Module Giáo viên mầm non 5: Hoạt động tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên mầm non
lượt xem 0
download
Tài liệu "Module Giáo viên mầm non 5: Hoạt động tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên mầm non" nhằm giúp bạn đọc hiểu rõ về ý nghĩa, vai trò của hoạt động tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ giáo viên mầm non (GVMN). Nắm được nội dung, phương pháp tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của người giáo viên mầm non. Phân tích được sự cần thiết và yêu cầu, nội dung, phương pháp tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ GVMN. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Module Giáo viên mầm non 5: Hoạt động tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên mầm non
- UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG TRỊ TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM MODUL 5 HOẠT ĐỘNG TỰ BỒI DƯỠNG CHUYÊN MÔN, NGHIỆP VỤ CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON Giảng viên: LÊ THỊ PHƯƠNG Đơn vị: Khoa GD Mầm non Điện thoại: 0963.029.919 Email: phuong_lt@qtttc.edu.vn Đông Hà, 2022 0
- MODUL 5 HOẠT ĐỘNG TỰ BỒI DƯỠNG CHUYÊN MÔN, NGHIỆP VỤ CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON A. MỤC TIÊU 1. Kiến thức: - Hiểu rõ về ý nghĩa, vai trò của hoạt động tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ giáo viên mầm non (GVMN). - Nắm được nội dung, phương pháp tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của người giáo viên mầm non. 2. Kỹ năng: - Phân tích được sự cần thiết và yêu cầu, nội dung, phương pháp tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ GVMN. - Vận dụng kiến thức được trang bị để xác định các hạn chế trong hoạt động tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ theo Chuẩn nghề nghiệp. - Xây dựng được kế hoạch và thực hiện tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng Chuẩn nghề nghiệp GVMN. 3. Thái độ: - Nâng cao ý thức tự học tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. - Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, ý thức tôn trọng, yêu thương, quý mến trẻ. B. BẢN MÔ TẢ NỘI DUNG Chương trình Chuyên đề Tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên Mầm non được thực hiện với các nội dung sau: - Ý nghĩa, vai trò của hoạt động tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ GVMN. - Yêu cầu, nội dung, phương pháp tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của người GVMN. - Hướng dẫn thực hiện các hoạt động tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của người GVMN đáp ứng Chuẩn nghề nghiệp. 1
- C. NỘI DUNG CỤ THỂ LÝ THUYẾT (10 tiết) 1. Ý NGHĨA, VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG TỰ BỒI DƯỠNG CHUYÊN MÔN NGHIỆP VỤ GVMN 1.1. Ý nghĩa hoạt động tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ GVMN Thế kỉ XXI – thế kỉ của nền văn minh và trí tuệ, giáo dục mầm non cũng cần có chuyển biến mới về chất lượng. Việc đổi mới về nội dung, phương pháp dạy học được đặt ra không chỉ đối với cấp học mầm non mà trong toàn bộ hệ thống giáo dục. Trong đó nhân tố quyết định chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ là đội ngũ giáo viên. Bởi lẽ để trẻ cót thể phát triển toàn diện, có nhân cách tốt hay không đều phụ thuộc vào vào việc chăm sóc trẻ ngay từ lứa tuổi non. Giáo dục trẻ không chỉ qua lời nói, cử chỉ hay một hành động đơn thuần nào đó của người lớn mà vấn đề ở chất lượng của một quá trình chăm sóc giáo dục trẻ của đội ngũ giáo viên mầm non trong các nhà trường. Trước tình hình đó, việc bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên là một yêu cầu cấp bách, là điều kiện tiên quyết nhằm khẳng định sự tồn tại và xây “thương hiệu” của nhà trường. Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên nói chung và giáo viên mầm non nói riêng được xem như là “một nút bấm” tạo sự chuyển biến cho cả hệ thống giáo dục quốc dân. Đội ngũ cán bộ giáo viên có vai trò quyết định trong việc chăm sóc giáo dục trẻ ở các trường mầm non vì vậy bất kì người quản lí nào đều suy nghĩ “làm thế nào để trường mầm non trở thành một trường phát triển tốt?”. Muốn thế trước hết phải có đội ngũ mạnh, vững về chuyên môn và điều đó không thể bỏ qua việc bồi dưỡng chuyên môn cho lực lượng cán bộ giáo viên. Mục tiêu của công tác bồi dưỡng là nhằm hoàn thiện quá trình đào tạo, khắc phục những thiếu sót lệch lạc trong công tác giảng dạy, về quan điểm, nội dung phương pháp giáo dục đồng thời thoe kịp yêu cầu xã hội. Trên thực tế hiện nay, đội ngũ giáo viên mầm non được đào tạo theo đúng chuyên môn của ngành học. Song do trình độ tiếp thu, năng lực, năng khiếu, điều 2
- kiện của mỗi giáo viên mỗi khác: một số giáo viên trẻ mới ra trường lại có con nhỏ nên việc thích ứng với chương trình còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ. một số giáo viên học qua các lớp đào tạo liên kết, tại chức nên phương pháp dạy trẻ còn nhiều hạn chế, nghệ thuật và kinh nghiệm giảng dạy chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đổi mới, dẫn đến chất lượng giáo dục chưa đồng đều. Bên cạnh đó phụ huynh thiếu quan tâm đến sự phát triển toàn diện của trẻ do điều kiện kinh tế khó khăn hoặc không có nhiều thời gian chăm sóc giáo dục con. Mặc khác do cơ sở vật chất của trường còn hạn chế do diện tích một số trường học ở khu vực thành phố quá hẹp, chưa đáp ứng với yêu cầu đổi mới giáo dục. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng giáo dục, tiếp cận đổi mới giáo dục mầm non, giúp trẻ phát triển một cách toàn diện là hết sức cần thiết. 1.2. Vai trò của hoạt động tự bồi dường chuyên môn nghiệp vụ GVMN Bồi dưỡng giáo viên trong nhà trường là công việc mang tính chiến lược, phải làm thường xuyên, liên tục và lâu dài để xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, phù hợp về cơ cấu và có chất lượng cao. Mặt khác, công tác bồi dưỡng giáo viên mang tính cấp bách bởi nhà trường phải thực hiện ngay những yêu cầu của năm học, những chỉ đạo của ngành nhằm nâng cao chất lượng giáo dục như đổi mới chương trình, phương pháp dạy học… - Công tác đào tạo, bồi dưỡng sẽ đẩy mạnh sự phát triển về chuyên môn nghiệp vụ của tất cả giáo viên, nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Tham gia vào các hoạt động bồi dưỡng sẽ giúp cho giáo viên thuận lợi khi tiếp cận với chương trình mới, có thái độ tích cực với những thay đổi nhanh chóng của thời đại. - Bồi dưỡng dưới nhiều hình thức phong phú đặc biệt là hình thức bồi dưỡng tại trường sẽ góp phần xây dựng tinh thần cộng tác, làm việc theo tổ, nhóm chuyên môn trong nhà trường. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng sẽ khuyến khích giáo viên làm việc chăm chỉ, tích cực để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. 3
- - Khi tham gia bồi dưỡng một cách thường xuyên, bài bản sẽ góp phần nâng cao ý thức, tính sáng tạo trong phương pháp dạy, những kỹ năng và thói quen tự học của giáo viên. Qua bồi dưỡng giúp cho giáo viên đánh giá được khả năng hoàn thành công việc và sự tiến bộ trong công tác của bản thân. Để đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay, người giáo viên cần phải luôn luôn rèn luyện đạo đức, tự học tập, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao khả năng sư phạm, đáp ứng nguyện vọng của phụ huynh, nhu cầu học tập của trẻ và yêu cầu đổi mới giáo dục đào tạo hiện nay. Điều đó khẳng định rằng: công tác bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trong trường mầm non là hết sức quan trọng, người cán bộ quản lý phải có trách nhiệm bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên trong nhà trường. 2. YÊU CẦU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP TỰ BỒI DƯỠNG CHUYÊN MÔN NGHIỆP VỤ CỦA NGƯỜI GVMN 2.1. Yêu cầu tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của người GVMN 2.1.1. Mỗi giáo viên cần nhận ra một cách đầy đủ, sâu sắc các vấn đề liên quan đến phát triển chuyên môn của mình Hiện nay, nhiều giáo viên chưa hiểu đúng về năng lực bản thân và chưa chấp nhận bản thân và đồng nghiệp. Mỗi khi có đánh giá, nhận xét hay xếp loại chuyên môn trong các kỳ đánh giá xếp loại theo quy định của Phòng, Sở Giáo dục và Đào tạo, giáo viên thường có xu hướng tự nâng mức bản thân bằng hoặc cao hơn người khác. Giáo viên thường tự đánh giá mình đạt mức tốt, khá (hiếm khi tự đánh giá trung bình, yếu). Thực tế, cơ bản họ không muốn đánh giá bản thân thấp hơn người khác kể cả khi họ hiểu rằng trên thực tế mình chưa đạt được mức tự đánh giá. Mặt khác, giáo viên có xu hướng bằng lòng với năng lực bản thân. Đặc biệt, với những giáo viên được coi là giáo viên giỏi luôn bằng lòng với kết quả đánh giá hiện tại và không tiếp tục phấn đấu, học hỏi chuyên môn. Họ không phấn đấu đạt được những tiêu chuẩn cao hơn của người giáo viên trong thời kỳ mới. Thậm chí, ngay cả khi nhu cầu học tập hiện tại của học sinh chưa được đáp ứng họ cũng chưa nhận ra 4
- hoặc chưa quan tâm đến giúp giáo viên có khả năng nhận ra, biết chấp nhận mỗi cá nhân học sinh. Khi biết chấp nhận học sinh như một cá thể độc lập, họ sẽ biết chấp nhận bản thân và ngược lại. Chấp nhận học sinh là điều kiện cần để tiến hành giáo dục theo quan điểm giáo dục lấy học sinh làm trung tâm. Người giáo viên có biết chấp nhận học sinh thì mới có thể tạo ra môi trường học tập thoải mái và tiến hành bài học có ý nghĩa. Họ có thể thể hiện tình yêu thương, trân trọng với tất cả học sinh như con em của chính mình, nếu một lớp học có 30 em học sinh thì cả 30 em đều được yêu quý như nhau. Hiện nay, các cấp quản lý giáo dục luôn yêu cầu và mong muốn giáo viên quan tâm đến mọi đối tượng học sinh (đặc biệt những học sinh có khó khăn trong học tập) trong quá trình dạy học nhưng nhận ra lúc nào cần phải quan tâm như thế nào, làm thế nào để học có thói quen tự giác, thường xuyên quan tâm đến học sinh thì không dễ dàng. 2.1.2. Giáo viên cần hiểu đúng và áp dụng được phương pháp giáo dục mới vào thực tế giảng dạy hàng ngày Thực tế hiện nay đội ngũ giáo viên mầm non được đào tạo và bồi dưỡng hàng năm về phương pháp dạy học mới. Nhưng giữa lý thuyết và thực tế, giữa nhận thức và hành động luôn có khoảng cách lớn. Trong những chương trình bồi dưỡng vẫn còn nhiều giáo viên chưa hiểu đúng và đủ bản chất vấn đề. Chỉ khi bắt đầu vào vận dụng thực tế dạy học trên lớp, họ mới thực sự gặp phải khó khăn. Nhiều giáo viên có thể biết và hiểu lý thuyết nhưng trong thực hành tác nghiệp, trước những tình huống đa dạng, phức tạp nảy sinh trong việc học của học sinh, việc vận dụng lý thuyết để giải quyết các vấn đề thực tế còn nhiều khó khăn. Thậm chí, do có nhiều giáo viên hiểu chưa đúng, nên số đông trong số họ còn e ngại và thiếu quyết tâm vận dụng cái mới. Khi thực hiện Chương trình Giáo dục, nhiều giáo viên vẫn tin rằng chỉ cần cố gắng dạy học theo đúng, đủ chương trình là tốt rồi. Từ đó có ý thức thực hiện dạy 5
- học theo khuôn mẫu một cách thụ động. Khi họ muốn thay đổi cho phù hợp thực tế nhưng lại gặp khó khăn khi không biết phải thay đổi như thế nào và làm cách nào để thay đổi. 2.1.3. Giáo viên cần được khuyến khích và hỗ trợ tự học nâng cao năng lực và đổi mới phương pháp dạy học Chủ trương của ngành Giáo dục - Đào tạo khuyến khích giáo viên tự học nâng cao năng lực chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học, song trên thực tế thì việc khuyến khích và hỗ trợ giáo viên thực hiện việc tự học còn hạn chế. Giáo viên sẽ tự học những gì, như thế nào, lúc nào và ở đâu để đảm bảo hiệu quả thiết thực cho công việc dạy học hàng ngày, đáp ứng tốt việc học của học sinh là những câu hỏi lớn mỗi giáo viên không thể tự mình giải quyết. Mặc dù hầu hết giáo viên đều được khuyến khích học để nâng cao trình độ đào tạo (đạt chuẩn và trên chuẩn trình độ đào tạo) nhưng năng lực chuyên môn đáp ứng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm còn nhiều hạn chế. Điều này thể hiện ở thực trạng hiện nay, trước định hướng của các cấp quản lý giáo dục cho phép và khuyến khích giáo viên vận dụng, điều chỉnh nội dung các bài học trong chương trình cho phù hợp với các đối tượng học sinh nhưng do chưa có hiểu biết sâu rộng về nội dung bài học đó nên nhiều giáo viên chưa dám hoặc không có khả năng thực hiện, họ vẫn chỉ dạy những gì có sẵn trong chương trình hoặc lặp lại. Mặc dù tỉ lệ giáo viên đạt trình độ đào tạo trên chuẩn (đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng) khá cao nhưng năng lực chuyên môn vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay. Điều đó chứng tỏ cơ hội học tập thực sự có ý nghĩa để nâng cao năng lực chuyên môn của giáo viên vẫn chưa đảm bảo. Trong khi cơ hội tự học chỉ có thể được tạo ra và phát huy trên cơ sở tạo ra các "tình huống học tập cộng tác" giữa các giáo viên. "Tình huống học tập cộng tác" đó chỉ có thể xuất hiện khi các nhà trường tổ chức cho giáo viên các buổi để họ "chia sẻ chuyên môn" trong sinh hoạt chuyên môn theo cách tiếp cận mới. Trong đó, họ có cơ hội được học hỏi bằng quá trình tự trải nghiệm, học hỏi từ đồng 6
- nghiệp nhờ thiết kế giáo án, tiến hành, dự giờ nhiều bài học ở các lớp học khác nhau. Đó là con đường học tập thiết thực, hiệu quả và phù hợp nhất hiện nay đối với tất cả các giáo viên. 2.1.4. Đổi mới cách tiếp cận và phương thức tổ chức thực hiện sinh hoạt chuyên môn ở nhà trường. Hiện nay, ở tất cả các nhà trường, hàng tuần và tháng vẫn duy trì truyền thống và nền nếp tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn cho giáo viên. Tuy nhiên, cách tiếp cận và phương thức tổ chức thực hiện vẫn chưa thực sự đổi mới, chưa mang tính chất chia sẻ chuyên môn vì vẫn còn thiên về đánh giá, đối chiếu so với tiêu chuẩn hoặc có tính "làm mẫu" của giáo viên giỏi. Trong khi thực tế năng lực mỗi cá nhân giáo viên khác nhau, hoàn cảnh và điều kiện dạy học khác nhau, việc học của học sinh ở các giờ học lại luôn luôn biến đổi. Do đó, tất cả các giáo viên cần được tham gia vào quá trình học tập bằng thực tế theo phương thức chia sẻ chuyên môn. Người giáo viên luôn luôn cần được trau dồi, bổ sung, và nâng cao khả năng chuyên môn để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người học, sự biến đổi của các yếu tố trong quá trình giáo dục (nội dung chương trình, phương pháp, người học,...). Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, cần có một cách tiếp cận mới, quan trọng và có ý nghĩa để phát triển các năng lực chuyên môn giáo viên đó là tạo cơ hội cho giáo viên được thường xuyên tham gia sinh hoạt chuyên môn. Đây là cách tiếp cận mới giúp giáo viên học tập lẫn nhau trong thực tế và qua thực tế thông qua trải nghiệm thực sự vào quá trình dự giờ-quan sát-suy ngẫm và chia sẻ thực tế việc học của học sinh để phát triển các năng lực mới và cần thiết, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. Hơn thế nữa, thực tế đã chứng minh, sinh hoạt chuyên môn không chỉ giúp nâng cao năng lực chuyên môn cho mỗi giáo viên mà còn xây dựng được "tính đồng nghiệp" tốt đẹp trong một "cộng đồng học tập"; giúp họ tìm thấy ý nghĩa và những giá trị mới và sự thú vị của nghề nghiệp, qua đó 7
