intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Mối quan hệ giữa “nhân nghĩa” và “lợi ích” trong đường lối chính trị của Mạnh Tử

Chia sẻ: Nguyễn Văn H | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

71
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài viết xoay quan vấn đề về mối quan hệ giữa “nhân nghĩa” và “lợi ích” trong đường lối chính trị của mạnh tử. Mạnh Tử đặc biệt đề cao vai trò của nhân nghĩa trong công việc trị nước của nhà cầm quyền và chủ trương tuyệt đối hóa tư tưởng đức trị của Khổng Tử trong xã hội Trung Quốc đương thời. Để làm sáng tỏ vai trò của nhân nghĩa, Mạnh Tử đã đối lập nhân nghĩa với lợi ích và đòi hỏi nhà cầm quyền làm chính trị là vì nhân nghĩa chứ không vì lợi ích. Theo ông, khi nhà cầm quyền có nhân nghĩa và thi hành nhân nghĩa trong chính trị thì việc làm đó tự nhiên sẽ mang lại lợi ích.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Mối quan hệ giữa “nhân nghĩa” và “lợi ích” trong đường lối chính trị của Mạnh Tử

Mối quan hệ giữa . . .<br /> <br /> MỐI QUAN HỆ GIỮA “NHÂN NGHĨA” VÀ “LỢI ÍCH”<br /> TRONG ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ CỦA MẠNH TỬ<br /> Bùi Xuân Thanh *<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Với tư tưởng dùng nhân nghĩa trong chính trị, Mạnh Tử đặc biệt đề cao vai trò của nhân<br /> nghĩa trong công việc trị nước của nhà cầm quyền và chủ trương tuyệt đối hóa tư tưởng đức trị của<br /> Khổng Tử trong xã hội Trung Quốc đương thời. Để làm sáng tỏ vai trò của nhân nghĩa, Mạnh Tử đã<br /> đối lập nhân nghĩa với lợi ích và đòi hỏi nhà cầm quyền làm chính trị là vì nhân nghĩa chứ không<br /> vì lợi ích. Theo ông, khi nhà cầm quyền có nhân nghĩa và thi hành nhân nghĩa trong chính trị thì<br /> việc làm đó tự nhiên sẽ mang lại lợi ích. Ngược lại, nếu họ quá đề cao lợi ích, lấy lợi ích làm điểm<br /> xuất phát cho suy nghĩ và hành động thì sẽ làm tổn hại nhân nghĩa và có thể mất luôn lợi ích.Có<br /> thể nói, lý luận về mối quan hệ giữa“nhân nghĩa” và “lợi ích” là tư tưởng đặc sắc, có giá trị trong<br /> đường lối chính trị của mạnh tử nói riêng và trong học thuyết chính trị - xã hội của ông nói chung.<br /> Từ khoá: nhân nghĩa, lợi ích, đường lối chính trị, Manh Tử<br /> <br /> THE RELATION BETWEEN “BENEVOLENCE” AND “BENEFIT” OF<br /> MENCIUS’ POLITICAL LINE.<br /> ABSTRACT<br /> With the thought of using benevolence in political, Mencius particularly gives prominence<br /> to the role of benevolence in the govern a country of authorities and advocate absolutely the thought<br /> of Mencius’ Rule of virtue in the then Chinese Society. To clarify the role of benevolence, Mencius<br /> opposed benevolence and benefit and claimed the authorities doing politics for benevolence but not<br /> for benefit. According to Mencius, If the authorities have benevolence and carry out the benevolence<br /> in the politics, it will bring benefit. By contrast, if they give prominence to benefit, choosing benefit<br /> as starting point for their thought and action, it will corrupt benevolence and may be lost benefit.<br /> In fact, the theory of relation between “Benevolence” and “Benefit” is the special thought which<br /> is very valuable in the Mencius’ political line in particular and political theory in his society in<br /> general.<br /> Keywords: benevolence, benefit, political line, Mencius (Mạnh Tử)<br /> * TS. GV. Khoa Lý luận chính trị, trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh<br /> <br /> 129<br /> <br /> Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät<br /> <br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Khi nghiên cứu tư tưởng triết lý, chính trị,<br /> đạo đức của Nho gia Tiên Tần qua các nhà tư<br /> tưởng, với các tác phẩm lớn mà sau này được<br /> xếp như là kinh điển của Nho gia, có thể nói<br /> một trong những điểm đặc sắc nhất trong học<br /> thuyết chính trị - xã hội của Mạnh Tử là lý<br /> luận về mối quan hệ biện chứng giữa “nhân<br /> nghĩa” và “lợi ích”. Thông qua việc bàn về<br /> mối quan hệ này, Mạnh Tử đã đặc biệt đề cao<br /> vai trò của nhân nghĩa. Xuất phát từ đó, ông<br /> vận dụng nhân nghĩa vào công việc chính trị<br /> của nhà cầm quyền hình thành nên tư tưởng<br /> nhân chính với những nội dung cơ bản: xây<br /> dựng đường lối chính trị nhân nghĩa, hoàn<br /> thiện đạo đức vua quan, đề cao vai trò của dân<br /> theo tinh thần dân bản, dưỡng dân gắn liền<br /> với giáo hóa dân, cùng với những quan điểm<br /> về kinh tế, chiến tranh…mang tính nhân văn<br /> sâu sắc.<br /> <br /> nhất quán của ông là khi: “Thiên hạ chìm đắm,<br /> muốn tiếp cứu họ, phải dùng đạo lý (nhân,<br /> nghĩa, lễ…) mới được” [12] Chính vì vậy,<br /> trong học thuyết chính trị - xã hội của mình,<br /> Mạnh Tử chủ trương nhà cầm quyền phải lấy<br /> nhân nghĩa làm gốc trong công việc trị nước.<br /> Trong suy nghĩ của ông, các bậc vương giả<br /> trị quốc, bình thiên hạ là vì nhân nghĩa chứ<br /> không phải vì lợi ích. Ông đề cao tới mức độ<br /> tuyệt đối hóa vai trò của nhân nghĩa, đặt nó<br /> lên trên lợi ích nên cho rằng nhà cầm quyền<br /> không cần nói tới lợi ích mà chỉ cần nói tới<br /> nhân nghĩa là đủ. Chính vì thế, khi Mạnh Tử<br /> sang nước Lương, Huệ vương hỏi ông có<br /> phương pháp gì để làm lợi cho nước mình.<br /> Ông trả lời: Vua cần gì phải nói việc lợi? Hãy<br /> nói việc nhân nghĩa mà thôi.<br /> Nếu ở trên bậc quốc vương nói rằng: Có<br /> cách gì để làm lợi cho đất nước ta? Kế đó,<br /> hàng đại phu nói rằng: Có cách gì để làm lợi<br /> cho gia tộc ta? Sau đó hạng sĩ và hạng bình<br /> dân nói rằng: Có cách gì để làm lợi cho thân<br /> phận ta? Như vậy, từ trên tới dưới đều tranh<br /> nhau vì mối lợi, ắt vận nước phải lâm nguy<br /> đó” [11].<br /> Không phải ngẫu nhiên mà Mạnh Tử coi<br /> trọng nhân nghĩa và đặt nhân nghĩa lên trên<br /> lợi ích. Theo ông: “Những vị Thiên tử đời<br /> trước nhân có lòng chẳng nỡ đối với kẻ khác,<br /> thành ra phổ cập lòng thương xót người trong<br /> việc chính trị của mình. Bởi có lòng chẳng<br /> nỡ ấy, các ngài bèn đem lòng thương xót mà<br /> thi hành trong chính sự, cho nên các ngài cai<br /> trị thiên hạ dường như có thể xây trở món đồ<br /> trên bàn tay” [11]. Trong suy nghĩ của ông,<br /> khi nhà cầm quyền “biết làm cho bốn mối<br /> thương xót, hổ thẹn, khiêm nhượng và phải<br /> quấy được sung túc” nơi mình, họ sẽ đủ sức<br /> cai trị thiên hạ. Ngược lại, nếu họ lấy lợi ích<br /> <br /> 2. NHÂN NGHĨA VÀ LỢI ÍCH<br /> TRONG ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ CỦA<br /> MẠNH TỬ<br /> Nhân nghĩa được hiểu theo nghĩa khái<br /> quát nhất là dùng nhân nghĩa trong chính trị.<br /> Do đó, mặc dù Mạnh Tử không ưa biện luận,<br /> nhưng để thuyết phục các vua chư hầu sử dụng<br /> học thuyết của mình, và để triển khai những<br /> tư tưởng cơ bản trong đường lối nhân nghĩa;<br /> trước hết ông tập trung làm sáng tỏ vai trò của<br /> nhân nghĩa đối với công việc cai trị của nhà<br /> cầm quyền. Chính vì thế, lý luận về vai trò của<br /> nhân nghĩa trong chính trị trở thành một trong<br /> những nội dung mang tính cơ sở trong đường<br /> lối nhân chính của Mạnh Tử nói riêng và trong<br /> học thuyết chính trị - xã hội của ông nói chung.<br /> Là một nhà Nho có tấm lòng nhân ái,<br /> Mạnh Tử rất coi trọng nhân nghĩa. Lập trường<br /> 130<br /> <br /> Mối quan hệ giữa . . .<br /> <br /> làm mục đích cho suy nghĩ và hành động của<br /> mình thì kẻ dưới sẽ vì lợi mà hại kẻ trên, còn<br /> kẻ trên cũng vì lợi ích chiếm đoạt hết của cải<br /> của kẻ dưới. Trong một quốc gia và trong cả<br /> thiên hạ, nếu tất cả mọi người chỉ biết đuổi<br /> theo lợi ích của bản thân mình, gia đình mình<br /> và dòng tộc mình, tất sẽ đưa xã hội tới tình<br /> trạng loạn lạc, mọi người tranh giành, cướp<br /> đoạt của cải của nhau. Chính vì thế, muốn<br /> bình trị thiên hạ, nhà cầm quyền không được<br /> lấy lợi ích làm điểm xuất phát cũng như mục<br /> tiêu hướng tới của đường lối cai trị.<br /> Mạnh Tử rất coi thường những ai không<br /> coi trọng nhân nghĩa. Trong suy nghĩ của ông,<br /> người học theo “Thánh hiền”, nối nghiệp vua<br /> Nghiêu, vua Thuấn, sáng vừa thức dậy đã lo<br /> việc sửa mình và giúp đời. Còn kẻ theo phường<br /> gian trá vừa bừng mắt ra, đã mưu tính việc lợi<br /> cho mình. Những ai coi trọng nhân nghĩa và<br /> biết làm nhân chính là những kẻ thiện đức. Kẻ<br /> nào trong lòng thường sinh ra tư tưởng dục lợi<br /> là những kẻ đạo tặc. Ông viết: “Nghe gà gáy<br /> rộ mà thức dậy, chăm chăm làm việc thiện,<br /> người ấy là phái đồ của vua Thuấn, bậc trí<br /> đức vậy. Nghe gà gáy rộ mà thức dậy, chăm<br /> chăm là việc lợi, kẻ ấy là môn đồ của người<br /> Chích, tay cướp tổ vậy”[12]. Theo đó, nhân<br /> nghĩa là phẩm chất không thể thiếu của vua và<br /> các bậc quan lại, nói rộng ra là của nhà cầm<br /> quyền. Mạnh Tử phê phán gay gắt vua Trụ là<br /> kẻ làm hại đức nhân nghĩa nên không xứng<br /> đáng làm vua. Vì vậy khi Tề Tuyên vương hỏi<br /> ông về trường hợp vua chư hầu Võ vương giết<br /> vua Trụ nhà Thương: “Bề tôi mà giết vua có<br /> nên chăng?”. Ông trả lời: “ Kẻ làm hại đức<br /> nhân gọi là tặc; kẻ làm hại đức nghĩa gọi là<br /> tàn. Kẻ tàn, kẻ tặc chẳng qua là một người<br /> thường mà thôi. Tôi từng nghe vua Võ vương<br /> chỉ giết một người thường là Trụ thôi, chứ tôi<br /> <br /> chưa hề nghe giết vua”[11]. Thông qua việc<br /> phê phán vua Trụ, Mạnh Tử muốn khuyến cáo<br /> Tề Tuyên vương không được coi thường nhân<br /> nghĩa trong đạo trị nước. Theo ông, một vị vua<br /> bất nhân và bất nghĩa tất sẽ cai trị bằng “bạo<br /> ngược” đẩy nhân dân vào cảnh “nước lửa”. Đó<br /> chính là nguyên nhân dẫn đến sự phản kháng<br /> của dân đối với vua, khiến vua phải trả giá<br /> bằng chính mạng sống của mình. Ngược lại,<br /> một ông vua biết coi trọng nhân nghĩa, thi hành<br /> nhân chính, tất sẽ nhận được sự ủng hộ của dân<br /> để làm nên nghiệp lớn. Do đó ông khuyên vua<br /> Mục Công nước Trâu: “Nếu vua thi hành nền<br /> chính trị nhân đức, ban ân huệ cho dân, khiến<br /> các quan chức trông nom dân chúng thì bá tính<br /> sẽ thương mến người bề trên của mình và dám<br /> liều chết vì kẻ lớn của mình”[11].<br /> Có thể nói, đạo trị nước của Mạnh Tử tóm<br /> gọn trong hai chữ nhân chính và hoài bão lớn<br /> nhất của ông là làm thế nào cho đức nhân<br /> nghĩa trở thành lẽ sống của mỗi người trong<br /> xã hội. Để đức nhân nghĩa có thể lan rộng và<br /> tỏa sáng, Mạnh Tử bôn ba các nước không<br /> mệt mỏi khuyên các vua chư hầu thực hiện<br /> đường lối nhân chính. Nếu Khổng Tử khuyên<br /> người ta “phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ<br /> vật ngôn, phi lễ vật động: sắc chi chẳng hợp<br /> lễ thì mình đừng ngó, tiếng chi chẳng hợp lễ<br /> thì đừng nghe, lời chi chẳng hợp lễ thì mình<br /> đừng nói, việc chi chẳng hợp lễ thì mình đừng<br /> làm”[10], thì nguyên tắc của Mạnh Tử là<br /> nghe điều nhân nghĩa, nói điều nhân nghĩa và<br /> làm điều nhân nghĩa. Điều đó được thể hiện<br /> qua câu nói của ông với Cảnh Sửu: “Ta đây,<br /> ngoài cái đạo lý của vua Nghiêu, vua Thuấn,<br /> ta chẳng dám đem điều gì khác mà tâu bày<br /> trước vua”[11]. Cái đạo lý của vua Nghiêu<br /> vua Thuấn mà Mạnh Tử nói tới ở đây chính<br /> là đạo nhân nghĩa. Mạnh Tử cho rằng các vị<br /> 131<br /> <br /> Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät<br /> <br /> “Thiên tử” đời trước là những người có nhân<br /> nghĩa, biết “phổ cập lòng thương xót người<br /> trong việc chính trị của mình”, nghĩa là biết<br /> đem lòng nhân nghĩa thi hành trong chính<br /> trị nên sự nghiệp mới bền vững. Nhắc lại lời<br /> Khổng Tử: Đạo chỉ có hai đường nhân và bất<br /> nhân, Mạnh Tử chỉ ra đạo trị nước cũng chỉ<br /> có hai đường nhân và bất nhân. Theo ông, sở<br /> dĩ các triều đại trong quá khứ được thiên hạ<br /> là nhờ biết làm nhân (đó là các trường hợp<br /> vua Vũ lập ra nhà Hạ, vua Thương lập ra nhà<br /> Thương và vua Võ vương dựng lên nhà Chu).<br /> Ngược lại, các triều đại mất thiên hạ là do làm<br /> điều bất nhân (đó là các trường hợp vua Kiệt<br /> làm mất nhà Hạ, vua Trụ để mất nhà Thương,<br /> vua Lệ và vua U nhà Chu mất ngôi). Chính vì<br /> lẽ đó, Mạnh Tử đòi hỏi các vua chư hầu phải<br /> trị nước theo pháp tiên vương. Đối với ông,<br /> đó là cách duy nhất để đưa xã hội Trung Quốc<br /> đương thời ra khỏi cảnh loạn lạc, phân tranh,<br /> và đó cũng là phương pháp tốt nhất để một<br /> ông vua củng cố sự nghiệp.<br /> Cố nhiên, khi lấy nhân nghĩa làm gốc<br /> trong đạo trị nước, Mạnh Tử có lý lẽ riêng<br /> của ông. Ông tin tưởng rằng: “Hiện nay nếu<br /> vua chư hầu chịu hành chính như Văn vương,<br /> trong bảy năm ắt nền nhân chính sẽ phổ khắp<br /> thiên hạ”[12]. Mặt khác, trong suy nghĩ của<br /> ông, “Đức nhân là chỗ an ổn của người đời.<br /> Đức nghĩa là con đường chính đại của người<br /> đời”[12], nên khi nhà cầm quyền cai trị bằng<br /> bạo lực là không biết “ở trong đức nhân và noi<br /> theo đức nghĩa”. Như vậy có thể đưa dân vào<br /> khuôn khổ nhưng không thể thu phục lòng<br /> dân. Từ đó cho thấy, thi hành nhânnghĩa trong<br /> chính trị về thực chất là trị nước bằng đắc<br /> nhân tâm. Nói cách khác là nhà cầm quyền<br /> phải thu phục nhân tâm bằng đức nhân nghĩa<br /> của mình.<br /> <br /> Thế nhưng thời đại của Mạnh Tử là thời<br /> đại của chiến tranh và loạn lạc. Trong bối<br /> cảnh ấy Mạnh Tử không thể không nhận<br /> thấy xã hội Trung Quốc đương thời vẫn xảy<br /> ra những trường hợp mặc dù nhà cầm quyền<br /> lấy nhân nghĩa làm trọng trong đường lối trị<br /> quốc, nhưng họ vẫn không nhận được sự phục<br /> tùng, tin yêu của dân nên sự nghiệp không bền<br /> vững. Lý giải về những trường hợp ấy, Mạnh<br /> Tử cho rằng không phải vì đức nhân nghĩa<br /> không thể thu phục nhân tâm mà do lòng nhân<br /> của kẻ cai trị chưa đủ để cảm hóa lòng người.<br /> Mặt khác, theo ông nhân phải gắn liền với<br /> trí. Đã có nhân trong suy nghĩ mà không biết<br /> làm nhân là không có trí. Vậy nên “Mình yêu<br /> thương người mà người chẳng thân mến, vậy<br /> mình nên tự xét coi mình có đủ lòng nhân hay<br /> chăng. Mình cai trị người mà người chẳng<br /> phục tùng, vậy mình nên xét coi mình có đủ<br /> trí sáng hay chăng” [12].<br /> Theo đó, đạo trị nước phải gắn liền nhân<br /> với trí. Khi nhà cầm quyền có đủ nhân và trí,<br /> tất sẽ biết được điều gì nên làm để làm, điều<br /> gì không nên làm để không làm, nên sẽ cảm<br /> hóa được lòng dân, thu phục được nhân tâm.<br /> Khi đề xuất đường lối nhân chính với nhà<br /> cầm quyền, mọi chủ trương, chính sách Mạnh<br /> Tử đưa ra chỉ vì nhân nghĩa chứ không vì lợi<br /> ích. Thế nhưng, xét tới cùng, bản chất của mối<br /> quan hệ giữa người với người trong xã hội,<br /> giữa cá nhân với tập thể, cũng như giữa cá<br /> nhân với xã hội lại là mối quan hệ lợi ích. Vậy<br /> việc Mạnh Tử kịch liệt phản đối những ai nói<br /> tới lợi ích có phải do ông không hiểu rằng lợi<br /> ích là động lực cơ bản chi phối mọi hành vi<br /> của con người?<br /> Chúng tôi cho rằng Mạnh Tử hoàn toàn<br /> không phủ nhận lợi ích ngay cả khi ông đối<br /> lập nhân nghĩa với lợi ích. Thực ra việc đối<br /> 132<br /> <br /> Mối quan hệ giữa . . .<br /> <br /> lập nhân nghĩa với lợi ích chỉ là cái cách mà<br /> Mạnh Tử đề cao nhân nghĩa. Phản đối việc<br /> người đời lấy lợi ích làm động cơ cho hành<br /> động của họ vì Mạnh Tử không tin rằng xuất<br /> phát từ lợi ích, người ta lại có thể giữ được<br /> nhân nghĩa. Đặt nghĩa và lợi trong mối quan<br /> hệ một chiều, ông có dụng ý làm rõ công dụng<br /> của nhân nghĩa. Ông tin tưởng rằng khi nhà<br /> cầm quyền có nhân nghĩa và thi hành nhân<br /> nghĩa trong chính trị thì việc làm đó tự nhiên<br /> sẽ mang lại lợi ích. Ngược lại, nếu họ quá đề<br /> cao lợi ích, lấy lợi ích làm điểm xuất phát cho<br /> suy nghĩ và hành động thì sẽ làm tổn hại nhân<br /> nghĩa và có thể mất luôn lợi ích. Chính vì lẽ đó<br /> khi Tống Hinh muốn đem điều lợi để khuyên<br /> Tần và Sở không nên đánh nhau, Mạnh Tử đã<br /> phân tích về sự có hại của việc làm này, qua<br /> đó làm nổi bật vai trò của nhân nghĩa. Ông<br /> nói: Nếu tiên sinh đem việc lợi mà nói với vua<br /> nước Tần và vua nước Sở, hai vua ấy đẹp lòng<br /> vì chỗ lợi, bèn bãi hết các sư đoàn trong tam<br /> quân… Rồi kẻ làm tôi vì ham lợi nên thờ vua.<br /> Kẻ làm con vì ham lợi nên thờ cha. Kẻ làm em<br /> vì ham lợi nên thờ anh. Như vậy, vua tôi, cha<br /> con, anh em rốt cuộc đều bỏ hết điều nhân và<br /> điều nghĩa; ai nấy đều giao tiếp nhau chẳng<br /> qua vì lòng tham lợi mà thôi. Nước nhà như<br /> thế mà chẳng diệt vong, thì chưa từng có vậy.<br /> Còn như tiên sinh đem điều nhân và điều<br /> nghĩa mà nói với vua nước Tần và vua nước<br /> Sở, hai vua ấy đẹp lòng về chỗ nhân và chỗ<br /> nghĩa, bèn bãi hết các sư đoàn trong tam<br /> quân… Rồi ra, kẻ làm tôi vì mộ nhân nghĩa<br /> nên thờ vua, kẻ làm con vì mộ nhân nghĩa nên<br /> thờ cha. Kẻ làm em vì mộ nhân nghĩa nên thờ<br /> anh. Như vậy, vua tôi, cha con, anh em rốt<br /> cuộc đều bỏ tuyệt điều lợi, ai nấy đều giao<br /> tiếp nhau chỉ vì lòng hâm mộ nhân nghĩa mà<br /> thôi. Cần chi phải nói chuyện lợi?”[12]. Tư<br /> <br /> tưởng trên đây của Mạnh Tử đượm tinh thần<br /> nhân văn sâu sắc. Nó chứng tỏ ông là nhà tư<br /> tưởng có tấm lòng nhân ái, luôn đề cao nhân<br /> nghĩa. Coi nhân nghĩa là gốc của đạo làm<br /> người, Mạnh Tử muốn nới lòng mình lan tỏa<br /> tới mọi người để đức nhân nghĩa được phổ<br /> cập rộng khắp và khuyến cáo nhà cầm quyền<br /> phải biết dùng nhân nghĩa điều chỉnh các mối<br /> quan hệ xã hội, đưa thiên hạ trở lại hữu đạo.<br /> Tuy nhiên, việc Mạnh Tử đề cao tới mức<br /> độ tuyệt đối hóa vai trò của nhân nghĩa và đòi<br /> hỏi con người phải lấy nhân nghĩa đối xử với<br /> nhau trong cuộc sống một cách vô điều kiện,<br /> cho thấy ông chưa nhìn rõ sức mạnh thực sự<br /> của bản năng, của cái phần “động vật” trong<br /> con người với vô số nhu cầu cần phải thỏa<br /> mãn. Mặt khác, chúng ta hiểu rằng con người<br /> muốn hướng thiện nhưng con người lại không<br /> thể chối bỏ bản năng nên ngay trong suy nghĩ<br /> của mỗi người luôn luôn tồn tại sự đấu tranh<br /> giữa lợi ích và sự thánh thiện. Khi Mạnh Tử<br /> kêu gọi mỗi người, cả nước, cả thiên hạ hãy<br /> sống vì nhân nghĩa thì lời kêu gọi ấy của ông<br /> mang tính giáo dục hơn là tính phương pháp<br /> trong công việc trị nước của nhà cầm quyền.<br /> Thế nhưng tại sao Mạnh Tử lại đối lập<br /> nghĩa với lợi và khuyên nhà cầm quyền phải<br /> quên lợi? Xét tới cùng, đó chỉ là cái cách đề<br /> cao nghĩa của ông. Nếu như Khổng Tử coi<br /> nghĩa là đức tính quan trọng để phân biệt<br /> người quân tử với kẻ tiểu nhân nên đặt nghĩa<br /> lên trên tư lợi cá nhân và đòi hỏi con người<br /> không được vì lợi mà quên nghĩa, thì Mạnh<br /> Tử đã đi xa hơn một bước bằng cách tuyệt đối<br /> hóa vai trò của nghĩa, đòi hỏi người ta phải<br /> quên lợi vì nghĩa. Trong suy nghĩ của Mạnh<br /> Tử, lợi là quan tước, bổng lộc, tiền của… luôn<br /> cám dỗ con người, làm cho con người không<br /> còn giữ được nhân nghĩa. Hơn nữa, thời đại<br /> 133<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0