intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Vấn đề ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Bình - Thực trạng và giải pháp

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:101

218
lượt xem
48
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ổn định chính trị - xã hội là một yêu cầu tất yếu trong sự tồn tại và phát triển của mọi xã hội. Lịch sử thế giới và Việt Nam đã minh chứng rõ điều đó. Trong mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, ở mỗi giai đoạn lịch sử, khi nào giai cấp thống trị, Đảng phải cầm quyền đưa ra được những chủ trương, giải pháp đúng, phù hợp quy luật và thâu phục được lòng dân, thì ở đó sẽ tạo ra được sức mạnh để bảo vệ và xây dựng quốc gia, dân tộc hòa bình...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Vấn đề ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Bình - Thực trạng và giải pháp

  1. LUẬN VĂN: Vấn đề ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Bình - Thực trạng và giải pháp
  2. mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài ổn định chính trị - xã hội là một yêu cầu tất yếu trong sự tồn tại và phát triển của mọi xã hội. Lịch sử thế giới và Việt Nam đã minh chứng rõ điều đó. Trong mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, ở mỗi giai đoạn lịch sử, khi nào giai cấp thống trị, Đảng phải cầm quyền đưa ra được những chủ trương, giải pháp đúng, phù hợp quy luật và thâu phục được lòng dân, thì ở đó sẽ tạo ra được sức mạnh để bảo vệ và xây dựng quốc gia, dân tộc hòa bình - ổn định và phát triển, và ngược lại, sẽ gây ra sự bất ổn định. Bất ổn định, chiến tranh và các cuộc xung đột sẽ đẩy lùi sự phát triển của quốc gia, dân tộc trong mỗi thời kỳ so với xu thế chung của thế giới. Những bất ổn định chính trị - xã hội Liên Xô và Đông Âu trong cuối những năm 80, đầu 90 đã đẩy các nước này đến đổ vỡ, chôn vùi thành quả của nhân dân trong mấy mươi năm. Vì vậy, ổn định tình hình chính trị - xã hội là mong muốn của mọi xã hội, của nhân dân. ở Việt Nam, qua mấy ngàn năm lịch sử, ngay cả trong các xã hội phong kiến, khi nào vua sáng, tôi hiền, lòng dân hòa thuận, đất nước yên bình, ổn định thì xã hội phát triển, nhân dân hòa mục, đời sống ấm êm, thái bình. Dân tộc ta đã từng trải qua nhiều cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giặc nội xâm và đã thấm đau bao cảnh tương tàn, tang tóc, mất mát, hy sinh, sức người, sức của. Vì vậy ngày nay, dân ta rất khát khao độc lập tự do, mong muốn mãi mãi được sống trong hòa hình, ổn định để xây dựng một đất nước có dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Điều đó chỉ thực hiện được trong tình hình xã hội ổn định. Đó không phải chỉ là mong muốn của Đảng ta, của Nhà nước ta, mà còn của cả dân tộc ta. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng, đất nước ta đã và đang thu được những thành tựu rất to lớn. Đó là việc Đảng ta đã đưa ra được đường lối chính trị đúng đắn, lãnh đạo Nhà nước và nhân dân ta giữ được ổn định chính trị - xã hội để xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhưng trong đó cũng còn tồn tại không ít các nhân tố tiềm ẩn những nguy cơ có thể gây bất ổn định, làm cản trở phát triển, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Những nhân tố ấy tồn tại trong tất cả các lĩnh vực
  3. của đời sống xã hội, trong những vấn đề vĩ mô và vi mô, ở mọi cấp độ từ trung ương xuống đến địa phương và cơ sở. Điểm nóng ở Thái Bình trong những năm 1996 - 1998 và ở nhiều nơi khác, vụ bạo loạn ở Tây Nguyên vừa qua đã minh chứng điều đó. Vì vậy, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là, để đất nước phát triển, để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, điều kiện tiên quyết là phải giữ vững được ổn định chính trị - xã hội trên phạm vi cả nước và ở mỗi địa phương. Thái Bình là một trọng điểm của các điểm nóng trong cả nước những năm 1996-1998. Trong những năm qua Thái Bình đã đẩy lùi trạng thái bất ổn định, đang từng bước đi lên. Song bên cạnh những mặt tích cực trong đời sống chính trị, trong phát triển kinh tế - xã hội, vẫn còn nhiều điều bức xúc cần giải quyết, cần có những giải pháp khả thi để ngăn chặn, đẩy lùi những nhân tố có khả năng dẫn tới tái phát bất ổn định có thể xảy ra. Trên ý nghĩa đó, tôi chọn "Vấn đề ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Bình - Thực trạng và giải pháp" làm đề tài luận án thạc sĩ khoa học chính trị, khóa đào tạo năm 2002-2004, mã số 60.31.20. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong các văn kiện của Đảng, những chủ trương chính sách của Nhà nước trong thời kỳ đổi mới, nhiều chỗ nhấn mạnh đến vấn đề ổn định chính trị - xã hội. Đề ra những quyết sách lớn, Đảng ta đều phân tích sâu sắc tình hình chính trị - xã hội trên thế giới, trong nước và đánh giá thực trạng của giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Các chủ trương, chính sách của Nhà nước đều hướng tới mục tiêu đảm bảo cho đất nước giữ vững được ổn định chính trị - xã hội để đất nước phát triển. Do vậy, đường lối chính trị của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước đã trở thành cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu ổn định chính trị - xã hội. ở nước ta, đã có một số công trình, bài viết về vấn đề ổn định (bất ổn định) chính trị - xã hội, nhất là từ sau khi xảy ra các điểm nóng chính trị ở nhiều nơi, đặc biệt ở Thái Bình, trong đó một số luận văn tốt nghiệp cao cấp lý luận, cử nhân, hoặc luận văn thạc sĩ.
