intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luật văn Thạc sĩ Luật học: Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

27
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là dƣới góc độ lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tƣ pháp, nhằm xây dựng hệ thống tòa án trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của tòa án.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luật văn Thạc sĩ Luật học: Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN ĐỨC PHƯƠNG ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH TƯ PHÁP Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật Mã số: 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân HÀ NỘI – 2007
  2. MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU Ch­¬ng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN 1.1. Vị trí, vai trò của tòa án. 1.1.1. Sự hình thành tòa án. 1.1.2. Vị trí, vai trò của tòa án ở nước ta. 1.2. Các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của tòa án ở nƣớc ta hiện nay. 1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của tòa án. Ch­¬ng 2. THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY 2.1 Tổ chức và hoạt động tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành. 2.2 Những vấn đề đặt ra đối với tổ chức và họat động của tòa án nhân dân ở nƣớc ta hiện nay. Ch­¬ng 3. PHƢƠNG HƢỚNG ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.1. Quan điểm, mục tiêu và yêu cầu cơ bản đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân 3.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án trong tiến trình cải cách tư pháp. 3.1.2. Mục tiêu và yêu cầu đổi mới tổ chức, hoạt động của tòa án nhân dân
  3. 3.2. Phƣơng hƣớng đổi mới tổ chức và họat động của Tòa án nhân dân. 3.3. Các kiến nghị đối với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tƣ pháp. 3.3.1. Xác định lại thẩm quyền xét xử và thiết kế mới mô hình tổ chức của các tòa án. 3.3.2. Nâng cao tính độc lập, nghiêm minh của hoạt động xét xử 3.3.3. Nâng cao năng lực, phẩm chất và địa vị pháp lý của thẩm phán, hội thẩm nhân dân KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trƣớc nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nƣớc, trƣớc yêu cầu Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và để đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm ở nƣớc ta trong tình hình hiện nay đòi hỏi phải đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân là một nội dung quan trọng đƣợc thể hiện trong nhiều văn kiện Nghị quyết của Đảng về cải cách tƣ pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020, trong đó xác định nhiều nội dung về đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tƣ pháp, trong đó có đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, Nghị quyết nêu rõ: Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tƣ pháp. Trọng tâm là xây dựng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND. Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính lãnh thổ, gồm: tòa án sơ thẩm khu vực đƣợc tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; tòa thƣợng thẩm đƣợc tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hƣớng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức tòa án nhân dân tối cao theo hƣớng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành. 1
