intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số loại thuốc gây rối loạn vận động

Chia sẻ: Hanh My | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

80
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Rối loạn vận động (run tay – chân) có thể liên quan với nhiều loại thuốc, trong đó, thuốc có thể là nguyên nhân trực tiếp hoặc chỉ là yếu tố khởi phát tình trạng run đã tiềm tàng từ trước. Các thuốc gây run: Thuốc chống loạn nhịp tim: Amiodarone có thể gây run ở khoảng 1/3 số người dùng thuốc, cơ chế hiện còn chưa được biết rõ. Run do amiodarone thường phụ thuộc vào tư thế và tăng lên khi tập trung làm việc, tần số khoảng 6 -10 Hz, có thể xuất hiện ở bất cứ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số loại thuốc gây rối loạn vận động

  1. Một số loại thuốc gây rối loạn vận động Rối loạn vận động (run tay – chân) có thể liên quan với nhiều loại thuốc, trong đó, thuốc có thể là nguyên nhân trực tiếp hoặc chỉ là yếu tố khởi phát tình trạng run đã tiềm tàng từ trước. Các thuốc gây run: Thuốc chống loạn nhịp tim: Amiodarone có thể gây run ở khoảng 1/3 số người dùng thuốc, cơ chế hiện còn chưa được biết rõ. Run do amiodarone thường phụ thuộc vào tư thế và tăng lên khi tập trung làm việc, tần số khoảng 6 -10 Hz, có thể xuất hiện ở bất cứ thời điểm nào trong quá trình dùng thuốc, phụ thuộc liều và thường giảm dần sau khi ngưng dùng thuốc khoảng 2 tuần. aProcainamide và mexiletine cũng được ghi nhận có liên quan với biểu hiện run, trong đó, mexiletine có thể gây run, chóng mặt và giảm trí nhớ ở khoảng 10% số người dùng thuốc. Run do procainamide tương đối hiếm gặp. Các thuốc kháng khuẩn: Kháng sinh co-trimoxazole có thể gây ra biểu hiện run cả lúc nghỉ ngơi và khi vận động, thường giảm dần sau khi ngừng thuốc vài ngày, cơ chế hiện chưa được hiểu rõ. Một số thuốc diệt virut như vidarabine, aciclovir cũng được ghi nhận gây ra biểu hiện run ở một số bệnh nhân dùng thuốc, thường xuất hiện sau điều trị 5-7 ngày và giảm dần sau khi ngưng thuốc vài ngày. Run do các thuốc chống nấm rất hiếm gặp, hiện chỉ có amphotericin B và ketoconazole được ghi nhận
  2. có thể gây ra biểu hiện này. Thuốc chống trầm cảm: Các thuốc chống trầm cảm 3 vòng như amitriptyline có thể gây biểu hiện run khi vận động ở một số bệnh nhân, triệu chứng này thường giảm dần trong quá trình điều trị. Run cũng là một tác dụng phụ thường gặp nhất của các thuốc ức chế chọn lọc serotonin như fluoxetine, paroxetine (cũng là một nhóm thuốc chống trầm cảm) với tỷ lệ gặp lên tới 20%. Run do nhóm thuốc này thường liên quan đến tư thế, tần số khoảng 6 -12 Hz, xuất hiện sau điều trị 1-2 tháng và giảm dần sau ngưng dùng thuốc khoảng 1 tháng. Run cũng có thể xảy ra khi ngưng dùng đột ngột các thuốc này (hội chứng cai thuốc). Run cũng là một rối loạn vận động thường gặp nhất sau điều trị với lithium với tỷ lệ gặp khoảng 4 - 65%, là nguyên nhân gây run do thuốc thường gặp nhất trên lâm sàng. Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp run do lithium đều nhẹ và không ảnh hưởng đến vận động của người bệnh, thường gặp ở người lớn tuổi hoặc điều trị kéo dài, tần số khoảng 8 -12 Hz, chủ yếu ở tay và thường giảm dần trong quá trình dùng thuốc. Hiện nay, cơ chế gây run của lithium còn chưa được hiểu rõ.
  3. Teo cơ nhị đầu cánh tay gây yếu và run tay. Thuốc chống động kinh: Mặc dù các thuốc chống động kinh có thể được sử dụng trong điều trị một số thể run tiên phát nhưng đa số các thuốc này lại cũng có khả năng gây run. Valproic acid có thể gây run ở khoảng 80% số người dùng thuốc, trong đó, khoảng 25% có biểu hiện rõ rệt trên lâm sàng. Run do valproic acid thường liên quan đến vận động và thay đổi tư thế, có thể run ở cả đầu và thân mình, liên quan với liều dùng và thường giảm dần trong vòng vài tuần sau khi giảm liều hoặc ngưng thuốc. Run do các chế phẩm phóng thích chậm thường nhẹ hơn các dạng thông thường của thuốc. Một số thuốc chống động kinh khác như tiagabine, gabapentin, lamotrigine và oxcarbazepine cũng được ghi nhận gây run ở khoảng 4 – 21% số người dùng thuốc. Thuốc giãn phế quản: Các thuốc cường bêta giao cảm tác dụng nhanh
  4. như salbutamol, isoprenaline, terbutalin được ghi nhận gây run ở khoảng 7 - 20% dùng thuốc. Run do các thuốc này phụ thuộc liều và thường xảy ra sau dùng đường tiêm truyền và đường uống. Các thuốc cường bêta 2 tác dụng kéo dài như salmeterol ít có nguy cơ gây run hơn so với các thuốc kể trên. Theophylline và aminophylline cũng có thể khởi phát tình trạng run tiềm tàng khi được dùng đường tiêm truyền. Thuốc tiêu hoá: Metoclopramide có thể gây biểu hiện run lúc nghỉ, phụ thuộc liều và thường xảy ra ở bệnh nhân suy thận. Cimetidine, misoprostol và muối bismuth cũng được ghi nhận gây run ở một số ít bệnh nhân, thường trong các trường hợp dùng quá liều. Nội tiết tố: Run là một biểu hiện thường gặp khi dùng quá liều levothyroxine và cũng là một trong những tác dụng phụ rất hay gặp của adrenalin (hormon của tuỷ thượng thận) và medroxyprogesterone acetate. Các thuốc an thần: Các thuốc an thần kháng dopamin như thioridazine, fluphenazine và chlorpromazine gây run ở 15 – 60% số người dùng thuốc, có thể run khi vận động hoặc cả lúc nghỉ, phụ thuộc vào thuốc và liều dùng. Các thuốc an thần không điển hình như risperidone, olanzapine, quetiapine và ziprasidone ít gây run hơn các thuốc trên, thường chỉ ở liều cao. Các hoá chất chống ung thư và gây độc tế bào: Thalidomide gây run mức độ nhẹ đến vừa và có hồi phục ở khoảng 36% số người dùng thuốc.
  5. Cytarabine ở liều cao cũng có thể gây run do nhiễm độc tiểu não, nhất là ở những người lớn tuổi. Một số hoá chất khác như ifosfamide, vincristine, cisplatin, tamoxifen cũng được ghi nhận gây run ở một số ít trường hợp. Ciclosporin và tacrolimus là 2 thuốc ức chế miễn dịch thường được sử dụng trong chống thải ghép tạng và các bệnh tự miễn dịch cũng được ghi nhận có thể gây run ở khoảng 10 - 40% số người dùng thuốc. Run do các thuốc này thường ở mức độ nhẹ đến vừa, tăng lên khi vận động. Một số loại thuốc khác: Một số nhóm thuốc khác cũng được ghi nhận rải rác gây ra biểu hiện run là thuốc chẹn kênh canxi (cinnarizine, flunarizine), thuốc hạ huyết áp (methyldopa, reserpine, pindolol) và các thuốc giống giao cảm (ephedrine, pseudoephedrine và phenylpropanolamine). Trong hầu hết các trường hợp, run do thuốc thường đối xứng, xảy ra chủ yếu ở những người lớn tuổi, những người có suy giảm chức năng gan thận hoặc các bệnh lý thực thể ở hệ thần kinh trung ương (như nhồi máu não, bệnh xơ cứng rải rác), những người có tâm lý hay lo lắng hoặc những người phải sử dụng đồng thời nhiều loại thuốc, nhất là những thuốc cùng có khả năng gây run hoặc có nguy cơ tương tác với nhau làm tăng độc tính. Trong xử trí, nếu tình trạng run không ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt và công việc của người bệnh và thuốc đó thực sự cần thiết cho người bệnh, có thể tiếp tục sử dụng thuốc nhưng cần theo dõi chặt chẽ. Nếu mức độ
  6. run nặng dần và ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt của người bệnh, thuốc gây run nên được giảm liều hoặc ngưng sử dụng và thay thế bằng một thuốc khác ít gây run hơn. Nếu thuốc gây run không thể được thay thế, cần phối hợp điều trị triệu chứng run bằng các thuốc như propranolol, thuốc kháng cholinergic hoặc amantadine.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2