  4. Liên quan đến đề tài điểm nóng, mất ổn định chính trị - xã hội đã có một số tác phẩm tiêu biểu như: - "Tổng kết thực tiễn về xử lý điểm nóng chính trị - xã hội" do GS. Lê Hữu Nghĩa làm chủ nhiệm, GS. Lưu Văn Sùng làm phó chủ nhiệm. - GS. Hoàng Chí Bảo: "Bước đầu khái quát lý luận về điểm nóng, điểm nóng chính trị -xã hội". - Viện Khoa học Chính trị đã có tập bài giảng về "Xử lý tình huống chính trị" giành cho hệ cử nhân và hệ cao học. - Các bài viết của GS. TS Lưu Văn Sùng, GS.TS Hoàng Chí Bảo trên "Thông tin chính trị học" có nội dung khái quát lý luận về điểm nóng chính trị - xã hội, liên quan đến việc mất ổn định chính trị - xã hội ở địa bàn một số tỉnh ở nước ta. - Nguyễn Thị Mai Anh: "Điểm nóng chính trị - xã hội ở nông thôn đồng bằng sông Hồng - Nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm", Luận văn thạc sĩ Chính trị học. - Lê Văn Đính: "Vấn đề điểm nóng tôn giáo ở Thừa Thiên - Huế với việc giữ vững ổn định chính trị trong công cuộc đổi mới hiện nay" - Luận văn thạc sĩ chính trị học, năm 1998. Tác giả đã từ cơ sở lý luận và thực trạng mà tổng kết một số kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp nhằm ngăn ngừa, xử lý một cách có hiệu quả "điểm nóng" tôn giáo để giữ vững ổn định chính trị trong công cuộc đổi mới hiện nay. Các công trình khoa học về điểm nóng chính trị trên đây đã phân tích khá sâu về nội dung, đặc điểm, những tác động xấu và các giải pháp khắc phục điểm nóng - một biểu hiện của bất ổn định chính trị - xã hội ở các địa phương trong những năm qua. - TS. Nguyễn Văn Vĩnh và tập thể các nhà khoa học với đề tài khoa học cấp bộ, 2003, về "Những nhân tố có thể dẫn đến bất ổn định chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay". Đề tài này đã đạt những kết quả khá sâu về nội dung khái niệm bất ổn định chính trị, những nhân tố ảnh hưởng, những yếu tố có thể dẫn đến bất ổn định chính trị - xã hội và các giải pháp khắc phục trên các lĩnh vực ở nước ta hiện nay.
  5. - Howrd Wiauch: "Chính trị so sánh" (bản dịch tiếng Việt), Hoa kỳ 1987. Trong tác phẩm này có một nội dung quan trọng là so sánh các nền chính trị dân chủ thông qua tiêu chí về ổn định chính trị. Tác giả đã đề cập đến một số nội dung cần tiếp cận về ổn định và ổn định chính trị. Tóm lại, các bài viết, các luận văn trên đã đi sâu nghiên cứu và vạch ra những nội dung ở tầm khái quát cao về mặt lý luận về điểm nóng và bất ổn định chính trị - xã hội. Tuy nhiên, việc nghiên cứu lý luận toàn diện về ổn định chính trị - xã hội và giải pháp giữ vững ổn định chính trị - xã hội sau khi điểm nóng đã được giải quyết trên địa bàn của một tỉnh thì chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách hệ thống. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn a) Mục đích Trên cơ sở phân tích lý luận phạm trù ổn định chính trị, làm rõ những thành tựu, những hạn chế tiềm ẩn nguy cơ có thể gây bất ổn định trên địa bàn tỉnh Thái Bình, luận văn xây dựng hệ thống phương thức, giải pháp khả thi nhằm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, coi đó như là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thắng lợi vào sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng trên địa bàn của tỉnh Thái Bình và rộng ra là với cả nước. b) Nhiệm vụ Đề tài nhằm làm rõ nội dung ổn định chính trị - xã hội với tư cách là phạm trù khoa học chính trị và vai trò của nó trong hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt là ở cơ sở. Cụ thể: - Làm sáng tỏ nội dung, cấu trúc của khái niệm ổn định chính trị - xã hội và vai trò của nó trong đời sống xã hội. - Làm rõ thực trạng tình hình chính trị - xã hội ở Thái Bình trong những năm sau khi xảy ra điểm nóng (sau 1997 - 1998). Tìm những nguy cơ tiềm ẩn gây mất ổn định.
