Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
lượt xem 5
download
Bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội hiện nay ở Việt Nam. Với tầm quan trọng và sự ảnh hưởng của bảo hiểm xã hội (BHXH) đến sự ổn định và phát triển của xã hội cũng như đời sống của mỗi cá nhân, BHXH đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ các quốc gia.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
- MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ThS. Lâm Thị Thu Huyền Khoa Luật - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Với tầm quan trọng và sự ảnh hưởng của bảo hiểm xã hội (BHXH) đến sự ổn định và phát triển của xã hội cũng như đời sống của mỗi cá nhân, BHXH đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ các quốc gia. Cho đến nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đã thiết lập được hệ thống bảo vệ thu nhập này, có chăng chỉ là sự khác nhau nhất định về hệ thống các chế độ BHXH, phạm vi đối tượng tham gia và tổ chức tài chính. Bên cạnh những ưu điểm đạt được, pháp luật BHXH cũng đang gặp phải một số bất cập trong quá trình thực hiện. Bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHXH hiện nay ở Việt Nam. Từ khóa: Bảo hiểm xã hội, thực tiễn, hạn chế, giải pháp 1. Đặt vấn đề Luật BHXH năm 2014 ra đời đã mang lại hiệu quả tích cực đối với xã hội. Theo báo cáo đánh giá tổng kết Luật BHXH năm 2014, đến cuối năm 2020, có khoảng 16,05 triệu người tham gia BHXH, chiếm 32,9% lực lượng lao động (LLLĐ) trong độ tuổi. Sau 5 năm thực hiện Luật, số người tham gia BHXH tăng gần 3,76 triệu người (tương ứng với 30,6%) so với cuối năm 2015; tốc độ phát triển đối tượng trung bình hằng năm là 5,5%. Tuy nhiên, vẫn còn gần 32 triệu người trong LLLĐ trong độ tuổi lao động (khoảng 66,5%) chưa tham gia BHXH (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, 2020). Mục tiêu đến năm 2030 có khoảng 60% LLLĐ trong độ tuổi tham gia BHXH theo tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW17 là một thách thức rất lớn nếu không có những giải pháp căn bản về cả chính sách và công tác tổ chức thực hiện chính sách. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật BHXH Việt Nam hiện nay đã đạt được những thành công, song vẫn còn một số hạn chế cần đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện. 2. Thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội hiện nay ở Việt Nam Không thể phủ nhận những nỗ lực của Nhà nước khi thực hiện những cải cách BHXH song cũng phải thừa nhận những hạn chế, khó khăn phải đối mặt trong tổ chức thực hiện: Một là, việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH vẫn gặp khó khăn. Diện bao phủ BHXH không được thay đổi đáng kể, đại bộ phận người lao động (NLĐ) (năm 2020 và 17 Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách BHXH. 285
- 66,5% LLLĐ trong độ tuổi) không được bảo vệ bởi các chế độ BHXH cả ngắn hạn và dài hạn nên khi gặp rủi ro, thường rất khó khăn để phục hồi (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, 2020). Thời gian qua, công tác phát triển đối tượng BHXH còn dưới mức tiềm năng, còn nhiều đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc nhưng chưa tham gia. Luật BHXH chưa quy định người quản lý, điều hành hợp tác xã không hưởng lương; chủ hộ kinh doanh; NLĐ làm việc theo chế độ linh hoạt (làm việc không trọn thời gian, làm việc trên môi trường mạng…) tham gia BHXH bắt buộc. Số lượng hưởng BHXH một lần tăng nhanh chóng cũng là nguyên nhân dẫn tới độ bao phủ BHXH tăng chậm. Nếu so sánh giữa số lao động giải quyết hưởng BHXH một lần với số lao động tham gia BHXH tăng mới, thì tỷ lệ này tương đối cao (giai đoạn 2016 - 2019, mỗi năm xấp xỉ 45%, năm 2020 tỷ lệ này tăng lên 73,3%) (Bộ Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, 2020). Một trong những nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên chính là nhận thức chưa đầy đủ của đối tượng tham gia về vai trò của BHXH dẫn tới việc rút BHXH một lần mà mất đi cơ hội hưởng lương hưu khi về già. Hai là, tình trạng trốn đóng nợ đọng BHXH chưa được đẩy lùi. Theo báo cáo của BHXH Việt Nam, tính đến hết năm 2019, số doanh nghiệp nợ đóng BHXH là 175.004 đơn vị với tổng số lao động là 3.406.520 người; số tiền nợ BHXH phải tính lãi của doanh nghiệp là 5.380 tỷ đồng (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, 2020). Đáng chú ý, nợ đọng BHXH có chiều hướng tăng do tác động của dịch COVID-19, ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ, đặc biệt là an sinh xã hội. Tình trạng nợ của các doanh nghiệp, đơn vị bỏ trốn, mất tích, phá sản với số nợ lớn còn phức tạp chưa có hướng giải quyết, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài, thậm chí vẫn còn tình trạng đơn vị, doanh nghiệp chưa tham gia BHXH hoặc tham gia chưa đầy đủ cho NLĐ. Thực tế đáng báo động này ảnh hưởng không chỉ đến NLĐ mà cả người sử dụng lao động. BHXH giúp cho các tổ chức sử dụng lao động, các doanh nghiệp ổn định hoạt động thông qua việc phân phối các chi phí cho NLĐ một cách hợp lý. Nếu không có BHXH, khi NLĐ ốm đau, tai nạn…, không có nguồn thu nhập, không có chi phí thuốc men…, đời sống của họ bị ảnh hưởng thì quan hệ lao động, chất lượng, hiệu quả lao động trong doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng theo. Ba là, công tác xử lý vi phạm pháp luật chưa thật sự hiệu quả. Tình hình vi phạm pháp luật BHXH được phát hiện qua công tác thanh tra, kiểm tra về thực hiện pháp luật BHXH là khá phổ biến. Các hành vi vi phạm đã được phát hiện qua công tác thanh tra, kiểm tra bao gồm: - Về đối tượng tham gia: không tham gia, tham gia không đúng đối tượng hoặc đăng ký tham gia không đúng thời gian quy định; - Về mức đóng: đóng không đúng, không đủ mức đóng theo quy định; - Về phương thức đóng: trốn đóng, chậm đóng BHXH hoặc đã thu, trích nộp tiền đóng BHXH của NLĐ nhưng không nộp về cho cơ quan BHXH; - Trục lợi các chế độ BHXH: tình hình trục lợi các chế độ BHXH rất đáng báo động. Các hình thức trục lợi rất tinh vi và thường lợi dụng các kẽ hở của pháp luật về BHXH. 286
- Những hình thức trục lợi phổ biến bao gồm: lập hồ sơ giả hoặc làm sai lệch nội dung hồ sơ BHXH để hưởng các chế độ BHXH; - Cơ sở y tế cấp Giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH không đúng quy định như: cấp khống, cấp không đúng thẩm quyền; - Tình trạng gửi đóng BHXH hoặc tăng mức đóng cao để lạm dụng chế độ thai sản; - Tình trạng sử dụng sổ BHXH, làm giả hồ sơ để hưởng chế độ BHXH một lần; - Tình trạng vi phạm pháp luật về trốn đóng BHXH bắt buộc sau thanh tra, kiểm tra chưa được khắc phục triệt để; vẫn còn tình trạng doanh nghiệp sau khi thanh tra có kết luận và đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nhưng doanh nghiệp cố tình không chấp hành, kể cả không nộp tiền xử phạt vi phạm hành chính vào ngân sách nhà nước dẫn đến tình trạng nhờn luật. Bốn là, cơ quan BHXH áp lực vì quá nhiều việc. Theo báo cáo của BHXH Việt Nam, hiện nay, biên chế toàn ngành BHXH mới chỉ có 21.000 người, theo Đề án vị trí việc làm thì BHXH Việt Nam cần phải có khoảng 27.000 người; dự kiến đến năm 2021, công việc, nhiệm vụ tăng thêm từ 1,5 lần đến 02 lần so với năm 2018. Bình quân 01 cán bộ thu năm 2021 phải quản lý 24.773 đối tượng tham gia, tăng khoảng 1.825 đối tượng so với năm 2018; 01 cán bộ chính sách BHXH năm 2021 quản lý hồ sơ và giải quyết bình quân 8.045 hồ sơ/năm tăng khoảng 1.400 hồ sơ/năm so với năm 2018; 01 cán bộ giám định BHYT năm 2021 phải quản lý, giám định 69.515 hồ sơ/năm tăng khoảng 4.960 hồ sơ so với năm 2018 (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, 2020). Cơ quan BHXH không đủ khả năng về nhân lực để rà soát thực hiện khai thác. Nhiệm vụ công tác thu phải thường xuyên theo dõi biến động về lao động, tiền lương, chức danh nghề, đôn đốc, hậu kiểm, phối hợp thanh tra, kiểm tra, phát triển đối tượng tham gia BHXH và quản lý thu trong khi công tác thu được ngành BHXH quan tâm đặc biệt, nhưng với số lượng viên chức, lao động hợp đồng như hiện nay (hơn 5.000 người) với