Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam
lượt xem 45
download
Văn học trung đại có thi pháp của nó. Thi pháp học truyền thống một phần là lý luận văn học của nền văn học ấy. Để hiểu văn học trung đại, chỉ riêng việc nghiên cứu thi pháp học lý thuyết truyền thống, trình bày các phạm trù, khái niệm, phương pháp của nó cũng đã là một việc rất cần thiết và chẳng dễ dàng chút nào. Thi pháp văn học trung đại là một lĩnh vực hết sức khó khăn. Khó khăn về lý thuyết, về tư liệu, về sự thâm nhập, phân tích. Để hiểu rõ hơn về nội dung, mời các bạn cùng xem và tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam
- MẤY VẤN ĐỀ THI PHÁP VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM MẤY VẤN ĐỀ THI PHÁP VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM Tác giả: TRẦN ĐÌNH SỬ PHẦN MỞ ĐẦU THI PHÁP HỌC HIỆN ĐẠI VÀ THI PHÁP VĂN HỌC TRUNG ĐẠI Văn học trung đại là một giai đoạn lớn trong lịch sử văn học nhân loại và dân tộc, đồng thời cũng là một trong ba phạm trù lớn của văn học, bên cạnh văn học cổ đại và văn học cận hiện đại. Chính vì vậy, vấn đề thi pháp văn học trung đại không chỉ có ý nghĩa để hiểu sâu thêm văn học trung đại, mà còn gián tiếp giúp làm sáng tỏ đặc điểm văn học cổ đại và hiện đại trong thế đối sánh. Văn học trung đại Việt Nam tính từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX lại là giai đoạn hình thành và phát triển rực rỡ của văn học Việt Nam, là giai đoạn hình thành các truyền thống lớn về tư tường và nghệ thuật. Do vậy, việc nghiên cứu thi pháp văn học giai đoạn này có ý nghĩa giúp cho việc chiếm lĩnh sâu thêm các truyền thống văn học dân tộc, thúc đẩy việc học tập và kế thừa các truyền thống tốt đẹp ấy. Văn học trung đại chiếm một phần không nhỏ trong chương trình văn học ở phổ thông và đại học, và việc dạy học văn học trung đại sao cho có hiệu quả đang là một mục tiêu phấn đấu của giáo viên các cấp. Nghiên cứu thi pháp văn học giai đoạn này sẽ cung cấp thêm tài liệu tham khảo để giải quyết vấn đề rộng lớn này. Văn học trung đại có thi pháp của nó. Thi pháp học truyền thống một phần là lý luận văn học của nền văn học ấy. Để hiểu văn học trung đại, chỉ riêng việc nghiên cứu thi pháp học lý thuyết truyền thống, trình bày các phạm trù, khái niệm, phương pháp của nó cũng đã là một việc rất cần thiết và chẳng
- dễ dàng chút nào. Vì sao lại còn nghiên cứu thi pháp học truyền thống theo quan điểm thi pháp học hiện đại? Ở đây xin được làm sáng tỏ mấy khái niệm sau: 1. Thi pháp là hệ thống các nguyên tắc nghệ thuật chi phối sự tạo thành của một hệ thống nghệ thuật với các đặc sắc của nó. Thi pháp không phải là nguyên tắc có trước, nằm bên ngoài, mà là nguyên tắc bên trong, vốn có của sáng tạo nghệ thuật hình thành cùng với nghệ thuật. Nó là mĩ học nội tại của sáng tác nghệ thuật gắn liền với sự sáng tạo và một trình độ văn hoá nghệ thuật nhất định, mang một quan niệm nhất định đối với cuộc đời, con người và bản thân nghệ thuật. Thi pháp biểu hiện trên các cấp độ: tác phẩm, thể loại, ngôn ngữ, tác giả và bao trùm là cả nền văn học. 2. Thi pháp học là khoa học nghiên cứu về thi pháp. Khoa học này bao gồm mấy bộ phận sau: a) Lý luận về thi pháp của một giai đoạn văn học lịch sử cụ thể. Ở đây sẽ bao gồm lý luận về thi pháp vốn có của giai đoạn văn học trung đại, được tác giả của chúng thừa nhận. b) Hệ thống các nguyên tắc nghệ thuật thể hiện trong bản thân sáng tác của giai đoạn văn học được xét. Hệ thống này do tồn tại tiềm tàng trong sáng tác nên cần được miêu tả ra, đồng thời nó cũng không trùng khít với thi pháp học lý thuyết của giai đoạn văn học ấy. c) Lý luận thi pháp của người nghiên cứu dùng để miêu tả một cách hệ thống thi pháp tiêm tàng trong thực tế văn học và lý giải mới đối với lý luận thi pháp đã có trong lịch sử. Ba bộ phận của thi pháp học này liên hệ với nhau trong một mối quan hệ hết sức khăng khít. Lý luận thi pháp lịch sử là siêu ngôn ngữ thành văn của thi pháp văn học một thời. Lý luận thi pháp học hiện đại là siêu ngôn ngữ của nghiên cứu văn học hiện đại dùng để miêu tả lý luận thi pháp lẫn thi pháp văn học của một giai đoạn. Chính vì như vậy, thi pháp học hiện đại có một ý
- nghĩa quan trọng, bao trùm. Thiếu một quan niệm thi pháp học hiện đại sáng tỏ không thể tiến hành phân tích, miêu tả hệ thống thi pháp văn học được. 3. Công trình này sở dĩ được gọi là Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam là bởi vì nó được gợi ý từ nhiều công trình nghiên cứu thi pháp văn học trung đại của các tác giả hiện đại nước ngoài, trước hết là các tác giả Nga. Thời nào cũng vậy, các công trình nghiên cứu có hiệu quả bao giờ cũng gợi ý cho người đi sau. Trước đây nhờ có Nghệ Văn Chí của Ban Cố mới có Nghệ Văn Chí của Lê Quý Đôn; có Lịch sử văn học Pháp của Lăngxông, mới có Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm. Dĩ nhiên học tập là sáng tạo bởi vì phải vận dụng vào đối tượng mới. Ở Nga (Liên Xô cũ) nhà nghiên cứu M. I. Stebơlin–Camenxki viết Thi pháp học lịch sử trên cơ sở tài liệu văn học cổ nước Anh theo phương hướng của sách Thi pháp học lịch sử của A.N. Vêxêlôpxki (1978), còn X. X. Avêrinxép viết Thi pháp văn học Bidantin trung dại thượng kỳ theo quan niệm và phương pháp của D. X. Likhatrốp. Ông nói: ông mô phỏng Likhatrốp để khám phá thi pháp một nền văn học khác. Nhà Việt Nam học N.I.Niculin cũng vận dụng quan điểm của Likhatrốp để nghiên cứu văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX. Đến lượt mình, chúng tôi cũng mô phỏng bước đi, cách làm của các nhà nghiên cứu Xô viết (Liên Xô trước đây). Tất nhiên khi vận dụng vào văn học trung đại Việt Nam chúng tôi buộc phải điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Học tập nước ngoài bao giờ cũng là một việc làm cần thiết để nâng cao trình độ tiếp cận của mình. Trong bước đầu học tập chắc công trình này không tránh khỏi những khiếm khuyết, mặc dù chúng tôi cố gắng để tránh khỏi khiên cưỡng, gò ép. 4. Trong nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam hiện nay đã có khá nhiều công trình văn học sử, cũng đã có một số công trình đi sâu vào một số thể loại, tác giả: Một số công trình bước đầu thăm dò một số quy luật phát triển của văn học Việt Nam. Tuy nhiên một công trình mang cái nhìn tổng thể đối với thi pháp văn học trung đại Việt Nam vẫn rất cần thiết. Chính vì vậy,
- chúng tôi không ngại kiến thức sơ khoáng, kinh nghiệm ít ỏi, mạo muội thử đi vào tìm hiểu. Chúng tôi đặt cho mình một mục tiêu khiêm tốn: Bước đầu giới thiệu một số công trình nghiên cứu thi pháp văn học trung đại của nước ngoài, tìm kiếm trong đó những khái niệm cần thiết, những cách tiếp cận hữu hiệu, gợi ra một phương hướng nghiên cứu thi pháp văn học Việt Nam trung đại. Trên cơ sở đó, bước đầu nêu ra một số vấn đề cơ bản, như loại hình văn học, các bình diện đặc trưng, thi pháp một số thể loại văn học với quan niệm con người, quan niệm thế giới và một số phương thức nghệ thuật. Để thực hiện mục tiêu này, chúng tôi một mặt tìm đọc các tài liệu văn học Việt Nam, tham khảo, học tập các tác giả đi trước, tham khảo các kiến giải nước ngoài, bước đầu nêu kiến giải của mình, tạo thành một cái nhìn hệ thống. Muốn tìm hiểu thấu đáo thi pháp văn học trung đại Việt Nam chắc chắn còn phải dày công nghiên cứu cụ thể hơn nữa, và đòi hỏi sự tham gia tìm tòi của nhiều học giả và thế hệ nhà nghiên cứu. Chừng nào còn chưa có những công trình nghiên cứu chuyên sâu từng mặt, thì một công trình như thế này khó tránh khỏi gây cảm giác chung chung. Nhưng mặt khác một cái nhìn bao quát cũng có ý nghĩa để đi sâu vào từng mặt cụ thể. Thi pháp văn học trung đại là một lĩnh vực hết sức khó khăn. Khó khăn về lý thuyết, về tư liệu, về sự thâm nhập, phân tích. Chúng tôi mong nhận được nhiều ý kiến chỉ giáo để có thể hoàn thiện thêm nhằm cung cấp tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học và những ai quan tâm tới vấn đề. Chúng tôi trân trọng cảm ơn các GS Trần Thị Băng Thanh, Hoàng Hữu Yên đã cho những nhận xét quý báu để chúng tôi hoàn thiện bản thảo. Hà Nội, năm Đinh Sửu, 1997 TÁC GIẢ
- Phần I. MẤY VẤN ĐỀ THI PHÁP VĂN HỌC TRUNG ĐẠI Chương 1. THI PHÁP HỌC TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG CÁCH TIẾP CẬN VỚI THI PHÁP VĂN HỌC TRUNG ĐẠI I. THI PHÁP HỌC TỪ TRUYỀN THỐNG TỚI HIỆN ĐẠI 1. Thi pháp học truyền thống Sau mấy nghìn năm tồn tại và phát triển, thi pháp học truyền thống bước vào thế kỷ XX đã chuyển sang giai đoạn hiện đại với nhiều trường phái mới, đã làm đổi thay hẳn cách tiếp cận văn học và mở ra những chân trời mới cho việc nghiên cứu, nhìn nhận văn học nghệ thuật nói chung và văn học trung đại nói riêng. Như nhiều người đã có nhận xét, thi pháp học truyền thống từ Arixtốt ở phương Tây hay Lưu Hiệp ở phương Đông trở đi đều có chung một số đặc điểm như sau: Thi pháp học là bộ môn khoa học xuất hiện như là một cẩm nang sắp xếp những lời dạy về phép tắc đối với nghề sáng tạo nghệ thuật. Miller T.A. trong sách Lịch sử phê bình văn học thời Hy Lạp cổ điển thế kỷ V – VI cho rằng: Về thể loại sách Thi pháp học của Arixtốt là một dạng sách giáo khoa, một thứ cẩm nang về các quy tắc thực tiễn của một nghề như nghề thủ công cụ thể. Thi pháp là kiến thức dạy nghề cho những ai làm nghề văn học. Thời cổ đại người ta nhìn văn học dưới góc độ nghề. Nghệ thuật thi ca nằm cùng dãy với thuật hùng biện (Rhêtorica), thuật tư duy (logica), và thi pháp học chính là thuật làm văn thơ vậy. Sau Arixtốt, các công trình thi pháp học của Horaxơ, Longinus, Caxtenvestrô, Boalô, Létxinh vẫn đi theo quỹ đạo đó. Trong sách Nghệ thuật thi ca của Antonio Minturnô (Italia) viết năm 1564, thơ vẫn còn đặt cùng dãy với các nghệ thuật khác như quân sự, y học, kiến trúc, và đến cuối thế kỉ XVIII ở châu Âu, thơ vẫn nằm trong dãy các “nghệ thuật tự do” như toán pháp, thiên văn, âm nhạc, hùng biện.
- Ở Trung Quốc Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp, theo nhận định của nhà sử học Phạm Văn Lan trong Trung Quốc thông sử, phần hai là sách trình bày “phép tắc làm văn”. Nhà nghiên cứu Vương Vận Hi cho rằng có thể dịch tên “Văn tâm điêu long” thành “Nghĩa lý tinh tuý về cách làm văn chương”. Sau Lưu Hiệp các nhà thi thoại và các nhà bình điểm tiểu thuyết cũng nhận xét, đánh giá tác phẩm theo “cách làm” của họ. Cách hiểu ấy đã cho thấy rõ đặc điểm chung của thi pháp học truyền thống là hướng tới truyền thụ phép tắc làm văn. Tinh thần này đã được lưu truyền và ngự trị hàng nghìn năm. Thế kỉ XVI, Beneđettô Varki, thành viên Viện Hàn lâm Italia tuyên bố: “Mục đích của nhà thơ là làm cho tâm hồn của con người được hoàn thiện và hạnh phúc, và công việc của anh ta là bắt chước, tức là đóng vai (Fingera). và miêu tả (Rapprsentare) sự vật, nhằm làm cho con người tốt hơn, lương thiện hơn, và do đó mà hạnh phúc hơn… Thi pháp học – là khoa học (Facoltà) dạy những cách thức cần thiết để bắt chước các hành động, các dục vọng và các phong tục bằng các phương tiện nhịp điệu, ngôn từ và hài hoà, gộp lại hay tách riêng…”. Tinh thần trên đã dần dần đưa thi pháp học truyền thống vào quỹ đạo quy phạm hoá mà tiêu biểu nhất là công trình Bàn về nghệ thuật thơ ca của Boalô, pháp điển của chủ nghĩa cổ điển Pháp. Ở Trung Quốc nguyên tắc làm văn xây dựng trên nguyên lý thống nhất giữa văn và đạo, đức, khí, phong, tức nguyên lý vận hành của vũ trụ và giáo hoá đối với con người. Lục Cửu Uyên (đời Tống) nói “Nghệ tức là đạo, đạo tức là nghệ”. Lưu Hi Tải (đời Thanh) nói “Nghệ là hình của đạo”. Nghệ đây là tài năng, kỹ thuật mà hình ảnh tiêu biểu là câu chuyện Bào Đinh làm thịt trâu của Trang Tử. Nghệ thuật của Trung Quốc biểu hiện ra thành “pháp”. Người ta nói “kỹ pháp”, “thương pháp”, “đao pháp”, “thư pháp”, “hoạ pháp”. “bút pháp”, “thi pháp”, “chương pháp”, “cú pháp”, “văn pháp”, “tự pháp”. Pháp sinh ra từ lý, lý sinh ra từ đạo. Đạo là một phạm trù phổ quát, trừu tượng, cho nên từ “đạo” mà suy ra “pháp” cũng khác nhau vô vàn. Nghiêm Vũ (đời Tống) trong sách Thương Lang thi thoại nói thơ có năm pháp: “thể chế, cách lực, khí
- tượng, hứng thú, âm tiết”. Khương Quỳ trong Bạch Thạch đạo nhân thi thuyết nói thơ có bốn pháp. “khí tượng, thể diễn, huyết mạch, vận độ. Khí tượng phải hồn hậu, hồn hậu quá thì tục; thể diện phải lớn lao, lớn lao quá thì ngông; huyết mạch phải lưu thông, lưu thông quá thì lộ; vận độ phải phiêu dật, phiêu dật quá thì hời hợt”. Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long trước đó cũng đề ra “Lục nghĩa”: Tình sâu mà không giả dối, phong cách thuần hậu mà không hỗn tạp, sự việc chân thật, không hoang đường, nghĩa lý thẳng thắn không quanh co, bố cục gọn gàng không rối rắm, lời văn đẹp mà không loè loẹt…” Cũng nói về thơ, Tạ Trăn trong Tứ Minh thi thoại thì cho rằng “Thơ có bốn cách: một là hứng, hai là thú, ba là ý, bốn là lý”: Diệp Nhiếp đời Thanh trong Nguyên Thi nói: Ta cho thơ có ba tiếng là nói hết: một là lý, hai là sự, ba là tình. Được ba điều này mà bất biến thì có được các “pháp” của tự nhiên. Do đó cái gọi là “pháp”, chỉ là lý xác đáng, sự chính xác, tình đúng mực”. Cũng theo cách suy nghĩ đó, Lê Quý Đôn nói: “Ta thường cho làm thơ có ba điều chính: một là tình, hai là cảnh, ba là sự…”. Các nhà bình điểm tiểu thuyết thời Minh– Thanh lại càng đúc rút được nhiều thủ pháp tiểu thuyết. Theo Kim Thánh Thán tiểu thuyết Thuỷ hử có 15 pháp, như đảo sáp pháp (xen ngược), giáp tự pháp (kể xen vào giữa câu nói), thảo xà khôi tuyến pháp (vẽ đường rắn bò), đại lạc mặc pháp (tô đậm mực), cẩm châm nê thích pháp (kim gấm châm bùn), bối diện phô phấn pháp (tô phấn sau lưng), lộng dẫn pháp (đùa dẫn một đoạn nhàn văn viết trước chính văn), lạt vĩ pháp (thêm dư ba), chính phạm pháp (cố ý tả việc giống nhau, tức vi phạm cấm kỵ), lược chính phạm (tả việc gần giồng nhau), cực bất tỉnh pháp (cố rườm rà), cực tỉnh pháp (tước bỏ nhiều), dục hợp túng pháp (muốn hợp nên buông), hoành vân đoạn sơn pháp (mây che ngang núi), loan giao tục huyền pháp (dùng giao loan nối dây). Theo Mao Tôn Cương, Tam Quốc diễn nghĩa có 12 pháp: phép “cùng cây khác cành, cùng cành khác lá, cùng lá khác hoa”, phép “vật đổi sao dời, mưa che gió lật”, phép “gieo giống cách năm, sớm cho mai phục”, phép “dùng mây che núi, dùng cầu bít khe”, phép “sương sa trước tuyết, sấm nổi trước mưa”, phép “sau sóng còn gợn, sau
- mưa còn ẩm”, phép ““băng lạnh gió nóng, gió mát quét bụi”, phép “tiếng trống xen trong tiếng kèn sáo, tiếng chuông chen trong tiếng đàn”, phép “thêu tơ vá gấm, dời kim thêu đều, phép “đỉnh núi đối nhau, bình phong gấm che nhau, phép “núi gần tô đậm, núi xa vẽ mờ”, phép “dùng khách tôn chủ”. Các “pháp” này cho thấy người Trung Quốc xưa thường dùng con mắt hội hoạ hoặc con mắt không gian để hình dung nghệ thuật ngôn từ. Những ví dụ trên cho thấy các phép tắc, lời dạy của thi pháp văn học truyền thống một mặt là rất phong phú, thâm thuý, có ý nghĩa rất lớn để lý giải văn học đương thời. Nhưng mặt khác là nó mang nặng tính kinh nghiệm, tính giáo huấn và tính quy phạm. Tính kinh nghiệm làm cho hệ thống thi pháp được nhìn nhận cô lập trong từng biểu hiện, lắm khi mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn, có người đề xướng “Thi diệu tại hàm hồ” (Tạ Trăn), có người nói ngược lại: “Thơ không lấy thơ hồ làm điều kỳ diệu (Lý Trọng Hoa, đời Thanh). Có người nói “thơ lấy ý làm chủ, có người nói “thơ lấy khí làm chủ”. Có người lại nói “thơ vô ngã là quý”, có người lại nói “thơ quý ở chỗ có ngã”. Viên Mai nói mạnh hơn: “Thơ không thể vô ngã”. Phân tích đặc điểm thi pháp học trung đại Khơrápchencô nhận xét: “Cách tiếp cận cô lập đó làm khó khăn cho việc khám phá tính toàn vẹn của hệ thống thi pháp về mặt hình thành và phát triển của nó”. Tính giáo huấn khó tránh khỏi sự áp đặt, còn tính quy phạm mâu thuẫn với sự sáng tạo sinh động, quan niệm nghệ thuật bất biến không phù hợp vôi quá trình phát triển lịch sử của nghệ thuật. Những đặc điểm ấy làm cho thi pháp học truyền thống, mặc dù với tất cả giá trị phong phú và uyên bác, vẫn không đáp ứng đầy đủ nhu cầu nhận thức về hệ thống nghệ thuật trung đại của người hiện đại. 2. Thi pháp học hiện đại Thế kỷ XVIII ở châu Âu với cách mạng xã hội, phong trào Khai sáng, chủ nghĩa lãng mạn nảy sinh, mỹ học ra đời, quan niệm văn học đã có sự thay đổi lớn. I.Kăng là người đầu tiên khẳng định nghệ thuật không phải nghề thủ công, không phải khoa học, mà là hoạt động tự do. Có nhà mỹ học Pháp đã sử dụng thuật ngữ “nghệ thuật đẹp” (fine arts) để chỉ năm loại hình, âm
- nhạc, thi ca, hội hoạ, điêu khắc, vũ đạo nhằm phân biệt với “nghệ thuật cơ giới”, phục vụ mục đích thực dụng. Tuy vậy cả thế kỷ XIX là thế kỷ quan tâm tới nội dung xã hội, tư tưởng của nghệ thuật. Phải đến đầu thế kỷ XX hình thức nghệ thuật mới trở thành sự kiện được chú ý. Bắt đầu từ thi pháp học lịch sử của nhà nghiên cứu văn học Nga A.N.Vêxêlôpxki, hình thức nghệ thuật được xem như một đối tượng nghiên cứu có lịch sử riêng. Nhưng phải từ đầu thế kỷ XX, với ảnh hưởng của quan niệm hệ thống trong ngôn ngữ học của F. đơ Xốtsuya thi pháp học hiện đại đã có một đổi thay căn bản. Từ trường phái hình thức Nga đến trường phái phê bình mới Anh – Mỹ đầu thế kỷ, chuyển sang trường phái cấu trúc, ký hiệu học, hiện tượng học và trường phái thi pháp học lịch sử theo quan niệm macxít, thi pháp học hiện đại đã được xác lập như một hệ thống cách tiếp cận mới đối với văn học. a) Văn học được xem như một sáng tạo bằng chất liệu, có đời sống lịch sử độc lập với tác giả. b) Văn học là một hệ thống ký hiệu, có bản chất biểu trưng, được tổ chức một cách đặc biệt để biểu hiện một nội dung nghệ thuật đặc thù. c) Văn học với tư cách là một hiện tượng độc đáo trong lịch sử văn hoá được xác lập bởi một hệ hình tư duy, bắt đầu từ quan niệm về văn học, quan niệm về thế giới và con người, quan niệm về thể loại và ngôn ngữ. Quan điểm thứ nhất đề cập tới tính bản thể của văn học, cũng tức là tính độc lập, tự chủ của nó so với các quan hệ đời sống và với các hình thái ý thức xã hội khác. Đúng là văn học có quan hệ nhiều mặt với đời sống xã hội. Tuy nhiên lý luận văn học từ thời cổ đại, trung đại cho đến hết thế kỷ XIX chủ yếu chỉ tập trung xem xét văn học trong mối quan hệ phụ thuộc với hiện thực, với ý thức, với văn hoá, nhận thức, tôn giáo, chính trị v.v… Cách xem xét một chiều đó quả là làm xao nhãng việc nghiên cứu văn học như một hiện tượng nghệ thuật có tính độc lập, tự chủ, và do đó tính đặc thù của nghệ thuật vẫn chưa được thực sự quan tâm.
- Những lời phát biểu quyết liệt phủ nhận các mối quan hệ văn học và đời sống của các nhà hình thức chủ nghĩa, cấu trúc chủ nghĩa, theo chúng tôi, nên hiểu là sự phản ứng lại với cách tiếp cận một chiều để đòi hỏi tiếp cận văn học nghệ thuật như một nghệ thuật. Chẳng hạn V. Scơlốpxki viết: “Lý luận văn học của tôi là nghiên cứu các quy luật nội bộ của văn học”. “Thủ pháp nghệ thuật là thủ pháp làm lạ hóa sự vật”, “Đối tượng của khoa học về văn học, tức thi pháp học, theo R. Jakobson, là “chất văn học” chứ không phải là văn học. V. Girmunxki cũng xác định: “Đối tượng của thi pháp học là văn học với tư cách là một nghệ thuật”. Tuy các quan niệm này có khác nhau, nhưng tựu trung đều xem văn học như một nghệ thuật trong sự tồn tại của nó, với những quy luật riêng. Đó là một yêu cầu chính đáng và là một cơ sở để đổi mới cách tiếp cận. Các định nghĩa về thi pháp học tiếp sau đủ vẻ đều là sự khẳng định tiếp tục của quan niệm đó. Chẳng hạn như viện sĩ V.V. Vinôgrađốp chủ trương nghiên cứu tác phẩm cụ thể: “Thi pháp học là một khoa học nghiên cứu các hình thức, các dạng thức, các phương tiện, phương thức tổ chức tác phẩm sáng tác ngôn từ, các kiểu cấu trúc, các thể loại tác phẩm”. Học giả T. Tôđôrốp thì ngược lại, viết: “Thi pháp học cấu trúc quan tâm không phải là các tác phẩm văn học thực tế, mà là một thuộc tính trừu tượng, các thuộc tính làm thành dấu hiệu của sự thực văn học, – thuộc tính về tính văn học”. Những định nghĩa ấy sẽ là hình thức chủ nghĩa thuần tuý khi nào nó phủ nhận các mối quan hệ với đời sống và thực tại, còn trong chừng mực là một sự trừu tượng hoá để khám phá đặc trưng văn học trong các quy luật lên trong của nó lại là một tư tưởng quan trọng, cần thiết. Quan điểm thứ hai đề cập tới một cách tiếp cận mới hoàn toàn chưa có trong truyền thống. Trong thi pháp học truyền thống các hiện tượng văn học chủ yếu được giải thích, mô tả theo nguyên tắc nhân quả, từ cội nguồn, sự ra đời mà phân định về bản chất sự vật. Chẳng hạn từ nguồn gốc của văn học mà xác định bản chất của văn học. Cách tiếp cận đó có giá trị nhất định, nhưng không phải là duy nhất và tất yếu. Lý thuyết hệ thống chứng minh bản chất sự vật do kết quả tác động qua lại của các yếu tố của nó, chứ không phải do số cộng giản đơn của các yếu tố đó. Phẩm chất sự vật là một thuộc tính
- siêu tổng cộng. “Hệ thống là một sự thống nhất cụ thể của các yếu tố trong đó mỗi cấu trúc hình thái có một kiểu hoạt động chức năng và kiểu phát triển đặc trưng cụ thể hơn, một hệ thống được xây dựng trên sự kết hợp của ba nhân tố – yếu tố, quan hệ qua lại, tính chỉnh thể. Có người bổ sung thêm vào hệ thống những thuộc tính của chỉnh thể hệ thống. Cấu trúc là một kiểu liên hệ qua lại khách quan độc lập với số lượng và chất lượng của các yếu tố (xem Xađốpxki và Iuđin, Tlđd). Trong phạm vi tác phẩm hệ thống nghệ thuật bao gồm các yếu tố ngôn từ, cốt truyện (nhân vật), kết cấu và tư tưởng như là thuộc tính chỉnh thể. Trong phạm vi một nền văn học thì thi pháp văn học như văn học Nga cổ là hệ thống của toàn thể, trong đó văn học có quan hệ với nghệ thuật tạo hình, nó được phản ánh trong nghệ thuật tạo hình và tự nó cũng phản ánh nghệ thuật tạo hình, đồng thời hệ thống văn học thể hiện ở kiểu lập luận của nó trong đời sống tinh thần, ở cả phong cách thuyết phục của nó, mà “phong cách là cả một hệ thống hình thức và nội dung”. Quan hệ của các thể loại với nhau cũng là một vấn đề của hệ thống văn học, nó có nguyên tắc tạo thành thể loại riêng và phục tùng nguyên tắc nghi thức của văn học ấy. Ở đây hệ thống văn học được thống nhất bởi quan niệm văn hoá về văn học thời ấy. Sẽ là giản đơn nếu đồng nhất hệ thống, cấu trúc của văn học với khái niệm hệ thống nói chung được vận dụng trong toán học, sinh vật học. Bởi vì đó là hệ thống và cấu trúc khách thể, vật thể. Là một hiện tượng của đời sống tinh thần, hệ thống thi pháp là một bộ phận của hệ thống văn hoá biểu hiện. Văn hoá là siêu ngôn ngữ của văn học. Xét về mặt này văn học là một hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật, có biểu trưng, ký hiệu riêng, có nguyên tắc tổ chức, kết hợp riêng mà nền tảng của nó là một kiểu mô hình hoá hiện thực đặc thù, một hệ thống quan niệm về thực tại. E. Cassirer trong công trình Tổng luận triết học về hình thức ký hiệu đã có cách hiểu biện chứng về mối quan hệ ký hiệu và nội dung tinh thần. “Trong bất cứ ký hiệu ngôn ngữ nào, trong bất cứ hình tượng thần thoại hay nghệ thuật nào, cái nội dung tinh thần mà về bản chất đã vượt qua toàn bộ lĩnh vực cảm giác đều được phiên dịch thành cái có thể nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy”. Do đó muốn hiểu các hình thức, hình tượng thì cần phải giải mã để tìm thấy
- bản chất tinh thần của chúng, tính nội dung của chúng. lu. Lôtman cũng xác nhận quan niệm trong nghệ thuật luôn luôn là mô hình, bởi vì quan niệm đó sáng tạo ra hình tượng về hiện thực. Do đó, hệ thống thi pháp không hề giản đơn chỉ là hệ thống phép tắc, quy tắc sáng tạo nghệ thuật, mà còn là một quan niệm, một mô hình tư duy về thế giới và con người. Quan niệm này không phải bất biến mà mang tính chất lịch sử và mang sắc thái văn hoá vùng, văn hoá dân tộc và thời đại, sắc thái cá tính. Quan điểm thứ ba là sự cụ thể hoá hai quan điểm trên. Việc nghiên cứu hệ thống thi pháp không tách rời với việc khám phá mô hình về con người, mô hình về thế giới, không gian và thời gian, đồ vật, màu sắc. Không phải ngẫu nhiên mà trong thi pháp học hiện đại phạm trù quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nghiên cứu. Trong công trình Những vấn đề thi pháp Đôtxtôiépxki M.Bakhtin đặt vấn đề nghiên cứu nghệ sĩ Đôtxtôiépxki, tức là nghiên cứu chủ thể của hệ thống nghệ thuật này. Mà muốn làm sáng tỏ nghệ sĩ này, thì việc hàng đầu là khám phá quan niệm về nhân vật, về con người trong tác phẩm của Đôtxtôiépxki , khám phá “cái nhìn nghệ thuật của tác giả”. Cách tiếp cận này được Đ.X Likhatrốp trình bày trong công trình Thế giới bên trong của tác phẩm văn học, trong đó tác giả nêu lên việc khám phá mô hình bên trong tác phẩm về con người, về xã hội, về không gian, thời gian v.v… Trong quá trình nghiên cứu thi pháp văn học Nga cổ Likhatrốp đã từng xem xét Con người trong văn học Nga cổ, sau đó ông nghiên cứu cách khái quát, hệ thống thể loại, không gian, thời gian trong Thi pháp văn học Nga cổ . Bình diện này được Gurêvích gọi là các phương thức cảm nhận thế giới một cách trực tiếp tạo thành bình diện văn hoá trong nghiên cứu thi pháp tiếp cận này đã tỏ ra rất có hiệu quả mà các tác giả nổi tiếng như X. X. Avêrinxép cũng ra sức vận dụng. Nó thể hiện cách nhìn nhận thi pháp trong sự thống nhất hình thức và tính nội dung, tính nội dung được phát hiện qua các thủ pháp, các nguyên tắc nghệ thuật.
- Sẽ là không đầy đủ nếu như không nhấn mạnh thêm phương diện sau: Thi pháp học truyền thống thường được đúc kết theo phương thức diễn dịch, như kiểu văn học “mô phỏng” hiện thực hay “văn dĩ tải đạo” v.v… Thi pháp học hiện đại, chủ yếu thực hiện theo phương pháp quy nạp, xuất phát từ các sự thực của biểu hiện. Thi pháp học hiện đại dựa vào việc phát hiện các yếu tố lặp lại có quy luật, xem xét cấu trúc bất biến của chúng, để xác lập các nguyên tắc nghệ thuật. Đồng thời, dựa vào các mã văn hoá chung của vùng và thời kỳ lịch sử mà giải thích nội dung quan niệm của chúng Từ cách làm nói trên, thi pháp học hiện đại không hề phủ nhận thi pháp học truyền thống, mà bổ sung thêm cho nó bởi những vấn đề mới, cách nhìn mới và kết quả mới. Trong cách tiếp cận này các biện pháp thống kê, phân tích, so sánh, đối chiếu là không thể thiếu. Văn bản văn học trung đại là cả một vấn đề hết sức phức tạp đặt ra cho cả giới nghiên cứu. Chưa đặt vấn đề soát xét về mặt này, chúng tôi coi đó là vấn đề của văn học sử. Ở đây chúng tôi chỉ giới hạn trong phạm vi tư liệu đã công bố hướng tới suy nghĩ về những vấn đề chung của thi pháp văn học giai đoạn này. II. THI PHÁP VĂN HỌC TRUNG ĐẠI TRONG THI PHÁP HỌC HIỆN ĐẠI 1. Cách đặt vấn đề và phương pháp a) Sự phát triển của văn học và văn hoá hiện đại không bao giờ cắt đứt quan hệ với truyền thống. Chính vì vậy nhu cầu khám phá cách chiếm lĩnh thẩm mỹ của các nền văn hoá quá khứ trở thành một nhu cầu bức thiết, đã thúc đẩy các tác giả đi nghiên cứu thi pháp văn học quá khứ, hướng nó về tương lai. Bản thân các tác phẩm văn học ưu tú của quá khứ vẫn đang được đọc, được tiếp nhận, đang tác động đến người đọc. Lịch sử, theo Ăngghen, chẳng gì khác hơn là sự thay thế các thế hệ, trong đó thế hệ sau sử dụng được vật liệu, vốn liếng, sức sản xuất do thế hệ trước truyền lại. Không có tài sản vật chất và tinh thần của đời trước thì đời sau khó mà phát triển lên trình độ cao được. Mặt khác, một trong những điều