  6. - Đưa ra hệ thống những giải pháp nhằm giữ vững ổn định chính trị -xã hội, từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức nhằm ổn định tình hình chính trị - xã hội để phát triển kinh tế - xã hội nhằm đẩy mạnh công cuộc đổi mới trên địa bàn tỉnh Thái Bình. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Bình có đặc trưng sản xuất nông nghiệp là chính, kinh tế kém phát triển đang vận động đi lên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng của việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Bình sau khi xảy ra "điểm nóng" chính trị - xã hội (1997 - 1998) đến nay. Từ đó nêu những giải pháp cơ bản để tiếp tục giữ vững ổn định chính trị - xã hội hiện nay và những năm tiế theo. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đề tài cũng sử dụng rộng rãi các phương pháp nghiên cứu tổng hợp- diễn dịch, phương pháp phân tích, gắn lý luận với thực tiễn, đặc biệt là phương pháp so sánh- phương pháp quan trọng của chính trị học. Đề tài sử dụng những số liệu báo cáo tổng kết, các số liệu thống kê đã được thẩm định... để thực hiện những nội dung của đề tài. 6. Đóng góp mới về lý luận và thực tiễn của luận văn Đề tài tập trung làm rõ những quan điểm lý luận về ổn định chính trị - xã hội và hệ thống các giải pháp khả thi qua nghiên cứu từ thực tiễn quá trình giữ vững ổn định chính trị xã hội sau điểm nóng ở một tỉnh kinh tế kém phát triển đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 7. ý nghĩa của luận văn
  7. - Đề tài góp phần làm rõ nội dung lý luận về ổn định nói chung và về ổn định chính trị - xã hội nói riêng - một vấn đề quan trọng trong khoa học chính trị. - Sau khi hoàn thành, có thể sử dụng luận án làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy các khoa học chính trị, nhất là môn chính trị học. Có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong đổi mới kinh tế- xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Bình. 8. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung luận án bao gồm 3 chương, 7 tiết.
  8. Chương 1 Nội DUNG, VAI Trò Của ổn định chính trị - xã hội TRONG GIAI Đoạn Đẩy Mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Nước TA 1.1. Nội dung phạm trù chính trị - xã hội Phạm trù "chính trị - xã hội" được sử dụng phổ biến trong nhiều văn kiện chính trị. Tuy nhiên chưa có mấy các nhà khoa học bàn đến nội dung khái niệm này một cách đầy đủ. Theo tôi, để tiếp cận với khái niệm "chính trị - xã hội", cần tiếp cận nội dung các thuật ngữ chính trị và xã hội. 1.1.1. Nội dung chính trị a) Nội dung chính trị Chính trị là một hiện tượng xã hội đặc biệt, xuất hiện khi xã hội phân chia thành các giai cấp, và sự xuất hiện nhà nước. Có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung chính trị. Có học giả xem chính trị là một "nhà hát". Trong "nhà hát" này có vở diễn, nghệ sĩ, người xem, sự bài trí sân khấu và nhà phê bình. Vì thế, Platon coi chính trị là vấn đề mang tính nghệ thuật, giống như nghệ thuật là tính vốn có của nhà hát nói chung. Mặt khác, vì là "nhà hát chính trị" nên ngoài những đặc điểm mang tính phổ biến, nó còn có những điểm riêng biệt của mình. Học giả Max Weiber xem chính trị là khát vọng tham gia vào quyền lực hay ảnh hưởng đến sự phân chia quyền lực giữa các tập đoàn người trong một quốc gia hoặc giữa các quốc gia. Cũng có một số học giả lại xem chính trị chỉ là thủ đoạn, là những mưu đồ nhằm đạt tới quyền lực của cá nhân, của phe nhóm. Những quan điểm này có chứa đựng một số nhân tố hợp lý, nhưng chưa làm rõ những nội dung căn bản của chính trị. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã có quan niệm khoa học về chính trị. Những người mác-xít cho rằng phải xem xét chính trị trong quan hệ với giai cấp, với lợi ích giai cấp và với nhà nước cùng thiết chế chính trị bảo đảm hiện thực hóa những nhu cầu của các lực lượng tham gia vào đời sống chính trị.
  9. Xét về bản chất, chính trị có nguồn gốc từ kinh tế, là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, là kinh tế cô đọng lại. Đây là luận điểm mang tính duy vật về chính trị, bởi vì chính trị không phản ánh nhu cầu kinh tế ngẫu nhiên mang tính chất đơn nhất, mà nó phản ánh tính tất yếu khách quan của kinh tế. V.I. Lênin đã chỉ rõ: "Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế...chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế" [26, tr. 349]. So với kinh tế, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu, vì khi giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị của giai cấp cầm quyền phải định hướng vào việc bảo vệ và phát triển cơ sở kinh tế của mình dựa trên việc củng cố quyền lực chính trị. Cho dù xét đến cùng, kinh tế tuy là điểm xuất phát và là mục