intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số vướng mắc trong đấu giá tài sản thi hành án dân sự và giải pháp nhằm hoàn thiện

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

2
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết nêu lên thực trạng về công tác đấu giá tài sản thi hành án dân sự hiện nay, tác giả nêu ra các quy định pháp luật hiện hành về đấu giá tài sản; Tiếp đến bài viết đã phân tích một số các vướng mắc, bất cập cụ thể đối với việc đấu giá tài sản thi hành án dân sự, đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như hoàn thiện công tác đấu giá tài sản thi hành án dân sự, một loại tài sản truyền thống và chiếm số lượng rất nhiều trong các cuộc đấu giá hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số vướng mắc trong đấu giá tài sản thi hành án dân sự và giải pháp nhằm hoàn thiện

  1. MỘT SỐ VƯỚNG MẮC TRONG ĐẤU GIÁ TÀI SẢN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN Nguyễn Tiến Lực 1 1. Khoa học quản lý Trường Đại học Thủ Dầu Một TÓM TẮT Bài viết nêu lên thực trạng về công tác đấu giá tài sản thi hành án dân sự hiện nay, tác giả nêu ra các quy định pháp luật hiện hành về đấu giá tài sản, trong đó tập trung vào đấu giá tài sản thi hành án dân sự, một loại tài sản đặc thù. Tiếp đến bài viết đã phân tích một số các vướng mắc, bất cập cụ thể đối với việc đấu giá tài sản thi hành án dân sự, tác giả đã nêu lên thực trạng cũng như phân tích các minh chứng nhằm tìm ra các điểm bất cập, vướng mắc trong công tác đấu giá loại tài sản đặc thù này và từ đó, tác giả bài viết đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như hoàn thiện công tác đấu giá tài sản thi hành án dân sự, một loại tài sản truyền thống và chiếm số lượng rất nhiều trong các cuộc đấu giá hiện nay. Từ khóa: Đấu giá tài sản; thi hành án dân sự 1. ĐẶT VẤN ĐỀ: “Tài sản thi hành án dân sự là một trong những loại tài sản đấu giá truyền thống trong hoạt động đấu giá tài sản của Việt Nam. Việc bán tài sản thi hành án dân sự không chỉ có ý nghĩa đơn thuần là đấu giá tài sản mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án được thi hành trên thực tế”65. Trải qua quá trình nghiên cứu, tác giả bài viết nhận thấy các quy định pháp về đấu giá tài sản nói chung và quy định pháp luật đấu giá tài sản thi hành án dân sự nói riêng đã đáp ứng được nhu cầu đặt ra hiện nay. Và đặc biệt, có rất nhiều quy định pháp luật mang tính đặc thù đối với tài sản thi hành án khi đem ra đấu giá, những đặc thù này nó thể hiện rõ nét về việc bảo vệ quyền con người trong các quy định pháp luật về đấu giá tài sản thi hành án dân sự. Những quy định đặc thù đó được hiện như sau: Tài sản nào được kê biên và tài sản nào không được kê biên được quy định tại Điều 87 Luật thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014, 2018 nếu tài sản không được kê biên thì đương nhiên không được đưa ra đấu giá; Điều kiện kê biên một số tài sản như quyền sử dụng đất, kê biên nhà ở, kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp, cưỡng chế tài sản thuộc sở hữu chung; Cưỡng chế tài sản thuộc sở hữu của hộ gia đình, vấn đề về biên bản kê biên; tạm giao khai thác, quản lý, sử dụng diện tích đất đã kê biên; Các hình thức định giá tài sản, 65 Học viện Tư pháp (2020), Giáo trình nghiệp vụ đấu giá tài sản, (Tập 1 – Phần Chung), NXB. Tư pháp, tr.371. 749
  2. thủ tục định giá lại; Tài sản thuộc diện đấu giá; Ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản; Thời hạn đấu giá; Người phải thi hành án xin nhận lại tài sản; Vấn đề chuyển giao quyền sở hữu, sử dụng cho người mua được tài sản bán đấu giá… Tuy nhiên, khi áp dụng các quy định đặc thù nói trên từ các quy định pháp luật về thi hành án dân sự, cũng như những quy định từ Luật đấu giá tài sản năm 2016, các tổ chức đấu giá tài sản cũng gặp không ít những khó khăn, vướng mắc. Với mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu về các quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng về đấu giá tài sản thi hành án dân sự hiện nay, cũng như các quy định của Luật đấu giá tài sản năm 2016 về đấu giá tài sản thi hành án dân sự, để phân tích, đánh giá nhằm tìm ra những điểm hợp lý, tích cực cũng như những điểm còn bất cập, vướng mắc trong các quy định hiện hành của Luật thi hành án dân sự cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành, cũng như những vướng mắc, bất cập khi áp dụng các quy định pháp luật trong hoạt động đấu giá tài sản thi hành án dân sự, để từ đó đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm làm cho các quy định pháp luật về lĩnh vực này được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho các bên đương sự yên tâm tham gia đấu giá tài sản thi hành án, cũng như là bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của người phải thi hành án, giúp cho hoạt động đấu giá tài sản trong lĩnh vực này ngày càng phát triển. Đồng thời đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế những vướng mắc, bất cập trong việc tổ chức đấu giá của các Tổ chức đấu giá nhằm giảm bớt những khó khăn, vướng mắc mà các tổ chức đấu giá tài sản đang gặp phải. Với lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Một số vướng mắc trong đấu giá tài sản thi hành án dân sự và giải pháp nhằm hoàn thiện” để nghiên cứu. 2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định pháp luật về đấu giá tài sản thi hành án dân sự được quy định trong Luật thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014, 2018. Nghị định số 62/2015/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP, Luật đấu giá tài sản năm 2016, cũng như thông qua một số tình huống thực tế nhằm làm rõ những vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn đấu giá tài sản thi hành án dân sự, từ đó, tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong việc đấu giá loại tài sản này của các tổ chức đấu giá và hướng tới việc đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế, loại bỏ những khó khăn, vướng mắc của các tổ chức đấu giá tài sản khi tiến hành đấu giá tài sản thi hành án dân sự. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện bài viết này, tác giả đã sử dụng xuyên suốt phương pháp phân tích, chứng minh và tổng hợp nhằm làm rõ vấn đề cần nghiên cứu. Cụ thể, trong các phần của mục 1. Những vấn đề lý luận chung về đấu giá tài sản thi hành án dân sự, tác giả sử dụng các phương pháp phân tích, dẫn giải để làm rõ các vấn đề về lý luận về đấu giá tài sản nói chung, tài sản thi hành án dân sự nói riêng. Tiếp đến tại mục 2. Những khó khăn, vướng mắc của Tổ chức đấu giá tài sản trong việc đấu giá tài sản thi hành án dân sự và một số giải pháp nhằm khắc phục tác giả bài viết sử dụng các phương pháp phân tích, thông qua các minh chứng là các vụ việc cụ thể nhằm làm sáng tỏ đối tượng cần nghiên cứu. 750
  3. 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Những vấn đề lý luận chung về đấu giá tài sản thi hành án dân sự * Khái niệm về đấu giá tài sản Theo Đại từ điển Bách khoa Việt Nam: “Đấu giá là hình thức bán những hàng hóa hoặc tài sản thường thuộc loại đắt tiền, hàng quý hiếm. Người bán đặt mức giá chuẩn, những người mua trả giá từ thấp đến cao, hàng hóa được bán cho người mua trả giá cao nhất”66. Theo Khoản 2 Điều 5 Luật Đấu giá tài sản năm 2016: “Đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản có từ hai người trở lên tham gia theo nguyên tắc, trình tự và thủ tục được quy định tại Luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 49 của Luật này”. Như vậy, với cách tiếp cận của khái niệm nêu trên thì có thể xác định được khái niệm đấu giá tài sản là cách thức bán tài sản thông qua đấu giá với các tiêu chí cơ bản để nhận dạng: (i) Đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản được tổ chức công khai theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục luật định. (ii) Chủ thể tham gia vào hoạt động đấu giá bao gồm bên đấu giá và bên mua tài sản đấu giá. (iii) Phải có ít nhất hai người tham gia đấu giá và người được mua tài sản là người trả giá cao nhất. *Đặc điểm của đấu giá tài sản Để nhận diện được quy trình đấu giá tài sản có gì khác với bán tài sản thông thường cần xác định được đặc điểm của đấu giá tài sản: Quan hệ đấu giá tài sản được xác lập giữa các bên: Bên bán và bên mua thông qua một tổ chức đấu giá trung gian. Trong hoạt động bán tài sản thông thường thì chỉ có 02 bên tham gia vào quan hệ mua bán, đó là: bên mua và bên bán. Còn khi xác định các bên tham gia vào quan hệ về đấu giá tài sản cho thấy có bên bán, bên mua và thông qua một tổ chức đấu giá trung gian; Tổ chức có chức năng đấu giá phải là cá nhân, pháp nhân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép hoạt động đấu giá; Người trực tiếp điều hành cuộc đấu giá là Đấu giá viên. Để trở thành Đấu giá viên phải đáp ứng các tiêu chuẩn nhất định mới được cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá; Tài sản đấu giá là tài sản được đưa đấu giá bắt buộc theo quy định của pháp luật và tài sản của tổ chức, cá nhân tự nguyện đưa ra đấu giá; Đấu giá tài sản được tổ chức theo nguyên tắc công khai, tuân theo hình thức, trình tự, thủ tục luật định; Phải có ít nhất hai người tham gia đấu giá và người mua được tài sản được xác định phải là người trả giá cao nhất, người đầu tiên chấp nhận giá theo phương thức đấu giá luật định. 4.2. Khái niệm thi hành án dân sự, pháp luật thi hành án dân sự, đặc điểm *Khái niệm thi hành án dân sự Xuất phát từ nguyên tắc hiến định “bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”67. Vậy nên hoạt động thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ quá trình giải quyết vụ án bởi vì bản án, quyết định chỉ có ý nghĩa khi nó được thi hành trên thực tiễn. Từ đó, quyền và lợi ích hợp 66 Nguyễn Như Ý (1999): Đại từ điển tiếng Việt, NXB. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.95. 67 Điều 6 Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2014. 751
  4. pháp của các đương sự vì thế cũng được bảo vệ một cách trọn vẹn, đầy đủ hơn. Do vậy, thi hành án dân sự có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các đương sự đồng thời có tác dụng củng cố kết quả xét xử cũng như hiệu quả của các bản án, quyết định góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thi hành án dân sự là việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định được đưa ra thi hành theo quy định của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. * Pháp luật thi hành án dân sự Nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, lợi ích của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và các cá nhân khác có liên quan đến quá trình thi hành án dân sự cũng như hiệu quả của hoạt động thi hành án dân sự, việc ban hành các quy phạm pháp luật quy định cụ thể về những vấn đề có liên quan phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành án là rất cần thiết. Luật thi hành án dân sự đã được hình thành dựa trên tổng hợp các quy phạm pháp luật này. Luật thi hành án dân sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa Cơ quan thi hành án dân sự, đương sự, cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan đến việc thi hành án dân sự, phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự nhằm bảo đảm việc thi hành án dân sự có hiệu quả, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. * Đặc điểm của bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự Cở sở pháp lý để thực hiện bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự dựa trên bản án, quyết định có hiệu lực thi hành của các chủ thể có thẩm quyền xét xử. Người có thẩm quyền đưa tài sản thi hành án dân sự ra bán đấu giá không phải là chủ sở hữu tài sản mà là một chủ thể có thẩm quyền tổ chức thi hành án dân sự được Nhà nước trao quyền. Tài sản thi hành án được đưa ra đấu giá phải được kê biên, định giá theo trình tự, thủ tục luật định của pháp luật thi hành án dân sự Trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự mang tính cưỡng chế Nhà nước. 4.3. Những khó khăn, vướng mắc của Tổ chức đấu giá tài sản trong việc đấu giá tài sản thi hành án dân sự và một số giải pháp nhằm khắc phục Thứ nhất, khó khăn, vướng mắc liên quan đến trường hợp Chấp hành viên khi kê biên xong tài sản đã quên không áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, và quá trình không thu được giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng. Đó là những trường hợp Chấp hành viên vì những lý do nào đó, sau khi kê biên tài sản nhưng lại không thông báo cho các cơ quan đăng ký quyền sở hữu, cũng như hệ thống văn phòng công chứng trên địa bàn nơi có đất, điều này dẫn đến trường hợp người phải thi hành án vẫn còn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chính việc cơ quan thi hành án không gửi thông tin cho các cơ quan có liên quan theo quy định tại Điều 69 Luật thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014, 2018 như vậy, các Văn phòng công chứng họ vẫn chứng bình thường vì không có biện pháp bảo đảm, không có biện pháp ngăn chặn. Có trường hợp Chấp hành viên vẫn ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản với tổ chức đấu giá tài sản và vẫn xác 752
  5. định được người trúng đấu giá. Đến khi bàn giao tài sản đấu giá cho người trúng đấu giá, khi tiến hành xác minh thì đó không phải là người phải thi hành án và tài sản đã sang tên cho chủ mới. Như vậy, nếu gặp tình huống này xảy ra thì Tổ chức đấu giá đã mất rất nhiều công sức bỏ ra nhưng cuối cùng thì bị dừng lại và không biết khi nào mới xong. Kiến nghị nhằm hoàn thiện: Theo tác giả, nhằm tránh những rủi ro từ việc bất cẩn của phía Chấp hành viên của Cơ quan thì hành án khi kê biên tài, đồng thời tránh làm mất thời gian, công sức của tổ chức đấu giá tài. Đối với những trường hợp mà Chấp hành viên khi kê biên tài sản mà không thu được giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng thì Tổ chức đấu giá thường xuyên phải kiểm tra qua hệ thống các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và hệ thống các Tổ chức công chứng để xác định xem có việc Cơ quan thi hành án dân sự có gửi quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản hay không. Việc làm trên đây của các tổ chức đấu giá nó vừa thể hiện ý thức trách nhiệm nghề nghiệp vừa bảo vệ được chính tổ chức đấu giá tài sản. Bởi lẽ, khi xảy ra sự việc nêu trên thì tổ chức đấu giá sẽ bị kéo vào vòng xoáy, mất thời gian, công sức. Thứ hai, khó khăn, vướng mắc khi xác định các giấy tờ pháp lý cơ bản mà Chấp hành viên phải cung cấp cho tổ chức đấu giá trước khi ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản thi hành án Theo quy định tại khoản 2 và 3 Điều 33 Luật đấu giá tài sản năm 2016 thì:“2.Khi ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, người có tài sản đấu giá có trách nhiệm cung cấp cho tổ chức đấu giá tài sản bằng chứng chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc quyền được bán tài sản theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về bằng chứng đó. Tổ chức đấu giá tài sản có trách nhiệm kiểm tra thông tin về quyền được bán tài sản do người có tài sản đấu giá cung cấp; 3. Tổ chức đấu giá tài sản có trách nhiệm kiểm tra thông tin về quyền được bán tài sản do người có tài sản đấu giá cung cấp. Tổ chức đấu giá tài sản không chịu trách nhiệm về giá trị, chất lượng của tài sản đấu giá, trừ trường hợp tổ chức đấu giá tài sản không thông báo đầy đủ, chính xác cho người tham gia đấu giá những thông tin cần thiết có liên quan đến giá trị, chất lượng của tài sản đấu giá theo hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản”. Tác giả nhận thấy Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như Luật Đấu giá tài sản năm 2016 hiện chưa