  5. Nghiên cứu, xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự theo hƣớng chủ yếu xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, những vụ án liên quan đến bí mật quân sự... Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của ngƣời tiến hành tố tụng và ngƣời tham gia tố tụng theo hƣớng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lƣợng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tƣ pháp.[9,tr.5]. Trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam cũng nêu rõ: Xây dựng hệ thống cơ quan tƣ pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con ngƣời. Đẩy mạnh việc thực hiện chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020. Cải cách tƣ pháp khẩn trƣơng, đồng bộ, lấy cải cách họat động xét xử làm trọng tâm, thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra. Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tƣ pháp… [15,tr.126]. Nhƣ vậy, cả Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị và Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam đều xác định tòa án nhân dân phải tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp. Do đó, tòa án nhân dân phải chủ động chuẩn bị tất cả các điều kiện để thực hiện thành công việc đổi mới tổ chức và hoạt động phù hợp với tiến trình cải cách tƣ pháp. Đến đây hàng loạt các vấn đề về lý luận và thực tiễn đƣợc đặt ra khi đổi mới tổ chức, hoạt động của tòa án nhân dân đòi hỏi phải đƣợc quan tâm nghiên cứu. Với lý do nêu trên, học viên đã chọn đề tài: "Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp " để làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật. Đây là vấn đề có tính thời sự, cần thiết và cấp bách. 2
  6. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây đã có một số công trình khoa học, các bài viết trên các tạp chí liên quan đến nội dung tổ chức hoạt động của tòa án nhân dân. Có thể phân loại thành hai nhóm nhƣ sau: - Nhóm thứ nhất: Những công trình là đề tài khoa học cấp Nhà nƣớc, cấp Bộ, các luận án tiến sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tƣ pháp Việt Nam có liên quan đến tòa án nhân dân nhƣ: Đề tài khoa học cấp Nhà nƣớc mã số KX.04.06 "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của tòa án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân". Luận án tiến sĩ luật học, Viện nghiên cứu nhà nƣớc và pháp luật "Đổi mới tổ chức và hoạt động tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay " của tác giả Lê Thành Dƣơng năm 2002. Luận án tiến sĩ luật học, Đại học luật Hà nội "Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền" của tác giả Trần Huy Liệu năm 2003. Luận án tiến sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà nội "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống cơ quan tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền" của tác giả Đỗ Thị Ngọc Tuyết năm 2005. Sách tham khảo: "Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy Nhà nước" của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nxb Giao thông vận tải năm 2002; "Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay" của tập thể các tác giả do GS.TS Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Khoa học xã hội năm 2002; "Góp bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay" của TS Ngô Huy Cƣơng, Nxb Tƣ pháp năm 2005; "Xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng" của Luật sƣ Nguyễn Văn Thảo, Nxb Tƣ pháp năm 2006. Liên quan đến nhóm vấn đề này còn có kỷ yếu các cuộc hội thảo về lịch sử ngành tòa án nhân dân. 3
  7. - Nhóm thứ hai, là các bài viết liên quan đến nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân đƣợc đăng trên các tạp chí: "Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền" của TSKH Lê Cảm, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4 năm 2002; “Những vấn đề chủ yếu của công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt nam” của TSKH.PGS Lê Cảm, tạp chí Tòa án nhân dân số 3 năm 2006; "Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp " của tác giả Nguyễn Mạnh Cƣờng, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10 năm 2002; "Cải cách tư pháp và vấn đề tranh tụng" của tác giả Nguyễn Mạnh Kháng, tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 10 ... Tuy vậy các công trình bài viết trên