tiêu của chính trị, nhưng chính trị đến lượt nó là tiền đề để thực hiện các lợi ích kinh tế. Trong các quan hệ chính trị, quan hệ giữa các giai cấp là quan hệ cơ bản. Đó là biểu hiện các quan hệ mang tính bản chất của đời sống chính trị. Chính trị có quan hệ hữu cơ với lợi ích các giai cấp, các lực lượng, các quốc gia, dân tộc. Nhưng do vị trí khác nhau trong hệ thống sản xuất của xã hội, các giai cấp có lợi ích khác nhau. Việc thỏa mãn các nhu cầu lợi ích của mỗi lực l ượng do địa vị chính trị của nó quy định, và cái quyết định nhất là vị trí của các lực lượng ấy đối với chính quyền như thế nào. Do vậy, hướng đến nắm quyền lực chính trị là khát vọng. V.I. Lênin đã nhấn mạnh rằng, lợi ích kinh tế cơ bản của giai cấp công nhân chỉ được thỏa mãn nhờ giai cấp công nhân tiến hành cuộc cách mạng chính trị giành lấy chính quyền từ tay các giai cấp bóc lột. Chúng tôi tán thành các quan điểm cho rằng, chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, giữa các quốc gia có liên quan tới vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, được quy định bởi những lợi ích cơ bản của giai cấp, của các lực lượng chính trị, là vấn đề công việc chính quyền. Chính trị theo nguyên nghĩa của nó, là những công việc của nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Cái quan trọng nhất của chính trị, theo Lênin là "tổ chức chính quyền nhà nước". Chính trị là sự tham gia của nhân dân vào công việc của nhà nước, các định
  10. hướng của nhà nước, xác định hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước... Bất kỳ vấn đề xã hội nào cũng mang tính chính trị vì việc giải quyết nó, trực tiếp hay gián tiếp đều gắn với lợi ích giai cấp, với vấn đề quyền lực. b) Cấu trúc chính trị Để hiểu được nội dung của chính trị, cần thiết phải tìm hiểu các nhân tố cấu thành của chính trị. Cho đến nay, trong lý luận chính trị hiện đại, khi xác định cấu trúc chính trị còn có nhiều ý kiến khác nhau. đáng chú ý là quan điểm cho rằng cần xem xét cấu trúc chính trị trên hai phương diện: Phương diện thứ nhất - Coi chính trị với tư cách là những quan hệ đặc biệt, thì cấu trúc chính trị bao gồm: - Quan hệ giữa công dân với nhà nước. - Quan hệ giữa các tập đoàn, các giai cấp khác nhau với vấn đề nhà nước. - Quan hệ giữa các dân tộc khác nhau với nhà nước. - Quan hệ giữa các quốc gia khác nhau thông qua nhà nước. Phương diện thứ hai - Coi chính trị với tư cách là một hoạt động xã hội đặc thù - Cấu trúc của chính trị sẽ bao gồm: - Mục tiêu hoạt động chính trị của các chủ thể. - Phương pháp, phương tiện hoạt động chính trị. - Những hình thức tổ chức hoạt động chính trị, các thiết chế chính trị nhằm đạt tới mục tiêu. - Những lực lượng xã hội chính trị và hình thức tổ chức các lực lượng đó nhằm đạt mục tiêu. - Nhà chính trị, những chính khách thực hiện nhiệm vụ chính trị. - Hoạt động chính trị thực tiễn nhằm hiện thực hóa mục tiêu đã đặt ra.
  11. Cách xác định cấu trúc chính trị trên đây có ưu điểm bao quát và chi tiết hóa được hầu hết các nhân tố của chính trị. Tuy nhiên, nếu xem xét nh ư vậy, có phần chia tách các yếu tố của chính trị, trong khi chính trị là một chính thể, là một hệ thống. Theo tôi, có thể xác định cấu trúc chính trị bao gồm: Một là, ý thức chính trị, các mục tiêu lý tưởng chính trị - biểu hiện tư tưởng, chính trị thông qua sự nhận thức và phương hướng hoạt động chính trị của các chủ thể tham gia vào đời sống chính trị. Xét về mức độ phản ánh, ý thức chính trị có hai cấp độ liên quan với nhau một cách biện chứng: trình độ lý luận và trình độ kinh nghiệm. ý thức chính trị dưới góc độ trình độ lý luận thể hiện ở khả năng nắm bắt các yếu tố khách quan chi phối đời sống xã hội và khả năng đáp ứng các yêu cầu của quy luật khách quan, là khả năng nhận thức lý luận chính trị, cương lĩnh - đường lối chính trị, mục tiêu lý tưởng chính trị của mỗi lực lượng chính trị, là trình độ, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn chính trị. Hai là, hệ thống chính trị, bao gồm các tổ chức chính trị (các đảng phái chính trị, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội khác) gắn liền với những thể chế chính trị tương ứng. Sự hoạt động của tất cả các nhân tố cấu trúc hệ thống chính trị hướng trọng tâm vào thực hiện quyền lực nhà nước. Vị trí của mỗi hệ thống chính trị đối với vấn đề chính quyền do tương quan so sánh lực lượng giữa các giai cấp, các lực lượng trong xã hội quy định. Bà là, các quan hệ chính trị được hình thành do sự tác động qua lại giữa các chủ thể chính trị (nhóm, tầng lớp xã hội, giai cấp, dân tộc, quốc gia...). Các quan hệ chính trị phản ánh các quan hệ kinh tế và các quan hệ xã hội khác, nhưng có vai trò chi phối các quan hệ kinh tế và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ chính trị có thể hình thành dưới hình thức liên minh hợp tác đấu tranh, hoặc xung đột xung quanh các công việc chính quyền. Sự vận động của các quan hệ chính trị là sự vận động liên tục, thể hiện thông qua những sự kiện, những biến cố chính trị trong từng giai đoạn khác nhau, khi thì sôi động quyết liệt, khi thì trầm lắng êm ả. Thời kỳ mà đời sống chính trị êm ả là thời kỳ ổn định, và ngược lại thời kỳ có nhiều biến cố xung đột, mâu thuẫn gay gắt là thời kỳ bất
