Masaoka Shiki và haiku cận đại
2
ThS. Nguyễn Vũ Quỳnh Như
Tổng Lãnh sự quán Nhật Bản tại TP. Hồ Chí Minh
俳句を閲し haiku wo kemishi ba ngàn bài
haiku
柿二つ kaki futatsu
ăn hết hai quả hồng.
Các bài thơ còn lên tiếng chống đối những gì thuộc về kinh điển.
説教に sekkyou ni
Những lời thuyết giáo
汚れた耳を kegareta mimi wo nghe chói cả
tai
ホトトギス hototogisu Chim
đỗ vũ
Đặc biệt Shiki đã cho đăng hơn 10 ngàn bài thơ haiku và hơn 20 ngàn bài tanka
của ông, vào năm Meiji 28 (1895) Shiki viết:
柿食えば kaki kueba
Vừa mới ăn hồng
鐘が鳴るなり kane ga naru nari chuông chùa
Pháp Long tự
法隆寺 Horyuji
ngân vang.
Bài thơ được coi là tác phẩm thành công đầu tiên trong quá trình cách tân thơ
haiku, được đánh giá là hay nhất và được trích dẫn trong hầu hết các trường phổ
thông trung học Nhật Bản.
2. MASAOKA SHIKI VÀ NGÃ RẼ ĐẾN VỚI CÁCH TÂN HAIKU
Shiki tên thật là Masaoka Tsunenori, sinh tại thành phố Matsuyama tỉnh Iyo
(nay là tỉnh Ehime) vào ngày 19 tháng 9 năm 1867, năm cuối cùng của thời kỳ
Edo và chỉ một năm trước khi bước vào thời kỳ duy tân Minh Trị. Khoảng 11 tuổi
Shiki bắt đầu làm thơ cho đến khi rời trường làng lên Tokyo vào năm 16 tuổi
(1883). Năm 1892 bắt đầu ngã rẽ định mệnh đưa Shiki đến với văn chương. Vì sức
khỏe kém, Shiki nghỉ học và dốc sức vào văn chương, viết truyện và tuyển chọn
thơ haiku – là bước chuẩn bị cho Haiku Bunrui (phân loại tuyển tập Haiku, 1900).
Về sau Shiki đã viết về quãng thời gian này rằng “Thi cử chẳng có ích gì, chỉ có
niềm say mê với thơ ca, chẳng có gì có thể cứu vãn được tôi ngoài nữ thần
haiku”(3). Tháng 2 năm 1893, trong bài Zatsudan Basho (Chuyện phiếm Basho)
trên báo Nippon, Shiki đã lên tiếng kêu gọi nâng cao vị trí của haiku “Haiku trở
thành một bộ phận của văn học. Văn học trở thành một bộ phận của mỹ thuật. Kết
quả là tiêu chuẩn cái đẹp trở thành tiêu chuẩn của văn học. Tiêu chuẩn của văn học
trở thành tiêu chuẩn của haiku”(4).
Với tuyên bố này, Shiki cho rằng tên gọi haiku được tách ra từ hokku không chỉ
đơn thuần là sự chuyển tên mà haiku cần được giải phóng để hướng đến thế giới
toàn diện. Trọng tâm cách tân haiku của Shiki chính là sự chuyển hướng về chất
lượng hoàn toàn mang tính văn học. Đối với các nhà thơ đi trước, Shiki đã không
ngớt lời ca ngợi thơ của nhà thơ - họa sĩ Yosa Buson (1716 – 1783) tao nhã, mang
đậm phong cách tả thực (shasei). Dù ảnh hưởng Buson, nhưng Shiki cho rằng
“Giống thì giống Buson, nhưng biến hóa hơn so với Buson”(5).
Buson: 釣鐘に tsurigane ni Trên
chuông chùa
止まりて眠る tomarite nemuru đậu yên và
ngủ
胡蝶かな kochou kana
một cánh bướm.
Thơ của Shiki lại đầy sức sống: trong khi con bướm của Buson đang say giấc
nồng thì con đom đóm nhỏ bé của Shiki lại lấp lánh tỏa sáng:
Shiki 釣鐘に 釣鐘に
Trên chuông chùa
止まりて光る tomarite hikaru đậu yên, tỏa
sáng
蛍かな hotaru kana
con đom đóm.
Năm Meiji 35 (1902), trong tuyển tập Xuân-Hạ-Thu-Đông, Shiki đã nhắc lại
thành công của thơ haiku thời kỳ Buson, đả phá quan niệm “Haiku không thích hợp
mô tả nhân tình mà chỉ thích hợp miêu tả thiên nhiên”(6).
薪をわる maki wo waru Chỉ
mỗi mình em
いもうと一人 imoto hitori miệt
mài chẻ củi
冬篭り fuyu gomori
đầy giỏ mùa đông.
Cho đến khi bệnh thổ huyết trở nặng và mất vào ngày 19 tháng 9 năm 1902,
Shiki đã chú tâm vào sáng tác haiku, cách tân tanka và mong muốn ngày càng nhiều
người tham gia làm haiku có trình độ kỹ thuật cao và đạt được cảm xúc đích thực.
五月雨や gogatsu ame ya Mưa
tháng 5 rơi
棚へとりつく tana e toritsuku cùng nỗi ám ảnh
ものの蔓 mono no tsuru
dọc ngang trên giàn.