chủ yếu đi sâu nghiên cứu chung nhất về tổ chức quyền lực Nhà nƣớc, hoặc có công trình nghiên cứu về vấn đề này nhƣng do thời điểm nghiên cứu đã lâu nên không cập nhật đƣợc những vấn đề đang đặt ra trong lý luận và thực tiễn hiện nay, do đó nội dung không còn mang tính thời sự nữa. Vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân mới chính thức đƣợc đặt vấn đề khi Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đƣợc ban hành vào giữa năm 2005 và mới đƣợc ghi nhận trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam vào đầu năm 2006. Vì vậy, đến nay chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về vấn đề này đƣợc chính thức công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích nghiên cứu của luận văn là dƣới góc độ lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tƣ pháp, nhằm xây dựng hệ thống tòa án trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của tòa án. 4
  8. Nhiệm vụ của luận văn: Qua phân tích những cơ sở lý luận cơ bản nhất về tổ chức quyền lực Nhà nƣớc, quyền tƣ pháp để làm rõ sự hình thành, vị trí, vai trò của tòa án nhân dân trong bộ máy Nhà nƣớc, các quan điểm về đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, yêu cầu của cải cách tƣ pháp đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân. + Làm rõ thực trạng tổ chức, hoạt động tòa án nhân dân ở nƣớc ta hiện nay. + Đề xuất những phƣơng hƣớng cơ bản cho việc đổi mới và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tƣ pháp. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Trong khuôn khổ chuyên ngành lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật, luận văn tập trung phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu của cải cách tƣ pháp, nên đối tƣợng là những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân ở Việt Nam. Luận văn chỉ nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, không nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của tòa án quân sự. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn đƣợc thể hiện trên cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật, về đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tƣ pháp, những thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới. Dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phƣơng pháp đƣợc sử dụng là các phƣơng pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội, phƣơng pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, đồng thời cũng sử dụng phƣơng pháp luật học so sánh, phƣơng pháp lý thuyết hệ thống, phƣơng pháp thống kê … 5
  9. 6. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng nhƣ thực tiễn trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tƣ pháp. Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học, những ngƣời làm thực tiễn, đồng thời có thể sử dụng đƣợc cho việc nghiên cứu, giảng dạy. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng. Ch­¬ng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN 1.1. Vị trí, vai trò của tòa án. 1.2. Các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của tòa án ở nƣớc ta hiện nay. 1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của tòa án. Ch­¬ng 2. THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY 2.1 Tổ chức và hoạt động tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành. 2.2 Những vấn đề đặt ra đối với t chức và họat động của tòa án nhân dân ở nƣớc ta hiện nay. Ch­¬ng 3. PHƢƠNG HƢỚNG ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.1. Quan điểm, mục tiêu và yêu cầu cơ bản đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân 3.3. Các kiến nghị đối với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tƣ pháp. 6
  10. 7