  12. ổn định. Thực trạng chính trị ổn định hay bất ổn định do nhiều yếu tố chính trị - kinh tế - xã hội chi phối. Điều đó tùy thuộc trước hết bởi chính thể chế chính trị đương thời, bởi hệ thống chính trị, bởi phẩm chất, năng lực, bản lĩnh của các chủ thể chính trị cầm quyền. Trên ý nghĩa đó, Lênin cho rằng: "Chính trị là khoa học và nghệ thuật". 1.1.2. Nội dung vấn đề xã hội Xã hội là những cộng đồng người. Con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Do đó, xã hội là một khái niệm để chỉ rõ: Thứ nhất: Xã hội trước hết nói đến một cộng đồng dân cư sống trong một phạm vi ranh giới địa lý - lãnh thổ. Thứ hai: Nói xã hội không thể không nói đến các hoạt động của con người liên quan tới các quá trình sản xuất (sản xuất theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất và các hoạt động dịch vụ, nghiên cứu khoa học). Các hoạt động đó lại gắn liền với các hoạt động văn hóa, tinh thần, tâm linh của con người, của cộng đồng người. Thứ ba: Sự tồn tại của xã hội có giai cấp, tất yếu gắn liền với đời sống chính trị, cả xã hội bị lôi cuốn vào guồng máy chính trị (chính thể, đường lối, thiết chế, con người chính trị...). C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh: "Xã hội không phải gồm các cá nhân, mà xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan h ệ của các cá nhân đối với nhau". Theo C.Mác, "xã hội - cho dù nó có hình thức gì đi nữa - là cái gì? Là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người" [34, tr. 657]. Nhân loại đã trải qua nhiều kiểu xã hội. Nếu lấy đặc trưng sản xuất thì nhân loại đã trải qua xã hội săn bắn, xã hội làm vườn, xã hội nông nghiệp, xã hội công nghiệp. Nếu căn cứ vào hình thái thì có các xã hội nô lệ, phong kiến, tư bản và xã hội xã hội chủ nghĩa. Nếu căn cứ vào chính thể thì có các xã hội chính thể quân chủ, độc tài, dân chủ... Mỗi xã hội tồn tại như những nấc thang của sự phát triển xã hội. Nền tảng chung của các cơ cấu cụ thể này là những mối quan hệ sản xuất vật chất, những mối quan hệ kinh tế giữa người và người, trên đó sẽ hình thành một thượng tầng kiến thức phù hợp.
  13. C.Mác cho rằng, "tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội, là xã hội và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo riêng biệt... một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại" [30, tr. 553]. Mỗi xã hội đều được đặc trưng bởi một tổng thể các quan hệ sản xuất. Nhưng quan hệ sản xuất chỉ là cái biểu hiện bên ngoài, là hình thức xã hội của một phương thức sản xuất nhất định. Cái quyết định nội dung của nó lại chính là lực lượng sản xuất - trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là quan hệ biện chứng, chúng luôn quy định và chế ước nhau, trong đó lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định. Xã hội với tư cách là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người và người cũng được hình thành một cách khách quan và tất yếu. Sự vận động, biến đổi và phát triển của xã hội phải tuân theo những quy luật nội tại vốn có của nó, trước tiên là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất vào trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, làm cơ sở cho một chế độ chính trị nhất định [20, tr. 401]. Từ những lý giải trên, có thể quan niệm về xã hội như sau: Xã hội, theo nghĩa rộng nhất là một khái niệm phản ánh các hoạt động và các mối quan hệ giữa con người với con người trên mọi lĩnh vực ở một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Một xã hội xác định vận động, phát triển theo những quy luật nội tại, trước tiên là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng. Theo nghĩa rộng khái niệm xã hội rộng bao quát các hoạt động của con người, bao trùm cả khái niệm chính trị. Nhưng theo nghĩa hẹp, khái niệm xã hội dùng chỉ một lĩnh vực của hoạt động của con người. Khái niệm này ngang cấp với khái niệm chính trị, kinh tế, văn hóa... đó là khái niệm xã hội theo nghĩa hẹp, phản ánh những quan hệ, những hoạt động, những mặt cụ thể hơn của đời sống xã hội, như vấn đề việc làm và thu nhập, giáo dục và đạo đức, y tế và sức khỏe, giàu và nghèo, phong tục và tập quán, công bằng và bình đẳng xã hội, dân tộc và tôn giáo...
