intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một điều tra khoa học luận về các khái niệm độ dài, diện tích, thể tích

Chia sẻ: Nguyễn Thị Thanh Triều | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

50
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài báo đã chỉ ra phạm vi tác động, những bài toán gắn liền, những đối tượng liên quan, những cách tiếp cận các đại lượng hình học. Năm chướng ngại gắn với các đại lượng hình học cũng được xác định, liên quan đến khái niệm vô hạn, đặc trưng kép hình - số, miền trong của hình, khái niệm bằng nhau, định nghĩa đại lượng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một điều tra khoa học luận về các khái niệm độ dài, diện tích, thể tích

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC<br /> <br /> HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION<br /> <br /> JOURNAL OF SCIENCE<br /> <br /> KHOA HỌC GIÁO DỤC<br /> EDUCATION SCIENCE<br /> ISSN:<br /> 1859-3100 Tập 15, Số 4 (2018): 29-39<br /> Vol. 15, No. 4 (2018): 29-39<br /> Email: tapchikhoahoc@hcmue.edu.vn; Website: http://tckh.hcmue.edu.vn<br /> <br /> MỘT ĐIỀU TRA KHOA HỌC LUẬN<br /> VỀ CÁC KHÁI NIỆM ĐỘ DÀI, DIỆN TÍCH, THỂ TÍCH<br /> Trần Đức Thuận1*, Nguyễn Chí Thành2<br /> 1<br /> 2<br /> <br /> Khoa Giáo dục Tiểu học - Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh<br /> Khoa Sư phạm - Trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội<br /> <br /> Ngày nhận bài: 22-02-2018; ngày nhận bài sửa: 09-4-2018; ngày duyệt đăng: 23-4-2018<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Thực tiễn dạy học và nghiên cứu đã chỉ ra nhiều vấn đề liên quan đến các khái niệm độ dài,<br /> diện tích, thể tích. Một điều tra khoa học luận về các đại lượng hình học đã được thực hiện bằng<br /> cách tổng hợp các công trình nghiên cứu khoa học luận đã có, nghiên cứu thêm về lịch sử toán học<br /> và một số giáo trình hình học. Bài báo đã chỉ ra phạm vi tác động, những bài toán gắn liền, những<br /> đối tượng liên quan, những cách tiếp cận các đại lượng hình học. Năm chướng ngại gắn với các<br /> đại lượng hình học cũng được xác định, liên quan đến khái niệm vô hạn, đặc trưng kép hình - số,<br /> miền trong của hình, khái niệm bằng nhau, định nghĩa đại lượng.<br /> Từ khóa: khoa học luận, đại lượng hình học, độ dài, diện tích, thể tích.<br /> ABSTRACT<br /> An epistemological investigation of concepts of length, area, volume<br /> Practical teaching and research have shown many issues related to the concepts of length,<br /> area, volume. An epistemological investigation of geometric quantities was made by synthesizing<br /> existing epistemological studies, studying books of mathematical history and geometry. The paper<br /> presents the scope of impact, problems involved, related objects and approaches to geometric<br /> quantities. We also defined five obstacles associated with geometric quantities which are related to<br /> the infinite, interior domain, concept of equality, definition of geometric quantities.<br /> Keywords: epistemological, geometric quantities, length, area, volume.