất cá nhân, phải từ năm 1954 - 1960 công tác
nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian ở Yên Bái mới được chú trọng.
Những tên tuổi nổi bật trong công tác sưu tầm và nghiên cứu văn học
dân tộc Mông giai đoạn đầu là Hoàng Đình Quý (Hà Giang), Lê Trung Vũ,
Doãn Thanh (Lào Cai), Minh Khương (Yên Bái). Tác giả Minh Khương đã có
rất nhiều năm gắn bó với dân tộc Mông , thông thạo song ngữ Việt - Mông đã
sưu tầm được nhiều tư liệu, tự mình biên soạn rồi in thành sách.
Ở giai đoạn sau, nhiều tác giả của Chi hội Văn hóa dân gian Lào Cai và
Yên Bái đã để tâm đến công việc sưu tầm nghiên cứu văn hóa và văn học dân
tộc Mông. Các tác giả tiêu biểu là Trần Hữu Sơn, Hoàng Việt Quân, Bùi Huy
Mai, Phạm Tuất… Họ chính là những người yêu mến văn hóa, văn học dân
tộc Mông. Bên cạnh đó, còn có những nhà nghiên cứu, sưu tầm, dịch truyện là
con em đồng bào dân tộc Mông như Hạng Mí De, Dương Thị Phương, Hạng
Thị Vân Thanh (Hà Giang). Họ là những người luôn có ý thức giữ gìn và bảo
tồn các thành tựu văn hóa dân tộc với tinh thần tự giác và thái độ tự hào.
Ngoài ra, những người yêu mến văn chương, gắn bó với dân tộc Mông như:
19
đội ngũ cán bộ ngành văn hóa, các phóng viên, các thầy cô giáo, học sinh học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sinh trường phổ thông và chuyên nghiệp…. Họ đã tích cực góp phần vào công
việc bảo tồn và lưu truyền văn hóa, văn học dân tộc Mông ở Yên Bái.
* Một số thành tựu nổi bật trong việc sưu tầm dân ca:
- Dân ca Mèo ở Lào Cai do Doãn Thanh sưu tầm (N.X.B Văn học, 1967).
- Dân ca Mèo (Jăngx gâux H.Môngz) do Doãn Thanh sưu tầm, biên dịch
(Hội Văn học nghệ thuật Lào Cai, in song ngữ, 1967).
- Hoa chàm nở do Minh Khương sưu tầm và dịch (Ban văn giáo Khu tự trị
Tây Bắc, 1974).
- Tập thơ ca Mặt trời hoa mây (Luz hmuz păngx huôz) do Minh Khương
sưu tầm, dịch (Ty Văn hóa Hoàng Liên Sơn phối hợp với Phòng Văn hóa
Thông tin huyện Trạm Tấu, 1977).
- Dân ca Mông tập I do Nguyễn Tài Tuệ, Trịnh Lại sưu tầm, ghi âm, phỏng
dịch (N.X.B Văn hóa, 1979).
- Tập thơ ca các dân tộc Lời hát biên cương (Đruôz Đirv têz gơu li lut txax)
do Châu A Chin và Minh Khương sưu tầm, dịch (Ty Văn hóa thông tin
Hoàng Liên Sơn, 1980).
- Tập sách Những bài ca đánh giặc ngoại xâm của người Mông (H.Môngz
li jăngx ntâuk chuôv tir châuz txênhz tê goưk) do Doãn Thanh sưu tầm và
biên soạn (Hội văn nghệ Ty Văn hóa thông tin và Ban chỉ đạo pháo đài quân
sự tỉnh Hoàng Liên Sơn, 1981).
- Tập sách Dân ca Mông do Doãn Thanh sưu tầm và dịch; Hoàng Thao tuyển
và chỉnh lý; Chế Lan Viên viết bài giới thiệu (N.X.B Văn học, 1984).
- Tập sách Văn hóa Mông của tác giả Trần Hữu Sơn (N.X.B Văn hóa dân
tộc, 1996).
Bên cạnh đó, để thúc đẩy và duy trì công tác sưu tầm nghiên cứu văn
hóa, văn học dân tộc Mông (cũng như các dân tộc khác) ở địa phương, Yên
Bái đã có nhiều ấn phẩm, tạp chí văn hóa văn nghệ. Tiêu biểu là: Thơ ca Yên
20
Bái, Thơ văn Nghĩa Lộ; tập san: Văn nghệ Yên Bái (trước 1975 đến nay); báo,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tập san Văn nghệ Hoàng Liên Sơn (1976 - 1991). Các ban ngành, huyện thị
cũng cho ra đời những ấn phẩm. Nhờ những tạp chí và ấn phẩm trên, các công
trình nghiên cứu về văn hóa và văn học của dân tộc Mông đã đến được với
độc giả.
`Qua các công trình nghiên cứu đã nêu trên, ta có thể nhận thấy rằng
việc nghiên cứu sưu tầm văn hóa và văn học dân tộc Mông ở Yên Bái đã diễn
ra khá sôi nổi. Các tác giả của những công trình ấy hầu hết là những người
yêu và say mê sưu tầm, nghiên cứu về văn hóa, văn học dân gian dân tộc
Mông. Để có được kết quả đáng tự hào như vậy, các tác giả đã có cả một quá
trình lặn lội gian khổ qua những chuyến đi thực tế đến với đồng bào Mông,
giúp họ lưu giữ lại những nét văn hóa cổ truyền của dân tộc mình trong các
trang sách.
* Một số thành tựu nổi bật trong việc sưu tầm truyện cổ tích của dân tộc
Mông lưu hành ở Yên Bái:
Trước hết, chúng tôi phải khẳng định rằng việc sưu tầm, nghiên cứu
truyện cổ tích của dân tộc Mông gắn liền với việc sưu tầm văn học dân gian
của dân tộc Mông. Đây là một công việc rất khó khăn vì Yên Bái là một tỉnh
rộng, dân cư thưa thớt, phần lớn đồng bào dân tộc Mông lại sống ở các triền
núi cao, nhiều người còn chưa biết đọc, biết viết, thậm chí còn chưa thạo tiếng
Kinh. Điều đó đòi hỏi các nhà sưu tầm, nghiên cứu phải thực sự tâm huyết với
văn hóa, văn học dân tộc Mông. Từ năm 1989 đến nay, các tác giả như Minh
Khương, Phạm Đức Hảo, Lê Vân đã dành công sức sưu tầm và biên tập
truyện cổ tích của dân tộc Mông ở Yên Bái. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa
có một công trình nào giới thiệu được đầy đủ về truyện cổ tích của dân tộc
Mông ở Yên Bái.
Năm 1989, Nhà xuất bản Hội Văn học - Nghệ thuật Hoàng Liên Sơn đã
giúp các tác giả Lê Vân, Minh Khương, Hà Lâm Kỳ, Vàng Thung Chúng, Tô
21
Giang, Lù Dín Siềng, Sần Quáng, Sần Cháng cho ra mắt tập truyện Ông vua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngốc - Truyện cổ Hoàng Liên Sơn dày 52 trang, bao gồm 10 truyện sưu tầm
được trong toàn tỉnh Hoàng Liên Sơn. Trong đó có 1 truyện cổ của dân tộc
Tày, 1 truyện cổ của dân tộc Mường, 1 truyện cổ của dân tộc Nùng, 4 truyện
cổ của dân tộc Giáy, 1 truyện cổ của dân tộc Cao Lan và 2 truyện cổ tích của
dân tộc Mông là: Hạt muối (Lê Vân sưu tầm) và Nhà Tếnh (Minh Khương
sưu tầm).
Năm 1996, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc đã giúp tác Phạm Đức Hảo
xuất bản tập truyện Suối nước mắt – tập truyện dân gian các dân tộc vùng
Văn Chấn dày 90 trang, bao gồm 11 truyện của các dân tộc do tác giả sưu
tầm và biên soạn ở huyện Văn Chấn (Yên Bái). Trong đó có 2 truyện cổ tích
của dân tộc Mông là: Sự tích núi hai bà cháu và Hoàng tử rùa.
Năm 1997, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc đã giúp tác giả Minh
Khương ra mắt tập truyện Nàng Nu - Truyện cổ dân tộc Mông dày 118
trang, bao gồm 21 truyện cổ tích dân tộc Mông do tác giả sưu tầm và biên
soạn ở hai huyện vùng cao là Trạm Tấu và Mù Cang Chải.
Lược kê 24 truyện cổ tích của dân tộc Mông do các tác giả sưu tầm và
biên soạn chúng tôi thấy: huyện Trạm Tấu có 9 truyện, do 2 nghệ nhân kể:
Mặt đất lồi lõm, Ông tiên ở núi Ngũ Sơn, Nù Phay học khèn, Nàng Nu,
Nàng Nao và Xênh, Củ và Kỷ, Chuyện năm cha con, Sao Pàng (đều do
Giàng Trờ Xang, xã Trạm Tấu kể), Sự tích đuôi gấu (Giàng A Lử, xã Trạm
Tấu kể). Huyện Mù Cang Chải có 12 truyện do 6 người kể: Trời chết (Thào
Khua Kỷ, ở huyện lỵ kể), Sự tích khèn Mông, Chuyện Xí Xang (Lý Pàng
Tủa, xã La Pán Tẩn kể), Sự tích gà mái ấp trứng vịt, Chín người con trai,
Tồng Của gọi được chim dư vay, Kề Tấu (Lý Trờ Say, xã La Pán Tẩn kể),
Chua Thênh và A Sở, Cô gái tóc xanh, A Xang (Giàng Nủ Chu, xã La Pán
Tẩn kể). Huyện Văn Chấn có 2 truyện do 2 người kể: Sự tích núi hai bà cháu
(Lý Hạ Chu kể), Hoàng tử rùa (Giàng A Su kể). Còn truyện cổ tích Hạt muối
22
do Lê Vân sưu tầm không ghi rõ tên và địa chỉ người kể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Với nguồn tư liệu đã xuất bản có trong tay, chúng tôi nhận thấy rằng:
Truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái tương đối
phong phú về số lượng và nội dung phản ánh. 24 truyện cổ tích thần kỳ chưa
phải là con số lớn nhưng đây là điều đáng quý cho công việc khảo sát của
chúng tôi. Chúng tôi cảm ơn và trân trọng những thành quả khoa học mà các
nhà nghiên cứu, sưu tầm đi trước đã làm được.
1.4. Khảo sát văn bản
1.4.1. Đặc điểm bản kể
Khảo sát 24 truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái,
chúng tôi nhận thấy một số đặc điểm nổi bật của các văn bản đó là sự phong phú
về nội dung. Song các văn bản ấy có một số đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất: Các bản kể là của dân tộc Mông ở Yên Bái.
Các văn bản được sưu tầm phần lớn là truyện cổ tích thần kỳ của dân
tộc Mông lưu hành ở Yên Bái. Yếu tố này đã chi phối dẫn dắt hầu hết các câu
chuyện được kể. Một số môtíp như: sợi lanh, con bò, con ngựa, khèn Mông,
hội Gầu tào, số ba, số chín… được nhắc lại nhiều lần. Đó là những hình ảnh
gắn bó mật thiết với đời sống vật chất và tinh thần của người Mông trên núi
cao. Truyện Sự tích núi Hai Bà Cháu còn gắn với địa danh cụ thể (suối Hoa,
thôn Pính Pé, xã Cát Thịnh, huyện Văn Chấn). Những chi tiết trên chứng tỏ
rằng, khi sống trên vùng núi cao trong một địa bàn nhất định, người Mông đã
bảo tồn được văn hóa của dân tộc mình. Điều này đã được thể hiện trong văn
học cũng như các sáng tác truyền miệng của họ. Chính điều đó làm nên sự
khác biệt giữa truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông ở Yên Bái với truyện
cổ tích thần kỳ của các dân tộc khác trên địa bàn cùng cư trú. Vì người Mông
sống ở trên núi cao nên họ cho rằng mình gần với trời. Khi có bế tắc, các nhân
vật thường tìm cách lên trời, trực tiếp gặp Xếnh Lầu (thần trời) rồi được Xếnh
Lầu bày cho cách để giải quyết. Nhiều khi thần trời cũng xuống trần hoặc cho
23
hoàng tử, công chúa, tiên nữ… xuống hạ giới để giúp những người tốt bụng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhưng gặp phải hoàn cảnh éo le dưới trần gian thoát khỏi các bế tắc. Điều này
đã làm nên sự thống nhất mà đa dạng trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc
Mông lưu hành ở Yên Bái.
Thứ hai: Mỗi truyện chỉ có một bản kể.
24 truyện cổ tích được sưu tầm là 24 bản kể khác nhau. Nội dung của
truyện tập trung vào các đề tài: người mồ côi, người em, người con riêng,
người mang lốt, người dũng sĩ. Tuy nội dung của các truyện đều hướng tới
giải quyết mọi xung đột trong thực tại giữa người với người nhưng mỗi truyện
lại có một cách dẫn dắt khác nhau. Cuối mỗi câu chuyện bao giờ cũng là
chiến thắng của cái thiện đối với cái ác, cái tốt đẹp đối với sự xấu xa. Điều đó
cho thấy bao giờ nhân dân cũng dành thiện cảm đối với những người gặp
nhiều bất hạnh trong cuộc sống, đó là những người mồ côi, người em út,
người con riêng…. Sự nhìn nhận này bị chi phối bởi chính đặc trưng của văn
học dân gian mà truyện cổ tích thần kỳ là một tiểu loại.
Thứ ba: Bản kể biểu hiện sự kế thừa và chuyển hóa của thể loại.
Cũng như các thể loại và tiểu loại văn học dân gian khác, truyện cổ tích
thần kỳ của dân tộc Mông ở Yên Bái cũng có bản kể khó xác định được đúng
đặc trưng thể loại thể loại. Hiện tượng này đã xuất hiện ở các truyện Mặt đất
lồi lõm, Ông tiên trên núi Ngũ Sơn, Sự tích gà mái ấp trứng vịt. Những
truyện trên có dấu hiệu của truyền thuyết, nó tập trung vào việc lí giải các
hiện tượng xảy ra trong tự nhiên và xã hội như: Con người sinh ra từ đâu? Vì
sao mặt đất lại lồi lõm? Vì sao gà mái lại ấp trứng vịt? Vì sao các con vật có
màu lông khác nhau?... Song nếu xét theo đúng đặc trưng thể loại thì chúng
tôi xét chúng vào tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ. Vì trong cả ba truyện trên,
việc giải thích các hiện tượng tự nhiên và xã hội chỉ là phụ, sự việc chính thể
hiện ở chỗ nó tập trung vào giải quyết mọi xung đột trong thực tại giữa người
với người thông qua việc trợ giúp của các lực lượng thần kỳ, siêu nhiên...
24
Chúng tôi coi những tác phẩm trên là truyện cổ tích hóa từ thần thoại. Có thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nói đây là một đặc thù riêng trong truyện cổ tích của dân tộc Mông lưu hành ở
Yên Bái. Từ đây chúng ta thấy được mối quan hệ giữa các thể loại của văn
học dân gian.
1.4.2. Tính dị bản
Đặc điểm dị bản trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu
hành ở Yên Bái khá đặc biệt. Một số văn bản có nét tương đồng với truyện cổ
tích của người Kinh. Song trong mỗi bản kể ấy, tính dị bản diễn ra ở rất nhiều
phương diện như: tên tuổi, đặc điểm của nhân vật; không gian; lời của người
kể chuyện…
Truyện Hạt muối có nhiều điểm tương đồng với truyện Người nông
dân và con quỷ của người Kinh. Ngoài những điểm tương đồng, giữa hai
truyện còn có những chi tiết dị biệt. Trong truyện Hạt muối, tác giả người
Mông kể về sự thông minh, mưu trí của chàng trai Mông nghèo khổ khi lừa
được tên vua gian ác qua ba lần thách đấu trên mảnh đất của hắn. Vua muốn
lấy phần gốc, anh trồng lúa; vua lấy cả gốc lẫn ngọn, anh trồng ngô; vua
muốn lấy cả gốc cả ngọn cả giữa, anh trồng khoai sọ. Kết truyện, anh nông
dân bị tên vua bỉ ổi hạ lệnh chém đầu vì cả hắn và bọn nịnh thần đều nhất loạt
khẳng định rằng “đường còn ngon hơn muối”. Tên vua cuối cùng cũng bị
chết vì thiếu muối. Trong truyện Người nông dân và con quỷ, tác giả người
Kinh cũng kể về sự thông minh, mưu trí của người nông dân khi lừa được con
quỷ gian ác trên mảnh đất của hắn: Quỷ muốn ngọn thì anh trồng củ cải; quỷ
muốn gốc thì anh trồng lúa; quỷ muốn cả gốc lẫn ngọn thì anh trồng ngô. Kết
truyện, quỷ bị thua nên bỏ chạy vào rừng. Qua những chi tiết ở hai bản kể
trên, ta thấy được mật độ các chi tiết khác biệt là tương đối nhiều.
Truyện Chua Thênh và A Sở có nhiều điểm tương đồng với truyện
Cây khế của người Kinh. Song bên cạnh đó giữa hai truyện cũng có những
điểm dị biệt. Trong truyện Chua Thênh và A Sở, cả hai nhân vật chính đều có
25
tên riêng. Là anh nên Chua Thênh đã chiếm hết gia tài, hắn chỉ để lại cho A
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Sở vật thừa kế là con cáo nhỏ. Nhờ có tài múa khèn, cáo đã giúp A Sở trở nên
giàu có. Vì quá tham lam, độc ác, cuối cùng Chua Thênh cũng bị trừng trị
đích đáng. Trong truyện Cây khế, hai nhân vật chính đều không có tên riêng.
Người anh cũng chiếm hết gia tài còn người em chỉ được thừa kế tài sản là
một cây khế. Khi ăn khế, chim phượng hoàng đã trả ơn cho người em bằng
vàng, cuộc sống của chàng trở nên giàu có. Người anh tham lam nên bị chim
phượng hoàng hất xuống biển sâu.
Truyện Nàng Nao và Xênh cũng có môtíp gần với truyện Tấm Cám.
Chỉ có điều các chi tiết đã thay đổi đôi chút. Nếu như trong truyện Tấm Cám,
trước khi đi xem hội, “mẹ con Cám đã lấy một đấu thóc và một đấu gạo, trộn
lẫn với nhau, rồi bắt Tấm phải lựa riêng ra”. Bụt đã cho một đàn chim sẻ đến
nhặt đỡ Tấm. Tấm khóc vì không có quần áo mới mặc đi xem hội, Bụt đã bảo
Tấm đào lọ xương cá bống và cô đã thấy “quần áo, một đôi giày và một con
ngựa”. Trong lễ hội, Tấm đã gặp được nhà vua. Trải qua quá trình đấu tranh
lâu dài với mẹ con Cám, cuối cùng Tấm đã giành lại được ngôi vị hoàng hậu
còn mẹ con Cám bị tiêu diệt. Trong truyện Nàng Nao và Xênh, ngày xuân
đến, mẹ con Xênh cũng mặc váy áo mới đi chơi hội Gầu tào và bắt Nao “phải
đem bồ thóc nhặt hết cứt chuột rồi đem xay giã, sàng sảy sạch trấu”. Hồn ma
mẹ Nao đã giúp nàng làm gạo nấu cơm và rồi chỉ cho Nao đến chỗ máng bò
lấy bộ váy áo mới tinh. Trong lễ hội Gầu tào, Nao đã gặp Sì Na - con một vị
quan ở địa phương đã về nghỉ hưu. Họ đem lòng yêu nhau. Trải qua quá trình
đấu tranh lâu dài với mẹ con Xênh, đến lúc chết, cả gia đình Nao vẫn được
sống quây quần bên nhau: Sì Na hóa thành con ong mật, Nao hóa thành cây
chàm xanh mướt, đứa con trai hóa thành chim liếu điếu còn mẹ con Xênh
cũng bị tiêu diệt.
Bên cạnh đó còn có những truyện như Hoàng tử Rùa, Kề Tấu gần
giống với các truyện Hoàng tử Dê, Công chúa Ếch, Sọ Dừa của người Kinh.
26
Các nhân vật trong bốn câu chuyện trên đều có xuất thân rất cao quý. Họ có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thể là người trời, hoàng tử, công chúa ở trên thiên đình, vì mắc lỗi nên bị đày
xuống trần gian chịu tội. Bên cạnh đó, cũng có những nhân vật vì cảm thương
sâu sắc đối với gia đình nông dân nghèo, hiếm muộn nhưng tốt bụng nên đã
tình nguyện đầu thai vào làm con trong gia đình đó. Các nhân vật đều phải
vượt qua những khó khăn thử thách để trở thành người có hình dạng xinh đẹp
như lúc ban đầu. Hầu hết họ ở lại dưới trần gian, sống sung sướng và được
hưởng hạnh phúc lâu dài bên người vợ, người chồng thân yêu của mình.
Qua việc tìm hiểu đặc điểm của các bản kể và tính dị bản trong truyện
cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi thấy giữa
truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông với truyện cổ tích thần kỳ của dân
tộc Kinh có những nét tương đồng trong một số tình tiết. Tính dị bản được thể
hiện ở chính sự phong phú của các bản kể và chính sự phong phú của các bản
kể cũng tạo nên tính dị bản ở cấp độ cao hơn - cốt truyện. Từ đó có thể thấy
rằng các tác phẩm văn học dân gian đã được lưu truyền, khúc xạ, có sức sống
mạnh mẽ trong không gian và thời gian.
1.5. Phân nhóm truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành
ở Yên Bái
Bảng 1:
Nhóm truyện Tên truyện Tổng số (truyện)
- Chuyện Xí Xang.
- Hạt muối.
- Mặt đất lồi lõm.
13 - Nàng Nu. Truyện về người mồ côi
(54,17%) - Nhà Tếnh.
- Nù Phay học khèn.
- Sự tích núi Hai Bà Cháu.
27
- Sự tích gà mái ấp trứng vịt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Sự tích khèn Mông.
- Rì Tủa.
- Tồng Của gọi được chim
Dư Vay.
- Trời chết.
- Mủa Gầu Chủ.
2 - A Xang. Truyện về người em
(8,33%) - Chua Thênh và A Sở.
2 - Nàng Nao và Xênh. Truyện về người con
(8,33%) - Sao Pàng. riêng
3 - Cô gái tóc xanh. Truyện về người mang
(12,50%) - Hoàng tử rùa. lốt
- Kề Tấu.
4 - Chuyện năm cha con.
(16,67%) - Chín người con trai. Truyện về người dũng
- Củ và Kỷ. sĩ
- Sự tích đuôi gấu.
* Tiểu kết chương 1:
Là một vùng đất có vị trí địa lý thuận lợi, nhờ có sự ưu đãi của thiên
nhiên nên từ lâu Yên Bái đã thu hút được đồng bào dân tộc các khắp nơi đến
sinh sống. Xuất phát từ lịch sử di cư và phong tục tập quán, dân tộc Mông đã
lựa chọn cho mình vùng đất phù hợp để an cư lạc nghiệp. Kể từ khi dừng
28
chân, khai hoang và thiết lập lãnh địa, dân tộc Mông đã mang theo bản sắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
văn hóa của mình tới vùng đất Yên Bái, lưu giữ và truyền lại cho con cháu
muôn đời sau.
Truyện dân gian của các dân tộc nói chung và truyện cổ tích thần kỳ
của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái nói riêng khá phong phú và đặc sắc.
Việc sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu ngày càng được chú trọng với đội ngũ
nghệ nhân, nhà văn, nhà nghiên cứu… Trong kho tàng ấy, truyện cổ tích thần
kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở nơi đây chiếm một vị trí quan trọng bởi các
tác phẩm chính là sự ghi chép, phản ánh đời sống của đồng bào dân tộc Mông
một cách độc đáo của tác giả dân gian.
24 truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái được
chúng tôi sắp xếp và trình bày theo nội dung phản ánh. Mỗi nội dung đều có
29
những nét độc đáo, hấp dẫn riêng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
CHƯƠNG 2
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ NỘI DUNG TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH
THẦN KỲ CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI
2.1. Những phương diện cơ bản về mặt nội dung
2.1.1. Truyện về người mồ côi
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện cổ tích phát triển
phong phú và chiếm ưu thế hơn cả. Trong đó nhân vật trung tâm của những
câu chuyện cổ tích thần kỳ là những con người thấp hèn trong xã hội, những
con người bị tước đoạt quyền sống, không có khả năng tự bảo vệ mình, bị
ngược đãi một cách bất công, bị thiệt thòi hay mất mát những quyền lợi chính
đáng. Đó là những người mồ côi, người con riêng, người em út. Đặc biệt,
nhân vật mồ côi được xem là hình tượng nghệ thuật nổi bật, chiếm ưu thế
trong truyện cổ tích thần kỳ.
Truyện cổ tích của dân tộc Mông ở Yên Bái cũng thường xuất hiện các
nhân vật mồ côi, người con riêng của chồng. Trong số 24 truyện cổ tích thần
kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi thấy có tới 13 truyện có
nhân vật mồ côi (chiếm 54,17%). Nếu kể cả truyện nhân vật mồ côi là người
con riêng hay người em út thì số truyện lên tới 17 truyện (chiếm 70,83%).
Trong đó có 10 truyện kể về chàng trai mồ côi cả cha lẫn mẹ, 3 truyện kể về
hai anh em (hoặc chị em) mồ côi cha mẹ, 1 truyện kể về 6 anh em mồ côi
cha mẹ, 3 truyện kể về người con riêng. Có thể nói truyện người mồ côi là
dạng truyện phổ biến nhất của truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu
hành ở Yên Bái. Nhân vật mồ côi là nhân vật thường gặp nhất khiến cho nó
có thể kết hợp với nhiều kiểu nhân vật khác như nhân vật “người em”, “người
đội lốt”.
Cốt truyện của kiểu truyện người mồ côi thường theo một mô hình
30
thống nhất như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nhân vật sinh ra đã bị mồ côi hoặc vì một lý do nào đó mà cha/mẹ qua đời;
Người mồ côi chịu nhiều đau khổ, thiệt thòi nhưng lại rất hiền lành, chăm chỉ;
Người mồ côi bị áp bức, bóc lột bất công;
Người mồ côi nhận được sự giúp đỡ của lực lượng siêu nhiên, vượt qua thử thách
Người mồ côi cưới được vợ/chồng đẹp, cuộc sống trở nên giàu có;
Kẻ xấu bị trừng trị đích đáng.
Nhìn chung, nhân vật mồ côi thường là hình ảnh về con người có số
phận hẩm hiu, bất hạnh, sinh ra trong đói nghèo, sống cô đơn trơ trọi một
mình nơi núi rừng hoang vu. Tài sản của người mồ côi thường được miêu tả
với số lượng duy nhất, có khi chẳng có thứ gì. Họ thường sống ở trong những
căn lều tồi tàn, rách nát ở cuối bản hay trong tận vùng núi sâu và thường phải
phát nương, làm rẫy, cày ruộng, đánh bắt… để sinh sống.
Nhân vật mồ côi trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu
hành ở Yên Bái là hình ảnh của những con người chịu nhiều đau khổ, thiệt
thòi trong cộng đồng xã hội. Họ mang vẻ đẹp chung của những con người lao
động hiền lành, chăm chỉ và giàu lòng yêu thương. Khi cha mẹ mất, sáu anh
em trai trong truyện Sự tích khèn Mông đã thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn
nhau. Ban ngày họ chăm chỉ cùng nhau làm nương rẫy để có được miếng cơm
ăn, tối về sáu anh em lại quây quần bên tiếng khèn trầm bổng thắm thiết nghĩa
tình. Còn Xí Xang trong truyện Xí Xang cũng là một chàng mồ côi cha mẹ.
Xí Xang ở với ông chú, “hằng ngày chàng phải đi phát rừng làm nương rẫy”
31
rất vất vả để nuôi sống bản thân mình. Chàng mồ côi trong truyện Nàng Nu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cũng vậy. Ngay từ nhỏ, mồ côi đã không biết cha mẹ mình là ai. Khi còn là nô
lệ của nhà vua, chàng phải làm biết bao nhiêu công việc, từ chặt cây đốn gỗ
đến phát nương làm rẫy, thế nhưng mồ côi lại luôn bị nhà vua cho ăn cơm
hẩm, mặc áo rách, thường xuyên bị quân lính đánh đập. Chàng Tồng Của
trong truyện Tồng Của gọi được chim Dư Vay cũng mồ côi cha mẹ từ “lúc
mới lọt lòng, phải bú sữa vượn mà sống, Lớn lên chàng phải tự làm nương ở
vùng biển hồ”. Cha mẹ của Rì Tủa trong câu chuyện Rì Tủa cũng chết sớm,
chàng phải ở với người chú ruột, ngày ngày đi chăn trâu và mò cá. Như vậy,
cùng là thân phận mồ côi song mỗi một nhân vật lại có một hoàn cảnh xuất
thân khác nhau. Tuy nhiên, họ giống nhau ở chỗ ai cũng có ý chí, nghị lực và
tinh thần mạnh mẽ để vượt qua số phận dù luôn bị áp bức bóc lột bất công.
Nhân vật mồ côi cũng thường phản ứng mạnh mẽ với những bất công
của gia đình và xã hội để đòi quyền lợi chính đáng cho bản thân mình. Trước
sự áp bức bóc lột của tên vua độc ác, chàng mồ côi trong câu chuyện Hạt
muối đã phản ứng lại bằng việc quyết tâm không đi ở nữa mà chuyển sang
làm thuê cho nhà vua, làm được bao nhiêu thì hưởng công bấy nhiêu. Chàng
Rì Tủa trong truyện Rì Tủa cũng phản ứng lại lệnh của nhà vua khi vua cho
lệnh triệu tập chàng vào cung: “Lính báo hai, ba lần mà Rì Tủa làm lơ như
không biết gì. Sau vua phải cho binh gia mang võng đến khiêng chàng mới
đi”. Khi Rì Tủa về, vua cũng phải nhượng bộ bằng cách cho quân lính khiêng
chàng và đưa tiễn mẹ con công chúa út về nhà.
Không chỉ thông minh, cần cù, khéo léo và có lòng nhân hậu, nhân vật
mồ côi trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái còn
có lòng kiên trì khi vượt qua nhiều gian nan thử thách để đến được cái đích
của mình. Có thể nói môtíp thử thách các nhân vật mồ côi có vị trí đặc biệt và
chiếm một số lượng lớn trong truyện cổ tích. Hầu hết các nhân vật mồ côi đều
32
phải trải qua thử thách để từ đó bộc lộ được tính cách của mình. Người con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trai của nàng Nu trong truyện Nàng Nu cũng phải trải qua rất nhiều thử thách
trước người ông ngoại rất đáng sợ, nhiều mưu, tinh quái, hay tìm cách hãm
hại để ăn thịt cháu. Cả ba lần chơi trốn tìm, dù ông ngoại hóa thân vào các vật
khác như con ngựa đực, quả đào, ngọn măng mà người cháu vẫn tìm ra.
Người ông còn hóa thành con suối to, nước chảy dữ như thác đổ, rồi thành
mây mù dày đặc làm trời tối đen như mực, một quả núi đá dựng lên chắn
ngang đường hay lửa cháy cao ngất trời cũng không ngăn cản được bước
chân đi tìm cha của đứa cháu. Để gặp lại nàng Út và được xum vầy một nhà
cùng đứa con trai kháu khỉnh, chàng Xí Xang trong truyện Xí Xang đã phải “cõng
chín thùng nước đặt lên chín đỉnh núi”, công việc nặng nhọc đó đã làm cho thân
chàng “gầy yếu như que củi khô”, thế nhưng để đến được với bến bờ hạnh phúc
Xí Xang đã kiên trì và quyết tâm vượt qua tất cả những gian phía trước.
Để giành được hạnh phúc cho mình, người mồ côi trong truyện cổ tích
thần kỳ của dân tộc Mông luôn luôn phải trải qua những khó khăn thử thách.
Đó là các thế lực ở bên ngoài xen vào phá hoại hoặc muốn tước đoạt tình yêu
và hạnh phúc của họ. Trải qua bao gian nan thử thách, nhân vật mồ côi đã bộc
lộ được sự dũng cảm, lòng chung thủy sắt son của mình đối với người chồng,
người vợ thân yêu. Chàng Tồng Của trong truyện Tồng Của gọi được chim
Dư Vay cũng đã phải trải qua năm lần thách đấu với tên vua độc ác nếu không
sẽ bị hắn cướp mất người vợ xinh đẹp. Lần thứ nhất, con nghé đực của Tồng
Của đã húc cho con trâu cà to lớn của nhà vua lòi mắt, vỡ sọ, lăn ra chết,
khiến cho nhà vua tái mặt, chịu thua. Lần thứ hai, con ngựa của nhà vua đã bị
con ngựa còi cọc của Tồng Của đá bay mất cái hàm dưới trong vòng chưa đầy
một hiệp thi đấu, khiến con ngựa của nhà vua lăn ra chết, còn hắn thì giật
mình sợ hãi. Lần thứ ba, con gà chọi của Tồng Của cũng đá bục diều, thủng
ức con gà của nhà vua, làm cho nhà vua tức sôi tim. Lần thứ tư, Tồng Của bắn
33
cả ba lần đều trúng bia trong khi nhà vua không bắn trúng bia lần nào, làm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cho hắn xấu hổ, cạn lý. Phải đến lần thứ năm, khi Tồng Của gọi được chim
Dư Vay thì tên vua độc ác mới bị tiêu diệt. Trước sự háo sắc, tham lam, độc
ác của nhà vua, nàng Nu trong truyện Nàng Nu đã phải dùng đến phép thuật
giết chết hắn để bảo vệ hạnh phúc cho gia đình mình.
Bên cạnh đó, để thắng được các thế lực tàn ác, đen tối, nhân vật mồ côi
trong các câu chuyện cổ tích thần kỳ luôn nhận được sự giúp đỡ của các
phương tiện thần kỳ như cứu vật thì được trả ơn hay nhận được sự gúp đỡ của
các vị thần. Đây là một môtíp khá phổ biến trong các truyện cổ tích thần kỳ
nói chung và trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông ở Yên Bái nói
riêng. Các nhân vật mồ côi luôn giúp đỡ các con vật bị hại, bị nạn hoặc tha
mạng cho chúng. Sau đó họ được các con vật giúp vượt qua khó khăn thử
thách hoặc được trả ơn bằng cách tìm vợ hay giúp nhân vật trở nên giàu có.
Điều khác biệt trong các truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông là các con
vật ở đây thường gắn liền với không gian núi rừng như vượn, cáo, bướm,
kiến… và các vị thần thường là thần núi, Xếnh Lầu (thần Trời), Long Vương.
Chàng Nhà Tếnh trong truyện Nhà Tếnh khi nhìn thấy “xác con bướm chết
treo trên cây vọng cách, buộc bằng một sợi chỉ đỏ và một sợi chỉ xanh” đã
“bắt một con cóc giết làm ma… lấy đất sét nặn thành cái trống, chặt trúc làm
cái kèn” rồi “than khóc và mang bướm đi chôn ở đồi cỏ Pào”. Con bướm ấy
lại chính là con gái của Xếnh Lầu. Cảm động trước hành động tốt của Nhà
Tếnh, Xếnh Lầu đã tặng chàng chiếc hộp Khư Lứ - hộp thần có thể dùng để
chữa bệnh - và sau này còn gả con gái út của mình cho Nhà Tếnh. Chàng Dúa
Phử trong truyện Sự tích gà mái ấp trứng vịt đã cho Đầu Lâu ăn cá rồi còn
đón nó về nhà cùng sinh sống. Cảm động trước lòng tốt của Dúa Phử, Đầu
Lâu đã bày cho chàng cách chặt tre làm sàn nhà để thoát ra khỏi vụ lụt lội.
Thấy tổ kiến bị nạn, Dúa Phử đã đã vớt để lên bè, vì thế khi nước ngập lên
đến trời, đàn kiến đã giúp chàng vào kho của Ngọc Hoàng tha đầy gạo về sàn,
34
giúp cả gia đình sống sót qua trận lụt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Có thể nói rằng các yếu tố thần kỳ không phải là yếu tố quyết định
trong các truyện cổ tích thần kỳ nhưng nó là yếu tố quan trọng để giúp cho
các nhân vật mồ côi vượt qua được những khó khăn, thử thách một cách dễ
dàng hơn, từ đó giúp các nhân vật trong truyện giành được hạnh phúc. Đồng
thời, yếu tố thần kỳ cũng thể hiện được ước mơ, khát vọng, quan niệm đạo
đức “ở hiền gặp lành” của người lao động.
Đối lập với các nhân vật mồ côi trong truyện cổ tích thần kỳ bao giờ
cũng là hệ thống các nhân vật phản diện. Các nhân vật này bao giờ cũng được
xây dựng theo một đặc điểm, một môtíp chung. Đó là những con người xấu
xa, gian xảo, tàn ác, luôn tìm cách bóc lột, lừa gạt, hãm hại hay cướp đoạt
những thứ mà nhân vật mồ côi có được. Đó là những nhân vật đại diện cho
quyền lực trong gia đình như dì ghẻ, anh trai, chị dâu; những nhân vật đại
diện cho giai cấp thống trị trong xã hội như vua, quan. Kết thúc truyện, bao
giờ các nhân vật phản diện cũng đều phải trả giá bằng cái chết. Tên vua Nà
Trư độc ác và háo sắc trong truyện Tồng Của gọi được chim Dư Vay đã dùng
đủ mọi thủ đoạn bỉ ổi để cướp nàng Pàng Li - vợ chàng Tồng Của. Tội ác của
hắn thấu lên đến tận cả trời xanh. Cuối cùng vua Nà Trư đã bị chim Dư Vay
phóng ra một tia sáng xanh giết chết. Tên vua trong truyện Nàng Nu mới chỉ
nghe nói chàng mồ côi có được người vợ vô cùng xinh đẹp, “máu dê máu
ngựa đã bốc lên óc”, hắn liền truyền lệnh cho quân lính dẫn đường đến ngay
nhà chàng mồ côi. Khi mới nhìn thấy một bàn chân của nàng Nu, vua đã ngây
ngất mê mệt và “gạ chàng mồ côi đổi nhà đổi vợ lấy dinh cơ và bẩy người vợ
của vua”. Sự độc ác và háo sắc của hắn đã bị nàng Nu ra tay trừng trị. Trong
truyện Hạt muối, tên vua độc ác cũng bóc lột kiệt quệ sức lao động của chàng
trai mồ côi: “Trời chưa sáng đã phải cắt xong cỏ ngựa rồi trở về phát nương
mãi đến sẩm tối. Cơm tối xong chàng lại phải xay ngô, nấu rượu, làm hết mọi
35
việc trong nhà rồi mới được đi ngủ”. Hắn cảm thấy cay cú khi lần nào thách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đấu cũng bị thua chàng trai. Vua và bọn quan nịnh thần đã dùng đến thủ đoạn
hèn hạ và bỉ ổi nhất để giết chàng mồ côi: Tất cả bọn chúng đều nhất loạt
khẳng định rằng “Đường còn ngon hơn cả muối”. Vua hả hê khi chém đầu
được chàng mồ côi nhưng kết cục, hắn cũng bị chết ở trên thuyền vì hơn một
tháng không có muối ăn.
Tuy bị nhân vật phản diện hành hạ, bóc lột nhưng bao giờ các nhân vật
mồ côi, những con người đại diện cho tầng lớp nhân dân lao động, đại diện
cho cái thiện, cái đẹp cũng luôn gặp may mắn, nhận được sự giúp đỡ của thần
tiên, kết thúc luôn gặp điều tốt đẹp và có cuộc sống sung túc, hạnh phúc.
Chàng mồ côi trong truyện Nàng Nu cuối cùng đã được hưởng hạnh phúc bên
người vợ đẹp và đứa con trai yêu quý sau bao nhiêu năm xa cách. Cả gia đình
chàng lúc nào cũng “vui như ngày hội Gầu tào”. Chàng Nhà Tếnh trong
truyện Nhà Tếnh được Xếnh Lầu đón về trời và gả cho chàng người con gái
út. Cuối truyện, chàng Xí Xang trong truyện Xí Xang đã được gặp lại người
vợ hiền xinh đẹp sau bao năm xa cách. Hai vợ chồng “sum họp một nhà, sinh
được đứa con trai kháu khỉnh, lại giàu có như xưa”. Nhờ vào tài đức của
mình, cuối cùng chàng Tồng Của trong truyện Tồng Của gọi được chim dư
vay còn được mọi người suy tôn lên làm vua trị vì thiên hạ còn người vợ đẹp
của chàng thì lên ngôi hoàng hậu.
Có thể nói việc xây dựng môtíp hai tuyến nhân vật đối lập nhau như
vậy trong các câu chuyện cổ tích thần kỳ phản ánh mâu thuẫn giữa hai lực
lượng đối lập trong xã hội Mông thời kỳ bấy giờ; đồng thời cũng nói lên khát
vọng của nhân dân lao động mong muốn có được một cuộc sống ấm no, tự do,
bình yên, hạnh phúc.
Vậy vì sao nhân vật người mồ côi trong truyện cổ tích thần kỳ của dân
tộc Mông lưu hành ở Yên Bái lại nhiều như vậy? Qua quá trình khảo cứu,
36
chúng tôi thấy: xã hội bộ lạc nguyên thủy chuyển sang gia đình nhỏ lẻ, chế độ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hôn nhân một vợ một chồng đã khiến cho nhiều thành viên của cộng đồng
không thể tìm được gia đình cho mình. Những đứa trẻ trước đây chỉ biết đến
người mẹ sinh ra chúng, đến giờ bị bỏ rơi khi xã hội sắp xếp lại các gia đình,
khiến chúng biến thành những đứa con mồ côi. Qua các nguồn tư liệu đã sưu
tầm được, chúng tôi khẳng định rằng văn hóa của dân tộc Mông là văn hóa di
cư. Trong quá trình thiên di từ Quý Châu (Trung Quốc) đến Lào Cai, Bắc Hà,
Phố Lu, SaPa, Than Uyên, Văn Bàn, Mù Cang Chải, Trạm Tấu… do không
gian và thời gian cách trở đã làm cho nhiều đứa trẻ bị thất lạc. Như vậy, cả
một lớp người được gọi là mồ côi - hệ quả tất yếu của sự biến chuyển xã hội -
và những con người bị bỏ rơi, không nơi nương tựa đó được truyện cổ tích
Mông xem như những nạn nhân đau khổ, bất hạnh cần được quan tâm chia sẻ.
Theo chúng tôi, kiểu truyện người mồ côi còn phản ánh những mâu
thuẫn trong phạm vi gia đình, chủ yếu là về vấn đề thừa kế, tư hữu. Vấn đề
đạo đức chỉ là biểu hiện, kết quả của những hành động đó. Từ vấn đề gia
đình, truyện cổ tích đã phản ánh các vấn đề thuộc phạm vi xã hội. Tuy nhiên,
do trình độ nhận thức còn hạn chế nên tác giả dân gian chưa thể lí giải được
những vấn đề của xã hội mà chỉ giải quyết chúng trong phạm vi từng gia đình
và trong từng trường hợp cụ thể.
Qua các nhân vật mồ côi, ta thấy được quan niệm của đồng bào Mông
bắt nguồn từ tín ngưỡng dân gian. Họ cho rằng sống thiện sẽ gặp lành, được
thay đổi kiếp, sống ác sẽ gặp điều dữ hoặc thành con vật sống vất vưởng trong
rừng, có khi bị trời trừng trị…. rất giống với quan niệm của người Kinh và
đạo Phật “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”. Đó cũng là ước mơ về công lý,
công bằng xã hội. Điều đáng chú ý là ở chỗ: tác giả dân gian Mông đã hiểu
sâu sắc ước mơ, nguyện vọng chính đáng của nhân dân lao động nên các
truyện cổ tích về người mồ côi đã làm rõ vấn đề cái thiện thắng cái ác, cái tốt
37
đẹp chiến thắng cái xấu xa. Cái thiện phải được nâng niu, truyền tụng, được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đề cao. Người thiện phải được tin dùng, được hưởng ấm no, hạnh phúc. Cái
ác phải bị trừng trị thích đáng. Đó chính là thái độ rõ ràng, dứt khoát, là lập
trường chính đạo của nhân dân lao động.
