
Mỹ thuật thời Lý
I. Tình hình xã hội thời lý
1. Sự trưởng thành của ý thức dân tộc
Một nghìn năm Bắc thuộc cũng là nghìn năm chống Bắc thuộc. Cuối
thế kỷ III trước CN nước Âu Lạc bị xâm lược và đô hộ, người Việt cổ
bị cưỡng bức trực tiếp nhận văn hoá phương Bắc, song với truyền
thống Đông Sơn, ý thức dân tộc không những không bị xoá bỏ mà còn
cố kết mọi người trong các làng quê. Trên cơ sở đó, từ đầu thế kỷ thứ
nhất Hai Bà Trưng đã đàon kết được nhân dân cả nước, nhanh chóng
đánh thắng quan Hán, " đem lại nghiệp xưa họ Hùng. Nhà nước độc lập
đầu tiên ấy tuy chỉ đững vững có nghìn ngày ( 40 – 43) song đã khẳng
định sự hình thành và phát triển bước đầu của ý thức dân tộc.
Trong giai đoạn Bắc thuộc lần thứ 2, bên cạnh quý tộc Việt, một số quý
tộc Hán sang ta nhiều đời đã Việt hoá. Các hào trưởng này ngày càng
có uy thế , thực chất họ là các thủ lĩnh địa phương, giữ vai trò lãnh đạo
nhân dân đấu tranh giành độc lập. Đồng thời, phất giáo vào nước ta một
cách hoà bình, lại hoà nhập với tín ngưỡng bản địa, truyền bá tư tưởng
yêu nước thương yêu đùm bọc nhau, trở thành ngọn cờ tập hợp mọi
người nổi dậy chống cường quyền. Lý Bí đã phát động cuộc khởi nghĩa
từ một ngôi chùa, nhanh chóng thắng lợi, lập nên nhà nước Vạn Xuân
vào năm biểu hiện sức bật mạnh mẽ của dân tộc. Nước Vạn Xuân tồn
tại trong tình hình mâu thuẫn nội và ngoại đều rất phức tạp, song đã
kéo dài được gần 60 năm ( 544 – 603), khẳng định sự gắn bó cảu ý thức

dân tộc với độc lập và tự do.
Sau đây, lịch sử lại thử thách dân tộc ta nhiều lần nứa. ý chí thà hy sinh
chứ không chịu làm nô lệ đã dấy lên nhiều phong trào đấu tranh cả vũ
trang và chính trị, bác bỏ dưới nhiều hình thức sự thống trị của phong
kiến phương Bắc trên đất nước ta. Sau những thắng lợi tạm thời ở các
thế kỷ VII – VIII – IX, từ đầu thế kỷ X trên thực tế nhân dân ta đã
giành được quyền tự chủ. Thế rồi, với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử
năm 938, Ngô Quyền đã chính thức giương cao ngọn cờ độc lập, chấm
dứt hẳn đêm trường Bắc thuộc.
Độc lập đã có, nhưng chưa thoát ly được tính chất địa phương mà các
thủ lĩnh muốn hùng cứ, nên ngay sau khi Ngô Quyền mất ( 944) đất
nước lại rơi vào tình trạng hỗn loạn mười hai sứ quân. Phất cao ngọn cờ
thống nhất, năm 968 Đinh Bộ Lĩnh thu giang sơn về một mỗi, lập nên
nước Đại Cồ Việt với kinh đô Hoa Lư. Độc lập và thống nhất đã xác
lập song đều bị đe doạ, sau khi Đinh Tiên Hoàng bị ám hại, nhà Tống
lại lăm le xâm lược. Lê Hoàn vừa được suy tôn lên ngôi hoàng đế đã tổ
chức ngay cuộc kháng chiến và giành thắng lợi rực rỡ vào mùa xuân
năm 981, gây niềm tự hoà dân tộc và niềm tin chắc chắn ở tiền đồ đất
nước. Nhưng sau khi Lê Đại Hành mất, nội tình triều đình lục đục và
mất niềm tin trong nhân dân thì tầng lớp trí thức xã hội đã tạo dư luận
để chuyển chính quyền hoà bình sang nhà Lý.
Vua Lý Thái Tổ với hoài bão xây dựng đất nước đàng hoàng ngay sau
khi lên ngôi đã chuyển kinh đô từ vùng Hoa Lư thủ hiếm ra giữa đồng
bằng lấy tên là Thăng Long để " mưu toan nghiệp lớn". Năm 1054 nhà
Lý đổi tên nước là Đại Việt thể hiện ý thức tự tôn, bình đẳng với Đại

Tống khi phát hiện âm mưu xâm lược của quân Tống, Lý Thường Kiệt
đã hành động tự vệ tích cực là tấn công triệt phá hậu cần địch rồi rút về
phòng ngự ở tư thế chiến thắng, sau đó ngay trong chiến đấu đã dõng
dạc tuyên bố " Nam quốc sơn hà Nam đế cư" khẳng định chủ quyền đất
nước với quyết tâm của dân tộc bảo vệ chủ quyền ấy, có giá trị là bản
tuyên ngôn độc lập đầu tiên cảu dân tộc. Thắng lợi quân sự rồi, trên cơ
sở trưởng thành của dân tộc về mọi mặt, nhà Lý tiếp tục đấu tranh
ngoại giao đòi độc lập cả về pháp lý : Vua Lý Anh Tông không chịu
nhận chức " Giao chỉ quận vương", buộc nhà Tống thừa nhận là " An
Nam quốc vương", cũng có nghĩa phải công nhận nước ta là một vương
quốc độc lập.
Như vậy ngay trong buổi đầu Bắc thuộc, ý thức dân tộc đã hình thành
để luôn trườn khỏi mọi sự đồng hoá văn hoá và dân tộc, từng bước đấu
tranh với nhịp điệu ngày càng dồn dập, đi từ thắng lợi tạm thời đến
thắng lợi dứt khoát. ý thức dân tộc lại đòi hỏi Độc lập phải gắn với
thống nhất, khắc phục mọi trở lực bên trong và từ bên ngoài, ý thức áy
ngày càng trưởng thành càng đòi hỏi nhà nước luôn đặt dân tộc ở thế
phát triển, thế chủ động, được bình đẳng cả trong thực tế và pháp lý với
quốc gia và mọi dân tộc khác. Đó là chân lý không thay đổi, cũng là cơ
sở để xây dựng đất nước cường thịnh.
2. Sự cường thịnh của nước Đại Việt.
Trong ngàn năm Bắc thuộc, sức sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng.
Những thời gian độc lập ngắn ngủi trước thế kỷ X luôn bị phương Bắc
đe doạ. Các nhà nước Ngô - Đinh – Tiền Lê quá ngắn ngủi, xã hội chưa
ổn định, chính quyền trung ương chưa đủ sức với tới cả nước, luôn tập

trung cho sự nghiệp giữ nước nên công cuộc dựng nước chưa làm được
bao nhiêu.
Sang thế kỷ XI với vương triều Lý, nhà nước trung ương tập quyền
hoàn toàn thắng thế, liên tục phá Tống bình Chiêm, đưa uy tín nước
Đại Việt lên đỉnh cao. Đối với dân tộc, nhà Lý đóng vai trò rất tích cực,
có nhiều chính sách toàn diện để xây dựng một quốc gia độc lập vững
chắc. Chính sách khuyến nông được đặc biệt chú ý như giải phóng nô
tì, gửi quân đội vào nhà nông ( ngự binh ư nông), bắt người đào cong
về quê nhận ruộng sản xuất, tổ chức khẩn hoang, xây dựng công trình
thuỷ lợi, chăm sóc trâu bò để có sức kéo. Chính vua Lý Thái Tông đã
trực tiếp cày tịnh điền " để có xôi gạo cũng tổ tiên và nêu gương cho
thiên hạ", thân đi xem xét thuỷ lợi .... Do đó mặc dầu kỹ thuật nông
nghiệp còn thấp kém, song nông nghiệp phát triển khá mạnh, sử cũ ghi
nhiều lần được mùa to, lại còn những hiện tượng lạ như mua ra thóc,
mua ra gạo, lúa 9 bông, cau chín 9 buồng và chim thú quý xuất hiện
liêu tục đều biều hiện xã hội thái bình thịnh trị. Trái lại, về việc mất
mùa đói kém, triều Lý chỉ xảy ra có 4 lần và đều thuộc vào giai đoạn
cuối ( các năm 1156, 1181, 1199, và 1208). Chẳng những vào những
năm đại hạn hay lụt lội, mà cả những năm được mùa lớn, nhà nước
cũng xá tô thuế cho nhân dân, có khi tới 3 năm " để yên ủi sự lặn lội
khó nhọc". Chính vì thế nông dân rất yên tâm làm ăn, không có yêu cầu
khởi nghĩa, một vài cuộc nổi dậy là của các dân tộc ít người và ở miền
biên viễn.
Thủ công nghiệp cũng có nhiều tiến bộ ... Các nghề gắn với xây dựng
như làm gạch, ngói và chạm khắc gỗ, đá phát triển mạnh. Đồ gốm đạt

tới trình độ cao, nhất là gốm men ngọc. Công nghiệp khai thác thiếc,
bạc, đồng, vàng ... và kỹ thuật đúc đồng đạt được nhiều thành tựu. Theo
thư tịch và truyền thuyết, thời Lý có bốn khí vật cực lớn ( tháp Báo
Thiên, chuông Quy Điền, phật Quỳnh Lâm và vạc Phổ Minh hay Phả
Lại) đều được đúc bằng đồng. Với sự phát triển của nghề dệt, các vua
Lý thưởng tỏ ý không dùng gấm vóc của Tống nứa. Nhiều sản phẩm
thủ công đã trở thành hàng hoá. Nông thôn khắp nơi có chợ, kinh đô
Thăng Long phố xã tấp nập. Ngoại thương cũng được mở rộng, lập
cảng Vân Đồn để đón tàu buồn các nước. Và nhờ đó Việt Nam được
tiếp xúc với nhiều nền văn hoá khác nhau, càng có điều kiện tiếp nhận
ảnh hưởng bên ngoài để làm giàu văn hoá của mình.
Cơ sở kinh tế ổn định là nền tảng cho sự phát triển xã hội. Với nền kinh
tế lúa nước, người nông dân luôn phải " trông trời", thì trong thời Bắc
thuộc đã hoà nhập tín ngưỡng thờ các hiện tượng thiên nhiên với phật
giáo, tạo ra một hệ thống các chùa " Tự Tháp". Cho đến thời lý, trong
phật giáo ngoài hai dòng Thiền đã có là Tì NI Đa Lưu Chi và Quang
Bích, giờ thêm dòng Thảo Đường gắn kết được cả nho giáo với phật
giáo, như vậy vừa tập hợp được toàn dân vừa phục vụ được sự quản lý
của triều đình. Vì thế nhà Lý ngay từ đầu và trong suốt cả vương triều
đã cho xây dựng rất nhiều chùa tháp. Bên cạnh đó, nhà Lý cũng coi
trọng Nho giáo, xây Văn Miếu, lập trường Quốc Tử Giám và mở khoa
thi cấp cao để đào tạo và tuyển lựa nhân tài cho bộ máy cai trị. Năm
1042 vua Lý Thái Tông cho ban hành bộ Hình Thư là bộ luật thành văn
đầu tiên của nước ta, làm cơ sở để xây dựng một thiết chế xã hội ổn
định.

