Mối quan hệ giữa . . .<br />
<br />
MỐI QUAN HỆ GIỮA “NHÂN NGHĨA” VÀ “LỢI ÍCH”<br />
TRONG ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ CỦA MẠNH TỬ<br />
Bùi Xuân Thanh *<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Với tư tưởng dùng nhân nghĩa trong chính trị, Mạnh Tử đặc biệt đề cao vai trò của nhân<br />
nghĩa trong công việc trị nước của nhà cầm quyền và chủ trương tuyệt đối hóa tư tưởng đức trị của<br />
Khổng Tử trong xã hội Trung Quốc đương thời. Để làm sáng tỏ vai trò của nhân nghĩa, Mạnh Tử đã<br />
đối lập nhân nghĩa với lợi ích và đòi hỏi nhà cầm quyền làm chính trị là vì nhân nghĩa chứ không<br />
vì lợi ích. Theo ông, khi nhà cầm quyền có nhân nghĩa và thi hành nhân nghĩa trong chính trị thì<br />
việc làm đó tự nhiên sẽ mang lại lợi ích. Ngược lại, nếu họ quá đề cao lợi ích, lấy lợi ích làm điểm<br />
xuất phát cho suy nghĩ và hành động thì sẽ làm tổn hại nhân nghĩa và có thể mất luôn lợi ích.Có<br />
thể nói, lý luận về mối quan hệ giữa“nhân nghĩa” và “lợi ích” là tư tưởng đặc sắc, có giá trị trong<br />
đường lối chính trị của mạnh tử nói riêng và trong học thuyết chính trị - xã hội của ông nói chung.<br />
Từ khoá: nhân nghĩa, lợi ích, đường lối chính trị, Manh Tử<br />
<br />
THE RELATION BETWEEN “BENEVOLENCE” AND “BENEFIT” OF<br />
MENCIUS’ POLITICAL LINE.<br />
ABSTRACT<br />
With the thought of using benevolence in political, Mencius particularly gives prominence<br />
to the role of benevolence in the govern a country of authorities and advocate absolutely the thought<br />
of Mencius’ Rule of virtue in the then Chinese Society. To clarify the role of benevolence, Mencius<br />
opposed benevolence and benefit and claimed the authorities doing politics for benevolence but not<br />
for benefit. According to Mencius, If the authorities have benevolence and carry out the benevolence<br />
in the politics, it will bring benefit. By contrast, if they give prominence to benefit, choosing benefit<br />
as starting point for their thought and action, it will corrupt benevolence and may be lost benefit.<br />
In fact, the theory of relation between “Benevolence” and “Benefit” is the special thought which<br />
is very valuable in the Mencius’ political line in particular and political theory in his society in<br />
general.<br />
Keywords: benevolence, benefit, political line, Mencius (Mạnh Tử)<br />
* TS. GV. Khoa Lý luận chính trị, trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh<br />
<br />
129<br />
<br />
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Khi nghiên cứu tư tưởng triết lý, chính trị,<br />
đạo đức của Nho gia Tiên Tần qua các nhà tư<br />
tưởng, với các tác phẩm lớn mà sau này được<br />
xếp như là kinh điển của Nho gia, có thể nói<br />
một trong những điểm đặc sắc nhất trong học<br />
thuyết chính trị - xã hội của Mạnh Tử là lý<br />
luận về mối quan hệ biện chứng giữa “nhân<br />
nghĩa” và “lợi ích”. Thông qua việc bàn về<br />
mối quan hệ này, Mạnh Tử đã đặc biệt đề cao<br />
vai trò của nhân nghĩa. Xuất phát từ đó, ông<br />
vận dụng nhân nghĩa vào công việc chính trị<br />
của nhà cầm quyền hình thành nên tư tưởng<br />
nhân chính với những nội dung cơ bản: xây<br />
dựng đường lối chính trị nhân nghĩa, hoàn<br />
thiện đạo đức vua quan, đề cao vai trò của dân<br />
theo tinh thần dân bản, dưỡng dân gắn liền<br />
với giáo hóa dân, cùng với những quan điểm<br />
về kinh tế, chiến tranh…mang tính nhân văn<br />
sâu sắc.<br />
<br />
nhất quán của ông là khi: “Thiên hạ chìm đắm,<br />
muốn tiếp cứu họ, phải dùng đạo lý (nhân,<br />
nghĩa, lễ…) mới được” [12] Chính vì vậy,<br />
trong học thuyết chính trị - xã hội của mình,<br />
Mạnh Tử chủ trương nhà cầm quyền phải lấy<br />
nhân nghĩa làm gốc trong công việc trị nước.<br />
Trong suy nghĩ của ông, các bậc vương giả<br />
trị quốc, bình thiên hạ là vì nhân nghĩa chứ<br />
không phải vì lợi ích. Ông đề cao tới mức độ<br />
tuyệt đối hóa vai trò của nhân nghĩa, đặt nó<br />
lên trên lợi ích nên cho rằng nhà cầm quyền<br />
không cần nói tới lợi ích mà chỉ cần nói tới<br />
nhân nghĩa là đủ. Chính vì thế, khi Mạnh Tử<br />
sang nước Lương, Huệ vương hỏi ông có<br />
phương pháp gì để làm lợi cho nước mình.<br />
Ông trả lời: Vua cần gì phải nói việc lợi? Hãy<br />
nói việc nhân nghĩa mà thôi.<br />
Nếu ở trên bậc quốc vương nói rằng: Có<br />
cách gì để làm lợi cho đất nước ta? Kế đó,<br />
hàng đại phu nói rằng: Có cách gì để làm lợi<br />
cho gia tộc ta? Sau đó hạng sĩ và hạng bình<br />
dân nói rằng: Có cách gì để làm lợi cho thân<br />
phận ta? Như vậy, từ trên tới dưới đều tranh<br />
nhau vì mối lợi, ắt vận nước phải lâm nguy<br />
đó” [11].<br />
Không phải ngẫu nhiên mà Mạnh Tử coi<br />
trọng nhân nghĩa và đặt nhân nghĩa lên trên<br />
lợi ích. Theo ông: “Những vị Thiên tử đời<br />
trước nhân có lòng chẳng nỡ đối với kẻ khác,<br />
thành ra phổ cập lòng thương xót người trong<br />
việc chính trị của mình. Bởi có lòng chẳng<br />
nỡ ấy, các ngài bèn đem lòng thương xót mà<br />
thi hành trong chính sự, cho nên các ngài cai<br />
trị thiên hạ dường như có thể xây trở món đồ<br />
trên bàn tay” [11]. Trong suy nghĩ của ông,<br />
khi nhà cầm quyền “biết làm cho bốn mối<br />
thương xót, hổ thẹn, khiêm nhượng và phải<br />
quấy được sung túc” nơi mình, họ sẽ đủ sức<br />
cai trị thiên hạ. Ngược lại, nếu họ lấy lợi ích<br />
<br />
2. NHÂN NGHĨA VÀ LỢI ÍCH<br />
TRONG ĐƯỜNG LỐI CHÍNH TRỊ CỦA<br />
MẠNH TỬ<br />
Nhân nghĩa được hiểu theo nghĩa khái<br />
quát nhất là dùng nhân nghĩa trong chính trị.<br />
Do đó, mặc dù Mạnh Tử không ưa biện luận,<br />
nhưng để thuyết phục các vua chư hầu sử dụng<br />
học thuyết của mình, và để triển khai những<br />
tư tưởng cơ bản trong đường lối nhân nghĩa;<br />
trước hết ông tập trung làm sáng tỏ vai trò của<br />
nhân nghĩa đối với công việc cai trị của nhà<br />
cầm quyền. Chính vì thế, lý luận về vai trò của<br />
nhân nghĩa trong chính trị trở thành một trong<br />
những nội dung mang tính cơ sở trong đường<br />
lối nhân chính của Mạnh Tử nói riêng và trong<br />
học thuyết chính trị - xã hội của ông nói chung.<br />
Là một nhà Nho có tấm lòng nhân ái,<br />
Mạnh Tử rất coi trọng nhân nghĩa. Lập trường<br />
130<br />
<br />
Mối quan hệ giữa . . .<br />
<br />
làm mục đích cho suy nghĩ và hành động của<br />
mình thì kẻ dưới sẽ vì lợi mà hại kẻ trên, còn<br />
kẻ trên cũng vì lợi ích chiếm đoạt hết của cải<br />
của kẻ dưới. Trong một quốc gia và trong cả<br />
thiên hạ, nếu tất cả mọi người chỉ biết đuổi<br />
theo lợi ích của bản thân mình, gia đình mình<br />
và dòng tộc mình, tất sẽ đưa xã hội tới tình<br />
trạng loạn lạc, mọi người tranh giành, cướp<br />
đoạt của cải của nhau. Chính vì thế, muốn<br />
bình trị thiên hạ, nhà cầm quyền không được<br />
lấy lợi ích làm điểm xuất phát cũng như mục<br />
tiêu hướng tới của đường lối cai trị.<br />
Mạnh Tử rất coi thường những ai không<br />
coi trọng nhân nghĩa. Trong suy nghĩ của ông,<br />
người học theo “Thánh hiền”, nối nghiệp vua<br />
Nghiêu, vua Thuấn, sáng vừa thức dậy đã lo<br />
việc sửa mình và giúp đời. Còn kẻ theo phường<br />
gian trá vừa bừng mắt ra, đã mưu tính việc lợi<br />
cho mình. Những ai coi trọng nhân nghĩa và<br />
biết làm nhân chính là những kẻ thiện đức. Kẻ<br />
nào trong lòng thường sinh ra tư tưởng dục lợi<br />
là những kẻ đạo tặc. Ông viết: “Nghe gà gáy<br />
rộ mà thức dậy, chăm chăm làm việc thiện,<br />
người ấy là phái đồ của vua Thuấn, bậc trí<br />
đức vậy. Nghe gà gáy rộ mà thức dậy, chăm<br />
chăm là việc lợi, kẻ ấy là môn đồ của người<br />
Chích, tay cướp tổ vậy”[12]. Theo đó, nhân<br />
nghĩa là phẩm chất không thể thiếu của vua và<br />
các bậc quan lại, nói rộng ra là của nhà cầm<br />
quyền. Mạnh Tử phê phán gay gắt vua Trụ là<br />
kẻ làm hại đức nhân nghĩa nên không xứng<br />
đáng làm vua. Vì vậy khi Tề Tuyên vương hỏi<br />
ông về trường hợp vua chư hầu Võ vương giết<br />
vua Trụ nhà Thương: “Bề tôi mà giết vua có<br />
nên chăng?”. Ông trả lời: “ Kẻ làm hại đức<br />
nhân gọi là tặc; kẻ làm hại đức nghĩa gọi là<br />
tàn. Kẻ tàn, kẻ tặc chẳng qua là một người<br />
thường mà thôi. Tôi từng nghe vua Võ vương<br />
chỉ giết một người thường là Trụ thôi, chứ tôi<br />
<br />
chưa hề nghe giết vua”[11]. Thông qua việc<br />
phê phán vua Trụ, Mạnh Tử muốn khuyến cáo<br />
Tề Tuyên vương không được coi thường nhân<br />
nghĩa trong đạo trị nước. Theo ông, một vị vua<br />
bất nhân và bất nghĩa tất sẽ cai trị bằng “bạo<br />
ngược” đẩy nhân dân vào cảnh “nước lửa”. Đó<br />
chính là nguyên nhân dẫn đến sự phản kháng<br />
của dân đối với vua, khiến vua phải trả giá<br />
bằng chính mạng sống của mình. Ngược lại,<br />
một ông vua biết coi trọng nhân nghĩa, thi hành<br />
nhân chính, tất sẽ nhận được sự ủng hộ của dân<br />
để làm nên nghiệp lớn. Do đó ông khuyên vua<br />
Mục Công nước Trâu: “Nếu vua thi hành nền<br />
chính trị nhân đức, ban ân huệ cho dân, khiến<br />
các quan chức trông nom dân chúng thì bá tính<br />
sẽ thương mến người bề trên của mình và dám<br />
liều chết vì kẻ lớn của mình”[11].<br />
Có thể nói, đạo trị nước của Mạnh Tử tóm<br />
gọn trong hai chữ nhân chính và hoài bão lớn<br />
nhất của ông là làm thế nào cho đức nhân<br />
nghĩa trở thành lẽ sống của mỗi người trong<br />
xã hội. Để đức nhân nghĩa có thể lan rộng và<br />
tỏa sáng, Mạnh Tử bôn ba các nước không<br />
mệt mỏi khuyên các vua chư hầu thực hiện<br />
đường lối nhân chính. Nếu Khổng Tử khuyên<br />
người ta “phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ<br />
vật ngôn, phi lễ vật động: sắc chi chẳng hợp<br />
lễ thì mình đừng ngó, tiếng chi chẳng hợp lễ<br />
thì đừng nghe, lời chi chẳng hợp lễ thì mình<br />
đừng nói, việc chi chẳng hợp lễ thì mình đừng<br />
làm”[10], thì nguyên tắc của Mạnh Tử là<br />
nghe điều nhân nghĩa, nói điều nhân nghĩa và<br />
làm điều nhân nghĩa. Điều đó được thể hiện<br />
qua câu nói của ông với Cảnh Sửu: “Ta đây,<br />
ngoài cái đạo lý của vua Nghiêu, vua Thuấn,<br />
ta chẳng dám đem điều gì khác mà tâu bày<br />
trước vua”[11]. Cái đạo lý của vua Nghiêu<br />
vua Thuấn mà Mạnh Tử nói tới ở đây chính<br />
là đạo nhân nghĩa. Mạnh Tử cho rằng các vị<br />
131<br />
<br />
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät<br />
<br />
“Thiên tử” đời trước là những người có nhân<br />
nghĩa, biết “phổ cập lòng thương xót người<br />
trong việc chính trị của mình”, nghĩa là biết<br />
đem lòng nhân nghĩa thi hành trong chính<br />
trị nên sự nghiệp mới bền vững. Nhắc lại lời<br />
Khổng Tử: Đạo chỉ có hai đường nhân và bất<br />
nhân, Mạnh Tử chỉ ra đạo trị nước cũng chỉ<br />
có hai đường nhân và bất nhân. Theo ông, sở<br />
dĩ các triều đại trong quá khứ được thiên hạ<br />
là nhờ biết làm nhân (đó là các trường hợp<br />
vua Vũ lập ra nhà Hạ, vua Thương lập ra nhà<br />
Thương và vua Võ vương dựng lên nhà Chu).<br />
Ngược lại, các triều đại mất thiên hạ là do làm<br />
điều bất nhân (đó là các trường hợp vua Kiệt<br />
làm mất nhà Hạ, vua Trụ để mất nhà Thương,<br />
vua Lệ và vua U nhà Chu mất ngôi). Chính vì<br />
lẽ đó, Mạnh Tử đòi hỏi các vua chư hầu phải<br />
trị nước theo pháp tiên vương. Đối với ông,<br />
đó là cách duy nhất để đưa xã hội Trung Quốc<br />
đương thời ra khỏi cảnh loạn lạc, phân tranh,<br />
và đó cũng là phương pháp tốt nhất để một<br />
ông vua củng cố sự nghiệp.<br />
Cố nhiên, khi lấy nhân nghĩa làm gốc<br />
trong đạo trị nước, Mạnh Tử có lý lẽ riêng<br />
của ông. Ông tin tưởng rằng: “Hiện nay nếu<br />
vua chư hầu chịu hành chính như Văn vương,<br />
trong bảy năm ắt nền nhân chính sẽ phổ khắp<br />
thiên hạ”[12]. Mặt khác, trong suy nghĩ của<br />
ông, “Đức nhân là chỗ an ổn của người đời.<br />
Đức nghĩa là con đường chính đại của người<br />
đời”[12], nên khi nhà cầm quyền cai trị bằng<br />
bạo lực là không biết “ở trong đức nhân và noi<br />
theo đức nghĩa”. Như vậy có thể đưa dân vào<br />
khuôn khổ nhưng không thể thu phục lòng<br />
dân. Từ đó cho thấy, thi hành nhânnghĩa trong<br />
chính trị về thực chất là trị nước bằng đắc<br />
nhân tâm. Nói cách khác là nhà cầm quyền<br />
phải thu phục nhân tâm bằng đức nhân nghĩa<br />
của mình.<br />
<br />
Thế nhưng thời đại của Mạnh Tử là thời<br />
đại của chiến tranh và loạn lạc. Trong bối<br />
cảnh ấy Mạnh Tử không thể không nhận<br />
thấy xã hội Trung Quốc đương thời vẫn xảy<br />
ra những trường hợp mặc dù nhà cầm quyền<br />
lấy nhân nghĩa làm trọng trong đường lối trị<br />
quốc, nhưng họ vẫn không nhận được sự phục<br />
tùng, tin yêu của dân nên sự nghiệp không bền<br />
vững. Lý giải về những trường hợp ấy, Mạnh<br />
Tử cho rằng không phải vì đức nhân nghĩa<br />
không thể thu phục nhân tâm mà do lòng nhân<br />
của kẻ cai trị chưa đủ để cảm hóa lòng người.<br />
Mặt khác, theo ông nhân phải gắn liền với<br />
trí. Đã có nhân trong suy nghĩ mà không biết<br />
làm nhân là không có trí. Vậy nên “Mình yêu<br />
thương người mà người chẳng thân mến, vậy<br />
mình nên tự xét coi mình có đủ lòng nhân hay<br />
chăng. Mình cai trị người mà người chẳng<br />
phục tùng, vậy mình nên xét coi mình có đủ<br />
trí sáng hay chăng” [12].<br />
Theo đó, đạo trị nước phải gắn liền nhân<br />
với trí. Khi nhà cầm quyền có đủ nhân và trí,<br />
tất sẽ biết được điều gì nên làm để làm, điều<br />
gì không nên làm để không làm, nên sẽ cảm<br />
hóa được lòng dân, thu phục được nhân tâm.<br />
Khi đề xuất đường lối nhân chính với nhà<br />
cầm quyền, mọi chủ trương, chính sách Mạnh<br />
Tử đưa ra chỉ vì nhân nghĩa chứ không vì lợi<br />
ích. Thế nhưng, xét tới cùng, bản chất của mối<br />
quan hệ giữa người với người trong xã hội,<br />
giữa cá nhân với tập thể, cũng như giữa cá<br />
nhân với xã hội lại là mối quan hệ lợi ích. Vậy<br />
việc Mạnh Tử kịch liệt phản đối những ai nói<br />
tới lợi ích có phải do ông không hiểu rằng lợi<br />
ích là động lực cơ bản chi phối mọi hành vi<br />
của con người?<br />
Chúng tôi cho rằng Mạnh Tử hoàn toàn<br />
không phủ nhận lợi ích ngay cả khi ông đối<br />
lập nhân nghĩa với lợi ích. Thực ra việc đối<br />
132<br />
<br />
Mối quan hệ giữa . . .<br />
<br />
lập nhân nghĩa với lợi ích chỉ là cái cách mà<br />
Mạnh Tử đề cao nhân nghĩa. Phản đối việc<br />
người đời lấy lợi ích làm động cơ cho hành<br />
động của họ vì Mạnh Tử không tin rằng xuất<br />
phát từ lợi ích, người ta lại có thể giữ được<br />
nhân nghĩa. Đặt nghĩa và lợi trong mối quan<br />
hệ một chiều, ông có dụng ý làm rõ công dụng<br />
của nhân nghĩa. Ông tin tưởng rằng khi nhà<br />
cầm quyền có nhân nghĩa và thi hành nhân<br />
nghĩa trong chính trị thì việc làm đó tự nhiên<br />
sẽ mang lại lợi ích. Ngược lại, nếu họ quá đề<br />
cao lợi ích, lấy lợi ích làm điểm xuất phát cho<br />
suy nghĩ và hành động thì sẽ làm tổn hại nhân<br />
nghĩa và có thể mất luôn lợi ích. Chính vì lẽ đó<br />
khi Tống Hinh muốn đem điều lợi để khuyên<br />
Tần và Sở không nên đánh nhau, Mạnh Tử đã<br />
phân tích về sự có hại của việc làm này, qua<br />
đó làm nổi bật vai trò của nhân nghĩa. Ông<br />
nói: Nếu tiên sinh đem việc lợi mà nói với vua<br />
nước Tần và vua nước Sở, hai vua ấy đẹp lòng<br />
vì chỗ lợi, bèn bãi hết các sư đoàn trong tam<br />
quân… Rồi kẻ làm tôi vì ham lợi nên thờ vua.<br />
Kẻ làm con vì ham lợi nên thờ cha. Kẻ làm em<br />
vì ham lợi nên thờ anh. Như vậy, vua tôi, cha<br />
con, anh em rốt cuộc đều bỏ hết điều nhân và<br />
điều nghĩa; ai nấy đều giao tiếp nhau chẳng<br />
qua vì lòng tham lợi mà thôi. Nước nhà như<br />
thế mà chẳng diệt vong, thì chưa từng có vậy.<br />
Còn như tiên sinh đem điều nhân và điều<br />
nghĩa mà nói với vua nước Tần và vua nước<br />
Sở, hai vua ấy đẹp lòng về chỗ nhân và chỗ<br />
nghĩa, bèn bãi hết các sư đoàn trong tam<br />
quân… Rồi ra, kẻ làm tôi vì mộ nhân nghĩa<br />
nên thờ vua, kẻ làm con vì mộ nhân nghĩa nên<br />
thờ cha. Kẻ làm em vì mộ nhân nghĩa nên thờ<br />
anh. Như vậy, vua tôi, cha con, anh em rốt<br />
cuộc đều bỏ tuyệt điều lợi, ai nấy đều giao<br />
tiếp nhau chỉ vì lòng hâm mộ nhân nghĩa mà<br />
thôi. Cần chi phải nói chuyện lợi?”[12]. Tư<br />
<br />
tưởng trên đây của Mạnh Tử đượm tinh thần<br />
nhân văn sâu sắc. Nó chứng tỏ ông là nhà tư<br />
tưởng có tấm lòng nhân ái, luôn đề cao nhân<br />
nghĩa. Coi nhân nghĩa là gốc của đạo làm<br />
người, Mạnh Tử muốn nới lòng mình lan tỏa<br />
tới mọi người để đức nhân nghĩa được phổ<br />
cập rộng khắp và khuyến cáo nhà cầm quyền<br />
phải biết dùng nhân nghĩa điều chỉnh các mối<br />
quan hệ xã hội, đưa thiên hạ trở lại hữu đạo.<br />
Tuy nhiên, việc Mạnh Tử đề cao tới mức<br />
độ tuyệt đối hóa vai trò của nhân nghĩa và đòi<br />
hỏi con người phải lấy nhân nghĩa đối xử với<br />
nhau trong cuộc sống một cách vô điều kiện,<br />
cho thấy ông chưa nhìn rõ sức mạnh thực sự<br />
của bản năng, của cái phần “động vật” trong<br />
con người với vô số nhu cầu cần phải thỏa<br />
mãn. Mặt khác, chúng ta hiểu rằng con người<br />
muốn hướng thiện nhưng con người lại không<br />
thể chối bỏ bản năng nên ngay trong suy nghĩ<br />
của mỗi người luôn luôn tồn tại sự đấu tranh<br />
giữa lợi ích và sự thánh thiện. Khi Mạnh Tử<br />
kêu gọi mỗi người, cả nước, cả thiên hạ hãy<br />
sống vì nhân nghĩa thì lời kêu gọi ấy của ông<br />
mang tính giáo dục hơn là tính phương pháp<br />
trong công việc trị nước của nhà cầm quyền.<br />
Thế nhưng tại sao Mạnh Tử lại đối lập<br />
nghĩa với lợi và khuyên nhà cầm quyền phải<br />
quên lợi? Xét tới cùng, đó chỉ là cái cách đề<br />
cao nghĩa của ông. Nếu như Khổng Tử coi<br />
nghĩa là đức tính quan trọng để phân biệt<br />
người quân tử với kẻ tiểu nhân nên đặt nghĩa<br />
lên trên tư lợi cá nhân và đòi hỏi con người<br />
không được vì lợi mà quên nghĩa, thì Mạnh<br />
Tử đã đi xa hơn một bước bằng cách tuyệt đối<br />
hóa vai trò của nghĩa, đòi hỏi người ta phải<br />
quên lợi vì nghĩa. Trong suy nghĩ của Mạnh<br />
Tử, lợi là quan tước, bổng lộc, tiền của… luôn<br />
cám dỗ con người, làm cho con người không<br />
còn giữ được nhân nghĩa. Hơn nữa, thời đại<br />
133<br />
<br />