2.1.2. Truyện về người em
Truyện cổ tích thần kỳ thường kể lại những sự việc xảy ra trong đời
sống gia đình và xã hội của con người. Đó có thể là những mâu thuẫn giữa
các thành viên trong gia đình phụ quyền, vấn đề tình yêu hôn nhân, những
quan hệ xã hội. Nói cách khác, nội dung chính của truyện cổ tích thần kỳ là
đời sống xã hội và số phận con người. Truyện về đề tài người em thể hiện rất
rõ điều đó.
Có thể nói vấn đề chủ yếu mà các truyện về đề tài người em đề cập đến
thông qua xung đột giữa các anh chị em có quyền thừa kế. Vấn đề này có liên
quan đến thời điểm ra đời của truyện cổ tích. Khi chế độ thị tộc tan rã, gia
đình phụ hệ thay thế dần cho gia đình mẫu hệ. Xã hội hình thành theo mô
hình mới, gia đình nhỏ, cá thể. Hệ quả là những người thừa trong xã hội xuất
hiện ngày càng nhiều, trở thành nạn nhân của xã hội. Ngoài những người mồ
côi, người đi ở trong xã hội, trong mỗi gia đình cũng nảy sinh nhiều mâu
thuẫn. Quyền lực trong gia đình lúc này thuộc về người cha, quyền thừa kế
trong gia đình lúc này thuộc về người anh cả (trước kia trong gia đình thị tộc,
người con nhỏ về sau được ở cùng với mẹ và được thừa hưởng tài sản của
mẹ). Sự thay đổi đột ngột về quyền lực và quyền thừa kế đã khiến các thành
viên trong gia đình bỡ ngỡ, lúng túng và va chạm với nhau. Những vấn đề của
đời sống như thế đã đặt ra trong truyện cổ tích nhiệm vụ mới, đòi hỏi phải
phản ánh kịp thời và giải quyết các mâu thuẫn đó.
Cốt truyện của kiểu truyện người em thường rất đơn giản và thường
mang tính chất lặp lại, theo thuật ngữ gọi là dạng “kết cấu đồng quy”. Có
nghĩa là truyện xây dựng hai nhân vật thành hai tuyến song song, đối lập với
38
nhau. Cốt truyện thường theo một mô hình thống nhất với nhau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hai anh em trở nên mồ côi;
Người anh cả chiếm hết gia tài, người em chỉ được chia phần rất nhỏ;
Người em lao động chăm chỉ, tốt bụng nên đủ sống;
Người em giúp đỡ những người xung quanh;
Người em được trả ơn, trở nên giàu có, có địa vị;
Người anh thấy vậy đề nghị đổi vị trí cho người em;
Người anh bắt chước người em nhưng do xấu bụng nên phải trả giá.
Trong các truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái
có 2 truyện về đề tài người em (chiếm 8,33%). Nhân vật người em trong các
truyện cổ tích thần kỳ đều là những người mồ côi. Họ sống với anh trai hoặc
người chị dâu trong gia đình phụ quyền. Người em thường bị đối xử hết sức
tàn tệ, bất công. Họ phải làm nhiều công việc nặng nhọc nhưng lại được
hưởng thụ lượng của cải rất ít ỏi. Mặc dù vậy, người em trong các truyện cổ
tích thần kỳ rất ít khi than thân trách phận. Họ luôn coi công việc phải làm là
bổn phận và nghĩa vụ của mình. Chàng A Sở trong truyện Chua Thênh và A
Sở mồ côi cha mẹ từ sớm. Người anh trai là Chua Thênh đã chiếm hết nhà
cửa, trâu ngựa, lợn gà và ruộng nương. Còn nhỏ tuổi nhưng A Sở bị anh trai
coi như người đi ở, chàng phải ngủ một mình ở lều nương rét mướt để canh
thú rừng phá hoại trong những mùa lúa ngô chín. Chua Thênh còn thường
xuyên đánh A Sở sưng hết mình mẩy và cho chàng ăn đói mặc rách. Mặc dù
39
vậy A Sở vẫn chăm chỉ làm lụng mà không hề oán trách người anh trai. Nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vật A Xang trong truyện A Xang cũng là một chàng trai mồ côi. Vì anh trai đi
làm ăn xa nên A Xang phải ở với người chị dâu lười biếng. Chàng phải lo
toàn bộ mọi việc trong gia đình, từ việc nương đến việc vườn, từ cái ăn đến
cái uống. Trời nắng nóng như thiêu, cả khăn lẫn áo ướt đầm đìa mồ hôi
nhưng A Xang vẫn mải miết cày từ đầu nương đến cuối nương. Tuy ngô lúa
theo vai A Xang về chất đầy sàn nhưng người chị dâu chỉ cho chàng ăn bột
chề đắng - thứ lúa mạch vỏ hạt cứng. Những lúc buồn khổ nhất, A Xang cũng
chỉ biết ngửa mặt lên trời than vãn mấy câu chứ không hề dùng lời lẽ và hành
động của mình để phản kháng lại người chị dâu tham lam, ích kỉ.
Do chăm chỉ lao động và sống tốt bụng nên nhân vật người em thường
xuyên nhận được sự giúp đỡ của những người xung quanh, họ được trả ơn và
trở nên giàu có. Điều đặc biệt, những nhân vật đứng ra giúp đỡ người mồ côi
thường là những lực lượng siêu nhiên như Xếnh Lầu, Tiên nữ, Long Vương,
thần núi, động vật có tài năng… Khi bắt được con cáo ăn trộm cá, chàng A Sở
trong truyện Chua Thênh và A Sở không những không giết cáo sấy khô mang
về cho anh trai làm thức ăn mà còn lấy cơm nguội và cá nướng cho cáo ăn no
nê. Trời rét, A Sở còn khoác áo ấm cho cáo và ôm nó lội qua suối. Cảm tấm
lòng tốt của chàng, cáo đã nói: “... Anh không có cha mẹ, em cũng thế. Em
biết hát, biết múa khèn. Em sẽ theo anh đi múa hát lấy tiền thì đời sống sẽ
sung sướng”. Hành động của cáo sau đó đã giúp cho A Sở có“cửa nhà sang
trọng, của cải đầy ắp”. Ngay cả khi đã chết đi rồi cáo vẫn giúp đỡ A Sở làm
cho chàng ngày càng trở nên giàu có. Xương đầu cáo làm cái gáo múc cám
lợn khiến cho đàn lợn nhà A Sở lớn nhanh như thổi; lược làm từ xương đầu
cáo giúp cho tóc A Sở dài nhanh, óng mượt như tơ, ngày nào chàng cũng có
tóc bán; lưỡi câu làm từ xương đầu cáo giúp cho A Sở câu được nhiều cá, bán
được nhiều tiền. Lòng tốt của A Sở không chỉ được thể hiện bằng việc nâng
niu, trân trọng cáo cùng những kỉ vật được làm từ xương cáo mà còn thể hiện
40
ở tình thương dành cho người anh trai của mình. Dù biết Chua Thênh xấu tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
xấu nết nhưng bất kì lúc nào hắn cần giúp đỡ A Sở cũng giúp đỡ rất nhiệt
tình: từ việc cho mượn cáo, mượn gáo múc cám lợn đến việc cho mượn lược,
mượn lưỡi câu. Lòng tốt của A Sở còn được thể hiện qua việc chữa bệnh sưng
cổ họng cho Long Vương, vì thế chàng đã được ngài tặng cho chiếc ô hoa
thần. Khi yêu tinh bắt mất người vợ đẹp của chàng, thần núi đã bày cách và
đưa A Sở đi tìm vợ. Anh còn được chim đại bàng đưa đưa đường chỉ lối tới
tận hang của đại bàng để chàng vào cứu vợ. A Sở còn dùng thỏi đá ngọc chữa
bệnh cho mọi người trong vùng mà không lấy tiền vì thế ai cũng quý mến.
Trong truyện A Xang ta thấy cuộc đời của người em chồng chịu bao cay
đắng, tủi cực. Quá khổ, A Xang chỉ biết than thân trách phận một mình, lời
của chàng đã thấu đến tận trời cao. Xếnh Lầu đã cho con gái xuống trần bầu
bạn và giúp đỡ A Xang có cuộc sống hạnh phúc và giàu có.
Tuy nhiên, để có được vợ đẹp, có nhiều vàng bạc và cuộc sống hạnh
phúc, nhân vật mồ côi cũng phải trải qua bao nhiêu khó khăn, thử thách.
Chàng A Xang trong truyện A Xang phải tự tay mình đánh một thanh kiếm
dài, rũa mài thật sắc, kiếm sáng bóng như gương soi, khi chàng vung kiếm
phạt ngang thì bốn chân con bò đứt phăng, bò ngã lăn ra đám cỏ. A Xang
phải trải qua thử thách khi chiến đấu với hổ ác, chàng đã dùng kiếm thần
chém đứt phăng cổ nó mới đến được với nàng Tồng. Theo lời thần núi, suốt
một năm ròng chàng A Sở trong truyện A Sở phải kiếm đủ da cáo may quần
áo mới đủ điều kiện đi tìm vợ; chàng phải vượt qua các vách đá dựng đứng,
chiến thắng yêu tinh trong cuộc thi múa khèn mới cứu được người vợ yêu quý
của mình.
Đối lập với tuyến nhân vật chính diện bao giờ cũng là tuyến nhân vật
phản diện. Hai tuyến nhân vật này luôn được tác giả dân gian đặt song song
với nhau để làm nổi bật đặc điểm tính cách của các nhân vật. Nếu như nhân
vật chính diện là những người em lương thiện, chăm chỉ, thật thà, nhân hậu,
41
tốt bụng thì nhân vật phản diện thường lười biếng, ích kỉ, tham lam, tàn nhẫn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
độc ác. Đó là những người anh trai, người chị dâu cậy quyền cậy thế để bóc
lột sức lao động của người em út dưới quyền mình. Họ chính là hiện thân của
cái xấu, cái ác. Dù làm ra tất cả của cải trong gia đình nhưng chàng A Xang
trong truyện A Xang chỉ cần một con bò đực và một cuộn lanh để thử kiếm -
vũ khí mà nàng Tồng yêu cầu - nhưng người chị dâu bủn xỉn đã đưa ra nhiều
lí lẽ để từ chối vì chị ta không muốn mất bất cứ một thứ gì. Phải đến khi Rì
Gàng - bạn của A Xang - đưa ra cái lý của người Mông thì người chị dâu mới
chịu bằng lòng. Nhân vật Chua Thênh trong truyện Chua Thênh và A Sở là
hiện thân của sự tham lam. Khi Chua Thênh nghe thiên hạ đồn rằng cuộc sống
của A Sở giờ đây đã “trở thành khá giả… nhà cửa sang trọng, của cải đầy
ắp” hắn ta đã giả vờ hối hận rồi mượn con cáo của em để kiếm tiền. Ngoài sự
tham lam ra, Chua Thênh còn lộ rõ bản tính keo kiệt, tàn nhẫn và độc ác. Hắn
“không cho cáo ăn uống no đủ, khi đi lại buộc dây vào cổ kéo qua suối, qua
đường rậm”. Không được cáo giúp, Chua Thênh đã lấy gậy đánh chết cáo rồi
vứt xác xuống ruộng. Khi không đạt được mục đích của mình thì tội ác của
Chua Thênh càng ngày càng tăng lên. Hắn thực hiện một loạt các hành động
sau đó: vứt cái gáo đầu lâu cáo vào bếp lửa -> bẻ gẫy lược xương đầu cáo vứt
vào bếp lửa.
Kết thúc truyện, bao giờ những nhân vật phản diện - cái xấu, cái ác -
cũng bị trừng trị một cách thỏa đáng. Vì sợ bị trị tội, người chị dâu của A
Xang trong truyện A Xang đã bỏ trốn vào trong rừng sâu, biến thành con
vượn và bị bắn chết. Bọn giặc ở nước láng giềng sang quấy nhiễu cướp đất
cũng bị lưỡi kiếm thần của A Xang và Rì Gàng dẹp yên. Sau bao nhiêu tội ác
đã gây ra, người anh trai của A Sở trong truyện Chua Thênh và A Sở đã “sợ
xanh mắt bỏ chạy về nhà, phát sốt, lên giường nằm rên hừ hừ” và không bao
giờ trở dậy nữa. Con yêu tinh độc ác cuối cùng cũng bị hổ cắn chết. Với
những tình tiết trên, ta thấy truyện Chua Thênh và A Sở đã tuân thủ chặt chẽ
42
mô hình “kết cấu đồng quy”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ngoài mô hình “kết cấu đồng quy”, cũng có nhiều truyện mà cuộc đấu
tranh giữa người em với người anh/chị diễn ra quyết liệt với nhiều tình tiết
hơn, nhiều môtíp hơn. Các tình tiết trong cốt truyện được nhắc đi nhắc lại bao
nhiêu lần tùy thuộc vào số nhân vật anh/chị em trong gia đình. Sự nhắc lại các
tình tiết, môtíp trong truyện thường là người anh/chị lặp lại như lần đầu tiên
nhưng thất bại (thuộc môtíp “Sự bắt chước thất bại”) và với mỗi một sự lặp
lại tác giả dân gian có thể nhắc lại y nguyên hoặc lược bớt/thêm vào một vài
câu chữ, điều đó tạo nên nhịp điệu của truyện kể. Nếu cần thiết tạo ra sự hồi
hộp, tác giả có thể kéo dài câu chuyện bằng các lời kể, sự miêu tả hoặc cũng
có khi lược bớt để nhanh đi đến kết thúc cho câu chuyện. Đó là mô hình kết
cấu trong truyện cổ tích thần kỳ về mảng đề tài người em.
Trong các truyện về đề tài người em, nhân dân ta thường lí tưởng hóa
nhân vật người em: hiền lành, tốt bụng, chăm chỉ và có phần cam chịu. Đối
lập hẳn với người em là người anh/chị tham lam, độc ác và nhiều thủ đoạn.
Người em đã chiến thắng trong cuộc đấu tranh với người anh bằng tài năng và
đức hạnh của mình (đạo đức phù hợp với quan niệm dân gian nên được ủng
hộ). Nó thể hiện lòng khát khao công lý, hạnh phúc cho những con người nhỏ
bé, bất hạnh, tốt bụng vốn chịu nhiều thiệt thòi trong đời sống thực. Nhưng để
thực hiện được ước mơ đẹp đẽ đó, chỉ có thể nhờ sự “ra tay” hỗ trợ của các
yếu tố thần kỳ.
2.1.3. Truyện về người con riêng
Truyện cổ tích thường phản ánh và lý giải những xung đột, mâu thuẫn
trong gia đình. Những mâu thuẫn này mang tính chất riêng tư nhưng lại phổ
biến trong toàn xã hội có giai cấp: xung đột giữa anh em trai, xung đột giữa
chị em gái, xung đột giữa chị em cùng cha khác mẹ, xung đột giữa con ruột và
con nuôi, xung đột giữa dì ghẻ và con chồng. Dù gắn với đề tài gia đình hay
đề tài xã hội, ý nghĩa xã hội của truyện cổ tích cũng rất sâu sắc. Nó phản ánh
43
được những xung đột, mâu thuẫn giữa cái thiện và cái ác, xung đột giữa các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tầng lớp trong một xã hội phân chia giai cấp. Mâu thuẫn giai cấp trong xã hội
phụ quyền thể hiện qua xung đột giữa nhân vật bề trên và bề dưới. Truyện cổ
tích có khuynh hướng ca ngợi, bênh vực nhân vật bề dưới và lên án nhân vật
bề trên (trong thực tế, không phải người con, người em nào cũng tốt, người
mẹ ghẻ, người anh trưởng nào cũng xấu) nghĩa là truyện cổ tích chống lại cái
bất công, vô lý của xã hội phụ quyền nói chung chứ không đi vào từng số
phận riêng lẻ, thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của nhân dân ta.
Những câu chuyện kể về người con riêng thường được tác giả dân gian
xây dựng với nhiều tình tiết khá xúc động. Người con riêng thường chịu nhiều
thiệt thòi. Họ bị thiếu thốn về vật chất và tình cảm. Tiêu biểu cho mảng truyện
về người con riêng là các truyện Nàng Nao và Xênh, Sao Pàng (2/24 truyện,
chiếm 8,33%). Cô bé Nao trong truyện Nàng Nao và Xênh xuất thân trong
“gia đình rất nghèo, đói rách qua năm này đến năm khác”. Ngay từ khi còn
rất nhỏ, Nao đã bị bố mẹ bỏ ở nhà một mình để lên sườn núi đào khoai mang
về ăn. Do một lần đi nương hái rau ăn, mẹ của Nao cởi váy phủ kín lên hòn đá
to bằng con bò mà bà bị biến thành con bò. Nao trở nên mồ côi mẹ từ đó,
nàng chỉ biết khóc gọi mẹ hết cả hơi. Bố Nao đi lính biên ải và lấy thêm người
vợ mới, sinh được thêm người con gái tên là Xênh. Cô gái Sao Pàng trong
truyện Sao Pàng thì bị mồ côi mẹ năm lên 6 tuổi. Sau đó bố cô lấy luôn người
vợ kế, sinh được hai đứa con, một gái và một trai. Cả Nao và Sao Pàng đều là
những cô gái hiền lành, chịu thương chịu khó. Nếu như nàng Nao ngày nào
cũng phải đi chăn bò, xe lanh, dệt vải thì cô gái Sao Pàng cũng “chăm chỉ
công việc nhà, hết lòng chăm sóc các em”.
Nhân vật người con riêng thường hay được đưa vào mối quan hệ dì ghẻ
- con chồng. Dì ghẻ bao giờ cũng tham lam, độc ác, lắm mưu nhiều kế,
thường tìm đủ mọi cách để hãm hại con chồng. Trong khi đó người chồng
thường nể vợ, bạc nhược, bất lực, im lặng, không những không bảo vệ con đẻ
44
của mình mà còn tiếp tay cho cái ác. Vì vậy, nhân vật người con riêng thường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hay phải chịu nhiều nỗi đau khổ, truân chuyên, thậm chí bị đày đọa, bị giết
hại thảm thương. Là một cô gái ngoan ngoãn, xinh đẹp, chăm chỉ công việc
nhà nhưng Sao Pàng trong truyện Sao Pàng luôn bị mụ dì ghẻ căm ghét, ngày
nào mụ cũng thầm nguyền rủa cô gái: “Sao thuồng luồng không đến bắt mày
đi? Bao giờ mày mới khuất mắt tao?”. Mụ còn ép bố của Sao Pàng đẩy cô
xuống vực sâu cho chết. Trong truyện Nàng Nao và Xênh, mụ dì ghẻ còn lấy
cớ cúng ma để giết bò (mẹ của Nao hóa thành). Bất lực trước sự độc ác của
người vợ kế, bố Nao chỉ biết bỏ trốn vào rừng và hóa thành con Sơn dương.
Đến ngày lễ hội Gầu tào, khi hoa đào và hoa Tớ dảy nở đỏ núi đồi, hai mẹ con
Xênh được mặc váy áo mới tinh đi dự hội và bắt Nao phải ở nhà đem bồ thóc
nhặt hết cứt chuột rồi đem xay giã, sàng sảy sạch trấu. Mụ còn hát bài ca mồ
côi để mỉa mai hoàn cảnh của Nao: “Mày mồ côi mẹ/ Mồ côi mồ cút/ Váy áo
rách nát/ Bọ chó trứng rận làm ổ/ Mày mồ côi mẹ/ Mồ côi vào câu ca/ Quần
áo rách tướp/ Bọ chó chấy rận tha…”. Sự độc ác của mẹ con Xênh lên đến
đỉnh điểm khi chúng cướp người yêu của Nao, giết hại Nao để cướp chồng và
con của cô.
Do cần cù, hiền lành và tốt bụng nên người con riêng bao giờ cũng
nhận được sự giúp đỡ của lực lượng thần kỳ và những người xung quanh. Sau
khi bị người cha đẻ nhẫn tâm đẩy xuống vực sâu cho gẫy chân, vỡ đầu, cô gái
Sao Pàng trong truyện Sao Pàng đã được thần núi giúp đỡ, ngày ngày thần
cho chim muông tha hoa quả đến chữa bệnh và nuôi sống cô gái. Rồi một
chàng trai đã ra tay cứu giúp Sao Pàng, đem lòng yêu thương và cùng cô xây
tổ ấm, “họ đẹp đôi đẹp lứa, chịu khó làm ăn và trở nên giàu có nhất vùng”.
Nàng Nao trong câu chuyện Nàng Nao và Xênh cũng may mắn khi có được
tình yêu của chàng Sì Na. Tình yêu thương của chàng trai thể hiện qua các
hành động: gắp thịt nạc từ bát mình sang bát Nao, đưa cô gái bỏ trốn khỏi nhà
mẹ con Xênh. Ngay cả đến lúc chết, Nao vẫn được hưởng niềm hạnh phúc
45
bên cạnh chồng con. Thần trời đã sai các thần tướng xuống trần gian làm phép
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
để Nao được hóa thành cây chàm xanh mướt, Sì Na - chồng nàng - hóa thành
con ong mật và Tấu Cấu - đứa con trai đáng thương của cả hai vợ chồng - hóa
thành con chim liếu điếu: “Ong và chim quấn quýt bên cây chàm. Ong tìm
hoa lấy mật. Chim líu ríu hát ca”.
Nếu như trong phần kết truyện người con riêng luôn giành chiến thắng
và được hưởng hạnh phúc thì ngược lại, những nhân vật phản diện, tiêu biểu
cho cái xấu, cái ác, đại diện cho giai cấp thống trị không bao giờ đạt được
mục đích. Họ luôn bị trừng phạt và gặp kết cục bi thảm. Vì quá độc ác, dì ghẻ
của Sao Pàng đã gián tiếp gây ra cái chết cho hai đứa con của mụ: “Hai đứa
con người dì ghẻ không thấy Sao Pàng về, nó nhớ chị cứ luôn mồm hỏi bố và
khóc lóc. Hai bé kém ăn gầy còm hẳn đi, ốm yếu mắc bệnh rồi chết”. Trước
cái chết của các con, mụ dì ghẻ cũng đã phát điên phát cuồng, khóc lóc thảm
thiết, chửi bới lung tung, còn ông bố độc ác của cô gái mồ côi thì như người
mất trí, hắn đã phải xuống cõi âm ty để chịu tội. Vì quá độc ác, mẹ con nhà
Xênh trong câu chuyện Nàng Nao và Xênh đã bị núi đá sụp lở, vùi lấp, kéo
xuống địa ngục.
Qua truyện cổ tích về đề tài người con riêng ta thấy nhân vật người con
riêng trong truyện cổ tích thần kỳ là hình ảnh của những con người chịu đau khổ
mọi mặt sâu sắc. Họ được tác giả dân gian hư cấu với những phẩm chất đẹp đẽ.
Cơ sở của sự hư cấu dựa vào yếu tố thần kỳ, thể hiện ước mơ mong muốn về
công bằng xã hội và mong ước giành lại hạnh phúc cho người bất hạnh.
2.1.4. Truyện về người mang lốt
Kỳ ảo là một trong những yếu tố quan trọng, được các tác giả truyện
dân gian sử dụng như một phương tiện để chuyển tải thế giới quan, lý giải các
hiện tượng trong đời sống xã hội, cũng như tăng thêm phần hấp dẫn cho câu
chuyện. Yếu tố kỳ ảo xuất hiện nhiều trong truyện về người mang lốt. Kiểu
nhân vật này góp phần làm cho nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện cổ
46
tích đặc sắc hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông ở Yên Bái cũng thường xuất
hiện các nhân vật mang lốt. Trong tổng số 24 truyện cổ tích thần kỳ được
khảo sát, chúng tôi thấy số truyện xuất hiện người mang lốt là 3/24 (chiếm
12,5%). Như vậy, truyện về người mang lốt không phải là dạng truyện phổ
biến nhất của truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái
song nó có thể kết hợp với nhiều kiểu nhân vật khác như nhân vật “người
em”, “người mồ côi” để làm cho câu chuyện li kì, phong phú và hấp dẫn hơn.
Truyện về người mang lốt là kiểu truyện cổ tích quen thuộc (kiểu
truyện về nhân vật xấu xí mà tài ba). Truyện thường kể về nhân vật mang một
vẻ ngoài xấu xí, dị dạng, mang lốt một con vật nhưng lại có một tâm hồn
trong sáng, tốt bụng, đặc biệt là có tài năng khác thường. Tên của nhân vật
cũng thường được dùng để đặt tên truyện. Cốt truyện thường theo một mô
hình thống nhất như sau:
Nhân vật mang lốt mơ ước lấy được cô gái/ chàng trai đẹp;
Bố mẹ cô gái/ chàng trai đưa ra những thử thách;
Nhân vật vượt qua các thử thách một cách tài tình, thần kỳ;
Nhân vật đã trút bỏ lốt xấu xí và lấy cô gái/ chàng trai;
Hai vợ chồng sống hạnh phúc, có khi chàng trai được lên ngôi vua.
Tiêu biểu trong nhóm truyện người mang lốt là các truyện: Hoàng tử
rùa, Cô gái tóc xanh, Kề Tấu.
Hầu hết nhân vật người đội lốt có nguồn gốc xuất thân cao quý. Họ là
các hoàng tử, công chúa hoặc tiên nữ được xuống trần đầu thai vào các gia
đình nông dân tốt bụng nhưng hiếm muộn. Chàng Rùa trong truyện “Hoàng
47
tử rùa” vốn là con trai thứ bảy của vua trời, “thích bơi dưới suối, tập leo núi,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đi săn, đi lấy củi nên người cậu vạm vỡ khỏe mạnh như một lực sĩ. Tính tình
cậu phóng khoáng, yêu cảnh trí thiên nhiên, yêu quý con người”. Vì cảm tấm
lòng tốt của gia đình người nông dân hiếm muộn, chàng đã đồng ý đầu thai
vào nhà họ dưới hình dạng một con rùa có mai bằng đồng. Điều đặc biệt, Rùa
không cần ăn uống gì mà vẫn sống và không hề lớn lên chút nào. Nàng Gầu
Dua trong truyện Cô gái tóc xanh cũng là một tiên nữ. Nàng nhận lời đầu vào
gia đình nhà nghèo, hiếm muộn nhưng tốt bụng. Nét khác biệt giữa Gầu Dua
và mọi người xung quanh là nàng có “mái tóc xanh biếc như mây mùa hạ óng
mượt như tơ”. Nhân vật Kề Tấu trong truyện Kề Tấu xuất thân cũng là người
trời được đầu thai xuống trần gian. Chàng mồ côi cha mẹ từ bé và phải làm
con nuôi cho người cô ruột góa chồng. “Kề Tấu chậm lớn, còi cọc lùn tè.
Mười bẩy, mười tám tuổi mà như đứa bé năm sáu tuổi,… không biết nói”. Như
vậy, cả ba nhân vật trong các truyện trên đều có những nét khác thường. Nếu
như Hoàng tử Rùa xuất hiện dưới lốt một con rùa bé nhỏ, nàng Gầu Dua có mái
tóc xanh biếc thì chàng Kề Tấu có hình dạng nhỏ bé hơn người bình thường.
Các nhân vật đội lốt thường có hình dạng xấu xí, tuy nhiên họ luôn mơ
ước lấy được cô gái/chàng trai đẹp, có xuất thân cao quý. Năm lên mười tám
tuổi, chàng Rùa đòi cưới vợ. Người mà chàng muốn lấy làm vợ là cô con gái
thứ ba của vua 12 nước chư hầu. Cô công chúa “vừa tròn 16 tuổi, có sắc đẹp
đến mức chim đang bay trông thấy nàng thì rơi xuống, cá dưới suối đang bơi
trông thấy nàng thì nổi lên, hổ sói trông thấy nàng thì nhắm mắt lại”. Năm 20
tuổi, Kề Tấu cũng đòi lấy con gái thứ chín của vua. Đó là một nàng công chúa
rất xinh đẹp. Nàng Gầu Dua thì yêu say đắm mỗi chàng Xáy Dùa bởi chàng
có nhiều phẩm chất đáng quý. Đó là một chàng láng giềng mồ côi nhưng
“khôi ngô tuấn tú thông minh hiền lành, chăm chỉ làm ăn. Chàng còn thích
thổi kèn và học vẽ”.
Để lấy được người vợ, người chồng như ý muốn, nhân vật mang lốt
48
thường phải trải qua các khó khăn thử thách của gia đình bên kia. Đến đây, ta
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thấy có môtíp “nhân vật thử thách”. Đây là một môtíp khá phổ biến trong các
truyện cổ tích. Thông qua các thử thách, nhân vật sẽ bộc lộ được hết tài trí
cũng như lòng dũng cảm, can đảm của mình. Để cưới được con gái thứ ba của
nhà vua, chàng Rùa trong truyện Hoàng tử Rùa đã phải trải qua bốn thử
thách của nhà vua: phát ba quả đồi ở Chổn Tìu, đi đốt nương, gieo thật đều ba
thúng hạt kê lên đồi vừa đốt và thu lại hết kê vừa gieo, không thiếu một hạt.
Chàng Kề Tấu trong truyện Kề Tấu cũng phải thực hiện lời thách đấu của nhà
vua: thi đấu chó, đấu lợn, nếu thắng mới được mang lễ vật đến rước dâu.
Tuy nhiên, nhân vật đội lốt luôn vượt qua thử thách của đối phương
một cách tài tình, thần kì. Một phần do họ luôn nỗ lực phấn đấu để cố gắng
vượt qua các thử thách mà đối phương đưa ra, mặt khác họ luôn nhận được sự
giúp đỡ của các lực lượng siêu nhiên từ bên ngoài. Chàng Rùa trong truyện
Hoàng tử Rùa đã nhận được sự giúp đỡ của thần gió, ba thần mặt trời và
hàng vạn loài chim. Lần thứ nhất, thần gió đã dùng sức mạnh của mình xoáy
vào ba khu rừng ở Chổn Tìu làm cho tất cả các cây cối ở đó đổ nát hết. Khu
rừng sạch hơn cả người đi phát. Lần thứ hai, ba thần mặt trời đã chiếu vào
khu rừng vừa phát, làm cho khu rừng bốc cháy dữ dội. Lần thứ ba, thần gió lại
giúp chàng Rùa rải đều ba thúng hạt kê lên đồi. Lần thứ tư, hàng vạn loài
chim đã đến giúp chàng nhặt sạch kê, không thiếu một hạt. Chàng Kề Tấu
trong truyện Kề Tấu cũng dễ dàng vượt qua các thử thách của nhà vua. Lần
thứ nhất, con chó còi cọc của Kề Tấu đã cắn gẫy cả bốn chân con chó xồm to
lớn của nhà vua. Lần thứ hai, quả bí đao của chàng đã biến thành con lợn to
hơn lợn của nhà vua, nó to đến nỗi “không vào lọt cái cửa chuồng trâu”. Lần
thứ ba, những chiếc lá dong mà chàng cho người trải kín đường từ nhà trai
đến nhà gái đã biến thành thảm bạc, ngoài ra còn có thêm bảy hũ vàng chín
hũ bạc. Vì chàng Xáy Dùa nghèo quá, không có gì để dạm hỏi, cưới xin nên
nàng Gầu Dua trong truyện Cô gái tóc xanh đã được Tiên ông giúp của cải
49
không thiếu thứ gì, nàng đã giao cho Xáy Dùa vàng bạc để lo liệu dạm hỏi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cưới xin. Như vậy, trong cả ba truyện về người đội lốt ta thấy lực lượng thần
kỳ đóng một vai trò vô cùng quan trọng, giúp cho các nhân vật chính vượt qua
được những khó khăn thử thách mà đối phương đặt ra để đạt được ước mơ
của mình.
Sau khi vượt qua các trở ngại, các nhân vật đội lốt được kết hôn với cô
gái/chàng trai mà họ mơ ước. Đến lúc ấy họ mới trút bỏ lốt xấu xí đi và trở lại
hình dáng xinh đẹp như thuở ban đầu. Khi đi chơi ở chợ, chàng Rùa trong
truyện Hoàng tử Rùa đã hóa thành “một chàng trai hiên ngang, tuấn tú, vầng
trán rộng, đôi mắt vừa thông minh, nhanh nhẹn, vừa dịu dàng, nhân hậu.
Chàng mặc bộ quần áo bằng gấm đen có viền chung quanh bằng lụa đỏ, làm
nổi bật nước da mịn màng nhưng có phần sương gió. Cưỡi trên lưng con
ngựa có màu mận chín, trông chàng như một kỵ sỹ anh hùng, oai phong lẫm
liệt… Tiếng chàng như tiếng nhạc ngọt ngào như mật ong” làm cho cả ba
nàng công chúa đều mê mẩn tâm thần. Đêm tân hôn, chàng đã trút mai rùa,
hiện nguyên hình và kể cho vợ nghe những bí mật của cuộc đời. Chàng Kề
Tấu trong truyện Kề Tấu cũng được thần trời cho cái lược đồi mồi, ước gì
được nấy. Nhờ có lược thần, trong lễ hội Gầu tào Kề Tấu đã trở thành một
chàng trai khôi ngô tuấn tú, làm hài lòng vợ còn mọi người xung quanh thì
ngạc nhiên, trầm trồ bàn tán.
Sau khi kết hôn, được trở lại với hình dáng ban đầu, nhân vật đội lốt
đôi khi vẫn phải trải qua thử thách. Tên quan trong truyện Cô gái tóc xanh vì
thấy nàng Gầu Dua “rất xinh đẹp, mặt tròn như mặt trăng, mắt sáng, mũi
thẳng, má hồng như quả đào chín, môi đỏ như cánh hoa đào” nên đã mê tít
mắt. Hắn muốn cướp nàng về làm vợ. Trong những lần chồng thi giải câu đố
và thi múa với tên quan, Gầu Dua đã giúp kế làm cho hắn phải cứng lưỡi, thổi
khèn không ra tiếng, nhảy múa ngã xiêu vẹo, xấu hổ và hóa thành con gấu
chạy trốn vào rừng. Chàng Kề Tấu trong truyện Kề Tấu đã phải ra chiến trận
50
để dẹp yên bọn giặc biên giới. Chàng đã bí mật dùng lược thần làm vũ khí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khiến cho quân giặc chết hết. Ẩn bên trong sự cứng cỏi của Kề Tấu là lòng
nhân đạo sâu sắc. Chàng đã dùng lược thần ước cho quân giặc sống lại và tha
chết cho chúng.
Kết thúc truyện bao giờ các nhân vật đội lốt cũng được hưởng hạnh
phúc. Vợ chồng nàng Gầu Dua được sống yên ổn, hạnh phúc, được mọi người
mến phục. Ngoài việc được hưởng cuộc sống hạnh phúc bên người thân yêu,
cả chàng Rùa và Kề Tấu đều được lên làm vua, trị vì thiên hạ.
Vậy vì sao lại xuất hiện kiểu nhân vật người mang lốt? Khi nghiên cứu
về mối quan hệ giữa truyện cổ tích, nhiều tác giả như Mêlêtinxki, Propp, Lốt-
man…. đã lí giải nguồn gốc của các truyện kể từ những nghi lễ dân gian, thấy
được sự chuyển hóa của cấu trúc nghi lễ thành những tín hiệu ngôn ngữ
truyện kể. Theo đó, một trong những nguồn gốc phổ biến của truyện kể bắt
nguồn từ nghi lễ trưởng thành của con người với các biểu hiện của sự hành
xác: con người bị đun, nấu, băm, chặt, mang các hình thức hóa trang thể hiện
tín ngưỡng vật tổ… Quan niệm chung về nghi lễ trưởng thành là mốc chuyển
giao của con người từ thế giới tuổi thơ, non nớt, bẩn thỉu sang giai đoạn
trưởng thành (đẹp đẽ, khỏe mạnh, đích thực là thành viên của cộng đồng và
được quyền kết hôn). Cho nên những thử thách về mặt thể xác trong khi hành
lễ mang tính chất bắt buộc để sau đó mỗi con người trở thành một thành viên
đích thực của cộng đồng.
Trong hai truyện “Hoàng tử rùa” và “Kề Tấu” ta thấy cả hai nhân vật
chính đều mang lốt xấu xí, vượt qua nhiều thử thách cuối cùng họ đã có hình
dáng đẹp đẽ. Sự hoàn thiện cái đẹp cũng đồng nghĩa với việc tiêu diệt cái xấu,
cái ác khỏi thế gian, đem lại hạnh phúc cho cá nhân họ và toàn thể cộng đồng
dân cư nơi họ đang sinh sống. Truyện Hoàng tử Rùa còn giải thích cho ta
biết thêm một chi tiết nữa, đó là vì sao người Mông không ăn thịt rùa.
Đặc biệt, trong kiểu truyện người đội lốt, phần thưởng cho mỗi nhân
vật chính bao giờ cũng là sự kết hôn mà không phải là những phần thưởng về
51
vật chất. Điều đó chứng tỏ mối liên hệ của mỗi câu chuyện cổ tích với cấu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trúc chức năng của nghi lễ trưởng thành. Mặc dù nghi lễ và mỗi câu chuyện
cổ tích có thể không trùng khít với nhau, truyện kể có thể kéo dài về phía
trước hay phía sau trong khi nghi lễ đã chấm dứt trong một khuôn khổ của nó,
nhưng có thể thấy chức năng cơ bản của nghi lễ trưởng thành để con người
sang một ngôi khác, có quyền được kết hôn và chung sống hạnh phúc như
mỗi câu chuyện cổ tích đã kể.
Có thể thấy ước mơ công lý, dân chủ của người Mông được thể hiện và
thực hiện hoàn tất trong mảng truyện về người đội lốt. Và các mâu thuẫn,
xung đột ở các truyện này dường như cũng được mở rộng hơn, đẩy cao hơn.
Đó không phải là mâu thuẫn trong gia đình mà là xung đột xã hội (vua, quan
ác – người có tài, người đội lốt).
Qua truyện cổ tích người đội lốt, theo chúng tôi người Mông ở Yên Bái
muốn thể hiện quan niệm về mối quan hệ giữa hình dáng bên ngoài và phẩm
chất bên trong của người dân lao động: Trong thực tế, có sự đối lập giữa hình
dáng bên ngoài (xấu xí, dị dạng) với phẩm chất bên trong của nhân vật (tốt
đẹp, tài năng). Điều quan trọng là người dân luôn coi trọng phẩm chất bên
trong của mỗi nhân vật, khẳng định giá trị của con người nằm ở đạo đức, tài
năng chứ không phải hình dáng bên ngoài. Nếu phải lựa chọn thì nhân dân hết
sức đề cao phẩm chất, tư cách của con người. Đó cũng là quan niệm về vẻ đẹp
hoàn thiện của con người: là sự kết hợp giữa vẻ đẹp tâm hồn, tính cách, tài
năng và vẻ đẹp của hình thức. Vẻ đẹp tỏa sáng từ trí tuệ, tâm hồn cùng với hình
thức đẹp đẽ luôn là chuẩn mực, là khát vọng của nhân dân lao động. Khi con
người biết cố gắng phấn đấu để vượt qua các thử thách sẽ có được điều đó.
2.1.5. Truyện về người dũng sĩ
Có thể nói truyện về người dũng sĩ (hay truyện về các chàng trai khỏe)
là một đóng góp độc đáo của kho tàng truyện cổ tích các dân tộc anh em. Kiểu
truyện này thường xây dựng những nhóm nhân vật anh hùng, dũng cảm, có tài
năng đặc biệt. Họ có thề là anh em ruột, anh em kết nghĩa, bạn bè thân thiết
52
hay cha con.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trong 24 truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên
Bái, chúng tôi thấy có 4/24 truyện kể về người dũng sĩ (chiếm 16,67%). Đó
là các truyện: Chín người con trai, Chuyện năm cha con, Củ và Kỷ, Sự
tích đuôi gấu.
Về hoàn cảnh xuất thân của các nhân vật, ở mỗi truyện nhân vật người
dũng sĩ lại có hoàn cảnh xuất thân khác nhau. Vì bà mẹ già hiếm hoi ăn một
lúc cả chín múi cam chín đỏ do ông tiên trên núi ban tặng nên chín anh em trai
trong truyện Chín người con trai đã ra đời cùng một lúc. Chính vì thế nên họ
có gương mặt giống nhau như đúc. Củ và Kỷ trong truyện Củ và Kỷ lại xuất
trong một gia đình nghèo. Ngay từ nhỏ hai anh em đã bị mồ côi cha, còn
người mẹ của họ thì cũng bị yêu tinh bắt mất. Chính vì thế, hai anh em đã
phải đi ở cho người bác ruột, làm nương rẫy để sinh sống. Năm cha con trong
truyện Chuyện năm cha con lại được giới thiệu là người của “một bộ tộc ở
cạnh một khu rừng. Giữa rừng có một cái hồ rất rộng, quanh năm nước chảy
xanh biếc”. Lao Tráng trong truyện Sự tích đuôi gấu thì có nhà ở ngoài bản.
Chàng có sở thích “ban đêm lần vào bản ăn trộm ngựa của dân, dắt được
ngựa là phi nước đại, bay như thần gió”.
Tuy các nhân vật dũng sĩ có hoàn cảnh xuất thân không giống nhau
nhưng họ có những điểm chung. Nhìn chung, nhân vật người dũng sĩ thường
là hình ảnh về những con người thông minh, nhanh trí, có sức khỏe và nghị
lực phi thường, họ không ngại gian khó, luôn đoàn kết một lòng quyết tâm
diệt trừ cái xấu, cái ác, giành lại hạnh phúc cho cá nhân và cộng đồng. Trong
truyện Chín người con trai, nhân vật nào cũng khỏe mạnh, mưu trí và đặc
biệt hơn là mỗi chàng trai lại có một cái tài riêng. Nếu chỉ bằng tài năng của
một người thì sẽ không sao thắng được thử thách của tên vua lắm mưu nhiều
kế. Chín anh em đã đoàn kết bên nhau, mỗi người đảm nhiệm một việc mà
thắng được mưu gian của nhà vua: Phi Thếnh hóa phép chuyển được những
53
ngôi nhà lớn lên núi cao theo ý nhà vua chỉ trong vòng một đêm; Tăng Tơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hứng một loạt đạn do quân lính của nhà vua bắn vào đầu mà không sao cả;
Phì Nhênh để mặc cho lính chất củi quanh chàng cao như núi và châm lửa
đốt, chàng vẫn bình thản như không; Lao Vừ bị đun trong vạc lớn suốt một
ngày, vạc cháy đỏ lừ, dây cháy ra tro mà chàng chẳng hề sao cả; Xảo Dề bị
dìm xuống suối sâu ba ngày đêm, dây trói mủn ra như mùn đất, còn chàng da
dẻ vẫn hồng hào, miệng đang ngậm một con cá, mỗi tay còn xách một con cá
lên theo. Lao Dề, Sang Chu, Chua Khơ thì đến giúp Xảo Dề băm ba con cá bỏ
đầy chín chảo gang kếch xù; Tủa Chù xách búa chẻ chân mình làm củi, nấu
chín các chảo cá dâng lên nhà vua. Ở Chuyện năm cha con, tác giả dân gian
Mông còn giúp ta thấy rõ: để đánh thắng được bẩy con rồng vàng ở dưới hồ
hằng ngày vẫn bắt dân bản và người con cả là Lao Pếnh ăn thịt thì từng người
dù có khỏe mạnh tài giỏi đến đâu cũng khó lòng thực hiện được. Người cha
rồi đến người con thứ hai là Xảo Chơ nhảy xuống hồ đánh nhau với bọn rồng
đều bị chúng ăn thịt. Người con thứ ba là Tằng Xử cũng bị thua, phải nhảy lên
bờ bàn với em đi luyện tập cung kiếm để giết rồng. Bên cạnh đó, nhân vật
dũng sĩ cũng có thể là người dân thường. Chàng Lao Tráng trong truyện Sự
tích đuôi gấu tuy “tính tình tinh nghịch, rong chơi suốt ngày, suốt tháng”
nhưng khi đã trót nhảy lên lưng hổ chàng lại rất thông minh nhanh trí khi
tương kế, tựu kế lừa được hổ và cả con gấu to khỏe.
