Masaoka Shiki và haiku cận đại

3

ThS. Nguyễn Vũ Quỳnh Như

Tổng Lãnh sự quán Nhật Bản tại TP. Hồ Chí Minh

Quang cảnh tiết trời vào mùa mưa, lúc nào cũng ướt sũng, bầu trời u ám xám xịt mây

đen của tháng 5 năm 1901. Lá xanh, cây cỏ dại đâm chồi ướt đẫm nước mưa hay hàm

nghĩa bóng bảy một niềm hy vọng “sau cơn mưa trời lại sáng”. Đây cũng là một điểm

rất riêng của Shiki thể hiện được cái tôi trong haiku và tanka – điều khác biệt với các

thể thơ truyền thống trước đó chưa làm được: nhận thức kép trong thể hiện giữa miêu

tả khách quan và chủ quan.

Shiki mất trước khi đạt được đỉnh cao của độ chín muồi(7), và để lại thành tích

đáng kể cho sự nghiệp văn chương với Shiki toàn tập 22 quyển (Shiki-zenshu). Tư

tưởng cách tân của Shiki được đồng môn là Takahama Kyoshi và Kawahigashi

Hekigodo tiếp bước. Hekigodo đào sâu con đường tả thực mà Shiki đã mở lối, chủ

trương haiku tự do, không đặt nặng cấu trúc thơ theo kiểu truyền thống 5 – 7 – 5.

Trong khi đó Kyoshi thiên về miêu tả quang cảnh thiên nhiên dù không sử dụng

quý ngữ nói về mùa mà về vạn vật xung quanh.

3. MASAOKA SHIKI VÀ THUYẾT TẢ THỰC (TẢ SINH/SHASEI)

Thuật ngữ shasei (tả sinh) do họa sĩ Fusetsu Nakamura (1866-1943) truyền bá vào

Nhật Bản vào năm 1894. Với nhiệt huyết mong muốn cách tân để nâng cao giá trị

nghệ thuật haiku, Shiki đã áp dụng thuyết tả thực vào phương pháp sáng tác haiku. Tả

thực là nắm bắt trực giác đồ vật, còn với haiku là khám phá cách thể hiện sự thực một

cách trực giác lên trên một tờ giấy trắng. Shiki còn chịu ảnh hưởng lý tưởng shajitsu

(tả thực) từ trong hội họa ngoài trời Tây phương “plein air” của họa sĩ người Pháp

Raphael Collin (1850-1916) du nhập vào Nhật Bản đầu thời kỳ Meiji. Vay mượn

shajitsu (tả thực), Shiki gắn kết chúng với những gì ông đã tiếp nhận từ nhà nghiên

cứu văn học Tsubochi Shoyo (1859-1935) – nhà văn rất thông thuộc văn chương và

phê bình văn học Anh quốc, Shiki đã đem phong cách tả sinh “shasei” để bao hàm

luôn cả tả thực “shajitsu” – tái sinh những gì như chính chúng đang có(8).

野に出で No ni ide

Bước ra đồng

写生する春と shasei suru haru to tả thực cảnh xuân

なりにけり nari ni keri không gian vô cùng.

Cách tân haiku theo phương pháp luận tả thực shasei của Shiki lấy tả thực dựa vào

quan sát hiện thực của tự nhiên hơn là sự chơi chữ hoặc tưởng tượng như trước giờ

các nhà thơ haiku vẫn làm.

月一輪 tsuki ichi-rin Một

mảnh trăng tròn

星無数空 hoshi mukazu sora bên trời đầy sao

緑なり midori kana

xanh thẳm.

Lạnh lẽo não nề của mùa đông:

冬川に fuyukawa ni Xác

chó

捨てたる犬の sutetaru inu no lững lờ trôi

かばねかな kabane kana trên sông mùa đông

Ngay cả trong một khu vườn nhỏ trước nhà của Shiki - nơi không đến mười bước

chân luôn bị tuyết phủ che lấp hoa và cỏ mỗi khi trời lập đông, vẫn luôn là một đề tài

mới mang đậm phong cách tả thực.

いくたびも ikutabi mo Biết

bao lần

雪の深さを yuki no fukasa wo hỏi đi hỏi lại

尋ねけり tazunekeri tuyết

ơi sao cao mãi!

Với Shiki chất liệu làm thơ không gì khác hơn là những gì có ngay trước mặt:

行水の gyozui no

Ơ kìa chú quạ

女にほれる onna ni horeru đắm đuối

ngắm nhìn

烏かな karasu kana cô gái

đang tắm.

Bài thơ vừa lột tả phong tục truyền thống của Nhật Bản mỗi khi vào mùa hè, cảnh

thiếu nữ thường tắm bên gàu nước làm bằng gỗ (gyousui) xen lẫn yếu tố hiện đại khi

nói về phụ nữ - đề tài vốn ít được nhắc đến trong thơ ca vào các thời kỳ trước đó.

Tìm được con đường tiếp cận hiện thực với vô vàn cảnh vật đang ở xung quanh, Shiki

tiếp tục viết và viết càng nhiều, chỉ trong một năm 1893 Shiki viết đến hơn 4000 bài

thơ haiku - nhiều nhất trong các năm suốt cuộc đời ông, trong đó có bài:

鶏頭の keitou no

Cơn mưa cuối Thu

黒きにそそぐ kuroki ni sosogu rót màu đen

sẫm

時雨かな shigure kana xuống hoa mào gà.

Tinh tế của bài thơ là sử dụng hai quý ngữ “keitou” (hoa mào gà) và “shigure” nhưng

chủ đạo là “shigure” (mưa rào cuối Thu – báo hiệu mùa Đông sắp đến). Để nâng cao

hiệu quả cảm xúc, thơ haiku tránh miêu tả trực tiếp, phải mô tả gián tiếp như dùng

tuyết để liên tưởng đến màu trắng… Trong bài thơ trên, Shiki rất hiệu quả khi sử

dụng sắc màu trực tiếp “sẫm một màu đen” – như chính hoa mào gà đang phải hứng

chịu một cơn mưa đen xối xả.

Tiếp bước lý thuyết shasei của Shiki, lý tưởng shasei được đồng môn Kyoshi.

Kyoshi(9) đã thêm yếu tố khách quan vào shasei, nêu cao khẩu hiệu tả sinh khách quan

(kyakan-shasei) – miêu tả chúng như chính chúng. Cũng giống như Shiki, với Kyoshi

những gì hiện ra trước mắt đều là haiku: