Một số vấn đề của tiếng Việt trong khoa học<br />
<br />
Một số vấn đề của tiếng Việt<br />
trong khoa học<br />
Bởi:<br />
TS Đào Hồng Thu<br />
<br />
Nội dung<br />
Theo A.I.Pumpjanski, chỉ báo ngôn ngữ đặc trưng nhất của thời đại phát triển loài người<br />
hiện nay là ngôn ngữ khoa học và phong cách chức năng của nó trong văn bản khoa học.<br />
Phạm vi sử dụng của ngôn ngữ khoa học và phong cách chức năng của nó được mở rộng<br />
tỉ lệ với nhịp độ tăng trưởng của tiến bộ khoa học - kĩ thuật. Hiện nay, việc mô tả các hệ<br />
thống ngôn ngữ hiện đại không còn có ý nghĩa nếu không tính đến ngôn ngữ khoa học<br />
và vai trò của nó trong cuộc sống xã hội hiện đại .<br />
Tiếng Việt như là một ngôn ngữ luôn gắn liền với sự phát triển của xã hội Việt Nam,<br />
chịu tác động to lớn và mạnh mẽ của các tiến trình phát triển của Việt Nam. Tiếng Việt<br />
trong các lĩnh vực của khoa học (được gọi tắt là tiếng Việt khoa học) là yếu tố đặc biệt<br />
quan trọng cần được hình thành và phát triển mạnh trong giai đoạn hiện nay. Trong<br />
khuôn khổ bài báo, vấn đề được đề cập là tiếng Việt khoa học cho sinh viên và học sinh.<br />
Chúng ta thấy rằng đã có nhiều bài báo, các công trình nghiên cứu về tầm quan trọng,<br />
chức năng và sự phát triển của tiếng Việt trên các bình diện khác nhau, đặc biệt là trong<br />
văn học - nghệ thuật và văn hóa - xã hội. Trong lĩnh vực khoa học kĩ thuật, ngay từ<br />
những năm 60 của thế kỉ XX đã có những bài báo đề cập đến chức năng và tầm quan<br />
trọng của nó như "Tiếng Việt trong khoa học cơ bản" (Ngụy Như Kontum), "Xây dựng<br />
thuật ngữ khoa học bằng tiếng Việt" (Lê Khả Kế), "Dùng tiếng Việt trong các ngành<br />
khoa học kĩ thuật ở trường Đại học Bách khoa Hà Nội" (Phạm Đồng Điện) và v.v.<br />
Các công trình nghiên cứu cho thấy ngôn ngữ dân tộc phản ánh rất rõ nét tiến trình phát<br />
triển xã hội của dân tộc sử dụng ngôn ngữ đó. Với một nền khoa học kĩ thuật non trẻ<br />
thời ban đầu những năm 60, tiếng Việt trong khoa học kĩ thuật nghiên cứu và sử dụng<br />
mới chỉ ở dạng các thuật ngữ chuyên ngành với một số từ điển thuộc lĩnh vực khoa học<br />
kĩ thuật.<br />
Vấn đề tiếng Việt khoa học cho đến nay chủ yếu là do các nhà lãnh đạo hoặc quản lí khối<br />
ngành khoa học đề cập tới. Trong những năm 60, các nhà khoa học thuộc khối khoa học<br />
1/6<br />
<br />
Một số vấn đề của tiếng Việt trong khoa học<br />
<br />
kĩ thuật đã sử dụng thuật ngữ "tiếng Việt trong khoa học cơ bản" (Ngụy Như Kontum),<br />
"tiếng Việt trong các ngành khoa học kĩ thuật" (Phạm Đồng Điện), "Thuật ngữ khoa học<br />
bằng tiếng Việt" (Lê Khả Kế). Trong tuyển tập "một số vấn đề ngôn ngữ học Việt Nam"<br />
(Nhà xuất bản ĐH và THCN, Hà Nội, 1981), tác giả bài "Lược thuật hội nghị ngôn ngữ<br />
học trong các trường đại học" Nguyễn Khắc Thi đã sử dụng thuật ngữ "ngôn ngữ khoa<br />
học kĩ thuật" ….<br />
Trong tất cả các loại từ điển tiếng Việt cho đến năm 2003 chưa có định nghĩa cho thuật<br />
ngữ "ngôn ngữ khoa học", mặc dù đã có định nghĩa cho ngôn ngữ hình thức, ngôn ngữ<br />
văn học, ngôn ngữ điện ảnh và v.v. Để dẫn nhập các khái niệm "ngôn ngữ khoa học" và<br />
"tiếng Việt khoa học", cần xuất phát từ các định nghĩa về ngôn ngữ và tiếng Việt một<br />
cách khái quát. Ở đây, chúng tôi trình bày cụ thể các định nghĩa trong ba loại từ điển<br />
điển hình tại các thời kì phát triển xã hội khác nhau:<br />
• Từ điển Việt Nam phổ thông. Đào Văn Tập, nhà sách Vĩnh Bảo - Sài Gòn, 1951.<br />
- Ngôn ngữ : Nói năng (khoa ngôn ngữ)<br />
- Tiếng : 1. Âm thanh phát ra (tiếng động, tiếng đàn)<br />
2. Ngôn ngữ (tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Nga)<br />
3. Lời phê bình của công chúng (tiếng hay, tiếng xấu)<br />
• Từ điển tiếng Việt. Văn Tân (chủ biên), Nxb. KHXH, Hà Nội, 1991.<br />
- Ngôn ngữ : 1. Công cụ biểu thị ý nghĩ dùng để giao tiếp giữa người và người, thực<br />
hiện nhờ hệ thống những phương tiện âm thanh, từ ngữ và ngữ pháp (Người là giống<br />
duy nhất có ngôn ngữ)<br />
2. Cách sử dụng các chức năng nói trên, thường biểu hiện của phẩm chất đạo đức, trình<br />
độ văn hóa … (Phải luôn chú ý đến ngôn ngữ cử chỉ)<br />
• Từ điển tiếng Việt. Hoàng Phê (chủ biên), Nxb.KHXH, Trung tâm Từ điển học, Hà<br />
Nội - Đà Nẵng, 2000.<br />
- Ngôn ngữ : 1. Hệ thống ngữ âm, những từ và những quy tắc kết hợp chúng mà những<br />
người trong cùng một cộng đồng dùng làm phương tiện để giao tiếp với nhau (Tiếng<br />
Nga và tiếng Việt là hai ngôn ngữ rất khác nhau).<br />
2. Hệ thống kí hiệu dùng làm phương tiện để diễn đạt, thông báo (Ngôn ngữ điện ảnh.<br />
Ngôn ngữ hội họa. Ngôn ngữ của loài ong.)<br />
<br />
2/6<br />
<br />
Một số vấn đề của tiếng Việt trong khoa học<br />
<br />
3. Cách thức, nghệ thuật hay trình độ sử dụng ngôn ngữ có tính chất riêng (Ngôn ngữ<br />
Nguyễn Du. Ngôn ngữ trẻ con. Ngôn ngữ báo chí.)<br />
- Tiếng : 1. Cái mà tai có thể nghe được (Tiếng đàn. Tiếng cười.)<br />
2. Âm tiết trong tiếng Việt, là đơn vị thường có nghĩa, dùng trong chuỗi lời nói (Tiếng<br />
được, tiếng mất. Thơ lục bát gồm 14 tiếng.)<br />
3. Ngôn ngữ cụ thể nào đó (Tiếng Việt. Biết nhiều thứ tiếng.)<br />
4. Giọng nói riêng của một người hay cách phát âm riêng của một vùng nào đó (Tiếng<br />
trầm trầm. Tiếng miền Nam.)<br />
5. Lời nói của một cá nhân nào đó (Có tiếng người.)<br />
6. Lời bàn tán, khen chê, sự đánh giá trong dư luận xã hội (Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ<br />
đồn xa. Bưởi ngon có tiếng.)<br />
Từ đây, có thể đưa ra các khái niệm sau :<br />
- Ngôn ngữ khoa học :<br />
1. Hệ thống các âm, các từ và các quy tắc kết hợp chúng mà những người trong cùng<br />
một cộng đồng và cùng một lĩnh vực hoạt động khoa học dùng làm phương tiện để giao<br />
tiếp với nhau (Tiếng Việt trong lĩnh vực khoa học là ngôn ngữ khoa học.).<br />
2. Hệ thống kí hiệu dùng làm phương tiện để diễn đạt, thông báo (Ngôn ngữ hình học.<br />
Ngôn ngữ toán.)<br />
- Tiếng Việt khoa học : Ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam được sử dụng trong lĩnh vực<br />
khoa học (Tiếng Việt khoa học kĩ thuật.).<br />
Đối với Đại học Bách khoa Hà Nội, ngay từ khi thành lập trường, việc sử dụng giảng<br />
dạy bằng tiếng Việt là đương nhiên. Tuy nhiên, khó khăn là ở chỗ cơ sở của một hệ<br />
thống thuật ngữ bằng tiếng Việt gần như không có. Với một nền kĩ thuật còn lạc hậu,<br />
các thuật ngữ kĩ thuật ở giai đoạn giảng dạy đại học đầu tiên này còn ít về số lượng,<br />
thiếu khoa học về chất lượng. Phần lớn thuật ngữ kĩ thuật là từ Hán - Việt, thiếu tính<br />
chất Việt hoặc là từ tiếng Việt nhưng thiếu độ chính xác và khoa học. Bắt đầu từ năm<br />
1965, cán bộ giảng dạy các bộ môn kĩ thuật của Trường đã làm việc hết sức mình để xây<br />
dựng được một hệ thống thuật ngữ kĩ thuật cơ bản bằng cách dựa vào bản chất từng hiện<br />
tượng, tính chất, nguyên tắc và công dụng từng thiết bị. Có thể nói rằng trong giai đoạn<br />
từ 1965 đến 1975, cán bộ khối khoa học kĩ thuật đã rất thành công trong việc xây dựng<br />
một hệ thống thuật ngữ bằng tiếng Việt trong phạm vi kĩ thuật. Đây là một bước ngoặt<br />
lớn trong sự phát triển xã hội Việt Nam.<br />
3/6<br />
<br />
Một số vấn đề của tiếng Việt trong khoa học<br />
<br />
Từ 1976 đến 1990 là giai đoạn đất nước sau thống nhất. Ở giai đoạn này, biện pháp chủ<br />
yếu là chuẩn hóa tiếng Việt để phục vụ có hiệu quả cho các nhiệm vụ cụ thể của đất<br />
nước trong thời kì tái thiết. Các hội nghị khoa học về ngôn ngữ đã được tổ chức tại Hà<br />
Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trong lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy tiếng Việt, vấn<br />
đề chuẩn hóa và thống nhất hệ thống thuật ngữ khoa học được đặc biệt chú ý. Cố Thủ<br />
tướng Phạm Văn Đồng đã chỉ thị :"Phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và làm cho<br />
tiếng Việt ngày càng phát triển, có khả năng thích nghi với sự phát triển của thời đại, đặc<br />
biệt là sự phát triển của khoa học và kĩ thuật." (Trích bài phát biểu của GS.Đặng Hữu tại<br />
Hội nghị Ngôn ngữ học của ngành đại học lần I vào tháng 1 năm 1978 tại thành phố Hồ<br />
Chí Minh). Trong giai đoạn phát triển này, vấn đề nóng bỏng được đặt ra trên phạm vi<br />
cả nước là xây dựng, thống nhất và chuẩn hóa hệ thống ngôn ngữ khoa học và liên quan<br />
là vấn đề mượn từ và âm của các ngôn ngữ khác, trong đó có vấn đề về phiên chuyển từ<br />
ngữ khoa học nước ngoài.<br />
Từ 1991 đến nay, cùng với sự phát triển về kinh tế và xã hội, ngôn ngữ dân tộc bước<br />
vào giai đoạn mới. Tiếng Việt khoa học không còn dừng lại ở các thuật ngữ riêng biệt<br />
mà đã có nhiều văn bản dưới dạng bài dịch từ tiếng Anh, các báo cáo khoa học chuyên<br />
ngành. Tuy nhiên, cần phải nói rằng cách hành văn theo phong cách ngôn ngữ khoa học<br />
còn chưa được chú trọng. Các hội nghị về ngôn ngữ học ở giai đoạn này được tổ chức<br />
khá phong phú về hình thức và nội dung song chưa có những nghiên cứu đầy đủ về ngôn<br />
ngữ khoa học và tiếng Việt khoa học, chưa có giải pháp cho giáo dục ngôn ngữ khoa<br />
học và tiếng Việt khoa học trong trường phổ thông và đại học.<br />
Theo các tác giả của cuốn từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1992 thì trong vòng 5 năm,<br />
tính từ khi Việt Nam mở cửa nền kinh tế thị trường đã xuất hiện trên 2000 đơn vị từ<br />
mới, phần nhiều có nguồn gốc vay mượn từ các tiếng nước ngoài. Theo nghiên cứu của<br />
chúng tôi, khoảng 70% đơn vị từ mới trong số đó là các thuật ngữ thuộc các lĩnh vực<br />
khoa học kĩ thuật và công nghệ. Và cho đến nay, lượng đơn vị từ mới là các thuật ngữ<br />
trên ngày càng gia tăng một cách đáng kể, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin.<br />
Sự phát triển của xã hội công nghiệp đòi hỏi phát triển chức năng của ngôn ngữ dân tộc<br />
và cần tạo ra một sự đồng dạng trong hệ thống giao tiếp của các quốc gia có liên quan.<br />
Và chính xã hội công nghiệp, trong điều kiện giao lưu quốc tế rộng rãi giữa các quốc gia<br />
đang đem lại cho ngôn ngữ mỗi dân tộc những phát triển mới và những giao thoa mới.<br />
Từ đây, có thể thấy rằng tiếng Việt khoa học đóng góp trực tiếp vào những tiến bộ của<br />
khoa học hiện đại và chịu tác động to lớn của sự phát triển các ngành khoa học hiện đại.<br />
Trong quá trình hội nhập quốc tế, việc phổ biến tiếng Việt khoa học cho sinh viên, đặc<br />
biệt là sinh viên các trường kĩ thuật, là vô cùng cần thiết. Sở dĩ chúng tôi đặt vấn đề như<br />
vậy là bởi vì thí sinh thi vào các trường kĩ thuật phần lớn không chú ý đến môn tiếng<br />
Việt ngay từ những năm học phổ thông, và bởi vì tiếng Việt khoa học và phong cách<br />
ngôn ngữ của nó không được coi như một môn học trong các trường kĩ thuật. Và như<br />
vậy, nếu nhìn từ góc độ đầu tư thì bất kì quá trình chuyển giao công nghệ nào cũng đều<br />
<br />
4/6<br />
<br />
Một số vấn đề của tiếng Việt trong khoa học<br />
<br />
cần tiếng mẹ đẻ, ở đây là tiếng Việt khoa học, làm xuất phát điểm. Thậm chí có thể nhận<br />
thấy rằng tiếng Việt khoa học sẽ giúp người học, ví dụ, tiếng Anh khoa học tiếp nhận<br />
kiến thức cần thiết một cách dễ dàng hơn.<br />
Việc phát triển và chuẩn hóa tiếng Việt khoa học là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong<br />
việc tạo lập các hệ thống thuật ngữ khoa học chuyên ngành bằng tiếng Việt khoa học<br />
(vay mượn tiếng Hán, Pháp, Anh …). Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy cần nhấn mạnh sự<br />
định hướng và tham gia một cách có ý thức của con người vào quá trình phát triển của<br />
ngôn ngữ. Tiếng Việt có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp giáo dục ở các cấp<br />
từ phổ thông đến đại học, nâng cao dân trí và truyền bá các kiến thức. Để nắm vững và<br />
nâng cao kiến thức khoa học, điều tất nhiên là sinh viên cần phải có kiến thức về ngôn<br />
ngữ của khoa học, tức là tiếng Việt khoa học.<br />
Dưới đây là các ví dụ về việc sử dụng tiếng Việt khoa học:<br />
- Các sách có sử dụng từ và cụm từ mang yếu tố của phong cách ngôn ngữ khoa học:<br />
• Tiếng Việt lớp 1 tập 1&2 dưới dạng các từ, câu, bài viết và thơ có liên quan đến cuộc<br />
sống hàng ngày như: cái đe, ôtô, canô, xe lu, máy bay, máy cày, nhà máy, trái đất (Tí đi<br />
ôtô. Em đi máy bay.)<br />
• Tiếng Việt lớp 1 tập 1, lớp 3 tập 2 dưới dạng bài viết, bài thơ về ngành nghề liên quan<br />
đến khoa học kĩ thuật và công nghệ.<br />
- Tiếng Việt khoa học được giới thiệu trong các sách giáo khoa:<br />
• Tiếng Việt lớp 4 tập 2 dưới dạng giới thiệu một số thuật ngữ và khái niệm về khoa học<br />
và kĩ thuật.<br />
• Tiếng Việt lớp 9 dưới dạng giới thiệu sơ lược sự phân loại và đặc điểm chung của văn<br />
bản khoa học. Phần luyện tập không có bài tập cho văn bản khoa học kĩ thuật và công<br />
nghệ.<br />
• Tiếng Việt lớp 11 ở dạng giới thiệu phong cách ngôn ngữ khoa học một cách ngắn gọn<br />
(một tiết học). Phần bài tập có một câu hỏi về so sánh với phong cách ngôn ngữ chính<br />
luận.<br />
- Một vài ví dụ về cách viết câu trong văn bản khoa học bằng tiếng Việt và dịch Anh Việt không đúng của sinh viên thuộc khối kĩ thuật:<br />
• Những thuận lợi của việc tạo xỉ trong lò điện hồ quang đã được chứng minh. Bao gồm<br />
các yếu tố sau: …. Sự tăng chiều dài hồ quang yếu tố đó cho phép tăng điện thế hồ quang<br />
lớn hơn, bởi vậy đưa đến hiện tại tăng khả năng di chuyển tới bể chứa, với một ít năng<br />
<br />
5/6<br />
<br />