có bất cứ sự điều chỉnh nào về vấn đề Chấp hành viên của Cơ quan thi hành án dân sự khi ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản cần phải cung cấp những giấy tờ, tài liệu gì. Điều này cũng có nghĩa là Tổ chức đấu giá phải dựa trên những đặc điểm cơ bản của tài sản thi hành án dân sự mà tự đưa ra những giấy tờ được xem là bảo đảm cho quá trình tổ chức đấu giá. Như chúng ta đã biết, tài sản thi hành án dân sự đem ra đấu giá có thể nói đây loại tài sản đặc thù, chứa đựng rất nhiều rủi ro, phức tạp, điều này đòi hỏi khi xem xét hồ sơ giấy tờ, đòi hỏi các tổ chức đấu giá phải có sự đánh giá chính xác đối với các loại giấy tờ tài liệu được cung cấp từ phía Chấp hành viên nhằm đảm bảo những giấy tờ, tài liệu đó đáp ứng đầy đủ, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia đấu giá, đặc biết là người trúng đấu giá tài sản thi hành án dân sự. Tuy nhiên, vấn đề này hiện nay chưa được sự điều chỉnh hoặc hướng dẫn từ phía các cơ quan có thẩm quyền dẫn đến việc yêu cầu các loại giấy tờ, tài liệu của các tổ chức đấu giá mỗi nơi làm một kiểu, thiếu sự nhất quán, đồng bộ, điều này đòi hỏi cần có sự điều chỉnh từ 753
  6. chính các quy định pháp luật chuyển ngành cũng như Luật đấu giá tài sản nhằm tạo hành lang pháp lý an toàn, đồng bộ, giúp cho quá ký kết hợp đồng dịch vụ giữa cơ quan thi hành án dân sự với tổ chức đấu giá được mình bạch, chuyên nghiệp hơn. Tình huống thực tiễn68 “Bản án số 235/2017/DSPT ngày 04/5/2017 đã có hiệu lực pháp luật của TAND thành phố P với nội dung:“Buộc bà Lê Thị M phải thanh toán cho ông Nguyễn Văn T số tiền 1.700.000.000 đồng và lãi suất chậm thi hành án ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật”. Căn cứ đơn yêu cầu của ông Nguyễn Văn T, Cục trưởng Cục thi hành án dân sự thành phố P đã ra Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 12/2017/QĐ- CCTHA ngày 23/5/2017. Chấp hành viên Nguyễn Văn A sau khi tiến hành các thủ tục về thi hành án đã ra Quyết định kê biên tài sản số 15/2017/QĐ-CCTHA ngày 25/7/2017 với nội dung:“Kê biên toàn bộ quyền sử dụng 180m2 đất ở thuộc thửa số 5, tờ bản đồ số 1, tại phường A, quận B, thành phố H thuộc quyền sử dụng của vợ chồng ông Phạm Văn B và Nguyễn Thị M theo Giấy chứng nhận QSDĐ số AB222 do UBND quận B cấp ngày 05/7/2009”. Trong khi tổ chức cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất, Chấp hành viên A chỉ tiến hành kê biên được tài sản là quyền sử dụng đất mà không thu giữ được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của người phải thi hành án là bà Lê Thị M. Vì vậy, trong hồ sơ ban đầu Chấp hành viên A cung cấp cho tổ chức đấu giá không có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án là bà M. Căn cứ vào khoản 4, Điều 106, Luật thi hành án dân sự nếu không thu hồi được giấy chứng nhận thì cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai”. Như vậy, Chấp hành viên A khi đưa tài sản của người phải thi hành ra đấu giá không phải cung cấp các giấy tờ về quyền sở hữu đối với tài sản nếu trong quá trình thi hành án không thu giữ được giấy tờ này.Việc không thu giữ được các giấy tờ liên quan đến quyền sở hữu đối với tài sản thi hành án dân sự làm cho tổ chức đấu giá rất khó khăn trong việc xác định chính xác tài sản kê biên có phải là tài sản của người phải thi hành án hay không? Vì trong thực tế đã có trường hợp Chấp hành viên kê biên vào tài sản không phải là tài sản của người phải thi hành án. Những trường hợp như thế này, tổ chức đấu giá sẽ từ chối ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản với Chấp hành viên. Kiến nghị nhằm hoàn thiện: Tài sản thi hành án dân sự được xem là loại tài sản đặc thù, tác giả bài viết nhận thấy đối với việc đấu giá tài sản thi hành án dân sự rất dễ xảy ra khiếu nại, và đặc biệt rất khó khăn để giao tài sản khi đã đấu giá thành. Chính vì vậy, tâm lý của người dân rất e ngại khi đăng ký tham gia đấu giá. Nhằm đồng bộ hóa các quy định của pháp luật, tạo hành lang pháp lý an toàn cho các tổ chức đấu giá tài sản khi tổ chức đấu giá loại tài sản này, thiết nghĩ, các cơ quan có thẩm quyền cần nhanh chóng ban hành hoặc có hướng dẫn chi tiết, cụ thể về các thông tin, tài liệu cần thiết để yêu cầu người có tài sản đấu giá cung cấp mà cụ thể là Chấp hành viên. Có như vậy sẽ tránh được việc mỗi tổ chức đấu giá lại có những yêu cầu khác nhau về tài liệu, giấy tờ đối với phía Chấp hành viên. Đồng thời nó cũng là hành lang pháp ý vững chắc cho các chủ thể, trong đó có các tổ chức đấu giá, Chấp hành viên của các Cơ quan thi hành án dân sự sẽ nắm được các loại giấy tờ, tài liệu cụ thể nào cần phải có trong thành phần hồ sơ pháp lý của tài sản. 68 Bản án số 235/2017/DSPT ngày 04/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về tranh chấp yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá tài sản. 754