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Đặt vấn đề<br /> Thực tiễn dạy học các đại lượng hình học đã cho thấy một số sai lầm mà học sinh<br /> tiểu học thường gặp, trong đó có thể kể đến sự nhầm lẫn giữa các đơn vị đo đại lượng hình<br /> học; vận dụng không chính xác các công thức để tính chu vi, diện tích, thể tích. Việc vận<br /> dụng công thức tính thể tích vào giải quyết bài toán thực tế liên quan đến thể tích một số<br /> khối hình cụ thể cũng gây ra những khó khăn nhất định với giáo viên tiểu học tương lai<br /> (Trần Đức Thuận, 2017a), với nhiều học sinh và giáo viên tiểu học (Trần Đức Thuận,<br /> 2017b). Những vấn đề được liệt kê ở trên có thể bắt nguồn từ quan niệm của người dạy,<br /> người học đối với các khái niệm độ dài, diện tích, thể tích. Theo Annie Bessot, Comiti, Lê<br /> *<br /> <br /> Email: thuantd@hcmup.edu.vn<br /> <br /> 29<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM<br /> <br /> Tập 15, Số 4 (2018): 29-39<br /> <br /> Thị Hoài Châu, Lê Văn Tiến (2009, tr. 91), “phân tích khoa học luận lịch sử” nhắm đến<br /> việc làm rõ “những quan niệm có thể gắn liền với tri thức”. Vì vậy, để xác định các quan<br /> niệm và chướng ngại gắn với các đại lượng hình học, bài báo này trình bày những kết quả<br /> điều tra khoa học luận về các khái niệm độ dài, diện tích, thể tích bằng cách “nghiên cứu<br /> những điều kiện cho phép nảy sinh tri thức khoa học và sự tiến triển của tri thức” thông<br /> qua một số tài liệu lịch sử Toán học và công trình nghiên cứu didactique có liên quan.<br /> 2.<br /> Sơ nét về sự hình thành và tiến triển của các khái niệm độ dài, diện tích, thể tích<br /> trong lịch sử<br /> Lịch sử phát triển của loài người có thể chia thành 4 giai đoạn: cổ đại, trung đại, cận<br /> đại và hiện đại. Theo Baltar (1996, tr. 17), bối cảnh lịch sử thời trung đại không tạo được<br /> sự tiến bộ đáng kể nào cho khoa học nói chung, toán học nói riêng. Các khái niệm độ dài,<br /> diện tích, thể tích nảy sinh và tiến triển chủ yếu ở các giai đoạn: cổ đại, cận đại và hiện đại.<br /> 2.1. Độ dài, diện tích, thể tích ở thời cổ đại<br /> Luận án của Anwandter-Cuellar (2012, tr. 45 - 46) có đề cập đến việc phân biệt đại<br /> lượng và số, hình học và số học ở thời cổ đại:<br /> Nếu số lượng là rời rạc - và vì thế có thể đếm được - đó là một số; ngược lại, nếu số lượng là<br /> liên tục - và do đó đo được - đó là một đại lượng. Các số và các đại lượng tạo thành các lớp<br /> tách rời và độc lập, kết quả là các nghiên cứu tương ứng khác nhau và không thể giản lược<br /> […] Hình học nghiên cứu các đại lượng, số học nghiên cứu các số.<br /> <br /> Các khái niệm độ dài, diện tích, thể tích nảy sinh từ nhu cầu đo đạc, tính toán trong<br /> nông nghiệp và xây dựng. Khái niệm diện tích gắn liền với 3 bài toán: tính diện tích, so<br /> sánh diện tích, cầu phương một hình (Baltar, 1996, tr. 14). Khái niệm thể tích gắn liền với<br /> 3 bài toán: tính thể tích, so sánh thể tích, gấp đôi khối lập phương. Các nền văn minh cổ<br /> đại ở Ai Cập, Babylon, Trung Hoa, Hi Lạp… đều đạt được nhiều thành tựu đáng kể có liên<br /> quan các bài toán trên.<br /> Phân tích thành tựu toán học thời kì cổ đại, Baltar (1996, tr.16) khẳng định “ở Ai<br /> Cập, Babylon, Trung Hoa, đã có một bước chuyển từ hình sang số đối với khái niệm diện<br /> tích”, nhưng người Hi Lạp có cách “tiếp cận hình học đối với khái niệm diện tích”, “bài<br /> toán diện tích được đặt trong phạm vi hình và không có bước chuyển sang số”. Nhận xét<br /> này của Baltar có thể mở rộng cho các khái niệm độ dài, thể tích vì người Ai Cập,<br /> Babylon, Trung Hoa cổ đại đã tìm ra các công thức, quy tắc tính chu vi, diện tích, thể tích<br /> của nhiều hình thường gặp, được đề cập trong công trình của Katz (2009).<br /> Người Hi Lạp cổ đại đã đạt được bước tiến xa, rực rỡ khi xây dựng hình học thành<br /> một khoa học suy diễn theo tư tưởng của phương pháp tiên đề mà bộ “Cơ bản” của Euclide<br /> là tác phẩm kinh điển. Những tiên đề Euclide đã đưa ra cho phép giải quyết nhiều bài toán<br /> về độ dài, diện tích, thể tích, trong đó có bài toán so sánh diện tích, thể tích một số hình,<br /> cầu phương hình đa giác theo quan điểm hình học và không có số đo nào xuất hiện trong<br /> toàn bộ tác phẩm. Phương pháp vét cạn của Eudoxus đã được Euclide sử dụng để chứng<br /> <br /> 30<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM<br /> <br /> Trần Đức Thuận và tgk<br /> <br /> minh nhiều kết quả về diện tích, thể tích, mặc dù phương pháp vét cạn này không cung cấp<br /> cách khám phá các công thức để bắt đầu. Bằng cách chứng minh A > B và B > A đưa đến<br /> các mâu thuẫn, Euclide kết luận A = B. Với cách chứng minh này, Euclide đã sử dụng các<br /> hình nội tiếp (ngoại tiếp), nghĩa là các hình hình học được chứng minh về tỉ lệ diện tích<br /> (thể tích) không hoàn toàn tách biệt, mà có thể là hình này được chứa trong hình kia. (Katz,<br /> 2009, tr. 84-85)<br /> Các khái niệm độ dài, diện tích, thể tích đã đóng góp vào sự tiến triển của toán học<br /> thời cổ đại. Vấn đề đo đạc độ dài góp phần phát triển hình học, lượng giác. Chẳng hạn,<br /> kiến thức về hai tam giác đồng dạng có thể sử dụng để đo bề rộng của con sông (Katz,<br /> 2009, tr. 158). Độ dài, diện tích còn được sử dụng như một công cụ để giải nhiều phương<br /> trình bậc hai. Trong xu hướng này, một số dương được gắn với một độ dài, một bình<br /> phương được gắn với một diện tích (Katz, 2009, tr. 8). Như một số nhà toán học của giai<br /> đoạn trước, Euclide cũng dùng hình học, đặc biệt là độ dài, diện tích, thể tích và các tính<br /> chất, để tìm một số kết quả thuộc phạm vi số học và đại số dưới dạng hình học (các hằng<br /> đẳng thức đại số, các tỉ lệ thức...). Tuy nhiên, các khái niệm độ dài, diện tích đã không<br /> được định nghĩa.<br /> 2.2. Độ dài, diện tích, thể tích ở thời cận đại<br /> Những nhà toán học của thế kỉ XVII được thừa hưởng nhiều quy tắc tính diện tích,<br /> thể tích từ thời cổ đại. Tuy nhiên, cách chứng minh bằng phương pháp vét cạn ít thể hiện<br /> cách thức xác định diện tích của hình được giới hạn bởi các đường cong hay thể tích của<br /> khối tròn xoay. Ý tưởng rõ ràng duy nhất được truyền lại từ thời Hi Lạp là một số miền cần<br /> phải được chia thành những miền rất nhỏ mà diện tích, thể tích của chúng đã biết. (Katz,<br /> 2009, tr. 514)<br /> Từ thế kỉ XVII, cơ học và thiên văn học phát triển mạnh. Độ dài của các đường conic<br /> (parabol, elip, hyperbol), diện tích của các hình giới hạn bởi các đường conic, thể tích của<br /> các khối tròn xoay được đặc biệt quan tâm. Nhiều thành tựu liên quan các đại lượng hình<br /> học gắn với tên tuổi của những nhà khoa học có tiếng trong lĩnh vực cơ học, thiên văn học,<br /> những lĩnh vực hiện nay thuộc chuyên ngành Vật lí học.<br /> Phương pháp tính diện tích, thể tích đáng chú ý ở thời cận đại là phương pháp vi<br /> phân infinitesimals của Kepler (Katz, 2009, tr. 514-515), phương pháp vô ước indivisible<br /> của Galileo mà Cavalieri, Torricelli đã góp phần hoàn thiện và phát triển.<br /> Galileo sử dụng phương pháp vô ước indivisible để chứng minh thể tích của “tô súp”<br /> (giới hạn bởi mặt bán cầu và mặt trụ có cùng đáy) bằng với thể tích của hình nón có cùng<br /> đáy và chiều cao (Katz, 2009, tr. 515). Trong hình minh họa, “tô súp” được Galileo tính<br /> thể tích chính là khối tròn xoay nhận được khi phần được tô màu (phần thừa của hình<br /> vuông so với một phần tư hình tròn) quay tròn quanh trục CF. Điều đáng lưu ý ở đây, “tô<br /> súp” có hình dạng vật chứa và thể tích của nó được Galileo quan niệm khác biệt với thể<br /> <br /> 31<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM<br /> <br /> Tập 15, Số 4 (2018): 29-39<br /> <br /> tích của hình trụ có chiều cao CF và đáy là hình tròn đường kính AB, không tính khối bán<br /> cầu đường kính AB.<br /> <br /> Hình 1. Mặt cắt đứng của “tô súp” được Galileo tính thể tích<br /> Nổi bật ở thời cận đại là việc Cavalieri, học trò của Galileo, là người đầu tiên hoàn<br /> thiện lí thuyết về phương pháp vô ước indivisible để giải quyết bài toán so sánh, tìm tỉ số<br /> diện tích, thể tích hai hình. Cavalieri xem một hình phẳng được tạo thành từ nhiều đoạn<br /> thẳng song song (các indivisible của hình phẳng), một hình khối được tạo thành từ nhiều<br /> thiết diện phẳng (hình phẳng) song song (các indivisible của hình khối). Tỉ số diện tích hai<br /> hình phẳng tìm được thông qua tỉ số độ dài các indivisible. Tỉ số thể tích hai khối tìm được<br /> thông qua tỉ số diện tích các indivisible. Torricelli, một học trò khác của Galileo, đã trình<br /> bày nghịch lí có thể xuất hiện do lựa chọn các indivisible. Giải pháp của Torricelli về cơ<br /> bản trở về phương pháp vi phân infinitesimals, cụ thể là xem xét các đoạn thẳng indivisible<br /> trên thực tế có độ dày (Katz, 2009, tr. 516-517).<br /> Phương pháp vô ước indivisible là một công cụ có giá trị để tính diện tích, thể tích,<br /> nhưng đã gây ra nhiều cuộc tranh luận do những chướng ngại về bản chất vô hạn, phần tử<br /> indivisible, tính liên tục. Những bài toán tính diện tích, thể tích ở thời kì này góp phần thúc<br /> đẩy sự ra đời và phát triển của phép tính vi - tích phân. Tuy nhiên, các khái niệm độ dài,<br /> diện tích, thể tích vẫn chưa được định nghĩa.<br /> 2.3. Độ dài, diện tích, thể tích ở thời hiện đại<br /> Giai đoạn hiện đại, toán học đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Phép tính tích phân<br /> trở thành công cụ hữu hiệu để giải các bài toán tính độ dài, diện tích, thể tích. Bài toán gấp<br /> đôi khối lập phương, cầu phương hình tròn lần lượt được Wantzel (1837) và Lindemann<br /> (1882) chứng minh không thể thực hiện chỉ bằng thước kẻ và com-pa trong phạm vi hình<br /> học. Cuối thế kỉ XIX, hàng loạt hệ tiên đề xuất hiện cho các cấu trúc toán học khác nhau.<br /> Các khái niệm nhóm, trường, không gian vectơ, tập hợp các số nguyên dương, số thực...<br /> đều được tiên đề hóa. Các khái niệm độ dài, diện tích, thể tích được nhiều nhà toán học<br /> quan tâm xây dựng. Trong phạm vi giới hạn của bài báo, các khái niệm độ dài, diện tích,<br /> thể tích chỉ được xem xét trong phạm vi hình học Euclide. Những công trình nghiên cứu đã<br /> có chỉ ra hai cách tiếp cận sau đây:<br /> 2.3.1. Cách tiếp cận trong hình học<br /> Cách tiếp cận trong hình học đối với các đại lượng có thể được tìm thấy trong các tác<br /> phẩm “Cơ sở hình học” của Hilbert (1899), “Geometry: Euclid and beyond” của<br /> Hartshorne (2000).<br /> <br /> 32<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM<br /> <br /> Trần Đức Thuận và tgk<br /> <br /> Không gắn với các công thức đại số, chúng tôi không tìm thấy trong công trình của<br /> Hilbert (1899), Hartshorne (2000) định nghĩa độ dài đoạn thẳng, ngoại trừ nhóm các tiên<br /> đề về tương đẳng (bằng nhau) đối với các đoạn thẳng, các góc, các hình tam giác và chứng<br /> minh quan hệ tương đẳng giữa hai đoạn thẳng được Hilbert (1899) xác lập. Hartshorne<br /> (2000, tr. 196) lưu ý thuật ngữ “bằng nhau” mà Euclide sử dụng tương ứng với “tương<br /> đẳng giữa các đoạn thẳng, các góc”, “cùng diện tích”, “cùng thể tích”.<br /> Các hình được sử dụng khi xây dựng khái niệm diện tích có sự khác biệt trong tác<br /> phẩm của Hilbert (1899) và Hartshorne (2000). Dù Hilbert (1899) có định nghĩa về miền<br /> trong, miền ngoài của đa giác, trong phần xây dựng khái niệm diện tích, hình đa giác được<br /> xét chỉ có các cạnh. Khái niệm diện tích được Hartshorne (2000, tr. 196-197) xây dựng<br /> trên những hình có cả các cạnh và miền trong của hình. Cách Hartshorne giải thích các<br /> thuật ngữ “hình chóp”, “hình lăng trụ”, “hình hộp” cho thấy các đa diện này không là khối<br /> đặc, không bao gồm miền trong. Hai nửa của một hình hộp tương đẳng với nhau nhưng<br /> không thể chồng lên nhau trong không gian 3 chiều. (Hartshorne, 2000, tr. 226-227)<br /> Diện tích đa giác được Hilbert (1899) và Hartshorne (2000, tr. 197) xây dựng từ các<br /> khái niệm đa giác đồng phân (équydécomposables), đa giác đẳng diện (đồng phân qua<br /> phần bù) (superficie égale; équicomplémentaires; égal par complément).<br /> Hai hình không chồng lấn nếu chúng không có điểm trong chung.<br /> Hai hình P và P’ là đồng phân nếu mỗi hình có thể viết dưới dạng hợp không chồng lấn của<br /> các tam giác: P  T1  T2  ...  Tn và P '  T1'  T2'  ...  Tn' , trong đó: với mỗi i, hai tam giác Ti<br /> và Ti ' tương đẳng.<br /> Hai hình P và P’ là đẳng diện nếu tồn tại các hình Q và Q’ sao cho: P và P’ không chồng<br /> lấn; Q và Q’ không chồng lấn; Q và Q’ là đồng phân; P  Q và P ' Q ' là đồng phân.<br /> <br /> Quan hệ đồng phân, đẳng diện được chứng minh là những quan hệ tương đương<br /> (thỏa đồng thời các tính chất phản xạ, đối xứng, bắc cầu) trên tập hợp các đa giác. Những<br /> mệnh đề về sự đồng phân, đẳng diện (đồng phân qua phần bù) của các hình bình hành,<br /> hình tam giác mà Hilbert (1899), Hartshorne (2000) đã trình bày, chứng minh cho phép<br /> thực hiện kĩ thuật tách-ghép (dissection) trong phạm vi hình học để tạo hình mới đồng<br /> phân với hình đã cho, chứng minh định lí Pythagore, so sánh diện tích hai đa giác, thiết lập<br /> công thức tính diện tích một số hình đa giác:<br /> (1)<br /> <br /> (2)<br /> (1)<br /> <br /> (1)<br /> <br /> (2')<br /> (1')<br /> <br /> (2) (2')<br /> <br /> (1')<br /> <br /> (2)<br /> <br /> (2')<br /> (1')<br /> <br /> Hình 2. Các hình đồng phân có thể dùng để thiết lập các công thức tính diện tích<br /> Theo Hartshorne (2000, tr. 199), sự tương đương giữa khái niệm đồng phân và đẳng<br /> diện (đồng phân qua phần bù) trong mặt phẳng Hilbert bất kì thỏa mãn tiên đề song song<br /> (P) và tiên đề Archimède (A) có thể được chứng minh bằng cách sử dùng hàm độ đo diện<br /> tích với giá trị trong trường số học đoạn thẳng. Tuy nhiên, để có cơ sở so sánh các nửa của<br /> <br /> 33<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2