  14. Do vậy, hiểu quan niệm về xã hội cần phải hiểu theo cả nghĩa rộng (gồm nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa...) và cả là vấn đề xã hội theo nghĩa hẹp. ở luận văn này, khái niệm xã hội sử dụng cả theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp khi đề cập đến vấn đề chính trị - xã hội và ổn định chính trị - xã hội. 1.1.3. Nội dung chính trị - xã hội Trong các công trình nghiên cứu, những văn kiện chính trị thuật ngữ chính trị - xã hội được dùng phổ biến. Tuy nhiên cho đến nay chưa có một định nghĩa khoa học nào về thuật ngữ này. Có quan điểm khẳng định, các quan hệ xã hội trong xã hội có giai cấp đều có tính chất chính trị nên gọi là các quan hệ chính trị - xã hội. Cách giải thích này đã cho chúng ta hiểu được phần nào khái niệm chính trị - xã hội. Tuy vậy, theo chúng tôi, cần phân tích rõ hơn về khái niệm chính trị - xã hội thông qua việc phân tích mối quan hệ giữa chính trị và xã hội. Chính trị là một bộ phận nằm ở thượng tầng kiến trúc của một hình thái kinh tế - xã hội. Chính trị có ảnh hưởng rất lớn đối với các yếu tố khác ở thượng tầng kiến trúc như pháp luật, tôn giáo, văn nghệ... và đối với cơ sở kinh tế. Chính trị bị chi phối bởi kinh tế, chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng. Nhưng chính trị lại tác động đến cơ sở kinh tế và các lĩnh vực khác của kiến trúc thượng tầng. Những mối quan hệ đó biểu hiện ra như là các mối quan hệ nhân - quả. Sự tác động của chính trị đến các quan hệ xã hội có thể trực tiếp có thể gián tiếp, có thể tác động tích cực hoặc ngược lại. Như vậy, trong xã hội có giai cấp, nhân tố chính trị thâm nhập vào nhân tố xã hội, và nhân tố xã hội cũng thâm nhập vào nhân tố chính trị. Các quan hệ xã hội tốt đẹp sẽ làm cho chính trị bền vững, các quan hệ xã hội rối loạn sẽ làm cho kinh tế bị kìm hãm, xã hội mất ổn định và chính trị có thể bị lung lay. Do mối quan hệ khăng khít giữa chính trị với những vấn đề xã hội, cho nên trong các xã hội khác nhau thì chính trị - xã hội có những biểu hiện khác nhau, mang bản chất khác nhau. Điều đó do bản chất chính trị của các giai cấp nắm quyền chi phối. Trong các xã hội do các giai cấp bóc lột cầm quyền, chính trị - xã hội nhằm phục vụ củng cố quyền lực của số ít, và phục vụ cho lợi ích của số ít người. Trái lại trong chủ
  15. nghĩa xã hội, chính trị - xã hội nhằm củng cố quyền lực của nhân dân lao động và phục vụ cho lợi ích của đa số nhân dân. Từ việc phân tích trên, ta có khái niệm như sau: Chính trị - xã hội là khái niệm phản ánh mối quan hệ mật thiết giữa mặt xã hội nói chung với vấn đề chính trị. Khái niệm chính trị- xã hội vừa chỉ một xã hội với tổng thể các mối liên hệ của xã hội, vừa biểu thị một chế độ chính trị - xã hội. 1.2. Quan niệm về ổn định chính trị - xã hội và những nhân tố ảnh hưởng 1.2.1. Quan niệm về ổn định Thuật ngữ ổn định được dùng khá phổ biến trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như ổn định đời sống, ổn định gia đình, ổn định thu nhập, ổn định kinh tế... Nó được xác định trong một hoàn cảnh nhất định về trạng thái của sự vật. Dưới góc độ triết học, thuật ngữ ổn định phản ánh trạng thái trong quá trình vận động của sự vật. Thế giới vật chất luôn vận động không ngừng, trong đó bao hàm cả hiện tượng đứng im tương đối. Sự vật tồn tại trong sự đứng im tương đối. "Trong vận động của các thiên thể, có sự vận động trong cân bằng và có cân bằng trong vận động (một cách tương đối). Nhưng bất kỳ vận động tương đối, riêng biệt nào cũng đều có xu hướng khôi phục lại sự đứng yên tương đối - sự cân bằng tương đối. Khả năng đứng yên tương đối của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu của sự phân hóa vật chất" [32, tr. 740]. Ăngghen đã chỉ rõ: Mọi sự cân bằng chỉ là "tương đối" và "tạm thời" trong sự vận động tuyệt đối và vĩnh viễn của thế giới vật chất. ổn định phải được xem là mặt "nhất thời" của trạng thái vận động, phát triển. C. Mác nhấn mạnh: "Trong quan niệm tích cực về cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó, về mỗi hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó" [33, tr. 35].
  16. Như vậy, trạng thái ổn định nhất thời của sự vật có hai mặt: mặt khẳng định và mặt phủ định. Hai mặt này có sự tác động qua lại với nhau. Do đó là mối quan hệ biện chứng của sự vật, làm cho sự vật tồn tại trong thế "nó vừa là nó" lại "không phải là nó". Nói đến ổn định là nói đến trạng thái đối lập với rối loạn, khủng hoảng. Đồng thời trạng thái ổn định này cũng xa lại với sự tĩnh lặng hoàn toàn hay bất biến, cố định tuyệt đối. ổn định không làm triệt tiêu hay kìm hãm sự vận động, phát triển mà có quan hệ mật thiết với vận động, phát triển. Mặt ổn định của sự vật là điều kiện để sự vật tự khẳng định, tự định hình, đồng thời là môi trường tốt để cho các thuộc tính, các mặt bên trong sự vật tiến hành quá trình chuyển hóa biến đổi. Nhờ có trạng thái ổn định, sự vật trong quá trình vận động sẽ biến đổi từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ mức độ bấp bênh, không chắc chắn đến mức độ bền vững. Từ ý nghĩa đó, ta thấy: ổn định là một dạng đặc biệt của vận động, phát triển. Vận động, phát triển là quá trình thay đổi các trạng thái ổn định của sự vật. ổn định gắn với phát triển, đồng nghĩa với phát triển. Không có ổn định thì không có sự phát triển, nhưng không phát triển thì cũng khó duy trì ổn định được lâu dài và vững chắc. Như vậy, ổn định và biến đổi vừa là tiền đề, là điều kiện cho nhau, vừa là nhân và quả cho nhau, là thể hiện mối quan hệ giữa