Taïp chí Khoa hoïc – Coâng ngheä Thuûy saûn soá 03/2007<br />
<br />
Tröôøng Ñaïi học Nha Trang<br />
<br />
VẤN ĐỀ TRAO ĐỔI<br />
<br />
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM HẠN CHẾ VIỆC KHAI THÁC CÁ<br />
CHƯA TRƯỞNG THÀNH CỦA NGHỀ LƯỚI KÉO TẠI VIỆT NAM<br />
Nguyễn Phong Hải<br />
Khoa Khai Thác – ĐH Nha Trang<br />
<br />
Việc khai thác cá chưa trưởng thành (cá con)1 của nghề lưới kéo là một chủ đề được<br />
đề cập rất nhiều trên thế giới và ở Việt nam. Việc đánh bắt quá nhiều cá chưa trưởng thành<br />
sẽ gây ảnh hưởng xấu đến nguồn lợi sinh vật biển và gây ra sự lãng phí tài nguyên thiên<br />
nhiên. Bài báo này giới thiệu một số biện pháp kỹ thuật và xã hội nhằm hạn chế việc khai thác<br />
cá chưa trưởng thành ở nghề lưới kéo tại Việt nam.<br />
<br />
Một trong các mục đích của quản lý nghề cá là hạn chế tối đa việc khai thác cá chưa<br />
trưởng thành. Khai thác quá nhiều cá con sẽ dẫn đến việc thiếu hụt lượng cá bổ sung cho đàn cá<br />
sinh sản để duy trì nguồn lợi, do đó làm cạn kiệt nguồn lợi một cách nhanh chóng [6]. Thêm vào<br />
nữa, xét về khía cạnh sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên, khai thác cá chưa trưởng thành<br />
là kém hiệu qủa kinh tế. Nghề lưới kéo đóng vai trò quan trọng trong hoạt động khai thác thủy<br />
sản của nước ta. Tuy nhiên, lưới kéo vốn dĩ là một ngư cụ có tính hủy diệt cao, khả năng chọn<br />
lọc của lưới kéo rất thấp, vì thế nghề này chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu nghề khai thác đàn cá<br />
chưa trưởng thành.<br />
Để nghề lưới kéo hạn chế khai thác cá chưa trưởng thành, cơ quan quản lý thuỷ sản đã<br />
đưa ra các biện pháp quản lý đầu vào (input control) như quy định kích cỡ tối thiểu cho phép khai<br />
thác đối với một số loài thuỷ sản; cỡ mắt lưới tối thiểu ở bộ phận chứa cá; quy định vùng đánh<br />
bắt của các tàu công suất máy khác nhau... Tuy nhiên, dường như các biện pháp trên tỏ ra thiếu<br />
hiệu quả trong việc hạn chế khai thác cá chưa trưởng thành. Bài báo này đề cập đến một số biện<br />
pháp về mặt kỹ thuật, quản lý nghề lưới kéo nhằm hạn chế việc khai thác các đối tượng thủy sản<br />
chưa đến tuổi trưởng thành.<br />
I- Một số biện pháp cải tiến ngư cụ nhằm hạn chế việc khai thác cá chưa trưởng thành ở<br />
nghề lưới kéo.<br />
Về nguyên lý, việc cho thoát cá chưa trưởng thành ở lưới kéo cá dựa vào sự khác biệt về<br />
kích cỡ giữa cá trưởng thành và cá chưa trưởng thành (Size – based selectivity) [2] . Nghiên cứu<br />
tách cá con ra khỏi tôm ở nghề kéo tôm dựa trên khác biệt về tập tính sinh học, đặc biệt phản xạ<br />
trốn thoát của tôm và cá chưa trưởng thành (Behaviour based selectivity) [5]. Câu hỏi đặt ra là<br />
làm thế nào để tạo chỗ thoát một cách ổn định cho cá con ra khỏi lưới nhưng vẫn đảm bảo việc<br />
giữ lại cá có kích cỡ cho phép khai thác.<br />
<br />
1<br />
<br />
Các cụm từ ‘Cá chưa trưởng thành’ hoặc ‘cá con’ sử dụng trong bài báo này được hiểu là cá có kích thước<br />
nhỏ, chưa đến tuổi thành thục sinh dục hoặc đến tuổi thành thục sinh dục nhưng có giá trị kinh tế thấp. Nhóm cá<br />
này được ngư dân lựa chon sau khi khai thác và gọi chung là nhóm cá phân (cá tạp). Thường thì nhóm cá phân<br />
(cá tạp) có thành phần chủ yếu là cá chưa đến tuổi trưởng thành.<br />
<br />
74<br />
<br />
Taïp chí Khoa hoïc – Coâng ngheä Thuûy saûn soá 03/2007<br />
Cá con có thể thoát ở bất cứ vị trí nào<br />
dọc theo hệ thống lưới (dây đỏi, cáp kéo,<br />
ván.. miệng lưới hay thoát khỏi mắt lưới ở<br />
phần cánh, thân và đụt lưới). Tuy nhiên,<br />
phản ứng cá trốn thoát khỏi lưới tập trung<br />
chủ yếu ở đụt. Tại phần đầu đụt lưới, thể tích<br />
không gian là hẹp nhất và bị thay đổi đột ngột<br />
từ thân lưới xuống đụt lưới, mật độ cá tập<br />
trung tại khu vực này là lớn hơn so với các<br />
khu vực lưới phía trước. Điều này dẫn đến<br />
khả năng va chạm cơ học giữa các cá thể,<br />
kích thích phản ứng trốn thoát của cá và đây<br />
là vị trí cá có phản ứng trốn thoát khỏi lưới<br />
lớn nhất. Tại đụt lưới, cá tìm cách chui qua<br />
mắt lưới tại thành đụt ra ngoài. Nghiên cứu<br />
thay đổi cấu trúc lưới kéo nhằm hạn chế việc<br />
khai thác cá chưa trưởng thành thường chú ý<br />
vị trí đầu đụt lưới (vùng giáp ranh giữa thân<br />
và đụt lưới)<br />
I.1-Thay đi hình dng mt li đt<br />
li<br />
Hiện nay ở Việt Nam, lưới kéo sử dụng<br />
mắt lưới phổ biến dạng hình thoi. Xét về mặt<br />
chọn lọc của ngư cụ, mắt lưới loại này có<br />
nhược điểm là khép mắt lại khi kéo lưới trong<br />
nước, đặc biệt khi lưới được kéo với tốc độ<br />
cao và đụt chứa nhiều cá. Mặt khác, mắt lưới<br />
bị khép kín lại cản trở cá trốn thoát khỏi đụt.<br />
Để hạn chế nhược điểm của mắt lưới hình<br />
thoi, có thể thay thế mắt lưới hình thoi bằng<br />
mắt lưới hình vuông hoặc hình lục giác. Do<br />
đặc điểm về hình dạng mắt lưới và phương<br />
<br />
Tröôøng Ñaïi học Nha Trang<br />
lực căng của cạnh mắt lưới, nên mắt lưới<br />
hình thoi luôn có xu hướng khép mắt trong<br />
quá trình lưới chuyển động. Tổng lực cản<br />
thành càng lớn, khả năng khép mắt càng lớn.<br />
Khác với mắt lưới hình thoi, lực căng cạnh<br />
mắt lưới hình vuông khi chuyển động có<br />
phương vuông góc và song song với cạnh<br />
mắt lưới. Điều này giúp cho mắt lưới hình<br />
vuông vẫn giữ nguyên hình dạng ban đầu,<br />
ngay cả khi đụt lưới chứa nhiều cá.<br />
Nhược điểm của mắt lưới hình vuông là<br />
ở chỗ chế tạo và sửa chữa (bằng tay hoặc<br />
bằng máy) các tấm lưới hình vuông còn khó,<br />
dẫn đến giá thành tấm lưới mắt vuông là đắt<br />
hơn so với mắt lưới hình thoi. Việc sửa chữa<br />
các lỗ rách ở tấm lưới mắt vuông cũng khó<br />
khăn hơn. Thêm nữa, do đặc tính lực tác<br />
dụng kể trên, gút lưới mắt vuông luôn không<br />
ổn định, dễ trượt gút và làm thay đổi kích<br />
thước mắt lưới. Nếu sử dụng tấm lưới có<br />
mắt lưới hình thoi để tạo thành tấm lưới có<br />
mắt lưới hình vuông sẽ dẫn đến lãng phí<br />
nguyên liệu và chất lượng của tấm lưới mới<br />
có chất lượng làm việc không tốt. Hiện nay,<br />
với công nghệ mới, các tấm lưới có mắt lưới<br />
hình vuông được bện tết, không gút đã hạn<br />
chế nhược điểm của gút lưới kể trên.Tính ưu<br />
việt của mắt lưới hình vuông so với mắt lưới<br />
hình thoi được thể hiện ở ảnh chụp hình 1.<br />
<br />
Hình 1: Quan sát dưới nước<br />
đụt lưới có mắt lưới hình<br />
vuông (chỉ lưới màu<br />
đen) và hình thoi (chỉ<br />
lưới màu trắng). Mắt<br />
lưới hình thoi khép gần<br />
kín trong khi mắt lưới<br />
hình vuông vẫn mở, tạo<br />
lỗ thoát cho cá. [3].<br />
<br />
75<br />
<br />
Taïp chí Khoa hoïc – Coâng ngheä Thuûy saûn soá 03/2007<br />
I.1.1 S dng đt li có mt li<br />
hình vuông<br />
Đụt lưới có mắt lưới hình vuông được<br />
xem là khá hiệu quả trong việc làm thoát cá<br />
con ra khỏi đụt lưới kéo. Thay vì sử dụng đụt<br />
<br />
Tröôøng Ñaïi học Nha Trang<br />
lưới thông thường, có thể sử dụng toàn bộ<br />
đụt lưới có mắt lưới hình vuông (hình 2). Các<br />
mắt lưới vuông luôn mở tạo điều kiện cho cá<br />
thoát khỏi lưới.<br />
<br />
Hình 2: Đụt lưới có mắt lưới hình vuông [4]<br />
<br />
I.1.2 Chèn m<br />
t phn tm trên c<br />
a đt<br />
li bng li có mt li hình vuông<br />
Các nghiên cứu cho thấy, ở lưới kéo<br />
đáy, cá luôn có xu hướng trốn thoát qua mắt<br />
lưới ở tấm trên và ở phần đầu của đụt lưới.<br />
Vì thế chỉ cần thay thế một phần tấm trên của<br />
đụt lưới bằng tấm lưới có mắt lưới hình<br />
vuông nhằm tạo chỗ thoát cho cá (Hình 3).<br />
Broadhurst (1999) [1] nghiên cứu tác dụng<br />
của tấm lưới có mắt lưới hình vuông chèn<br />
vào tấm trên của đụt lưới có mắt lưới hình<br />
thoi của lưới kéo tôm ở vịnh Vincent, Nam<br />
Australia. Tác giả nhận thấy, thành phần cá<br />
<br />
kinh tế chưa trưởng thành trong sản lượng<br />
cá khai thác giảm đến 96.9 % (về khối<br />
lượng), nhưng vẫn đảm bảo lượng tôm khai<br />
thác. So với toàn bộ đụt lưới mắt hình vuông,<br />
đụt lưới có một phần tấm trên là mắt vuông<br />
sẽ hạn chế những lãng phí vật liệu, hạn chế<br />
phần nào nhược điểm của mắt lưới hình<br />
vuông.<br />
<br />
Hình 3: Tấm lưới có mắt lưới hình vuông được gắn vào tấm trên của đụt lưới [4]<br />
<br />
76<br />
<br />
Taïp chí Khoa hoïc – Coâng ngheä Thuûy saûn soá 03/2007<br />
<br />
I.2- Thay đi v cu trúc đt li<br />
Khi quan sát dưới nước, đụt lưới có mắt<br />
hình thoi ở trong tình trạng không hoặc rất ít<br />
cá có dạng gần giống hình trụ. Khi cá vào đụt<br />
lưới nhiều, đụt có dạng gần giống hình củ<br />
hành. Cuối đụt phình to còn đầu của đụt lưới<br />
lại thu nhỏ lại hình cổ chai (Hình 4). Phần<br />
cuối đụt trước khu vực tập trung cá, mắt lưới<br />
mở to cho phép cá con trốn thoát. Phần còn<br />
<br />
Mắt lưới phía đầu<br />
của đụt khép kín dưới<br />
tác dụng của lực cản<br />
và lượng cá tập trung.<br />
<br />
Tröôøng Ñaïi học Nha Trang<br />
<br />
lại của đụt lưới, các mắt lưới bị khép lại. Nếu<br />
cá tiếp tục được dồn ép vào phía cuối đụt<br />
lưới, chúng sẽ bị mắc vào các mắt lưới hạn<br />
chế sự trốn thoát của cá khỏi mắt lưới ở khu<br />
vực cuối đụt lưới.<br />
<br />
Cá bị dồn về cuối đụt<br />
<br />
Phần đụt lưới ngay trước<br />
phần tập trung cá vẫn mở<br />
to cho cá con trốn thoát.<br />
Hình 4: Hình dạng của đụt lưới dưới nước khi chứa nhiều cá [4]<br />
I.2.1 Thêm các ging lc<br />
Nếu gắn thêm các giềng lực dọc theo đụt<br />
lưới, ngắn hơn chiều dài đụt thì giềng lực này<br />
sẽ góp phần giảm bớt sự thay đổi hình dạng<br />
của đụt (vẫn giữ đụt gần giống với hình trụ).<br />
Điều này góp phần giúp mắt lưới ít bị khép lại<br />
khi đụt lưới chứa nhiều cá.<br />
I.2.2 Thay đi chu vi đt li<br />
Một số nghiên cứu cho thấy, khi giảm chu<br />
vi phần cuối đụt lưới kéo nhưng vẫn giữ<br />
nguyên chu vi phần cuối thân và đầu đụt sẽ<br />
làm cho mắt lưới ở đụt được mở rộng hơn,<br />
tăng khả năng trốn thoát của cá con ra khỏi<br />
đụt lưới.<br />
I.3- Thêm các khung lc vào đt li<br />
<br />
Gắn các khung lọc bằng kim loại hay<br />
bằng nhựa vào đụt lưới kéo là một biện pháp<br />
khá phổ biến nhằm tạo chỗ thoát ổn định<br />
cho cá con thoát ra khỏi lưới. Khung lọc<br />
thường có cấu trúc là một hay nhiều tấm lọc<br />
liên kết với nhau bằng các bản lề. Các song<br />
chắn được thêm vào tấm lọc nhằm tạo lỗ<br />
thoát cho cá. Khoảng cách giữa các song<br />
chắn sẽ quyết định đến kích cỡ và số lượng<br />
cá thoát khỏi lưới. Việc đặt khung lưới ở các<br />
vị trí thuận lợi về thuỷ động học sẽ góp phần<br />
rất lớn kích thích sự trốn thoát của cá ra khỏi<br />
lưới. Nghiên cứu sử dụng tấm lọc Sort – X<br />
(Hình 5) của Larsen & Isaksen (1993) [7]cho<br />
thấy, dụng cụ này có thể giúp thoát phần lớn<br />
cá chưa trưởng thành ra khỏi lưới. Theo Hải<br />
(2003)[5], tấm lọc cá JTED, có cấu tạo gần<br />
<br />
77<br />
<br />
Taïp chí Khoa hoïc – Coâng ngheä Thuûy saûn soá 03/2007<br />
giống tấm lọc hình 5, khi lắp ráp vào đụt lưới<br />
kéo tôm ven bờ khai thác tại khu vực biển<br />
Tây Nam Bộ có thể giúp làm thoát đến 60%<br />
lượng cá có kích thước nhỏ ra khỏi lưới. Tấm<br />
<br />
Tröôøng Ñaïi học Nha Trang<br />
lọc dạng EX-it (hình 6) được nghiên cứu ở<br />
nghề lưới kéo Namibia cho thấy, khoảng<br />
68% cá con L. vomerinus thoát khỏi lưới [9].<br />
<br />
Hình 5 : Tấm lọc kiểu Sort- X (gồm hai khung song chắn và một khung phủ bạt). Được<br />
sử dụng trong nghề lưới kéo cá tại Nauy [7]<br />
<br />
Cuối đụt<br />
Hình 6: Tấm lọc dạng EX-it chèn vào đụt lưới để làm thoát cá con L. vomerinus ở nghề<br />
kéo đáy Namibia [9]<br />
II- Biện pháp quản lý<br />
Cũng giống các hoạt động sản xuất<br />
khác, hoạt động khai thác thuỷ sản chịu sự<br />
chi phối rất lớn của quy luật cung–cầu. Khi<br />
nhu cầu sử dụng cá tạp còn lớn, và nhu cầu<br />
này không được điều chỉnh hợp lý thì việc<br />
hạn chế đánh bắt cá tạp sẽ gặp nhiều khó<br />
khăn. Một thực tế đáng phải xem xét là hiện<br />
nay một số tỉnh có nghề lưới kéo cá phát<br />
triển đã và đang xây dựng các nhà máy chế<br />
biến bột cá; như ở: Cà Mau, Bình Thuận,<br />
Vũng Tàu, Kiên Giang. Việc này được biện<br />
minh là một giải pháp tận dụng các nguồn<br />
phế thải từ các nhà máy chế biến thuỷ sản<br />
cũng như nguồn cá tạp từ các tàu kéo cá.<br />
Tuy nhiên, hiện trạng nghề kéo đáy ở nước<br />
ta còn lạc hậu nên tỷ lệ đánh bắt ngoài ý<br />
<br />
78<br />
<br />
muốn cá chưa trưởng thành rất cao. Việc xây<br />
dựng các nhà máy chế biến bột cá này, vô<br />
hình chung, đã làm tăng “cầu” nguồn cá tạp<br />
cho các nhà máy chế biến bột cá dẫn đến<br />
kích thích khai thác cá tạp một cách quá<br />
mức. Theo điều tra của tác giả thì số tiền bán<br />
cá tạp của các tàu kéo cá chiếm một phần<br />
không nhỏ trên tổng thu của mỗi tàu (khoảng<br />
20 – 50 %). Câu hỏi cấp thiết đặt ra là liệu<br />
xây dựng tràn lan các nhà máy chế biến bột<br />
cá như hiện nay là hợp lý, trên cơ sở sử<br />
dụng nguồn lợi thuỷ sản bền vững? Cần phải<br />
khẳng định lại là thành phần cá chưa trưởng<br />
thành của các mẻ lưới kéo có tỷ lệ khá cao,<br />
đáng ra sẽ có nhiều lợi nhuận hơn nếu khai<br />
thác chúng ở kích cỡ hợp lý.<br />
<br />