  11. Ch­¬ng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN 1.1. Vị trí, vai trò của tòa án 1.1.1. Sự hình thành tòa án Nhà nƣớc ra đời xem nhƣ một công cụ hữu hiệu trong tay giai cấp thống trị. Nhờ có nhà nƣớc mà giai cấp thống trị về kinh tế đã trở thành giai cấp thống trị về chính trị và nắm lấy quyền lực nhà nƣớc. V.I.Lênin cho rằng: "… Sự tồn tại quyền lực nhà nước được thể hiện thông qua đội ngũ quan lại, quân đội, bộ máy hành chính, tòa án… nếu bỏ qua các bộ phận ấy thì quyền lực nhà nước chỉ là cái bóng, là sự tưởng tượng hoặc là một tên gọi trống rỗng…"[29,tr.128] Nhà nƣớc đã ban hành ra pháp luật thì phải có cơ chế để đảm bảo cho pháp luật đƣợc thực thi, bởi lẽ pháp luật sẽ trở nên vô nghĩa, nếu nó không đƣợc các giai cấp và tầng lớp khác tuân theo, pháp luật không đi vào đời sống hàng ngày của dân cƣ. Mặt khác trong bất cứ xã hội nào, luôn luôn có các cá nhân, tổ chức hoặc giai cấp đối lập tìm mọi cách để làm trái các điều luật của nhà nƣớc, đi ngƣợc lại với lợi ích của giai cấp thống trị. Do vậy giai cấp thống trị đã tổ chức ra một hệ thống các cơ quan chuyên làm nhiệm vụ bảo vệ và bảo đảm cho pháp luật đƣợc thực thi nhƣ quân đội, cảnh sát... Nhƣng không thể sử dụng đội quân này có thể bắt bớ, giam cầm một cách tùy tiện, bởi nhƣ thế sẽ tạo nên sự hỗn loạn trong xã hội. Bởi lẽ đó cần có một cơ quan đƣợc lập ra để đảm nhiệm chức năng xét xử, xem xét hành vi nào là đúng, là sai. Cơ quan đó chính là tòa án, luôn tồn tại trong bất kỳ chế độ nhà nƣớc nào. Theo V.I. Lênin " … Tòa án là cơ quan quyền lực nhà nước, hoạt động của tòa án là hình thức họat động của nhà nước... " [29, tr.197]. 8
  12. Hệ thống các cơ quan xét xử cũng dần dần đƣợc hoàn thiện và phát triển theo tiến trình phát triển của lịch sử. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến, nhà vua nắm giữ tất cả quyền lực, quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tƣ pháp. Quyền lực nhà vua là tối thƣợng, nhà vua vừa ban hành các văn bản pháp luật, vừa tổ chức thực hiện pháp luật lại vừa xét xử các hành vi vi phạm pháp luật. Ở giai đoạn này việc xét xử cao nhất do nhà vua đảm nhiệm, với những vụ việc không quan trọng thì đƣợc giao cho các quan lại cấp dƣới phụ trách việc xét xử, cùng với việc quản lý địa giới hành chính trong phạm vi quan lại đó phụ trách. Montexkio cho rằng "...Mọi thứ sẽ biến mất cả nếu chính một người hay chính một tập đoàn các thân hào hay các quý tộc hay bình dân hành sự cả ba quyền: Quyền làm luật, quyền thi hành các quyết định chung và quyền xét xử các tội phạm hay các vụ tranh chấp giữa các tư nhân…" [22,tr.85]. Nhằm hạn chế quyền lực vô hạn của nhà vua, đồng thời cũng là mục tiêu của cuộc cách mạng tƣ sản đánh đổ hoàn toàn chế độ phong kiến đã lỗi thời. Cách mạng tƣ sản đã mở ra một con đƣờng mới trong việc phát triển và bảo đảm hơn các quyền tự nhiên của con ngƣời. "… Chủ quyền nhân dân chỉ có thể được thực hiện trên thực tế bằng sự phân công quyền lực như là một nguyên tắc tổ chức Nhà nước quan trọng nhất vì tính tối cao của chủ quyền nhân dân là điều kiện cơ bản cho tự do và bình đẳng của tất cả các công dân trong một Nhà nước…" [21,tr.98]. Sẽ không có tự do nếu quyền xét xử không đƣợc phân biệt với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền xét xử đƣợc sáp nhập vào quyền lập pháp thì sẽ không có tự do. Nếu quyền xét xử đƣợc nhập vào quyền hành pháp thì thẩm phán sẽ trở thành những kẻ áp bức. PGS.TS Nguyễn Đăng Dung cho rằng "… việc tách, phân biệt tư pháp ra khỏi hành pháp và lập pháp là một thành công lớn trên con đường phát triển của nhân loại …" 9
  13. [24,tr.482]. Việc phân công giữa các nhánh quyền lực không phải là làm cho chúng yếu đi mà làm cho chúng có sự kiểm tra giám sát lẫn nhau và ngày càng phát triển, PGS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng“...Việc phân công quyền lực trước hết phải được tiến hành trên cơ sở để hợp tác giữa các nhánh quyền lực để mỗi nhánh quyền lực có phạm vi và lĩnh vực thực hiện đã được xác định của mình và được cân bằng một cách hợp lý...” [37,tr.4]. Tuy nhiên, vai trò của tòa án cũng phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm tƣ tƣởng chỉ đạo của giai cấp cầm quyền trong Nhà nƣớc tƣ sản, ở nhà nƣớc nào nguyên tắc phân quyền không rõ ràng thì tòa án chịu sự lấn át của lập pháp và hành pháp, còn những nhà nƣớc nào áp dụng triệt để học thuyết phân quyền thì vai trò của tòa án mới thực sự đƣợc đề cao, đó mới thực sự là một nhà nƣớc dân chủ. Việc xét xử của tòa án ban đầu chỉ là việc xét xử về hình sự mà đối tƣợng không phải là đội ngũ quan lại mà là các thần dân, chỉ có các thần dân mới vi phạm pháp luật, còn quan lại đƣợc coi là những ngƣời mẫu mực, không có hành vi vi phạm pháp luật, về sau qua sự phát triển của lịch sử đòi hỏi mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý bất kể ngƣời đó là ai , làm gì , Đối tƣợng xét xử của Tòa án cũng đƣợc mở rộng dần, từ việc xét xử về hình sự đến các việc tranh chấp khác trong đời sống xã hội của cá nhân, hoặc các cơ quan, tổ chức "... Không ai được phép dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật. Mọi vi phạm đều phải bị xử lý, bất cứ ai vi phạm đều đưa ra xét xử, không được làm theo kiểu phong kiến: dân thì chịu hình pháp, quan thì xử theo lễ…" [12,tr.87]. 1.1.2. Vị trí, vai trò của tòa án ở nước ta Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nƣớc Việt nam dân chủ cộng hoà. Tuyên ngôn độc lập là 10
  14. một văn kiện chính trị - pháp lý quan trọng, là cơ sở để hàng loạt các thiết chế của một nhà nƣớc mới đƣợc thành lập. Ngay sau khi giành đƣợc độc lập, mặc dù chính quyền cách mạng còn non trẻ, đứng trƣớc một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, nhƣng Đảng và Bác Hồ hết sức quan tâm đến vấn đề tổ chức và họat động của bộ máy nhà nƣớc ta nhƣ thế nào để tất cả quyền lực nhà nƣớc thuộc về nhân dân. Nhà nƣớc ta đƣợc tổ chức theo chế độ tập quyền, "... quyền lực Nhà nước là thống nhất, không phân chia, bắt nguồn từ quan điểm, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể cội nguồn của quyền lực Nhà nước. Hơn nữa, Đảng ta là Đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, nông dân, của dân tộc, là điều kiện bảo đảm và cần thiết để thực hiện quyền lực Nhà nước thống nhất…" [26,tr.102]. Trong bộ máy nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, hệ thống tòa án cũng tồn tại nhƣ một tất yếu, khách quan. Quyền lực nhà nƣớc là thống nhất không phân chia nhƣng có sự phân công phân nhiệm phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền (Lập pháp, Hành pháp, Tƣ pháp). Tòa án là biểu hiện tập trung của quyền tƣ pháp, là cơ quan thực hiện chức năng xét xử. Ngay từ buổi đầu của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, tòa án đã chiếm một vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong việc xét xử những hành vi vi phạm pháp luật, chống phá nhà nƣớc ta. Thông qua việc xét xử, tòa án đã đóng góp một phần rất quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền non trẻ. Cùng với quá trình phát triển của cách mạng, ở mỗi một giai đoạn khác nhau, do những yêu cầu đặt ra khác nhau, tổ chức và họat động của tòa án nhân dân cũng có những nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên nó cũng chiếm một vị trí và vai trò hết sức quan trọng, "...là cơ quan xét xử của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.... Trong phạm vi chức năng của mình có 11
  15. nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân ; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân…” [1,tr.71]. Hiện nay, Đảng và nhà nƣớc ta chủ trƣơng xây dựng nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nƣớc pháp quyền XHCN, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong nhà nƣớc pháp quyền tòa án có vai trò vô cùng quan trọng, “...Tòa án phải là nơi biểu hiện tập trung của quyền tư pháp, nơi mà các kết quả của họat động điều tra, công tố, bào chữa, giám định được sử dụng một cách công khai thông qua các thủ tục tố tụng để đưa ra những phán xét cuối cùng mang tính quyền lực Nhà nước. Hơn thế, tòa án phải là nơi thể hiện công lý, sự đối xử bình đẳng, công bằng trong tất cả mối quan hệ, là nơi thể hiện chất lượng họat động và uy tín của hệ thống tư pháp…" [34,tr.30], và TSKH.PGS Lê Cảm cũng đánh giá vai trò của tòa án trong nhà nƣớc pháp quyền là "... Góp phần khẳng định thắng lợi huy hoàng của chính nghĩa đối với tàn bạo, của công lý đối với bất công, của cái thiện đối với cái ác và góp phần đưa các nguyên tắc được thừa nhận chung của nhà nước pháp quyền vào đời sống thực tế ... " [20,tr.316]. Với vị trí và vai trò hết sức quan trọng nhƣ vậy, cho nên yêu cầu đặt ra phải đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tƣ pháp, để phù hợp với việc xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam. TS Ngô Huy Cƣơng đã viết, “...Khi nói tới nhà nước pháp quyền người ta không thể không nhắc tới tư pháp độc lập và sự giám sát bằng tư pháp đối với các cơ quan nhà nước. Chúng là một trong những yêu cầu quan trọng của nhà nước pháp quyền. Chừng đó đã đủ cho thấy vị trí to lớn của tư pháp (Tòa án) trong hệ thống quyền lực nhà nước và trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền...”[23,tr.505]. PGS.TS Nguyễn Đăng Dung cho rằng "...Xét xử là phương thức, là hình thức thể hiện quyền lực nhà nước. Đó là họat động của 12
  16. cơ quan (Tòa án) được nhân danh quyền lực nhà nước đưa ra một phán quyết cuối cùng có hiệu lực bắt buộc đối với một tranh chấp cụ thể (hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính ...) Đó là sự biểu thị thái độ trực tiếp của nhà nước về các vụ việc cụ thể ... " [25,tr.37] 1.2 Các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Tòa án ở nƣớc ta hiện nay. Tòa án nhân dân là một bộ phận của bộ máy Nhà nƣớc, nên nó cũng đƣợc tổ chức và họat động theo những nguyên tắc chung, nguyên tắc hiến định nhƣ: nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc pháp chế ... Đây là những nguyên tắc cơ bản làm nền tảng cho họat động của bộ máy nhà nƣớc ta. Các nguyên tắc này tuy không quy định cụ thể đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa án nhƣng có sự ảnh hƣởng lớn đến việc tổ chức và hoạt động của tòa án. Hệ thống tòa án nhân dân hoạt động có những nét đặc thù so với các hệ thống cơ quan nhà nƣớc khác. Do vậy nó cũng có những nguyên tắc hoạt động riêng biệt bên cạnh những nguyên tắc chung nêu trên, đó là: Nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Đây là nguyên tắc "... là tiền đề nền tảng của tư pháp trong Nhà nước pháp quyền ..." [34,tr.32]. Nguyên tắc này bảo đảm cho tòa án ra những quyết định, bản án đúng pháp luật, thật sự công bằng và khách quan. Đây là nguyên tắc rất quan trọng trong hoạt động tố tụng của tòa án. Theo nguyên tắc này khi xét xử, thẩm phán không bị ràng buộc bởi bất cứ cơ quan hoặc cá nhân nào để xét xử khách quan, công bằng và nghiêm minh. Thẩm phán phải chịu trách nhiệm đối với quyết định của mình. Thẩm phán độc lập cũng có nghĩa là không một cơ quan, tổ chức nào đƣợc phép can thiệp trái pháp luật vào họat động xét xử của Tòa án, sự độc lập này cũng gắn liền với sự tuân thủ pháp luật. Khi xét xử các thành viên của 13
  17. Hội đồng xét xử cũng độc lập với nhau trong khi đánh giá các tình tiết, chứng cứ, xác định tội danh, loại mức hình phạt cụ thể cũng nhƣ các quyết định khác, “...Các thẩm phán độc lập và có chuyên môn là nền tảng của một hệ thống tòa án công bằng, vô tư và được hiến pháp bảo đảm, hệ thống đó chính là các cơ quan tư pháp. Sự độc lập này không có nghĩa là thẩm phán có thể đưa ra các quyết định theo thiên ý riêng của mình mà đúng hơn là họ được tự do đưa ra những quyết định hợp pháp, ngay cả khi những quyết định này mâu thuẫn với chính phủ hoặc các bên rất mạnh trong một vụ kiện. Ở các nền dân chủ, độc lập không chịu những áp lực chính trị từ các quan chức và cơ quan lập pháp đảm bảo sự vô tư của các thẩm phán. Những phán quyết của cơ quan tư pháp vô tư, dựa trên thực tế của vụ việc, hành động của cá nhân, các lập luận pháp lý và luật liên quan, và không chịu bất cứ hạn chế hay ảnh hưởng không đúng đắn nào của các bên liên quan ..." [16,tr.21]. Hoạt động độc lập chỉ tuân theo pháp luật của các thẩm phán nhằm mục đích bảo đảm quyền con ngƣời của mọi công dân, quyền bình đẳng của con ngƣời trƣớc pháp luật, tránh mọi sự lợi dụng chức quyền mà đàn áp dân chúng. Trong họat động xét xử của mình, các thẩm phán phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc xét xử. Chính sự tuân thủ nguyên tắc xét xử này cũng là nhằm mục đích bảo vệ quyền con ngƣời của công dân, nhất là việc bảo vệ công lý cho xã hội, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tránh mọi sự lợi dụng quyền lực của của chính thẩm phán, cũng nhƣ để cho chính thẩm phán tránh đƣợc mọi áp lực từ phía các quan chức nhà nƣớc. Tính độc lập của thẩm phán và hội đồng xét xử là một tất yếu khách quan đƣợc quy định bởi đặc trƣng của việc thực hiện quyền tƣ pháp, xét xử các vụ án hình sự, giải quyết các vụ việc dân sự, ra bản án, quyết định và thi hành các bản án, quyết định liên quan đến số phận sinh mạng pháp lý của công dân, tổ chức. Do đó, để các bản án, quyết định đƣợc công bằng, đúng 14
  18. pháp luật, không làm oan, làm sai cho ngƣời dân thì trong từng hoạt động, từng giai đoạn của quá trình tố tụng, các cá nhân có thẩm quyền phải khách quan, vô tƣ, độc lập và tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật. Các tòa án khi tiến hành hoạt động xét xử chỉ đƣợc làm những gì pháp luật cho phép, làm và phải làm theo đúng trình tự, thủ tục, thời hạn do pháp luật quy định. Không ai, không cơ quan nào đƣợc can thiệp, tác động để buộc thẩm phán và hội đồng xét xử làm trái pháp luật. Giữa tính độc lập, khách quan và yêu cầu chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ biện chứng. Chữ "chỉ" giúp hình dung rõ khuôn khổ, phạm vi, ý nghĩa của sự độc lập. Đây không phải là sự độc lập chung chung, không hƣớng đích mà là độc lập để tuân theo pháp luật. Tuân thủ pháp luật là cơ sở, là bảo đảm để các chức danh tố tụng độc lập thực hiện đúng đắn, đầy đủ trách nhiệm của mình, không phụ thuộc vào sự tác động của các cơ quan, cá nhân khác. Các Mác đã từng khẳng định về tính độc lập của thẩm phán "…Đối với thẩm phán thì không có cấp trên nào khác ngoài luật pháp. Thẩm phán có trách nhiệm giải thích luật pháp trong việc vận dụng vào từng trường hợp cá biệt, đúng như ông ta hiểu luật pháp khi xem xét nó một cách có lương tri... Thẩm phán độc lập không thuộc về chính phủ... Thẩm phán xem xét hành động của tôi trên cơ sở một đạo luật nhất định…" [17,tr. 137]. Trong xét xử, ngƣời thẩm phán phải biết vƣợt lên trên tất cả sự tác động từ nhiều phía và nhiều khi vƣợt lên trên cả chính mình để "chỉ tuân theo pháp luật". Khác với chức năng lập pháp thƣờng gắn với một loại hoạt động có tính khái quát hóa, vĩ mô, chức năng tƣ pháp gắn liền với công việc cụ thể, với một sự kiện, hành vi pháp lý cụ thể, với từng con ngƣời cụ thể trong một tình huống cụ thể, có khi rất đặc thù riêng biệt. Trong bối cảnh cụ thể đó, đòi hỏi một thái độ đối xử vô tƣ, khách quan là điều không dễ dàng, vì con ngƣời cụ thể có những mối quan hệ chằng chịt từ nhiều phía. Trong hoạt động tố tụng, 15