vận động và đứng im. Ta có thể rút ra kết luận: ổn định chỉ một trạng thái của tự nhiên, xã hội, tư duy trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Xétcả về thực tiễn và lý luận thì ổn định mang tính tương đối vì nó chính là sự vận động trong những mâu thuẫn, trong sự thống nhất của các mặt đối lập và cũng là sự thống nhất tương đối. ổn định chính trị - xã hội, cũng vậy, không phải là trạng thái đứng yên, trì trệ mà là trạng thái động, phát triển. Đó là trạng thái của quá trình thường xuyên giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh về chính trị - xã hội, về kinh tế, văn hóa trong nội bộ nhân dân và trong hệ thống chính trị. Trong xã hội, quy luật lực lượng sản xuất luôn quy định quan hệ sản xuất. Nói cách khác, quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất vào tính chất và trình độ của lực
  17. lượng sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng chính trị, giữa kinh tế với văn hóa trong sự phát triển đều mang ý nghĩa tương đối. Nó luôn có xu hướng bị phá vỡ bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển khách quan, liên tục của lực lượng sản xuất đã làm cho mọi sự phù hợp của các nhân tố xã hội sẽ phá vỡ sự cân bằng, sự phù hợp trước đó để tạo ra sự cân bằng mới, tức là sự ổn định ở mức độ cao hơn. Với từng lát cắt ở bình diện ổn định tư tưởng, ổn định các quan hệ chính trị xã hội, ổn định hệ thống chính trị của xã hội chúng ta sẽ thấy điều này rõ hơn. Trong xã hội có các giai cấp, các tầng lớp khác nhau, nhưng chịu sự chi phối của hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Nếu tư tưởng của giai cấp thống trị phù hợp với xu thế khách quan, phù hợp với lợi ích xã hội... sẽ tạo ra sự ổn định chính trị - xã hội. Nhưng sự ổn định về chính trị của xã hội chỉ là trạng thái tạm thời, tương đối. Sự ổn định này có thể bị phá vỡ nếu như có sự mâu thuẫn về lợi ích của các giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, hệ thống chính trị do giai cấp thống trị lập ra để bảo vệ lợi ích cho giai cấp ấy. Nếu như giai cấp thống trị bảo đảm lợi ích cho toàn xã hội thì hệ thống chính trị sẽ hoạt động bình thường, ổn định. Ngược lại, nếu nó xem nhẹ, chà đạp lên lợi ích xã hội thì sẽ xuất hiện những mâu thuẫn, làm cho hệ thống chính trị, chế độ chính trị - xã hội không còn hoạt động trong trạng thái ổn định. Chính trị- xã hội có thể bị rối loạn. 1.2.2. Quan niệm về ổn định chính trị - xã hội Trong các văn kiện chính trị, thuật ngữ "ổn định chính trị - xã hội" được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên, chưa có một định nghĩa đầy đủ thuật ngữ này. Để hiểu rõ nội hàm của phạm trù ổn định chính trị - xã hội cần tiếp cận trên những góc độ sau. Có thể nói, khái niệm "ổn định chính trị" tưởng như là một vấn đề đơn giản, nhưng thật ra, đây cũng là vấn đề có nội dung phức tạp cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Bởi, nói đến ổn định của một thể chế nào đó là nói đến cái khả năng của thể chế đó có thể tồn tại một cách nguyện vẹn hay không. Nhưng đến lượt nó, khả năng này lại phụ thuộc vào khả năng đối phó, giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề đang đặt ra trước thể chế đó có được linh động, mềm dẻo hay phải dùng các giải pháp bạo lực cứng rắn trước những biến cố xã hội hay không.
  18. Để làm rõ khái niệm ổn định chính trị - xã hội, cần thiết phải làm rõ nội dung khái niệm "nguyên vẹn" và chỉ ra được cách đo lường khả năng (nhiều hay ít) tồn tại của một thể chế? Theo tôi, có thể đánh giá trên các tiêu chí sau đây: - Tiêu chí thứ nhất: Sự ổn định của hệ thống chính trị (political system). Đối với các thể chế có tính lịch sử, tức là nó xuất hiện và biến mất thì tính ổn định có thể đơn giản được đo bằng khoảng thời gian nó tồn tại. Nhưng đối với một chế độ xã hội (một chế độ xã hội - một thể chế "Liên tiến" như xã hội tư bản Mỹ, Pháp, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam...) thì vấn đề không giản đơn như vậy. Ngay cả khi chúng ta đo lường tính ổn định của một chế độ xã hội theo cách lấy thước đo sự tồn tại của chế độ đó được bao lâu theo những thông số xác định nào đó, thì chúng ta vẫn thấy rằng tất cả các chế độ xã hội đều tồn tại lâu hơn sự tồn tại của tất cả các hệ thống chính trị của mỗi chế độ xã hội. Như vậy, tốt nhất là coi khái niệm "ổn định chính trị - xã hội" như là một khả năng mà một thể chế có thể kéo dài sự tồn tại của mình. Cũng có một khuynh hướng nghiên cứu khác coi khái niệm "ổn định chính trị" như là một khái niệm đa chiều, được tổng hợp lại từ những tư tưởng thường được sử dụng trong chính trị học so sánh như: Sự duy trì hệ thống, trật tự công dân, tính chính thống và tính hiệu quả. Điều chắc chắn là, khi bạo lực gia tăng ở mức độ cao, tính chính thống của thể chế đó bị hạ thấp và bộ máy nhà nước vận hành kém hiệu quả thì ít có khả năng duy trì một sự ổn định. Do vậy, có thể dùng tiêu chí này làm tiền đề để so sánh tính ổn định chính trị của mỗi xã hội và giữa các xã hội. Cũng có trường hợp hiệu lực của một thể chế ở mức thấp, nhưng bạo lực có thể ở mức cao, mặc dầu vậy chế độ chính trị - xã hội vẫn bền vững. Điều này xảy ra khi nhà nước có một tiềm năng thúc đẩy được những mối liên hệ mạnh mẽ giữa những nhóm quyền lực trong xã hội, hoặc khi những nhóm chính trị, kinh tế, xã hội cơ bản không coi sự thay đổi thể chế là có lợi cho họ. (thí dụ, phải sử dụng bạo lực trấn áp trong vấn đề bất ổn định ở Tây nguyên, nhưng chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta vẫn bền vững).
  19. Có thể nói rằng: khái niệm về tính ổn định của các hệ thống chính trị - xã hội, mặc dù có thể cảm nhận được bằng kinh nghiệm, song đến tận bây giờ, khái niệm này vẫn chưa trở thành một luận điểm xuất phát có tính thuyết phục trong việc phân tích tính ổn định của một chế độ xã hội. - Tiêu chí thứ hai: Về sự vận hành của hệ thống chính trị (System performance). Chúng ta có thể sử dụng khái niệm "sự vận hành hệ thống" như là một tiền đề lý luận nghiên cứu tính ổn định của hệ thống chính trị. Các mâu thuẫn khác nhau về các hệ thống chính trị giải quyết những khía cạnh khác nhau trong sự vận hành của các nền chính trị và điều này được đo lường bởi những biến cố về những kết quả của quá trình chính trị và quá trình kinh tế - chính trị. ở đây cần chú ý một số vấn đề: - Thứ nhất: Việc sử dụng khái niệm "Sự vận hành hệ thống" không có nghĩa là từ bỏ vấn đề về tính ổn định của hệ thống, cũng không có nghĩa là việc xem xét tính ổn định chính trị - xã hội không căn cứ vào thời gian tồn tại nguyên vẹn của hệ thống chính trị. - Thứ hai: Nói sự vận hành của hệ thống là nhấn mạnh đến khả năng cũng như thực hiện phối hợp giữa các yếu tố của hệ thống (giữa đảng chính trị- nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội). Một xã hội ổn định là xã hội có đủ khả năng điều chỉnh các hoạt động của hệ thống chính trị cho phù hợp với những thách thức mà nó phải đương đầu. - Thứ ba: Xem xét tính ổn định chính trị - xã hội về mặt vận hành hệ thống cần thiết phải xem xét đến những nhân tố ảnh hưởng đến sự vận hành của hệ thống chính trị (chẳng hạn, tính ổn định của nội các chính phủ, sự khủng hoảng chính trị trong nội bộ của đảng cầm quyền...). Trong những năm gần đây, việc đánh giá tính ổn định chính trị - xã hội về mặt vận hành của hệ thống chính trị đã trở thành một luận đề cơ bản trong việc nghiên cứu
  20. tính ổn định chính trị - xã hội. Những nhân tố chủ yếu quyết định tính ổn định trong sự vận hành hệ thống chính trị, đó là: - Sự ổn định của chính phủ (ở Trung ương), hay của các cơ quan công quyền địa phương. Có hai cách đo lường tính ổn định của chính phủ hay các cơ quan công quyền địa phương. Thứ nhất: Khoảng thời gian tồn tại. Thứ hai: Mức độ kiểm soát của ngành hành pháp, được đo bằng việc chính phủ có hay không có một đa số trong ngành lập pháp, tức sự ủng hộ của cử tri (dân). Chính sách có được dân đồng tình, có được thực thi tốt không. Một chính phủ (hay các cơ quan quyền lực công ở địa phương và cơ sở) đương nhiệm chỉ trong một thời gian ngắn sẽ rất khó có thể đảm bảo trách nhiệm đối với kết quả của chính sách. Mặt khác, nếu một chính phủ không có được một đa số ủng hộ trong ngành lập pháp cũng có thể làm mờ đi tính trách nhiệm của mình bằng cách lập luận rằng, những chính sách của chính quyền thiếu hiệu quả vì không có sự ủng hộ của đa số lập pháp, đây chính là một biểu hiện về tính ổn định chính trị. - Bạo lực chính trị. Một trong những dấu hiệu căn bản của một hệ thống chính trị hoạt động tốt là sự hạn chế những bất đồng chính trị và sự thừa nhận những phản kháng hợp pháp. Trong một chế độ dân chủ, cần thiết phải tạo ra những khoảng rộng cho sự phản kháng chính trị bằng cách áp dụng những biện pháp ít hà khắc về những hành động đối với những người bất đồng chính kiến. Trong trường hợp đó, quy mô của những phản kháng có thể tăng lên. Tuy nhiên, sự xác định và sự đo lường các phong trào phản kháng (biểu tình, khiếu kiện đông người) vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật là những công việc đầy khó khăn. Vì thế bất kỳ một đánh giá nào về vấn đề này cần phải được xem xét thận trọng. Tuy vậy vẫn có một vấn đề mà người ta có thể đo lường được: Quy mô của bạo lực chính trị trong hệ thống chính trị (như bạo loạn, biểu tình, làm vô hiệu các bộ phận của
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1