  7. Thứ ba, khó khăn, vướng mắc trong trường hợp Người phải thi hành án xin nhận lại tài sản đấu giá Theo quy định tại Khoản 5 Điều 101 Luật thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014, 2018 được thể hiện như sau: “5. Trước khi mở cuộc bán đấu giá 01 ngày làm việc, người phải thi hành án có quyền nhận lại tài sản nếu nộp đủ tiền thi hành án và thanh toán các chi phí thực tế, hợp lý đã phát sinh từ việc cưỡng chế thi hành án, tổ chức bán đấu giá”. Người phải thi hành án có trách nhiệm hoàn trả phí tổn thực tế, hợp lý cho người đăng ký mua tài sản. Mức phí tổn do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Đây chính là điểm đặc thù khi đấu giá tài sản thi hành án dân sự. Nhưng cũng chính xuất phát từ điểm đặc thù này mà khi áp dụng vào thực tế, tổ chức đấu giá sẽ gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Pháp luật quy định trong trường hợp xin nhận lại tài sản thì người phải thi hành án có trách nhiệm hoàn trả phí tổn thực tế, hợp lý cho người đăng ký mua tài sản . Vấn đề đặt ra ở đây là thế nào là chi phí hợp lý, vấn đề này khi áp dụng vào thực tiễn sẽ gây tranh cãi, bởi lẽ hiện nay pháp luật thi hành án, pháp luật Đấu giá tài sản còn đang “bỏ ngỏ” chưa có hướng dẫn cụ thể. Chính vì chưa có quy định từ pháp luật nên mỗi nơi sẽ tiến hành một cách khác nhau, mà việc xác định thế nào là chi phí hợp lý không hề đơn giản, ngày cả khi phải ra Tòa, Tòa án cũng phải xét xử dựa trên các quy định pháp luật, mà hiện pháp luật chưa điều chỉnh, chưa hướng dẫn cụ thể nên sẽ gặp rất nhiều khó khăn, bất cập. Vấn đề tiếp theo là vấn đề thời gian xin nhận lại theo quy định của pháp luật là trước 01 ngày trước khi mở cuộc đấu giá 01 ngày làm việc, việc quy định như vậy là quá gấp, khiến cho tổ chức đấu giá bị động nhất là khi mọi việc chuẩn bị cho cuộc đấu giá đã sẵn sàng. Hơn nữa pháp luật dành cho người phải thi hành án được quyền xin nhận lại tài sản quá dài. Kiến nghị nhằm hoàn thiện: Xuất phát từ thực tiễn áp dụng pháp luật, chúng ta thấy để khắc phục những vướng mắc, bất cập nêu trên đối với trường hợp người phải thi hành án xin nhận lại tài sản như đã nêu trên, tác giả bài viết cho rằng, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần cần có văn bản hướng dẫn thi hành về trường hợp chi phí hợp lý bao gồm những khoản gì? Căn cứ pháp lý để tính các chi phí này một cách cụ thể, rõ ràng. Vấn đề tiếp theo là cần sửa đổi thời gian xin nhận lại tài sản một cách hợp lý, khoa học. Cần đảm bảo vấn đề quyền con người đối người phải thi hành án nhưng cũng phải tính đến lợi ích của tổ chức, cá nhân khác khi tham gia vào quá trình đấu giá tài sản. Thứ tư, khó khăn, vướng mắc liên quan đến nội dung biên bản kê biên tài sản của người phải thi hành án trong thực tiễn thực hiện Theo quy định tại Khoản 2 Điều 88 Luật thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014, 2018 thể hiện như sau: “Việc kê biên tài sản phải lập biên bản. Biên bản phải ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm kê biên, họ, tên Chấp hành viên, đương sự hoặc người được ủy quyền, người lập biên bản, người làm chứng và người có liên quan đến tài sản; diễn biến của việc kê biên; mô tả tình trạng từng tài sản, yêu cầu của đương sự và ý kiến của người làm chứng. Biên bản kê biên có chữ ký của đương sự hoặc người được ủy quyền, người làm chứng, đại diện chính quyền cấp xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng chế, Chấp hành viên lập biên bản”. 755
  8. Theo quy định trên đây, chúng ta thấy Chấp hành viên khi lập biên bản kê biên phải thể hiện rõ tình trạng của từng tài sản, mô tả về tài sản kê biên. Tuy nhiên, trên thực tiễn thi hành, rất nhiều Chấp hành viên kê biên tài sản không thể hiện rõ điều này. Và khi đấu giá thành đã có nhiều trường hợp các bên đương sự trong hợp đồng đã dựa vào đây để yêu cầu hủy kết quả đấu giá thành. Sự việc sau đây, Tòa án cấp Phúc thẩm đã nhận định như sau: “Thực tế tài sản nằm trên hai phần đất bán đấu giá còn có 02 căn nhà gỗ, lợp ngói, nền gạch Tàu, một căn diện tích 48 m2 và một căn diện tích 32 m2; 01 bể chứa diện tích 550 m2, 01 nhà tạm lợp tolet, diện tích 67,5 m2; 01 sân phơi xây bằng gạch thẻ có diện tích 180 m2 và hệ thống đường nội bộ được làm bằng sỏi, đá 0-4. Đây là tài sản của vợ chồng bà G, ông U nhưng chưa được đưa ra bán đấu giá chung với các tài sản khác. Các tài sản này gắn liền với quyền sử dụng đất, là tài sản không thể tách rời với quyền sử dụng đất nên việc không đưa các tài sản này ra đấu giá cùng với quyền sử dụng đất là chưa phản ánh đúng giá trị của tài sản bán đấu giá, gây thiệt hại cho người có tài sản phải thi hành án và không thể giao tài sản cho người mua trúng đấu giá do vẫn còn một phần tài sản trên đất thuộc quyền sở hữu của vợ chồng bà G. Việc không đấu giá các tài sản là nhà gỗ, sân phơi, bể chứa, đường nội bộ trên đất là do Chấp hành viên khi kê biên không làm hết trách nhiệm của mình, kê biên bỏ sót tài sản của người phải thi hành án…”69. Có thể thấy rằng, phần nhận định trên đây của Tòa phúc thẩm, phần nào cho chúng ta thấy được Chấp hành viên đã thiếu trách nhiệm trong việc kê biên tài sản, mà cụ thể là không liệt kê hết các tài sản của người phải thi hành án, và như vậy, sẽ ảnh hưởng đến việc xác định chính xác giá khởi điểm của tài sản. Kiến nghị nhằm hoàn thiện: Với mong muốn tiến độ đấu giá tài sản thi hành án dân sự được nhanh chóng, phù hợp với quy đinh của pháp luật, theo tác giả bài viết chúng ta nên sửa đổi bổ sung quy định về biên bản kê biên tài sản theo hướng cụ thể, chặt chẽ hơn. Cụ thể như sau: “…đề xuất sửa quy định về nội dung của biên bản kê biên tài sản tại khoản 2 Điều 88, Luật thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014, 2018 như sau: “Biên bản kê biên tài sản, phải ghi rõ loại tài sản, số lượng, khối lượng, kích thước và các đặc điểm khác của tài sản kê biên là căn cứ để giao bảo quản tài sản kê biên và xác định giá khởi điểm của tài sản”. Bởi lẽ, thực tế áp dụng Khoản 2 Điều 88 nêu trên đã để lại rất nhiều bất cập, vướng mắc, gây rất nhiều khó khăn cho các đương sự trong quan hệ đấu giá tài sản thi hành án mà tác giả đã đề cập ở trên. Thiết nghĩ, việc Khoản 2 Điều 8 Luật thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014, 2018 được sửa đổi theo hướng nêu trên sẽ giúp cho Chấp hành viên cũng như các chủ thể có liên quan sẽ có cơ sở pháp lý rõ ràng hơn trong quá trình tiến hành kê biên tài sản thi hành án dân sự. Điều đó cũng có nghĩa là tài sản thi hành án dân sự được kê biên chính xác, sau khi đấu giá thành, người mua được tài sản cũng yên tâm và không dẫn đến tình trạng khiếu nại kéo dài với lý do Chấp hành viên kê biên sai sót trong trong quá trình tác nghiệp. 69 Bản án số 137/2019/DS-PT ngày 30/5/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh về tranh chấp kết quả bán đấu giá tài sản. 756
  9. Thứ năm, khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc xác định giá khởi điểm để đấu giá tài sản thi hành án dân sự đối với trường hợp giá do các đương sự thỏa thuận Điều 98 và Điều 99 Luật thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014, 2018 thì đối với tài sản thi hành án dân sự có 03 hình thức xác định giá khởi điểm đối với tài sản kê biên. Giá do đương sự thoả thuận, giá do tổ chức thẩm định giá xác định, giá do Chấp hành viên xác định. Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về đề tài, học viên nhận thấy, đây cũng là một vấn cũng đang còn nhiều bất cập, vướng mắc cả về lý luận cũng như thực tiễn áp dụng. Chúng ta thấy theo quy định thì biên bản thỏa thuận giá tài sản kê biên cần có đầy đủ chữ ký của Chấp hành viên và các đương sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3, Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014, 2018 thì: “Đương sự gồm người được thi hành án, người phải thi hành án”. Như vậy, trong trường hợp vụ việc có nhiều người được thi hành án hoặc nhiều người phải thi hành án thì biên bản thỏa thuận giá phải có đầy đủ chữ ký của các bên. Tuy nhiên, trong thực tiễn thi hành vấn đề vướng mắc cả về lý luận và thực tiễn là đối với tài sản chung của vợ chồng, tài sản của hộ gia đình hay tài sản chung của các thành viên khác thì chủ sở hữu chung lại không được tham gia vào việc thỏa thuận giá khởi điểm để bán đấu giá. Khi xử lý tài sản chung thì không chỉ xác định phần sở hữu trong khối tài sản chung, quyền ưu tiên mua tài sản chung có ý nghĩa quan trọng cho nên việc xác định giá của tài sản kê biên rất quan trọng đối với các đồng sở hữu. Theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đều có quy định chủ sở hữu chung được quyền thỏa thuận khi định đoạt đối với tài sản chung. Với quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành thì quyền lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu chung có được bảo đảm hay không khi họ không được pháp luật ghi nhận quyền tham gia vào việc thỏa thuận giá, lựa chọn tổ chức thẩm định giá? Trên thực tiễn các đồng sở hữu chung rất bức xúc khi chỉ thông báo cho họ là tài sản chung bị kê biên mà không cho họ được tham gia vào việc xác định giá hoặc ít nhất là hỏi ý kiến của họ về việc xác định giá tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của họ như thế nào?”. Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, tác giả bài viết nhận thấy trên thực tiễn cũng đã xảy ra rất nhiều vụ việc liên quan đến bất cập này: Vụ việc thực tế70 Tòa Phúc thẩm đã nhận xét như sau: Theo Quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự số 03/2012/QĐ-DS ngày 25/6/2012 của Tòa án nhân dân huyện L thì ông Đặng Anh T và bà Nguyễn Thị T phải trả cho ông Vũ Huy C và bà Võ Thị T số tiền 470.000.000 đồng. Do ông T, bà T chưa trả nên Chi cục thi hành án dân sự huyện L đã tiến hành kê biên tài sản của ông T, bà T gồm một phần thửa đất có diện tích 13.107 m2 trong tổng diện tích 15.686 m2, tọa lạc tại ấp S, xã L, huyện L tỉnh BP, đã được Ủy ban nhân dân huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 422 ngày 09/10/2000 mang tên ông Đăng Anh T. Sau khi kê biên, ngày 09/11/2012 Chi cục thi hành án dân sự đã làm Hợp đồng bán đấu giá số 27/2012 với Trung tâm Dịch vụ Bán đấu giá tài sản tỉnh BP ngày 14/12 tiến hành bán đấu giá tài sản của ông T, bà T. Bởi vì, khi kê biên tài sản Chi cục thi hành án dân sự huyện L đã vi phạm Điều 6, Điều 74 của Luật thi hành án vì tài sản cấp cho hộ gia đình, mẹ ông T và các con ông T không nhận được thông báo và không biết được việc kê biên tài 70 Bản án số 47/2018/DS-PT ngày 14/5/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về việc tranh chấp yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá tài sản. 757