Để thể hiện được hết tài năng của mình, người dũng sĩ cũng phải trải
qua rất nhiều những khó khăn thử thách. Họ phải thực hiện một nhiệm vụ nào
đó như: diệt yêu quái, diệt thú dữ hay hoàn thành một nhiệm vụ nào đó mà
nhân vật địch thủ giao cho. Địch thủ của những người dũng sĩ bao giờ cũng là
hiện thân của cái xấu, cái ác. Đó là yêu tinh, hổ dữ, rồng ác, hay tên vua có
nhiều gian kế. Hai anh em Củ và Kỷ trong truyện Củ và Kỷ phải bốn lần vượt
qua các thử thách của con yêu tinh: Lần thứ nhất, yêu tinh hóa thành con ngựa
trắng, Kỷ đã nhảy lên lưng ngựa quất cho nó bảy roi khiến yêu tinh phải rú
54
lên và hiện nguyên hình. Lần thứ hai, yêu tinh mang một gùi hạt vừng quải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khắp nương, hai anh em Củ và Kỷ đã nhặt được hết sạch toàn bộ số hạt vừng.
Lần thứ ba, Củ biến thành cái ghế, Kỷ biến thành cái điếu làm yêu tinh không
phát hiện ra. Lần thứ tư, yêu tinh xếp củi khô xung quanh hai anh em để đốt
nhưng Củ và Kỷ không chết. Chỉ đến yêu tinh hóa thành cây gỗ trôi trên suối,
Củ lấy búa chặt đứt nó mới“hiện nguyên hình, nằm chết”. Chàng Lao Tráng
trong truyện Sự tích đuôi gấu cưỡi lên lưng hổ mà lầm tưởng là con ngựa bất
kham lông mượt, chân to mình dài, béo khỏe. Cả một đêm Lao Tráng đã dùng
sức lực quần cho con hổ cả đêm mệt lử, đau hết cả mồm và răng. Chàng còn
dùng sức mạnh của hai cánh tay giật đứt đuôi con gấu to khỏe khiến cho cả hổ
và gấu sợ xanh mặt, chạy thẳng vào rừng mà không bao giờ dám quay trở lại.
Chín anh em trai trong truyện Chín người con trai cũng phải trải qua rất
nhiều các thử thách mà tên vua độc ác đưa ra. Cùng một lúc, không được tháo
dỡ, họ phải chuyển toàn bộ những ngôi nhà lên núi cao mà không làm cho
ngôi nhà suy xuyển. Tiếp đó, từng nhân vật phải trải qua các thử thách: đứng
yên để cho bọn lính của nhà vua bắn một loạt đạn vào đầu, bị đốt, bị luộc, bị
dìm xuống suối sâu; … Năm cha con trong Chuyện năm cha con thì phải
chiến đấu với bẩy con rồng vàng độc ác, hay bắt người để ăn thịt.
Nhân vật dũng sĩ đôi khi còn là người có tài năng kì lạ hoặc được trợ
giúp bởi một lực lượng siêu nhiên nào đó. Khá nhiều câu chuyện cổ tích thần
kỳ khác của người Mông nói về tình cảm gia đình, bạn bè hợp sức chung lòng
cùng với sự giúp đỡ của thần tiên đã làm cho nhân vật chính chiến thắng được
các thế lực thiên nhiên và các thế lực thống trị tàn ác trong xã hội. Điều đó
chứng tỏ rằng từ lâu đời người Mông ở Yên Bái đã có ý thức đoàn kết anh
em, gia đình, dòng họ, hàng xóm láng giềng và đoàn kết cộng đồng dân tộc.
Đó cũng là cơ sở thuận lợi cho việc tiếp thu, kế thừa và phát huy truyền thống
tốt đẹp về sau này. Chín anh em trong truyện Chín người con trai ngoài sức
khỏe, sự thông minh ra họ đều có phép lạ nên có thể “hóa phép cho các tòa
55
nhà bay đến sườn núi theo ý định”. Trên đường đi diệt trừ yêu tinh để cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mẹ, hai nhân vật chính trong truyện Củ và Kỷ thường xuyên được các lực
lượng siêu nhiên giúp đỡ: “giữa đường họ gặp con diều hâu chỉ lối, đến ngã
ba đường họ gặp con quạ chỉ đường đi tiếp… Mặt trời đã xuống núi, mây kéo
đến, Củ và Kỷ gặp con cú chỉ đường lên hang yêu tinh”. Trong bốn lần thách
đấu với yêu tinh, Củ và Kỷ cũng thường xuyên “được mẹ giúp phép” biến
thành các đồ vật và giành chiến thắng. Mẹ của Củ và Kỷ còn đưa cho hai anh
em những vũ khí như: một cái búa, một cái cung, hai cái tên thần để chặt phá
chuồng hổ, giết hổ để cứu hai cô gái Mông xinh đẹp. Chàng Phi Khơ trong
Chuyện năm cha con cũng được “ông cụ già đầu tóc bạc phơ, da dẻ hồng hào”
bày cho cách luyện một thanh bảo kiếm cùng chiếc nỏ thần để giết rồng vàng.
Trải qua bao khó khăn thử thách, các nhân vật dũng sĩ trong các truyện
cổ tích thần kỳ cuối cùng cũng giành được chiến thắng. Nhưng hầu hết họ
không nhận công danh về mình mà trở về nhà làm nhiệm vụ bình thường.
Chàng Lao Tráng trong truyện Sự tích đuôi gấu đã làm cho cả hổ và gấu sợ
xanh mặt, chạy thẳng vào rừng và làm cho gấu bị mất đuôi từ đấy. Củ và Kỷ
trong câu chuyện cùng tên đã giết được yêu tinh và hổ, tìm lại được mẹ. Hơn
thế nữa, họ đã tìm được hạnh phúc đến trọn đời cho riêng mình khi cưới được
hai cô gái Mông xinh đẹp. Chàng Phi Khơ trong Chuyện năm cha con sau
khi thu phục được bảy con rồng vàng đã cưỡi rồng bay lên trời gặp Xếnh Lầu
để lấy giống thóc, ngô về vãi khắp đồi nương, bãi bồi, đồng ruộng, giúp loài
người có thóc, ngô ăn hằng ngày. Có thể nói đây là một hành động cao cả,
một cái kết thúc đẹp. Trước tài phép của chín anh em trong truyện Chín
người con trai, tên vua xảo trá và gian ác đã khiếp sợ, hổ thẹn bỏ dinh cơ trốn
vào rừng sâu rồi bị rắn thần cắn chết. Mọi người đã suy tôn chín chàng trai lên
làm vua, làm quan để trị vì thiên hạ.
Nhìn chung, các truyện dũng sĩ thường đề cao những người lao động tài
giỏi, anh hùng, thể hiện trí tưởng tượng táo bạo của nhân dân, sự phát triển
56
của tư duy và nhận thức cuộc sống của con người. Môtíp truyện người dũng sĩ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái tương đối
giống với môtíp về truyện người dũng sĩ của các dân tộc anh em khác trong
cộng đồng người Việt. Điều đó thể hiện quá trình giao lưu văn hóa cũng như
sự tương đồng về tâm lí xã hội, cảm xúc của con người. Những người dũng sĩ
trong truyện cổ tích mang bóng dáng của cộng đồng anh hùng trong thần thoại
và sử thi. Đây cũng là nét tiêu biểu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của
nhóm truyện này, thể hiện tư duy nghệ thuật cao, sự chặt chẽ về cốt truyện.
2.2. Những điểm tương đồng và khác biệt về nội dung phản ánh
giữa truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái với
truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Kinh
Qua việc khảo sát những phương diện nội dung cơ bản trong truyện cổ
tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi nhận thấy giữa
các truyện cổ tích có cả những điểm tương đồng và khác biệt. Dù ở mảng đề
tài người mồ côi, người con riêng, người em út hay đề tài về người đội lốt,
người dũng sĩ thì bao giờ truyện cũng có kết thúc tốt đẹp. Từ những đặc điểm
tương đồng và khác biệt ấy chúng ta thấy những vấn đề chung và riêng mà
người Mông ở Yên Bái muốn thể hiện.
2.2.1. Những điểm tương đồng
Hầu hết các câu chuyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở
Yên Bái đều bắt nguồn từ tín ngưỡng dân gian. Họ cho rằng sống thiện chết
sẽ gặp lành, được thay đổi kiếp, được đầu thai vào nhà khác để tiếp tục làm
người. Khi sống, con người làm nhiều điều ác thì lúc chết sẽ gặp điều dữ.
Những vướng mắc lớn trong quan hệ nợ máu, sự lường gạt, phản bội, oan
hồn… sẽ đầu thai vào nhà ấy để đòi nợ và báo thù. Người sống thiện khi chết
hồn sẽ được lên với trời, với tổ tiên. Còn kẻ sống ác khi chết thường bị đẩy
xuống âm phủ, nơi tối tăm có rắn rết và ma quỷ hành tội. Đối với người Mông
thì con quạ bao giờ cũng đen, giai cấp thống trị là bọn vua quan, bọn nhà giàu
57
hà hiếp bóc lột nhân dân bao giờ cũng ác, chúng đều bị trừng trị thích đáng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Người mồ côi chăm làm, hiền lành bị bóc lột, bị cướp vợ bao giờ cũng thắng
bọn vua quan thống trị. Người anh tham lam, người vợ kế độc ác… đều bị trị
tội. Người anh hùng vì dân vì nước sau này sẽ được suy tôn.
2.2.2. Những điểm khác biệt
Nếu như truyện cổ tích của dân tộc Kinh tập trung vào ba tiểu loại là:
cổ tích loài vật, cổ tích thần kỳ và cổ tích sinh hoạt thì truyện cổ tích của dân
tộc Mông lưu hành ở Yên Bái chủ yếu là tiểu loại cổ tích thần kỳ. Truyện cổ
tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái tập trung vào 5 mảng đề
tài chính: người mồ côi, người em, người con riêng, người mang lốt và người
dũng sĩ. Ở mỗi mảng đề tài cách xây dựng nhân vật và các tình tiết lại có sự
khác nhau. Các truyện cổ tích tuy phong phú về nội dung phản ánh xã hội
nhưng chủ yếu tập trung vào việc giải quyết mối quan hệ giữa người với
người. Loại nhân vật phổ biến trong truyện là người mồ côi (17/24 truyện =
70,83%). Nhân vật mồ côi là hình ảnh của những con người chịu đau khổ mọi
mặt sâu sắc, họ phản ứng mạnh mẽ và được tác giả dân gian hư cấu đẹp đẽ.
Cơ sở của sự hư cấu dựa vào yếu tố thần kỳ, thể hiện ước mơ mong muốn về
sự công bằng xã hội và mong ước giành lại được hạnh phúc cho người nghèo.
Trong xã hội, người mồ côi có số phận hẩm hiu. Trong gia đình, khi bố mẹ
qua đời, nếu còn lại mấy người thì sự bất hạnh giành cho người con út. Người
anh cả trong nhà chiếm hết quyền thừa kế di sản, biểu hiện lòng tham lam và
hiểm độc đối với người em út. Tuy nhiên cái tốt đẹp bao giờ cũng thuộc về
người em út mồ côi.
* Tiểu kết chương 2:
Tóm lại, nội dung truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở
Yên Bái có những đặc trưng cơ bản sau:
Truyện cổ tích tập trung vào năm mảng đề tài sau: người mồ côi, người
em, người con riêng, người mang lốt và người dũng sĩ. Trong đó truyện mảng
58
truyện về người mồ côi là nhiều nhất. Những phương diện nội dung này đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tạo nên nét đặc trưng nổi bật trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông
lưu hành ở Yên Bái.
Truyện cổ tích thần kỳ nổi lên hai loại xung đột: xung đột xã hội và
xung đột giữa con người với những trở lực của thiên nhiên. Trong đó, xung
đột xã hội là nội dung chủ yếu. Đề tài về sự xung đột của con người với
những trở lực của thiên nhiên trong truyện cổ tích thần kỳ có thể coi là sự tiếp
nối hợp quy luật đề tài về cuộc đấu tranh của con người nhằm tìm hiểu và chế
ngự những sức mạnh trong tự nhiên. Từ đó làm nảy sinh một số truyện kết
hợp cả hai đề tài ấy (Nàng Nu, Nhà Tếnh, Rì Tủa, Củ và Kỷ).
Xung đột trong truyện cổ tích thần kỳ luôn luôn được giải quyết nhờ
sự can thiệp của các lực lượng thần kỳ. Nhân vật chính trong các truyện ít
59
nhiều có tính chất thụ động.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ
CỦA DÂN TỘC MÔNG LƯU HÀNH Ở YÊN BÁI
3.1. Kết cấu truyện
Xét trong kho tàng văn học dân gian, ở thể loại tự sự, mỗi loại có một
mô hình kết cấu riêng. Mô hình đó được coi như bộ khung chung cho tất cả
những tác phẩm. Từ bộ khung chung ấy, tác giả dân gian đã tạo nên những tác
phẩm mang nội dung phong phú. Bởi vậy cũng giống như truyện cổ tích của
các dân tộc khác, truyện cổ tích thần kỳ của người Mông lưu hành ở Yên Bái
cũng có mô hình khái quát chung đặc trưng của của tiểu loại này.
Truyện cổ tích thần kỳ bao giờ cũng tập trung vào giải quyết mối quan
hệ chủ yếu giữa người với người. Dù truyện kể về người mồ côi, người em,
người con riêng, hay người mang lốt, người dũng sĩ cũng đều phải tuân theo
một môtíp cốt truyện truyền thống gồm ba phần:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung
- Phần kết thúc
Tuy nhiên dấu hiệu chia tách ba phần trong kết cấu nội dung của mỗi
truyện cổ tích khác nhau: có truyện cổ tích mỗi phần nội dung có sự chia tách
cụ thể, tách biệt nhưng cũng có những truyện cổ tích thì sự chia tách ấy có
phần mờ nhạt hơn. Nhưng dù dài hay ngắn, vắn tắt hay tỉ mỉ thì truyện cổ tích
thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái bao giờ cũng có một mô hình
kết cấu chung như trên.
3.1.1. Phần mở đầu
Phần nội dung này nằm ở phần đầu tiên của mỗi truyện cổ tích. Nó chỉ
chiếm một phần nhỏ nội dung. Nhiệm vụ của phần mở đầu là giới thiệu câu
chuyện. Qua đó, chúng ta sẽ xác định được nhân vật chính của câu chuyện,
60
các sự kiện liên quan đến đời sống của nhân vật. Tuy không phải là phần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chính yếu của một truyện cổ tích nhưng phần mở đầu đóng vai trò rất quan
trọng. Bởi nhờ có phần này mà chúng ta định hình để tiếp nhận nội dung ở phần
tiếp theo. Ở một số truyện cổ tích thần kỳ, chính nhờ nội dung này mà người đọc
hiểu được sâu hơn, yêu mến và khâm phục hơn nhân vật trong tác phẩm.
Mô hình thế giới được cấu tạo từ ba thành tố cơ bản là: thời gian -
không gian - vạn vật. Ta có thể thấy đầy đủ ba thành tố này trong phần mở
đầu của truyện cổ tích. Đại đa số các truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông
lưu hành ở Yên Bái đều mở đầu bằng một môtíp quen thuộc: “Ngày xửa ngày
xưa, ở một làng kia, có một chàng trai/ cô gái…”. Công thức mở đầu như vậy
không chỉ cho thấy thế giới quan, nhân sinh quan của người xưa mà còn cho
thấy nghệ thuật dẫn truyện đặc sắc của tác giả dân gian.
Khi đọc truyện Chín người con trai, ta thấy tác giả dân gian đã giới
thiệu một cách khái quát về các nhân vật: ai cũng khỏe mạnh, mưu trí, mỗi
người có một cái tài riêng. Song nếu chỉ bằng tài năng của một người thì sẽ
không sao thắng được thử thách của nhà vua. Họ đã đoàn kết bên nhau, mỗi
người một công việc mà thắng được mưu gian của nhà vua. Hay trong truyện
Chuyện Xí Xang, qua phần mở đầu, ta không chỉ biết nhân vật chính tên là Xí
Xang, xuất thân là một chàng trai mồ côi mồ cút, thiệt thòi, không biết đến người
sinh ra mình là ai mà qua đây chúng ta còn thấy những đặc điểm tính cách của
Xí Xang - một cậu bé chăm chỉ, hiền lành, tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người.
Như vậy, nội dung cơ bản của phần mở đầu nhằm mục đích giới thiệu
nhân vật. Nhân vật thường được giới thiệu qua các thông tin: tên tuổi, nguồn
gốc xuất thân, hoàn cảnh gia đình, thời gian và không gian sống. Những thông
tin này xuất hiện ở mỗi truyện cổ tích là khác nhau. Có truyện giới thiệu được
đầy đủ các chi tiết, thông tin trên nhưng cũng có trường hợp thông tin về các
nhân vật bị lược bớt. Điều này chúng tôi có thể lý giải như sau: Mỗi tác giả
dân gian là một cá thể riêng biệt, họ có không gian sống, tính cách, vốn ngôn
61
từ và cách kể chuyện riêng nên có tác giả đã coi việc giới thiệu nhân vật dài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dòng là không cần thiết. Đôi khi xuất phát từ chính tình cảm đối với nhân vật
mà tác giả dân gian đã giới thiệu một cách khá kĩ lưỡng về nhân vật chính.
Sau phần giới thiệu khái quát là phần nhận xét đánh giá của người dẫn truyện
về phẩm chất và đạo đức của nhân vật chính. Lời dẫn dắt, mào đầu này có tác
dụng tăng tính biểu cảm, lôi cuốn sự tò mò, thu hút sự chú ý của người đọc
đối với nội dung câu chuyện. Qua lời dẫn dắt, giới thiệu của người dẫn truyện
thì ấn tượng ban đầu của người đọc về nhân vật dần được hình thành. Đây là
tiền đề quan trọng cho sự tiếp nhận nội dung.
3.1.2. Phần nội dung
Đây là phần kế tiếp phần mở đầu. Phần này chiếm dung lượng nội dung
khá dài và có nhiệm vụ phát triển câu chuyện. Nội dung chính yếu của truyện
cổ tích thần kỳ nằm ở đây. Nhân vật chính được giới thiệu ở phần đầu câu
chuyện sẽ được triển khai tiếp ở phần này bằng cách đưa ra các sự việc. Hầu
hết các sự việc ấy được sắp xếp theo trình tự thời gian gắn liền với cuộc đời
của nhân vật chính. Sự việc nào xảy ra trước được thông tin trước, sự việc nào
xảy ra sau được thông tin sau. Tác giả sẽ lựa chọn các sự việc, chi tiết tiêu
biểu để triển khai cốt truyện - thường là một chuỗi các sự việc, chi tiết nối tiếp
nhau. Chính vì thế, cuộc đời của mỗi nhân vật trong truyện cổ tích thần kỳ sẽ
được người đọc nhớ tới qua chính những sự việc điển hình và chi tiết đặc sắc
đó. Cuộc đời và hành trình của nhân vật được tác giả dân gian trần thuật lại
một cách trọn vẹn với lối kể cô đúc ở phần này. Do các sự việc và chi tiết
được đặt kế tiếp nhau theo trình tự thời gian nên toàn bộ phần này của truyện
cổ tích thần kỳ chúng ta có thể mô hình hóa bằng các lược đồ. Qua các lược
đồ, chúng ta sẽ thấy cuộc đời của nhân vật chính được thể hiện qua các sự
việc. Đó chính là những chặng đường đời thể hiện sự trưởng thành của nhân
vật hay những mốc quan trọng đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời của họ.
Trong mỗi sự việc, tác giả dân gian lại xây dựng nên một chuỗi các chi tiết
62
nhằm minh họa, làm rõ các sự việc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bảng 2: Lược đồ cách tổ chức sắp xếp các sự việc trong truyện cổ tích
thần kỳ “Chua Thênh và A Sở”:
- Hai anh em mồ côi cha mẹ từ sớm. Phần
- Chua Thênh chiếm hết gia tài. mở
- A Sở bị đối xử như người đi ở. đầu
- A Sở bắt được cáo và tha chết cho cáo.
- Cáo hát và múa khèn nuôi A Sở -> chàng trở nên giàu có.
- Chua Thênh mượn cáo -> cáo không giúp -> hắn giết cáo và
quăng xác xuống ruộng.
- A Sở nhặt xương đầu cáo làm gáo múc cám -> lợn lớn nhanh.
- Chua Thênh mượn gáo múc cám lợn -> cả đàn lợn chết dần -
> hắn vứt gáo vào bếp lửa. Phần
- A Sở nhặt mảnh xương đầu cáo làm lược chải đầu-> tóc nội
chàng dài, óng mượt, bán được nhiều tiền. dung
- Chua Thênh mượn lược -> tóc hắn rối bù, mắc vào gai tre ->
hắn bẻ gẫy lược vứt gáo vào bếp lửa.
- A Sở nhặt mảnh lược làm lưỡi câu-> câu được nhiều cá, bán
được nhiều tiền.
- Chua Thênh mượn lưỡi câu-> rồng nuốt lưỡi câu, rắn quấn
vào dây -> hắn đã bị trừng trị.
- A Sở dùng hòn đá thần cứu sống Long Vương -> ngài đã gả
con gái và tặng cho chàng chiếc ô thần.
- Yêu tinh bắt vợ A Sở -> chàng thi tài và chiến thắng nó ->
cứu được vợ.
- Long Vương giúp đỡ A Sở về vật chất. Phần
- Hai vợ chồng trở nên gàu có, sống hạnh phúc. kết
63
- A Sở tiếp tục chữa bệnh cho mọi người. thúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bảng 3: Lược đồ cách tổ chức sắp xếp các sự việc trong truyện cổ tích
thần kỳ “Kề Tấu”:
- Kề Tấu mồ côi cha mẹ từ sớm -> người cô ruột nhận về làm Phần
con nuôi. mở
- Chàng chậm lớn, còi cọc, lùn tè, không biết nói... đầu
- Năm 20 tuổi, Kề Tấu đòi mẹ đi hỏi vợ (con gái út của vua).
- Nhà vua đưa ra thử thách: đấu chó, đấu lợn, đồ thách cưới.
- Kề Tấu vượt qua tất cả thử thách nhờ các lực lượng thần kỳ. Phần
- Thần trời tặng Kề Tấu chiếc lược thần -> chàng trở thành nội
chàng trai tuấn tú. dung
- Giặc tràn sang -> Kề Tấu dùng lược thần giết giặc rồi tha
chết cho chúng về nước -> đất nước thanh bình.
Phần
- Nhà vua không có con trai -> Kề Tấu được suy tôn làm vua. kết
thúc
Qua hai sơ đồ trên, chúng ta thấy các chi tiết được lựa chọn, tổ chức và
liên kết với nhau rất chặt chẽ. Các chi tiết móc nối với nhau theo một hệ
thống. Chính vì thế, phần nội dung cung cấp cho người đọc rất nhiều sự việc
quan trọng liên quan đến cuộc đời nhân vật chính. Những sự việc ấy giúp cho
chúng ta hiểu, nhận xét và đánh giá đúng cuộc đời của mỗi nhân vật. Nội
dung của mỗi truyện cổ tích thần kỳ hay hay dở chính là do cách lựa chọn, tổ
chức, sắp xếp thông tin, sự việc của tác giả dân gian ở phần này. Họ phải khéo
léo lựa chọn các sự việc, các yếu tố thần kỳ đắt giá nhất để tránh lan man, gây
nhàm chán nhưng cũng phải cung cấp đủ những thông tin cần thiết để có thể
hiểu về cuộc đời của nhân vật. Cũng qua lược đồ trên, chúng ta thấy mỗi sự
64
việc lại được triển khai, trình bày thông qua các chi tiết nhỏ hơn. Tất cả các sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
việc, các chi tiết được kết nối với nhau chặt chẽ. Sự việc nọ nối tiếp sự việc
kia. Chi tiết nọ nối tiếp với chi tiết kia một cách tuần tự. Hầu như ở phần này,
ta không bắt gặp các sự việc, các chi tiết xảy ra trong quá khứ. Phần lớn các
sự việc được sắp xếp theo trình tự thời gian. Như vậy, đây chính là phần thể
hiện rõ nhất nội dung tư tưởng của tác phẩm và tài năng sáng tạo của tác giả
dân gian.
3.1.3. Phần kết thúc
Phần kết thúc có nhiệm vụ khép lại nội dung câu chuyện. Dung lượng
nội dung của phần này thường ngắn, có khi chỉ là một đoạn hoặc một hai câu
văn. Nhưng đây là phần quan trọng và có ý nghĩa rất sâu sắc. Nó giúp người
đọc có được cái nhìn toàn vẹn và đầy đủ về nhân vật và toàn bộ câu chuyện.
Dù được kể theo những cách khác nhau và sử dụng những môtíp khác
nhau song ở bất cứ mảng đề tài nào cũng hướng tới một cái kết chung: cái
thiện chiến thắng cái ác, sự tốt đẹp chiến thắng cái xấu xa. Nhân vật chính
diện bao giờ cũng được hưởng cuộc sống sung sướng hạnh phúc. Ngay cả đến
lúc chết, họ vẫn được quây quần và đoàn tụ bên nhau. Ngược lại, nhân vật
phản diện thường phải nhận lấy cái chết bi thảm hoặc biến thành các con vật
sống chui lủi trong rừng sâu. Điều đặc biệt là họ thường bị trừng trị bởi các
lực lượng siêu nhiên chứ không phải bởi các nhân vật chính diện.
Trong đoạn kết của truyện Sao Pàng, cô gái Sao Pàng hiền lành tốt
bụng, sẵn sàng giúp đỡ mọi người cuối cùng cũng trở nên giàu có, được xây
tổ ấm bên chàng trai Mông tốt bụng. Mụ dì ghẻ thì phát điên phát cuồng, khóc
lóc thảm thiết, chửi bới om xòm. Ông bố đẻ - kẻ tiếp tay cho cái ác thì phải
xuống cõi âm ty mà chịu tội. Sau khi được hóa kiếp, nàng Nao trong truyện
Nàng Nao và Xênh vẫn được hưởng hạnh phúc bên cạnh chồng con. Còn mẹ
con mụ dì ghẻ bị núi đá sụp lở vùi lấp, chúng bị kéo xuống địa ngục chịu tội.
3.2. Đặc điểm xây dựng nhân vật.
Cũng giống như các thể loại tự sự dân gian khác, hệ thống nhân vật của
65
truyện cổ tích bao gồm nhân vật người dẫn truyện, nhân vật chính và các nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vật phụ. Nhân vật phụ trong truyện cổ tích thần kỳ thường không được chú
trọng nhiều bởi đó chỉ là những nhân vật nền để tác giả dân gian khắc họa
nhân vật chính.
3.2.1. Đặc điểm xây dựng nhân vật chính.
Nếu như nhân vật chính của truyện truyền thuyết là những người liên
quan đến lịch sử thì nhân vật trong truyện cổ tích thần kỳ là những người mồ
côi, người em, người con riêng, người đội lốt, người dũng sĩ. Nhân vật chính
bao giờ cũng được các tác giả dân gian chú trọng khắc họa sao cho thật ấn
tượng, hấp dẫn bằng những thủ pháp nghệ thuật độc đáo.
3.2.1.1. Nghệ thuật giới thiệu nhân vật.
Qua việc khảo sát nghệ thuật xây dựng nhân vật chính trong truyện cổ
tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi thấy ở phần mở
đầu của hầu hết các truyện có phần giới thiệu về nguồn gốc xuất thân của
nhân vật. Các nhân vật không những xuất thân trong những gia đình nông dân
nghèo khó mà họ còn là những đứa trẻ mồ côi, chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh.
Trong các truyện cổ tích thần kỳ đã khảo sát, chúng tôi nhận thấy nhân
vật mồ côi là nhân vật thường gặp nhất. Họ là hình ảnh của những con người
chịu nhiều cơ cực, thiệt thòi và bất hạnh trong cộng đồng người Mông. Phần
giới thiệu về các nhân vật dù kĩ lưỡng hay sơ lược chúng ta vẫn biết được họ
xuất thân trong gia đình nghèo khổ. Hơn thế nữa họ là những đứa trẻ mồ côi,
bơ vơ. Không chỉ xuất hiện ở nhóm chủ đề trên, ngay cả những tác phẩm
thuộc nhóm truyện về người em, người dũng sĩ ta cũng bắt gặp những nhân
vật có nguồn gốc xuất thân tương tự như vậy. Một số truyện như Mặt đất lồi
lõm, Sự tích gà mái ấp trứng vịt nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng như cốt
truyện lại mang màu sắc của truyện thần thoại, tuy nhiên “yếu tố thần thoại”
không nhiều. Theo quan điểm của chúng tôi sự giao thoa giữa thần thoại và
truyện cổ tích thần kỳ là do hai nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất: Theo quy luật phát triển của loại hình tự sự dân gian, sự ra
66
đời của các thể loại từ thần thoại đến truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn… bao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giờ cũng có sự “gối sóng” chứ không bị cắt đứt hoàn toàn. Để chuẩn bị cho
một thể loại mới ra đời thường diễn ra hiện tượng “rạn nứt”, “biến đổi” thể
loại cũ. Điều đó có nghĩa là thể loại cũ không còn giữ được tính chất đặc
trưng của nó. Như vậy, một số truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu
hành ở Yên Bái vẫn còn vương vấn bóng dáng của truyện thần thoại, những
tác phẩm này được ra đời từ rất sớm, vào thời điểm truyện thần thoại, truyền
thuyết đang có sự vận động, biến đổi, báo hiệu sự “phá vỡ” thi pháp các thể
loại trước để truyện cổ tích ra đời.
Thứ hai: Do quá trình lưu truyền, một số thần thoại, truyền thuyết bị
“đồng hóa” một phần với cổ tích - thể loại ra đời sau nó - một cách vô thức do
sự vô tình hoặc suy nghĩ đơn giản của nhân dân. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến
cho rằng các nhà nghiên cứu văn học dân gian truyện trong quá trình sưu tầm,
ghi chép, dịch đã thêm bớt các chi tiết cho câu chuyện thêm phần ly kì, hấp
dẫn. Chính điều đó làm nên sự cộng gộp cổ tích với thần thoại và truyền
thuyết cùng các thể loại khác với nhau.
Có thể nói rằng hiện tượng giao thoa trong nghệ thuật xây dựng nhân
vật cũng như cốt truyện trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu
hành ở Yên Bái là một đặc điểm độc đáo do cả nguyên nhân chủ quan và
khách quan đưa đến. Nguyên nhân chủ quan là do sự vận động nội tại của loại
hình tự sự dân gian. Nguyên nhân khách quan là do tính truyền miệng của văn
học dân gian nói chung và của tiểu loại cổ tích thần kỳ nói riêng.
3.2.1.2. Nghệ thuật sử dụng yếu tố thần kỳ
Qua việc khảo sát 24 truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành
ở Yên Bái, chúng tôi thấy yếu tố thần kỳ được sử dụng ở tất cả các truyện cổ
tích. Có những truyện như Nàng Nu, Chín người con trai, Hoàng tử rùa, Kề
Tấu…yếu tố thần kỳ xuất hiện dày đặc song có truyện như Nàng Nao và
Xênh, Sao Pàng yếu tố này chỉ xuất điểm xuyết. Việc sử dụng yếu tố thần kỳ
67
nhiều hay ít còn tùy thuộc vào từng nội dung chủ đề. Những truyện cổ tích về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người đội lốt, người dũng sĩ yếu tố thần kỳ thường nhiều hơn. Ngược lại,
những truyện cổ tích về người con riêng, người em yếu tố này thường ít hơn.
Điều này hoàn toàn dễ hiểu bởi nhân vật thuộc nhóm cổ tích về người đội lốt,
người dũng sĩ các nhân vật còn mang ảnh hưởng của kiểu nhân vật thần thoại,
những nhân vật này thường gặp nhiều những khó khăn thử thách mà người
bình thường khó có thể vượt qua được như đi lên trời, xuống thủy cung, đánh
nhau với yêu tinh, … Còn nhân vật của nhóm cổ tích người mồ côi, người con
riêng và người em gần gũi hơn với tiểu loại cổ tích sinh hoạt, chính vì thế yếu
tố thần kỳ chỉ xuất hiện khi nhân vật gặp những bế tắc mà tự mình không thể
giải quyết nổi. Thực tế cho thấy, trong truyện cổ tích, các giả dân gian thường
sử dụng yếu tố thần kỳ để giải quyết những vấn đề của xã hội, cụ thể hơn đó
là những vấn đề xung đột về lợi ích. Con người trong xã hội khi đó chỉ là
những nạn nhân, những thân phận nhỏ bé của xã hội, họ chưa có đủ khả năng
để giải quyết những vấn đề của đời sống cho nên giả dân gian phải mượn hình
thức kì ảo để thực hiện những ước mơ của con người. Như vậy tác giả dân
gian sử dụng yếu tố hoang đường để tạo nên một môi trường mà ở đó có các
yếu tố hoang đường xuất hiện, sau đó đặt nhân vật vào trong môi trường ấy.
Có thể nói, yếu tố thần kỳ là phương tiện chủ đạo được các tác giả dân
tộc Mông ở Yên Bái chuộng sử dụng. Yếu tố này kết hợp với việc miêu tả
thực làm cho các câu chuyện trở nên mềm mại, li kì và hấp dẫn hơn chứ
không làm cho tác phẩm khô cứng, đơn điệu. Bên cạnh yếu tố thần kỳ, sự
miêu tả và cách tổ chức nội dung khéo léo của tác giả dân gian cũng góp phần
làm cho nhân vật hiện lên sống động và ấn tượng.
3.2.2. Đặc điểm nhân vật người kể chuyện.
Truyện cổ tích là một loại hình tự sự dân gian. Cũng như các thể loại tự
sự dân gian khác, nhân vật người kể chuyện của truyện cổ tích giữ một vai trò
vô cùng quan trọng. Họ chính là người dẫn dắt, tổ chức câu chuyện. Người kể
68
chuyện có quyền quyết định xem chuyện sẽ được kể như thế nào và kể những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gì. Bên cạnh đó, đặc trưng của văn học dân gian là tính diễn xướng nên nhân
vật người kể chuyện lại càng giữ vai trò quan trọng.
Qua việc khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở
Yên Bái, chúng tôi nhận thấy nhân vật người kể chuyện ở tất cả các truyện cổ
tích đều dùng ngôi thứ ba số ít. Tức là họ đóng vai trò là người chứng kiến,
sau đó kể lại câu chuyện theo trình tự thời gian chứ không trực tiếp tham gia
vào câu chuyện. Trong quá trình kể chuyện, người kể thường giấu mình đi,
không xưng tên, chỉ xuất hiện trong lời trần thuật. Nghệ thuật trần thuật của
nhân vật người kể chuyện cũng rất phong phú. Ngoài nhiệm vụ kể cho câu
chuyện được hay, gây ấn tượng và hấp dẫn được người nghe, người kể
chuyện còn phải làm cho người nghe tin rằng câu chuyện đó là có thật. Người
nghe tin rằng người kể chuyện là người đã từng chứng kiến hoặc biết tường
tận, chính xác về câu chuyện mà anh ta kể. Ngoài mục đích kể chuyện để giải
trí, người kể chuyện còn làm thêm nhiệm vụ truyền bá tư tưởng đạo lý, hướng
người nghe tới cái chân - thiện - mĩ, làm nhiều việc có ích cho gia đình và
cộng đồng xã hội. Thành công của nhân vật người kể chuyện thể hiện ở chỗ,
sau khi nghe xong câu chuyện anh ta kể, người nghe tin vào tính chân thực
của mỗi tác phẩm. Muốn vậy, người kể chuyện phải sắp xếp các tình tiết của
câu chuyện một cách có hệ thống, hợp tình hợp lí. Nhân vật người kể chuyện
được người nghe xác định chủ yếu thông qua ngôn ngữ trần thuật và vai trò
trần thuật của họ trong mỗi câu chuyện.
3.2.2.1. Nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần thuật
thuần túy
Nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần thuật thuần túy có
nghĩa là toàn bộ nội dung của câu chuyện cổ tích được người kể chuyện dùng
nguyên lời trần thuật của mình để trần thuật lại. Ngoài ngôn ngữ trần thuật
của nhân vật người kể chuyện thì không có ngôn ngữ của nhân vật khác.
69
Những truyện cổ tích của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái chủ yếu sử dụng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngôn ngữ kể và tả. Sự đặc sắc của truyện cổ tích dân tộc Mông lưu hành ở
Yên Bái là tác giả dân gian chỉ sử dụng ngôn ngữ trần thuật thuần túy mà vẫn
tạo nên được những tác phẩm giàu tình tiết với nội dung hấp dẫn. Nói đến văn
bản chỉ sử dụng ngôn ngữ trần thuật thì chúng ta thường hay quan niệm: cách
kể chuyện này có ảnh hưởng nhất định tới sự sinh động, hấp dẫn của truyện
cổ tích. Chẳng hạn như việc người kể chuyện sử dụng thuần túy ngôn ngữ
trần thuật dễ khiến người nghe rơi vào thế bị động khi tiếp nhận nội dung. Nội
dung tư tưởng của mỗi câu chuyện ít nhiều chịu sự áp đặt chủ quan của người
kể chuyện. Người nghe không có cơ hội và cơ sở để đánh giá câu chuyện. Nói
chung khi nói đến văn bản chỉ sử dụng ngôn ngữ trần thuật thuần túy là chúng
ta không mấy ấn tượng nhưng đối với truyện cổ tích Mông lưu hành ở Yên
Bái điều đó không còn đúng. Bởi so với những truyện không sử dụng ngôn
ngữ trần thuật thuần túy thì nội dung của các truyện cổ tích này hấp dẫn và
sinh động không kém. Chỉ có điều, với lối kể chuyện như thế này thì nhiệm
vụ của nhân vật người kể chuyện trở nên đặc biệt quan trọng.
Vậy vì sao ngôn ngữ trần thuật của người kể chuyện lại chiếm ưu thế
tuyệt đối trong truyện cổ tích dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái? Qua việc
khảo sát chúng tôi nhận thấy rằng nguyên nhân chủ yếu là do văn học dân
gian nói chung và truyện cổ tích nói riêng là loại hình văn học truyền miệng.
Tính truyền miệng của văn học dân gian sẽ đem lại cho văn học tính đa dạng,
phong phú về nội dung khi mà văn học dân gian hưng thịnh. Mặt khác, khi
văn học dân gian không còn giữ được vị trí độc tôn trong đời sống tinh thần
của nhân dân thì tính truyền miệng trong văn học dân gian dễ bị mai một và
lãng quên nhanh nhất. Hiện tượng các truyện cổ tích chỉ còn lại ngôn ngữ trần
thuật của người kể chuyện theo chúng tôi cũng không nằm ngoài quy luật này.
Đặc tính truyền miệng cùng với thời gian, khi các câu chuyện cổ tích được kể
lại và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác khiến cho truyện cổ tích của
70
dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái bị mất dần các tình tiết không tiêu biểu và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thêm vào các tình tiết quan trọng trong cốt truyện khiến cho cốt truyện của
các câu chuyện cổ tích ấy ngày càng phong phú hơn. Đến khi các câu chuyện
cổ tích được sưu tầm, biên tập lại và in thành sách thì chỉ còn lại cốt truyện cơ
bản được sắp xếp theo một trình tự nhất định cùng với ngôn ngữ trần thuật
của người kể chuyện.
3.2.2.2. Nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần
thuật xen với ngôn ngữ đối thoại của nhân vật chính
Trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái thì
kiểu trần thuật phổ biến của người kể chuyện là lối sử dụng ngôn ngữ trần
thuật xen với ngôn ngữ đối thoại của nhân vật chính. Tất cả các văn bản có sử
dụng kiểu trần thuật này chúng ta đều thấy có sự sáng tạo của người kể
chuyện. Người kể chuyện trong lúc này chỉ giữ vai trò là người dẫn dắt câu
chuyện. Sự dẫn dắt ấy sẽ làm cho câu chuyện thêm phần phong phú, hấp dẫn và
sinh động. Trong những câu chuyện cổ tích có kiểu trần thuật xen kẽ ta thấy
được những tình huống gay cấn, kịch tính, hóm hỉnh, bất ngờ của câu chuyện.
Nó thể hiện sự linh hoạt của người kể trong quá trình dẫn dắt câu chuyện.
Điểm nổi bật của ngôn ngữ đối thoại trong truyện cổ tích thần kỳ của
dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái là: các nhân vật thường xưng “ta” (ngôi thứ
nhất) và dùng câu rút gọn trong khi giao tiếp. Chính vì thế mà ta thấy câu
thoại của các nhân vật thường rất cô đúc, lời nói của nhân vật có ý nghĩa hơn
rất nhiều lời miêu tả. Thông qua lượt lời của các nhân vật, ta ít thấy họ sử
dụng từ ngữ bay bổng mà đi trực tiếp vào vấn đề. Đây có thể coi là đặc trưng
của truyện cổ tích Mông vì lối giao tiếp của các nhân vật trong truyện gần với
lối giao tiếp trong đời sồng hằng ngày trong đời sống của người Mông.
“Một hôm trời mưa tầm tã chẳng ai ra khỏi nhà. Kề Tấu đang nằm
bỗng nhiên tung chăn dậy gọi mẹ:
- Bây giờ con đã gần 20, phải lấy vợ, mẹ đi hỏi cho con.
71
- Thế con định lấy ai?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Lấy con gái thứ chín của vua.
- Nhà ta nghèo, làm sao lấy được con vua?
Kề Tấu nằn nì mãi, người mẹ mừng con biết nói, chiều con đành nhận
lời đi hỏi vợ cho con.
Trên đường đi người mẹ nghĩ: gia đình mình nghèo, con mình lại xấu
xí, lấy thế nào được con vua? Đi đến nửa đường bà quay về bảo con:
- Nhà ta nghèo họ không gả…”.
(Trích truyện: Kề Tấu).
Đoạn trích trên thuật lại cuộc trò chuyện giữa chàng Kề Tấu với người
mẹ của mình. Điều đặc biệt, ta thấy hai mẹ con chàng Kề Tấu dùng rất nhiều
những câu rút gọn. Nếu không hiểu về văn hóa giao tiếp trong đời sống hằng
ngày của người Mông ta sẽ thấy nhân vật Kề Tấu thật khiếm nhã khi nói trống
không với mẹ và mẹ của chàng cũng liên tục sử dụng các câu thoại theo kiểu
“bằng vai phải lứa” với con. Thực ra, so với vốn từ ngữ của người Việt thì
vốn từ của người Mông rất hạn chế, họ rất ít khi sử dụng từ đồng nghĩa mà sử
dụng các từ đồng âm khi giao tiếp. Để hiểu được ý nghĩa của các từ ngữ đó, ta
phải chú ý đến ngữ cảnh giao tiếp. Bên cạnh đó, người Mông lại sống ở các
triền núi cao, mật độ dân cư thưa thớt vì vậy khi thông tin người ta phải nói
ngắn gọn súc tích, miễn sao truyền tải được thông tin đến người nghe càng
nhanh và chính xác càng tốt. Chính vì thế, truyện cổ tích của người Mông đã
phần nào thể hiện được bản sắc văn hóa dân tộc Mông ở trong đó.
“Xí Xang khỏe lại tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người nên trong vùng ai
cũng mến. Một hôm chàng gặp một ông già tóc bạc phơ, da đỏ như trái hồng
chín. Ông già khoan thai nhìn xuống tảng đá to phẳng lỳ trò chuyện với Xí Xang:
- Ông tuy già nhưng biết đao biết kiếm. Thấy cháu hiền từ lại có sức
khỏe, ông muốn truyền lại cho cháu. Ý cháu thế nào?
- Cháu rất thích học. – Xí Xang đáp.
72
- Tại sao cháu lại thích? – Ông già hỏi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Trước đây nghe chú cháu kể chuyện, rằng có ông tiên dùng kiếm thần
giết được yêu quái để cứu người bị hại. Vùng này nhiều suối khe rừng rậm,
rừng già bát ngát, có nhiều hổ báo, trăn tinh bắt trâu bò lợn, hại con người.
Cháu muốn học để bảo vệ thân mình và trừ thú ác giúp người lương thiện.
Ông già mỉm cười gật đầu, chòm râu bạc rung rung tỏ ý hài lòng, hẹn
sẽ gặp lại. Sau đó ông già dạy đao kiếm cho Xí Xang”.
(Trích: Chuyện Xí Xang).
Trong đoạn trích trên, người trần thuật kể lại cuộc đối thoại giữa Xí
Xang và ông tiên. Trong quá trình đối thoại, xuất hiện lời của hai nhân vật
giao tiếp nhưng lời của nhân vật chính nhiều hơn, dài hơn lời của nhân vật
phụ. Lời của nhân vật phụ là cái cớ để Xí Xang bộc lộ những suy nghĩ của
mình. Điều này đã thể hiện sự linh hoạt trong nghệ thuật kể của người kể
chuyện. Ngoài ra, ta còn thấy có nhân vật thứ ba trong đoạn đối thoại. Lời của
nhân vật thứ ba (người chú) cũng được nhân vật trích dẫn khi giao tiếp.
Việc sử dụng đan xen ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ đối thoại của
người kể đã mang lại nhiều ý nghĩa tích cực:
Thứ nhất: Nội dung của truyện cổ tích thần kỳ trở nên sinh động và cụ
thể hơn, đây chính là một cơ sở góp phần tăng niềm tin của người đọc đối với
nội dung câu chuyện. Tăng tính xác thực cho nội dung câu chuyện. Bởi câu
chuyện được người kể chuyện kể lại mà như đang diễn ra. Người đọc như
phần nào được chứng kiến diễn biến của câu chuyện.
Thứ hai: Nhân vật hiện lên sống động, gần gũi hơn. Ta thấy, nhân vật
được nói tức là nhân vật được sống. Qua lời nói, ta sẽ thấy nhân vật có hồn
hơn, có cá tính hơn. Những cuộc đối thoại sẽ tạo nên mối quan hệ giữa các
nhân vật trong truyện cổ tích thần kỳ. Từ đó người nghe sẽ được tiếp nhận nội
dung của truyện cổ tích thần kỳ một cách khách quan hơn. Mối tương quan
giữa các nhân vật người kể chuyện với các nhân vật khác trở nên hài hòa hơn.
Người kể chuyện không nắm quyền tuyệt đối mà đã kể câu chuyện tự nó hiện
73
lên thông qua ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3.3. Không gian - thời gian nghệ thuật.
Cùng với nhân vật, không gian và thời gian nghệ thuật cũng là những
phương diện nghệ thuật quan trọng góp phần xây dựng nên một tác phẩm văn
học. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật đều là hình thức tồn tại
của thế giới nghệ thuật, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, mang đầy
tính biểu trưng và tính quan niệm. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ
thuật trong văn học dân gian có nhiều điểm khác biệt so với văn học viết. Sự
khác biệt này còn diễn ra ở từng thể loại của nó. Thần thoại, truyền thuyết, cổ
tích, ca dao… đều có những đặc trưng riêng về không gian nghệ thuật và thời
gian nghệ thuật.
3.3.1. Không gian nghệ thuật.
Không gian nghệ thuật trong tác phẩm là sự mô hình hóa các mối liên
hệ về thời gian, xã hội, đạo đức của bức tranh thế giới thể hiện quan niệm về
trật tự thế giới và sự lựa chọn của nhà văn. Nghiên cứu không gian nghệ thuật
của truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi
thấy có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: Không gian hoang sơ
Đó là một không gian mà ở đó con người rất thưa thớt, cảnh vật hoang
sơ, âm u với rừng rậm, hang sâu, các làng bản hoang sơ, tiêu điều. Đó là kiểu
không gian mà ở đó lực lượng của thiên giới và hạ giới có thể qua lại với
nhau một cách đơn giản mà không cần đến một thế lực thần tiên hay một phép
màu nhiệm nào. Không gian của thiên giới và hạ giới gần như không có giới
hạn hay rào chắn nào. Chính vì vậy mà khi cần, ông Trời hay người của nhà
Trời có thể xuất hiện để chỉ dẫn cho con người dưới hạ giới. Hoặc nếu không
thì con người dưới hạ giới có thể dắt nhau đi hỏi người nhà Trời. Có nghĩa là,
khi xây dựng không gian nghệ thuật của những truyện cổ tích thần kỳ loại
74
này, tác giả dân gian quan niệm về con người, thế giới còn rất nguyên sơ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thứ hai: Chuyển dịch và mở rộng không gian
Tác giả dân gian xây dựng không gian nghệ thuật có sự dịch chuyển từ
điểm này tới điểm khác. Bao giờ sự xuất hiện của nhân vật cũng ở một địa
điểm - đó là nơi họ sinh sống hằng ngày; sau khi một biến cố lớn xảy ra, họ
đến một không gian mới. Không gian này hoàn toàn xa lạ với họ. Điểm đến
này hoàn toàn không nằm trong dự định và kiểm soát của họ. Đây là vùng đất
mới - không gian mới. Khi các nhân vật xuất hiện ở đây, chúng ta cảm nhận
họ đã mất hoàn toàn phương hướng để định vị về vùng đất cũ. Tại đây, họ
thiết lập cuộc sống mới cho mình.
Để thể hiện được nội dung chính của mỗi câu chuyện cổ tích thần kỳ,
nhân dân còn xây dựng kiểu không gian được mở rộng. Đó là điểm dừng của
nhân vật ở vùng đất mới. Bắt đầu từ đây, không gian lại được mở rộng dần ra
cùng với sự xuất hiện của con người. Chính sự mở rộng không gian này gắn
liền với ý nghĩa thiết lập cuộc sống ở một vùng đất mới.
3.3.2. Thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể nghiệm được ở trong tác
phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay
chậm, với chiều dài thời gian quá khứ, hiện tại hay tương lai. Thời gian nghệ
thuật luôn gắn liền với thời gian tâm lý. Qua việc khảo sát truyện cổ tích thần
kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi thấy thời gian nghệ thuật
của của các truyện cổ tích thần kỳ chủ yếu là kiểu thời gian phiếm chỉ, mơ hồ
- đây là kiểu thời gian đặc thù trong truyện cổ tích của người Việt. Ở phần mở
đầu của mỗi truyện cổ tích, bao giờ thời gian ấy cũng được đề cập.
Các câu chuyện được kể không có mốc thời gian bắt đầu hay khoảng
thời gian diễn ra. Cụm từ được dùng để bắt đầu kể câu chuyện và thiết lập
thời gian nghệ thuật trong tác phẩm là: ngày xưa, ngày xửa ngày xưa, thuở
xưa, thời xa xưa, xưa, thời xưa,… Từ đó, diễn biến câu chuyện được kể lại
75
với nhiều chi tiết, sự việc nhưng tất cả các chi tiết, sự việc đều không được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhắc tới yếu tố thời gian hoặc yếu tố thời gian rất mơ hồ: một hôm, mặt trời
lên đến lưng chừng núi, hôm sau, ngày qua ngày, một sớm mai…Cũng có khi
tác giả sử dụng những cụm từ chỉ thời gian cụ thể: chín tháng mười ngày, ba
hôm sau, bẩy ngày bẩy đêm.. những những từ này không đủ để tạo nên thời
gian nghệ thuật cụ thể. Cuối cùng, khi kết thúc câu chuyện, người đọc cũng
không có căn cứ nào để xác định được thời gian của câu chuyện. Cách xây
dựng thời gian như thế khiến người đọc chỉ có thể biết được rằng từng có một
câu chuyện như thế đã diễn ra và được người dẫn truyện kể lại. Việc xây dựng
thời gian nghệ thuật phiếm chỉ trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông
lưu hành ở Yên Bái là một đặc điểm nghệ thuật nổi bật. Giải thích hiện tượng
này theo chúng tôi đó là do sự giao thoa thể loại của truyện cổ tích các dân tộc
với nhau.
Cũng giống như các thể loại tự sự dân gian khác, thời gian nghệ thuật
của các truyện cổ tích luôn được xây dựng theo trật tự tuyến tính. Các sự việc
được kể theo trình tự thời gian. Cái gì xảy ra trước được trần thuật trước, cái
gì xảy ra sau được trần thuật sau. Trình tự ấy gắn liền với sự xuất hiện nhân
vật chính cũng như hoạt động của họ. Biên độ và nhịp điệu thời gian của
truyện cổ tích thần kỳ thường có sự thay đổi nhưng không đột biến. Ở phần
mở đầu, khi giới thiệu về nhân vật chính nhịp điệu câu chuyện thường chậm,
thong thả. Nhưng kể từ khi câu chuyện xuất hiện các biến cố thì nhịp điệu kể
nhanh hơn. Tuy nhiên khi nhân vật kể chuyện xuất hiện và trực tiếp tham gia
vào các hành động thì nhịp điệu kể có sự xen kẽ: thời gian như trôi nhanh hơn
cùng với các hành động liên tiếp của nhân vật, nhưng khi nhân vật dừng lại
đối thoại thì thời gian lại như chậm lại và dừng lại ở cuộc đối thoại ấy. Thời
gian trần thuật ở phần cuối tác phẩm thường được tác giả trần thuật với nhịp
điệu chậm hơn.
Như vậy, cùng với các yếu tố nghệ thuật khác, thời gian nghệ thuật
trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái đã góp
76
phần làm cho nội dung câu chuyện trở nên sinh động và hấp dẫn hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3.4. Một số biểu tượng trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc
Mông lưu hành ở Yên Bái
Văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật mà đặc điểm
cơ bản của hình tượng nghệ thuật là sự tái hiện thế giới, làm cho con người và
cuộc sống hiện lên y như thật. Nhưng hình tượng cũng là hiện tượng đầy tính
ước lệ. Bằng hình tượng, nghệ thuật sáng tạo ra một thế giới hoàn toàn mang
tính biểu tượng. Cho nên, biểu tượng là đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng
hình tượng của văn học nghệ thuật. Khảo sát truyện cổ tích thần kỳ của dân
tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi thấy có một số biểu tượng sau:
Bảng 4: Một số hình ảnh biểu tượng trong truyện cổ tích thần kỳ của
dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái:
STT Hình ảnh biểu tượng Tần số xuất hiện % Số truyện
16 15,24 11 1. Con bò
9 8,57 8 2. Con cá
15 14,29 13 3. Con ngựa
14 13,33 11 4. Hòn đá
5 4,76 5 5. Hội Gầu tào
Số 3 13 12,38 12 6.
Số 9 19 18,10 13 7.
9 8,57 9 8. Mặt trời
5 4,76 5 9. Lanh
Từ những số liệu trong bảng thống kê trên, ta thấy số 9 có tần số xuất
hiện nhiều nhất so với các biểu tượng còn lại (19 lần, chiếm 18,1%), tiếp đó là
con bò: 16 lần (15,24%), con ngựa: 15 lần (14,29%), hòn đá: 14 lần
(13,33%)... Chúng tôi xin lý giải bốn trong số chín biểu tượng trên.
+) Số 9: Trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông, số 9 biểu
tượng cho độ cao của bầu trời: chín tầng trời, chín tầng mây (Lần ấy, mưa to
77
như thác đổ, nước trút xuống. Mưa dồn dập không biết bao nhiêu ngày đêm,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nước dâng ngang chín tầng trời- Mặt đất lồi lõm). Số chín còn dùng để biểu
thị chiều dài và chiều rộng của không gian (Chàng bật dậy thấy nàng Út mỉm
cười, tay cầm cái ô, tay dắt đôi ngựa. Hai người nhảy phắt lên ngựa phi như
bay, băng qua chín núi, tám đèo đến một bãi cỏ rộng và bằng phẳng… - Kề
Tấu). Ngoài ra, số 9 còn biểu thị cho sự giàu có, đầy đủ, sung túc (“Đêm ấy,
anh em họ mạc của nàng Nu ở trên trời xuống làm cho vợ chồng nàng được
chín gian nhà mới, mang cho chín con lợn, chín hũ rượu, ăn một bữa xáo dề
mừng nhà mới”- Nàng Nu). Đối với người Mông ở Yên Bái thì số 9 là con số
của sự an lành, hạnh phúc và thuận lợi vì nó gần với sự viên mãn, tròn đầy.
Số 9 còn tượng trưng cho sự toàn vẹn, hòa hợp của trời và đất. Các thầy
phong thủy cũng xem con số này là số may mắn vì nó không bao giờ thay đổi
cho dù ta nhân nó với bất cứ số nào: 9 x 2 = 18 (8 + 1 = 9), 9 x 3 = 27 (7 + 2 =
9), 9 x 9 = 81 (8 + 1 = 9)… Người Mông ở Yên Bái thường chuộng số lẻ,
trong các số tự nhiên thì số 9 là số lẻ lớn nhất chính vì thế khi đi rước dâu, sắp
đặt đồ vật thờ cúng hoặc trang trí đồ vật trong nhà, họ thường lựa chọn con số
này. Vì thế số 9 cũng xuất hiện rất nhiều lần trong truyện cổ tích thần kỳ của
dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.
+) Con bò: Có thể nói bò là vật nuôi gắn bó thân thiết đối với người
Mông ở Yên Bái từ rất xa xưa. Chính vì thế hình ảnh của nó cũng xuất hiện
nhiều trong truyện cổ tích thần kỳ. Khi giới thiệu về các nhân vật mồ côi, tác
giả dân gian thường gán cho họ hành động chăn bò: “Thuở xưa có chàng Nhà
Tếnh cha mẹ mất sớm, chàng ở với Dúa Pủa, người anh con ông bác. Dúa
Pủa cũng không còn bố mẹ, không có anh em. Nhưng còn cái nhà gỗ ba gian
và đàn bò, Dúa Pủa hơn Nhà Tếnh mấy tuổi, làm nương rẫy để sống. Nhà
Tếnh hàng ngày đi chăn bò… - Nhà Tếnh”. Cũng có khi bò giúp đỡ người tốt
và trừng phạt kẻ xấu: “Hôm sau, Xênh mạng sợi lên núi tìm bò, nhờ giúp.
Nhưng Xênh quên mất lời Nao dặn là phải quấn sợi vào đầu bò, nên bị bò hất
78
tung sợi xuống khe. Xênh trở về nhà nói cho mẹ biết và khóc lóc kêu ca mấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngày liền. Dì ghẻ tức giận bảo giết bò đi. Nao đến lũng rau bên rừng nói cho
bò biết…- Nàng Nao và Xênh”. Trên thực tế, bò được người Mông nuôi để
bừa nương và ruộng bậc thang. Bên cạnh đó, trong những lễ hội, đám cưới,
đám ma, họ thường mổ bò lấy thịt đãi khách. Số lượng bò cũng dùng để phân
biệt kẻ giàu người nghèo trong xã hội xưa. Nhà giàu có thường có nhiều gia
súc, trong đó bò đóng vai trò quan trọng. Trong những đám cưới lớn, có gia
đình đã giết tới hai, ba con bò để làm tiệc đãi khách. Có thể nói, đối với người
Mông con bò có vai trò vô cùng quan trọng, nó gần gũi với người dân lao
động như con trâu của người Kinh vậy.
+) Con ngựa: Người Mông xưa thường dùng ngựa làm phương tiện đi
lại, bên cạnh đó nó còn giúp con người thồ hàng về bản xa trên những con
đường gồ ghề, trắc trở. Trong các chuyến đi săn, ngựa còn giúp các chàng trai
Mông vượt núi, băng đèo, qua những vách đá hiểm trở để săn bắt thú. Trong
lễ hội, các chàng trai thường thi tài đua ngựa bắn cung để chinh phục những
cô gái Mông xinh đẹp. Phiên chợ Mông cũng không thể thiếu được món
Thắng cố - được làm từ nội tạng của ngựa. Chính vì thế trong truyện cổ tích
thần kỳ của dân tộc Mông, hình ảnh con ngựa được nhắc lại rất nhiều lần.
Song ngựa trong truyện cổ tích thường được nhắc tới trong vai trò là phương
tiện đi lại là chính: “Thời xa xưa có chàng Lao Tráng tính tình tinh nghịch,
rong chơi suốt ngày suốt tháng. Ban đêm, chàng lần vào bản trộm ngựa của
dân, dắt được ngựa là phi nước đại, bay như thần gió… - Sự tích đuôi gấu”;
“Đúng hẹn, A Sở mang cáo đi, lần này chàng cưỡi một con ngựa, cáo ngồi
trên lưng một con ngựa đến nhà quan, múa hát xong được thưởng tiền bạc rất
hậu…- Chua Thênh và A Sở”. Trong chiến trận, ngựa cũng làm phương tiện
để người dũng sĩ xông pha vào trận mạc: “Rì Tủa mặc áo giáp, cưỡi ngựa
hồng, điều binh khiển tướng thẳng đường biên ải tiến quân… - Rì Tủa”. Như
vậy, ngay từ xa xưa, con ngựa đã gắn bó mật thiết với đời sống vật chất và
tinh thần của người Mông vì vậy hình ảnh của nó có trong các tác phẩm văn
79
học dân gian của dân tộc Mông là hoàn toàn dễ hiểu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
+) Hòn đá: Trong đời sống hằng ngày, người Mông thường dùng hòn
đá vào nhiều công việc khác nhau: kê cột nhà, làm hàng rào chắn thú dữ, làm
kiềng đun bếp, kè ruộng bậc thang…Trong tín ngưỡng, người Mông còn có
tục thờ hòn đá hoặc núi đá thiêng. Nhiều người cho rằng khi bị ốm, cần đến
phiến đá lớn xin thần núi đá ban cho sức khỏe, nếu người ốm khỏe mạnh trở
lại, gia đình sẽ mang lễ đến thắp hương để cảm tạ. Đá cũng có công dụng tạo
lửa để đốt. Chính vì thế, nhiều truyện cổ tích Mông lưu hành ở Yên Bái có
hình ảnh hòn đá: “Con người lấy hai hòn đá siết mạnh vào nhau tóe lửa, đốt
đống gianh bốc cháy cao ngất trời. Các con vật bị nóng bỏng như bị nướng
thịt chảy mỡ… - Trời chết”; “Khi ấy, Rì Gàng vẫn bám theo A Xang, hai
người ngồi đợi ở phiến đá cao phía trên hang…- A Xang”; “A Sở đến bên
giường lấy thỏi đá ngọc đặt vào mồm ông cụ thì cái lưỡi câu bật ra ngoài.
Khỏi đau, ông cụ mừng rỡ nói: Ta là Long Vương, cháu đã chữa cho ta khỏi
bệnh, ta mang ơn cháu. Cháu muốn lấy bao nhiêu vàng bạc châu báu hay
muốn lấy thứ gì thì ta tặng…- Chua Thênh và A Sở”. Như vậy có thể nói,
hòn đá có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của
người Mông .
* Tiểu kết chương 3:
Qua tìm hiểu nghệ thuật trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu
hành ở Yên Bái, chúng tôi thấy có một số đặc điểm nghệ thuật nổi bật như sau:
Truyện cổ tích thần kỳ có mô hình kết cấu thống nhất với đầy đủ ba
phần, mỗi phần đảm nhiệm một nhiệm vụ khác nhau. Mô hình này về hình
thức giống với mô hình kết cấu của thể loại trong loại hình tự sự dân gian
nhưng cách triển khai có những điểm độc đáo riêng.
Một số truyện cổ tích thần kỳ mang màu sắc của thần thoại. Yếu tố thần
kỳ được sử dụng trong mỗi mảng đề tài là khác nhau. Bên cạnh yếu tố thần
kỳ, sự miêu tả và cách tổ chức nội dung khéo léo của tác giả dân gian cũng
80
góp phần làm cho nhân vật hiện lên sinh động và ấn tượng. Nhân vật người kể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chuyện cũng được xây dựng thành công qua hai kiểu: nhân vật người kể
chuyện dùng ngôn ngữ trần thuật thuần túy và nhân vật người kể chuyện sử
dụng ngôn ngữ trần thuật xen ngôn ngữ đối thoại của nhân vật.
Truyện cổ tích thần kỳ đã xây dựng thành công không gian và thời gian
nghệ thuật với những nét đặc sắc. Việc xây dựng không gian nghệ thuật đặc
trưng đã có hiệu quả đắc lực trong việc thể hiện nội dung chủ đề. Thời gian
nghệ thuật được xây dựng mang tính phiếm chỉ, mơ hồ.
Các biểu tượng có nhiều trong truyện cổ tích thần kỳ. Nó gắn liền với
đời sống vật chất và tinh thần của người Mông. Thông qua hệ thống các biểu
tượng, ta thấy được truyền thống văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập
quán …của người Mông ở Yên Bái. Những giá trị này được đúc kết và tích
lũy qua hàng nghìn năm lịch sử và nó đã trở thành sức mạnh, niềm tự hào, trở
thành bản sắc văn hóa, văn học của dân tộc Mông.
Những đặc điểm nghệ thuật nổi bật trên đã tạo nên đặc trưng riêng về
nghệ thuật trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái.
Nó là cơ sở để chúng ta nhận diện và so sánh truyện cổ tích thần kỳ của dân
tộc Mông với truyện cổ tích thần kỳ của các dân tộc anh em khác, đồng thời
cũng là cơ sở để nghiên cứu điểm tương đồng và khác biệt về nghệ thuật giữa
81
tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ của các dân tộc anh em trên phạm vi rộng hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
KẾT LUẬN
Qua việc khảo sát và thống kê truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông
lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:
1. Truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái có mối
quan hệ chặt chẽ với các yếu tố địa lý địa phương và văn hóa của tộc người
Mông. Mặc dù chiếm số lượng khiêm tốn nhưng tiểu loại này rất đặc sắc. Nó
có đóng góp không nhỏ trong việc tạo nên giá trị của kho tàng truyện cổ dân
gian. Các mảng đề tài trong truyện cổ tích thần kỳ vừa có những điểm tương
đồng vừa có những điểm khác biệt thể hiện sự phong phú và độc đáo trong
tiểu loại này. Nghiên cứu truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở
Yên Bái, ngoài những phát hiện về văn học, chúng tôi còn khám phá nhiều
điều xung quanh đời sống tinh thần, văn hóa của họ. Truyện cổ tích thần kỳ là
nơi gửi gắm những ước mơ khát vọng của nhân dân về một xã hội công bằng,
dân chủ và bình đẳng.
2. Nội dung trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở
Yên Bái khá phong phú và có nhiều nét độc đáo.
Nội dung cơ bản trong truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu
hành ở Yên Bái bao gồm các phương diện cơ bản: truyện về người mồ côi,
truyện về người em, truyện về người con riêng, truyện về người đội lốt,
truyện về người dũng sĩ. Mỗi mảng đề tài lại có những thế mạnh và nét riêng
về nội dung. Trong đó tiêu biểu nhất là truyện về người mồ côi. Ở mảng đề tài
nào, hệ thống nhân vật cũng được xây dựng theo môtíp quen thuộc của truyện kể
dân gian, gồm hai tuyến nhân vật: nhân vật chính diện và nhân vật phản diện.
Hệ thống nhân vật được xây dựng theo lý tưởng thẩm mỹ của dân gian,
thể hiện quan niệm về con người của nhân dân: bênh vực người hiền, người
lương thiện, phản ứng lại kẻ xấu, kẻ ác, kẻ phá vỡ đạo đức dân chủ. Tuyến
nhân vật chính diện gồm những con người có nhiều phẩm chất tốt đẹp, tâm
82
hồn trong sáng, luôn có lòng tin yêu cuộc sống. Tuyến nhân vật phản diện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gồm đầy đủ bộ mặt ghê gớm, tàn ác như: vua, quan, dì ghẻ, yêu tinh, hổ ác…
Nhóm nhân vật phụ có vai trò quan trọng, xuất hiện đông đảo trong truyện cổ
tích. Đó là Xếnh Lầu, ông tiên, Long Vương, Thần Núi, tiên nữ, người
thường, các con vật… Nhóm nhân vật phụ không chỉ giúp đỡ, quan tâm mà
còn biến ước mơ, khát vọng của người lao động nghèo khổ thành hiện thực.
Từ nội dung về truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu hành ở
Yên Bái, chúng ta thấy được tư tưởng, tình cảm, thái độ của nhân dân đối với
con người trong xã hội. Đó là sự cảm thông sâu sắc đối với những kiếp người
bất hạnh trong xã hội. Thông qua các câu chuyện cổ tích thần kỳ, ta thấy được
tác giả dân gian Mông muốn bộc lộ triết lý nhân sinh, khát vọng “cái thiện
thắng cái ác”, “ở hiền gặp lành”, “chính nghĩa thắng gian tà” một cách sâu
sắc. Đây cũng là đặc thù của truyện cổ tích.
3. Nghệ thuật xây dựng truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Mông lưu
hành ở Yên Bái có nhiều điểm đặc sắc. Nó thể hiện ở các phương diện: kết
cấu tác phẩm, đặc điểm xây dựng nhân vật, xây dựng không gian và thời gian
nghệ thuật, dùng các biểu tượng. Truyện có mô hình kết cấu thống nhất với
đầy đủ ba phần, mỗi phần đảm nhiệm một nhiệm vụ khác nhau. Một số truyện
cổ tích thần kỳ mang có màu sắc của thần thoại. Yếu tố thần kỳ được sử dụng
trong mỗi mảng đề tài là khác nhau. Bên cạnh yếu tố thần kỳ, sự miêu tả và
cách tổ chức nội dung khéo léo của tác giả dân gian cũng góp phần làm cho
nhân vật hiện lên sinh động và ấn tượng. Nhân vật người kể chuyện cũng
được xây dựng thành công qua hai kiểu: nhân vật người kể chuyện dùng ngôn
ngữ trần thuật thuần túy và nhân vật người kể chuyện sử dụng ngôn ngữ trần
thuật xen ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Bên cạnh đó, truyện cổ tích thần
kỳ đã xây dựng thành công không gian và thời gian nghệ thuật với những nét
đặc sắc. Việc xây dựng không gian nghệ thuật đặc trưng đã có hiệu quả đắc
lực trong việc thể hiện nội dung chủ đề. Thời gian nghệ thuật được xây dựng
83
mang tính phiếm chỉ, mơ hồ. Các biểu tượng trong truyện cổ tích thần kỳ gắn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
liền với đời sống vật chất và tinh thần của người Mông. Thông qua hệ thống
các biểu tượng, ta thấy được truyền thống văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng,
phong tục tập quán …của người Mông ở Yên Bái.
Nói tóm lại, qua quá trình khảo sát và nghiên cứu truyện cổ tích thần kỳ
của dân tộc Mông lưu hành ở Yên Bái, chúng tôi thấy truyện cổ tích thần kỳ
là một tiểu loại của truyện cổ tích. Nó có đóng góp không nhỏ vào kho tàng
truyện dân gian Việt Nam. Văn học nói chung, truyện cổ tích thần kỳ nói
riêng có quan hệ mật thiết với các yếu tố địa lý, lịch sử, văn hóa… của địa
phương. Tuy nhiên cho tới nay, số lượng truyện cổ tích thần kỳ sưu tầm được
còn hạn chế. Chính vì vậy mà chúng tôi rất mong muốn các cơ quan chuyên
trách của trung ương và địa phương có phương hướng để mở rộng sưu tầm
được nhiều nhất truyện dân gian nói chung và truyện cổ tích thần kỳ nói riêng
còn tản mạn ở các địa phương và bảo tồn, phát huy giá trị của văn học dân
84
gian trong đời sống tinh thần của nhân dân ta.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị An (1999), Truyện kể dân gian từ góc nhìn hiện đại, Tạp chí
Văn học (3), Hà Nội.
2. Tạ Duy Anh (2006), Vẻ đẹp của nhân vật chính diện trong cổ tích, Tạp
chí Văn học và Tuổi trẻ (9), Hà Nội.
3. Nguyễn Đổng Chi (1964), Nghiên cứu về truyện cổ tích, In trong cuốn
“Kho tàng truyện cổ tích” (tập 1), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, (tập 1,2),
NXB Giáo dục, Hà Nội.
5. Chu Xuân Diên (1981), Về việc nghiên cứu thi pháp Văn học dân gian,
Tạp chí Văn học (5), Hà Nội.
6. Chu Xuân Diên (1989), Truyện cổ tích trong con mắt các nhà khoa học,
NXB Đại học Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian - mấy vấn đề phương pháp
luận và nghiên cứu thể loại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
8. Nguyễn Đức Đạt (2010), Phong cách kể truyện cổ tích của Nguyễn Đổng
Chi trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ khoa học
Ngữ văn, trường ĐHSP Hà Nội.
9. Nguyễn Tấn Đắc (2006), Mô típ cái duy nhất, Tạp chí Nghiên cứu Văn
học (1), Hà Nội.
10. Nguyễn Tấn Đắc (2001), Truyện cổ dân gian đọc bằng tip và môtip,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình Văn học dân gian Việt Nam,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
12. Hà Minh Đức (2000), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
13. Nguyễn Xuân Đức (2003), Những vấn đề thi pháp Văn học dân gian,
85
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
14. G.N. Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học (tập 2), NXB Giáo
dục, Hà Nội.
15. Nguyễn Bích Hà (1991), Hình tượng rắn từ thần thoại đến truyện cổ
tích, Tạp chí Văn hóa dân gian (1), Hà Nội.
16. Nguyễn Bích Hà (1999), Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ ở Việt Nam
và Đông Nam Á, NXB Giáo dục, Hà Nội.
17. Nguyễn Thị Bích Hà (2005), Vận dụng lý thuyết so sánh, tìm hiểu kiểu
truyện người em trong truyện cổ tích Việt Nam và Châu Âu, Tạp chí
Nghiên cứu văn học, (4), Hà Nội.
18. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2011), Từ điển Thuật
ngữ Văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
19. Đặng Thị Thu Hà (2005), Kiểu truyện người lấy vật và sự phản ánh chủ
đề phong tục trong truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam, Luận văn Thạc
sĩ khoa học Ngữ văn, trường ĐHSP Hà Nội.
20. Phùng Thị Phương Hạnh (2011), Khảo sát truyền thuyết các dân tộc lưu
hành ở Yên Bái, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, trường ĐHSP Hà
Thái Nguyên.
21. Phạm Đức Hảo (1996), Suối nước mắt - Tập truyện dân gian các dân tộc
vùng Văn Chấn, NXB Văn hóa dân tộc.
22. Kiều Thu Hoạch (2004), Tổng tập Văn học dân gian người Việt, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
23. Kiều Thu Hoạch (2006), Văn học dân gian người Việt - góc nhìn thể
loại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Thị Huế (1997), Người mang lốt - môtíp đặc trưng của kiểu 24.
truyện cổ tích về nhân vật xấu xí mà tài ba, Tạp chí Văn học (3), Hà Nội.
25. Nguyễn Việt Hùng (2006), Tính hai mặt của không gian nghệ thuật
trong truyện cổ tích, Tạp chí Văn hóa dân gian (1), Hà Nội.
26. Nguyễn Việt Hùng (2011), Sự tích vọng phu và tín ngưỡng thờ đá ở Việt
86
Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
27. Đinh Gia Khánh (1999), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích
qua truyện Tấm Cám, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
Đinh Gia Khánh - chủ biên (2000), Văn học dân gian Việt Nam, NXB 28.
Giáo dục, Hà Nội.
29. Vũ Ngọc Khánh (1998), Truyện cổ tích trong phát triển, Tạp chí Văn
học (3), Hà Nội.
30. Minh Khương (1997), Nàng Nu - truyện cổ dân tộc Mông, NXB Văn hóa
dân tộc.
31. Nguyễn Xuân Lạc (1998), Văn học dân gian Việt Nam trong nhà trường,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
32. Phan Trọng Luận - chủ biên (2002), Ngữ văn 6 (tập 1), NXB Giáo dục,
Hà Nội.
33. Phan Trọng Luận - chủ biên (2006), Ngữ văn 10 (tập 1), NXB Giáo dục,
Hà Nội.
34. Nguyễn Hiền Lương - chủ biên (2008), Tài liệu Ngữ văn địa phương
Trung học cơ sở, Sở Giáo dục và Đào tạo Yên Bái.
35. Bùi Huy Mai (2004), Dân tộc và bản sắc văn hóa vùng Văn Chấn -
Mường Lò (tập 1), NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
36. Bùi Huy Mai (2009), Dân tộc và bản sắc văn hóa vùng Văn Chấn -
Mường Lò (tập 2), NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
37. Phương Lựu (2003), Lý luận Văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
38. Tăng Kim Ngân (1983), Về việc biên soạn từ điển “típ” và “môtíp”
trong ngành Folklore thế giới, Tạp chí Văn hóa dân gian (3+4), Hà Nội.
39. Tăng Kim Ngân (1991), Khái niệm cốt truyện và sự phân biệt giữa cốt
truyện của tác phẩm văn học thành văn với cốt truyện trong truyện cổ
dân gian, Tạp chí Văn hóa dân gian (3), Hà Nội.
40. Tăng Kim Ngân (1994), Cổ tích thần kỳ người Việt – Đặc điểm cấu tạo
87
cốt truyện, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
41. Nguyễn Thị Kim Ngân (2009), Sự dịch chuyển không gian trong truyện
cổ tích thần kỳ người Việt, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, trường
ĐHSP Hà Nội.
42. Trần Đức Ngôn (1990), Một số vấn đề lý luận chung quanh việc nghiên
cứu văn bản văn học dân gian, Tạp chí Văn hóa dân gian (3), Hà Nội.
43. Trần Đức Ngôn (1991), Lý thuyết hình thái học của V.Ia.Prop và truyện
cổ tích thần kỳ người Việt, Tạp chí Văn hóa dân gian (3), Hà Nội.
44. Trần Đức Ngôn (2000), Những đặc trưng của văn bản Văn học dân gian,
In trong cuốn “Góp phần nâng cao chất lượng sưu tầm, nghiên cứu văn
hóa văn nghệ dân gian”, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
45. Phan Đăng Nhật (1981), Phương pháp nghiên cứu Văn học dân gian
trong hệ thống của các tác phẩm, Tạp chí Văn học (5), Hà Nội.
46. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB
Văn hóa, Hà Nội.
47. Bùi Mạnh Nhị (1985), Tiếp cận văn hóa dân gian địa phương từ đặc
trưng của văn học dân gian, (3), Tạp chí Văn học, Hà Nội.
48. Bùi Mạnh Nhị - chủ biên (2003), Văn học Việt Nam - Văn học dân gian,
những công trình nghiên cứu, NXB Giáo dục, Hà Nội.
49. Võ Quang Nhơn (1983), Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt
Nam, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
50. E.M.Meletixki (1998), Nhân vật của truyện cổ tích thần kỳ (Nguồn gốc
và hình tượng), NXB Văn học Phương Đông, Matxcơva, (Tư liệu thư
viện Viện Văn học - Nguyễn Văn Dao, Phan Hồng Giang dịch), Hà Nội.
51. Lò Giàng Páo (1997), Tìm hiểu về văn hóa các dân tộc thiểu số, NXB
Văn hóa dân tộc Hà Nội.
52. Lê Trường Phát (2000), Thi pháp Văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội.
53. Nguyễn Hằng Phương (1987), Hình tượng người khổng lồ trong loại
hình tự sự dân gian các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc và Tây Bắc Việt
88
Nam, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, lưu trữ tại trường ĐHSP Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
54. Đặng Thị Oanh (2006), Giải mã biểu tượng Lanh trong dân ca dân tộc
Mông, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, trường ĐHSP Hà Nội.
55. Nguyễn Tấn Phát, Bùi Mạnh Nhị (1984), Nhân vật lí tưởng và cốt truyện
của truyện cổ tích thần kỳ, In trong cuốn “Văn học Việt Nam - Văn học
dân gian, những công trình nghiên cứu”, (2003), NXB Giáo dục, Hà Nội.
56. Lê Trường Phát (1987), Về hiện tượng xen kẽ giữa văn vần và văn xuôi
trong truyện kể dân gian, Tạp chí Văn học (4), Hà Nội.
57. Lê Trường Phát (1997), Thi pháp Văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Hoàng Phê (2002), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
58. Nguyễn Văn Quang (2004), Tiền sử và sơ sử Yên Bái, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
59. Hoàng Việt Quân, Lý Kim Hoa (2000), Một số nét đặc trưng các dân tộc
tỉnh Yên Bái, Xí nghiệp in Yên Bái.
60. Hoàng Việt Quân (2004), Tìm hiểu dân ca dân tộc Mông, NXB Văn hóa
dân tộc, Hà Nội
61. Hoàng Việt Quân (2010), Bốn tiên núi Hoàng Liên, NXB Hội nhà văn,
Hà Nội
62. Lê Chí Quế (2001), Văn hóa dân gian - Khảo sát và nghiên cứu, NXB
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
63. Lê Chí Quế (2001), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
64. Trần Hữu Sơn (1996), Văn hóa Mông, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
65. Trần Hữu Sơn (1997), Văn hóa dân gian Lào Cai, NXB Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
66. Chu Thái Sơn (2005), Người H’Mông, NXB Trẻ, Hà Nội.
67. Trần Đình Sử (1997), Dẫn luận Thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
68. Trần Đình Sử (2000), Mấy vấn đề thi pháp Văn học Trung đại, NXB
89
Giáo dục, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
69. Chu Thị Hà Thanh (1998), Truyện cổ tích thần kỳ với trẻ em, Tạp chí
Văn học giáo dục, Hà Nội.
70. Doãn Thanh (1997), Dân ca Mèo, NXB Văn học, Hà Nội.
71. Lê Thị Lệ Thanh (2010), Giải mã văn hóa một số hiện tượng hôn nhân
siêu nhiên trong truyện kể dân gian các dân tộc ít người, Luận văn Thạc
sĩ khoa học Văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
72. Hạng Thị Vân Thanh (2006), Đặc điểm nghệ thuật truyện cổ tích thần kỳ
của dân tộc Mông ở Hà Giang, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn,
trường ĐHSP Thái Nguyên.
73. Lê Bá Thảo (1997), Thiên nhiên Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật,
Hà Nội.
74. Hoàng Thị Thủy (2004), Khảo sát dân ca nghi lễ cúng ma dân tộc Mông,
Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, trường ĐHSP Hà Nội.
75. Hoàng Thị Thủy (2005), Nét đặc sắc trong dân ca nghi lễ cúng ma dân
tộc H’Mông, Tạp chí Văn hóa dân gian (2), Hà Nội.
76. Đặng Thái Thuyên (1983), Đề tài hôn nhân trong truyện cổ tích thần kỳ
Mường, Tạp chí Văn học (5), NXB Hà Nội.
77. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam (tập 1), NXB Giáo dục,
Hà Nội.
78. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học
dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội.
79. Vũ Anh Tuấn (1984), Suy nghĩ về một số biểu tượng đặc trưng trong
truyện cổ miền núi, Tạp chí Văn hóa dân gian (2), Hà Nội.
80. Vũ Anh Tuấn (1991), Tìm hiểu một cặp mẫu kể dân gian miền núi dưới
góc độ lợi hình, Tạp chí Văn học (4), NXB Giáo dục, Hà Nội.
81. Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Xuân Lạc (1993), Giảng văn Văn học dân gian
Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
82. Vũ Anh Tuấn - chủ biên (2012), Giáo trình Văn học dân gian, NXB
90
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
83. Hoàng Tiến Tựu (1983), Mấy vấn đề về phương pháp giảng dạy -
Nghiên cứu Văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội.
84. Hoàng Tiến Tựu (1992), Văn học dân gian Việt Nam (tập 2), NXB Giáo
dục, Hà Nội.
85. Hoàng Tiến Tựu (1997), Bình giảng truyện dân gian, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
86. Lê Trung Vũ (1974), Tính cách của các nhân vật dũng sĩ trong truyện cổ
dân tộc Mèo, Tạp chí Văn học (2), Hà Nội.
87. Lê Trung Vũ (1975), Truyện cổ Mèo, NXB Văn hóa, Hà Nội.
88. Lê Trung Vũ (1982), Hình tượng người mồ côi trong Văn học dân gian
Mèo, Tạp chí Văn học (4), Hà Nội.
89. Lê Trung Vũ, Võ Quang Nhơn (1982), Điều ước cuối cùng, NXB Kim
Đồng, Hà Nội.
90. Lê Trung Vũ (1984), Truyện cổ H’Mông, NXB Văn hóa, Hà Nội.
91. Lê Trung Vũ (1994), Tục ngữ và câu đố Mông, NXB Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
92. Trương Thị Xúng, Hoàng Quyết (1995), Truyện cổ dân tộc Mông, NXB
Văn học, Hà Nội.
93. Nhiều tác giả (2000), Góp phần nâng cao chất lượng sưu tầm, nghiên
cứu văn hóa, văn nghệ dân gian, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
94. V.E.Guxep (1990), Mỹ học folklore (Hoàng Ngọc Hiến dịch), NXB Đà
Nẵng.
95. Viện Văn hóa dân gian (1989), Văn hóa dân gian - những lĩnh vực
nghiên cứu, , NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
96. Viện Văn hóa dân gian (1990), Văn hóa dân gian - phương pháp nghiên
91
cứu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
Ruộng bậc thang La Pán Tẩn – Mù Cang Chải - Yên Bái
Ngày mùa ở Chế Cu Nha – Mù Cang Chải – Yên Bái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lễ hội đua ngựa ở Mù Cang Chải – Yên Bái
Thiếu nữ Mông ở Phình Hồ - Trạm Tấu – Yên Bái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bừa ruộng bậc thang ở La Pán Tẩn – Mù Cang Chải – Yên Bái
Thắng cố - Món ăn truyền thống của dân tộc Mông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ảnh tác giả chụp cùng gia đình nghệ nhân Lý Nủ Chu (xã La Pán Tẩn – Mù Cang Chải – Yên Bái)
Thi đẩy gậy ở Trạm Tấu – Yên Bái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Quang cảnh chòi Mông – Mù Cang Chải – Yên Bái
Trò chơi đánh quay của trẻ em dân tộc Mông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Giã bánh giày trong ngày hội văn hóa Mông ở Mù Cang Chải
Mùa lanh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ảnh tác giả đề tài chụp cùng gia đình nghệ nhân Giàng A Chư (xã La Pán Tẩn – Mù Cang Chải – Yên Bái)
Cây cầu chống bằng Xà beng ở Phình Hồ - Trạm Tấu – Yên Bái