intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Mấy suy nghĩ về chủ nghĩa xã hội từ cách tiếp cận di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

5
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Mấy suy nghĩ về chủ nghĩa xã hội từ cách tiếp cận di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin" góp phần tìm hiểu về chủ nghĩa xã hội qua cách tiếp cận di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Mấy suy nghĩ về chủ nghĩa xã hội từ cách tiếp cận di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG MẤY SUY NGHĨ VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TỪ CÁCH TIẾP CẬN DI SẢN KINH ĐIỂN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN Trần Nhật Minh Học viện Chính trị khu vực II - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Tác giả liên hệ: Trần Nhật Minh, email: bienman1967@gmail.com Tóm tắt: Chủ nghĩa xã hội là một đề tài lý luận và thực tiễn quan trọng, cơ bản, phong phú ở Việt Nam hiện nay. Việc làm rõ hơn, làm sâu sắc thêm hiểu biết về chủ nghĩa xã hội là một tất yếu cả về lý luận và thực tiễn. Trở lại di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin để có nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội từ lý luận đến thực tiễn, từ thực tiễn sự sụp đổ của mô hình Liên xô đến việc tìm tòi, thể nghiệm mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay - đó là một trong những cách thức góp phần hiện thực hóa lý luận Mác-xít trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. Bài viết góp phần tìm hiểu về chủ nghĩa xã hội qua cách tiếp cận di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ khóa: chủ nghĩa Mác - Lênin; chủ nghĩa xã hội; mô hình Liên xô; Đảng Cộng sản Việt Nam. 1. MỞ ĐẦU Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận về vai trò của giai cấp công nhân trong việc tự giải phóng mình và giải phóng xã hội loài người, qua việc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, mà ở đó: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995c, 628). Lịch sử đã chứng kiến sự thăng trầm của chủ nghĩa xã hội - hiện diện, phát triển, đột phá, thoái trào và những “cơn đau lịch sử”. Hiện thực ấy không làm những tranh luận về chủ đề này lắng xuống, mà trong thế giới đương đại, chủ nghĩa xã hội vẫn là chủ đề giàu sức hút trong sinh hoạt tư tưởng của nhân loại. Hồi hướng về di sản kinh điển Mác-xít là cơ sở xác lập nhận thức sâu sắc, toàn diện; để có căn cứ nhìn lại những chỉ giáo của các nhà kinh điển về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; từ đó góp phần nhận thức lại, tổng kết thực 338
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” tiễn, bổ sung, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trong điều kiện hiện nay - đó là trách nhiệm, sứ mệnh của những nhà Mác-xít chân chính. Thật vậy, “Mác không tự bó tay mình, và cũng không bó tay những nhà hoạt động tương lai của cách mạng xã hội chủ nghĩa, về mặt hình thức, biện pháp, phương thức tiến hành cách mạng; Mác thừa hiểu rằng khi ấy sẽ nảy ra những vấn đề mới nhiều biết chừng nào, rằng trong tiến trình cách mạng, toàn bộ tình hình sẽ biến đổi như thế nào, trong tiến trình đó, toàn bộ tình hình sẽ biến đổi luôn luôn và mạnh mẽ như thế nào” (Lênin, 2005e, 57). 2. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - MỆNH LỆNH TẤT YẾU CỦA LỊCH SỬ Từ cuối năm 1843, không hài lòng với quan điểm của Hegel và Feuerbach về lịch sử, Mác và Ăngghen đã xuất phát từ con người hiện thực, đang sống và hoạt động trong những điều kiện nhất định để khảo cứu lịch sử. Mác và Ăngghen (1995) viết: “Những tiền đề xuất phát của chúng tôi... đó là những tiền đề hiện thực... Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995b, 28-29). Xuất phát từ con người hiện thực, các nhà sáng lập học thuyết Mác đã đi đến luận giải một cách có hệ thống những quy luật chung nhất của lịch sử1. Theo Bensaid, Mác đã “đem lại cách viết mới về lịch sử”, “xem xét lịch sử một cách nghiêm túc, không còn với tính cách là sự trừu tượng hóa tôn giáo, trong đó, những cá nhân sống là sinh vật thấp hèn, mà với tính cách là sự phát triển hiện thực của những quan hệ xung đột nhau” (Bensaid, 1998, 37). Quan điểm duy vật lịch sử là phát kiến triết học vĩ đại của Mác. Hai vấn đề lớn, là lịch sử bắt đầu từ đâu và bị chi phối bởi cái gì? Mác (2000) cho rằng, lịch sử bắt đầu từ nền sản xuất vật chất, đó là “sự sáng tạo con người kinh qua lao động” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2000, 182) và lịch sử toàn thế giới bị chi phối bởi các quy luật khách quan qua sự phát triển lịch sử - tự nhiên của những hình thái kinh tế - xã hội (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2002, 21). Mác vượt qua các nhà nghiên cứu xã hội trước ông vì đã vén được bức màn bí ẩn của lịch sử, cũng giống như Darwin đã vén được bức màn bí ẩn của giới tự nhiên hữu sinh. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, bao giờ cũng bắt đầu từ những biến đổi của công cụ sản xuất, lực lượng sản 1Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, quy luật giai cấp và đấu tranh giai cấp,... 339
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG xuất phát triển thì tương ứng với nó là toàn bộ quan hệ sản xuất, chính trị, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,... được xây dựng trên đó. Sự phát triển sản xuất, kinh tế suy đến cùng là nguồn gốc biến đổi cơ cấu xã hội, chính trị, giai cấp, tinh thần,... Chủ nghĩa tư bản từng đóng vai trò rất tích cực trong lịch sử, nó đã thúc đẩy sự ra đời đại công nghiệp, xé toang những hàng rào các cứ phong kiến. Song, trong chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng mang tính xã hội hóa với quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, biểu hiện về mặt kinh tế là các cuộc khủng hoảng theo chu kỳ, tình trạng lao động mất việc, bị bần cùng hóa ngày càng tăng lên. Khi phân tích nền kinh tế nước Anh những năm 40 của thế kỷ XIX, Ăngghen (1995) viết: “sau phồn vinh là khủng hoảng, sau khủng hoảng là phồn vinh, rồi lại khủng hoảng mới, và sự tuần hoàn vĩnh viễn ấy của công nghiệp Anh,... trừ những thời kỳ thịnh vượng cao độ ngắn ngủi, lúc nào nền công nghiệp Anh cũng phải có một đội quân lao động dự bị thất nghiệp” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995c, 432-433). Theo Mác và Ăngghen (1995), chính do sự chi phối của quy luật khách quan, mà giai cấp tư sản “giống như một tay phù thủy không còn đủ sức trị những âm binh mà y đã triệu lên” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995c, 604) - giai cấp công nhân làm thuê - đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, có sứ mệnh là xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vì sự nghiệp giải phóng hoàn toàn con người - đó là một “mệnh lệnh của lịch sử”. Tiến tới chủ nghĩa xã hội là một tất yếu hợp quy luật. Năm 1844, Mác (2000) đã khẳng định, chủ nghĩa xã hội là “hình thức tất yếu và là nguyên tắc kiên quyết của tương lai sắp tới” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2000, 183). Để hiện thực hóa nó, không thể không thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa với tư cách là “hình thức chính trị của sự giải phóng công nhân” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2000, 143). Mục tiêu của những người cộng sản là: “Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện hành. Mặc cho các giai cấp thống trị run sợ trước một cuộc Cách mạng cộng sản chủ nghĩa! Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995c, 646). Logic tiếp cận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã phản ánh quy luật phổ biến chi phối lịch sử, tiến lên chủ nghĩa xã hội là một mệnh lệnh tiên quyết của lịch sử, logic 340
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” ấy bám rễ trên nền tảng kinh tế nhất định và năng lực thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân trong sứ mệnh giải phóng hoàn toàn. Quán triệt sâu sắc phương pháp luận mác-xít, Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định triết lý phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là quy luật của lịch sử, phù hợp với nhu cầu và khát vọng của nhân loại về một xã hội vì con người. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung 2011), chỉ rõ: “Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 69). Tổng kết 35 năm đổi mới (1986 - 2021), Đại hội XIII của Đảng (2021) “khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 104). Đây là vấn đề vừa mang tính quy luật, vừa mang tính nguyên tắc, không được ngả nghiêng, dao động. 3. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC - SỰ SỤP ĐỔ VÀ PHÉP THỬ CHO SỨC SỐNG MÃNH LIỆT CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY Tháng 11/1917, cách mạng tháng Mười Nga thành công, chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực, điểm nhấn của cuộc cách mạng là đã khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, mở ra thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Sau hơn 70 năm tồn tại, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã đạt được nhiều thành tựu, có đóng góp to lớn trong sự phát triển của nhân loại. Song, do những sai lầm nhất định về đường lối khiến Liên xô sụp đổ (1991). Sự kiện ấy đánh dấu sự thoái trào của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, cũng như dấy lên những tranh luận về chủ nghĩa xã hội, ngày càng đa diện, nhiều chiều. Fukuyama, đề xuất tư tưởng về “sự tận cùng của lịch sử?”2 Đó là điểm tận cùng của sự tiến hóa tư tưởng nhân loại và sự phổ biến nền dân chủ tự do kiểu phương Tây (nền dân chủ tư sản - TNM) với tư cách là nhà nước cuối cùng của nhân loại (Fukuyama, 1989, 3-18). Butenko coi nhà nước Liên xô đã xa rời mô hình của Lênin sang khía cạnh của chủ nghĩa toàn trị, cực quyền, mang nặng tính độc tài, uy quyền; chủ nghĩa xã hội loại trừ sở hữu cá nhân với tư cách là cơ sở 2Trong bài viết The End of History? Năm 1989 và được phát triển trong cuốn sách The End of History and the Last Man năm 1992. 341
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG khách quan của dân chủ, việc bổ sung cho nền dân chủ nội dung xã hội chủ nghĩa là một toan tính không tưởng (Đinh, 2019, 297-298). Cái chết của mô hình Liên xô, là “chất liệu phê phán” lý tưởng của Mác, đồng nhất sự sụp đổ của một hình mẫu và sự cáo chung chủ nghĩa cộng sản. Derrida (1994), yêu cầu cần có sự tranh luận nghiêm túc về “sự cáo chung của lịch sử” (p.44), cũng như sự đoạn tuyệt hoàn toàn, sự hờ hững với di sản của Mác; thế giới đang “tàn tạ”, “thế giới ốm yếu rồi, nó đã tàn tạ, nhưng sự tàn tạ này chẳng được để ý tới nữa”; “trật tự thế giới mới”, trong sự điều hành của chủ nghĩa tư bản đang “xộc xệch” với 10 “vết loét” của nó, những “vết thương, lời điếu” của nó, và sẽ là “những cơn sóng gió chính trị - xã hội” của nó (p.165, 172, 179). Sự “tận cùng của lịch sử” của Fukuyama, theo Derrida (1994) là “niềm say sưa quá trớn của chủ nghĩa tư bản dân chủ tự do hay dân chủ xã hội, giống như một ảo giác mù quáng nhất và hôn mê nhất, thậm chí giống như một sự giả nhân giả nghĩa ngày càng lộ liễu trong cái lời lẽ hình thức và pháp lý của nó về quyền con người” (p.172). Trở lại di sản chủ nghĩa Mác - Lênin, các nhà kinh điển xem chủ nghĩa xã hội là phong trào hiện thực, mà phong trào hiện thực thì biểu hiện sinh động, phong phú, vừa phụ thuộc vào logic chung của lịch sử, vừa chịu ảnh hưởng bởi tình hình cụ thể cả về không gian và thời gian. Không có một mô hình nào là chung nhất. “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995b, p.51). Sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản có nguồn gốc từ hiện thực, phù hợp với những tiêu chuẩn của hiện thực, căn cứ vào những điều kiện lịch sử - cụ thể. Những dự báo của các nhà sáng lập học thuyết Mác cũng là những phác thảo chung nhất. Thật vậy, “... nghiên cứu một cơ thể đã phát triển thì dễ hơn là nghiên cứu tế bào của cơ thể đó” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2002, p.16). Nếu hiện thực chưa phát triển đến độ của nó, thì càng dự báo chi tiết về nó bao nhiêu thì lại càng rơi vào ảo tưởng bấy nhiêu. Đề cập đến vấn đề này, Lênin (2006b) viết: “Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như thế sẽ là phi lý. Chúng ta chỉ biết phương hướng 342
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” của con đường đó và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó; còn như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động” (p.152-153). Mô hình Liên xô dù đã từng trải qua thời kỳ hoàng kim với những thành tựu vượt bậc trên nhiều lĩnh vực. Song, việc áp dụng trong một thời gian dài một kiểu tổ chức xã hội, nhất là phương thức tập trung hóa cao độ nền kinh tế, đã gây ra những hệ lụy dẫn đến khủng hoảng, cải tổ thất bại và sụp đổ. Trở lại tinh thần của Lênin, ông đã rất mau chóng thay đổi mô hình phát triển xã hội, nhanh chóng chuyển từ chính sách cộng sản thời chiến (giúp nước Nga vượt qua sức ép cấm vận của 14 nước đế quốc và nội chiến), sang thừa nhận, ủng hộ, tạo điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa, mở đường cho phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện hòa bình vào năm 1921 (4 năm sau cách mạng tháng Mười). Nền kinh tế chỉ huy trong điều kiện đất nước hòa bình khi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, theo Lênin (2005e) “không thể cung cấp tất cả sản phẩm, hoàn toàn không thể cung cấp được, và còn lâu chưa thể cung cấp được, ít nhất là chừng nào mà chúng ta chưa hoàn thành các công trình điện khí hóa cả nước” (p.267). Cần thấy rằng, chính sách cấm trao đổi, mua bán trong điều kiện nước Nga vẫn còn tồn tại hàng triệu người sản xuất nhỏ là một hạn chế cần khắc phục. “Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với một đảng nào muốn áp dụng nó. Dại dột, vì về phương diện kinh tế, chính sách ấy là không thể nào thực hiện được; tự sát, vì những đảng nào định thi hành một chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá sản” (Lênin, 2005e, 267). Thay đổi tư duy, quan niệm về chính sách kinh tế, chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (hiểu là kinh tế thị trường), trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với tình hình thực tiễn thay đổi. Vào năm 1984, khi mầm mống của cuộc khủng hoảng về sự khan hiếm hàng hóa và khan hiếm lòng tin xuất hiện, trên các phương tiện truyền thông, trên diễn đàn khoa học xã hội, các bài viết về sự cần thiết phải cải tổ toàn bộ đời sống xã hội bắt đầu xuất hiện. Năm 1987 (Cách mạng Tháng Mười), Gorbachev đọc bản báo cáo với tiêu đề “Tháng Mười và Cải tổ - cuộc cách mạng đang tiếp diễn”, đó là một chiến lược giải phóng tiềm năng của chủ nghĩa xã hội, đem lại cho chủ nghĩa xã hội 343
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG “những giá trị mới” và “sức sống mới” và ông gọi đó “một cuộc cách mạng” (Lê, 2021, 54). Song, những sai lầm khiến Liên xô sụp đổ. Cái chết của hình mẫu Liên xô ảnh hưởng không nhỏ đến tư duy, quan niệm, niềm tin về chủ nghĩa xã hội. Biến cố lịch sử này phản ánh cái chết của một hình mẫu chứ không phải là cáo chung với một di sản “phù hợp với khái niệm di sản nói chung”, tức “cần phải thừa kế di sản của Mác” (Derrida, 1994, 120-119). Đồng thời, nó làm cho “di sản của Mác hồi sinh”, khẳng định giá trị thời đại trong “trật tự thế giới mới”. Lênin (2005b) từng khẳng định: “... dễ dàng thừa nhận mọi công thức và rời bỏ mọi công thức cũng dễ dàng như thế” (p.239). Kịp thời, linh hoạt, thận trọng trong cách tiếp cận, giải quyết các vấn đề của thực tiễn là điều kiện đảm bảo tính khả thi của cách mạng cộng sản. Bài học về sự rập khuôn, chuẩn hóa một mô hình trong những điều kiện lịch sử khác nhau là một bài học với khoản học phí đắt đỏ. Quán triệt sâu sắc quan điểm phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994 - 3 năm sau khi Liên xô sụp đổ) chỉ rõ: “xây dựng chủ nghĩa xã hội còn là sự nghiệp rất mới mẻ, đòi hỏi nhiều công phu nghiên cứu, khám phá, tìm tòi. Chúng ta phải không ngừng thông qua tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận mà từng bước hình dung ngày càng sáng tỏ về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm rõ những mô hình cụ thể trong từng lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,... Phải vận sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của Lênin về chính sách kinh tế mới, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo nhiều hình thức quá độ, những nấc thang trung gian, đa dạng, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể để đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007, 197-198). Sau 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, Đại hội XIII (2021) khẳng định: “..., lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa...; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 25-26). 344
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” 4. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI NHÌN TỪ GÓC ĐỘ TƯ TƯỞNG VÀ BÀI HỌC VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bản thân chủ nghĩa xã hội khoa học là hệ thống lý thuyết phản ánh tính tất yếu, nhu cầu phong trào công nhân từ những năm 40 của thế kỷ XIX cho đến ngày nay. Năm 1844, Mác (2000) viết: “Bản thân việc giải quyết những sự đối lập về lý luận chỉ có thể làm được bằng con đường thực tiễn,... thông qua tinh lực thực tiễn của con người... không phải chỉ là nhiệm vụ của nhận thức mà còn là nhiệm vụ hiện thực của đời sống mà triết học đã không thể giải quyết được chính là vì nó coi nhiệm vụ đó chỉ là nhiệm vụ lý luận” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2000, 177). Lòng thương người của chủ nghĩa cộng sản khoa học không phải là lòng thương người có tính chất triết học và trừu tượng mà là lòng thương người có “tính chất hiện thực và trực tiếp nhằm vào hành động” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2000, 169). Vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tuyệt đối hóa lý luận hay thực tiễn đều là sai lầm, sự di căn những chứng bệnh về nhận thức mang tính phổ biến. “Tư duy lý luận của mỗi một thời đại, cũng có nghĩa là cả thời đại chúng ta, là một sản phẩm lịch sử mang những hình thức rất khác nhau trong những thời đại khác nhau và do đó có một nội dung rất khác nhau” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1999a, 487). Lịch sử bắt đầu từ đâu thì tư duy cũng bắt đầu từ đấy. Ăngghen (1999) viết: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lặp lại một cách máy móc” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1999b, 796). Tương ứng với những giai đoạn phát triển khác nhau của phong trào cách mạng mà cần khái quát, bổ sung, phát triển lý luận cho phù hợp. “Từ sau khi chủ nghĩa Mác ra đời, mỗi một thời đại vĩ đại của lịch sử thế giới đều đem lại cho chủ nghĩa ấy những chứng thực mới. Nhưng thời đại lịch sử sắp tới sẽ đem lại cho chủ nghĩa Mác, học thuyết của giai cấp vô sản, một thắng lợi còn to lớn hơn nữa” (Lênin, 2005c, 5). Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học là một quá trình, mà ở đó không thể không tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, bổ sung chất liệu của thực tiễn vào kho tàng lý luận của nó để góp phần hình thành “thế giới quan hoàn bị”, có thể chỉ đạo, dẫn dắt đúng đắn thực tiễn. 345
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Trở lại lịch sử, Liên xô đã có nhiều công lao trong việc bổ sung, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học (đạt được nhiều thành tựu, phát triển ở trình độ cao). Song, hệ thống ấy còn mang nặng tính giáo huấn, một chiều, chung chung mà có thể “vận dụng vào đâu cũng đúng”. Tính chất một chiều, sách vở của lý luận có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tiếp biến, phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chuẩn hóa về mặt tư tưởng đã khiến bản chất và linh hồn sống của chủ nghĩa Mác - Lênin không sống, nó hạn chế khả năng sáng tạo, hình thành tâm lý bức bách, bị dồn nén về mặt tư duy. Đồng thời, với việc nắm trong tay phương tiện truyền thông, lý luận một chiều được trợ lực bởi những công cụ vật chất hùng hậu, tạo ra sự thống nhất cao độ trong xã hội - nhưng chỉ trên phương diện hình thức, còn thực chất nó tạo ra sự mâu thuẫn giữa tư duy và hiện thực, giữa lý trí và niềm tin, sự phân mảnh về tư tưởng, những cơn sóng ngầm báo hiệu cuộc khủng hoảng về ý thức hệ. Một số người đã nghĩ đến phương thức sinh hoạt tư tưởng “kiểu phương Tây” một cách thiếu kiểm soát như khát vọng muốn tìm đến “miền đất hứa của sự tự do về tư tưởng”. Lênin (2005a) từng nhắc nhở: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống” (p.232). Do đó, nếu không xa rời quan điểm mác-xít thì khó có thể mắc bệnh giáo điều trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tránh nguy cơ giáo điều hóa, xa rời hiện thực, gánh nặng của tính giáo huấn, một chiều trong vận dụng lý luận của Mác, cần “vận dụng nó (chủ nghĩa Mác - TNM) vào những điều kiện mới, thì sự phê phán mác-xít còn phong phú” đó “vẫn là cấp bách và vô cùng cần thiết” (Derrida,1994, 182-183). Thấm nhuần bài học này, ngay từ Đại hội VII năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam (2005) xác định, chủ nghĩa xã hội “... những gì mà nhận thức chúng ta đạt tới hôm nay sẽ còn được bổ sung, phát triển, cùng với sự phát triển sau này của thực tiễn và của tư duy lý luận” (p.19). Sau 35 năm đổi mới, Đại hội XIII của Đảng (2021) yêu cầu “quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa kiên định và đổi mới, giữa kế thừa và phát triển, trên cơ sở phát huy dân chủ rộng rãi” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 19). Bên cạnh đó, “Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021,40). 346
  10. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” 5. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - SẢN PHẨM CỦA SỰ KẾ THỪA, PHÁT TRIỂN TINH HOA CỦA NHÂN LOẠI, TRỰC TIẾP LÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN Chủ nghĩa xã hội là sản phẩm của lịch sử, của sự kế thừa, phát triển tinh hoa của nhân loại, trực tiếp là chủ nghĩa tư bản. Theo Mác, lịch sử chứng minh từ chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy đến chủ nghĩa cộng sản văn minh là một quá trình phủ định của phủ định, là sự kế thừa, tiếp biến thành tựu của tất cả các thế hệ đã qua. Chủ nghĩa cộng sản văn minh - “sự quay trở lại này diễn ra một cách có ý thức và có giữ lại tất cả sự phong phú của sự phát triển trước đó” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2000, 167); ở đó nhân loại phải “học cách tin tưởng ở con người”. Đề cập đến vấn đề này, Lênin (2006c) viết: “Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được” (p.334). Do ảnh hưởng của tư duy siêu hình và sự chuẩn hóa một mô hình, nên chủ nghĩa xã hội hiện thực (sau Lênin) có biểu hiện đối lập tuyệt đối giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội; chiến tranh lạnh hình thành hai cực, hai phe, “một mất một còn” trên hầu hết các lĩnh vực. Do đó, trên bình diện vật chất, chủ nghĩa xã hội khó có khả năng (mà phải tự mình) tiếp cận thành tựu mới nhất của khoa học - công nghệ; trên bình diện tinh thần, việc giao lưu, tiếp biến các giá trị văn hóa, tư tưởng, khoa học,... còn hạn chế. Ngoài những nguyên nhân về mặt lịch sử, có thể thấy rằng những người cộng sản còn ảnh hưởng của tư duy siêu hình, bệnh chủ quan, đôi chỗ còn ấu trĩ tả khuynh chưa hiểu đúng vai trò quan trọng của sự kế thừa di sản của chủ nghĩa tư bản với tư cách là một quá trình phủ định biện chứng. Cần đứng trên vai người khổng lồ nếu muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, tức phải kế thừa tinh hoa của nhân loại, nhất là dưới chủ nghĩa tư bản. Mác, Ăngghen, Lênin đã không ít lần nhắc nhở về việc kế thừa, học tập và phát triển thành tựu của chủ nghĩa tư bản. Khi phê phán chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là “ăn bám và thối nát” 3, Lênin (2006c) vẫn khẳng định: “... Chủ nghĩa tư bản độc quyền ‐ nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho 3 Ăn bám vì nó chiếm đoạt lao động thặng dư trên toàn cầu thông qua xuất khẩu tư bản và các nhóm đầu sỏ tài chính. Thối nát vì chạy theo lợi nhuận độc quyền cao mà có thể sản xuất bất kỳ cái gì miễn là có lợi nhuận kể cả những thứ hủy diệt loài người và chậm ứng dụng khoa học - công nghệ mới vào sản xuất,... 347
  11. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử, mà giữa nó (nấc thang đó) với nấc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội thì không có một nấc nào ở giữa cả” (p.371). Trong quá trình xây dựng xã hội mới, Lênin (2006) phê phán lối nghĩ hẹp hòi, “đem chủ nghĩa tư bản đối lập một cách trừu tượng với chủ nghĩa xã hội” và cho rằng: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền Xô-viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơ- rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc. etc. ++ = ∑(tổng số, tổng kết lại) = chủ nghĩa xã hội” (Lênin, 2006c, 684). Đồng thời, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như là “những chiếc cầu nhỏ” đi lên chủ nghĩa xã hội, là “khoản học phí” xứng đáng cho giai cấp công nhân trong sự nghiệp cách mạng. “Chủ nghĩa tư bản nhà nước vẫn ... sẽ đưa chúng ta đến chủ nghĩa xã hội bằng con đường chắc chắn nhất” (Lênin, 2005e, 251-252). Trên đây là một vài minh họa về tinh thần khoan dung và quan điểm kế thừa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương kế thừa thành tựu của nhân loại, nhất là thành tựu của chủ nghĩa tư bản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Về quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội IX (2001) chỉ rõ: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 130-131). Tiếp tục tinh thần kế thừa và phát triển, Đại hội XIII xác định “vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”, “tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam”, “phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 145, 147, 262). 348
  12. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” 6. TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CẦN CẢNH GIÁC, ĐOẠN TUYỆT VỚI ÂM MƯU, HÀNH ĐỘNG ĐÓNG VAI MÁC ĐỂ CHỐNG CHỦ NGHĨA MÁC “Đóng vai Mác để chống chủ nghĩa Mác” là luận điểm mà Derrida nêu lên trong cuốn Những bóng ma của Mác. Ông đã dành hẳn một chương để phê phán hành động đi ngược lại những quan điểm đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa Mác - đó là sự “bóp nghẹt mệnh lệnh chính trị”, “vô hiệu hóa một sức mạnh tiềm tàng” của học thuyết Mác với tư cách là “giải thoát và cứu thế ”, “một kinh nghiệm mở cửa cho tương lai tuyệt đối của cái đang đến”, những sai lầm đã trải qua khiến di sản Mác “chịu đựng những cơn đau của lịch sử” (Derrida, 1994, 77, 188, 189, 190, 191). Thực chất nội dung này là bài học về xây dựng Đảng, bài học về sự kiên định nguyên lý khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng Cộng sản Liên xô đã để lọt vào hàng ngũ những người phá hoại sự nghiệp - sự phá hoại từ bên trong. Gorbachev và Yakovlev - những “kiến trúc sư trưởng” cho sự nghiệp “cải tổ và phá hoại”. Ngày 2/11/1987, Gorbachev (lúc này là Tổng bí thư) đã tuyên bố “Chúng ta đang hướng tới một thế giới mới - thế giới của chủ nghĩa cộng sản và sẽ không bao giờ đi chệch khỏi con đường đó” (Lê, 2021, 53) - thể hiện là “những người trung thành” nhưng thực chất là chống cộng. Sau cuộc cải tổ 4 năm, Liên Xô đã lùi vào lịch sử như một cái chết đã được dự báo từ trước của giới truyền thông phương Tây. Gorbachev tuyên bố: “mục tiêu của cả cuộc đời tôi là tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản, một chế độ độc tài không thể dung thứ đối với con người. Tôi được vợ hoàn toàn ủng hộ... Tôi đã nỗ lực tìm được các cộng sự để thực hiện mục tiêu này. Trong số đó có Shevardnadze và Yakovlev - những người có công lao trong sự nghiệp chung của chúng tôi” (Lê 2021, 53-54). Đó là hành động phản cách mạng núp bóng một nhà cách mạng. Trở lại di sản kinh điển Mác-xít, công tác xây dựng và chỉnh đốn đảng là cần thiết, cấp bách, quan trọng đối với toàn bộ phong trào. Đảng là bộ phận ưu tú, giác ngộ của phong trào, là nhân tố chủ quan chỉ đạo, dẫn dắt phong trào tiến lên. Trong Đảng tập hợp những người ưu tú, kiên trung mới có thể làm được vai trò của một Đảng tiền phong. Lênin (2005d) khẳng định: “Chủ nghĩa Mác giáo dục đảng công nhân, là giáo dục đội tiền phong của giai cấp vô sản, đội tiền phong này đủ sức nắm chính quyền và dắt dẫn toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức 349
  13. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động và những người bị bóc lột để giúp họ tổ chức đời sống xã hội của họ,...” (p.33). Hô hào “cách tân” và “sửa lại”, vận dụng chủ nghĩa Mác “một cách có thiện ý” là biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, về thực chất là luôn “nhảy từ thái cực này sang thái cực khác”, hòng là tìm cách “vận dụng chủ nghĩa Mác sao cho có thể biện hộ cho tất cả những sự nhượng bộ chủ nghĩa cơ hội” (Lênin, 2006a, 281). Theo Lênin (2006d), “không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta. Toàn bộ vấn đề là ở chữ “nếu” này. Nếu chúng ta do sai lầm mà gây ra sự chia rẽ thì tất cả sẽ sụp đổ,...” (p.311). Nhân danh chủ nghĩa xã hội để phủ nhận chủ nghĩa xã hội, biến nhà nước xã hội chủ nghĩa thành pháo đài bất khả xâm phạm của chủ nghĩa cơ hội, biến những người lãnh đạo, người đứng đầu của Đảng thành những vị thánh không vầng hào quang,... từ đó làm nảy sinh từ bên trong những nguy cơ mà chủ nghĩa xã hội phải đối mặt, đó là con đường mà sự trả giá của nó là sinh mệnh chính trị của giai cấp công nhân. Kiên định chủ nghĩa xã hội, kiên định sự lãnh đạo của Đảng, các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng là bài học quý báu từ sự sụp đổ của Liên xô. Chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, sự “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong nội bộ là phương thức tồn tại của Đảng, là quy luật phát triển của Đảng từ lịch sử cho đến hiện nay. Quán triệt sâu sắc bài học này, Đại hội XIII xác định: “công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng...; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ;...” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 26-27); không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động. 7. KẾT LUẬN Chủ nghĩa xã hội là sản phẩm tất yếu của lịch sử. Chủ nghĩa xã hội hiện thực (kiểu Liên xô) đã từng là hình mẫu chung cho sự hiện diện của nó trong thực tế, 350
  14. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” song chính sự sụp đổ của hình mẫu ấy khiến cho chúng ta có những nhận thức và xúc cảm khác nhau - vừa là “nỗi đau lịch sử” vừa là “bài học lịch sử”. Nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội còn chưa thật sự đầy đủ, cần được tiếp tục bổ sung, phát triển. Trở lại di sản kinh điển Mác-xít, giúp chúng ta có cách tiếp cận khách quan, khoa học để kế thừa, tiếp biến, hiện thực hóa di sản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Những cơn đau lịch sử là bài học đắt giá với cách mạng Việt Nam; đồng thời đánh dấu “sự trở lại của một người đã chết (Mác - TNM), một sự tái hiện ma quái mà việc tang lễ của thế giới (sụp đổ của Liên xô năm 1991 - TNM) đã không thể nào vứt bỏ nổi” (Derrida, 1994, 211), tức khẳng định sức sống mãnh liệt, vĩnh hằng, phổ biến chủ nghĩa xã hội khoa học qua những biến cố lịch sử. “Mác dù sao cũng là một triết gia..., một triết gia vĩ đại... Trở lại Mác, cuối cùng chúng ta hãy đọc ông như đọc một triết gia vĩ đại” (Derrida, 1994, 78). Kế tục di sản kinh điển mác-xít, trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay cần quán triệt 5 bài học sau: (1) Kiên định triết lý và con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; (2) Kế thừa thành tựu, tiếp tục nghiên cứu và rút kinh nghiệm từ sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên xô; (3) Quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong vận dụng, nghiên cứu, phát triển lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; (4) Kế thừa, tiếp biến có chọn lọc tinh hoa nhân loại, nhất là chủ nghĩa tư bản gắn với bảo vệ, phát triển truyền thống tốt đẹp của dân tộc; (5) Cảnh giác, đấu tranh kiên quyết với chủ nghĩa cơ hội, xét lại; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao bản lĩnh và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ./. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bensaid, D. (1998). Mác người vượt trước thời đại (T. Phạm, V. H. Nguyễn, & X. T. Lê, Trans.). Chính trị quốc gia. [2]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995a). Toàn tập (Vol. 2). Chính trị quốc gia. [3]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995b). Toàn tập (Vol. 3). Chính trị quốc gia. [4]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995c). Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia. [5]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1999a). Toàn tập (Vol. 20). Chính trị quốc gia. 351
  15. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG [6]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1999b). Toàn tập (Vol. 36). Chính trị quốc gia. [7]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (2000). Toàn tập (Vol. 42). Chính trị quốc gia. [8]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (2002). Toàn tập (Vol. 23). Chính trị quốc gia. [9]. Derrida, J. (1994). Những bóng ma của Mác. Chính trị quốc gia. [10]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2005). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 51). Chính trị quốc gia. [11]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2007). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 53). Chính trị quốc gia. [12]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 60). Chính trị quốc gia. [13]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Chính trị quốc gia. [14]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [15]. Đinh, N. T. (2019). Triết học chính trị phương Tây hiện đại, giá trị và ý nghĩa. Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh. [16]. Fukuyama, F. (1989). The End of History? The National Interest, 16, 3–18. [17]. Lê, T. M. (2021). M.Gorbachev và A.Yakovlev - Những kẻ phản bội chủ nghĩa xã hội lớn nhất trong lịch sử chính trị thế giới. In Hồ sơ Sự kiện, số 443 (25/3/2021) (pp. 53–55). [18]. Lênin, V. I. (2005a). Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia. [19]. Lênin, V. I. (2005b). Toàn tập (Vol. 6). Chính trị quốc gia. [20]. Lênin, V. I. (2005c). Toàn tập (Vol. 23). Chính trị quốc gia. [21]. Lênin, V. I. (2005d). Toàn tập (Vol. 33). Chính trị quốc gia. [22]. Lênin, V. I. (2005e). Toàn tập (Vol. 43). Chính trị quốc gia. [23]. Lênin, V. I. (2006c). Toàn tập (Vol. 36). Chính trị quốc gia. 352
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2