  10. sản. Khi bán tài sản thì toàn bộ gia đình ông T gồm mẹ và vợ chồng và các con đều không biết việc Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản của hộ gia đình. Kiến nghị nhằm hoàn thiện: Nhằm khắc phục những bất cập từ thực tiễn áp dụng pháp luật đối với trường hợp các bên đương sự thỏa thuận về giá, theo tác giả bài viết chúng ta cần tiếp tục sửa đổi trong Luật thi hành án dân sự trong thời gian tới đối với các quy định liên quan đến việc xác định giá khởi điểm của tài sản kê biên theo hướng bảo bảo quyền, lợi ích của các đồng sở hữu trong việc xác định giá khởi điểm, thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá, tổ chức bán đấu giá. Việc có đi đến được thỏa thuận không hoàn toàn phụ thuộc vào các bên đương sự nhưng pháp luật cần phải ghi nhận để bảo đảm quyền của đồng sở hữu trong việc định đoạt tài sản. Tuy nhiên lại cần nghiên cứu rút ngắn thời gian dành quyền ưu tiên mua của các đồng sở hữu đối với tài sản thi hành án và trong trường hợp các đồng sở hữu có đơn không mua tài sản thì cần ký kết hợp đồng bán đấu giá tài sản ngay mà không cần phải chờ hết thời gian luật định là 01 tháng hay 03 tháng. Bởi lẽ, với quy định hiện hành của Luật thi hành án dân sự về vấn đề này đã ảnh hưởng đến quyền, và lợi ích hợp pháp của các đồng sở hữu tài sản. Nếu đề xuất này được vận dụng khi sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự hiện hành thì những vụ việc đáng tiếc như tác giả đã dẫn chiếu trong Bản án số 47/2018/DS-PT ngày 14/5/2018 của Tòa án nhân tỉnh Bình Phước về việc tranh chấp yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá tài sản đã không xảy ra. Nếu đề xuất này được vận dụng thì việc đấu giá tài sản thi hành án dân sự cũng sẽ thuận lợi hơn, tránh tình trạng đấu giá thành mà đương sự lại khiếu nại kéo dài, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan Thi hành án, tổ chức đấu giá tài sản cũng như ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các đương sự. Chính điều này đã ảnh hưởng đến tâm lý của các bên khi muốn tham gia đấu giá tài sản thi hành án dân sự. Thứ sáu, khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng khoản 1 Điều 57 Luật đấu giá tài sản năm 2016 về việc thông báo công khai việc đấu giá tài sản Khoản 1 Điều 57, Luật đấu giá tài sản năm 2016 quy định:“Đối với tài sản đấu giá là động sản có giá khởi điểm từ năm mươi triệu đồng trở lên và bất động sản thì tổ chức đấu giá tài sản phải thông báo công khai ít nhất hai lần trên báo in hoặc báo hình của trung ương hoặc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản đấu giá và trang thông tin điện tử chuyên ngành về đấu giá tài sản; mỗi lần thông báo công khai cách nhau ít nhất 02 ngày làm việc”. Với quy định trên đây, khi áp dụng vào thực tiễn, tổ chức đấu giá tài sản đã gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Thực tiễn cho thấy các tổ chức đấu giá khi áp dụng quy định này rất khác nhau và khó có thể kiểm soát việc đăng báo bán đấu giá của tổ chức đấu giá như thế nào là phù hợp. Do pháp luật chỉ quy định chung chung là đăng trên báo in, báo hình mà không thống nhất là báo in nào, báo hình nào nên có tổ chức đấu giá đăng trên nhiều báo khác nhau và thông tin rất khó đến được với khách hàng. Có tổ chức đấu giá đăng thông báo bán đấu giá trên báo mua bán với chi chít các thông tin, thông tin về bán đấu giá thi hành án dân sự nhỏ xíu, khách hàng khó có thể tìm được về thông tin bán tài sản, hoặc đăng trên báo rất ít người đọc như báo người cao tuổi, báo nông nghiệp. Có tổ chức đấu giá lý luận rằng pháp luật chỉ quy định là báo in mà không quy định cụ thể là báo nào nên đăng thông báo bán đấu giá trên bất kỳ báo in nào cũng được thậm chí là báo hoa học trò, báo nhi đồng và chỉ cần tiêu chí mỗi lần cách nhau ít nhất 02 ngày làm việc. Việc đăng báo trên báo hình của Trung ương cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự vì có quá nhiều các kênh truyền hình, có tổ chức đăng thông báo bán đấu giá 758
  11. trên kênh học tiếng dân tộc cho người thiểu số, có tổ chức đấu giá đăng thông báo bán đấu giá trên các kênh truyền hình VOV, VTC nhưng ở những khung giờ mà chẳng ai xem như 5 sáng, 11 giờ đêm...để tiết kiệm chi phí hoặc với mục đích bưng bít thông tin, hạn chế khách hàng đăng ký tham gia đấu giá. Kiến nghị nhằm hoàn thiện: Để hạn chế tình trên đây, tác giả bài viết đưa ra đề xuất, kiến nghị như sau: Một là, pháp luật về bán đấu giá tài sản cần quy định về đăng thông báo trên một báo in chuyên trách về đấu giá thay cho việc đăng thông báo bán đấu giá trên tất cả các loại báo in hiện nay. Chúng ta đã có một báo riêng về hoạt động đấu thầu thì cũng cần phải xây dựng một báo riêng về hoạt động đấu giá. Bên cạnh đó, trong các kênh phát sóng của truyền hình cũng cần xây dựng chuyên mục về bán đấu giá tài sản và pháp luật về bán đấu giá cũng cần quy định việc đăng báo hình trên truyền hình trung ương phải đăng trong chuyên mục về bán đấu giá tài sản để khách hàng có thể nắm bắt được thông tin về bán đấu giá mọi loại tài sản trong đó có tài sản thi hành án dân sự; Hai là, khi áp dụng khoản 1 Điều 57, Luật đấu giá tài sản năm 2016 thì tổ chức đấu giá thấy rằng việc thông báo công khai lại là bắt buộc với tài sản có giá khởi điểm từ 50 triệu và bất động sản chứ không phụ thuộc vào yêu cầu của người có tài sản. Chính vì sự thiếu rõ ràng trong quy định của Luật đấu giá tài sản đã dẫn đến khi áp dụng tổ chức đấu giá tài sản rất lúng túng. Áp dụng vào tài sản tài sản thi hành án dân sự, đối với tài sản là động sản có giá khởi điểm từ 10 triệu đồng trở lên thuộc thẩm quyền bán đấu giá của tổ chức đấu giá và nếu tài sản đưa ra đấu giá dưới 50 triệu thì việc thông báo công khai chỉ được thực hiện khi có yêu cầu của Chấp hành viên. Xuất phát từ bất cập này, tác giả bài viết đề nghị sửa khoản 4 Điều 35, Luật đấu giá tài sản như sau: “Ngoài việc niêm yết quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này, tổ chức đấu giá tài sản thực hiện thông báo công khai việc đấu giá tài sản tại Điều 57 của Luật này”. Nếu đề xuất này được xem xét, vận dụng khi Nhà nước tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật đấu giá tài sản năm 2016, tác giả bài viết cho rằng những bất cập, vướng mắc mà tác giả đã phân tích trên đây sẽ được giải quyết một cách triệt để. Điều đó sẽ giúp cho hệ thống pháp luật về đấu giá tài sản ngày càng được kiện toàn, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho các tổ chức đấu giá khi áp dụng vào thực tiễn quá trình tổ chức đấu giá được thuận lợi, mang lại kết quả khả quan khi đấu giá tài sản thi hành án dân sự nói riêng cũng như các loại tài sản khác nói chung. Bên cạnh đó, nếu đề xuất trên đây vận dụng sẽ giúp cho các tổ chức đấu giá tài sản thi hành án dân sự gỡ bỏ được những vướng mắc, khó khăn khi vận dụng khoản 1 Điều 57 Luật đấu giá tài sản hiện hành. 5. KẾT LUẬN Mục tiêu quan trọng của việc bán tài sản thi hành án dân sự không chỉ có ý nghĩa đơn thuần là đấu giá tài sản mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án được thi hành trên thực tế hòa nhập, tiếp thu và lĩnh hội những ưu điểm, hạn chế để sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hơn. Pháp luật điều chỉnh liên quan đến đấu giá tài sản thi hành án dân sự đang dần được hoàn thiện, hoạt động bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự đã đạt được một số kết quả đáng ghi 759
  12. nhận. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự vẫn còn hạn chế. Cụ thể như bất cập liên quan đến nội dung biên bản kê biên tài sản của người phải thi hành án trong thực tiễn thực hiện; bất cập, vướng mắc trong việc kê biên quyền sử dụng đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; bất cập trong quy định về quyền chuộc lại tài sản thi hành án dân sự của người phải thi hành án dân sư; bất cập về thủ tục chuyển đổi quyền sở hữu tài sản thi hành án sau khi đấu giá thành…một số quy định về trình tự, thủ tục bán đấu giá còn thiếu cụ thể, không rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, không quy định số lần các bên đương sự được quyền yêu cầu định giá lại tài sản, chế tài đối với đội ngũ đấu giá viên vi phạm nguyên tắc nghề nghiệp còn chưa hợp lý. Trong phạm vi Phần 1, tác giả bài viết đã trình bày một cách khái quát về khái niệm, đặc điểm, quy định pháp luật về đấu giá tài sản thi hành án dân sự trong Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn hiện hành. Các vấn đề trong Phần 1 sẽ là tiền đề quan trọng của Phần 2, tác giả bài viết đi vào phân tích các vướng mắc, bất cập từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện. Trong Phần 2, tác giả bài viết đi vào phân tích và đánh giá một số khó khăn, vướng mắc mà các tổ chức đấu giá hay gặp phải khi tiến hành đấu giá tài sản thi hành án dân sự và đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như khắc phục những khó khăn, vương mắc mà các tổ chức đấu giá tài sản thường hay gặp phải khi đấu giá tài sản thi hành án dân sự. TÀI LIỆU THAM KHẢO a. Văn bản quy phạm pháp luật 1. Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2014. 2. Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực thi hành 01/7/2009. 3. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014 có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2015. 4. Luật Đấu giá tài sản năm 2016 có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2017. 5. Nghị định số 62/2015/NĐ -CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự. 6. 6 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự. 7. Nghị định số 62/2017/NĐ -CP ngày 16/5/2017 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đấu giá a. Các tài liệu là Tạp chí, Bản án 8. Bản án số 105/2017/DS-PT ngày 21/6/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh về việc tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản. 9. Bản án số 47/2018/DS-PT ngày 14/5/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về tranh chấp yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá tài sản. 10. Bản án số 137/2019/DS-PT ngày 30/5/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh về tranh chấp kết quả bán đấu giá tài sản. 11. Bản án số 18/2019/DS-PT ngày 27/02/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng về việc yêu cầu hủy kết quả đấu giá tài sản, yêu cầu hủy Quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức, yêu cầu bồi thường thiệt hại. 12. Lê Thị Hương Giang (2013), “Tại sao tổ chức bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp không muốn bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số (7), tr.58. 760
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2