intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Mô hình quản trị của các tập đoàn đại học quốc lập tại Nhật Bản: Một số gợi ý cho Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

18
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Mô hình quản trị của các tập đoàn đại học quốc lập tại Nhật Bản: Một số gợi ý cho Việt Nam" giới thiệu về mô hình quản trị của một trường đại học quốc lập ở Nhật Bản. Chúng tôi mô tả việc thành lập và chức năng của một số tổ chức trong quản trị và quản lý trong một trường đại học quốc gia của Nhật Bản. Sau những ưu điểm của mô hình này, chúng tôi đề xuất một số ý tưởng để tăng cường quản lý trong các trường đại học của Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Mô hình quản trị của các tập đoàn đại học quốc lập tại Nhật Bản: Một số gợi ý cho Việt Nam

  1. MÔ HÌNH QUẢN TRỊ CỦA CÁC TẬP ĐOÀN ĐẠI HỌC QUỐC LẬP TẠI NHẬT BẢN: MỘT SỐ GỢI Ý CHO VIỆT NAM TS. Lê Thanh Bình* 1 Tóm tắt: Nhật Bản có một hệ thống giáo dục đại học phát triển, trong đó nhiều trường đại học đạt thứ hạng cao trên thế giới. Quản trị và quản lý của tập đoàn đại học quốc lập ở Nhật Bản là một chủ đề khá thú vị trong nghiên cứu giáo dục. Bài báo này giới thiệu về mô hình quản trị của một trường đại học quốc lập ở Nhật Bản. Chúng tôi mô tả việc thành lập và chức năng của một số tổ chức trong quản trị và quản lý trong một trường đại học quốc gia của Nhật Bản. Sau những ưu điểm của mô hình này, chúng tôi đề xuất một số ý tưởng để tăng cường quản lý trong các trường đại học của Việt Nam. Từ khoá: Tập đoàn đại học, hội đồng quản lý, quản trị. Các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam đang từng bước triển khai Luật Giáo dục đại học 2018. Trong quá trình đó, mô hình, tổ chức hoạt động của các thiết chế trong cơ sở giáo dục đại học đang được hình thành. Nhìn ra các nước xung quanh thì hệ thống giáo dục đại học Nhật Bản có những mô thức quản trị riêng mà chúng ta có thể học tập và tham khảo. Bài viết sẽ mô tả hệ thống quản trị đại học trong một trường đại học quốc lập ở Nhật Bản, đánh giá tác động của sự thay đổi mô hình quản trị đại học, từ đó đưa ra những ý tưởng cho mô hình quản trị đại học ở Việt Nam. 1. TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP CỦA NHẬT BẢN Nhật Bản có dân số khoảng 120 triệu người. Do đó, số người tham gia giáo dục đại học và hệ thống giáo dục đại học của Nhật Bản rất lớn. Ở đó hơn ba triệu sinh viên đang theo học tại các trường đại học và trường cao đẳng. Khoảng 50% học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông ở tuổi 18 nhập học các trường đại học hoặc cao đẳng. Các tổ chức này được điều hành bởi công chúng hoặc khu vực giáo dục đại học tư thục. Các tổ chức khu vực công bao gồm đại học quốc lập và các đại học công ở các tỉnh, nhưng các đại học tư thục đã trở thành bộ phận lớn hơn của hệ thống. Hiện có 87 trường đại học quốc lập, 76 trường đại học công lập và 582 trường đại học tư thục trên cả nước. Hơn 75% sinh viên đang theo học tại các trường đại học tư thục, một tỷ lệ rất lớn so với 20% sinh viên theo học tại các trường đại học tư nhân ở Mỹ. Học viện Ngân hàng. 1
  2. Phần I: QUAN ĐIỂM VỀ “NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI” 181 Kể từ cuối thế kỷ XIX, Chính phủ Nhật Bản đã thành lập và hỗ trợ các trường đại học quốc lập có mục tiêu là đào tạo các quan chức cấp cao, các kỹ sư, các học giả, chuyên gia y tế và luật sư được định sẵn để trở thành những nhà lãnh đạo trong các lĩnh vực tương ứng. Trong số bảy trường đại học quốc gia hàng đầu trong khu vực, uy tín nhất và lớn nhất là Đại học Hoàng gia Tokyo, bây giờ là Đại học Tokyo. Lịch sử lâu đời không kém của các trường đại học tư cũng đã tạo ra các nhà chính trị, các nhà lãnh đạo thương mại và xã hội, với một số tổ chức tư nhân được thành lập ban đầu bởi các cá nhân đầy tham vọng, các nhà cải cách xã hội, các doanh nhân và các nhóm tôn giáo. Mặc dù các tổ chức đại học tư nhân bao gồm tất cả các lĩnh vực nghiên cứu, họ có truyền thống tập trung vào nhân văn, khoa học xã hội, kinh doanh và luật vì các tổ chức này chưa đủ các nguồn lực để cung cấp giáo dục chi phí cao hơn, chẳng hạn như khoa học tự nhiên, kỹ thuật và khoa học y tế. Ngay từ đầu, các tổ chức tư nhân đã không nhận được trợ cấp của chính phủ và nguồn thu chính của họ là học phí. Họ luôn gặp khó khăn về tài chính, dẫn đến chất lượng kém hơn của việc giảng dạy trong các trường đại học tư thục so với các trường đại học quốc lập. Điều này tiếp tục cho đến hiện tại và được phản ánh trong số liệu thống kê về số lượng học nhân viên trong từng ngành: có 60000 giáo viên trong các trường đại học quốc gia và 92000 giáo viên trong các trường đại học tư thục, mặc dù thực tế là ba phần tư tổng số sinh viên là trong các cơ sở tư nhân. 2. MÔ HÌNH QUẢN TRỊ CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Nếu như trước đây, các trường đại học được coi là một đơn vị con của Bộ Giáo dục Nhật Bản (gần giống với mô hình Bộ chủ quản của Việt Nam hiện nay) thì từ năm 2004, Nhật Bản đã chuyển sang cơ chế quản lý mới với việc trao nhiều quyền tự chủ hơn cho các trường đại học. Các trường đại học hoạt động theo mô hình tập đoàn. Trước năm 2004
  3. 182 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Hình 1: Cơ cấu quản trị đại học công lập Nhật Bản + Hội đồng quản lý (Kinh doanh hiệp nghị hội) Hội đồng quản lý các đại học ở Nhật Bản bao gồm: Hiệu trưởng, một số Phó hiệu trưởng, các thành viên ngoài đại học. Các thành viên ngoài này do Hiệu trưởng bổ nhiệm trên cơ sở ý kiến của Hội đồng Giáo dục và Nghiên cứu. Các thành viên ngoài đại học phải chiếm từ 50% trở lên trong Hội đồng quản lý. Hội đồng quản lý có nhiệm vụ:  Đưa ra ý kiến về mục tiêu trung hạn, kế hoạch trung hạn và hàng năm liên quan đến hoạt động của đại học.  Thiết lập, sửa đổi, xoá bỏ các nguyên tắc kế toán, quy chế về lương của ban lãnh đạo, quy chế về lương của đội ngũ giảng viên và nhân viên, và các vấn đề quan trọng khác.  Thông qua dự toán hoạt động cho đại học.  Tự đánh giá về phương diện hoạt động của trường đại học.  Các vấn đề quan trọng khác có liên quan đến hoạt động của trường đại học.  Chủ tịch Hội đồng quản lý trường là Hiệu trưởng, Hiệu trưởng điều hành các hoạt động của Hội đồng này. + Ban điều hành của đại học Ban điều hành của đại học bao gồm Hiệu trưởng và các Phó hiệu trưởng. Những người này sẽ lập thành “Dịch viên hội”. Hiệu trưởng bắt buộc phải thảo luận với ban điều hành những vấn đề sau:
  4. Phần I: QUAN ĐIỂM VỀ “NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI” 183  Ý kiến về mục tiêu trung hạn, kế hoạch hàng năm.  Những vấn đề cần sự phê chuẩn của Bộ Giáo dục.  Dự toán ngân sách.  Thiết lập, giải thể các tổ chức quan trọng trong đại học.  Những vấn đề khác được quy định bởi ban điều hành. + Kiểm toán Các đại học sẽ có 2 kiểm toán đóng vai trò như thành viên Ban kiểm soát của các công ty. Ít nhất một kiểm toán phải là người bên ngoài đại học. Các kiểm toán sẽ do Bộ trưởng Bộ Giáo dục bổ nhiệm. + Hội đồng Giáo dục và Nghiên cứu (Giáo dục Nghiên cứu Bình nghị hội) Hội đồng này bao gồm: Hiệu trưởng, một số Phó hiệu trưởng, Trưởng khoa, Viện trưởng có vai trò quan trọng trong đại học (số thành viên này do Hội đồng Giáo dục và Nghiên cứu quy định), các thành viên khác được bổ nhiệm bởi Hiệu trưởng trên cơ sở đề nghị của Hội đồng Giáo dục và Nghiên cứu. Hội đồng Giáo dục và Nghiên cứu có nhiệm vụ:  Đưa ra ý kiến về mục tiêu trung hạn, kế hoạch trung hạn và hàng năm liên quan đến hoạt động giáo dục và nghiên cứu của đại học.  Thiết lập, sửa đổi, huỷ bỏ các quy chế liên quan đến giáo dục và nghiên cứu.  Các vấn đề liên quan đến đội ngũ giảng viên.  Các chính sách về chương trình đào tạo.  Các trợ giúp cho sinh viên.  Chính sách về nhập học, thôi học, bằng cấp đối với sinh viên.  Tự đánh giá về giáo dục và nghiên cứu.  Các vấn đề quan trọng khác liên quan đến giáo dục và nghiên cứu. Chủ tịch Hội đồng là Hiệu trưởng, Hiệu trưởng chịu trách nhiệm điều hành hoạt động của Hội đồng. + Việc bổ nhiệm Hiệu trưởng Hiệu trưởng do các đại học tuyển chọn và Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ phê chuẩn việc tuyển chọn này. Hội đồng tuyển chọn Hiệu trưởng bao gồm: Các thành viên của Hội đồng quản lý (chỉ những thành viên ngoài đại học), các thành viên từ Hội đồng Giáo dục và Nghiên
  5. 184 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP cứu (thông thường là các Trưởng khoa, Viện trưởng quan trọng của đại học). Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng đương nhiệm có thể tham gia hội đồng này nhưng tỷ lệ tham gia không vượt quá 1/3 số thành viên của hội đồng. Nhiệm kỳ của Hiệu trưởng do đại học quyết định, tối thiểu là 2 năm, tối đa là 6 năm. + Về quản trị đại học Bộ Giáo dục sẽ quyết định mục tiêu trung hạn (6 năm) đối với các đại học. Mục tiêu đó bao gồm:  Các vấn đề liên quan đến cải thiện chất lượng giáo dục và nghiên cứu.  Các vấn đề liên quan đến hiệu quả hoạt động của các đại học.  Các vấn đề liên quan đến cải thiện tình trạng tài chính.  Các vấn đề liên quan đến tự đánh giá và cung cấp thông tin.  Các vấn đề quan trọng khác. Bộ Giáo dục phải lắng nghe ý kiến, phản biện của các đại học về mục tiêu trung hạn trước khi chính thức ban hành. Dựa trên mục tiêu trung hạn này, các đại học thiết lập kế hoạch trung hạn, kế hoạch này phải được Bộ trưởng Bộ Giáo dục duyệt. Một uỷ ban đánh giá hoạt động của đại học được thành lập. Các kết quả này phải được tôn trọng. Việc đạt được mục tiêu và kế hoạch trung hạn của các trường đại học quốc gia cũng phải được đánh giá vào cuối giai đoạn sáu năm giữa kỳ. Đánh giá này rất toàn diện, bao gồm cả tự đánh giá và đánh giá của bên thứ ba, và nó bao gồm việc đánh giá thành tích không chỉ đối với các mục tiêu và chỉ tiêu trung hạn, mà còn trình độ học vấn và hoạt động nghiên cứu, và kết quả nghiên cứu của cá nhân. Điều này hệ thống đánh giá đòi hỏi năng lượng và thời gian to lớn từ học thuật và nhân viên hành chính có liên quan và người ta thường chỉ ra rằng hệ thống này trớ trêu thay làm xấu đi trình độ giáo dục và hoạt động nghiên cứu trong các trường đại học. Truyền thống và kinh nghiệm tự đánh giá và đánh giá của bên thứ ba tương đối thiếu so với thế giới của giáo dục đại học Nhật Bản, và sự chú trọng mới về đảm bảo chất lượng sẽ tạo ra gánh nặng cho các cơ sở giáo dục đại học. + Về tài chính của đại học Ngân sách trung hạn chưa sử dụng hết trong kỳ này có thể chuyển sang kỳ sau (với sự đồng ý của Bộ Giáo dục). Các đại học có thể vay dài hạn (để tài trợ cho xây dựng cơ sở vật chất). Một phần thu được từ thuế đất của các đại học sẽ được chuyển vào quỹ dung chung cho các đại học trên cả nước để tài trợ cho xây dựng cơ sở vật chất.
  6. Phần I: QUAN ĐIỂM VỀ “NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI” 185 3. ĐÁNH GIÁ VỀ QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI MÔ HÌNH QUẢN TRỊ ĐẠI HỌC NHẬT BẢN Kể từ mùa xuân năm 2004, mỗi trường trong số 87 trường đại học quốc lập của Nhật Bản đã được cấp chứng chỉ tình trạng tập đoàn độc lập. Trước đó, các trường đại học quốc lập thuộc sở hữu nhà nước và do chính phủ kiểm soát trong hơn một trăm năm. Các giảng viên và nhân viên hành chính là công chức, mặc dù các giảng viên chủ yếu được lựa chọn bởi các giảng viên đồng cấp (peer faculty meeting). Tài sản của các trường đại học thuộc sở hữu của nhà nước và Bộ Giáo dục phân bổ cho mỗi trường đại học quốc lập ngân sách dành riêng phải được chi tiêu vào cuối năm tài chính. Hệ thống cũ này đã được thay đổi vào tháng 4 năm 2004 khi các trường đại học quốc lập vừa là các cơ quan của nhà nước và là một phần của khu vực công, họ được mong đợi là được quản lý độc lập dưới sự lãnh đạo mạnh mẽ của hiệu trưởng các trường đại học. Mặc dù Bộ Giáo dục vẫn phê duyệt mục tiêu và kế hoạch trung hạn nhưng mỗi trường đại học bây giờ có thể thiết lập các mục tiêu của riêng mình. Nhân viên đại học không còn là công chức, tiền lương có thể được xác định bởi mỗi trường đại học, không phải theo tiêu chuẩn quốc gia về trả lương. Tài sản của trường đại học hiện thuộc về trường đại học một cách hợp pháp mặc dù chúng vẫn thuộc sự kiểm soát của Bộ. Bộ Giáo dục tài trợ cho khoảng 50% chi tiêu của đại học như một khoản trợ cấp khối được phân bổ theo số lượng học tập nhân viên và học sinh. Mỗi trường đại học tăng một nửa thu nhập còn lại của mình từ doanh thu bệnh viện, học phí, tài trợ dự án dựa trên cạnh tranh, quà tặng từ tư nhân các nhà tài trợ, các hợp đồng nghiên cứu với chính quyền địa phương và các công ty tư nhân, v.v... Các trường đại học có thể sử dụng các khoản tiền theo quyết định của mình, tạo ra thặng dư và chuyển chúng đến năm tiếp theo. Trường đại học có thể ấn định mức học phí lên đến 10% (20% từ năm 2007) cao hơn tiêu chuẩn được chỉ định của bộ, bất kể lĩnh vực nghiên cứu. Vì bộ đã quyết định giảm số tiền trợ cấp khối đi 1% sau mỗi trong vài năm tới, các đại học chịu trách nhiệm riêng về việc chi tiêu ít hơn và kiếm được nhiều tiền hơn. Để bù đắp cho sự sụt giảm hiện tại, bộ cố gắng tăng một số loại quỹ nghiên cứu có sẵn cho các trường đại học. Một trong những quỹ như vậy là trợ cấp cho nghiên cứu khoa học. Trợ cấp nghiên cứu được cung cấp cho các nhà nghiên cứu ở cả đại học quốc lập và tư thục. Trợ cấp này được phân phối thông qua quá trình nghiên cứu và ứng dụng của các giảng viên. Bộ đã thay đổi chính sách phân bổ nguồn lực từ một chính sách dựa trên số lượng nhân viên và sinh viên đến một cơ sở cạnh tranh hơn và dựa trên dự án. Các chương trình trung tâm xuất sắc (COE) là biểu tượng của sự thay đổi chính sách này, phân bổ quỹ nghiên cứu cho một số trường đại học cốt lõi trong các lĩnh vực nghiên cứu được chọn để thúc đẩy và thưởng cho các tổ chức đẳng cấp thế giới.
  7. 186 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Việc quản trị các trường đại học quốc lập theo mô hình tập đoàn không chỉ thay đổi mối quan hệ giữa các giữa các trường đại học và chính phủ, mà còn là cấu trúc quản trị của mỗi trường đại học. Trước khi chuyển đổi mô hình, các trường đại học quốc lập có hai cấu trúc khác nhau tùy thuộc vào các học giả và quản trị viên liên quan. Ra quyết định về các vấn đề học thuật được thực hiện bởi Hội đồng Học thuật với các thành viên đến từ các khoa. Tuy nhiên, người đứng đầu hành chính với tư cách là cán bộ học vụ của Cục Các vấn đề hành chính được quản lý và kiểm soát tuân theo chính phủ các quy định. Hiệu trưởng không có quyền hạn về các vấn đề tài chính đối với trường đại học, mặc dù người đó đã được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng bởi Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo dựa trên phiếu bầu của các giảng viên. Việc tập đoàn hoá các đại học đã cấp cho các trường đại học quốc lập tư cách pháp nhân độc lập với các cơ quan công cộng. Do đó, Hiệu trưởng hiện nắm quyền quyết định đối với tất cả các vấn đề quản lý bao gồm tài chính và nhân sự. Bây giờ Hiệu trưởng kiểm soát Bộ phận hành chính trước đây thuộc quyền kiểm soát của Bộ Giáo dục. Ban điều hành (Board of Directors) bao gồm Hiệu trưởng và các Phó Hiệu trưởng là cơ quan điều hành để quản lý trường đại học, trong khi việc ra quyết định cuối cùng là quyền của Hiệu trưởng (Điều 11 của Đạo luật Tập đoàn Đại học Quốc lập). Vì Hiệu trưởng bổ nhiệm các phó Hiệu trưởng, Hiệu trưởng có thể thực hiện quyền lãnh đạo mạnh mẽ. Các quyền lực tập trung do Hiệu trưởng nắm giữ được cân bằng bằng một số công cụ kiểm tra. Đầu tiên, hai kiểm toán viên do Bộ trưởng Bộ Giáo dục chỉ định sẽ kiểm tra trường đại học hoạt động. Hai là, hai hội đồng được thành lập để thảo luận và đưa ra lời khuyên về vấn đề quản lý và học thuật. Hội đồng quản lý bao gồm các thành viên bên ngoài có học thuật và phi học thuật, những người tạo thành đa số các thành viên. Mặt khác, Hội đồng Giáo dục và Nghiên cứu chỉ bao gồm của các thành viên học thuật. Thứ ba, Hiệu trưởng được lựa chọn bởi Ủy ban bao gồm các thành viên được bầu chọn của Hội đồng Giáo dục và Nghiên cứu và Hội đồng quản lý. 4. ỨNG DỤNG MÔ HÌNH NHẬT BẢN ĐỐI VỚI MÔ HÌNH QUẢN TRỊ ĐẠI HỌC VIỆT NAM Luật Giáo dục đại học ban hành năm 2018 đã tạo ra bước thay đổi lớn đối với hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Sự thành lập của Hội đồng trường với đầy đủ các thành phần trong và ngoài cơ sở giáo dục, sự tách bạch giữa chức danh Chủ tịch Hội đồng trường và Hiệu trưởng đang được triển khai tại các cơ sở giáo dục đại học. Từ thực tế quan sát ở các cơ sở giáo dục đại học, quá trình này còn bộc lộ một số bất cập.
  8. Phần I: QUAN ĐIỂM VỀ “NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI” 187 Bộ Giáo dục và Đào tạo Hình 2: Mô hình quản trị đại học Việt Nam hiện nay Thứ nhất, mô hình Hội đồng trường chưa có tiền lệ nên việc triển khai gặp nhiều trở ngại từ nhân sự, cơ chế hoạt động, vai trò, chức năng. Hai là, một loạt các cơ sở giáo dục đại học để khuyết chức danh Hiệu trưởng trong thời gian dài (một số Hiệu trưởng trở thành Chủ tịch Hội đồng trường, việc kiện toàn nhân sự Hiệu trưởng gặp khó khăn). Ba là, mối quan hệ giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo, bộ chủ quản, và cơ sở giáo dục đại học chưa có sự thay đổi đúng với tinh thần tự chủ của cơ sở giáo dục đại học. Từ những thực tiễn kể trên, ứng dụng từ mô hình đại học quốc lập của Nhật Bản, chúng tôi đề nghị các giải pháp có tính thực tiễn như sau: Một là, tăng cường vai trò của Hội đồng Khoa học và Đào tạo trong các cơ sở giáo dục đại học. Hiện nay, mặc dù các cơ sở giáo dục đại học đều thành lập Hội đồng này, nhưng để Hội đồng thực sự là nơi quyết định các vấn đề có liên quan đến học thuật là vấn đề chúng ta nên hướng đến. Nếu làm được như vậy thì chúng ta sẽ thêm một công cụ để đảm bảo hoạt động của cơ sở giáo dục đại học. Hai là, để tránh tình trạng các cơ sở giáo dục đại học bị trống Hiệu trưởng trong thời gian dài, nên chăng Bộ Giáo dục và Đào tạo khuyến khích các trường thành lập Hội đồng Tuyển chọn Hiệu trưởng để tìm người đứng đầu trong thời gian sớm nhất. Đồng thời, các cơ sở giáo dục đại học cũng nên linh hoạt về nhiệm kỳ của Hiệu trưởng (không nhất thiết là 5 năm hay theo nhiệm kỳ của Hội đồng trường, có thể từ 2 năm đến 6 năm tuỳ cơ sở). Ba là, vị trí Chủ tịch Hội đồng trường là vị trí rất mới mẻ. Vị trí này có thể dễ xung đột với Hiệu trưởng trong điều hành cơ sở giáo dục đại học. Mặc dù Luật Giáo
  9. 188 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP dục đại học năm 2018 không cho phép Chủ tịch Hội đồng trường kiêm nhiệm Hiệu trưởng, nhưng nếu thực tiễn chỉ ra những bất cập của hai vị trí này, thì Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể thí điểm Chủ tịch Hội đồng trường kiêm Hiệu trưởng để đảm bảo thống nhất về lãnh đạo trong cơ sở giáo dục đại học. Bốn là, việc hình thành Ban Kiểm toán trong cơ sở giáo dục đại học là hết sức cần thiết. Vai trò của Ban này là kiểm toán hoạt động và kiểm toán tài chính của cơ sở giáo dục đại học. Bộ Giáo dục và Đào tạo nên từng bước nghiên cứu và áp dụng. Năm là, cơ chế tài chính cho cơ sở giáo dục đại học cũng cần được đảm bảo. Kinh nghiệm từ Nhật Bản cho thấy ngân sách nhà nước vẫn đảm bảo 50% kinh phí hoạt động cho đại học. Ngoài ra, Nhà nước nên có cơ chế để các giảng viên có quỹ nghiên cứu riêng thay vì phân bổ thông qua các đề tài nghiên cứu khoa học như hiện nay. KẾT LUẬN Một đặc điểm nổi bật trong mô hình quản trị đại học Nhật Bản là sự minh bạch, rõ ràng trong vai trò của các thiết chế trong cơ sở giáo dục đại học: Hội đồng quản lý, Hội đồng Giáo dục và Nghiên cứu, Hiệu trưởng và Ban điều hành. Các thiết chế này bổ sung, giám sát lẫn nhau, tạo điều kiện để cơ sở giáo dục đại học vận hành cả về học thuật và quản lý. Những ý tưởng mà Việt Nam có thể tham khảo và thực hiện đều có thể triển khai trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Phan Thị Lan Hương (2019), “Trao quyền tự chủ đại học Nhật Bản và kinh nghiệm đối với Việt Nam”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, 12/2019. 2 Center for National University Finance and Management (2008), Japanese National University Reform in 2004. National Institution for Academic Degrees and Quality Enhancement for Higher Education, https://www.niad.ac.jp/publication/sonota/pub_zam/ english_pub/n000k001.html 3 Bộ Giáo dục, Khoa học, Công nghệ, Thể thao Nhật Bản (2004), Đề cương Luật Quốc lập Đại học Pháp nhân. (tiếng Nhật). https://www.mext.go.jp/a_menu/koutou/houjin/03052705.htm.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2