  19. từng ngƣời ở từng khâu đoạn, vị trí của mình đều cố gắng đi tìm sự thật đúng nhƣ nó đã xuất hiện và từng tồn tại. Đây cũng chính là một trong những lý do giải thích vì sao nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trở thành một nhu cầu tự nhiên của hoạt động tố tụng và thể hiện rõ nhất, có tính tiêu biểu trong hoạt động xét xử của ngƣời thẩm phán. Trên con đƣờng tìm đến, tái hiện sự thật khách quan đó, thẩm phán, theo vị trí chức năng của mình, là ngƣời duy nhất có điều kiện, có thẩm quyền kiểm tra, xác minh, đối chất, kiểm chứng lại tại phiên toà toàn bộ các chứng cứ, tình tiết vụ án đã thu thập đƣợc từ các giai đoạn tố tụng trƣớc đó hoặc bổ sung tại phiên tòa. Trƣớc mắt ngƣời thẩm phán sự thật vốn đã từng xảy ra, tồn tại trong quá khứ hiển hiện dần lên một cách sống động. Từ đó, có thể thấy chỉ có ngƣời thẩm phán với vị trí tố tụng đƣợc pháp luật tố tụng tạo ra có khả năng đẩy đủ nhất để xem xét, đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ bản chất pháp lý của hành vi, sự kiện pháp lý. Yêu cầu lớn nhất đƣợc đặt ra lúc này chính là tạo ra, bảo đảm một môi trƣờng khách quan với các điều kiện chuyên môn, kỹ thuật và cả tâm lý - xã hội để ngƣời thẩm phán độc lập đối mặt với các sự kiện, hành vi pháp lý. Phải dành cho ngƣời thẩm phán một môi trƣờng không có bất kỳ sự can thiệp nào ngoài sự chỉ đạo của pháp luật và niềm tin nội tâm hình thành từ sự đánh giá, phán xét toàn bộ các thông tin, các tình tiết, sự kiện, hành vi pháp lý làm cơ sở cho việc vận dụng pháp luật để đi đến một phán quyết nhân danh nhà nƣớc. Nguyên tắc bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Đây cũng là một nguyên tắc hiến định (Điều 52 - Hiến pháp 1992). Trong hoạt động xét xử ngƣời tiến hành tố tụng phải tuân thủ pháp luật trong mọi hoạt động, xác minh điều tra, đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật phải đúng đắn, không vì bất cứ lý do gì mà thiên vị bất cứ ai, bất cứ đƣơng sự nào trong vụ án, không phân biệt địa vị, trình độ, giới tính, đảng phái. Đảm bảo mọi hành 16
  20. vi vi phạm, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và Nhà nƣớc đều bị xử lý công bằng nghiêm minh đúng pháp luật. Trong hoạt động xét xử hình sự các bên buộc tội và gỡ tội, các bên đƣơng sự trong vụ án dân sự đều có quyền tố tụng ngang nhau trong việc thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ, trong việc tranh luận, trình bày quan điểm của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức hay Nhà nƣớc. Nói cách khác, nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật trong hoạt động xét xử chính là cơ sở bảo đảm cho việc thực hiện tranh tụng bình đẳng, một nguyên tắc cơ bản đảm bảo tính công bằng, dân chủ, khách quan trong hoạt động tƣ pháp mà biểu hiện cao độ, tập trung là tranh tụng trƣớc Tòa án, đây chính là biểu trƣng của công lý. Nguyên tắc việc xét xử của tòa án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật .(Điều 129 Hiến pháp 1992 và Điều 4 Luật tổ chức TAND) Nhà nƣớc ta là nhà nƣớc của dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mọi công việc của nhà nƣớc đều cần để dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở bằng cách tham gia công việc của nhà nƣớc và xã hội, có trách nhiệm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội, tổ chức đời sống xã hội. Quy định hội thẩm nhân dân tham gia vào họat động xét xử của tòa án nhân dân là một trong những cơ sở tạo điều kiện cho công dân tham gia vào công việc nhà nƣớc. Thực tiễn công tác xét xử của tòa án chứng minh rằng sự tham gia của hội thẩm vào việc xét xử của tòa án là rất cần thiết, giúp cho tòa án xét xử công minh, chính xác, khách quan, phù hợp, phát huy tác dụng giáo dục của phiên tòa, giáo dục công dân trung thành với tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật. Mặt khác hội thẩm nhân dân là 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0