intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số định hướng trong cách soạn giáo án môn Tiếng Việt

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

10
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhiệm vụ dạy nghề mang tính đặc thù của trường Sư phạm đã cho thấy công tác kiến tập – thực tập, hướng dẫn về nghiệp vụ sư phạm và rèn luyện kỹ năng DH cho SV có một vị trí đặc biệt quan trọng. Bài viết trình bày một số định hướng cụ thể từ yêu cầu rèn luyện kỹ năng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số định hướng trong cách soạn giáo án môn Tiếng Việt

  1. TT phát triển Nghiệp vụ sư phạm Công tác thực tập sư phạm ở các trường sư phạm MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG TRONG CÁCH SOẠN GIÁO ÁN MÔN TIẾNG VIỆT TS. Phan Thị Minh Thúy Khoa Ngữ văn – ĐHSP I. Đặt vấn đề Nhiệm vụ dạy nghề mang tính đặc thù của trường Sư phạm đã cho thấy công tác kiến tập – thực tập, hướng dẫn về nghiệp vụ sư phạm và rèn luyện kỹ năng DH cho SV có một vị trí đặc biệt quan trọng. Nó quyết định đến chất lượng đào tạo và thể hiện sự cạnh tranh về GD của nhà trường VN trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Có thể thấy tất cả các ngành trong chương trình đào tạo người GV tương lai đều hướng vào việc bồi dưỡng, phát triển về tri thức nghề (cung cấp những kiến thức về KH cơ bản, về GD học và giáo học pháp bộ môn), về năng lực nghề (cung cấp những kỹ năng thực hành trong hoạt động DH), nhằm hình thành ở người học ý thức – bản lĩnh về nghề để sau khi tốt nghiệp, SV có thể hoàn thành được những nhiệm vụ đặt ra ở trường PT Những năm qua, trong xu thế đổi mới về GD, về PPDH, nhà trường đã chú trọng nhiều hơn đến những kiến thức thực hành – vận dụng, tạo điều kiện để SV có khả nănt thích ứng năng động trước sự phát triển của KH hiện đại, của thực tiễn xã hội và thực tiễn nghề nghiệp. Chúng ta đã triển khai, phối hợp giữa KH cơ bản và KH nghiệp vụ, chuẩn bị về tâm thế và nội lực cho SV trước khi về PT. Các biện pháp – giải pháp cải tiến hoạt động DH, phục vụ cho công tác thực tập SP hàng năm cũng thường xuyên được đúc rút kinh nghiệm, đã có tác dụng nâng cao hiệu quả đào tạo tay nghề cho SV, làm cho chất lượng DH có sự chuyển biến tích cực, rõ rệt. Trong quá trình theo dõi hoạt động giảng dạy của SV Khoa Ngữ văn ở trường PT, chúng tôi nhận thấy bên cạnh những mặt ưu, mặt được về nội dung trình bày và phương pháp diễn giảng, thể hiện sự nỗ lực cố gắng của người dạy, vẫn còn nhiều SV chưa biết soạn giáo án (G.A). Nhiều bài dạy còn dàn trải, mờ nhạt, còn rập khuôn máy móc, thiếu tính chủ động và sáng tạo nên sức chứa, sức thấm và sức hút của nó chưa cao. Các G.A thường được “chuyển thể” (chép lại) từ sách hướng dẫn GV với đầy đủ các bước, các công đoạn đúng về quy trình, về thao tác, về ngữ liệu nhưng thiếu sự gia công nghiền ngẫm nên chưa nêu bật được cái “hồn”, cái “thần” của bài giảng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là SV còn lúng túng và thụ động trong cách làm việc với SGK, cụ thể là chưa biết cách khai thác, lựa chọn kiến thức cần dạy, chưa tập trung năng lương tư duy vào những “điểm sáng”, “điểm có vấn đề” của bài dạy. Những hạn chế này về mặt kỹ năng thực hành đòi hỏi chúng ta vẫn cần tiếp tục phải bổ khuyết và hoàn thiện thêm. II. Một số định hướng cụ thể từ yêu cầu rèn luyện kỹ năng 1. Cần nhận thức đầy đủ mối quan hệ giữa kỹ năng dạy học (KNDH) và kỹ năng tự học (KNTH) trong việc soạn giáo án 177
  2. TT phát triển Nghiệp vụ sư phạm Công tác thực tập sư phạm ở các trường sư phạm Trong hệ thống các kỹ năng sư phạm thì KNDH và KNTH có vai trò chủ đạo, là nền tảng và cơ sở của việc “học nghề” và “dạy nghề”. KNDH được thể hiện bằng những cách thức và công việc có tính kỹ thuật như: soạn G.A đúng quy cách, đặt câu hỏi chuẩn xác, vận dụng và phối hợp các PPDH một cách linh hoạc và hiệu quả, sử dụng các phương tiện DH và hình thức DH một cách hợp lý, thành thạo… Còn KNTH là khả năng làm chủ được một cách trọn vẹn, có chiều sâu những kiến thức KH cơ bản và chuyên ngành cùng với những PPDH khoa học tiên tiến và hiện đại trong sự tương ứng với trình độ tiếp nhận của bản thân; là cách tự “đào tạo mình” trong quá trình chủ động tìm kiếm thông tin, làm giàu kiến thức và chuyển hóa chúng thành cái vốn “của mình”, “cho mình”. Mối quan hệ tác động đến nhau giữa KNDH và KNTH được thể hiện ở chổ: hoạt động nghiên cứu sẽ làm cho hoạt động DH mang tính sáng tạo, sâu sắc và hấp dẫn. Còn HĐDH sẽ làm cho hoạt động nghiên cứu được soi, được kiếm chứng rõ ràng, đầy đủ hơn, có cơ sở KH chắc chắn hơn. Điều này được phản ánh tập trung nhất trong việc soạn G.A. Một G.A có chất lượng, một bài giảng hay bao giờ cũng đòi hỏi khả năng vận dụng – thực hành cao từ phía người dạy. Cụ thể là: khả năng biết phân tích – dự kiến tình huống, biết điều chỉnh kế hoạch và có các biện pháp tối ưu để xử lý, giải quyết vấn đề. Nếu không đọc kỹ – hiểu sâu thì không thể phát hiện và tìm ra cái mới. Bài giảng sẽ thiếu sinh động do bị “đóng đinh bắt vít” vào một cái khuôn cứng ngắc. Trong DH Tiếng Việt, những bài dạy lý thuyết (cung cấp các khái niệm, các quy tắc ngôn ngữ) rất khác về mục đích – yêu cầu với những bài dạy thực hành (rèn luyện kỹ năng sử dụng tiếng Việt ở mọi cấp độ trong hoạt động giao tiếp) cho nên cần phải xử lý khác nhau về mặt PP: - PP phân tích ngôn ngữ – ngữ liệu, PP khái quát hóa, PP so sánh – đối chiếu… thường dùng cho dạng bài thứ nhất để hình thành, củng cố, nhận diện và vận dụng khái niệm. - PP luyện theo mẫu, PP giao tiếp, PP thảo luận nhóm, PP nêu vấn đề… thường dùng cho dạng bài thứ hai để tạo lập và phát triển lời nói, cung cấp cho HS những cách hiểu, cách tiếp nhận khác nhau về cùng một vấn đề để các em biết cách biện luận, tự rút ra cách hiểu, cách dùng cho phù hợp. Tính chủ động của việc biết làm việc với SGK còn thể hiện ở chổ: người soạn G.A biết đánh giá đùng những mặt ưu - mặt được của từng PP để sử dụng nó một cách chừng mực, phù hợp với đặc điểm tâm lý – nhận thức của HS, và để phối hợp giữa các PP với nhau hoặc để thực hiện các PP theo trình tự nhất định. Ví dụ nếu chỉ dùng PP luyện theo mẫu mà không kết hợp với PP phân tích – đối chiếu thì rất dễ sa vào lối bắt chước thiếu sáng tạo. Nếu chỉ dùng PP phân tích mà không biết chốt ý, khắc sâu, nhấn mạnh bằng PP khái quát hóa thì HS sẽ không thể nắm được một cách đầy đủ, trọn vẹn, chính xác về khái niệm và quy tắc ngôn ngữ. Tương tự, nếu nhìn về hình thức thì bài dạy về từ ngữ, ngữ pháp rất giống với bài dạy về phong cách vì có cùng đối tượng khảo sát là từ, ngữ, câu … nhưng hiệu quả tiếp nhận và thao tác tiến hành ở hai loại bài này lại rất khác nhau: 178
  3. TT phát triển Nghiệp vụ sư phạm Công tác thực tập sư phạm ở các trường sư phạm - Loại bài thứ nhất cung cấp những hiểu biết về các đơn vị ngôn ngữ (từ đồng nghĩa, từ đa nghĩa, câu phức, câu ghép…) về đặc điểm cấu tạo – ý nghĩa – cách hành chức của các đơn vị này trong hoạt động giao tiếp. Do đó, nó cần đến các thao tác như: phân tích, chứng minh, so sánh, khái quát hóa … - Loại bài thứ hai dựa trên những hiểu biết này (về quy luật hoạt động của từ, câu) để phát hiện ra giá trị biểu đạt, hiệu quả tác động của chúng trong những ngữ cảnh xác định, hình thành năng lực cảm thủ thẩm mỹ, tinh tế cho HS… cho nên nó cần đến các thao tác như: thay thế, bổ sung, lựa chọn, biến đổi… Như vậy, việc đọc sách tham khảo phải dựa trên khả năng phán đoán suy luận thì người dạy mới có thể phân định rõ ràng sự khác nhau về tính chất, chức năng của từng loại bài đề có cách dạy phù hợp. Nhiều SV khi soạn G.A thường liệt kê ra đầy đủ các PP nhưng thực chất không hiểu mấy về tác dụng của nó nên không biết vận dụng, làm cho bài giảng bị rối. 2. Xác định kiến thức trọng tâm của bài dạy Những kiến thức trong một bài giảng thường không có giá trị đồng đều nhau cho nên không thể áp dụng lối “dàn hàng ngang” để “dạy cho bằng hết” những gì có trong SGK, nhất là trong tinh thần đổi mới về tích hợp kiến thức như hiện nay. Thực tế cho thấy một bài dù có dài, nhiều khối lượng và đơn vị kiến thức những nếu biết cách chọn ra những nội dung chủ đạo – chính yếu và có PPDH phù hợp, khoa học thì vẫn có thể đạt hiệu quả cao. Điều cơ bản là GV phải biết biến những điều khó khăn, phức tạp thành những điều dễ hiểu, dễ vận dụng đối với HS. Ví dụ bài “văn bản” (sách lớp 10 – tập 1) là một bài có dung lượng kiến thức nhiều, số lượng ngữ liệu cần tìm hiểu khá dài và phức tạp, thời gian chỉ có một tiết (nhiều GV đã dạy cháy G.A) nhưng nếu người dạy không sa vào phân tích những ý quá chi tiết về nội dung biểu đạt của từng văn bản, không mất nhiều thời gian đặt những câu hỏi vụn vặt mà tập trung “chốt” lại và “xoáy” vào hai ý chính: đặc trưng chung của VB và những nhân tố chi phối đến việc tạo lập VB qua việc dẫn dắt bằng loại câu hỏi quy nạp có tác dụng nâng cao khả năng khái quát hóa vấn đề ở học sinh (khi đọc các văn bản trên, các em thấy tuy khác nhau về phạm vi sử dụng, về nội dung và mục đích giao tiếp nhưng các VB vẫn có những điểm chung giống nhau. Điểm chung đó là gì? / Vì sao những nhân tố như nội dung giao tiếp, đối tượng giao tiếp… lại có ảnh hưởng đến việc viết VB?)… thì HS vẫn có thời gian tìm hiểu, phát hiện và giải quyết vấn đề theo hướng “tích cực hóa tư duy”. Vì các em buộc phải so sánh – đối chiếu để tìm ra mối liên hệ bản chất giữa những sự kiện không hoàn toàn giống nhau, nâng lên thành một nhận định chung về chúng. Bằng cách này, nội dung chính của bài đã được nhấn mạnh và tập trung làm rõ, đảm bảo tính hệ thống, tránh việc đưa vào bài quá nhiều kiến thức mà lại giảng sơ sài, khó hiểu. 3. Cần chọn ra những khía cạnh, những tình huống vấn đề mang tính thiết thực, bổ ích, gây hứng thú đối với HS. G.A được xem là “phương án giảng dạy” cho nên không thể quan niệm nó là cái “bình chứa” toàn bộ kiến thức thuần túy của người thầy, càng không phải là cách trình bày tất cả những gì thầy có mà phải là những gì HS cần học, cần biết, 179
  4. TT phát triển Nghiệp vụ sư phạm Công tác thực tập sư phạm ở các trường sư phạm cần vận dụng trong thực tế. Đối với việc dạy Tiếng Việt thì mục tiêu cần đạt được là phải giúp HS năng lực tư duy, năng lực cảm thụ thẩm mỹ, có khả năng tự học (phát hiện, tìm tòi, giải quyết vấn đề) làm cơ sở cho sự phát triển về trí tuệ và nhân cách suốt đời. Đi theo hướng này, trong khi soạn G.A, người dạy cần tìm ra trong bài những “điểm sáng” chứa đựng những vấn đề, những tình huống kích thích nhu cầu ham hiểu biết và tâm lý tiếp nhận tri thức một cách tư giác, say mệ, hứng thú ở HS, khắc phục lối học vẹt mang tính áp đặt, gò ép. Muốn cài đặt được những “thông tin có vấn đề” trong bài giảng, người dạy phải nghiên cứu tính logíc của nó và lựa chọn những ngữ liệu thật đắc dụng. Khi theo dõi, quan sát cách giảng của giáo sinh trên lớp, chúng tôi thấy điểm yếu của họ là không biết cách dẫn ý, chuyển ý, không biết hệ thống hóa vấn đề và không liên hệ giữa kiến thức cũ và kiến thức mới nên bài giảng thường rời rạc, nhàm chán, nhất là đối với những bài rèn luyện về kỹ năng sử dụng tử, câu, đoạn nhằm nâng cao khả năng diễn đạt chính xác, chặt chẽ… nên HS không thấy thiết thực. Ví dụ khi dạy bài thực hành ngữ pháp gộp và tách câu (hoặc mở rộng và rút gọn câu; chuyển đổi trật tự từ trong câu…) một số SV thường dẫn ra ví dụ, phân tích sơ sài một vài “mẫu”, tiến hành một số thao tác rồi yêu cầu HS làm theo mà không nhấn mạnh đến mục đích – tác dụng, nguyên tắc – điều kiện để thực hiện việc tách - gộp nên đã gây cho HS cảm giác việc này có thể làm một cách tùy tiện, không cần chú ý và cẩn trọng khi viết câu. Khi dạy những bài luyện tập chữa câu, công việc của người GV không phải là chữa những câu cụ thể, tách biệt mà phải quy chúng vào những loại lỗi cơ bản sau đó khái quát thành tiêu chí về một câu đúng để HS lấy đó làm chuẩn, không phạm lỗi khi viết. Đặc biệt là cần hướng dẫn HS phân biệt những câu có hình thức rất giống nhau nhưng một đằng là câu sai, một đằng là câu đúng, đối chiếu nó với quy tắc về logíc – ngữ nghĩa – ngữ dụng để hình thành kỹ năng viết câu. Sách mới hiện nay đi theo hướng giao tiếp nên phương châm thực hành – vận dụng được coi trọng (việc chuyển đổi tên gọi từ “giảng văn” sang “đọc hiểu”, chuyển những bài từ dạy “lý thuyết” - sách cũ – sang dạy “thực hành” - sách mới đã cho thấy rất rõ điều này) vì thế G.A cần được soạn theo “chiến lược hoạt động của HS”, phát huy ở các em cách chiếm lĩnh tri thức dưới sự tổ chức, hướng dẫn của người thầy. Cụ thể là trong G.A, chúng ta không nên “lấp đấy” kiến thức cho HS bằng các khái niệm – thuật ngữ khô khan trừu tượng mà cần tạo ra những “ô trống” cần thiết để gợi mở, khích lệ tinh thần phản biện khoa học ở các em. Ví dụ trong bài Tiếng Việt lớp 10 thực hành về phép tu từ ẩn dụ và hoán dụ, sau khi xác định đối tượng cần tìm hiểu và phân tích nhiệm vụ nhận thức của bài học, học sinh nhận diện, phân tích giá trị biểu đạt của phép ÂDTT qua hệ thống ngữ liêu, nhằm hướng vào ý cơ bản cần đạt được: đây là cách chuyển nghĩa có giá trị nhận thức và biểu cảm cao hơn so với lối chuyển nghĩa thông thường (bằng ÂD từ vựng) vì nó là những định danh thẫm mỹ – nghệ thuật. Nghĩa đen của nó đã bị 180
  5. TT phát triển Nghiệp vụ sư phạm Công tác thực tập sư phạm ở các trường sư phạm lu mờ đi thay vào đó là nghĩa hình tượng mang đến cho người đọc một lượng thông tin hàm súc. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây thì bài giảng chưa hay, chưa sâu. GV cần giúp HS đưa ra cách cảm nhận, cách lý giải, cách phát hiện riêng của mình để tìm ra cơ sở cho việc phân tích cái hay, cái đẹp đó, bằng những câu hỏi nêu vấn đề như: vì sao dùng từ này lại hay hơn, hợp lý hơn, chính xác hơn từ kia? / Vì sao ÂDTT lại thường chỉ dùng trong phong cách nghệ thuật và nó là cách diễn đạt không có tính lặp lại – cố định như ÂD từ vựng? / Vì sao trong hoạt động giao tiếp người ta lại cần phải lựa chọn từ? … Ví dụ khi phân tích hai ÂD “lửa tâm” (Lửa tâm càng dập càng nồng), “lửa lựu” (Đầu tường lửu lựu lập lòe đâm bông), HS phát hiện ra “cái có lý” khi nhà thơ gán thuốc tính cường độ – nóng cho Hoạn Thư để biểu thị cơn ghen vượt quá giới hạn thông thường. Còn gán thuộc tính màu sắc – đỏ để chỉ màu đỏ chói rực rỡ của hoa lựu. Giữa cái trừu tượng và cái cụ thể đã có mối dây liên hệ hợp lý dễ hiểu. Sự so sánh và chính càng hợp lý và chính xác bao nhiêu thì giá trị thuyết phục của nó càng cao bấy nhiêu. Cách đặt vấn đề như vậy sẽ làm cho kiến thức lý thuyết được cũng cố mở rộng và đào sâu hơn. III. Một vài kết luận Những phân tích trên đây đã cho thấy nếu biết khai thác kiến thức và sử dụng các PPDH một cách hữu hiện thì bài giảng về Tiếng vẫn hay, vẫn hấp dẫn chứ không hẳn khô khan như quan niệm của một số người. Hiện nay điều kiện DH của chúng ta đã được cải thiện đáng kể nhờ sự hỗ trợ của ngành công nghệ thông tin. Những phương tiện DH hiện đại (máy chiếu, âm thanh, hình ảnh…) đã làm tăng tính trực quan, sinh động cho bài giảng. Các tài liệu, giáo trình và sách tham khảo cho GV cũng rất phong phú, đa dạng. Tuy nhiên vượt lên trên tất cả và không gì thay thế được nó vẫn là yếu tố con người, là vai trò chủ đạo của người thầy, là việc đầu tư chất xám. Vì lao động trí tuệ mang tính sáng tạo của người thầy sẽ góp phần tạo ra cho xã hội nguồn nhân lực cao, tạo ra một thế hệ người được đào tạo và giáo dục. Có như vậy, chúng ta mới có thể xây dựng được “một hệ thống GD và ĐT thích ứng với những đòi hỏi của kỷ nguyên thông tin và tri thức” (Võ Nguyên Giáp – “Đổi mới có tính cách mạng nền GD và ĐT của nước nhà” – Báo ND số ra ngày 10 – 9 – 2007). 181
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2