- kiện tiến bộ của văn hoá là phát triển sự hiểu biết về các giá trị văn hoá của quá khứ và của các nền văn hoá dân tộc khác nhằm gìn giữ chúng, phát huy chúng, tích luỹ chúng để làm giàu cho mình. Lịch sử văn hoá không chỉ là lịch sử sáng tạo ra sản phẩm mới, mà còn là lịch sử giải thích mới các hiện tượng đã biết. Nghiên cứu thi pháp học hiện đại chính là nhằm giải thích mới các hiện tượng quen thuộc đó. b) Muốn tiếp cận thi pháp học văn học trung đại, điều đầu tiên là phải ý thức được đó là một nền văn học khác về loại hình so với văn học cổ đại và văn học cận hiện đại, nhưng đều nằm trong một quá trình liên tục của sự phát triền. Ý thức phân biệt loại hình sẽ cho ta thấy tiếp cận thi pháp học trung đại là tiếp cận một thế giới khác, một ý thức khác, những cách suy nghĩ khác, do đó không cho phép được hiện đại hoá người xưa và giải thích họ theo khẩu vị của mình. Bất cứ tác phẩm nào, một khi bị tách khỏi môi trường xung quanh của nó sẽ làm nó mất đi giá trị thẩm mỹ vốn có. Do vậy việc nghiên cứu thi pháp đòi hỏi hình dung các nguyên tắc nghệ thuật trong môi trường tự nhiên để giữ gìn bản sắc thẩm mỹ, nghệ thuật của nó. 2. Loại hình thi pháp trong loại hình văn hoá Việc nhìn nhận tính chất loại hình tạo tiền đề cho việc nghiên cứu thi pháp văn học trung đại theo cái nhìn hiện đại. Thi pháp là hệ thống các nguyên tắc, biện pháp, thể loại tạo thành đặc trưng của văn học, nhưng đó không bao giờ chỉ là các hình thức kỹ thuật thuần tuý bề ngoài, mà là hệ thống cảm nhận về thế giới. Chẳng hạn, nói đến thơ cách luật thì không chỉ là vấn đề vần, luật, niêm, đối mà còn gắn với cả một ý thức cách luật, bởi vì khi bước vào thời cận, hiện đại, khi ý thức cách luật mất đi thì các nguyên tắc luật thi hiện hành liền bị thay thế bằng thi pháp thơ mới. Ý thức cách luật gắn với hình thức lễ nghi. Từ xa xưa bất cứ mọi hoạt động quan trọng nào của con người như săn bắt, trồng trọt, tế tự, hôn lễ, chiến tranh… người ta đều tiến hành trong lễ nghi. Nhiều người đã chứng minh rằng thời cổ Hi Lạp, trong
- nghi thức tế thần Điônidốt thì thơ, nhạc, múa hoà hợp tam vị nhất thể. Kinh thi, Nhạc phủ đều phối nhạc. Do đó “vần” gắn với chức năng của yếu tố đánh dấu một câu nhạc hay một bước nhảy. Vần đều đặn là để phối hợp với tiết tấu biểu diễn cơ thể. Ý thức nghi lễ tập thể xuất hiện như một vô thức tập thể nhằm thống nhất hoạt động của mọi thành viên vào một tiết tấu chung, là nền tảng của “luật thơ”. Ý thức nghi lễ được duy trì bởi những “cấm kỵ” tạo thành truyền thống, gắn với ý thức về “lễ”, “nghĩa”, “quy củ”, “tư vô tà” của Nho giáo, với thói quen áp đặt tự bên ngoài. Nhưng một khi ý thức về cá tính phát triền, nhu cầu tự biểu hiện nâng cao, thi luật mất dần vị trí trong đời sống văn nghệ. Từ chỗ thích luật, trau chuốt luật đến chỗ cảm thấy luật là điều “khó cho thiên hạ” là cả một bước chuyển lớn của thi pháp. M.Bakhtin cũng cho rằng thế giới quan lễ hội Cácnavan với các yếu tố đặc trưng của nó có ảnh hưởng quan trọng tới hệ thống thể loại văn học dân gian trung đại, và cả văn học viết trung đại, tạo thành dòng văn học cácnavan hóa. Và ông đã nghiên cứu thi pháp Rabơle và thi pháp tiểu thuyết Đôtxtôiépxki theo nguyên tắc đó. Có thể nói nghiên cứu hệ thống các nguyên tắc thống nhất hình thức và nội dung nghệ thuật trong tính quan niệm của chúng là xu hướng nghiên cứu thi pháp học hiện đại, một hướng thống nhất trong nó việc nghiên cứu hệ thống hình thức nghệ thuật với việc nghiên cứu quan niệm văn hoá, thẩm mỹ tiềm tàng của nền văn học đó, thấm nhuần trong hình thức của nó. 3. Các cấp độ nghiên cứu Lướt qua một số các công trình nổi tiếng về nghiên cứu thi pháp văn học trung đại để xem khuynh hướng tìm tòi khoa học thời gian qua như thế nào, thì có thể nhận thấy, thi pháp văn học trung đại đã được nghiên cứu trên hai cấp độ lớn: cấp độ vĩ mô, chỉnh thể của văn bản, cũng tức là cấp độ quan niệm chủ quan của những người sáng tạo và hưởng thụ nền nghệ thuật ấy, và cấp độ vi mô. Vĩ mô là cấp độ của những nguyên tắc nghệ thuật – thẩm mỹ lớn chi phối sáng tạo văn học và hiện diện trong văn học. Thông thường người ta thưởng thức tác phẩm theo từng đơn vị riêng lẻ, cho nên các quan niệm này
- thường trượt ra ngoài tầm quan sát. Thi pháp học truyền thống do khái quát từ tác phẩm, thể loại riêng lẻ, cho nên thường nặng về kỹ xảo, kỹ thuật, mà nhẹ về khái quát, quan niệm. Cũng có thể quan niệm là cái mà họ đã quen và mặc nhận, cho nên giữa họ với độc giả đương thời, không có nhu cầu khám phá nữa. Còn chúng ta, độc giả của một giai đoạn văn hoá khác, nếu không nghiên cứu thi pháp ở cấp độ vĩ mô này thì sẽ không có quan niệm đầy đủ về một nền thi pháp quá khứ. Cấp độ thứ hai là hệ thống hình thức, phong cách bút pháp, bao gồm hệ thống thể loại, các biện pháp nghệ thuật ngôn từ, các phong cách cụ thể của tác giả cụ thể. Cấp độ này bao gồm “hình thức của hình thức” như các quy tắc thể loại, các luật phối âm, phối điệu… Và “hình thức của nội dung” – chức năng biểu đạt của các hình thức, biện pháp nghệ thuật. Trong thi pháp học cổ điển, truyền thống, các tác giả cổ chú ý nhiều hơn tới các phương diện “hình thức của hình thức”. Ví dụ Việt Hán văn khảo của Phan Kế Bính, Quốc văn cụ thể của Bùi Kỷ, Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm. Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại của Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức. Hình thức mang nội dung của nghệ thuật chưa được chú ý nghiên cứu thích đáng. 4. Các vấn đề đặt ra, các phạm trù trong thực tiễn nghiên cứu Trong các phạm trù thi pháp cấp vĩ mô, quan niệm nghệ thuật là phạm trù có tầm quan trọng trung tâm, có tác dụng chi phối các bình diện hình thức nghệ thuật khác. Viện sĩ Nga D. X. Likhatrốp là một trong những người đầu tiên vận dụng phạm trù này vào công trình nghiên cứu Con người trong văn học Nga cổ (Mátxcơva, 1958 tái bản 1970). ông đã nêu lên các phong cách miêu tả con người trong các thể loại văn xuôi lịch sử, trong truyện sự tích các thành, trong sử thi dân gian, trong tiểu thuyết. Ông lần lượt đề cập đến các phong cách nghệ thuật như hoành tráng kiểu tượng đài trong lịch sử, phong cách biểu cảm trong các sự tích tông đồ, phong cách lý tưởng hoá, nguyên tắc tâm lý trừu tượng, sự xuất hiện nhân vật hư cấu, đổi mới miêu tả con người trong văn học Nga thế kỷ XVII. Trong
- sách Bảy thế kỷ văn học Nga, ông tiếp tục đi sâu thêm vào các vấn đề trên. Trong công trình Thi pháp văn học Nga cổ ông sử dụng những phạm trù mới như thi pháp khái quát nghệ thuật bao gồm các nghi thức văn học, bởi người ta ý thức rõ sự khác biệt giữa văn chương và khẩu ngữ, tính chất “học thức” của văn chương. Likhatrốp chú ý tới các nguyên tắc biểu hiện cụ thể của việc lý tưởng hoá trong văn học trung đại làm cho nó khác với lý tướng hoá lãng mạn chủ nghĩa. Chẳng hạn ông chú ý tới việc tác giả trung đại với các tiền lệ, điển tích, các kiểu cách, hành vi… đã được xếp hạng. Đáng chú ý là nghi thức về trật tự thế giới, về hành vi và về ngôn ngữ. Đặc điểm này làm sản sinh những hình tượng, biểu tượng, cách diễn đạt cố định có tính truyền thống. Do đó văn học trung đại chưa coi trọng việc lạ hoá, gây ấn tượng có tính cá nhân. Nhà văn trung đại viết tác phẩm để phân rõ thứ bậc sự vật, để xếp hạng con người, do đó họ cần sự thêu dệt, tô vẽ cho trang trọng, lộng lẫy, có nghi thức. Quá trình phá vỡ tính nghi thức đó cũng được xem xét. Một phương diện khác của khái quát nghệ thuật là nguyên lắc trừu tượng hoá – tìm ra các dấu hiệu vĩnh hằng thiêng liêng vĩ đại trong cái nhất thời, khả hủ. Nhà văn trung đại khát khao cái trừu tượng, hướng tới việc trừu tượng hoá thế giới, phá hoại tính cụ thể, tính vật chất. Đặc điểm thứ ba của thi pháp khái quát là sự trang sức làm cho văn xuôi gần với thơ. Yếu tố hiện thực trong văn học trung đại có ý nghĩa thông báo các sự việc có thực, cá biệt, lôgích thực tại chi phối nhà văn, chứ chưa phải là chủ nghĩa hiện thực theo cách hiểu sau này. Nghiên cứu các nguyên tắc thi pháp như là các nguyên tắc tái hiện con người và thế giới đã được nhà nghiên cứu người Đức Erích Auerbach thực hiện trong sách Mimesis (Mô phỏng), Tác giả nghiên cứu phong cách miêu tả con người trong Kinh Thánh, trong Lịch sử những người Pháp, trong Bài ca về Rôlăng, trong tiểu thuyết diễm tình Iven của Crêchiêng dơ Troa (thế kỷ XV), trong vở kịch thần bí trung đại Adam và Eva (cuối thế kỷ XII), Thần Khúc của Đăngtơ, Câu chuyện mười ngày của Bôcaxiô. Tác giả cố gắng khái quát các đặc điểm lớn của phong cách châu Âu trong việc miêu tả con người, sự
- kiện trong các hiện tượng văn học như là các nguyên tắc nghệ thuật, khác biệt với các văn học cận hiện đại. Ở đây E. Auerbach đặc biệt hứng thú với các yếu tố chủ quan như tâm lý, thị hiếu, lý tưởng, thậm chí định kiến… Trong sách Thi pháp văn học Bidantin thượng kỳ X.X Avêrinxép nghiên cứu thi pháp trung đại qua hai bình diện: 1) Lịch sử và con người; 2) Con người và ngôn từ. Bình diện thứ nhất đề cấp tới cách cảm nhận con người của văn học trung đại: Tác giả đã chỉ rõ ảnh hưởng to lớn của đạo Cơ Đốc đối với thi pháp văn học, và quan niệm này khác hẳn quan niệm trọng văn học Hy Lạp cổ đại. Bình diện thứ hai – cách cảm nhận của con người và ngôn từ. Cũng nghiên cứu quan niệm con người thể hiện qua hệ thống tín hiệu chân dung nhân vật được B.L.Riftin xem xét trong văn xuôi Trung Quốc, từ các tập lịch sử, sử ký đến tiểu thuyết lịch sử chương hồi tác giả đã chú ý tới mô hình cổ xưa dùng để miêu tả các vị tổ tông tiền bối đã chi phối tích cực việc miêu tả chân dung nhân vật văn học thế kỷ XIV và cả thời cuối trung đại ở Trung Quốc. Trong việc nghiên cứu thi pháp văn học trung đại, loại hình học về các phong cách cảm nhận thế giới có vị trí quan trọng hàng đầu. Nhà nghiên cứu không giới hạn trong việc chọn lựa các chất liệu hình thức, vạch ra các phương thức khác thường mà chất liệu ấy được nhìn nhận. Ở đây cần nghiên cứu cách cảm nhận về tồn tại, về không gian, thời gian, đồ vật chi phối sự miêu tả. Đ. X. Likhatrốp trong Thi pháp văn học Nga cổ đã có các chuyên mục về Thi pháp thời gian nghệ thuật đề cập đến thời gian nghệ thuật của tác phẩm ngôn từ, thời gian nghệ thuật trong tác phẩm Folklor (trong dân ca, ca dao, tráng sĩ ca, thi ca nghi lễ) thời gian biên niên sử, thời gian của văn học thuyết giáo, thời gian hiện tại trong truyện kể lịch sử; lại có chuyên mục Thi pháp không gian nghệ thuật đề cập tới phạm trù không gian nghệ thuật của tác phẩm nói chung và không gian trong văn học cổ Nga. Những nghiên cứu đó cho thấy cách cảm thụ và tổ chức tác phẩm của thể loại văn học trung đại.
- X. X. Avêrinxép chú trọng khám phá quan niệm trung đại của văn học Bidantin xem tồn tại như một trạng thái ưu việt, lõi sự hoàn thiện. Ông cũng nêu ra loại hình các cách tiếp cận đối với đồ vật. Theo ông việc cảm nhận đồ vật là thuộc tính chung của nhân loại. Nhưng mỗi thời có một số yếu tố được đề cao, trở thành yếu tố của văn hoá, được sùng bái. Thời trung đại cách cảm thụ trực giác giản đơn được đề cao vì nó thích hợp để cảm nhận vẻ đẹp của thế giới (xem Tldđ). A. Ja. Gurêvích nêu vấn đề nghiên cứu kiểu văn hoá như là tảng của các khoa học nhân văn trong đó có thi pháp học. Nền tảng của lịch sử văn hoá đó ông cho là khái niệm mentality – tâm thức, thể hiện trong khái niệm “bức tranh thế giới”, “hình ảnh thế giới” hay “mô hình thế giới”. Theo ông, “sự cảm thụ thời gian, không gian (hay không – thời gian theo kiểu M. Bakhtin), cách hiểu về mối quan hệ giữa thế giới trần thế và thế giới bên kia, thế giới con người và giới tự nhiên, cách đánh giá về việc sinh, tử, về tuổi tác, về địa vị của các loại người, của phụ nữ, trẻ em, vị trí của gia đình, cách hiểu về cá nhân, cách giải thích về lịch sử, quyền lợi, tài sản, giàu, nghèo, lao động, về chuẩn mực đạo đức, về đời sống tình dục… tất cả đều là yếu tố của “bức tranh về thế giới” đối với con người. Chúng phối hợp với nhau để tạo thành kiểu văn hoá. Kiểu văn hoá ấy luôn vận động, biến đổi và trở thành đối tượng của lịch sử văn hoá. Vì vậy nên nghiên cứu thi pháp học lịch sử như là một thể hiện của lịch sử ý thức con người”. M. I. Xteblin – Kamenxki trong công trình Thi pháp học lịch sử đã nêu ra hàng loạt vấn đề quan trọng khác về thi pháp văn học trung đại. Đáng chú ý là vấn đề hư cấu của văn học trung đại với sự hình thành tác giả văn học trong nền văn học ấy. Theo ông “bước nhảy vọt từ truyền thống sáng tác văn học phi cá nhân sang sáng tác của tác giả có ý thức là một trong những bước nhảy vọt lớn lao nhất mà loài người đã thực hiện trong lịch sử của nó. Nó đem lại cho nhân loại những khả năng sáng tạo vô cùng”. “Bước nhảy vọt ấy xảy ra như thế nào, cần được nghiên cứu từ giai đoạn văn học trung đại” (tr.90), và đó sẽ là một quá trình lâu dài. Sự hình thành văn học cũng cần
- được nghiên cứu từ thời trung đại, bởi ý thức về hư cấu là một biểu hiện của ý thức văn học. Ý thức về hình thức văn học cũng là một vấn đề hết sức quan trọng, bao gồm ý thức thể loại, ý thức ngôn ngữ và nói chung, ý thức về bản thân văn học. Tóm lại, trên cấp độ vĩ mô, cấp độ các nguyên tắc hệ hình (Paradigm) các nhà nghiên cứu thi pháp văn học trung đại đã đặt ra một loạt vấn đề quan trọng, bao gồm quan niệm về văn học. về ngôn ngữ, về thể loại, về tác giả – nghệ sĩ, về con người và thế giới trong văn học. Những vấn đề đó đưa ta vào chiều sâu của các quy luật văn học trung đại, những vấn đề không dễ dàng giải quyết được ngay, nhưng không thể không đặt ra và có ý thức tìm hiểu. Bởi vì chính trên các vấn đề đó văn học trung đại tỏ ra khác biệt với văn học hiện đại. Do đó vấn đề kế thừa, cách tân cũng sẽ được xem xét sâu hơn. Một mặt văn học hiện đại phải vượt qua những giới hạn của văn học trung đại như một loại hình, nhưng mặt khác nó phải kế thừa, phát huy mới có sức mạnh phát triển, tiến bộ. Trong cấp độ hình thức vi mô. hệ thống các thể loại và quy tắc các thể loại là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Trong các công trình của mình D. X. Likhatrốp luôn luôn xem hệ thống thể loại là nơi thể hiện đặc trưng của văn học trung đại. Việc nghiên cứu hình thức của hình thức tuy vẫn còn có chỗ để đi sâu thêm, song chức năng nội dung của hình thức, tính nội dung của hình thức là một lĩnh vực rộng lớn hình như chưa được nghiên cứu bao nhiêu. G. D. Gachep trong công trình Tính nội dung của hình thức nghệ thuật: tự sự, trữ tình, kịch (1968) tuy không đi sâu vào nghiên cứu hình thức của văn học trung đại, nhưng đã đề xuất phương hướng xem hình thức là một quan điểm, một cái nhìn đối với cuộc sống,”một thế giới quan được ngưng kết”, có ý nghĩa đối với việc đổi mới nghiên cứu hình thức văn học nói chung và văn học trung đại nói riêng. Đối với các nhà văn học so sánh Nga, thể loại văn học trung đại là một hiện tượng loại hình lịch sử. Theo V M. Girmunxki, ứng với thời thượng kỳ trung đại tại các nước châu Âu là thể loại sử thi anh hùng dân tộc, bắt đầu từ
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài Giảng Môn học: OTOMAT VÀ NGÔN NGỮ HÌNH THỨC_TS. Nguyễn Văn Định
85 p | 272 | 62
-
Trong cõi - GS. Trần Quốc Vượng
182 p | 284 | 46
-
Mấy vấn đề xây dựng văn hóa nông thôn trong thể chế kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
11 p | 141 | 20
-
So sánh ngữ nghĩa, ngữ pháp Được, Bị, Phải trong tiếng Việt với Ban, Trâw trong tiếng Khmer
12 p | 242 | 14
-
Mâu thuẫn biện chứng phát sinh trong nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN - 3
8 p | 105 | 13
-
Nhập khẩu linh kiện xe máy: Thuận lợi, khó khăn và giải pháp - 6
7 p | 77 | 11
-
Lý thuyết phê bình văn học: Phần 2
234 p | 20 | 10
-
Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ - phần 7
7 p | 91 | 9
-
Tìm hiểu mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975-2000: Phần 2
129 p | 10 | 7
-
Đề cương môn Lịch sử Đảng
10 p | 194 | 6
-
Bài giảng Pháp luật đại cương: Bài 1 - ThS. Trần Thị Minh Đức
6 p | 104 | 5
-
Một số phương tiện biểu thị tình thái cơ bản trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng và mấy vấn đề về tiểu từ “lắm”
8 p | 24 | 5
-
Đánh giá xu hướng sử dụng giải pháp đỗ xe kết nối nhằm hạn chế xe máy đi vào nội đô thành phố Hà Nội
11 p | 42 | 4
-
"Khủng hoảng văn, sử" - lỗi của... Internet?
0 p | 44 | 2
-
Vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp 1992: Luận cứ cho một nhu cầu sửa đổi
8 p | 53 | 2
-
Thế giới nghệ thuật thơ Lê Thị Mây - nhìn từ hình tượng cái tôi trữ tình
6 p | 49 | 2
-
Ebook Mấy vấn đề về quản lý nhà nước và củng cố pháp quyền trong lịch sử Việt Nam (Tập II): Phần 1
90 p | 16 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn