intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số hợp chất glucoside flavonoid được phân lập từ lá xạ can Belamcanda chinensis (L.) Dc. tại Việt Nam

Chia sẻ: ViNaruto2711 ViNaruto2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

62
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Xạ can là một loại dược liệu được dùng làm thuốc chữa ho, tiêu đờm, viêm họng, viêm amidan có nhiều đờm, khản tiếng. Bộ phận dùng là thân rễ hoặc lá dưới dạng thuốc sắc, bột làm viên ngậm hoặc dùng tươi. Trong bài báo này tập trung vào phân lập và xác định cấu trúc của một số hợp chất glucoside -flavonoid từ lá của cây Belamcada chinensis (L.) DC. Kết quả đã phân lập ba hợp chất: Embinin, swertisin và embigenin.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số hợp chất glucoside flavonoid được phân lập từ lá xạ can Belamcanda chinensis (L.) Dc. tại Việt Nam

Bùi Thị Bình và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 187(11): 3 - 7<br /> <br /> MỘT SỐ HỢP CHẤT GLUCOSIDE-FLAVONOID ĐƯỢC PHÂN LẬP<br /> TỪ LÁ XẠ CAN BELAMCANDA CHINENSIS (L.) DC. TẠI VIỆT NAM<br /> Bùi Thị Bình1, Lê Công Huân1,*, Khổng Thị Hoa1, Nguyễn Thị Hồng1,<br /> Đặng Thu Hằng1, Nguyễn Thị Hồng Hạnh2, Đỗ Thị Hà3<br /> 1<br /> <br /> Trường Đại học Y Dược Thái Bình, 2Trường Đại học Y Dược - ĐH Thái Nguyên,<br /> 3<br /> Viện Dược liệu<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Xạ can là một loại dược liệu được dùng làm thuốc chữa ho, tiêu đờm, viêm họng, viêm amidan có<br /> nhiều đờm, khản tiếng. Bộ phận dùng là thân rễ hoặc lá dưới dạng thuốc sắc, bột làm viên ngậm<br /> hoặc dùng tươi. Trong bài báo này tập trung vào phân lập và xác định cấu trúc của một số hợp chất<br /> glucoside -flavonoid từ lá của cây Belamcada chinensis (L.) DC. Kết quả đã phân lập ba hợp chất:<br /> embinin (1), swertisin (2) và embigenin (3). Cấu trúc của chúng được xác định nhờ các phép phân<br /> tích phổ IR, NMR, MS và so sánh với các dữ liệu phổ đã công bố (Mingchuan Liu và cs. (2012)).<br /> Từ khóa: Xạ can, lá, embinin, swertisin, embigenin.<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ*<br /> Xạ can có tên khoa học là Belamcanda<br /> chinensis (L.) DC. thuộc chi Belamcada<br /> Adans họ Lay ơn (Iridaceae). Cây phân bố ở<br /> Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Philipin... Ở<br /> Việt Nam, xạ can mọc hoang và được trồng ở<br /> nhiều nơi để làm cây cảnh và làm thuốc [2].<br /> Nghiên cứu thành phần hóa học của thân rễ<br /> xạ can cho thấy có mặt của các nhóm chất<br /> như iridal triterpenoid, isoflavonoid và<br /> flavonoid, các nhóm hợp chất stillben, các<br /> hợp chất phenolic và các triterpen [7]. Trong<br /> nước, một số tác giả nghiên cứu thành phần<br /> hóa học của rễ xạ can, bước đầu nghiên cứu<br /> thấy sự có mặt của các hợp chất flavonoid và<br /> triterpenoid [3]. Tuy nhiên, tại Việt Nam vẫn<br /> chưa có nhiều công trình nghiên cứu thành<br /> phần hóa học xạ can trên bộ phận lá.<br /> Trong các công bố gần đây, chúng tôi đã phát<br /> hiện sự có mặt của các hợp chất<br /> iristectorigenin A, irisflorentin, iridin D,<br /> tertoigenin,<br /> 9-methoxy-dehydrodiconiferyl<br /> alcol, neoligan trong phân đoạn dịch chiết<br /> ethyl acetat của thân rễ xạ can [1]. Trong bài<br /> báo này, chúng tôi tiếp tục báo cáo những kết<br /> quả nghiên cứu mới về chiết tách, phân lập và<br /> xác định cấu trúc hóa học chất chính trên bộ<br /> phận lá xạ can.<br /> *<br /> <br /> Email: huanc3d@gmail.com<br /> <br /> NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP<br /> NGHIÊN CỨU<br /> Nguyên liệu<br /> Nguyên liệu dùng trong nghiên cứu là lá xạ<br /> can (Belamcada chinensis (L.)DC.) được thu<br /> hái tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình tháng<br /> 11/ 2016. Tên khoa học được ThS. Nguyễn<br /> Quỳnh Nga, Khoa Tài nguyên - Viện Dược<br /> liệu giám định bằng phương pháp so sánh<br /> hình thái. Tiêu bản mẫu hiện được lưu tại Khoa<br /> Tài nguyên - Viện Dược liệu. Toàn bộ lá xạ can<br /> chất lượng tốt được lựa chọn, sấy ở 50oC đến độ<br /> ẩm còn dưới 2%, xay thành bột làm nguyên liệu<br /> nghiên cứu thành phần hóa học.<br /> Dung môi, hóa chất<br /> Các dung môi dùng cho chiết xuất và phân<br /> lập hoạt chất: ethanol, n-hexan, ethylacetat,<br /> methanol, n-butanol... Dung môi, hóa chất sử<br /> dụng trong nghiên cứu đều đạt tiêu chuẩn tinh<br /> khiết phân tích (PA).<br /> Thiết bị, dụng cụ<br /> Các chất được phân lập bởi các cột sắc ký<br /> (cột thủy tinh) với hạt silica-gel 160 cỡ hạt<br /> 0,04 - 0,063 mm (Merck). Sắc ký lớp mỏng<br /> sử dụng bản mỏng nhôm tráng sẵn silica-gel<br /> GF254. Nhiệt độ nóng chảy được đo bằng máy<br /> đo điểm chảy nhiệt điện Gallenkamp (Sanyo<br /> electrothermal digital). Phổ hồng ngoại (IR)<br /> được ghi bằng máy Impac 410-Nicolet FT-IR.<br /> 3<br /> <br /> Bùi Thị Bình và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> Phổ khối lượng (MS) được ghi bằng máy khối<br /> phổ phun mù điện tử (MS) Hewlett Packard<br /> HP 5890. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR)<br /> được ghi bằng máy Bruker AV-500 dùng<br /> DMSO-d6 làm dung môi. Độ chuyển dịch hóa<br /> học () được biểu thị bằng đơn vị phần triệu<br /> (ppm), lấy mốc là pic của chất chuẩn nội<br /> tetramethylsilan (TMS).<br /> Phương pháp nghiên cứu<br /> Phương pháp phân lập các hợp chất<br /> Phân lập các hợp chất từ lá xạ can bằng sắc<br /> ký lớp mỏng và sắc ký cột.<br /> Sắc ký lớp mỏng (TLC): Phát hiện chất bằng<br /> đèn tử ngoại bước sóng 254 và 365 nm hoặc<br /> dùng thuốc thử hiện màu H2SO410% được<br /> phun đều khi hiện màu hoặc dung dịch<br /> FeCl3/ethanol 5%.<br /> Phương pháp xác định các cấu trúc hóa học<br /> các hợp chất<br /> <br /> 187(11): 3 - 7<br /> <br /> thường hệ dung môi rửa giải D-M-W (6:1:0,1,<br /> v/v/v) thu được phân đoạn H1BC3A và<br /> H1BC3B. Phân đoạn H1BC3B (0,9 g) được<br /> phân tách trên sắc ký cột pha đảo với hệ dung<br /> môi rửa giải M-W (1:1,v/v) thu được hợp chất<br /> 1<br /> (BCL1<br /> 370<br /> mg).<br /> Phân<br /> đoạn<br /> H1BC1B+H1BC1C (1,0 g) được phân lập<br /> trên sắc ký cột pha thường rửa giải theo<br /> gradient với hệ dung môi D-M-W (10:1:0,1;<br /> 7:1:0,1; 5:1:0,1, v/v/v) thu được 2 phân đoạn<br /> H1BC9A và H1BC9B. Phân đoạn H1BC9B<br /> (71 mg) được phân tách trên sắc ký cột pha<br /> thường hệ D-M (7:1, 6:1, 5:1, v/v) thu được<br /> hợp chất 2 (BCL2, 27,4 mg) và hợp chất 3<br /> (BCL3, 17,3 mg) được tinh chế bằng sắc ký<br /> cột pha thường hệ D-M (8:1, v/v).<br /> KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN<br /> Từ các kết quả phổ của các hợp chất phân lập<br /> từ lá xạ can, nhóm nghiên cứu thu được kết<br /> quả như sau:<br /> <br /> Bằng cách đo nhiệt độ nóng chảy, các phương<br /> pháp phổ (phổ hồng ngoại IR, phổ khối lượng<br /> MS, phổ cộng hưởng từ hạt nhân 1H-NMR và<br /> 13<br /> C-NMR).<br /> THỰC NGHIỆM<br /> Lá xạ can khô nghiền nhỏ (2,5 kg) được chiết<br /> hồi lưu với ethanol 96% (3 lần x 3 h). Lọc,<br /> gộp dịch chiết và cất thu hồi dung môi dưới<br /> áp suất giảm thu được cao ethanol (420,6 g).<br /> Cao thu được đem phân tán trong nước và lắc<br /> phân đoạn lần lượt với n-hexan (3 × 1,5 L) và<br /> EtOAc (3 × 1,5 L). Các phân đoạn lần lượt<br /> cất thu hồi dung môi dưới áp suất giảm thu<br /> được cắn n-hexan (30,5 g), cắn EtOAc (18,6<br /> g) và cắn nước (271,5 g).<br /> Cắn nước được đưa qua cột diaion LH-20, rửa<br /> giải theo gradient với dung môi ethanol nước (0:100%, 1:3, 1:1, 3:1, 100%:0). Cất thu<br /> hồi dung môi dưới áp suất giảm thu được 5<br /> cao phân đoạn, ký hiệu H1BC1A ~ H1BC1E.<br /> Phân đoạn H1BC1E (6,0 g) được đưa lên cột<br /> pha thường, rửa giải bằng hệ D-M-W<br /> (6:1:0,1, v/v/v) thu được 4 phân đoạn<br /> H1BC2A~H1BC2D. Tiếp tục phân lập phân<br /> đoạn H1BC2B (1,3 g) bằng sắc ký cột pha<br /> 4<br /> <br /> Hình 1. Cấu trúc của các hợp chất 1, 2, 3<br /> <br /> Bùi Thị Bình và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> Hợp chất 1: Chất rắn, màu vàng nhạt; tonc:<br /> 217-219oC; Rf = 0,67 (DCM : MeOH = 7:2);<br /> IR (KBr, cm-1): 3309 (OH), 3060 (CH), 1728/<br /> 1610 (C=O), 1509, 1471, 1426 (C=C); 1240<br /> (C-O); ESI-MS (m/z): 607,5 [M+H]+; 1HNMR (500 MHz, CD3OD, ppm): δ 6,71 (1H,<br /> s, H-3); 6,72 (1H, s, H-8); 7,95 (2H, d, J = 8,5<br /> Hz, H-2', 6'); 7,10 (2H, d, J = 8,5 Hz, H-3',<br /> 5'); 4,96 (1H, d, J = 10 Hz, H-1''); 4,41 (1H,<br /> d, J = 8,5 Hz, H-2''); 3,86 (1H, m, H-3''); 3,43<br /> (1H, m, H-4''); 3,45 (1H, m, H-5''); 3,67 (1H,<br /> dd, J = 10,5; 5,5 Hz, Hb-6''); 3,53 (1H, m,<br /> Ha-6''); 5,13 (1H, d, J = 1,5 Hz, H-1'''); 3,88<br /> (1H, m, H-2'''); 0,75 (1H, d, J = 6,5 Hz, H6'''); 3,97 (1H, s, 7-OMe); 3,91 (3H, s, 4’OMe); 13C-NMR (125 MHz, CD3OD, ppm): δ<br /> 166,0 (C-2); 104,9 (C-3); 183,9 (C-4); 164,5<br /> (C-5); 110,8 (C-6); 161,7 (C-7); 92,7 (C-8);<br /> 159,3 (C-9); 105,9 (C-10); 124,3 (C-1'); 129,4<br /> (C-2', 6'); 115,7 (C-3', 5'); 161,2 (C-4'); 56,1<br /> (7-OMe); 49,1 (4’-OMe); 78,9 (C-1''); 82,4 (C2''); 72,2 (C-3''); 72,2 (C-4''); 81,4 (C-5''); 63,4<br /> (C-6''); 102,9 (C-1'''); 71,9 (C-2'''); 72,8 (C-3''');<br /> 73,4 (C-4'''); 69,8 (C-5'''); 18,2 (C-6''').<br /> Hợp chất 1 được phân lập dưới dạng bột màu<br /> vàng nhạt. Phổ ESI-MS của chất 1 cho pic ion<br /> ở m/z 607,5 ([M+H]+) phù hợp với khối lượng<br /> phân tử 607 (C29H34O14). Phổ 1H-NMR của<br /> hợp chất 1 là đặc trưng của các tín hiệu<br /> proton trong hai vòng thơm của một flavon.<br /> Có hai tín hiệu singlet của proton trong vòng<br /> A [δH 6,71 (1H, s, H-3) và 6,72 (1H, s, H-8)],<br /> hai tín hiệu doublet của proton vòng B tương<br /> tác ortho với nhau [δH 7,95 (2H, d, J = 8,5 Hz,<br /> H-2', 6'); 7,10 (2H, d, J = 8,5 Hz, H-3', 5')];<br /> tín hiệu singlet của nhóm OH δH 13.44 (1H, s,<br /> 5-OH); tín hiệu singlet của 2 nhóm methoxy<br /> δH 3,96 (3H, s, 7-OMe) và 3,91 (3H, s, 4’OMe). Các tín hiệu NMR cho thấy chất 1<br /> chứa 2 phân tử đường. Trên phổ còn xuất hiện<br /> tín hiệu của gốc đường glucose liên kết với<br /> aglycon bằng liên kết β-C-glycosid đặc trưng<br /> bởi proton anomeric ở [δH 4,96 (1H, d, J = 10<br /> Hz, H-1'')] và các tín hiệu khác 4,41 (1H, d, J<br /> = 8,5 Hz, H-2''); 3,86 (1H, m, H-3''); 3,43<br /> (1H, m, H-4''); 3,45 (1H, m, H-5''); 3,67 (1H,<br /> <br /> 187(11): 3 - 7<br /> <br /> dd, J = 10,5; 5,5 Hz, Hb-6''); 3,53 (1H, m,<br /> Ha-6''); δC 78,9 (C-1''); 82,4 (C-2''); 72,2 (C3''); 72,2 (C-4''); 81,4 (C-5''); 63,4 (C-6'').<br /> Trên phổ còn xuất hiện tín hiệu của gốc<br /> đường rhamnose liên kết với phân tử đường<br /> glucose với các tín hiệu đặc trưng δH 5,13<br /> (1H, d, J = 1,5 Hz, H-1'''); 3,88 (1H, m, H2'''); 0,75 (1H, d, J = 6,5 Hz, H-6'''); δC 102,9<br /> (C-1'''); 71,9 (C-2'''); 72,8 (C-3'''); 73,4 (C4'''); 69,8 (C-5'''); 18,2 (C-6'''). Từ dữ liệu phổ<br /> thu được ở trên và so sánh với dữ liệu phổ<br /> embinin đã công bố trong tài liệu [7], có thể<br /> kết luận hợp chất 1 là embinin.<br /> Hợp chất 2: Chất rắn, màu vàng nhạt; tonc:<br /> 243-244oC; Rf = 0,47 (DCM : MeOH = 7:2);<br /> IR (KBr, cm-1): 3310 (OH), 3066 (CH), 1730/<br /> 1615 (C=O), 1519, 1470, 1425 (C=C); 1230<br /> (C-O); ESI-MS (m/z): 469,0 [M+Na]+; 1HNMR (500 MHz, CD3OD, ppm): δ 6,67 (1H,<br /> s, H-3); 6,76 (1H, s, H-8); 7,90 (2H, d, J = 8,5<br /> Hz, H-2', 6'); 6,95 (2H, d, J = 8,5 Hz, H-3',<br /> 5'); 4,80 (1H, d, J = 10 Hz, H-1''); 3,90 (1H, t,<br /> J = 8 Hz, H-2''); 3,47 (1H, m, H-3''); 3,41<br /> (1H, m, H-4''); 3,46 (1H, m, H-5''); 3,68 (1H,<br /> dd, J = 10,5; 5,5 Hz, H-6''b); 3,53 (1H, m, H6''a); 3,96 (3H, s, 7-OMe); 13C-NMR (125<br /> MHz, CD3OD, ppm): δ 166,4 (C-2); 102,8<br /> (C-3); 184,3 (C-4); 159,6 (C-5); 109,7 (C-6);<br /> 166,4 (C-7); 91,9 (C-8); 154,7 (C-9); 104,2<br /> (C-10); 122,9 (C-1'); 129,6 (C-2', 6'); 117,1<br /> (C-3', 5'); 162,9 (C-4'); 56,5 (7-OMe); 73,9<br /> (C-1''); 73,9 (C-2''); 80,5 (C-3''); 71,6 (C-4'');<br /> 82,6 (C-5''); 64,4 (C-6'').<br /> Hợp chất 2 được phân lập dưới dạng bột màu<br /> vàng nhạt. Phổ ESI-MS của chất 2 cho pic ion<br /> ở m/z 469,0 ([M+Na]+) phù hợp với khối<br /> lượng phân tử 446 (C22H22O10). Phổ 1H-NMR<br /> của hợp chất 2 cho thấy sự xuất hiện của các<br /> tín hiệu proton trong hai vòng thơm của một<br /> flavon, trong đó có hai tín hiệu singlet của<br /> proton trong vòng A [δH 6,67 (1H, s, H-3) và<br /> 6,76 (1H, s, H-8)], hai tín hiệu doublet của<br /> proton vòng B tương tác ortho với nhau [δH<br /> 7,90 (2H, d, J = 8,5 Hz, H-2', 6'); 6,95 (2H, d,<br /> J = 8,5 Hz, H-3', 5')]; tín hiệu singlet của<br /> proton nhóm methoxy δH 3,96 (3H, s, 75<br /> <br /> Bùi Thị Bình và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> OMe). Trên phổ còn xuất hiện tín hiệu của<br /> gốc đường glucose liên kết với aglycon bằng<br /> liên kết β-C-glycosid đặc trưng bởi proton<br /> anomeric ở [δH 4,80 (1H, d, J = 10 Hz, H-1'')]<br /> và các tín hiệu khác 3,90 (1H, t, J = 8 Hz, H2''); 3,47 (1H, m, H-3''); 3,41 (1H, m, H-4'');<br /> 3,46 (1H, m, H-5''); 3,68 (1H, dd, J = 10,5;<br /> 5,5 Hz, Hb-6''); 3,53 (1H, m, Ha-6''). Phổ 13CNMR và DEPT cho thấy tín hiệu của 22<br /> carbon, trong đó có 1 carbon methoxy [δC<br /> 56,5 (7-OMe)]; 15 tín hiệu đặc trưng cho hợp<br /> chất euflavon gồm 9 carbon bậc 4 [δC 166,4<br /> (C-2); 184,3 (C-4); 159,6 (C-5); 109,7 (C-6);<br /> 166,4 (C-7); 154,7 (C-9); 104,2 (C-10); 122,9<br /> (C-1') và 162,9 (C-4')], 6 carbon bậc 3 [δC<br /> 102,8 (C-3); 91,9 (C-8); 129,6 (C-2', 6') và<br /> 117,1 (C-3', 5')] và các tín hiệu của phân tử<br /> đường [δC 73,9 (C-1''); 73,9 (C-2''); 80,5 (C3''); 71,6 (C-4''); 82,6 (C-5'') và 64,4 (C-6'')].<br /> Trên cơ sở các dữ kiện phổ của 2 kết hợp với<br /> tham khảo tài liệu [5], [6], hợp chất 2 được<br /> xác định là apigenin 6-C-β-D-glucopyranosid<br /> hay swertisin.<br /> Hợp chất 3: Chất rắn, màu vàng nhạt; tonc:<br /> 256-258oC; Rf = 0,51 (DCM : MeOH = 7:2);<br /> IR (KBr, cm-1): 3319 (OH), 3065 (CH), 1720/<br /> 1615 (C=O), 1519, 1481, 1436 (C=C); 1245<br /> (C-O); ESI-MS (m/z): 460,1 [M+H]+; 1HNMR (500 MHz, CD3OD, ppm): δ 6,69 (1H,<br /> s, H-3); 6,74 (1H, s, H-8); 7,98 (2H, d, J = 9,0<br /> Hz, H-2', 6'); 7,11 (2H, d, J = 9,0 Hz, H-3',<br /> 5'); 4,84 (1H, d, J = 10 Hz, H-1''); 3,93 (1H, t,<br /> J = 8 Hz, H-2''); 3,46 (1H, m, H-3''); 3,41<br /> (1H, m, H-4''); 3,46 (1H, m, H-5''); 3,68 (1H,<br /> dd, J = 10,5; 5,5 Hz, Hb-6''); 3,53 (1H, m,<br /> Ha-6''); 3,94 (3H, s, 7-OMe); 3,94 (3H, s, 4’OMe); 13C-NMR (125 MHz, CD3OD, ppm): δ<br /> 166,0 (C-2); 104,7 (C-3); 184,0 (C-4); 164,5<br /> (C-5); 124,3 (C-6); 166,0 (C-7); 91,9 (C-8);<br /> 154,3 (C-9); 104,6 (C-10); 124,3 (C-1'); 129,4<br /> (C-2', 6'); 115,7 (C-3', 5'); 162,7 (C-4'); 56,1<br /> (7-OMe); 49,5 (4’-OMe); 74,3 (C-1''); 76,6<br /> (C-2''); 82,6 (C-3''); 73,6 (C-4''); 80,5 (C-5'');<br /> 63,5 (C-6'').<br /> 6<br /> <br /> 187(11): 3 - 7<br /> <br /> Hợp chất 3 được phân lập dưới dạng bột màu<br /> vàng nhạt. Phổ ESI-MS của chất 3 cho pic ion<br /> ở m/z 460,1 ([M+H]+) phù hợp với khối lượng<br /> phân tử 459 (C23H24O10). Cũng tương tự như<br /> chất 2, phổ 1H-NMR của hợp chất 3 cho thấy<br /> sự xuất hiện của các tín hiệu proton trong hai<br /> vòng thơm của một flavon, trong đó có hai tín<br /> hiệu singlet của proton trong vòng A [δH 6,69<br /> (1H, s, H-3) và 6,74 (1H, s, H-8)], hai tín hiệu<br /> doublet của proton vòng B tương tác ortho<br /> với nhau [δH 7,98 (2H, d, J = 9,0 Hz, H-2', 6');<br /> 7,11 (2H, d, J = 9,0 Hz, H-3', 5')]; tín hiệu<br /> singlet của 2 nhóm methoxy δH 3,96 (3H, s, 7OMe) và 3,94 (3H, s, 4’-OMe); tín hiệu<br /> singlet của nhóm OH δH 13.44 (1H, s, 5-OH).<br /> Trên phổ cũng xuất hiện tín hiệu của gốc<br /> đường glucose liên kết với aglycon với liên<br /> kết C-glycosid đặc trưng bởi proton anomeric<br /> ở [δH 4,80 (1H, d, J = 10 Hz, H-1'')] cùng các<br /> tín hiệu 4,84 (1H, d, J = 10 Hz, H-1''); 3,93<br /> (1H, t, J = 8 Hz, H-2''); 3,46 (1H, m, H-3'');<br /> 3,41 (1H, m, H-4''); 3,46 (1H, m, H-5''); 3,68<br /> (1H, dd, J = 10,5; 5,5 Hz, Hb-6''); 3,53 (1H,<br /> m, Ha-6''). Phổ 13C-NMR và DEPT cho thấy<br /> tín hiệu của 23 carbon, trong đó có 2 carbon<br /> methoxy [δC 56,5 (7-OMe) và 49,5 (4’OMe)]; 15 tín hiệu đặc trưng cho hợp chất<br /> euflavon gồm 9 carbon bậc 4 [δC 166,0 (C-2);<br /> 184,0 (C-4); 164,5 (C-5); 124,3 (C-6); 166,0<br /> (C-7); 154,4 (C-9); 104,6 (C-10); 124,3 (C-1')<br /> và 162,7 (C-4')], 6 carbon bậc 3 [δC 104,7 (C3); 91,9 (C-8); 129,4 (C-2', 6') và 115,1 (C-3',<br /> 5')] và các tín hiệu của phân tử đường [δC<br /> 74,3 (C-1''); 76,6 (C-2''); 82,6 (C-3''); 73,6 (C4''); 80,5 (C-5'') và 63,5 (C-6'')]. Từ dữ liệu<br /> phổ thu được ở trên, kết hợp với tài liệu đã<br /> công bố [3], [8] có thể kết luận hợp chất 3<br /> phân lập được là embigenin.<br /> KẾT LUẬN<br /> Bằng các phương pháp sắc ký kết hợp với các<br /> phương pháp phổ, chúng tôi đã phân lập và<br /> nhận dạng cấu trúc của 3 hợp chất bằng các<br /> phương pháp phổ hiện đại (MS, 1H-NMR,<br /> 13<br /> C-NMR, HBMC) từ lá xạ can bao gồm<br /> embinin, swertisin, embigenin.<br /> <br /> Bùi Thị Bình và Đtg<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Bùi Thị Bình, Đỗ Thị Hà, Nguyễn Thị Bích Thu<br /> (2014), “Neolignan và các isoflavonoid phân lập<br /> từ thân rễ xạ can (Belamcanda chinensis (L.) DC,<br /> Tạp chí Dược học, 4, tr. 54.<br /> 2. Viện Dược liệu (2006), Cây thuốc và động vật<br /> làm thuốc ở Việt Nam, tập II, Nxb KH&KT, tr.<br /> 1095-1098.<br /> 3. Bakhtiar B., Gleye J., Moules C., (1994),<br /> “Desorption<br /> chemicacl<br /> ionization<br /> mass<br /> spectrometry<br /> of<br /> C-glycosyl<br /> flavones”,<br /> Phytochemical analysis, 5, pp. 8-89.<br /> 4. Bui Thi Binh, Tran Thi Hien, Do Thi Ha, Pham<br /> Duc Chinh, Le Viet Dung, Nguyen Thi Bich Thu<br /> (2016), “Anti-Inflammatory Effect of (7R,8S)Dehydrodiconiferyl Alcohol-9′Γ-Methyl Ether<br /> from the Rhizome of Belamcanda Chinensis: Role<br /> of Mir-146a and Mir-155”, Biomed. Pharmacol,<br /> 9(3), pp. 278-283.<br /> <br /> 187(11): 3 - 7<br /> <br /> 5. Choo C. Y., Sulong N. Y., Man F., Wong T. W.<br /> (2012), "Vitexin and isovitexin from the leaves of<br /> Ficus deltoidea with in-vivo alpha-glucosidase<br /> inhibition", Journal of ethnopharmacology,<br /> 142(3), pp. 776 - 781.<br /> 6. Mishra B. B., Yadav S. B., Singh R. K., Tripathi<br /> V. (2007), "A novel flavonoid C-glycoside from<br /> Sphaeranthus indicus L. (family Compositae)",<br /> Molecules, 12(10), pp. 2288 - 2291.<br /> 7. Mingchuan Liu, Shengjie Yang, Linhong Jin,<br /> Deyu Hu, Zhibing Wu and Song Yang (2012),<br /> “Chemical Constituents of the Ethyl Acetate<br /> Extract of Belamcanda chinensis (L.) DC Roots<br /> and Their Antitumor Activities”, Molecules, 17,<br /> pp. 6156-6169.<br /> 8. Yahan Na, Huan Li, Binbin Lin, Guo Kai Wang<br /> (2012), “C-glycosyl flavones from the leaves of<br /> Iris tectorum Maxum”, Acta Pharmaceutica Sinia,<br /> 2(6), pp. 598-601.<br /> <br /> SUMMARY<br /> DERVATIVES OF GLUCOSIDE-FLAVONOID ISOLATED FROM THE LEAF OF<br /> BELAMCADA CHINENSIS (L.) DC. IN VIETNAM<br /> Bui Thi Binh1, Le Cong Huan1*, Khong Thi Hoa1, Nguyen Thi Hong1,<br /> Dang Thu Hang1, Nguyen Thi Hong Hanh2, Do Thi Ha3<br /> 1<br /> <br /> Thai Binh University of Medicine and Phamacy,<br /> 2<br /> TNU - University of Medicine and Pharmacy,<br /> 3<br /> National Institute of Medicinal Material<br /> <br /> Belamcada chinensis (L.) DC. is a medicinal plant that has been used to treat cough, sputum,<br /> pharyngitis, tonsillitis, phlegmatic tonsillitis. The stool is a rhizome or leaf in the form of<br /> decoction, powdered or fresh. In this article, we have focused on the isolation and indentification<br /> of some glucoside-flavonoid compounds from leaf of Belamcada chinensis (L.) DC. The result<br /> was isolated three compounds: embinin (1), swertisin (2) and embigenin (3). Their structures were<br /> indentifed on the basic of physicochemical data and IR, NMR, MS spectral analysis in comparison<br /> with the pulish data.<br /> Keywords: Belamcada chinensis, leaf, embinin, swertisin, embigenin.<br /> <br /> Ngày nhận bài: 29/5/2018; Ngày phản biện: 30/6/2018; Ngày duyệt đăng: 31/10/2018<br /> *<br /> <br /> Email: huanc3d@gmail.com<br /> <br /> 7<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2