- khích lệ sự say mê chuyên môn, tích cực và chủ động xây dựng lại và đổi mới nhà trường. 2.2. Nội dung tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của người GVMN. Nội dung bồi dưỡng gồm có 03 chương trình: chương trình bồi dưỡng cập nhật kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ thực hiện nhiệm vụ năm học giáo dục mầm non áp dụng trong cả nước; chương trình bồi dưỡng cập nhật kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục mầm non theo từng thời kỳ của mỗi địa phương; chương trình bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm, kiến thức, kỹ năng chuyên ngành. Nội dung chương trình bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm, kiến thức, kỹ năng chuyên ngành phải bồi dưỡng 5 tiêu chuẩn gồm: Phẩm chất nhà giáo; chuyên môn nghiệp vụ sư phạm; xây dựng môi trường giáo dục; phối hợp với gia đình và cộng đồng; sử dụng ngoại ngữ hoặc tiếng dân tộc và công nghệ thông tin; thể hiện khả năng nghệ thuật trong chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non. Trong đó yêu cầu cần đạt được đối với chuyên môn nghiệp vụ sư phạm cụ thể như sau: - Phát triển Chương trình GDMN phù hợp với sự phát triển của trẻ em và bối cảnh địa phương: Phân tích được sự cần thiết và yêu cầu của phát triển Chương trình giáo dục ở các cơ sở GDMN trong bối cảnh hiện nay; vận dụng kiến thức được trang bị để phát triển Chương trình GDMN phù hợp với sự phát triển của trẻ em và bối cảnh địa phương; hỗ trợ đồng nghiệp trong phát triển Chương trình giáo dục tại cơ sở GDMN - Lập kế hoạch giáo dục trẻ em trong nhóm, lớp trong các cơ sở GDMN: Phân tích được yêu cầu của các loại kế hoạch giáo dục; Vận dụng kiến thức đã được trang bị vào lập được các loại kế hoạch giáo dục trẻ em trong nhóm, lớp đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và điều kiện thực tiễn; Hỗ trợ đồng nghiệp trong lập kế hoạch giáo dục 8
- - Tổ chức hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em trong nhóm, lớp: Phân tích được yêu cầu đối với các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em trong nhóm, lớp; vận dụng kiến thức được trang bị vào tổ chức các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em trong nhóm, lớp đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và điều kiện thực tiễn; Hỗ trợ đồng nghiệp trong tổ chức, thực hiện nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em trong nhóm, lớp. - Đảm bảo an toàn cho trẻ trong các cơ sở GGMN: Phân tích được các yêu cầu, quy định về đảm bảo an toàn cho trẻ em trong cơ sở GDMN; vận dụng các kiến thức được trang bị vào đánh giá mức độ đảm bảo an toàn cho trẻ em của cơ sở GDMN mình đang công tác xác định được hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế; đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả phòng tránh và xử lí một số tình huống mất an toàn cho trẻ em trong cơ sở GDMN - Kĩ năng sơ cứu - phòng tránh và xử lí một số tình huống nguy hiểm, bệnh thường gặp ở trẻ em: Phân tích được các tình huống nguy hiểm, nhận diện được các biểu hiện về bệnh thường gặp ở trẻ em trong cơ sở GDMN; vận dụng kiến thức được trang bị vào đánh giá mức độ thực hiện kĩ năng sơ cứu, xử lý một số tình huống nguy hiểm, bệnh thường gặp cho trẻ em trong cơ sở GDMN; đề xuất được một số biện pháp nâng cao hiệu quả thực hiện sơ cứu và phòng tránh, xử lí được một số tình huống nguy hiểm, bệnh thường gặp ở trẻ em trong cơ sở GDMN. - Tổ chức các hoạt động phát triển nhận thức cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm: Phân tích được cơ sở lý luận của phát triển nhận thức cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm; vận dụng kiến thức được trang bị vào đánh giá thực trạng và phát hiện các hạn chế trong tổ chức hoạt động phát triển nhận thức theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm; đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động phát triển nhận thức theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trong nhóm, lớp tại cơ sở GDMN. - Tổ chức các hoạt động phát triển vận động cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm: Phân tích được cơ sở lý luận của phát triển vận động 9
- theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm; vận dụng kiến thức được trang bị vào đánh giá thực trạng và phát hiện các hạn chế trong tổ chức hoạt động phát triển vận động theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm; đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động phát triển vận động theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trong nhóm, lớp tại cơ sở GDMN. - Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm: Phân tích được cơ sở lý luận của giáo dục phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm; vận dụng kiến thức được trang bị vào đánh giá thực trạng và phát hiện các hạn chế trong tổ chức hoạt động giáo dục phát triển ngôn ngữ, tăng cường tiếng Việt theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm; đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động giáo dục phát triển ngôn ngữ, tăng cường tiếng Việt theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trong nhóm, lớp tại cơ sở GDMN; nâng cao kỹ năng cho giáo viên trong việc sử dụng các bộ công cụ hỗ trợ trong hoạt động giảng dạy hàng ngày lấy trẻ em làm trung tâm, đặc biệt với các nhóm trẻ học hòa nhập. - Tổ chức các hoạt động phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm: Phân tích được cơ sở lý luận của phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm; vận dụng kiến thức được trang bị vào đánh giá thực trạng và phát hiện các hạn chế trong tổ chức hoạt động phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm; đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trong nhóm, lớp tại cơ sở GDMN. - Tổ chức các hoạt động phát triển thẩm mỹ cho trẻ em theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm: Phân tích được cơ sở lý luận của giáo dục phát triển thẩm mỹ theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm; vận dụng kiến thức được trang bị vào đánh giá thực trạng và phát hiện các hạn chế trong tổ chức hoạt 10
- động phát triển thẩm mỹ theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm; đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động phát triển thẩm mỹ theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong nhóm, lớp tại cơ sở GDMN. - Giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ em lứa tuổi mầm non: Phân tích cơ sở lý luận của việc giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ em; vận dụng kiến thức được trang bị vào thực hiện các hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường trong nhóm, lớp; hỗ trợ đồng nghiệp trong thực hiện hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường tại cơ sở GDMN - Tổ chức hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ em trong nhóm, lớp ghép nhiều độ tuổi tại cơ sở GDMN: Phân tích được căn cứ pháp lý, cơ sở lý luận của việc tổ chức hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ em trong nhóm lớp ghép nhiều độ tuổi; vận dụng các kiến thức được trang bị vào tổ chức hoạt động chăm sóc, giáo dục trong nhóm, lớp ghép nhiều độ tuổi; hỗ trợ đồng nghiệp trong tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ em trong nhóm, lớp ghép độ tuổi. - Tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em lứa tuổi mầm non: Phân tích được cơ sở lý luận của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em; vận dụng các kiến thức được trang bị vào tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em ở cơ sở GDMN; hỗ trợ đồng nghiệp trong tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em. - Tổ chức quan sát và đánh giá sự phát triển của trẻ em lứa tuổi mầm non: Phân tích được cơ sở khoa học của đánh giá sự phát triển của trẻ em; vận dụng kiến thức được trang bị vào tổ chức quan sát và đánh giá sự phát triển của trẻ em; hỗ trợ đồng nghiệp trong thực hiện hoạt động quan sát, đánh giá sự phát triển của trẻ em tại nhóm, lớp. - Phát hiện, sàng lọc và tổchức các hoạt động chăm sóc, giáo dục đáp ứng trẻ em có nhu cầu đặc biệt: Phân tích được cách thức phát hiện, sàng lọc và yêu cầu tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục đáp ứng trẻ em có nhu cầu đặc biệt; vận dụng kiến thức đã được trang bị vào phát hiện, sàng lọc trẻ em có nhu cầu đặc biệt 11
- tại nhóm, lớp mình phụ trách; đề xuất được các biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ em có nhu cầu đặc biệt trong nhóm, lớp. - Làm đồ dùng dạy học, đồ chơi từ nguyên liệu địa phương: Phân tích được những yêu cầu sư phạm của các đồ dùng, đồ chơi tự tạo từ nguyên liệu địa phương; vận dụng kiến thức được trang bị vào thiết kế, thực hiện một số đồ dùng đồ chơi từ nguyên liệu địa phương; hỗ trợ đồng nghiệp làm một số đồ dùng, đồ chơi từ nguyên vật liệu địa phương tại cơ sở GDMN. - Quản lí nhóm, lớp học ở cơ sở GDMN: Phân tích được cơ sở lý luận của quản lý nhóm, lớp ở cơ sở GDMN; vận dụng kiến thức được trang bị vào quản lý nhóm, lớp tại cơ sở GDMN; hỗ trợ đồng nghiệp trong quản lý nhóm, lớp ở cơ sở GDMN. 2.3. Phương pháp tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của người GVMN. 2.3.1. Chuẩn bị, xây dựng kế hoạch tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và triển khai thực hiện kế hoạch. Để hoạt động tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ đạt kết quả tốt, giáo viên cần cần nắm rõ nội dung các văn bản chỉ đạo của Bộ, Sở, Phòng Giáo dục và Đào tạo có liên quan đến chuyên môn , nghiệp vụ bản thân. Trên cơ sở kế hoạch của Sở GD&ĐT, phòng Giáo dục đã ban hành mỗi giáo viên cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Để làm tốt việc tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ giáo viên cần xác định rõ nhu cầu tự bồi dưỡng chuyên môn , nghiệp vụ; lựa chọn nội dung bồi dưỡng phù hợp, thiết thực; xây dựng kế hoạch tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho bản thân; triển khai thực hiện; đánh giá kết quả đạt được. Khi giáo viên xây dựng kế hoạch tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cần xác định: mục tiêu bồi dưỡng, nội dung bồi dưỡng, hình thức bồi dưỡng, phương pháp bồi dưỡng, các điều kiện đảm bảo. 2.3.2. Đổi mới hình thức tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ 12
- Triển khai thực hiện kế hoạch tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục của bản thân. Triển khai thực hiện nghiêm túc, sáng tạo phù hợp với đặc điểm của địa phương, đơn vị theo sự chỉ đạo của lãnh đạo. Để tổ chức triển khai có hiệu quả hoạt động tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ giáo viên cần bám sát chương trình hoạt động của ngành theo năm, theo kế hoạch đơn vị. Giáo viên cần hoạch định thời gian tự bồi dưỡng để không làm ảnh hưởng đến hoạt động giảng dạy. Hoạt động bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ giáo viên có thể được thực hiện theo các hình thức gồm: Một là, bồi dưỡng thường xuyên bằng tự học kết hợp với các sinh hoạt tập thể về chuyên môn, nghiệp vụ tại tổ chuyên môn, nhóm chuyên môn của nhà trường, liên trường hoặc cụm trường. Hình thức tự bồi dưỡng này sẽ giúp cho giáo viên chủ động hơn trong việc xây dựng kế hoạch tự bồi dưỡng, phù hợp với công việc được giao và hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ. Giáo viên phải tự nhận thức được tự bồi dưỡng không chỉ là một nhiệm vụ mà còn là tiêu chí đánh giá khả năng phát triển liên tục nghề nghiệp của bản thân. Hai là, tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ thông qua quá trình tham quan, thực tế học hỏi từ các trường bạn. Tham quan học tập những đơn vị có chất lượng tốt nhằm mở rộng mối quan hệ giao lưu, trao đổi những kinh nghiệm trong giảng dạy, từ đó vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong công tác giảng dạy của mỗi giáo viên. 2.3.3. Lựa chọn nội dung, điều chỉnh, bổ sung nội dung tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Nhằm đạt được mục tiêu tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng được nhu cầu cấp thiết, giáo viên cần lựa chọn nội dung bồi dưỡng căn cứ vào những vấn đề sau: căn cứ vào nhiệm vụ được giao; nhu cầu đa dạng về học tập, bồi dưỡng; điều kiện của bản thân, địa phương, đơn vị. Lựa chọn nội dung bồi dưỡng đáp ứng được nhu cầu của bản thân, giúp giáo viên hoàn thành nhiệm vụ và nâng cao năng lực nghề nghiệp. 13
- 2.3.4. Đánh giá kết quả tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Việc đánh giá kết quả tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên nhằm phát hiện ra những điểm mạnh, điểm yếu về chuyên môn, nghiệp vụ của của bản thân để từ đó nâng cao chất lượng tự bồi dưỡng hoặc bổ sung những nội dung bồi dưỡng mang tính thiết thực và hiệu quả cao. Giáo viên tự kiểm tra, đánh giá được kết quả tự bồi dưỡng bằng phương thức đa dạng: Thông qua kết quả đánh giá của tổ chuyên môn về việc thực hiện kế hoạch chuyên môn của giáo viên; tự đánh giá qua kết quả của tổ chuyên môn thông qua hoạt động dự giờ; tự đánh giá qua quá trình so sánh với tiến độ thực hiện hoặc qua quá trình học hỏi từ đồng nghiệp… 2.3.5. Yêu cầu Để quá trình tự học, tự bồi dưỡng đạt chất lượng, hiệu quả bản thân người giáo viên cần lưu ý những vấn đề sau: Một là, mỗi giáo viên trước hết phải nhận thức được vị trí,vai trò, trách nhiệm về tự học, tự bồi dưỡng. Chỉ khi nhận thức đúng thì bản thân mỗi giáo viên mới chuyển hóa được nhu cầu, đòi hỏi của xã hội thành động cơ mục đích của cá nhân, từ đó mới chủ động, tích cực, tự giác phấn đấu tự học, tự bồi dưỡng. Hai là, ngay từ đầu năm học, bản thân mỗi giáo viên cần xây dựng cho mình kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng khoa học.Trong kế hoạch này cần xác định rõ mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp, thời gian tự học, tự bồi dưỡng. Khi xây dựng kế hoạch giáo viên phải thể hiện rõ những nét phẩm chất, nhân cách, đạo đức nghề nghiệp cần hoàn thiện. Những kiến thức, kĩ năng sư phạm, phương pháp dạy học, …cần bổ sung. Để xây dựng một kế hoạch khoa học, giáo viên cần dựa trên kế hoạch của trường. Ngoài ra cần tham khảo thêm Căn cứ Thông tư số 12/2019/TT-BGDĐT ngày 26/8/2019 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc Ban hành chương trình bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non. Thông tư số 19/2019/TT-BGDĐT ngày 12/11/2019 của Bộ Giáo dục & Đào tạo về việc Ban hành Quy chế bồi dưỡng 14
- thường xuyên giáo viên, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và giáo viên trung tâm giáo dục thường xuyên. Từ đó giáo viên lựa chọn, thống kê các phần công việc cần làm, những yêu cầu cụ thể cần đạt được, mốc thời gian và mức độ hoàn thành phù hợp với điều kiện và năng lực bản thân. Sau khi lập được kế hoạch mỗi giáo viên phải có quyết tâm, có ý thức trách nhiệm, có tinh thần chủ động, kiên trì vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành mục tiêu đặt ra. Ba là, người giáo viên cần sắp xếp thời gian tự học, tự bồi dưỡng cho phù hợp với đặc trưng công việc của mình. Thời gian tự học, tự bồi dưỡng của giáo viên Mầm non rất hạn chế do vậy mỗi giáo viên cần sắp xếp thời gian tự học qua sinh hoạt chuyên môn ở tổ, nhóm, qua dự giờ thăm lớp, qua tham dự các buổi chuyên đề, tập huấn, hội thảo do trường, Phòng giáo dục - đào tạo, các tổ chức chính trị, xã hội tổ chức…vào hè hoặc trong năm học. Ngoài ra người giáo viên cần tham gia tự học, tự bồi dưỡng vào ngày nghỉ, giờ nghỉ. Bốn là, giáo viên mầm non cần xác định được nội dung tự học, tự bồi dưỡng phù hợp. Tự học, tự bồi dưỡng ở đây không chỉ bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ mà còn bồi dưỡng về đạo đức, tác phong, kĩ năng sư phạm. Trong quá trình bồi dưỡng về đạo đức, tác phong, kĩ năng sư phạm người giáo viên cần học tập ở mọi nơi, mọi lúc trong cuộc sống cũng như trong công việc. Học tập, bồi dưỡng thông qua các mối quan hệ với đồng nghiệp, với phụ huynh, với học sinh, với xã hội. Từ đó hoàn thiện nhân cách người giáo viên. Khi bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ giáo viên mầm non cần biết lựa chọn tài liệu, nghiên cứu thu thập thông tin một cách có chọn lọc phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Giáo viên có thể tìm tài liệu bồi dưỡng qua sách báo, qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua mạng internet, qua sinh hoạt chuyên môn…Giáo viên cần bổ sung kịp thời những kiến thức về tin học, ngoại ngữ, đổi mới về phương pháp, trang bị cho mình những kiến thức về văn hóa, xã hội, những hiểu biết pháp luật. 15
- Năm là, để quá trình tự học, tự bồi dưỡng có hiệu quả người giáo viên mầm non phải biết lựa chọn các hình thức bồi dưỡng phù hợp với khả năng, sở trường của mình. Hình thức tự học, tự bồi dưỡng thông qua hoạt động cá nhân giảng dạy, nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu các công văn, chỉ thị, thông tư…Hình thức tự học, tự bồi dưỡng qua hoạt động tập thể như tham gia các hoạt động sinh hoạt chuyên môn, qua các hoạt động chính trị, xã hội, qua đào tạo nâng chuẩn. Sáu là, trong quá trình tự học, tự bồi dưỡng người giáo viên phải biết tự kiểm tra, đánh giá kết quả bồi dưỡng. Hoạt động này giúp giáo viên nhìn nhận lại những việc đã làm và chưa làm được trong quá trình tự học, tự bồi dưỡng, từ đó kịp thời điều chỉnh, bổ sung kế hoạch nhằm đạt mục tiêu bồi dưỡng. Tự học, tự bồi dưỡng được hình thành trong quá trình luyện tập kiên trì có hệ thống, trên cơ sở ý thức trách nhiệm, tính tự giác cao. Qua đó giáo viên sẽ say sưa với nội dung học tập, biến chúng thành hiểu biết và chuyển thành niềm tin, thế giới quan khoa học, luôn tạo ra được trạng thái phấn khởi, hứng thú; biết tranh thủ tận dụng có hiệu quả mọi khoảng thời gian có thể để tự học, tự nghiên cứu; luôn tìm cách hiểu sâu những nội dung đã biết và khám phá những điều chưa biết; hình thành thái độ động cơ phấn đấu đúng đắn, để hoàn thiện phẩm chất nhân cách, nâng cao năng lực, phương pháp, tác phong công tác và uy tín nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. 3. HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN CÁC HOẠT ĐỘNG TỰ BỒI DƯỠNG CHUYÊN MÔN, NGHIỆP VỤ CỦA NGƯỜI GVMN ĐÁP ỨNG CHUẨN NGHỀ NGHIỆP 3.1. Nâng cao hiệu quả tự học, tự nghiên cứu bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của người GVMN Chất lượng của mỗi cơ sở mẫu giáo phụ thuộc vào trình độ của đội ngũ sư phạm. Vì vậy, phụ huynh khi lựa chọn cho con ngôi trường thích hợp trước hết chú ý đến mức độ chuyên nghiệp của giáo viên sẽ làm việc với con của họ. 16
- Sự phát triển và giáo dục thế hệ mới là một vấn đề rất quan trọng. Mỗi giáo viên không thể làm mà không có kiến thức trong lĩnh vực tâm lý học trẻ em, giải phẫu học, sinh lý học và tất nhiên là nghiệp vụ sư phạm mầm non. Do đó, tự học của mỗi giáo viên là quá trình tìm kiếm sáng tạo, tìm hiểu thông tin toàn diện nhằm đảm bảo cho công việc đạt hiệu quả cao, phù hợp với nhu cẩu đổi mới của ngành giáo dục. Để giúp giáo dục phát triển các chương trình đặc biệt để nâng cao kỹ năng liên tục, có nghĩa là giáo viên tham gia các khoá tập huấn định kỳ (do trường, sở giáo dục tổ chức), tham gia vào công việc nghiên cứu phương pháp luận của trường mẫu giáo, thành phố, huyện. Mỗi giáo viên luôn nêu cao tinh thần tự học, tự nghiên cứu bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ thông qua sách, tạp chí, đồng nghiệp hay các từ nguồn điện tử. Sự tự học, tự nghiên cứ bồi dưỡng giúp giáo viên nhanh chóng thích ứng với những thay đổi trong môi trường xã hội, làm quen với những đổi mới trong giáo dục một cách kịp thời, thường xuyên bổ sung kiến thức lý thuyết về khoa học sư phạm và nâng cao kỹ năng và khả năng của mình. Giáo dục trẻ nhỏ mầm non thường đòi hỏi một cách tiếp cận cá nhân, và cơ sở lý luận tốt cho công việc hiệu quả của giáo viên là không đủ. Do đó, việc tự học của GVMN phải nhất thiết là trao đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp khác trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, tổ chức quá trình sư phạm. Vì vậy, để kết quả tự học tự nghiên cứu đạt kết quả GVMN cần thực hiện: * Lưu trữ dữ liệu tự học tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ: - Giáo viên nên tạo một cuốn sổ tay riêng để tự học, trong đó giáo viên sẽ viết ra những gì quan trọng nhất của các công nghệ giáo dục khác nhau . - Tự học của giáo viên mầm non giả định so sánh các thông tin đã được nghiên cứu với dữ liệu từ các nguồn khác, phân tích sự tương đồng và khác biệt. Điều này cho phép giáo viên hình thành mục tiêu riêng về một vấn đề cụ thể. 17
- - Kết luận thu được từ kết quả tự học tự nghiên cứu nên được thảo luận với các đồng nghiệp tại cuộc hội thảo sư phạm. Điều này sẽ xác định những sự không chính xác trong việc hiểu, điều chỉnh kiến thức. - Lưu trữ các dữ liệu trong quá trình tự học, tự nghiên cứu theo cách có cấu trúc và có trật tự. Các dữ liệu thu thập đó có thể hữu ích cho việc tham gia các hội nghị sư phạm, các cuộc họp và thảo luận của bản thân mỗi giáo viên. * Tự bồi dưỡng tư tưởng chính trị: - Thường xuyên nghiên cứu và tự học tập, kiên định với đường lối của Đảng, với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, trung thành với chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực hiện tốt Điều lệ Đảng và Nghị quyết các cấp. Chấp hành tốt chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và nhà nước, phục tùng sự phân công và điều động công tác của Đảng, của lãnh đạo cấp trên. - Tích cực tuyên truyền, vận động người thân cùng quần chúng nhân dân chấp hành và thực hiện tốt Pháp luật, thực hiện tốt các chủ trương đổi mới và chính sách của Đảng và nhà nước, không có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “Tự diễn biến”, “Tự chuyển hóa”. Chấp hành tốt chủ trương đường lối, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy định của ngành, của nhà trường, quy ước của địa phương. Chấp hành tốt sự phân công, điều động của tổ chức. Thực hiện tốt các nguyên tắc về sinh hoạt Đảng, chú trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Thường xuyên giữ mối liên hệ mật thiết với Cấp ủy cơ sở, gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú. * Tự bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, lối sống: - Thường xuyên tu dưỡng rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức lối sống của người cán bộ quản lý, Đảng viên, viên chức. Gương mẫu trong công tác và lối sống, trong đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí. - Không ngừng “Học tập và làm theo tấm gương theo đạo đức phong cách Hồ Chí Minh”. Có lối sống trong sáng, giản dị, mẫu mực của một người công chức nhà nước, luôn giữ gìn tư cách, phẩm chất đạo đức cách mạng, phát huy tính tiền 18
- phong gương mẫu của người cán bộ quản lý, Đảng viên, việc chấp hành các nội quy, quy định của Đảng, của ngành, đơn vị về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ trong cơ quan đơn vị và các quy định tại địa phương nơi cư trú đề ra, không có biểu hiện suy thoái về đạo đức lối sống. * Thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao: - Bản thân luôn tự trau dồi năng lực quản lý, lãnh đạo nhà trường và các tổ chức đoàn thể thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Điều hành các hoạt động của nhà trường có nền nếp, hiệu quả, đúng tiến độ, - Thường xuyên học hỏi để nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần phục vụ nhân dân. 3.2. Hướng dẫn thực hiện các hoạt động tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của người GVMN 3.2.1. Nâng cao trình độ trên chuẩn của giáo viên Để thực hiện tốt công tác bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên cần phải xây dựng kế hoạch cụ thể xuất phát từ nhu cầu đào tạo của từng giáo viên (những giáo viên nào cần được nâng cao trình độ? Về vấn đề gì?). Đồng thời, lập kế hoạch bồi dưỡng dài hạn nhằm xác định mục tiêu và định hướng đào tạo nhân lực ( Số lượng khóa đào tạo, thời gian diễn ra, kết quả dự tính đạt được,…). Tham mưu với hiệu trưởng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho giáo viên đi học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ ở các trường sư phạm. Ngoài việc được tham gia các lớp tập huấn, khóa đào tạo nghiệp vụ, trong quá trình làm việc giáo viên đều phải có ý thức tự học: tham gia các buổi dự giờ, sinh hoạt chuyên môn cùng đồng nghiệp, tham quan các trường bạn về cách sắp xếp, tổ chức môi trường hoạt động cho trẻ,… chủ động học và tìm hiểu thêm một số kỹ năng cần thiết trong công tác giảng dạy như: các kĩ năng phòng – xử trí các bệnh và tai nạn thường gặp ở trẻ, kĩ năng ứng xử sư phạm,… 3.2. Bồi dưỡng giáo viên chủ động xây dựng hồ sơ 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn