intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Mối giao lưu văn hóa giữa các sứ thần Đai Viêt ̣ – Triều Tiên trong lich sử

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

44
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Viêt Nam và Hàn Quốc chính thức thiết lâp quan hê ̣ngoai giao năm 1992, nhưng trong quá khứ, từ nhiều thế kỷ trước, hai dân tộc đã có được những mối dây liên hệ thân thiết, tính từ thời điểm hai hoàng tử ho Lý có măt trên bán đảo Triều Tiên (khoảng thế kỷ XII).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Mối giao lưu văn hóa giữa các sứ thần Đai Viêt ̣ – Triều Tiên trong lich sử

MỐI GIAO LƯU VĂN HÓA GIỮ A CÁC SỨ THẦN<br /> ĐẠI VIỆT – TRIỀU TIÊN TRONG LICH<br /> SỬ<br /> ̣<br /> TRẦN THANH NHÀ N*<br /> <br /> Viê ̣t Nam và Hàn Quố c chính thức thiế t<br /> lâ ̣p quan hê ̣ ngoa ̣i giao năm 1992, nhưng<br /> trong quá khứ, từ nhiều thế kỷ trước, hai<br /> dân tộc đã có được những mối dây liên hệ<br /> thân thiết, tính từ thời điể m hai hoàng tử<br /> ho ̣ Lý có mă ̣t trên bán đảo Triề u Tiên<br /> (khoảng thế kỷ XII).<br /> *<br /> <br /> đã có mô ̣t sứ thầ n Đa ̣i Viê ̣t gă ̣p gỡ sứ thầ n<br /> Cao Ly trên đấ t Trung Hoa và để la ̣i ấ n<br /> tươ ̣ng sâu đâ ̣m. Dư âm của sự kiê ̣n đó, còn<br /> kéo dài đế n tâ ̣n ngày nay. Người ấy là sứ<br /> thầ n Ma ̣c Điñ h Chi.<br /> <br /> Ma ̣c Điñ h Chi sinh năm 1272, đậu<br /> Trạng nguyên khoa Giáp Thìn (1304) đời<br /> Trong suố t quañ g thời gian 900 năm, Trần Anh Tông (1293-1324). Ông là mô ̣t<br /> tuy mố i quan hê ̣ không phải lúc nào cũng nhân tài, trải quan 3 triề u vua: Trầ n Anh<br /> thuâ ̣n lơ ̣i, suôn sẻ nhưng dường như có mô ̣t Tông, Trầ n Minh Tông và Trầ n Hiế n Tông.<br /> sơ ̣i dây vô hình, âm thầ m kế t nố i tình đoàn Suố t 40 năm (1304-1342) ông đề u giữ<br /> kế t giữa hai dân tô ̣c. Hai hoàng tử dòng ho ̣ chức quan to trong triề u.<br /> Lý (Lý Dương Côn và Lý Long Tường)<br /> Năm 1308, Ma ̣c Điñ h Chi được cử đi sứ<br /> mở đầu quan hệ giữa hai dân tộc bằng sang nha Nguyên2, lưu lại Bắc Kinh một<br /> ̀<br /> những dấu son đỏ thắm. Các sứ thần Đa ̣i thời gian, ông gặp Trạng nguyên Cao Ly.<br /> Việt đã duy trì quan hệ thân thiết đó bằng Hai Trạng nguyên Đại Việt - Cao Ly trở<br /> mối liên hệ rất ý nghĩa với các sứ thần thành đôi bạn tâm đắc, thường cùng nhau<br /> Triều Tiên khi gặp nhau trên đấ t Trung xướng họa. Trạng nguyên Chánh sứ Cao<br /> Hoa. Phan Bô ̣i Châu1, Nguyễn Ái Quố c đã Ly cảm kích, ngưỡng mộ Trạng nguyên<br /> củng cố chuỗi liên hê ̣ ấ y trong mố i giao Mạc Đĩnh Chi đã mời ông qua thăm Cao<br /> lưu với các nhà cách ma ̣ng Triề u Tiên, hai Ly. Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi nhận lời<br /> quố c gia “đồ ng bê ̣nh, tương liên” cùng đấ u và lưu lại kinh đô Hán Thành (Seoul) một<br /> tranh cho đô ̣c lâ ̣p của dân tô ̣c. Bắt đầu là thời gian.<br /> quan hê ̣ giữa hai dân tô ̣c trong quá khứ để<br /> Trạng nguyên Cao Ly đã giới thiệu cháu<br /> thấy rằng mă ̣c dù chưa có những ghi chép<br /> chính thức về mố i quan hê ̣ trực tiế p giữa gái của mình kết duyên với Mạc Đĩnh Chi<br /> Đa ̣i Viê ̣t và Triề u Tiên nhưng mối liên hệ làm thứ thất. Ở la ̣i Cao Ly bốn tháng, Mạc<br /> giữa các sứ thần Đại Việt – Triều Tiên trên Đĩnh Chi về Trung Quốc đem theo bà thứ<br /> đất Trung Hoa là một dấu gạch nối ý nghĩa thất ấy. Năm năm sau, bà trở về Cao Ly<br /> cùng với một con trai và một con gái.<br /> trong quan hệ Việt – Hàn.<br /> Khoảng mười năm sau, Mạc Điñ h Chi lại<br /> 1. Mối giao lưu giữa sứ thần Đại Việt<br /> sang Cao Ly một lần nữa. Lần này, ông lưu<br /> – Cao Ly<br /> lại Cao Ly sáu tháng. Sau đó bà thứ thất<br /> Trước khi các sứ thầ n Triề u Tiên – Đa ̣i mang thai va sinh một người con trai.<br /> ̀<br /> Viê ̣t giao lưu với nhau, vào thời Cao Ly, Người Cao Ly rất yêu mế n ông, bởi tư chấ t<br /> thông minh, xuất chúng. Bà thứ thất của<br /> *<br /> Mạc Đĩnh Chi chịu thương, chịu khó nuôi<br /> TS. Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học Sài Gòn.<br /> <br /> Mối giao lưu văn hóa…<br /> <br /> 101<br /> <br /> dạy các con. Bà đã dựng vợ, gả chồng và<br /> thường ở với người con trai út. Sau đó, bà<br /> từ biệt con cháu vào chùa, hưởng thọ 93<br /> tuổi. Một vài tài liê ̣u cho rằ ng hai ngành<br /> trưởng và thứ của ho ̣ Ma ̣c rấ t thành đa ̣t ở<br /> Cao Ly. Người con trai cả làm đế n chức<br /> quan võ, sinh được 12 người con: 8 trai, 4<br /> gái… Ngành trưởng này phần đông là<br /> người giàu có. Ngành thứ, sau này sinh ra<br /> nhiều nhân tài, phần nhiều là người trung<br /> nghĩa, liêm khiết.<br /> Sự kiê ̣n trên do mô ̣t vài tờ báo ở Viê ̣t<br /> Nam đã đề câ ̣p đế n. Trong đó đáng chú ý<br /> nhấ t là bài viế t của nhà báo Lê Khắc Hoà,<br /> in trong An Nam tạp chí số 4, năm 1926.<br /> Ông cho biết chính ông đã gặp hậu duệ của<br /> Mạc Đĩnh Chi từ Cao Ly về Việt Nam trên<br /> một chuyến xe đi phủ Khoái Châu (Hưng<br /> Yên), nhân dịp ông về thăm gia đin<br /> ̀ h. Khi<br /> xe chạy đến gần Đình Dù thì xe hơi hỏng<br /> máy, ông cùng với người Cao Ly vào nghỉ<br /> trong một lều tranh bên đường, đem giấy<br /> và bút chì ra bút đàm cùng nhau. Câu<br /> chuyê ̣n trên là do người Triề u Tiên ấ y kể<br /> la ̣i. Tiế p đó, năm 1965 có mô ̣t người Đa ̣i<br /> <br /> Hàn mang công văn của Bô ̣ trưởng Bô ̣ Văn<br /> hóa – Giáo du ̣c và giấ y giới thiê ̣u của Đa ̣i<br /> sứ Đa ̣i Hàn ở Sài Gòn tới Nha Văn hóa của<br /> chiń h quyề n Sài Gòn nhờ tìm hâ ̣u duê ̣ của<br /> ho ̣ Ma ̣c.<br /> Mă ̣c dù có những thông tin như vâ ̣y,<br /> nhưng viê ̣c Mạc Đĩnh Chi để la ̣i di duê ̣ ở<br /> Cao Ly dĩ nhiên còn phải đươ ̣c nghiên cứu<br /> trên cơ sở các tài liê ̣u lich<br /> ̣ sử và gia phả<br /> của dòng ho ̣ Ma ̣c ở cả hai nước để tim<br /> ̀ ra<br /> những bằ ng chứng xác thực. Bởi vì sự kiê ̣n<br /> Ma ̣c Điñ h Chi đi sứ sang nhà Nguyên ở<br /> Trung Hoa, gă ̣p sứ thầ n Cao Ly và đươ ̣c<br /> mời sang thăm Cao Ly đã có mô ̣t số sử<br /> sách cũ ghi chép như An Nam chí lược,<br /> Đại Viê ̣t sử ký toàn thư, Li ̣ch triề u hiế n<br /> chương loại chí… nhưng viê ̣c Ma ̣c Điñ h<br /> Chi để la ̣i di duê ̣ trên đấ t Cao Ly thì không<br /> thấ y chin<br /> ́ h Viê ̣t Nam sách nhắ c đế n.<br /> 2. Mối giao lưu văn hóa giữa sứ thần<br /> Đại Việt – Triều Tiên<br /> Sau sự kiê ̣n trên, từ thế kỷ XV đế n XIX,<br /> tác giả Ku Su Jeong (Hàn Quố c) đã thố ng<br /> kê có it́ nhấ t 11 cuô ̣c tiế p xúc giữa các sứ<br /> thầ n Đa ̣i Viê ̣t và Triề u Tiên.<br /> <br /> Bảng: Các cuộc tiếp xúc giữa sứ thần Đại Việt và Triều Tiên thời trung đại<br /> STT<br /> <br /> Đa ̣i Viêṭ<br /> <br /> 1<br /> 2<br /> <br /> Lê Thời Cử<br /> Phùng Khắ c Khoan<br /> <br /> 3<br /> <br /> Nguyễn Công Hañ g<br /> <br /> 4<br /> <br /> Nguyễn Tông Quai<br /> <br /> 5<br /> <br /> Lê Quý Đôn<br /> Trầ n Huy Mâ ̣t<br /> Trinh<br /> ̣ Xuân Chú<br /> Hồ Si ̃ Đố ng<br /> Phan Huy Ích<br /> Vũ Huy Tấ n<br /> <br /> 6<br /> 7<br /> <br /> Triều Tiên<br /> Tào Thân<br /> Lý Toái Quang<br /> Kim Tiêu Dâ ̣t si ̃<br /> Du Tâ ̣p Nhấ t<br /> Lý Thế Câ ̣n<br /> Lý Hiê ̣u Lý<br /> Ma ̣c Tư Gia<br /> Hồ ng Khải Hy<br /> Triê ̣u Viñ h Tiên<br /> Lý Huy Trung<br /> Sứ bô ̣ Triề u Tiên<br /> Từ Ha ̣o Tu<br /> Lý Bách Hanh<br /> <br /> Thời gian<br /> Đa ̣i Viêṭ<br /> Triều Tiên<br /> Thời Hâ ̣u Lê<br /> <br /> Trung kỳ<br /> <br /> Thời Hâ ̣u Lê<br /> <br /> Hâ ̣u kỳ<br /> <br /> Thời Tây Sơn<br /> <br /> Hâ ̣u kỳ<br /> <br /> Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 9/2012<br /> <br /> 102<br /> <br /> 8<br /> <br /> Nguyễn Đoàn Tuấ n<br /> <br /> 9<br /> <br /> Nguyễn Đề<br /> <br /> 10<br /> <br /> Nguyễn Tư Giản<br /> <br /> 11<br /> <br /> Nguyễn Thươ ̣ng Hiề n<br /> <br /> Từ Ha ̣o Tu<br /> Lý Bách Hanh<br /> Từ Hữu Phòng<br /> Lý Nguyên Ha ̣nh<br /> Nam Điǹ h Thuâ ̣n<br /> Triê ̣u Bin̉ h Cáo<br /> Kim Bí Thư<br /> <br /> Thời Nguyễn<br /> <br /> Hâ ̣u kỳ<br /> <br /> Nguồn: Ku Su Jeong, Mối quan hệ Việt – Hàn trong và sau chiến tranh của Mỹ tại Việt<br /> Nam 1955-2005, Luận án Tiến sĩ, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.<br /> <br /> Trong các cuô ̣c gă ̣p gỡ như vậy, sứ thầ n<br /> hai nước đã thường xuyên bút đàm, đố i<br /> đáp, xướng ho ̣a thơ văn. Có thể coi đó là<br /> những hoa ̣t đô ̣ng ngoa ̣i giao văn hóa, tạo<br /> dựng quan hệ hữu nghị lâu bền giữa hai<br /> dân tô ̣c. Trong thời gian này, các sứ thầ n<br /> Đa ̣i Viê ̣t đã sử dụng bối cảnh ngoại giao để<br /> tôn vinh giá trị văn hóa dân tộc, giao lưu,<br /> trao đổi để sứ thầ n Triề u Tiên ngày càng<br /> hiểu biết, tôn trọng các giá trị lich<br /> ̣ sử và<br /> bản sắc văn hóa của Đa ̣i Viê ̣t.<br /> 2.1. Sứ thần Triều Tiên với văn hóa Việt<br /> Trong mô ̣t lầ n đi sứ sang Trung Hoa, Lê<br /> Thời Cử đã có cơ hô ̣i giải thích cho sứ thầ n<br /> Triề u Tiên, Tào Thân3 hiể u rõ hơn về tên<br /> gọi “Giao Chỉ”. Bại quan tạp ký của Ngư<br /> Thúc Quyề n4 đã ghi la ̣i cuô ̣c gă ̣p gỡ và câu<br /> chuyê ̣n của sứ thầ n Tào Thân và Lê Thời<br /> Cử. Tào Thân hỏi: “Giao Chỉ có phải là hai<br /> ngón chân đố i nhau không?” Lê Thời Cử<br /> đã giải thích: Giao Chỉ 5 vố n là tên mô ̣t<br /> quâ ̣n xưa kia, phía bắ c quâ ̣n ấ y có cửa<br /> Nam Giao và núi Nguyên Chỉ nên ghép hai<br /> chữ Giao (trong Nam Giao) và Chỉ (trong<br /> Nguyên Chỉ) mà có tên go ̣i Giao Chỉ.<br /> Đoàn sứ thầ n Phùng Khắ c Khoan cũng<br /> đã giúp cho sứ thầ n Triề u Tiên hiểu thêm<br /> về phong tu ̣c, tâ ̣p quán của người Viê ̣t. Lý<br /> Toái Quang6 đã từng ghi la ̣i nhiề u chi tiế t<br /> liên quan đế n tiế ng nói, trang phu ̣c của<br /> người Viê ̣t. Trong bài Hâ ̣u chí viế t cho tâ ̣p<br /> thơ Vạn Thọ thánh tiế t khánh hạ ông viết<br /> “người Viê ̣t nhuô ̣m răng đen, vấ n tóc thành<br /> <br /> búi, đi chân không, tính tiǹ h hiề n lành,<br /> quan chức mă ̣c áo dài, ố ng tay rô ̣ng, người<br /> thường mă ̣c áo ngắ n, may bằ ng the lu ̣a,<br /> không mă ̣c gấ m vóc, hay áo bông”. Những<br /> ghi chép chi tiế t của Lý Toái Quang hẳn là<br /> những tư liê ̣u quý về văn hóa và phong tu ̣c<br /> người Viê ̣t thế kỷ XVI. Thú vi ̣hơn nữa khi<br /> chúng ta biế t, sau chuyế n đi sứ Trung Hoa,<br /> Lý Toái Quang đươ ̣c vua Triề u Tiên mời<br /> vào triề u hỏi về phong tu ̣c tâ ̣p quán của<br /> người Viê ̣t và yêu cầ u ông ghi la ̣i các bài<br /> thơ xướng ho ̣a với sứ thầ n An Nam7. Điề u<br /> này cho thấ y triề u điǹ h Triề u Tiên lúc đó<br /> đã chú ý tìm hiể u Đa ̣i Viê ̣t, quố c gia ở cách<br /> xa Triề u Tiên hàng nghìn dă ̣m.<br /> Về sau này, Đồng văn vựng khảo phổ<br /> biên, quyển 5, mục Sứ thần biệt đơn, cũng<br /> có ghi sơ lược về nhâ ̣n xét của Chánh sứ<br /> Hồng Khải Hy8 và Phó sứ Triệu Viñ h Tiên<br /> về đoàn của Lê Quý Đôn: “Nước An Nam,<br /> Nam Chưởng (quan lại nước Nam) đã có<br /> chế độ về mũ áo. Người An Nam lấy lụa<br /> mỏng, tơ vàng làm mũ áo, hơi giống với<br /> nước ta, chỉ có điều họ búi tóc. Mũ làm<br /> bằng gấm vàng như Thác Tử (đeo thêm<br /> một đoạn đuôi), trang điểm thêm vàng để<br /> rủ ra phía sau, tóc buông xuố ng. Cách ăn<br /> mặc của người phương Nam đại thể khác<br /> xa như thế”.<br /> Như vâ ̣y, có thể thấ y các sứ thần Đa ̣i<br /> Viê ̣t vừa là nhà ngoại giao, vừa là đa ̣i biể u<br /> cho văn hóa dân tô ̣c. Trong hoạt động<br /> ngoại giao, họ đóng vai trò quan trọng<br /> trong việc xử lý quan hệ hai nước Đa ̣i Viê ̣t<br /> <br /> Mối giao lưu văn hóa…<br /> <br /> – Trung Hoa. Trong giao lưu với các nước<br /> khác, ho ̣ góp phần tăng cường mối tình<br /> hữu nghị và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các<br /> dân tô ̣c. Trong hoa ̣t đô ̣ng văn hóa, ho ̣ là<br /> những nhà thơ, là đại biểu cho văn hóa dân<br /> tộc. Tài năng, nhân phẩ m, cố t cách của ho ̣<br /> đã làm cho sứ thầ n Triề u Tiên nể tro ̣ng. Lê<br /> Quý Đôn đã từng viế t: “Mừng thấ y sự khổ<br /> công của mình ngày trước đi sứ đã mang<br /> la ̣i điề u có ích, có sách để người ngoài đo ̣c.<br /> Các bâ ̣c thức giả thường từ mô ̣t bông hoa<br /> mà thấ y cả vườn cây, từ mô ̣t người mà suy<br /> ra cả nước”. Lê Quý Đôn đã cho rằng văn<br /> hóa, cốt cách của một dân tộc, được chiếu<br /> rọi qua tài năng, tâm hồn, trí tuệ và nhân<br /> cách của cá nhân đại diện.<br /> Thâ ̣t vâ ̣y, trong chuyế n đi sứ, Phùng<br /> Khắ c Khoan đã khiế n cho Lý Toái Quang,<br /> tác giả bô ̣ Chi Phong tập (đươ ̣c xem là<br /> Bách Khoa toàn thư của Triề u Tiên) hiể u<br /> thêm và đem lòng khâm phu ̣c người Viê ̣t.<br /> Trong đề tựa Mai Liñ h sứ Hoa thi tập của<br /> Phùng Khắ c Khoan, Lý Toái Quang viế t<br /> khá că ̣n ke:̃ Trong khoảng trời đất, có lớp<br /> tinh khí sáng trong lành, hoặc chung đúc<br /> vào muôn vật, hoặc chung đúc vào người<br /> ta. Cái khí ấy chung đúc đầy rẫy khắp nơi,<br /> tất sinh ra những tài kỳ lỗi lạc, không hẳn<br /> chỉ ở nơi gần mà có khi ở nơi xa, không<br /> phú bẩm cho muôn vật mà phú bẩm vào<br /> con người ta…. “Tôi nghe nói Giao Châu<br /> là nơi cực Nam có nhiề u của la ̣, châu báu,<br /> vàng ngo ̣c, đồ i mồ i, ngà voi, tê giác. Thế<br /> cho nên, cái khí tinh anh trong lành đă ̣c<br /> biê ̣t chung đúc ở đó, có người kỳ tài sinh ra<br /> ở đấ y, há chỉ những của la ̣ mà thôi đâu”.<br /> Lý Toái Quang đã bày tỏ lòng cảm phu ̣c<br /> đố i với người Viê ̣t. Ông đã miêu tả Phùng<br /> Khắ c Khoan “đầ u tóc ba ̣c phơ, thân hin<br /> ̀ h<br /> gầ y guô ̣c, tuổ i 70 mà dung nhan như còn<br /> trẻ, đường đi xa mà chân cứng đá mề m”.<br /> Lý Toái Quang cũng đã ca ngơ ̣i tài năng<br /> của Phùng Khắ c Khoan “Tập thơ Vạn thọ<br /> thánh tiết khánh hạ của ông Phùng lời lẽ<br /> hồn hậu, ý tứ sâu rộng, khác gì nhả ngọc<br /> <br /> 103<br /> <br /> phun châu, âm điệu ròn rã như tiếng vàng<br /> tiếng ngọc, há không nói được là dị nhân<br /> đó sao”. Lý Toái Quang đã không ngầ n<br /> nga ̣i khi viế t “tôi sinh ra ở phương Đông,<br /> được tiếp chuyện ông (Phùng Khắ c<br /> Khoan), xem văn từ của ông, giật mình<br /> hoảng hốt như cưỡi xe mây, thần hồn nhởn<br /> nhơ nơi biển lửa, chân đi đến chỗ cột đồng,<br /> thực là may lắm, đâu dám thoái thác là<br /> không làm được văn mà từ chối. Vậy làm<br /> bài tựa này”.<br /> Đế n năm 1761, trong lời đề tựa cho tâ ̣p<br /> Quầ n thư khảo biê ̣n của Lê Quý Đôn,<br /> Hồ ng Khải Hy đã viế t: “…Tôi đã đươ ̣c<br /> thấ y sách này là mô ̣t điề u mới la ̣…đúng là<br /> loa ̣i văn tự tuyê ̣t kỳ… Sự ký thác viế t lời<br /> đầ u sách, rấ t biế t miǹ h không dám tự đảm<br /> đương. Nhưng có lời chỉ bảo gửi tới chân<br /> thành, nên go ̣i là chắ p vá mấ y hàng, tự<br /> thấ y mình đã bô ̣i nho ̣ lên trán Phâ ̣t. Mô ̣t lầ n<br /> nữa Khải Hy vái la ̣y”.<br /> Phó sứ Triề u Tiên cũng viế t thư gửi Lê<br /> Quý Đôn: “…Ông gia ơn cho xem Quầ n<br /> thư khảo biê ̣n, tôi kính cẩ n xem hế t gố c,<br /> ngo ̣n. Đây là những điề u xảy ra từ trái tim<br /> con mắ t, lời đa ̣t, ý xuôi, đa ̣i thể như cái<br /> gương, cái cân… Người quân tử nước An<br /> Nam, khiế n người đo ̣c khâm phu ̣c, ngơ ̣i ca,<br /> mà lời Chánh sứ nước tôi đề trên đầ u sách<br /> cũng đủ phát huy muôn mô ̣t… Hành đài tri<br /> chế giáo nước Triề u Tiên Lý Huy Trung<br /> vái la ̣y”.<br /> Như vâ ̣y là, Hồ ng Khải Hy cũng đánh<br /> giá cao tác phẩ m Quầ n thư khảo biê ̣n và<br /> Thánh mô hiề n phạm của Lê Quý Đôn nên<br /> đã viế t lời tựa cho hai tác phẩ m này. Trong<br /> lời đề tựa cho Quầ n thư khảo biê ̣n, Hồ ng<br /> Khải Hy khen ngơ ̣i: “ho ̣c thuâ ̣t của ông (Lê<br /> Quý Đôn) rấ t thuầ n chính mà văn lý cũng<br /> thuâ ̣n hòa… lẽ không chỗ nào không đủ, lý<br /> không chỗ nào không cùng”.<br /> Ở cuố i lời tựa cuố n Quầ n thư khảo biê ̣n,<br /> Hồ ng Khải Hy đã đề câ ̣p tới những điể m<br /> <br /> 104<br /> <br /> giố ng nhau, điể m chung trong ho ̣c thuâ ̣t<br /> của Nho si ̃ hai nước, đó là cùng chiụ ảnh<br /> hưởng của nề n văn hóa Trung Hoa: “thế<br /> rồ i ở bên đông biể n đông tâm lý ấ y mà bên<br /> nam biể n nam cũng tâm lý ấ y, không khác<br /> gì nhau, đó là chỗ chứng nghiê ̣m”.<br /> <br /> Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 9/2012<br /> <br /> trong vòng 900 năm, mà còn đánh giá tốt<br /> phong cách của người Triều Tiên.<br /> <br /> Trong Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn<br /> dùng những lời hay ý đẹp để nói về sứ thần<br /> Triều Tiên. Dưới đây là phần trích dẫn một<br /> số đoạn nhỏ: “Kẻ quê mùa này có tác phẩm<br /> Lý Huy Trung, phó sứ của đoàn sứ bô ̣ kém cỏi là Quần thư khảo biện và Thánh<br /> mô hiền phạm lục, cùng Tiêu tương bách<br /> Triề u Tiên, khi viế t lời tựa cho tâ ̣p thơ<br /> vịnh thi. Hồng Thượng thư có giúp đỡ. Lý<br /> Bách Vi ̣nh của sứ thầ n Đa ̣i Viê ̣t cũng bày<br /> học sĩ cũng viết tựa cho Bách vịnh tự thi.<br /> tỏ tin<br /> ̀ h cảm “Ngài đã ha ̣ cố ban cho lời văn Về sau lại đưa cho quan Khâm sai, Bạn<br /> sinh tươi, gă ̣p gỡ phương trời, đươ ̣c lời Tống Lang Trung là Tần Triều Châm xem<br /> vàng ngo ̣c phương Nam, vang đế n ngân giúp, họ Tần khen là có văn phong hay, sắc<br /> nga mang về Đông Thổ ”.<br /> thái sáng sủa”.<br /> Có thể nhâ ̣n thấ y, bên ca ̣nh viê ̣c thực<br /> Trong Kiế n văn tiể u lục, Lê Quý Đôn<br /> hiê ̣n sứ mệnh ngoa ̣i giao, các sứ thầ n Đa ̣i viế t mô ̣t đoa ̣n dài, với những lời lẽ cảm<br /> Viê ̣t đã làm cho người Triề u Tiên hiể u và động, tả la ̣i cuô ̣c gă ̣p giữa sứ thầ n Đa ̣i Viê ̣t<br /> chân thành tiếp nhận văn hóa dân tô ̣c min<br /> ̀ h, với Triề u Tiên và “Ở Hồ ng Lô quán, trải<br /> đồ ng thời tìm ra những nét tương đồ ng về chiế u mời nhau ngồ i, dùng giấ y bút để nói<br /> văn hóa của hai nước để từ đó xích lại gần chuyê ̣n, tiǹ h hiế u trở nên gắ n bó với nhau.<br /> nhau hơn, xây dựng tình hữu nghị, hợp tác Sau khi trở về sứ quán, ho ̣ (sứ thầ n Triề u<br /> Tiên) liề n sai hai thiế u khanh đem phẩ m<br /> vững chắc, lâu dài hơn.<br /> vâ ̣t điạ phương cho chúng tôi. Sang đầ u<br /> 2.2. Sứ thần Đại Việt với văn hóa năm mới la ̣i sai ba người con là Hồ ng Toản<br /> Triều Tiên<br /> Hố i, Triê ̣u Quang Quỳ là Lý Trích Phu ̣ng<br /> Thông qua những lầ n tiế p xúc ấ y, các sứ đế n chúc tế t. Chúng tôi ở Yên Kinh hai<br /> tháng, những thư từ lă ̣t vă ̣t trao đổ i lẫn<br /> thầ n Đa ̣i Viê ̣t cũng có cái nhiǹ câ ̣n cảnh<br /> nhau có nhiề u điề u đáng lấ y làm thić h ý”.<br /> hơn về lich<br /> ̣ sử Triề u Tiên. Trong phầ n mở<br /> Sau khi về nước, Lê Quý Đôn nhiề u lầ n<br /> đầ u cuốn Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn<br /> viết: “Nước Cao Ly về thời Đường thuộc thuâ ̣t la ̣i các cuô ̣c tiế p xúc với sứ bô ̣ Triề u<br /> An Đông đô hộ phủ. Đến thời Thạch Tấn, Tiên trong Bắ c sứ thông lục, Kiế n văn tiể u<br /> lục, chép la ̣i 8 bức thư của sứ thầ n Triề u<br /> Vương Kiến mới khôi phục lại bao gồm<br /> Tiên gửi cho sứ thầ n Đa ̣i Viê ̣t. Lê Quý Đôn<br /> Tân La và Bách Tế vào trong bản đồ. Trải<br /> đã đưa các bài thơ của sứ thầ n Triề u Tiên<br /> qua đời Tống, đời Nguyên đến đầu đời vao Toan Viê ̣t thi lục. Trên 40 trang tư liê ̣u<br /> ̀<br /> ̀<br /> Minh, Thái Tổ mới bị diệt. Họ Lý lên ngôi văn xuôi cua Lê Quy Đôn viế t về cac cuô ̣c<br /> ̉<br /> ́<br /> ́<br /> lấy niên hiệu cũ là Triều Tiên. Từ Đại gă ̣p gỡ sứ thầ n Triề u Tiên9. Điề u đó cho<br /> Minh đến nay trải qua gần 900 năm, mới thấ y, Lê Quý Đôn trân tro ̣ng tình cảm nồ ng<br /> chỉ có hai họ ở ngôi vua, đó cũng là điều hâ ̣u giữa các thành viên của hai đoàn sứ bô ̣.<br /> khiến Trung Quốc phải hổ thẹn. Người dân<br /> Tóm la ̣i, những lần gặp gỡ, cùng các vần<br /> hiền lành cẩn thận, ham đọc sách, thạo văn thơ đối đáp, xướng họa giữa các sứ thần<br /> học, trọng nghi lễ”. Lê Quý Đôn không chỉ Đại Việt – Triều Tiên là bằng chứng lịch<br /> biểu lộ sự ngạc nhiên của mình về việc sử về mối giao lưu văn hóa giữa hai dân<br /> vương triều Triều Tiên chỉ thay đổi hai lần tộc Việt - Hàn. Mối tương đồng về văn tự,<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0