khối lượng công việc quá lớn: quản lý hơn 15 triệu người tham gia BHXH bắt buộc, trên 12,5 triệu người tham gia BHTN, trên 550 nghìn người tham gia BHXH tự nguyện (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, 2020) thì đã rất áp lực, khó khăn. Vấn đề kiện toàn bộ máy tổ chức thực hiện BHXH là thật sự cần thiết để đạt được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra. 3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội ở Việt Nam Xuất phát từ thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật BHXH hiện nay ở Việt Nam, chúng tôi đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHXH như sau: Thứ nhất, nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm - Việc kiện toàn bộ máy hoạt động và củng cố hệ thống quản lý cơ quan BHXH ở các cấp là cần thiết. Trong BHXH cần hình thành một bộ phận chức năng riêng chuyên thực hiện và theo dõi quản lý hoạt động của chế độ hưu trí và quá trình chi trả cho các đối tượng về hưu ở các cấp. Việc hình thành bộ phận chuyên môn như vậy không đơn thuần chỉ là thêm 287
- một chức năng mà đó là một vấn đề cần được thực hiện trên cơ sở những nghiên cứu đầy đủ về khối lượng công việc, tiêu chuẩn và định mức công việc, yêu cầu trình độ chuyên môn và tổ chức hợp lý; - Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH, nhất là trong việc hoạch định chiến lược phát triển, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật BHXH. - Tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ngành và địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách BHXH, kịp thời xử lý những khó khăn, vướng mắc phát sinh. - Nâng cao tính tuân thủ pháp luật về BHXH thông qua thực hiện đồng bộ các biện pháp hành chính, kinh tế, tư pháp để tăng số người tham gia BHXH, đi đôi với chú trọng tăng số người thụ hưởng quyền lợi BHXH, đặc biệt là chế độ hưu trí. - Thực hiện giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH cho các địa phương. - Hoàn thiện bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BHXH theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian như: thực hiện sát nhập đầu mối đơn vị là BHXH cấp quận, huyện; cấp vụ, ban, giảm đơn vị cấp phòng; giảm cấp phó, tinh giản biên chế; - Tiếp tục hiện đại hóa quản lý BHXH, đầu tư phát triển công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến trong tổ chức thực hiện BHXH; - Tăng cường đẩy mạnh hợp tác đa phương, song phương và nhận sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, kinh nghiệm, công nghệ từ phía các tổ chức quốc tế như: Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Ngân hàng Thế giới (WB), Liên minh châu Âu (EU), cũng như các quốc gia trên thế giới về BHXH như: Thái Lan, Trung Quốc, Anh… Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về BHXH Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để triển khai chính sách BHXH đối với NLĐ và người sử dụng lao động để họ nắm vững được chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, từ đó nhận thức rõ được trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi khi tham gia BHXH. Hiện nay, việc thực hiện chế độ BHXH gặp không ít khó khăn do hiện tượng né tránh nộp BHXH cho NLĐ là khá phổ biến, nhất là cá doanh nghiệp ngoài quốc doanh do chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của chế độ BHXH. Do đó, cần xác định công tác tuyên truyền chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước đối với NLĐ là một trong những nhiệm vụ thường xuyên. Trong thời gian qua, công tác thông tin này đã được chú ý, tuy nhiên, chưa thật thường xuyên, nội dung chưa cập nhật và chưa thật phong phú, chưa đủ liều lượng để NLĐ và người sử dụng lao động nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng của chế độ chính sách BHXH trong giai đoạn đổi mới. Chính vì vậy, việc tuyên truyền giải thích nhằm nâng cao nhận thức về BHXH cho NLĐ và người sử dụng lao động có ý nghĩa hết sức quan trọng và cấp bách trong giai đoạn này. Đây không chỉ là một công việc của ngành BHXH mà còn là nhiệm vụ chung của nhiều ngành nhiều cấp và của toàn xã hội. 288
- Thứ ba, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH Việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong lĩnh vực BHXH là khó thực hiện bởi tình trạng vi phạm pháp luật đang có chiều hướng gia tăng. Để giải quyết “bài toán” này, cần phải chỉ ra các nguyên nhân cụ thể. Có thể thấy, điển hình là tình trạng doanh nghiệp lợi dụng chính sách còn có lỗ hổng, chưa đồng bộ, sự phối hợp giữa các đơn vị chưa hiệu quả và việc xử lý vi phạm chưa kiên quyết để cố tình chây ỳ, chậm đóng, chiếm dụng tiền BHXH dẫn đến khó khăn trong cân đối quỹ bảo hiểm, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi NLĐ. Để đạt hiệu quả tốt hơn trong thời gian tới, chúng ra cần đảm bảo đồng bộ trong công tác thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm trong lĩnh vực này; cần sự đồng thuận của các cơ quan không chỉ có ngành dọc của BHXH thành phố. Hàng kỳ theo thực tiễn công tác, cần có các cuộc họp giữa các sở, ban, ngành và Ủy ban nhân dân cấp huyện phối hợp với BHXH tỉnh nhằm thống nhất các biện pháp nhằm tăng cường thanh, kiểm tra các đơn vị trên địa bàn, xử lý nghiêm các trường hợp cố tình chây ỳ, trốn đóng, chậm đóng BHXH, gắn với tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển. Thứ tư, tăng cường đối thoại chính sách BHXH tới doanh nghiệp và người lao động Các hình thức tuyên truyền, phổ biến chính sách cần đa dạng hóa hơn, đặc biệt là đẩy mạnh phổ biến BHXH trên các phương tiện truyền thông, đối thoại trực tiếp... Bên cạnh đó, các viên chức, người lao động của cơ quan BHXH cần phải nắm rõ các chế độ chính sách để tuyên truyền, tập huấn, trao đổi trực tiếp để các đơn vị sử dụng lao động, NLĐ nhận thức đúng về quyền lợi và trách nhiệm của mình trong việc tham gia BHXH; phòng ngừa tình trạng người lao động do thiếu hiểu biết mà bị các doanh nghiệp lợi dụng. Công tác tuyên truyền phải đổi mới theo hướng thiết thực, cụ thể, sinh động nhằm đạt được là nâng cao nhận thức cho người lao động, người sử dụng lao động cũng như các đối tượng thụ hưởng chính sách BHXH. Có như vậy, chính sách BHXH mới thực sự đi vào cuộc sống của NLĐ, của đối tượng thụ hưởng, giúp họ vượt qua những khó khăn trong cuộc sống; đồng thời cũng là trang bị cho NLĐ những kiến thức bảo vệ quyền lợi khi họ bị vi phạm quyền lợi BHXH. Do đó, công tác tuyên truyền phải được thực hiện thường xuyên, sâu rộng hơn nữa để hiểu và làm đúng chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về BHXH. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và các cấp Công đoàn luôn xem công tác tuyên truyền đối thoại chính sách là điều kiện hết sức quan trọng để bảo vệ quyền lợi và nâng cao ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm thực thi pháp luật cho đoàn viên và NLĐ. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thường xuyên chỉ đạo các cấp Công đoàn chủ động, quan tâm tổ chức thực hiện các hoạt động truyền thông về pháp luật lao động nói chung và pháp luật về BHXH. Chính phủ càng ban hành văn bản đầy đủ, kịp thời, đồng bộ thì công tác pháp luật của các cấp Công đoàn nói chung và hoạt động tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về lao động, BHXH cho cán bộ, đoàn viên, người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp nói riêng càng có nhiều thuận lợi và đạt kết quả tốt. 289
- 4. Kết luận BHXH luôn giữ vai trò là một trụ cột quan trọng của hệ thống an sinh xã hội. BHXH là công cụ hữu hiệu nhất để đảm bảo quyền lợi của NLĐ và gia đình họ, góp phần đảm bảo an sinh xã hội trong ngắn hạn và dài hạn. Do đó, những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHXH hiện nay sẽ góp phần xây dựng hệ thống pháp luật an sinh xã hội thống nhất, khoa học, hiện đại, có tính khả thi vì sự phát triển của đất nước. Bên cạnh việc kiện toàn bộ máy thực thi pháp luật BHXH thì công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của đối tượng tham gia BHXH là cần thiết để đạt được hiệu quả cao trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2020), Báo cáo đánh giá tổng kết thi hành Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 giai đoạn 2016 - 2020. 2. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (20200, Báo cáo đánh giá tác động của chính sách bảo hiểm xã hội. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, ban hành ngày 23/5/2018. 4. Đặng Như Lợi (2020), Chính sách bảo hiểm xã hội: Lợi ích thiết thực, tính ưu việt, an toàn và đáng tin cậy đối với người lao động, nguồn: https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/linh-vuc-bao-hiem-xa- hoi.aspx?ItemID=15506&CateID=168, truy cập 26/09/2020 5. Giải pháp căn cơ để giảm tình trạng rút bảo hiểm xã hội một lần, nguồn https://laodong.vn/cong-doan/giai-phap-can-co-de-giam-tinh-trang-rut-bao-hiem-xa- hoi-mot-lan-975063.ldo truy cập 18/11/2021 6. ILO - ILSSA (2018), Labour and social trends in Viet Nam. 7. Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, nguồn https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/hoat-dong-he-thong-bao-hiem-xa- hoi.aspx?itemID=12380&CateID=52 truy cập 26/03/2019 8. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Bảo hiểm xã hội, Luật số: 58/2014/QH13, ban hành ngày 20/11/2014. 9. Tăng cường giải pháp thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện, nguồn https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/09/16/tang-cuong-giai-phap-thuc-hien-chinh- sach-bao-hiem-xa-hoi-tu-nguyen/ truy cập 16/09/2021 10. Xuân Anh (2020), Hệ thống bảo hiểm xã hội ngày càng hiện đại, chuyên nghiệp và hiệu quả, nguồn: https://nhandan.com.vn/bhxh-va-cuoc-song/he-thong-bao-hiem-xa-hoi- ngay-cang-hien-dai-chuyen-nghiep-va-hieu-qua-449633/ truy cập ngày 15 /02/2020. 290
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài: “ Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung- dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hải Dương”
40 p | 181 | 68
-
Nâng cao lòng trung thành của khách hàng trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ
7 p | 173 | 30
-
Bài thảo luận: Nghiên cứu giải pháp nâng cao kỹ năng mềm cho sinh viên khoa Tài chính ngân hàng
17 p | 262 | 22
-
Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam - Hướng đến phát triển bền vững
6 p | 100 | 9
-
Khoá luận tốt nghiệp: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Techcombank - PGD 3/2
89 p | 52 | 9
-
Một số giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng ngân hàng áp dụng cho Agribank Cẩm Giàng Hải Dương
7 p | 77 | 8
-
Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế
11 p | 61 | 7
-
Một số vấn đề lý luận về tuân thủ thuế
5 p | 92 | 7
-
Chất lượng dịch vụ tín dụng đối với các hộ sản xuất của Agribank chi nhánh huyện Đồng Hỷ: Thực trạng và giải pháp
8 p | 95 | 6
-
Giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ Mobile Banking tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Tiên Phong trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh
7 p | 50 | 6
-
Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, BT qua công tác kiểm toán của kiểm toán nhà nước chuyên ngành IV
8 p | 64 | 4
-
Báo cáo chuyên đề: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn tại nh TMCP phát triển Mê Kông
22 p | 40 | 4
-
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp
5 p | 8 | 3
-
Nâng cao kỹ năng mềm cho sinh viên ngành Kế toán trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp trong bối cảnh công nghiệp 4.0
8 p | 11 | 3
-
Chất lượng tín dụng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Chính sách Xã hội chi nhánh huyện Cần Đước
13 p | 47 | 3
-
Nâng cao sức cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam khi gia nhập TPP
3 p | 62 | 2
-
Một số giải pháp nâng cao vai trò kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp
6 p | 7 | 2
-
Một số giải pháp trong đào tạo nguồn nhân lực kế toán chất lượng cao đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế
8 p | 8 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn