ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

---------- ∞*∞ ----------

PHẠM THỊ HỒNG XIÊM

NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHÂN VẬT TRONG

TIỂU THUYẾT VIỆT LAM TIỂU SỬ CỦA LÊ HOAN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

THÁI NGUYÊN - 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

---------- ∞*∞ ----------

PHẠM THỊ HỒNG XIÊM

NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHÂN VẬT TRONG

TIỂU THUYẾT VIỆT LAM TIỂU SỬ CỦA LÊ HOAN

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

PGS - TS. NGUYỄN HỮU SƠN

THÁI NGUYÊN - 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

.

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đối với PGS. TS

Nguyễn Hữu Sơn ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn, dìu dắt và động viên tôi trong

quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Sau Đại học và

khoa Ngữ văn trƣờng Đại học Thái Nguyên đã nhiệt tình giảng dạy và chỉ bảo

cho tôi trong suốt khoá cao học vừa qua.

Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp

đã luôn động viên tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2009

Học viên:

Phạm Thị Hồng Xiêm

.

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài......................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.......................................................................... 2

3. Phạm vi đề tài............................................................................................ 12

4. Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................ 13

5. Phƣơng pháp nghiên cứu........................................................................... 13

6. Những đóng góp của luận văn................................................................... 14

7. Cấu trúc của luận văn................................................................................ 14

NỘI DUNG

Chƣơng 1: Tác giả, tác phẩm và vấn đề thể loại trong tiểu thuyết

Việt Lam tiểu sử

1. Tác giả Lê Hoan......................................................................................... 15

2. Tác phẩm Việt Lam tiểu sử........................................................................ 23

2.1. Tên gọi.................................................................................................... 23

2.2. Vấn đề xác định tác giả Việt Lam tiểu sử............................................... 25

3. Vấn đề thể loại trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử................................... 30

3.1. Khái niệm tiểu thuyết chƣơng hồi.......................................................... 30

3.2. Hoàn cảnh ra đời..................................................................................... 30

3.3. Đặc điểm thể loại................................................................................... 34

3.4. Tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử - tiểu thuyết lịch sử đƣợc viết theo lối

kết cấu chƣơng hồi........................................................................................ 36

3.4.1. Thể loại tiểu thuyết lịch sử................................................................. 36

3.4.2. Tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử - tiểu thuyết lịch sử viết theo lối kết

cấu chƣơng hồi............................................................................................. 36

Tiểu kết......................................................................................................... 39

.

Chƣơng 2: Nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử - từ nguyên

mẫu đến hình tƣợng văn học

2.1. Con đƣờng từ hiện thực đến các hình tƣợng văn học............................. 40

2.2. Các nhân vật nguyên mẫu trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử................ 43

2.2.1. Lê Lợi từ nguyên mẫu lịch sử đến hình tƣợng văn học....................... 44

2.2.2. Hồ Quý Ly từ nguyên mẫu lịch sử đến hình tƣợng văn học............... 47

2.2.3. Nguyễn Trãi từ nguyên mẫu lịch sử đến hình tƣợng văn học............. 51

2.3. Những nét tƣơng đồng và khác biệt giữa nhân vật trong tiểu thuyết Việt

Lam tiểu sử với các nhân vật trong lịch sử.................................................... 55

2.3.1. Những nét tƣơng đồng giữa nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu

sử với các nhân vật trong lịch sử và nguyên nhân của sự tƣơng đồng......... 56

2.3.2. Những nét khác biệt giữa nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu

sử với các nhân vật trong lịch sử và nguyên nhân của sự khác biệt............. 60

Tiểu kết.......................................................................................................... 68

Chƣơng 3: Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam

tiểu sử

3.1. Khái niệm nhân vật và vai trò của nhân vật trong tiểu thuyết

chƣơng hồi.................................................................................................... 70

3.1.1. Khái niệm nhân vật.............................................................................. 70

3.1.2. Vai trò của nhân vật trong tiểu thuyết chƣơng hồi.............................. 71

3.2. Giới thuyết chung về nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết

chƣơng hồi................................................................................................... 72

3.2.1. Vai trò của nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết

chƣơng hồi..................................................................................................... 72

3.2.2. Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết chƣơng hồi............... 73

3.2.3. Một số thủ pháp thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết chƣơng hồi....... 74

3.3. Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử của

Lê Hoan........................................................................................................ 74

3.3.1. Nghệ thuật thể hiện hành động nhân vật và sự kiện.......................... 75

3.3.2. Nghệ thuật thể hiện tính cách nhân vật.............................................. 90

.

3.3.3. Nghệ thuật thể hiện ngôn ngữ nhân vật............................................. 98

Tiểu kết....................................................................................................... 108

KẾT LUẬN................................................................................................. 109

TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 111

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Việt Lam tiểu sử (hay còn gọi Việt Lam xuân thu) là cách đặt tên của

Lê Hoan. Đây là một cuốn tiểu thuyết chữ Hán đƣợc viết theo kiểu chƣơng

hồi, có quy mô rộng lớn, phản ánh những biến cố lịch sử quan trọng trong

những thời điểm lịch sử đặc biệt ở thế kỷ XV. Đó là sự nghiệp của đức Lê

Thái Tổ gắn liền với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, ngƣời lãnh đạo nhân dân ta

trƣờng kỳ kháng chiến chống giặc Minh xâm lƣợc. Tƣ tƣởng chủ đạo của

cuốn tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử vừa thể hiện đƣợc khát vọng độc lập, tôn

phò chính thống, đề cao chính nghĩa, vừa khẳng định sức mạnh đoàn kết chiến

đấu chống giặc ngoại xâm.

1.2. Sự ra đời của cuốn tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử cùng với những đóng

góp về giá trị nội dung và nghệ thuật đã góp phần làm nên giá trị của văn học

trung đại nói riêng, thúc đẩy quá trình phát triển của văn xuôi Việt Nam nói

chung. Xuất hiện trong vai trò là đại biểu cuối cùng của tiểu thuyết chƣơng

hồi Việt Nam, Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan đã đánh dấu những bƣớc phát

triển về mặt thể loại của tiểu thuyết chƣơng hồi, để chuẩn bị cho sự ra đời của

tiểu thuyết hiện đại có nguồn gốc từ phƣơng Tây.

1.3. Đọc Việt Lam tiểu sử, ấn tƣợng lớn nhất của tác phẩm chính là ở chỗ

tác giả đã rất thành công trong việc đƣa các nhân vật lịch sử vào tác phẩm văn

học thành những hình tƣợng nghệ thuật. Các nhân vật trong tác phẩm vừa bảo

lƣu những đặc điểm vốn có thật trong lịch sử vừa đƣợc hƣ cấu, sáng tạo thành

những nhân vật văn học chứ không đơn thuần là những nhân vật lịch sử.

Trong con mắt của các nhà nghiên cứu lịch sử thì những nhân vật này là con

ngƣời của lịch sử, còn đối với các nhà nghiên cứu văn học thì đó lại là những

nhân vật văn học thực sự. Điều gì làm nên những ấn tƣợng ấy nếu nhƣ không

phải là tài năng và tâm huyết, vốn sống của nhà văn Lê Hoan. Xét một cách Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1

toàn diện, Việt Lam tiểu sử là một tác phẩm văn học đặc sắc. Trên thực tế, các

tài liệu nghiên cứu, các bài viết về thiên tiểu thuyết này vẫn chƣa nhiều. Vì

thế, tìm hiểu nghiên cứu tác phẩm trên phƣơng diện nghệ thuật thể hiện nhân

vật là một việc làm cần thiết, nhằm có cái nhìn sâu sắc, thấu đáo và đúng đắn

hơn những thành tựu, những đóng góp của tác giả, tác phẩm Việt Lam tiểu sử.

Đó là những lý do thôi thúc ngƣời viết tìm hiểu về nghệ thuật thể hiện

nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan.

2. Lịch sử vấn đề

Tác phẩm Việt Lam tiểu sử còn có nhiều ý kiến chƣa thống nhất xung

quanh vấn đề tác giả, văn bản. Căn cứ vào lời tựa của Việt Lam tiểu sử, những

ý kiến đóng góp khoa học của các nhà nghiên cứu, chúng tôi cho rằng đây là

tác phẩm của nhà văn Lê Hoan. Nhƣ đã nói ở trên, mặc dù Việt Lam tiểu sử là

tác phẩm có nhiều giá trị nhƣng do nhiều yếu tố khách quan nên chƣa đƣợc

quan tâm một cách đúng mức. Gần đây, Việt Lam tiểu sử đã thu hút đƣợc sự

chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Qua khảo sát một số các bài viết, các công

trình nghiên cứu, chúng tôi thấy các tác giả đã bắt đầu đi sâu nghiên cứu tìm

hiểu về tác giả, tác phẩm Việt Lam tiểu sử, nhƣng tài liệu nghiên cứu và

những bài viết về tác phẩm ở phƣơng diện là một tác phẩm văn học thì vẫn

còn hạn chế. Có thể dẫn ra một số bài nghiên cứu sau.

Trong Tạp chí Hán Nôm số 3 - 1997, nhà nghiên cứu Trần Nghĩa khi

lập danh mục và phân loại tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam đã xác định Việt

Lam tiểu sử là cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo lối kết cấu chƣơng hồi do Vũ

Xuân Mai biên soạn, Lê Hoan nhuận sắc. Không chỉ khẳng định về mặt thể

loại, tác giả Trần Nghĩa còn tập trung dịch cuốn sách này trên cơ sở tham

khảo nhiều ý kiến và các bản dịch khác nhau, để giúp bạn đọc có dịp tiếp cận

với tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử dƣới dạng hoàn chỉnh và đầy đủ nhất của nó

đồng thời mong muốn cho nhiều bạn đọc đƣợc thƣởng thức một cuốn tiểu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2

thuyết viết về giai đoạn lịch sử oai hùng của dân tộc mà trung tâm là cuộc

khởi nghĩa Lam Sơn.

Trên Tạp chí Văn học số 8 - 1999, nhà nghiên cứu Chƣơng Thâu có bài

viết “Đọc Việt Lam xuân thu bản duy tân nghĩ về người khắc in, công bố và

một vài nhân vật thời đại”. Trong bài nghiên cứu, tác giả Chƣơng Thâu không

có chủ định phân tích cuốn Việt Lam tiểu sử xem giá trị sử học của nó nhƣ thế

nào. Bởi vì, vấn đề này từ lâu giới nghiên cứu đã từng đề cập và xác định tác

phẩm là một cuốn tiểu thuyết có nhiều phần hƣ cấu. Mục đích chính của nhà

nghiên cứu cũng không phải đi tìm xem ai là tác giả của cuốn sách vì muốn

xác định một cách chính xác thì cần phải có nhiều chứng cứ và nhiều thời

gian, vấn đề ở chỗ ngƣời viết còn băn khoăn về ngƣời cho khắc in và công bố

cuốn Việt Lam tiểu sử. Dƣ luận mấy chục năm gần đây vẫn cho Lê Hoan là

một ngƣời phản bội, đứng trong hàng ngũ xâm lƣợc để chống lại tổ quốc. Nói

đến Lê Hoan, ngƣời ta nhớ đến việc đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Đã có

câu thơ “Giặc nhờ Đề Thám nổi công lao”. Câu thơ này ở trong một bài thơ

trào phúng của Nguyễn Thiện Kế Vịnh Tổng đốc Hải Dương đã đƣợc triều

đình phong đến chức Khâm sai, và hạ thêm lời kết luận rất gay gắt:

Khâm sai mà vẫn hùa theo Pháp

Nhục ấy còn vinh ở chỗ nào?

Đó là những định kiến đã ăn sâu vào nếp nghĩ của nhân dân và đƣợc lƣu

truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Ngƣời ta cũng không phải dè dặt gì để

xếp Lê Hoan vào hàng ngũ con ngƣời đứng về phía chống lại tổ quốc Việt

Nam. Tác giả bài viết cũng cho biết rằng hiện nay chƣa thấy một tài liệu lịch

sử và sử gia nào đánh giá nhân vật này một cách chính thức, nhƣng dƣ luận

nhƣ vậy cứ thế truyền đi và cho đến bây giờ thì gần nhƣ đối với Lê Hoan vấn

đề đã đƣợc an bài. Theo PGS. Chƣơng Thâu, chúng ta không có điều kiện và

không thể đi ngƣợc lại những định kiến hầu nhƣ khó lay động, nhƣng khi đã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3

gặp một tác phẩm nhƣ Việt Lam tiểu sử, phải chăng chúng ta nên đặt ra một

câu hỏi khác hơn? Từ đó, nhà nghiên cứu đã không đánh giá tác phẩm Việt

Lam tiểu sử nhƣ một tác phẩm sử học mà chỉ xem nó đơn thuần là một cuốn

“tiểu thuyết lịch sử”. Theo tác giả, bút pháp chủ yếu của Việt Lam tiểu sử là:

“Theo kiểu chương hồi, cách diễn thuật miêu tả không hợp với nghệ thuật tiểu

thuyết hiện đại, nhưng chủ đề, chủ ý của tác giả thì rõ ràng là rất được chân

trọng. Tác giả muốn tô đậm cho những cử chỉ nghĩa khí, những sự tích anh

hùng. Tư tưởng dân tộc, lòng tự hào, chí bất khuất, niềm tha thiết với vận

mệnh tổ quốc là điều rõ ràng không thể nào phủ nhận được” [63,38]. Quan

điểm này của Chƣơng Thâu góp phần nhấn mạnh, Việt Lam tiểu sử là một tác

phẩm văn chƣơng thực sự. Dù nghệ thuật chƣa đạt đến đỉnh cao của tiểu

thuyết hiện đại nhƣng nội dung rất có giá trị và đáng đƣợc chân trọng vô cùng.

Tác giả của bài viết cũng bày tỏ những suy nghĩ của mình khi nghĩ đến những

ngƣời hoạt động quốc sự ở nƣớc ta vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Tình

hình đất nƣớc lúc đó khiến cho các tờng lớp sĩ phu trở nên phân hóa sâu sắc.

Một lớp đông đảo đã đứng hẳn vào hàng ngũ đối lập với kẻ thù, cũng có một

số vì hoàn cảnh vì nhiều điều kiện này nọ phải hợp tác với kẻ địch. Trong số

những con ngƣời phải ra hợp tác với chính quyền thực dân và đƣợc “mẫu

quốc” dành cho khá nhiều sự ƣu đãi đến mức gây nhiều điều tiếng cho nhân

dân nổi lên hai nhân vật là Hoàng Cao Khải và Lê Hoan. Thế nhƣng theo

Chƣơng Thâu, Hoàng Cao Khải lại là tác giả của một số bài thơ hay và tƣ

tƣởng, nhất là tƣ tƣởng yêu nƣớc thì lại rất rõ ràng, rất đáng đƣợc ghi nhận.

Với Lê Hoan cũng vậy, nhà nghiên cứu cho rằng khi xem tác phẩm Việt Lam

tiểu sử, chúng ta cũng nên chú ý lời tựa của Lê Hoan khi cho khắc in và công

bố tác phẩm này. Đây là lời tác giả Việt Lam tiểu sử ca ngợi Lê Lợi “... Cần

phải tường tận bản sắc anh hùng của Lê Thái Tổ. Khi thời cơ chưa đến thì

thuận theo đạo trời yên tâm với mệnh, thương kẻ sĩ, yêu dân lành, giả cách Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4

nhún nhường để khỏi nhận chức tước của triều ngụy. Lúc thời cơ đến thì dùng

người hiền tài, dựa vào kẻ có năng lực, điều binh khiển tướng, tiêu diệt giặc

Minh, khôi phục nước nhà. Trong 10 năm trù hoạch kinh dinh, không có một

việc làm nào của ngài chứng tỏ ngài không phải là một vị quốc vương có trí,

có nhân, có dũng. Nếu không phải ông vua độ lượng có thể như thế được

chăng? Cuốn sách qua 60 hồi đã khái quát được quá trình Lê Thái Tổ dành

lại đất nước. Tôi say sưa đọc đi đọc lại mấy lần, tưởng chừng như thấy hình

bóng ngài hiện ra trên trang sách. Bất giác tôi cảm thấy phục lăn phục lóc”

[63,66]. Thông qua lời tựa này, tác giả bài viết cho rằng chắc chắn Lê Hoan

phải là một ngƣời có tâm huyết thì mới có thể nói lời kính phục thành thật và

chất phát đến nhƣ vậy. Cũng trong bài viết, nhà nghiên cứu còn bày tỏ thái độ

ngạc nhiên về trình độ và tƣ tƣởng của Lê Hoan khi theo dõi quá trình công bố

cuốn sách này. Theo Chƣơng Thâu, chúng ta không thể nói Lê Hoan là ngƣời

ít học bởi khi công bố Việt Lam tiểu sử Lê Hoan có nói rõ là ông tìm thấy

đƣợc bản Việt Lam tiểu sử đầu tiên ở một gia đình (không nói rõ gia đình

nào). Nhƣng ông cho rằng tác phẩm “chưa thật tinh xảo diệu kỳ” nên ông đã

gia công “sửa sang trau chuốt”, phần sửa sang của ông cũng đƣợc nêu rõ ở

một số điểm chú thích, xét ra phần lớn là hợp lý hợp tình, và chúng ta cũng

phải thừa nhận Lê Hoan có một trình độ văn học nhất định. Thêm vào đó,

chúng ta có thể chú ý câu cuối cùng của bài tựa. Lê Hoan viết rõ là ông “đặt

tên sách là Việt Lam tiểu sử để phân biệt với chính sử”. Nhƣ vậy, ta lại thấy

ông có cái nhìn đúng đắn với cuốn sách, với việc mình làm. Ông không cho

đây là việc chép sử. Rõ ràng, Lê Hoan biết phân biệt lịch sử với tiểu thuyết,

với sáng tác văn học. Ngoài ra, chúng ta còn có thể kết hợp quan tâm cả đến

quá trình chỉnh lý cuốn sách này, bởi khi sửa chữa Việt Lam tiểu sử, Lê Hoan

đã tìm ra cách đƣa thêm một số tác phẩm của ngƣời đƣơng thời (lúc nhà Trần,

Hồ mất,... Lê Lợi khởi nghĩa). Ông chọn những bài thật là tiêu biểu nhƣ bài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5

Thuật hoài của Đặng Dung, hoặc bổ sung một số câu thơ từ Bình Ngô đại cáo

của Nguyễn Trãi ở hồi thứ 39, để thêm phần hấp dẫn cho bản nguyên tác. Rõ

ràng là ngƣời chỉnh lý, biên soạn, thực sự đồng cảm với tác giả. Con ngƣời

nếu mang bản chất vô cảm, vô tình, hoặc quá nữa là “vô tổ quốc” thì không

thể có cách thẩm văn và xử lý nhƣ vậy đƣợc. Kết thúc bài viết, tác giả Chƣơng

Thâu bày tỏ suy nghĩ của mình. Ông cho rằng vấn đề có liên quan đến Lê

Hoan chƣa thể kết luận một cách chính xác nhƣng phải chăng có thể đƣa ra

một suy nghĩ để giúp cho sự nghiên cứu, sự bình luận đƣợc “văn hành công

khí hơn”. Ý kiến của Chƣơng Thâu đã lƣu ý ngƣời đọc rằng việc đánh giá

nhân vật lịch sử của chúng ta không thể cứ theo một định kiến, một thói quen,

mà điều trƣớc nhất là phải có thật nhiều thật dồi dào tƣ liệu lịch sử. Công

bằng hay bất công, chỉ có tƣ liệu mới là cơ sở vững chắc cho chúng ta đoán

định. Và nhân vật Lê Hoan chính là một nhân vật lịch sử ở trong trƣờng hợp

ấy.

Trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 58 (1 - 1964), nhà sử học Phan

Huy Lê có bài viết “Tác phẩm Việt Lam xuân thu có giá trị về mặt sử liệu hay

không?”. Vấn đề chính mà tác giả bài viết đề cập đến là bàn về giá trị sử liệu

của tác phẩm Việt Lam tiểu sử. Nhà nghiên cứu sau khi đọc tác phẩm Việt

Lam tiểu sử đã bày tỏ ấn tƣợng của mình: “Tôi có ấn tượng rằng tác giả là

người đọc rộng biết nhiều. Để viết tác phẩm này, tác giả không những đã

tham khảo nhiều sử sách trong nước, nhiều tập truyện trong dân gian, mà còn

tham khảo cả một số sử sách Trung Quốc nữa” [31,34]. Sở dĩ tác giả bài viết

có đƣợc những ấn tƣợng này là do trong quá trình theo dõi tác phẩm Việt Lam

tiểu sử ông đã phát hiện ra một số nhân vật nhƣ Lê Thiện, Lê Trãi hoàn toàn

không có trong chính sử của nƣớc ta mà chỉ thấy trong Minh sử, Minh sử kỷ

sự bản mạt, Việt kiệu thư,... hay những định danh nhƣ Nghĩa An, Sinh

Quyết,... cũng thƣờng ít dùng trong chính sử của ta, nhƣng lại đƣợc sử dụng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6

phổ biến trong các bộ sử nhà Minh,... Ngoài ra một vài đoạn mô tả về vài vị

trí, thành lũy nào đó, tuy thấy không ghi chép trong thƣ tịch xƣa của ta hay

của nhà Minh, nhƣng lại phù hợp với địa thế và di tích ngày nay. Điều đó

chứng tỏ tác giả Việt Lam tiểu sử còn sử dụng một số kiến thức về địa lý của

mình để xây dựng tác phẩm. Tuy nhiên theo nhà sử học Phan Huy Lê, tác giả

Lê Hoan có lẽ không phải là một nhà sử học và nhất là không nhằm viết một

tác phẩm nghiên cứu về lịch sử, nên tác giả chỉ vay mƣợn một số cứ liệu lịch

sử nào đó cho tác phẩm có cốt cách, màu sắc lịch sử mà thôi. Những cứ liệu

lịch sử đó đã bị cắt xén, sắp xếp tuỳ ý theo một bố cục và cách trình bày xây

dựng theo sự hƣ cấu của nhà văn. Rõ ràng trong Việt Lam tiểu sử, chỉ có một

số tình tiết lịch sử nào đó nhƣ một số tên ngƣời, tên đất, một số năm tháng và

số liệu là đƣợc tôn trọng nhƣng lại bị sắp xếp trong những tƣơng quan và diễn

biến hoàn toàn do tác giả sáng tạo ra. Chính bởi vậy mà những tình tiết lịch sử

cũng mất hết giá trị sử liệu của nó. Từ đó, tác giả bài viết có nhận định: “Đây

là một bộ tiểu thuyết lịch sử về căn bản xây dựng theo sự hư cấu, theo trí

tưởng tượng của tác giả, trong đó những tình tiết lịch sử chỉ được tôn trọng về

mặt chi tiết mà thôi” [31,34]. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu và so sánh những

sự việc trong Việt Lam tiểu sử với những tác phẩm lịch sử có giá trị, tác giả

bài viết đã đi đến kết luận phủ định giá trị sử liệu của tác phẩm. Theo nhà sử

học, Việt Lam tiểu sử là một cuốn tiểu thuyết lịch sử có thể có những giá trị về

mặt văn học nhƣng về mặt sử học thì tác phẩm không có giá trị về mặt sử liệu,

không thể dùng làm căn cứ cho những công trình nghiên cứu sử học. Ý kiến

của ông cũng nhắc nhở ngƣời đọc, khi tiếp cận tiểu thuyết này không nên quá

chú trọng đến giá trị về mặt sử liệu mà phải xét nó đúng nhƣ một tác phẩm

văn chƣơng đích thực, đầy sáng tạo. Những lời nhận xét của Phan Huy Lê có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ý nghĩa rất lớn trong việc giúp cho độc giả có cái nhìn khách quan, thấu đáo

7

hơn về quá trình hình thành công phu cũng nhƣ chất “tiểu thuyết” ở Việt Lam

tiểu sử.

Trong phần phụ lục của tác phẩm Việt Lam tiểu sử, tác giả Trần Nghĩa có

trích dẫn bài viết của PGS. Tạ Ngọc Liễn với nhan đề “Việt Lam xuân thu qua

các bản dịch”. Tác giả bài viết sau khi đọc ba bản dịch Việt Lam tiểu sử với

các tên gọi khác nhau, không có ý định đem đối chiếu các bản dịch với

nguyên văn chữ Hán để xem các bản dịch có chính xác không bởi lẽ tác giả

không biết các dịch giả đã dựa vào bản chữ Hán nào để dịch. Vấn đề cơ bản

gợi sự chú ý của tác giả là vấn đề văn bản học trong sách Việt Lam tiểu sử -

một vấn đề mà các dịch giả không thể không sử lý khi tiến hành dịch nghĩa,

giới thiệu công bố tác phẩm này. Chẳng hạn, vấn đề ai là tác giả Việt Lam tiểu

sử và quá trình biến động của văn bản từ văn bản đầu chép tay (cựu bản) đến

văn bản đã đƣợc Lê Hoan sửa chữa, khắc in mang tên là Việt Lam tiểu sử (tân

bản). Để làm sáng tỏ hơn về vấn đề này, nhà nghiên cứu đã thẩm định lại ba

bản dịch. Bản dịch thứ nhất của Phƣơng phủ Nguyễn Hữu Quỳ. Trong bản

dịch của mình, Nguyễn Hữu Quỳ có ghi tác giả Hoàng Việt xuân thu là “vô

danh thị tức” là tác phẩm khuyết danh. Đọc ý kiến của dịch giả sách Hoàng

Việt xuân thu, tác giả Tạ Ngọc Liễn có nhận xét: “Chúng ta thấy dường như

Nguyễn Hữu Quỳ không hề biết có cuốn Hoàng Việt xuân thu, tức Việt Lam

xuân thu được Lê Hoan khắc in vào năm 1908” [26,400]. Bản dịch thứ hai là

của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến. Trong bản dịch này, Đông Châu viết trong

nhời của ngƣời dịch sách rằng, nguyên bản chữ Nho trong Việt Lam tiểu sử đã

có từ lâu lắm, nhiều ngƣời tƣơng truyền là của ông Nguyễn Trãi làm ra và đến

năm Duy Tân Mậu Thân đƣợc Phú Hoàn tử Lê tƣớng công đề thêm một bài

tựa và khắc bản in ra. Nhƣ vậy với bản dịch của Đông Châu ngƣời đọc đƣợc

biết tác giả của Việt Lam tiểu sử có thể là Nguyễn Trãi và Lê Hoan nhƣng có

một điều đáng nói là trong bản của Đông Châu dịch lại không có bài tựa của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8

Lê Hoan. Từ đó tác giả bài viết cho rằng: “Nếu chỉ đọc nhời của người dịch

sách của Nguyễn Đông Châu thôi, thì độc giả hẳn sẽ hiểu rằng tác phẩm Việt

Lam xuân thu hiện hành, ngay khi mới được viết ra đã hoàn thiện và hay như

vậy, chứ không biết đó là văn bản đã được Lê Hoan gia công sửa chữa khá

nhiều” [26,401]. Bản dịch thứ ba là của Trần Nghĩa. Trong bản dịch này, Trần

Nghĩa đã chính thức ghi tên đầu sách là Việt Lam xuân thu do Vũ Xuân Mai

soạn Lê Hoan nhuận sắc. Đƣợc biết tác giả Trần Nghĩa đã dựa theo ý kiến của

cụ Trần Văn Giáp trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm tập 2, nói rằng Việt Lam

tiểu sử “tương truyền là của Vũ Xuân Mai” để đi tới kết luận Vũ Xuân Mai là

ngƣời soạn Việt Lam tiểu sử nhƣ đã đề trên đầu sách nhƣng tác giả Tạ Ngọc

Liễn vẫn phân vân cho rằng Vũ Xuân Mai có lẽ không phải là ngƣời khởi thảo

bộ tiểu thuyết chƣơng hồi này. Sau khi đã thẩm định qua một số bản dịch, Tạ

Ngọc Liễn đƣa ra ý kiến riêng cho rằng Việt Lam tiểu sử vẫn là tác phẩm

khuyết danh, chính Lê Hoan là ngƣời phát hiện rồi bỏ nhiều công sức, sửa

chữa khắc in cũng không nói ai là tác giả. Có thể nói, trong bài viết này, nhà

nghiên cứu Tạ Ngọc Liễn đã rất cố gắng phân tích và lý giải để giúp cho

ngƣời đọc thấy đƣợc vai trò to lớn của Lê Hoan trong việc bỏ ra không ít tâm

lực “sửa sang trau chuốt” để hoàn chỉnh, nâng cao tác phẩm Việt Lam tiểu sử

và khắc in công bố. Theo Tạ Ngọc Liễn nếu chỉ đọc truyện Việt Lam xuân thu

mà không đọc lời tựa của phú Hoàn nam Lê Hoan thì độc giả sẽ không biết

đƣợc phần công lao và vai trò đáng kể của Lê Hoan đối với số phận cuốn tiểu

thuyết lịch sử khá hấp dẫn này. Kết thúc bài viết, nhà nghiên cứu Tạ Ngọc

Liễn đánh giá cao bản dịch của Trần Nghĩa. Bởi vì, Trần Nghĩa đã coi trọng

việc giải quyết vấn đề văn bản học khi tiến hành dịch Việt Lam tiểu sử. Ông

đã cung cấp cho độc giả những dữ kiện chính yếu về tình hình văn bản sách

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Việt Lam tiểu sử, về các phần mà Lê Hoan tham gia sửa chữa, bổ sung vào,

9

cũng nhƣ cung cấp một bản dịch đƣợc dịch từ văn bản chữ Hán hoàn chỉnh,

đầy đủ nhất trong số mƣời mấy dị bản Việt Lam tiểu sử hiện có.

Với bài viết “Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời trung đại - quá

trình hình thành, phát triển và đặc trưng nghệ thuật” in trong Con đường giải

mã văn học trung đại Việt Nam, (Nxb Giáo dục, Hà Nội - 2006), Tác giả

Nguyễn Đăng Na đã phân tích khá kỹ về con đƣờng hình thành, nội dung,

nghệ thuật, những mặt tích cực và hạn chế của thiên tiểu thuyết Việt Lam tiểu

sử. Theo Nguyễn Đăng Na: “Việt Lam tiểu sử lấy bối cảnh nước ta ba chục

năm đầu thế kỷ XV làm nền. Vào thời điểm ấy hàng loạt biến cố trọng đại của

dân tộc đã diễn ra: “Nhà Trần mất vai trò lãnh đạo và bị nhà Hồ thay thế;

cuộc xâm lược của người Trung Hoa vào quốc gia Đại Việt với quy mô lớn

chưa từng có và mang tính chất khốc liệt; Cuộc chiến tranh toàn dân vô cùng

gian khổ hy sinh dưới sự lãnh đạo của người anh hùng Lê Lợi, đã dành thắng

lợi vẻ vang, giải phóng nước nhà, lập nên triều Lê - một triều đại đánh dấu

bước ngoặt lịch sử vĩ đại của dân tộc. Ba chục năm ấy chứa đầy chất sử thi,

cuộc đời mỗi nhân vật lịch sử của thời đại là một bản hùng ca” [43,543]. Từ

đó tác giả bài viết thừa nhận rằng, tác giả Việt Lam tiểu sử là một nhà văn có

con mắt tinh đời, khi chọn thời gian và không gian nhƣ vậy làm bối cảnh cho

tác phẩm. Hơn nữa cho tới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chƣa có một bộ

tiểu thuyết chƣơng hồi nào phản ánh giai đoạn lịch sử này. Cho nên sự ra đời

của Việt Lam tiểu sử đã đáp ứng kịp thời nhu cầu thời đại và lấp một mảng

trống trong văn học. Cũng trong bài viết này, nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về

quá trình hình thành Việt Lam tiểu sử đã phát hiện ra điểm mới. Đó là, lần đầu

tiên có một tiểu thuyết gia - Lê Hoan vận dụng phƣơng pháp thực địa nghiên

cứu di tích lịch sử để dựng lại không gian chiến trận thời quá khứ. Đồng thời,

tác giả bài viết cũng chỉ ra trong ba nguyên nhân dùng để sáng tác Việt Lam

tiểu sử thì, sử liệu Trung Hoa là cái cớ “nói có sách” để chốt lại nội dung, dã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10

sử là hƣơng men quyến rũ ngƣời đọc và thực địa là tang chứng củng cố nội

dung. Chính bằng con đƣờng đó, tác giả Việt Lam tiểu sử đã tạo ra chất thực

thực hƣ hƣ cho tác phẩm. Nói về nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật, tác

giả bài viết đánh giá cao sự cố gắng của tác giả Việt Lam tiểu sử. Theo

Nguyễn Đăng Na, nếu Ngô Giáp Đậu “lơ là” trong việc xây dựng tính cách

nhân vật, thì ngƣợc lại tác giả Việt Lam tiểu sử lại rất quan tâm. Các nhân vật

chẳng hạn: Lê Lợi, Lê Thiện, Nguyễn Trãi, Đoàn Phát, Trần Hiến, Hoàng

Phúc, Hồ Quý Ly, Bùi Bá Kỳ, Phạm Đán, Đặng Tất, Lê Nhị, Lê Khâm,... mỗi

ngƣời có một tính cách không ai giống ai. Từ đó, tác giả bài viết cho rằng lẽ ra

nhờ những ƣu thế đó Việt Lam tiểu sử phải trở thành tác phẩm xuất sắc, đánh

dấu bƣớc phát triển mới của tiểu thuyết chƣơng hồi Việt Nam, nhƣng do tác

giả Việt Lam tiểu sử còn có một số vấn đề tạo nên sự phản cảm nên dẫn đến

tác phẩm chƣa đƣợc đánh giá thực chất. Để làm sáng tỏ hơn về điều này, nhà

nghiên cứu Nguyễn Đăng Na đã nêu và lý giải những vấn đề tạo nên sự phản

cảm cho tác phẩm đồng thời chỉ ra những mặt hạn chế về nội dung và hình

thức của tác phẩm này. Tuy nhiên khi chỉ ra những hạn chế trên, nhất là hạn

chế về nội dung, tác giả Nguyễn Đăng Na cũng giúp cho độc giả phát hiện ra

một ẩn ý khó nói của tác giả Việt Lam tiểu sử. Khi ngƣời Minh sang xâm lƣợc

nƣớc ta, họ gƣơng cao ngọn cờ diệt Hồ phù Trần để hấp dẫn ngƣời Việt. Đến

cả Lý Tự Thành - một thái giám già đời dƣới triều Trần cũng phải động lòng

khi nghe Trƣơng Phụ nói rằng “đến cõi bắt kẻ hung tàn để lập con cháu nhà

Trần” thế là Tự Thành vội vàng giãi bày tâm sự với Trƣơng Phụ. Nhƣng sau

phút bồng bột đó, Lý Tự Thành cũng chột dạ nên trong bức thƣ gửi cho con rể

Lê Thiện, ông đã nhắc nhở con tuy hợp sức giết kẻ thù nhƣng phải nghĩ mình

mà thờ chúa cũ. Phải chăng nhân vật Lý Tự Thành đã thay mặt tác giả để lại

bức thông điệp mà thời cuộc lúc bấy giờ không cho phép nói thẳng: Hãy cảnh

giác khi bắt tay với ngƣời Pháp. Còn với nhân vật Lê Lợi, mặc dù giúp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11

Trƣơng Phụ đánh thắng nhà Hồ nhƣng đến khi bắt đƣợc kẻ hung tàn Lê Lợi

nhắc đến việc “lập lại họ Trần” thì Trƣơng Phụ lại giả vờ đánh trống lảng

“hôm nay tiệc mừng hãy cứ uống rượu”. Đến lúc đó Lê Lợi mới vỡ lẽ ra rằng

tƣớng Minh muốn chiếm giữ nƣớc ta. Đấy phải chăng là sự vỡ lẽ của tác giả

Việt Lam tiểu sử? Dẫu sao tác giả Việt Lam tiểu sử chót làm việc với ngƣời

Pháp, biết “ăn nói làm sao bây giờ?”. Một con ngƣời dù chót lỗi lầm nhƣng

đã biết hối hận, có nghĩa là ở họ còn có lƣơng tri. Từ đó, tác giả bài viết đã

bày tỏ sự cảm thông sâu sắc đối với tác giả Việt Lam tiểu sử: “Hiểu được

những mâu thuẫn giằng xé trong con người cá nhân thời ấy, thấm thía cái giá

mà dân tộc phải trả cho cuộc sống tự do, hạnh phúc hôm nay, ta mới thông

cảm được với các tác giả Việt Lam tiểu sử. Và, càng cảm thông với nỗi khổ

tâm của thế hệ ấy, ta càng trân trọng chút ánh sáng lương tri mà họ gửi gắm

một cách “mờ mờ nhân ảnh” trong tác phẩm” [43,554].

Nhƣ vậy, tác phẩm Việt Lam tiểu sử đã đƣợc các nhà nghiên cứu tiếp

cận và khẳng định ở từng luận điểm cụ thể phục vụ cho các mục đích nghiên

cứu khác nhau. Tuy nhiên, những bài viết về nghệ thuật thể hiện nhân vật vẫn

còn hạn hẹp. Đây cũng chính là một gợi ý, một cơ hội để ngƣời viết thực hiện

đề tài. Tìm hiểu về nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tác phẩm Việt Lam tiểu

sử giúp ngƣời đọc thấy đƣợc một khía cạnh giá trị của tác phẩm, qua đó có cái

nhìn thấu đáo hơn về ý nghĩa của tác phẩm Việt Lam tiểu sử.

3. Phạm vi đề tài

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã tiến hành đọc và tham khảo một số tác

phẩm sau:

- Đọc tác phẩm Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan.

- Đọc tham khảo (để đối chiếu so sánh) một số tác phẩm thuộc thể loại

tiểu thuyết chƣơng hồi nhƣ:

+ Nam triều công nghiệp diễn chí (Nguyễn Khoa Chiêm). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12

+ Tam quốc diễn nghĩa (La Quán Trung).

- Ngoài ra chúng tôi còn đọc và tham khảo bộ sử:

+ Đại Việt sử ký toàn thư (Ngô Sĩ Liên).

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Luận văn cố gắng góp phần làm sáng tỏ những vấn đề có liên quan đến

tác giả, tác phẩm Việt Lam tiểu sử.

4.2. So sánh nhân vật trong Việt Lam tiểu sử với những nguyên mẫu trong

lịch sử để lý giải những tƣơng đồng và khác biệt giữa nguyên mẫu và các hình

tƣợng văn học.

4.3. Chỉ ra những nét đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện nhân vật của tiểu

thuyết Việt Lam tiểu sử để thấy đƣợc một phần tƣ tƣởng của tác giả, đồng thời

khẳng định những đóng góp, những thành tựu của tác phẩm Việt Lam tiểu sử

đối với thể loại tiểu thuyết chƣơng hồi.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Phƣơng pháp khảo sát thống kê và tổng hợp

Sử dụng phƣơng pháp này, ngƣời viết có thể khái quát đƣợc những nét

cơ bản nhất trong nghệ thuật thể hiện nhân vật của tiểu thuyết Việt Lam tiểu

sử thông qua việc khảo sát các nhân vật trong tác phẩm. Phƣơng pháp khảo

sát, thống kê và tổng hợp cũng là cơ sở tạo dữ liệu để chúng tôi thực hiện các

bƣớc tiếp theo là phân tích - bình giá. Đây cũng là một phƣơng pháp rất quan

trọng, giúp ngƣời nghiên cứu rút ra đƣợc những kết luận chính xác khoa học

đồng thời làm tăng thêm tính thuyết phục cho những kết luận khoa học ấy.

5.2. Phƣơng pháp phân tích tác phẩm và phân tích nhân vật theo loại hình

Mỗi một thể loại văn học đều có những đặc trƣng riêng biệt. Do đó khi

nghiên cứu, chúng tôi quan tâm sử dụng phƣơng pháp phân tích tác phẩm theo

đặc trƣng thể loại, nhằm đảm bảo tính chính xác khoa học khi phân tích văn

học, tránh áp đặt chủ quan. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13

5.3. Phƣơng pháp so sánh văn học

Sử dụng phƣơng pháp này, ngƣời viết nhằm để đối chiếu giữa các nhân

vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử với các nhân vật nguyên mẫu có trong

lịch sử để thấy đƣợc những nét tƣơng đồng, khác biệt, đồng thời thấy đƣợc tài

năng và sáng tạo của nhà văn Lê Hoan trong quá trình đƣa từ các nguyên mẫu

lịch sử thành các hình tƣợng văn học.

6. Những đóng góp của luận văn

- Lần đầu tiên tìm hiểu một cách hệ thống về nghệ thuật thể hiện nhân vật

trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan.

- Tìm tòi khám phá những vẻ đẹp còn tiềm ẩn trong Việt Lam tiểu sử - một

tác phẩm có giá trị nghệ thuật nhƣng bấy lâu nay chƣa đƣợc nhiều ngƣời biết

đến.

- Làm rõ tài năng sáng tạo của Lê Hoan trong việc nhào nặn từ các nguyên

mẫu lịch sử thành nhân vật văn học.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc triển

khai thành ba chƣơng sau đây.

Chƣơng 1: Tác giả, tác phẩm và vấn đề thể loại trong tiểu thuyết Việt

Lam tiểu sử.

Chƣơng 2: Nhân vật trong Việt Lam tiểu sử từ nguyên mẫu đến hình

tƣợng văn học.

Chƣơng 3: Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tác phẩm Việt Lam tiểu

sử.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14

NỘI DUNG

CHƢƠNG MỘT

TÁC GIẢ, TÁC PHẨM VÀ VẤN ĐỀ THỂ LOẠI TRONG

TIỂU THUYẾT VIỆT LAM TIỂU SỬ

1. Tác giả Lê Hoan

Lê Hoan (1856 - 1915) tự là Ƣng Chi, hiệu là Mục §×nh, thụy là Vân

Nghị. Ông sinh ngày 28 tháng 12 năm Bính Thìn (1856). Ngƣời thôn Cự Lộc,

xã Nhân Mục Môn, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, nay là phƣờng Thƣợng

Đình, quận Đống Đa, Hà Nội. Ông vừa là quan lại vừa là một nhà văn. Theo

Thanh Trì Lê Lựu thị thế phả, Lê Hoan từng giữ các chức Binh bộ thƣợng thƣ

kiêm Đô sát viên Hữu đô ngự sử, Tổng đốc Ninh - Thái - Hải - Yên, tƣớc Phú

Hoàn nam.

Theo cách nhìn nhận của những ngƣời hoạt động chính trị, ngƣời

nghiên cứu lịch sử mấy chục năm gần đây thì Lê Hoan là ngƣời không dành

đƣợc bao nhiêu thiện cảm với quốc dân. Ông đã từng hợp tác với kẻ thù và

đàn áp những cuộc khởi nghĩa, làm hại ngƣời yêu nƣớc và phản bội lại sự

nghiệp giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Trong tiểu sử của Lê Hoan, còn

có nhiều những ý kiến xuyên tạc cho rằng ông là một kẻ võ biền không có học

hành gì. Trải qua sự biến thiên của lịch sử những điều tiếng về tác giả Lê

Hoan đã ăn sâu vào tiềm thức của nhân dân Việt Nam.

Trên thực tế, lịch sử không chỉ giản đơn nhƣ vậy, xung quanh vấn đề

tiểu sử Lê Hoan còn có nhiều uẩn khúc khiến cho chúng ta không khỏi băn

khoăn và đặt ra nhiều câu hỏi. Đặc biệt là gần đây, các nhà nghiên cứu đã thu

thập đƣợc một số những tƣ liệu quan trọng có liên quan tới cuộc đời nhà văn

Lê Hoan. Đây chính là những căn cứ khoa học góp phần giúp cho chúng ta có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những cách nhìn nhận mới hơn về nhân vật này.

15

Theo sử sách, viên khâm sai đại thần Lê Hoan là một ngƣời đƣợc thực

dân Pháp giao dẹp yên cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Nhƣng trong “Từ điển thư

mục tác giả, tác phẩm tổng quát, cổ điển và hiện đại về Đông Dương thuộc

Pháp” của A.Brebion có viết: “Năm 1909, khi còn là Tổng đốc Hải Dương,

ông lại được bổ nhiệm làm khâm sai và ngày 4 tháng 8 ông ta đã chỉ huy bốn

trăm thân binh để tìm cách bắt liên lạc với các toán phỉ ở Yên Thế, trong đó

có toán phỉ của Đề Thám. Cuối năm đó ông ta bị kết tội làm những điều hại

đến thanh danh và hùm theo trùm phỉ và cuối cùng là tội phản bội” [2,230].

Năm 1998, GS. Lê Thành Khôi có chuyển cho báo Xưa và Nay một bức

thƣ của nhà sử học Charles Fourniau. Ngay sau khi nhận đƣợc bức thƣ này,

báo Xưa và Nay đã kịp thời đăng tải đƣợc tới bạn đọc. Trong thƣ gửi cho Lê

Thành Khôi đề ngày 18 - 7 - 1998, Charles Fourniau có nói rõ là khi trở lại

nghiên cứu về Doumer, ông đã tìm lại đƣợc những tài liệu có liên quan tới Lê

Hoan. Fourniau cho biết trong một báo cáo của viên chỉ huy Pháp Penequin

cho tổng chỉ huy quân đội Pháp đề ngày 13 - 10 - 1897 (nằm trong hồ sơ số

19243 ở Aixcote: CAUM - Indo GGI - Gouvernement general del Indochine)

nói ông ta nắm trong tay bức thƣ của Lê Hoan viết năm 1892 gửi cho Đề Kiều

nói rằng: “Lúc này chống với quân Pháp phỏng có ích gì, vì họ mạnh hơn.

Chúng ta hãy làm như đã từ bỏ sự nghiệp của người nước Nam, mà chỉ can

thiệp với Pháp thôi. Chúng ta phải kiên trì rồi một ngày kia chúng ta sẽ tập

hợp chống lại chúng và tống chúng ra biển. Thời cơ lúc này chưa đến, tốt hơn

hết hãy ru ngủ chúng bằng tình bạn giả vờ của chúng ta” [50,29]. Rồi

Pennequin kết luận: “Chúng ta đang bị khối quan lại và nho sĩ căm ghét, họ

không từ bỏ việc đánh đuổi chúng ta đâu” [50,29].

Cũng trên Tạp chí Xưa và Nay số 55 tháng 9 năm 1998, có đăng tải tài

liệu về Lê Hoan do bà Phan Thị Minh Lễ gửi về từ Pháp. Trong thƣ, bà Phan

Minh Lễ nói rằng từ lâu nhân tìm tòi những nhân vật cách mạng chống Pháp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16

từ đầu thế kỷ XX, bà có tìm thấy trong hồ sơ mật thám Pháp hai bài báo “Le

Journal de Paris” viết về nhân vật Lê Hoan có liên quan tới Đề Thám cùng

toàn quyền Đông Dƣơng. Tiến sĩ Phan Minh Lễ cũng gửi hai bài báo đã đọc

đƣợc tại cục lƣu trữ cơ quan mật thám của Pháp, bài thứ nhất “Ông Picquíe

chống Lê Hoan” đăng trên báo Le Journal de Paris số ra ngày 1- 4-1910. Bài

báo có đoạn viết: “Vụ khâm sai Lê Hoan đã diễn biến một cách kỳ quặc, ông

Picquíe toàn quyền Đông Dương lâm thời, người đã ra lệnh chấm dứt quyền

hành đặc biệt của viên quan khâm sai ngày 1 tháng 3 vừa qua, vừa ra lệnh mở

cuộc điều tra về hành vi nhận hối lộ của viên khâm sai, cùng với những người

xung quanh ông ta” [32,31]. Bài thứ hai Lê Hoan có phải là kẻ phản bội hay

không? số ra ngày 24 - 4 - 1910. Bài báo có đoạn viết: “Cuộc điều tra về Lê

Hoan đang tiếp tục. Chúng tôi nói những gì về con người này.

Ngày nay, ai cũng biết rằng Lê Hoan được nước Pháp giao trách nhiệm

săn đuổi và bắt Đề Thám, lại trao đổi thư từ với Đề Thám một cách hoàn toàn

thân mật. Bản gốc của những thư từ này được tìm thấy tại vị trí NUI LANG

(chỗ này bản chụp lại mờ không có dấu – ND) do Đề Thám để lại sau một

trận đánh quyết liệt khiến cho bốn mươi lính Pháp phải thiệt mạng” [32,31].

Cả hai bài báo này đều là những tài liệu quan trọng đƣợc cắt ra và lƣu vào hồ

sơ về Lê Hoan của mật thám Pháp.

Gần đây nhất, trên báo Xưa và Nay số 110 (2 - 2002), có đăng bài

Quanh việc đánh giá nhân vật Lê Hoan trong lịch sử cận đại của thạc sĩ sử

học Gerard Sarger Đại học Cambridge. Thạc sĩ Gerard Sagrer cho biết: “Ngay

sau khi bắt tay vào việc nghiên cứu những cuộc nổi dậy và bạo động của nông

dân Trung du Bắc Bộ vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tôi gặp phải những

vấn đề có liên quan đến viên đại thần Lê Hoan” [52,34]. Khi bắt đầu tiếp xúc

với những tƣ liệu trong Cục lƣu trữ Hải ngoại của Pháp và Cục lƣu trữ Quốc

gia Việt Nam, Gerard Sarger phát hiện ra một số vấn đề nổi bật trong các tài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 17

liệu của Pháp nói về Lê Hoan là các quan chức Pháp không hề tin tƣởng ông

ta “Các quan chức ở mọi cấp từ địa phương đến toàn quyền đều tỏ ra nghi

ngờ lòng trung thành của Lê Hoan đối với chế độ thuộc địa. Ngay cả cho tới

năm 1909 khi Lê Hoan được bổ nhiệm làm khâm sai có trách nhiệm dẹp yên

cuộc khởi nghĩa Yên thế, Thống sứ Pháp Bắc Kỳ buộc phải cấm Lê Hoan tiếp

xúc với báo giới người Âu để tổ chức phỏng vấn công khai vì sợ ông ta chỉ

trích hay gây rối cho chính quyền. Trong một bức thư gửi cho Công Sứ Hải

Dương nơi Lê Hoan làm tổng đốc, viên Thống sứ Pháp Simoni viết: “Đề nghị

báo cho tổng đốc biết rằng ông ta không được trả lời phỏng vấn công khai

nhất là các cuộc phỏng vấn mà ông ta có thể chỉ trích chính quyền hay chính

sách của chính phủ” [52,34]. Theo thạc sĩ Gerard Sarger, mọi sự không tin

tƣởng này không phải là không có cơ sở. Trong khi Lê Hoan mở chiến dịch

chống Hoàng Hoa Thám vào 1896, thủ lĩnh nghĩa quân này bố trí giết hai tên

Pháp. Cuộc điều tra ngay sau đó cho thấy có thể Lê Hoan đã liên kết với

Hoàng Hoa Thám nhƣng do chƣa có bằng chứng hoàn toàn chính xác nên

chính phủ Pháp chỉ chuyển Lê Hoan khỏi vị trí hoạt động và giáng chức

xuống hai cấp.

Ngoài ra, Gerard Sarger còn cung cấp thêm một số thông tin khác khá

quan trọng. Đó là đến thời điểm xảy ra vụ âm mƣu đầu độc trại lính Pháp ở

Hà Nội năm 1908 thì Lê Hoan đã đƣợc hồi phục chức vụ của mình và đƣợc bổ

nhiệm làm Tổng đốc tỉnh Hải Dƣơng. Năm1909 khi Lê Hoan đƣợc bổ nhiệm

làm chỉ huy một đội cảnh sát đi dẹp yên cuộc khởi nghĩa Yên Thế với vai trò

quan trọng, Lê Hoan không những chỉ huy lực lƣợng cảnh sát chính quy tuần

tiễu khắp vùng trung tâm Bắc Bộ mà còn có quyền thuê thám tử bí mật và cấp

cho họ giấy tờ xác nhận. Loại giấy tờ này cho phép họ đi lại tự do khắp vùng.

Cuối năm 1909 xảy ra vụ hai ông Đỗ Văn Huỳnh và Vũ Ngọc Thụy bị bắt.

Điều đáng nói là cả hai ngƣời này đều mang tờ chứng minh họ là mật thám Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 18

của Lê Hoan “Huỳnh mang giấy tờ của cháu ông ta là Nguyễn Tư Trung, có

hai bộ giấy tờ căn cước cho phép anh ta an toàn khi ở nhà, trong khi ông bác

lại sử dụng giấy căn cước đó để đi lại như con thoi giữa Yên Thế và Hà Nội.

Về phần mình Thụy là gián điệp chính thức của Lê Hoan” [52,35]. Vụ việc

này đã khiến ngƣời Pháp đặt ra câu hỏi vì sao Huỳnh và Thụy có thể đi lại tự

do khắp Bắc Kỳ lâu đến nhƣ vậy? Tuy nhiên trong vụ việc này, không chỗ

nào có bằng chứng cho thấy Lê Hoan biết về hoạt động của các điệp viên của

mình. Lê Hoan có thể phủ nhận một cách hợp lý mọi sự liên quan và đƣa vụ

việc xuống chỉ còn là một sự thất bại đáng tiếc trong việc đánh giá cấp dƣới,

vì không có chứng cớ nên ngƣời Pháp đành chấp nhận lời giải thích này và

đƣa ra những lời nhận xét chua cay của phòng nhì nói với công sứ Pháp:

“Những sự kiện thực tế này thể hiện rõ ràng là chúng ta chỉ có thể đặt rất ít

niềm tin vào các điệp viên Việt Nam và càng giải thích thêm vì sao mà chúng

ta lại rất khó khăn trong việc phát hiện ra nơi ẩn náu của nghĩa quân, sau

mỗi lần giao chiến” [52,35]. Sự việc diễn ra khiến ngƣời ta đánh giá Lê Hoan

đã hỗ trợ bí mật cho chính ngƣời mà phía Pháp đã cử Lê Hoan đi để phá hoại.

Thêm vào đó ngày 23 tháng 3 năm 1909, ngay sau khi bắt đầu chiến dịch cuối

cùng chống Hoàng Hoa Thám, Thống sứ Simoni ở Hà Nội nhận đƣợc một bức

thƣ lạ của công sứ lạng sơn tên là Du Vaure giải thích rằng vào tháng 8 năm

1908 ông ta đã bắt giữ một trong số thủ lĩnh chính của Đề Thám tên là Dƣơng

Bang, cùng với 13 ngƣời khác. Trong cuộc thẩm vấn, Dƣơng và những ngƣời

của ông ta đã xác nhận là kế hoạch âm mƣu đầu độc trại lính Pháp ở Hà Nội là

do một nhóm quan lại cao cấp của triều đình vạch ra dƣới sự lãnh đạo của Lê

Hoan. Tuy nhiên với sự khôn khéo thông minh của Lê Hoan, mọi lời cáo buộc

của ngƣời Pháp đều trở nên vô căn cứ và không đƣợc bảo đảm.

Nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến Lê Hoan, thạc sĩ sử học

Gerard Sarges đặt ra câu hỏi: “Vậy Lê Hoan có phải là nhà yêu nước hay Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 19

không? Phải chăng trong lúc Lê Hoan vừa là một đầy tớ trung thành của chế

độ thực dân Pháp ông ta lại hợp tác với Hoàng Hoa Thám và những người

khác để đuổi Pháp ra khỏi Việt Nam? Kết luận này là một cách để giải thích

những sự kiện trên. Dù có một sự nghiệp dài và nổi bật nhưng Lê Hoan chưa

bao giờ được người Pháp tin tưởng một cách tuyệt đối” [52,40].

Khi tìm hiểu và đánh giá về tác giả Lê Hoan, ngoài căn cứ từ những tài

liệu quan trọng đƣợc các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc sƣu tầm chúng

ta không thể không chú ý đến hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam những năm

cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Sau bao nhiêu năm lăm le dòm ngó, ngày 31 - 8 - 1858 thực dân Pháp

nổ súng vào cửa bể Đà Nẵng mở đầu cuộc xâm lƣợc chính thức nƣớc ta. Ngày

10 tháng 2 năm 1859 từ Vũng Tầu chúng pháo kích các công sự bảo vệ con

đƣờng thuỷ vào Gia Định và 8 ngày sau chúng chiếm thành Gia Định. Từ giữa

thế kỷ trƣớc trong cuộc chiến đấu chống Pháp, Miền Nam đã đi đầu trong toàn

quốc. Thực dân Pháp phải trải qua một thời gian non bốn mƣơi năm mới đặt

đƣợc ách thống trị trên đất nƣớc ta. Trong thời gian ấy, chúng lần lƣợt đánh

chiếm ba tỉnh miền Đông rồi tiến đánh ba tỉnh miền Tây. Sau khi chiếm đƣợc

toàn bộ Nam Kỳ thực dân Pháp bắt đầu đánh ra Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Thắng

lợi của thực dân Pháp đánh dấu bằng những hàng ƣớc của triều đình Huế ký

kết với chúng. Hàng ƣớc năm 1862 nhƣờng ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định

Tƣờng và đảo Côn Lôn cho thực dân Pháp. Điều ƣớc và thƣơng ƣớc 1883 và

1884 thì công nhận sự đô hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Đến

đầu thế kỷ XX thực dân Pháp thực sự tiến hành khai thác thuộc địa về mặt

kinh tế, nhân dân lầm than cơ cực, xã hội có sự phân hóa giai cấp sâu sắc.

Tƣơng lai của Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX còn mờ mịt, phong trào

yêu nƣớc giải phóng dân tộc đang tạm thời bị thất bại. Trƣớc tình hình đó một

bộ phận không nhỏ trong hàng ngũ quan lại triều đình Huế hoang mang. Theo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 20

Pháp thì sợ bị lên án, nhƣng không theo lại sợ Pháp, đƣơng đầu với Pháp cũng

không dám, đã có một số cá nhân mạnh bạo đứng hẳn vào hàng ngũ đối lập

với kẻ địch, dứt khoát sống mái với kẻ thù để bảo vệ non sông, có ngƣời đầu

hàng địch làm tay sai phản bội lại tổ quốc. Có một số vì hoàn cảnh và một số

lý do khác nhau phải hợp tác với kẻ địch. Một trong số những ngƣời đã nhận

quan tƣớc của triều đình là Lê Hoan, mà triều đình lại đặt dƣới sự bảo hộ của

Pháp, do đó dù muốn hay không muốn Lê Hoan vẫn phải hành động theo sự

chỉ huy của ngƣời Pháp. Vì vậy, ông đƣợc liệt vào hàng ngũ bán nƣớc hại dân.

Thực ra, Lê Hoan cũng nhƣ một số quan lại của triều đình cũng có khi bị ép

buộc, có ngƣời do bát cơm manh áo ràng buộc, cũng có ngƣời ngây thơ chính

trị cả tin Pháp tƣởng họ là những ngƣời khai sáng văn minh, chỉ sau khi làm

việc với ngƣời Pháp họ mới vỡ lẽ ra rằng mình bị lừa, đến lúc ân hận muốn từ

bỏ con đƣờng quan tƣớc để trở lại dân thƣờng. Nhƣng mặc cảm tội lỗi đè nặng

hai vai họ cũng không đủ dũng khí để làm lại cuộc đời. Vả lại, chính ngƣời

Pháp cũng không để cho họ cơ hội làm lại cuộc đời. Có lẽ cũng bởi những

mặc cảm tội lỗi không thể thoát ra đƣợc cạm bẫy nên Lê Hoan đã kín đáo gửi

gắm tâm sự của mình trong lời tựa của tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử: “Cần phải

tường tận bản sắc anh hùng Lê Thái Tổ. Khi thời cơ chưa đến thì thuận theo

đạo trời, an tâm với mệnh, thương kẻ sĩ yêu dân lành, giả cách nhún nhường

để khỏi nhận chức tước của triều ngụy. Lúc thời cơ tới thì dùng người hiền

tài, dựa vào kẻ có năng lực, điều binh khiển tướng tiêu diệt giặc Minh, khôi

phục nước nhà. Trong mười năm trù hoạch kinh dinh không có một việc làm

nào của ngài chứng tỏ ngài không phải là vị quốc vương có trí, có nhân, có

dũng. Nếu không phải là một ông vua độ lượng liệu có thể như thế được

chăng?” [26,15].

Có thể nói rằng, nếu Lê Hoan không phải là ngƣời có tâm huyết thì khó

lòng mà có đƣợc sự đánh giá về Lê Lợi khá toàn diện và nói lời kính phục Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 21

thành thật, chất phát đến nhƣ vậy. Việc lựa chọn chủ đề nói chuyện về vua Lê

Thái Tổ lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng quân Minh giải phóng đất nƣớc khỏi

ách thống trị của ngoại bang vào thế kỷ XV và sau đó lập ra triều đại hậu Lê

trong cuốn Việt Lam tiểu sử có vẻ nhƣ hơi lạ đối với một ngƣời đã từng phục

vụ một cƣờng quốc ngoại bang muốn xâm lƣợc Việt Nam. Trong lời tựa của

cuốn Việt Lam tiểu sử, Lê Hoan nói rằng ông cảm thấy cần phải xuất bản bản

thảo đó để các thế hệ ngƣời Việt Nam sau này có thể học về một ngƣời anh

hùng dân tộc này và áp dụng một số bài học cho một số tình huống khó khăn

mà họ có thể gặp phải.

Những dẫn chứng và các kết quả mà các nhà nghiên cứu tìm đƣợc mới

chỉ là gián tiếp khó có thể đánh giá một cách chắc chắn về Lê Hoan và vai trò

của ông trong lịch sử Việt Nam. Nhƣng qua những tài liệu mật những cuộc

điều tra tranh cãi, giúp chúng ta có thể nhìn nhận mới hơn về nhân vật này.

Đúng nhƣ GS. Chƣơng Thâu đã nói: “Vấn đề rõ ràng là chưa thể kết luận.

Nhưng phải chăng có thể đưa ra một suy nghĩ để giúp cho sự nghiên cứu, sự

bình luận được “văn hành công khí hơn”. Đó là sự đánh giá nhân vật lịch sử

của chúng ta không thể cứ theo một định kiến, một thói quen mà điều trước

mắt là phải có thật nhiều, thật dồi dào tư liệu lịch sử. Công bằng hay bất công

chỉ có tư liệu mới là cơ sở vững chắc cho chúng ta đoán định” [63,397].

Về nhân vật Lê Hoan, các nhà nghiên cứu còn phải tốn kém khá nhiều

thời gian để chứng minh tranh luận nhƣng có một điều ai cũng phải thừa nhận

đó là công lao của Lê Hoan đóng góp cho sự nghiệp văn học nƣớc nhà qua

việc năm 1905 ông tổ chức cuộc thi thơ Đề Thanh Tâm Tài Nhân và một số

tác phẩm đƣợc các nhà nghiên cứu sƣu tầm công bố nhƣ tiểu thuyết chữ Hán

Việt Lam tiểu sử (còn có tên Việt Lam xuân thu hơn 400 trang), Lê Lựu Thanh

Trì thị thế phả và các văn bút văn bia, câu đối,...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 22

2. Tác phẩm Việt Lam tiểu sử

Việt Lam tiểu sử là một trong những sáng tác ra đời vào buổi xế chiều

của tiểu thuyết chƣơng hồi Việt Nam thời trung đại. Không chỉ có nhiều uẩn

khúc trong vấn đề tác giả mà cuốn tiểu thuyết này còn nhiều vấn đề khá phức

tạp khác cần đƣợc quan tâm xem xét.

2.1. Tên gọi

Cho đến nay Việt Lam tiểu sử có 3 tên gọi: Hoàng Việt xuân thu, Việt

Lam xuân thu, và Việt Lam tiểu sử. Để xác định tên gọi đích thực của tác

phẩm này, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na chúng ta cần phải phân loại

theo hai tiêu chí: Loại hình thể loại và nội dung.

Trƣớc hết là theo loại hình thể loại, dựa vào những chữ chỉ thể loại tác

phẩm đứng cuối nhan đề của sách ta có thể chia chúng làm hai loại: Loại hình

lịch sử và loại hình phi chức năng lịch sử. Loại hình lịch sử gồm các nhan đề

Hoàng Việt xuân thu và Việt Lam xuân thu, chính hai chữ “xuân thu” cuối

sách đã chỉ rõ rằng chúng thuộc loại hình lịch sử. Bởi vì từ xƣa ngƣời ta đã

dùng thuật ngữ xuân thu để chỉ các bộ sử biên niên của Trung Hoa. Điều này

xuất phát từ thuyết cho rằng Khổng Tử đã san định bộ sử biên niên nƣớc Lỗ

mà đời sau gọi là xuân thu. Sách xuân thu đƣợc liệt vào một trong năm bộ

kinh của Nho gia (kinh thi, kinh thu, kinh lễ, kinh dịch, kinh xuân thu). Loại

hình phi chức năng lịch sử chính là nhan đề Việt Lam tiểu sử. Sở dĩ gọi là tiểu

sử theo lời Lê Hoan giải thích trong lời tựa Việt Lam tiểu sử là để phân biệt

với chính sử.

Theo nội dung, dựa vào nhan đề sách ta có thể chia nội dung tác phẩm

thành hai loại: Loại viết về một thời đại không xác định và loại viết về thời đại

xác định. Loại viết về thời đại lịch sử không xác định là Hoàng Việt xuân thu.

“Hoàng Việt” là khái niệm dùng để chỉ các triều vua nƣớc Việt nói chung

không giới hạn ở một triều vua nào nhất định. Loại viết về một thời đại xác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 23

định gồm Việt Lam xuân thu và Việt Lam tiểu sử. “Lam” là chữ Lam sơn viết

tắt. “Việt” là Việt Nam. Với nhan đề là Việt Lam xuân thu, Việt Lam tiểu sử,

dù tác phẩm thuộc loại hình văn học nào thì nội dung của chúng cũng chỉ nói

về thời kỳ Lam Sơn khởi nghĩa của ngƣời Việt.

Hiện nay các thƣ viện Hà Nội còn lƣu trữ ít nhất tám văn bản tác phẩm.

Nội dung của chúng tuy có xuất nhập nhƣng về cơ bản không khác nhau

nhiều. Văn bản đầy đủ nhất có 60 hồi thì 51 hồi (từ hồi 10 đến hồi 60) viết về

phong trào khởi nghĩa do Lê lợi lãnh đạo, 9 hồi còn lại (từ hồi 1 đến hồi 9) tuy

không trực tiếp phản ánh khởi nghĩa Lam Sơn nhƣng tạo dựng không khí tiền

khởi nghĩa. Bởi vậy, nhan đề Hoàng Việt xuân thu không thật sự phù hợp với

nội dung tác phẩm dù trên thực tế nhan đề đó vẫn tồn tại và chiếm một tỉ lệ

khá lớn. Hiện nay tám bản còn lƣu trữ tại các thƣ viện quốc gia, viện sử học

và viện nghiên cứu Hán Nôm thì có tới sáu bản ghi tên tác phẩm là Hoàng

Việt xuân thu. Đó là các bản mang số hiệu HVv 2085, VHv 1683, A13, A

3215. VH 141 và R451. Còn lại văn bản ghi tên tác phẩm là Việt Lam xuân

thu, Việt Lam tiểu sử chỉ có hai đó là bản VHv1819 và HV 84. Điều đáng chú

ý là các sách mang nhan đề Hoàng Việt xuân thu đều là bản chép tay còn sách

có tên Việt Lam xuân thu, Việt Lam tiểu sử đều là bản in và đƣợc in vào năm

Mậu Thân 1908 thời Duy Tân.

Bên cạnh đó trong lời đề tự cho Hoàng Việt long hưng chí viết 1804,

Ngô Giáp Đậu vẫn gọi tác phẩm kia là Hoàng Việt xuân thu Ông viết: “Các

truyện chí của nước Nam thời nào cũng có người sáng tác. Sách Hoàng Việt

xuân thu thuật lại duyên cớ phế hưng qua qua các đời” [43,332] (trích lại theo

Nguyễn Đăng Na). Lời đề tựa của Ngô Giáp Đậu cho thấy Hoàng Việt xuân

thu là nhan đề vốn có của tác phẩm và tới năm 1904 nó vẫn còn. Thế nhƣng

trong cả 8 văn bản nhất là văn bản đủ 60 hồi đều chỉ kể về thời Lam Sơn chứ

không thuật lại duyên cớ phế hƣng qua các đời. Cũng bởi đầu thế kỷ XX lịch Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 24

sử Việt Nam có cái gì đó na ná nhƣ những năm đầu thế kỷ XV. Vì thế, ngƣời

ta đã sử dụng Hoàng Việt xuân thu để gửi gắm tâm sự cá nhân và cắt xén một

phần nào đó đúng nhƣ lời nhận xét của GS. Phan Huy Lê khi đọc Việt Lam

xuân thu: “Những cứ liệu lịch sử đó đã bị tác giả cắt xén một cách rất tuỳ

tiện”. Bởi vậy, Việt Lam xuân thu không đủ tƣ cách là tác phẩm thuộc loại

hình lịch sử mà thuộc loại hình phi lịch sử. Nghĩa là tác phẩm đã đƣợc chuyển

từ văn học chức năng hành chính sang chức năng nghệ thuật qua sự “hư cấu”

và “sáng tạo” của tác giả. Khi đã gia công nhào nặn thành “một bộ tiểu thuyết

lịch sử về cơ bản xây dựng theo sự hư cấu, theo trí tưởng tượng của tác giả”

thì hai chữ xuân thu không còn phù hợp với nhan đề của tác phẩm nữa. Do đó,

Lê Hoan mới đặt nhan đề cho sách là Việt Lam tiểu sử để phân biệt với chính

sử. Nhƣ vậy dựa vào nội dung cũng nhƣ nghệ thuật của tác phẩm, đặt nhan đề

Việt Lam tiểu sử nhƣ Lê Hoan là hợp lý. Đây cũng là căn cứ để khi nghiên

cứu thiên tiểu thuyết này, chúng tôi đã chọn tên gọi là Việt Lam tiểu sử.

2.2. Vấn đề xác định tác giả Việt Lam tiểu sử

Tác phẩm Việt Lam tiểu sử không phải ngay từ khi sinh ra nó đã hoàn

chỉnh và có tên gọi nhƣ vậy. Cho đến nay vấn đề ai là tác giả của Việt Lam

tiểu sử vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau chƣa đi đến thống nhất.

Theo học giả Trần Văn Giáp xác định trong Tìm hiểu kho sách Hán

Nôm (tập 2) thì tác giả tƣơng truyền là Vũ Xuân Mai, Tri huyện Phúc Thọ (Hà

tây).

Ngƣợc lại với ý kiến của Trần Văn Giáp, nhà nghiên cứu Tạ Ngọc Liễn

lại cho rằng Vũ Xuân Mai không phải là ngƣời khởi thảo bộ tiểu thuyết lịch sử

chƣơng hồi Việt Lam tiểu sử. Vũ Xuân Mai sống cùng thời với Lê Hoan, nếu

Vũ Xuân Mai là tác giả của Việt Lam tiểu sử thì chắc chắn Lê Hoan Phải biết,

phải nói tới họ Vũ khi sửa chữa khắc in thành Việt Lam tiểu sử. Ngƣợc lại, Vũ

Xuân Mai cũng biết việc làm của Lê Hoan và không thể không có phản ứng gì Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 25

để “bảo vệ quyền tác giả”. Theo Tạ Ngọc Liễn: “Việt Lam xuân thu vẫn là tác

phẩm khuyết danh, chính Lê Hoan là người đã phát hiện rồi bỏ nhiều công

sức sửa chữa khắc in cuốn Việt Lam xuân thu cũng không nói ai là tác giả”

[26,402].

Năm 1914, khi bắt đầu dịch và cho công bố bản dịch Việt Lam tiểu sử,

Nguyễn Đông Châu viết trong nhời của ngƣời dịch sách rằng: “Nguyên bản

chữ nho truyện Việt Lam xuân thu này đã có từ lâu lắm không biết đích xác là

ai làm nhưng có nhiều người truyền là của Nguyễn Trãi làm ra. Đến năm Duy

Tân Mậu Thân (1908) quan Tổng Đốc Hải Dương Phú Hoàn tử Lê tướng

công có đề thêm bài tựa và khắc in ra, ai ai cũng được đọc và cũng lấy làm

hay lắm. Chúng tôi thấy sách hay nên dịch ra quốc âm để chư vị dễ xem,

không chỉ mua vui trong mười lăm phút đồng hồ mà ai xem sách này còn biết

được sự tích nước mình” [5,1]. Nhƣ vậy, nếu theo bản dịch của Đông Châu thì

tác giả của Việt Lam tiểu sử có thể là Nguyễn Trãi và Lê Hoan. Nhƣng trong

Việt Lam tiểu sử bản Nguyễn Đông Châu không có bài tựa của Lê Hoan. Điều

đáng nói là, nếu đọc nhời của ngƣời dịch sách của Nguyễn Đông Châu thì

chúng ta sẽ thấy rằng tác phẩm Việt Lam tiểu sử hiện hành ngay khi mới đƣợc

viết ra đã hoàn thiện và hay nhƣ vậy chứ không biết đƣợc là văn bản đã đƣợc

Lê Hoan gia công sửa chữa khá công phu.

Bác bỏ ý kiến cho rằng Việt Lam tiểu sử là của Nguyễn Trãi làm ra, nhà

sử học Phan Huy Lê khi tìm hiểu tác phẩm Việt Lam tiểu sử đã đƣa ra ý kiến:

“Căn cứ vào thể văn và nội dung của tác phẩm tôi nghĩ rằng chúng ta đã đủ

căn cứ để bác bỏ ý kiến cho rằng đây là tác phẩm của thế kỷ XV do Nguyễn

Trãi viết” [31,33].

Năm 1999 khi dịch và công bố tác phẩm Việt Lam tiểu sử, tác giả Trần

Nghĩa đã dựa theo ý kiến của học giả Trần Văn Giáp trong Tìm hiểu kho sách

Hán Nôm (tập 2) và đi đến kết luận Việt Lam tiểu sử do Xuân Mai biên soạn, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 26

Lê Hoan nhuận sắc. Theo Trần Nghĩa: “Từ trước đã có văn bản Việt Lam

xuân thu rồi đến năm Mậu Thân (Duy Tân 1908) Lê Hoan đã đưa vào đó để

biên tập lại thành “Tân bản” với hi vọng nâng cao về nội dung cũng như

nghệ thuật một tác phẩm tiểu thuyết lịch sử trình bày dưới dạng chương hồi”

[26,14].

Gần đây nhất năm 2006, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na có bài viết

“Việt Lam tiểu sử tác giả, tác phẩm, và phương pháp sáng tác” in trong Con

đường giải mã văn học trung đại Việt Nam. Trong bài viết, Nguyễn Đăng Na

đã đƣa ra những căn cứ và lý giải về vấn đề ai là tác giả Việt Lam tiểu sử.

Theo Nguyễn Đăng Na, Việt Lam tiểu sử thoát thai từ Hoàng Việt xuân thu.

Bởi vậy, muốn biết ai là tác giả phải bắt đầu từ Hoàng Việt xuân thu. Ngƣời

đầu tiên đề cập tới Hoàng Việt xuân thu có lẽ là Ngô Giáp Đậu - tác giả

Hoàng Việt long hưng chí. Ông không chỉ cho biết nội dung Hoàng Việt xuân

thu mà còn gợi ý thời điểm ra đời của nó có thể trƣớc Việt Nam quốc chí của

Nguyễn Khoa Chiêm. Bởi vì, Việt Nam quốc chí đƣợc ra đời năm 1917. Nếu

Hoàng Việt xuân thu ra đời trƣớc thì tác phẩm này phải đƣợc viết chậm nhất

là năm 1719. Điều này hợp với ý kiến của Nguyễn Đông Châu: “Việt Lam

xuân thu đã có lâu lắm, không biết đích xác ai làm nhưng có nhiều người

tương truyền là của Nguyễn Trãi” [5,1]. Nếu cho rằng Việt Lam xuân thu là

của Nguyễn Trãi thì không đúng bởi ông sinh ở thế kỷ XV mà sách ra muộn

nhất là thế kỷ XVIII, nhƣng khẳng định sách đã có lâu lắm là hoàn toàn đúng.

Tuy nhiên, với các minh chứng nói trên, ta mới kết luận đƣợc rằng Hoàng Việt

xuân thu ra đời chậm nhất là năm 1719. Câu trả lời ai là tác giả vẫn còn đang

bỏ ngỏ. Sau Ngô Giáp Đậu là Trần Văn Giáp tuy nhiên Trần Văn Giáp cũng

chỉ khảo về Việt Lam tiểu sử. Ông cho biết tác phẩm “tương truyền” là của Vũ

Xuân Mai ngƣời phƣờng Xuân Yên tỉnh Hà Nội, đậu cử nhân khoa kiến phúc

Giáp Thân 1884. Tuy nhiên để lƣu ý ngƣời đọc về lời truyền đó ông nhấn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 27

mạnh “lời truyền này chưa tìm thấy ghi trong sách nào cả”. Theo nhà nghiên

cứu Nguyễn Đăng Na, để kết luận ai là tác giả của Việt Lam tiểu sử chúng ta

cần phải có những chân lý xác thực chứ không thể dựa vào những cảm nhận

“có lẽ đúng”, những “suy đoán” hay “tương truyền”. Từ đó, Nguyễn Đăng Na

cũng đƣa ra ba chứng cớ để cho phép ta nghi ngờ một cách khoa học rằng tác

giả Việt Lam tiểu sử không ai khác ngoài Lê Hoan.

Thứ nhất, khi viết lời tựa cho Việt Lam tiểu sử tại sao Lê Hoan không

công bố tên quyển sách mà ông đã cất công tìm tòi, mãi gần đây mới thấy

trong hòm sách của một danh gia? Ông chỉ gọi một cách lấp lửng là “sách

ấy”. Trong lời tựa, dù có tới bốn lần Lê Hoan nhắc tới tác phẩm do ông tìm ra

nhƣng cả bốn lần ông đều dùng hai chữ “thị thư” hoặc “kỳ thư”. Cách nói mập

mờ ấy, khiến ta nghĩ rằng cái gọi là “thị thư” hoặc “kỳ thư” là không có thực

mà do Lê Hoan bịa ra và đó chính là Việt Lam tiểu sử của ông. Bên cạnh đó,

đầu đề bài viết là Việt Lam tiểu sử tự thì “đắc thị thư” là “đắc Việt Lam tiểu

sử”. Nhƣng tại sao Lê Hoan không nói thẳng ra Việt Lam tiểu sử do ông sáng

tác ra? Cũng bởi vì, cuộc đời chính trị của ông còn nhiều khúc mắc. Do vậy,

ông phải lấp lửng “mới đây tìm trong hòm sách sử của một nhà có tiếng thấy

bộ sách này - bộ sách Việt Lam tiểu sử - nhưng vì lối viết chưa được (mười

phần) hoàn toàn khéo léo rõ ràng và hay” nên ông phải “lựa lúc rảnh rỗi sửa

chữa lại giao cho thợ đem khắc in”. Vậy bài tựa đã mập mờ cho thấy tác giả

của sách là Lê Hoan.

Thứ hai, cũng trong bài tựa có một chi tiết chỉ ra rằng, trong quá trình

tạo dựng tác phẩm, Lê Hoan đã sử dụng phƣơng pháp thực địa bằng cách đi

khảo sát trực tiếp các di tích của chiến trƣờng xƣa. Điều đó khiến ta nghĩ rằng

nếu Lê Hoan không phải là tác giả Việt Lam tiểu sử thì chí ít cũng là ngƣời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

giữ vai trò quan trọng trong việc sinh thành ra tác phẩm.

28

Chứng cứ thứ ba là, căn cứ vào tƣ tƣởng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm

nhân vật Lê Thiện dƣờng nhƣ là phát ngôn viên của tác giả. Khi luận bàn về

quan hệ với nhà Minh, Lê Thiện nói:

- Ta nên hợp sức với nhà Minh mà diệt họ Hồ để khôi phục nhà Trần,

để cai trị một phương cứu cho dân khỏi chịu khổ sở [Hồi 10].

- Ta quân đơn tướng ít, nước nhỏ dân nghèo, thế mà muốn cầm vài

nghìn quân ô hợp để kháng cự với trăm vạn quân hùm beo có khác gì lấy

trứng trọi với đá… không gì bằng hiệp với nhà Minh để trừ giặc Hồ khiến cho

nước Nam lại về chủ cũ... Nếu nhà Minh có bụng dòm nom cũng còn phải sợ

tai tiếng không dám làm [Hồi 12].

Đây cũng chính là tƣ tƣởng của Lê Hoan đã đƣợc gửi gắm trong bài

tựa: “Thời mà chưa đến thì thuận theo mệnh... thời đến thì dùng người hiền,

sử dụng người tài, khiển tướng xuất quân diệt giặc Minh mà yên định nước

nhà,…” [26,15]. Tác giả Việt Lam tiểu sử muốn ví mình với Lê Lợi nhận chức

tuần kiểm Giao Chỉ của ngƣời Minh, giữ chức Kim Ngô đại tƣớng quân cho

Quý Khoáng. Đó là vì thời chƣa tới nên phải giả cách nhún nhƣờng. Điều đặc

biệt, tƣ tƣởng xuyên suốt Việt Lam tiểu sử rất giống nội dung bức thƣ của Lê

Hoan gửi Đề Kiều mà Tạp chí Xưa và Nay mới đây vừa công bố: “Lúc này

chống với quân pháp phỏng có ích gì, vì họ mạnh hơn. Chúng ta hãy làm như

đã từ bỏ sự nghiệp của người nước Nam, mà chỉ thân thiện với Pháp thôi.

Chúng ta phải kiên trì rồi một ngày kia chúng ta sẽ tập hợp chống lại chúng

và tống chúng ra biển. Thời cơ lúc này chưa đến. Tốt hơn hết là hãy ru ngủ

chúng bằng tình bạn giả vờ của chúng ta” [50,29].

Sự nhất quán giữa Việt Lam tiểu sử, tƣ tƣởng chủ đạo của tác phẩm và

bức thƣ gửi cho Đề Kiều khiến chúng ta không thể không nghĩ rằng tác giả

Việt Lam tiểu sử chính là Lê Hoan.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 29

3. Vấn đề thể loại trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử

3.1. Khái niệm tiểu thuyết chƣơng hồi

Theo Từ điển văn học, tiểu thuyết chƣơng hồi là: “Thuật ngữ chỉ một

dạng thức tiểu thuyết trường thiên quan trọng trong văn học cổ điển Trung

Quốc và Việt Nam. Tiểu thuyết viết theo dạng này, phân chia tác phẩm thành

các hồi khác nhau phát triển từ lối giảng sử thoại bản (kể chuyện lịch sử, thời

Tống - Nguyên. Giảng sử thoại bản là hình thức kể chuyện (chủ yếu là truyện

lịch sử) được những người kể chuyện trong dân gian (thuyết thoại nhân -

người kể chuyện, thuyết thư nhân - người kể sách) các đời kể lại, đối với

những câu chuyện có dung lượng lớn, họ không kể xong ngay trong một lần

nên buộc phải ngắt thành các phần khác nhau, mỗi phần được đặt một tiêu đề

để tóm lại nội dung, đó chính là cơ sở hình thành các hồi và tiêu đề các hồi

của tiểu thuyết chương hồi về sau” [24,1732].

3.2. Hoàn cảnh ra đời

Tiểu thuyết chƣơng hồi xuất hiện khá sớm và phát triển mạnh nhất vào

khoảng thời gian từ thế kỷ XIV đến đầu thế kỉ XIX ở Trung Quốc. Trung

Quốc là một nƣớc có nền văn hóa phát triển rực rỡ và lâu đời, một trong

những thành tựu vĩ đại của văn hóa Trung Quốc là văn học. Bên cạnh những

thành tựu đạt đến trình độ cổ điển, mỗi thể loại gắn với một triều đại, kiểu nhƣ

Đƣờng thi, Tống từ, ngƣời ta không thể không nhắc tới tiểu thuyết chƣơng hồi

thời Minh - Thanh, với những tác phẩm nhƣ Tam quốc diễn nghĩa, Tây du ký,

Thuỷ hử, Hồng lâu mộng,...

Nhận xét về quá trình hình thành và phát triển của tiểu thuyết, tác giả

Hà Minh Đức cho rằng: “Ở phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng,

hành trình của tiểu thuyết có những bước phát triển riêng của nó. Ở Trung

Quốc, tiểu thuyết xuất hiện sớm, vào thời Ngụy Tấn (thế kỷ III – IV) dưới dạng

“chí nhân”, “chí quái”. Sang đời nhà Đường xuất hiện loại tiểu thuyết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 30

“truyền kỳ”, đời Tống xuất hiện thêm tiểu thuyết “thoại bản”... Sang đến đời

Minh, văn học Trung Quốc bước sang giai đoạn phát triển rực rỡ của tiểu

thuyết với những pho tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng như Tam quốc diễn

nghĩa (La Quán Trung), Thuỷ hử (Thi Nại Am), Tây du ký (Ngô Thừa Ân),

Kim bình mai (Tiếu Tiên Sinh). Đến đời Thanh, tiểu thuyết Trung Quốc được

bổ sung thêm một số tác phẩm khai thác nội dung số phận đời tư và đạo đức,

ví dụ như: Chuyện làng Nho (Ngô Kính Tử), Hồng lâu mộng (Tào Tuyết

Cần),...” [20,188].

Chúng ta có thể hình dung con đƣờng hình thành tiểu thuyết chƣơng hồi

ở Trung Quốc nhƣ sau:

Từ thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều (thế kỷ III - VI), mầm mống của tiểu

thuyết đã xuất hiện dƣới dạng “chí nhân”, “chí quái”. Chí nhân, chí quái là

những câu chuyện về những con ngƣời phi phàm, sự tích quái dị. Chí ở đây

nghĩa là rất nhiều yếu tố hoang đƣờng (cái kỳ - cái ảo, cái thần kỳ nhƣng chƣa

vƣợt khỏi cái nhận thức, nó vẫn phản ánh hiện thực; cái quái – các yếu tố kỳ

ảo vƣợt quá ngƣỡng đến mức khó tin).

Đến đời Đƣờng (thế kỷ VII - XI), trong xã hội có sự phân hóa, đối lập

giai cấp sâu sắc, đô thị bắt đầu phát triển mạnh tạo điều kiện thuận lợi cho tiểu

thuyết truyền kỳ xuất hiện. Truyền kỳ là những sự tích ly kỳ đƣợc lƣu truyền

qua các thế hệ. Tiểu thuyết truyền kỳ xuất hiện nhằm phản ánh sự thật đời

sống, những thói hƣ tật xấu trong xã hội đồng thời thể hiện những khát vọng

bình đẳng của nhân dân.

Sang đến thời kỳ Tống - Nguyên (Thế kỷ XI - XIII). Đây là giai đoạn

mà các thoại bản đang bƣớc vào thời kỳ nở rộ. Do điều kiện kinh tế ngày càng

cao hàng loạt các đô thị mọc lên. Khi xã hội phát triển đòi hỏi những món ăn

tinh thần mới đáp ứng đƣợc nhu cầu thị hiếu của nhân dân. Từ đó xuất hiện

tờng lớp ngƣời nghệ nhân, nghệ sỹ đảm nhiệm vai trò kể chuyện cho tầng lớp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 31

thị dân. Những câu chuyện đƣợc bắt đầu từ những bản thoại (nguyên là bản đề

cƣơng mà ngƣời kể dựa vào đó để kể cho độc giả nghe). Thoại bản là những

câu chuyện sống thực, hình thành từ lối kể chuyện của những ngƣời bình dân

ở nông thôn và thành thị khi qua môi trƣờng diễn xƣớng, nó trở thành một loại

hình văn học thu hút đƣợc đông đảo lớp độc giả. Thoại bản có nhiều loại trong

đó phổ biến là thoại bản giảng sử (tức là kể chuyện lịch sử). Thoại bản giảng

sử thƣờng là trƣờng thiên. Câu chuyện lịch sử dài phải chia làm nhiều đoạn

khi kể không chỉ gói gọn trong một đêm mà có thể kéo dài trong nhiều đêm.

Chính những bản thoại đó dẫn đến sự ra đời của tiểu thuyết chƣơng hồi thời

Minh Thanh.

Cho đến thời Minh Thanh, tiểu thuyết chƣơng hồi Trung Hoa đã phát

triển mạnh mẽ và thực sự khẳng định đƣợc vị thế của mình trong nền văn học

cổ điển Trung Quốc. Ở thời kỳ này, tiểu thuyết chƣơng hồi tiếp tục kế thừa và

phát huy những thoại bản thời Tống Nguyên. Từ những câu chuyện có dung

lƣợng lớn, cốt truyện phải ngắt thành nhiều khúc đến thời kỳ này các tác giả

đã liên kết móc xích giữa khúc trƣớc và khúc sau tạo thành những tiểu thuyết

chƣơng hồi. Vào khoảng giữa đời Thanh với Nho Lâm ngoại sử của Ngô Kính

Tử và Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần, tiểu thuyết chƣơng hồi Trung Quốc

đã phát triển tới đỉnh cao nhất.

Ở Việt Nam, mãi đến gần cuối hành trình trung đại thế kỷ XVIII - XIX

nhờ những điều kiện nhất định và sự thúc đẩy của lịch sử, thể loại tiểu thuyết

chƣơng hồi mới ra đời. Truyện ngắn lịch sử chính là cơ sở để tiểu thuyết

chƣơng hồi Việt Nam ra đời. Giai đoạn đầu (thế kỷ X – XIV), truyện ngắn

lịch sử hình thành là nhờ truyền thống tự sự dân gian, tự sự chức năng (hành

chính và lễ nghi) và tiếp thu tinh hoa nghệ thuật của nền tiểu thuyết Trung

Hoa. Tiểu thuyết Trung Hoa ban đầu đƣợc mô phỏng thành các truyện thơ

Nôm rồi sau đó khi chữ quốc ngữ ra đời thì có nhiều tác phẩm đƣợc dịch sang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 32

tiếng Việt. Mở đầu cho việc du nhập các tác phẩm truyện viết theo kiểu văn

ngôn nhƣ: Tiễn đăng tân thoại, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (thế kỷ

XVI), Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm (thế kỷ XVIII).

Nói về nguồn gốc ra đời của tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, tác giả

Trần Nghĩa trong cuốn Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam cho rằng:

“Nhìn một cách bao quát, tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam ra đời là kết quả của

những hối thúc từ bên trong do sự vận động nội tại của bản thân nền học

thuật chữ Hán Việt Nam sinh ra, cộng với những kích thích từ bên ngoài do

giao lưu văn học đưa lại. Thể hiện rõ nhất là ở các tiểu thuyết chí quái, truyền

kỳ và tiểu thuyết xã hội. Xét về nguồn gốc nội tại... tiểu thuyết chương hồi Việt

Nam ra đời trước hết liên quan tới kho tàng thần thoại, truyền thuyết và

truyện tích Việt Nam,...” [44,17].

Bức tranh lịch sử xã hội Việt Nam từ thế kỷ XV - XVI - XVIII nhƣ một

thôi thúc nội tại cần đƣợc ghi lại. Bƣớc vào thế kỷ XV lịch sử việt Nam có

nhiều bƣớc chuyển mới. Sau chiến thắng giặc Minh triều Lê đƣợc thiết lập.

Cho đến khi vua Thái Tổ, Thánh Tông, Hiến Tông lần lƣợt qua đời, các vua

Uy Mục, Tƣơng Dực ăn chơi xa xỉ, chèn ép muôn dân khiến cho trăm họ oán

hận. Lợi dụng lúc rối loạn Mạc Đăng Dung cƣớp ngôi triều Lê, quyền lực lúc

này tập trung hết vào tay họ Mạc. Các vua nhà Mạc cố gắng duy trì chính trị

ổn định nhƣng vẫn không ổn định, làm nảy sinh những cuộc chia rẽ nội bộ

giai cấp phong kiến. Chiến tranh Lê - Mạc kéo dài từ năm 1533 tới năm 1592.

Cuối thế kỷ XVI Bình An Vƣơng Trịnh Tùng mâu thuẫn gay gắt với Thái Tổ

Nguyễn Hoàng khiến cho đất nƣớc tạo thành cục diện tam phân Mạc - Lê -

Nguyễn. Nội chiến Lê - Mạc chƣa hoàn toàn dứt hẳn thì chiến tranh Nam -

Bắc nổ ra. Trong vòng 150 năm kể từ 1527 – 1677 đất nƣớc chia hai đàng, các

tập đoàn thống trị lao vào ăn chơi xa đọa khiến cho lòng dân cả hai miền oán

hận. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 33

Những sự kiện lịch sử bão táp đó ảnh hƣởng mạnh mẽ đến đời sống

xã hội. Với khả năng đặc biệt của mình, văn chƣơng đã tái hiện các sự kiện đó

bằng hàng loạt các tác phẩm cụ thể. Trong hai loại hình văn học tự sự đƣợc sử

dụng chủ yếu trong văn học trung đại lúc đó là chữ Nôm và chữ Hán, thì chữ

Nôm về cơ bản không dùng để viết văn. Do đó, loại hình tự sự phải dùng bằng

chữ Hán. Và trong loại hình văn xuôi tự sự chữ Hán, không phải ký, truyện

ngắn mà chính là tiểu thuyết chƣơng hồi, với quy mô lớn mới có khả năng tái

hiện bức tranh lịch sử - xã hội của thời đại. Nhƣ vậy, việc Việt Nam tiếp thu

thể loại tiểu thuyết chƣơng hồi Trung Hoa nhƣ một nhu cầu tất yếu để thể hiện

nội dung mới là phản ánh bức tranh xã hội đầy biến động của dân tộc.

Tiểu thuyết chƣơng hồi chữ Hán Việt Nam là mô hình thể loại tiếp thu

từ tiểu thuyết chƣơng hồi Trung Quốc. Tuy nhiên, các tác giả chữ Hán Việt

Nam chỉ vay mƣợn hình thức thể loại, những nguyên tắc xây dựng nhân vật,

sử dụng văn tự chữ Hán để sáng tác. Trong quá trình sáng tác, họ luôn cố

gắng chọn lọc những vấn đề có liên quan đến nghệ thuật sáng tạo, nhằm xây

dựng một nền tiểu thuyết chƣơng hồi mang đậm đà bản sắc Việt Nam.

3.3. Đặc điểm thể loại

Đặc điểm của tiểu thuyết chƣơng hồi rất phong phú và đa dạng. Tuy

nhiên, ta có thể rút ra những đặc điểm cơ bản đáng chú ý nhƣ sau:

Đặc điểm của thể loại này là sự phân chia cốt truyện thành các hồi,

quyển, tiết. Mỗi hồi bao giờ cũng có tiêu đề giới thiệu nội dung chính sẽ đƣợc

trình bày trong hồi. Cuối mỗi hồi thƣờng có một bài thơ của chính tác giả hay

của ngƣời đời sau đƣợc tác giả trích dẫn lại để đánh giá, bình luận về các sự

kiện các nhân vật trong hồi và sau đó thƣờng kết thúc bằng câu kiểu nhƣ:

“Muốn biết sự việc thế nào xin xem hồi sau sẽ rõ” hoặc “hồi sau phân giải”.

Khi bƣớc sang hồi mới, vấn đề lại đƣợc tóm lƣợc bằng một tiêu đề mới. Cách

phân chia thành từng hồi và kết thúc theo kiểu hạ hồi phân giải có tác dụng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 34

quan trọng trong việc gây ra sự chú ý cho ngƣời đọc khiến cho họ luôn luôn

hồi hộp, tò mò phải tiếp tục tìm hiểu các hồi tiếp theo.

Kết cấu của tiểu thuyết chƣơng hồi đƣợc kết cấu theo trình tự thời gian

đơn tuyến, dấu hiệu dễ thấy ngay khi mở đầu mỗi hồi hoặc mở đầu các đoạn

kể là những cụm từ: “Lại nói...”, “nay lại nói...”, “hồi bấy giờ…”, “lúc ấy…”,

đƣợc lặp đi lặp lại nhƣ một công thức. Tác giả thƣờng đứng ở ngôi thứ ba để

giới thiệu dẫn dắt câu chuyện, nhân vật tự suy nghĩ và hành động. Sau một

khoảng thời gian theo dõi các sự kiện trong một hồi, có nhiều nhân vật mới

xuất hiện, nhiều sự kiện mới sảy ra, ngƣời trần thuật lo sợ ngƣời đọc không

thể theo dõi tiếp nội dung trong các hồi trƣớc đó, nên thƣờng nhắc lại bằng

công thức “lại nói…” giúp cho trình tự các sự kiện đƣợc liền mạch.

Nội dung phản ánh của thể loại tiểu thuyết chƣơng hồi rất phong phú và

đa dạng. Đó là toàn bộ diễn biến và vận mệnh của đất nƣớc, những vấn đề đấu

tranh giai cấp của các tầng lớp, những cuộc đấu tranh phong kiến, ca ngợi các

vị lãnh tụ nhân dân có công lao to lớn trong cuộc đấu tranh đó.

Nhân vật trong tiểu thuyết chƣơng hồi rất phong phú, ngoài những nhân

vật trung tâm đại diện tiêu biểu cho đạo đức phong kiến nhƣ các minh quân,

các quan lại, khanh tƣớng, những trọng phu, liệt nữ, còn có những nhân vật

đám đông góp phần tạo nên một số lƣợng nhân vật đông đảo, giúp cho tiểu

thuyết chƣơng hồi có quy mô và khí thế hoàng tráng. Các nhân vật trong tiểu

thuyết chƣơng hồi đƣợc miêu tả bằng âm mƣu, lời đối thoại hoặc bằng cử chỉ

(hành động hình dáng), hay những tiếng cƣời tiếng khóc mà hiểu ra kẻ chung

ngƣời nịnh, kẻ khí phách kẻ tiểu nhân, kẻ thị tài tầm thƣờng, bậc anh hùng

hào kiệt.

Ngôn ngữ trong tiểu thuyết chƣơng hồi là ngôn ngữ khoa chƣơng hoành

tráng kết hợp với lối diễn đạt giàu hình ảnh hoa mĩ, tƣợng trƣng ƣớc lệ trong

những câu văn đăng đối nhịp nhàng tạo nên một vẻ đẹp riêng biệt cho thể loại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 35

3.4. Tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử – tiểu thuyết lịch sử đƣợc viết theo

lối kết cấu chƣơng hồi

3.4.1. Thể loại tiểu thuyết lịch sử

Theo các tác giả cuốn Từ điển văn học (bộ mới), thể loại tiểu thuyết

lịch sử là: “Thuật ngữ chỉ một loại hình tiểu thuyết hay tác phẩm tự sự hư cấu

lấy đề tài lịch sử làm nội dung chính” [24,1725].

Thể loại tiểu thuyết lịch sử đƣợc coi là một tiểu loại trong thể loại tiểu

thuyết chƣơng hồi. Đây là những tiểu thuyết lấy đề tài từ trong sử sách và

đƣợc viết theo lối kết cấu chƣơng hồi. Trong văn học trung đại Trung Quốc,

tiểu thuyết lịch sử xuất hiện khá sớm và phát triển mạnh mẽ. Thể loại này còn

đƣợc gọi bằng một cái tên khác là tiểu thuyết giảng sử để tránh nhầm lẫn với

tiểu thuyết lịch sử thời hiện đại. Thể loại tiểu thuyết chƣơng hồi Việt Nam ra

đời kế thừa những tinh hoa của tiểu thuyết chƣơng hồi Trung Quốc nhƣng

không phản ánh đề tài phong phú nhƣ tiểu thuyết chƣơng hồi Trung Quốc mà

ngay từ đầu đã tập trung phản ánh lịch sử dân tộc. Điều này thể hiện rõ ngay

trên nhan đề của tác phẩm tiểu thuyết chƣơng hồi Việt Nam nhƣ: Nam triều

công nghiệp diễn chí, Thiên Nam liệt chuyện, Hoàng Lê nhất thống chí. Bởi

vậy, khi nói đến tiểu thuyết chƣơng hồi Việt Nam là nói đến thể loại tiểu

thuyết lịch sử. Nội dung tiểu thuyết lịch sử Việt Nam thể hiện một thời kỳ lịch

sử nhất định với thời gian xác định, những sự kiện nhân vật có thật trên cơ sở

đó hƣ cấu thành một tác phẩm văn chƣơng đích thực.

3.4.2. Tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử - Tiểu thuyết lịch sử viết theo lối

kết cấu chƣơng hồi

Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan là một cuốn tiểu thuyết lịch sử đƣợc tác

giả lấy nhân vật, sự kiện từ trong lịch sử rồi hƣ cấu theo ý đồ sáng tác của

mình. Nhan đề Việt Lam tiểu sử đƣợc Lê Hoan đặt nhằm phân biệt với chính

sử, cũng chính là để khẳng định đây là một tác phẩm văn học chứ không phải Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 36

là một tác phẩm lịch sử. Nội dung phản ánh trong tác phẩm xuất phát từ bối

cảnh lịch sử nƣớc ta ba mƣơi năm đầu thế kỷ XV vào thời điểm diễn ra hàng

loạt những biến cố trọng đại. Họ Hồ cƣớp ngôi “làm cỏ” họ Trần, phong kiến

Trung Quốc đƣa quân xâm lƣợc vào quốc gia Đại Việt với một quy mô lớn vô

cùng khốc liệt, từ vùng núi Thanh Hóa, Nghệ An, nghĩa quân Lam Sơn dƣới

sự lãnh đạo của ngƣời anh hùng Lê Lợi trải qua bao gian nan thử thách đánh

đuổi quân xâm lƣợc lập nên triều Lê - một triều đại hƣng thịnh nhất trong

triều đại phong kiến Việt Nam.

Cảm hứng chủ đạo nhất trong tiểu thuyết chƣơng hồi là ca ngợi những

con ngƣời có đóng góp lớn lao đối với sự nghiệp chung của dân tộc, hoặc

phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp của tầng lớp nông dân,… Việt Lam tiểu sử

của Lê Hoan đã góp phần ca ngợi công lao to lớn của ngƣời anh hùng Lê Lợi

lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân trải qua nhiều hi sinh

gian khổ cuối cùng đã dành đƣợc thắng lợi vẻ vang giải phóng nƣớc nhà lập

nên triều Lê. Thái độ ngợi ca của tác giả đƣợc gửi gắm ngay trong lời tựa của

cuốn Việt Lam tiểu sử: “Cuốn sách đã kể lại cuộc đời Lê Thái Tổ từ nghìn

năm trước, nêu cao tên tuổi Lê Thái Tổ tới nghìn năm sau. Đọc sách ấy như

thấy bậc vĩ nhân ấy” [26,15].

Tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử là một cuốn tiểu thuyết lịch sử đƣợc viết

theo kết cấu chƣơng hồi gồm có sáu mƣơi hồi, với những diễn biến trọng đại

dồn nén trong 365 trang sách chia làm ba quyển, quyển một có hai mốt hồi,

quyển hai có mƣời chín hồi, quyển ba có hai mƣơi hồi. Các hồi đƣợc xây

dựng theo hồi chuẩn hầu hết ở đầu mỗi hồi có hai câu đối ngẫu tóm tắt nội

dung và cuối mỗi hồi thƣờng có hai câu thơ thất ngôn mang tính bình luận của

“thời nhân” hoặc “hậu nhân” nhằm đánh giá về con ngƣời hoặc sự việc vừa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đƣợc kể trƣớc đó. Đi kèm với hai câu thơ thất ngôn là một lời hẹn. Chẳng hạn:

37

Ở hồi một mở đầu là hai câu đối “Con cháu nhà Trần cậy mạnh mất

nước, cha con họ Hồ ngang ngược chuyên quyền” và kết thúc hồi với hai câu

thơ:

“Nào biết trăng hoa gây lỡ việc

Ai hay nhan sắc chuyển lay người” [26,18].

Cùng một lời hẹn “chưa rõ chuyện Thiên Bình như thế nào hãy nghe hồi

sau phân giải” [26,42].

Hầu hết các hồi đều có kết cấu giống nhau chỉ có một số ít nhƣ cuối hồi

23 không có lời hẹn, cuối hồi 33 sau hai câu thơ thất ngôn và lời hẹn, đƣợc

chép thêm bài thơ thất ngôn Cảm hoài của Đặng Dung, riêng hồi thứ sáu mƣơi

là hồi kết không có thơ thất ngôn mà cũng không có lời hẹn.

Tiếp xúc với tác phẩm Việt Lam tiểu sử, dấu hiệu quen thuộc dễ bắt gặp

ở ngay đầu mỗi hồi là các cụm từ “lại nói…”. Khi khảo sát, chúng tôi thấy

trong sáu mƣơi hồi trừ hồi một ra còn lại năm mƣơi chín hồi đều bắt đầu bằng

cụm từ “lại nói” lặp đi lặp lại nhƣ một công thức, xâu chuỗi các sự kiện trên

một trục thời gian giúp cho ngƣời nghe luôn bắt nhịp đƣợc mạch kể của câu

chuyện, đồng thời khiến cho trình tự của sự kiện đƣợc liền mạch tạo nên tính

liên kết cho nội dung.

Nhân vật trung tâm của tiểu thuyết chƣơng hồi thƣờng là mẫu ngƣời

tiêu biểu cho đạo đức phong kiến: Trung quân, trọng phu, liệt nữ,… mang đầy

đủ những chuẩn mực đạo đức phong kiến. Trong Việt Lam tiểu sử, Lê Hoan

cũng tập trung khắc họa những đấng minh quân, những khanh tƣớng nhƣ: Lê

Lợi, Nguyễn Trãi, Lê Thiện, Đoàn Phát, Hoàng Tất, Lê Nhị, Lê Khâm hay

những liệt nữ nhƣ: Mẹ Đoàn Phát, ngƣời đàn bà họ Đinh.

Là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo lối kết cấu chƣơng hồi, Việt

Lam tiểu sử có quy mô lớn phản ánh một thời đại đau thƣơng mà hoành tráng

của dân tộc. Tác phẩm đƣợc coi nhƣ bản hùng ca góp phần làm tôn thêm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 38

truyền thống yêu nƣớc, tinh thần quật khởi chống xâm lăng của quân và dân ta

trong những năm kháng chiến chống quân Minh.

Tiểu kết

Tiểu thuyết chƣơng hồi là một thể loại thuộc loại hình văn hóa trung

đại. Đây là một dạng thức tiểu thuyết trƣờng thiên xuất hiện và phát triển

mạnh ở Trung Hoa. Thể loại tiểu thuyết này khi phát triển cực thịnh đạt tới

trình độ nghệ thuật cao đã đƣợc lƣu truyền sang các nƣớc có quan hệ văn hóa

lâu đời trong đó có Việt Nam. Mặc dù chịu ảnh hƣởng của tiểu thuyết Trung

Hoa nhƣng tiểu thuyết chƣơng hồi Việt Nam vẫn mang đậm đà bản sắc dân

tộc. Các tiểu thuyết gia Việt Nam trong khi tiếp thu mô hình tiểu thuyết Trung

Quốc luôn có ý thức kế thừa một cách có chọn lọc các vấn đề có liên quan tới

nghệ thuật sáng tạo để phản ánh những vấn đề lớn lao của lịch sử dân tộc.

Tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử ra đời ở lúc xế chiều của nền văn học trung đại

Việt Nam. So với các tác phẩm khác nhƣ Nam triều công nghiệp diễn chí,

Hoàng Lê nhất thống chí, Việt Lam tiểu sử tuy có nhiều điểm chƣa bằng

nhƣng tác phẩm đã phản ánh đƣợc những sự kiện lịch sử quan trọng trong một

giai đoạn nhất định, đồng thời đánh dấu những bƣớc phát triển về mặt thể loại

của tiểu thuyết chƣơng hồi, giúp chúng ta có thêm cơ sở để khẳng định cùng

với truyện ngắn, ký, tiểu thuyết chƣơng hồi đã hoàn chỉnh hình thức văn xuôi

tự xự thời trung đại. Việt Lam tiểu sử là sự kết tinh của quá trình phát triển

lịch sử lâu đời và là sự kết tinh bởi tài năng, tâm huyết của nhà văn Lê Hoan.

Tất cả đã làm nên một tác phẩm có nhiều ý nghĩa góp phần làm đa dạng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phong phú thêm cho thể loại tiểu thuyết chƣơng hồi Việt Nam.

39

CHƢƠNG HAI

NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT LAM TIỂU SỬ - TỪ NGUYÊN MẪU ĐẾN HÌNH TƢỢNG VĂN HỌC

2.1. Con đƣờng từ hiện thực đến các hình tƣợng văn học

Nhƣ đã nói ở trên, nội dung chính của tiểu thuyết chƣơng hồi Việt Nam

thƣờng phản ánh những vấn đề lớn lao của lịch sử dân tộc. Bắt nguồn từ thực

tế lịch sử, hầu hết các tác phẩm tiểu thuyết chƣơng hồi đều ít nhiều phản ánh

những hiện thực và tồn tại xã hội. Hiện thực ở trong tác phẩm văn học bao giờ

cũng là hiện thực đã đƣợc phản ánh qua lăng kính chủ quan của tác giả. Do

vậy, hiện thực đƣợc phản ánh trong tác phẩm không đồng nhất nhƣ hiện thực

ngoài đời. Tác giả Phƣơng Lựu trong cuốn Lý luận văn học (tập 1) đã từng

nhận định: “Xét đến cùng bất kỳ nền văn nghệ nào cũng hình thành trên một

cơ sở hiện thực nhất định. Bất kỳ một nghệ sĩ nào cũng thoát thai từ một môi

trường sống nào đó. Bất kỳ một tác phẩm nào cũng là sự khúc xạ từ những

vấn đề trong cuộc sống” [38,81].

Tiểu thuyết chƣơng hồi chữ Hán Việt Nam là một hệ thống những tác

phẩm văn học có đề tài liên quan đến lịch sử từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ thứ

XIX, với thời gian dài năm thế kỷ có biết bao sự kiện lịch sử đã xảy ra. Đó

chính là cơ hội để các tác giả tiểu thuyết có cơ hội thể hiện một cái nhìn mới

“lãng mạn” hơn về con ngƣời của quá khứ trong tác phẩm của mình. Đứng

trên bình diện của ngƣời quan sát, các tác giả tiểu thuyết chƣơng hồi Việt

Nam đã trở thành những ngƣời thƣ ký trung thành bám sát từng bƣớc đi của

lịch sử. Việt Lam tiểu sử là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo kết cấu

chƣơng hồi. Điểm qua một số cuốn tiểu thuyết chƣơng hồi nhƣ: Thiên Nam

liệt truyện, Nam triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Lê nhất thống chí, Hoàng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Việt long hưng chí. Chúng ta thấy, các tác giả thƣờng tập trung viết về giai

40

đoạn lịch sử từ nhà Lê trung hƣng cho tới khi bị sụp đổ, phong trào Tây Sơn

nổi lên rồi bị thất bại và triều Nguyễn thiết lập. Đó là những biến động dữ dội

của dân tộc. Nhƣng lịch sử Việt Nam luôn dậy lên lắng xuống. Nửa sau thế kỷ

XIX không khí lịch sử lại căng thẳng khi thực dân Pháp tiến hành xâm lƣợc

Việt Nam. Trong không khí ngột ngạt ấy, nếu nhƣ các tác giả khác quay về

với quá khứ gần thì Lê Hoan lại hƣớng về quá khứ xa để viết thành Việt Lam

tiểu sử. Nội dung chính của thiên tiểu thuyết này phản ánh hiện thực có thật

trong lịch sử Việt Nam những năm đầu thế kỷ XV. Đây là một thời kỳ đau

thƣơng nhƣng quật khởi. Nhân lúc họ Hồ cuớp ngôi nhà Trần gây chính sự

phiền hà, giặc Minh đã nhảy vào xâm lƣợc Việt Nam. Đƣợc đánh giá là kẻ thù

xâm lƣợc tàn bạo nhất trong lịch sử trung đại Việt Nam, quân Minh đã gây

nên những thảm họa to lớn trên tất cả các phƣơng diện đời sống. Chính trong

hoàn cảnh bi thƣơng ấy, ý thức về dân tộc đƣợc phát huy với sức mạnh chƣa

từng thấy, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn - một cuộc khởi nghĩa gian

khổ bậc nhất và thắng lợi cũng huy hoàng bậc nhất trong lịch sử Việt Nam

thời trung đại, cũng từ bối cảnh đó Lê Hoan đã viết nên tác phẩm Việt Lam

tiểu sử.

Có thể nói, lấy bối cảnh lịch sử 30 năm đầu thế kỷ XV làm nền cho tiểu

thuyết Việt Lam tiểu sử Lê Hoan thực sự là ngƣời có con mắt tinh đời. Bởi vì,

cho tới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chƣa có một bộ tiểu thuyết chƣơng hồi

nào phản ánh giai đoạn lịch sử này. Có một điều đáng nói là, con đƣờng hình

thành của Việt Lam tiểu sử không giống quá trình ra đời của các tác phẩm

trƣớc đây. Ví dụ xem xét con đƣờng hình thành tác phẩm Nam triều công

nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm, ta thấy hiện thực lịch sử đi thẳng

vào tác phẩm nghệ thuật và sau khi tác phẩm ra đời ngƣời ta lại dùng nó làm

cơ sở cho việc biên soạn các sách chính sử. Tác giả Nguyễn Đăng Na khi tìm

hiểu về con đƣờng hình thành của Việt Lam tiểu sử đã sơ đồ hóa nhƣ sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 41

Việt Nam

Sách sử

Trung Hoa HHHHHHHoa HHoa

Dã sử (dân gian)

TPVH Việt Lam tiểu sử Hiện thực lịch sử – XHVN (đầu thế kỷ XV)

Thực địa (di tích lịch sử)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 42

Nhƣ vậy đối với Việt Lam tiểu sử, tác giả chỉ lấy đề tài lịch sử những sự

kiện và nhân vật có thật trong lịch sử Việt Nam nhƣng cái mà tác giả đem đến

cho bạn đọc không phải là hiện thực lịch sử diễn ra trong quá khứ mà là “sự

thực” lịch sử diễn ra theo cảm nhận của tác giả. Đúng nhƣ nhà sử học Phan

Huy Lê đã nhận xét: “Tác giả có lẽ không phải là một nhà sử học và nhất là

không nhằm viết một tác phẩm nghiên cứu về lịch sử, nên tác giả chỉ vay

muợn một số cứ liệu lịch sử nào đó cho tác phẩm có cốt cách lịch sử mà

thôi… Đây là một bộ tiểu thuyết lịch sử về căn bản xây dựng theo sự hư cấu,

theo trí tưởng tượng của tác giả, trong đó những tình tiết lịch sử chỉ được tôn

trọng về mặt chi tiết mà thôi” [31,35].

Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan là một cuốn tiểu thuyết lịch sử phản ánh

hiện thực có thật trong lịch sử Việt Nam những năm đầu thế kỷ XV. Tuy

nhiên, chúng ta không đồng nhất bức tranh hiện thực này với chính hiện thực

ngoài đời. Mẫu hình nhân vật lịch sử đƣợc xây dựng từ những con ngƣời có

thật, những nhân vật của lịch sử lúc bấy giờ, nhƣng khi bƣớc vào văn học,

nhân vật ấy lại mang một diện mạo riêng. Đúng nhƣ cách nói của đại văn hào

M.Gorki: Hiện thực cuộc sống là chất quặng thô, ngƣời nghệ sỹ phải sàng lọc

sáng tạo, tôi luyện chất quặng thô đó thành chất thép sáng ngời. Chất thép đó

chính là các nhân vật văn học. Để có đƣợc những hình tƣợng văn học độc đáo

nhƣ tác phẩm Việt Lam tiểu sử, chắc chắn nhà văn Lê Hoan cũng phải trải qua

một quá trình tôi luyện khá công phu nhƣ vậy.

2.2. Các nhân vật nguyên mẫu trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử

Trong tác phẩm Việt Lam tiểu sử, khi xây dựng các nhân vật nguyên

mẫu, nhà văn Lê Hoan luôn cố gắng sao cho từ mẫu hình của những nhân vật

lịch sử có thật trong sử sách nhƣng khi bƣớc vào văn học nhân vật lại mang

một diện mạo riêng - diện mạo của một hình tƣợng nghệ thuật. Tìm hiểu tác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 43

phẩm này, ta thấy có nhiều những nguyên mẫu lịch sử đƣợc tác giả xây dựng

thành những hình tƣợng văn học, từ các yếu nhân lịch sử nhƣ: Lê Lợi, Hồ

Quý Ly, Hồ Hán Thƣơng, Trần Giản Định, Nguyễn Trãi, Trƣơng Phụ, Hoàng

Phúc,... cho đến các nhân vật phụ nhƣ: Tƣ không Lê Lễ, Lê Trãi, Hoàng Tất,

Lê Sát,... không phải tất cả những nhân vật lịch sử này khi trở thành nhân vật

văn học đều tạo nên những ấn tƣợng sâu sắc nhƣng dù sao ít nhiều, họ cũng

gây đƣợc sự cảm nhận mới về nhân vật, về lịch sử. Trong khuôn khổ của một

luận văn thạc sĩ, chúng tôi chƣa có điều kiện tìm hiểu tất cả các nguyên mẫu

lịch sử có trong Việt Lam tiểu sử mà chỉ tập trung tìm hiểu khái quát một số

những nhân vật lịch sử tiêu biểu để giúp độc giả có điều kiện nhìn nhận những

thành công, những sáng tạo của tác giả Lê Hoan khi xây dựng từ nhân vật

nguyên mẫu lịch sử trở thành các hình tƣợng văn học.

2.2.1. Lê Lợi từ nguyên mẫu lịch sử đến hình tƣợng văn học

Lê Lợi là một nhân vật có thật trong lịch sử Việt Nam, tên tuổi và tiếng

tăm của ông đã đƣợc lƣu truyền trong sử sách, trong truyền thuyết dân gian.

Đối với dân tộc Việt Nam, Lê Lợi là một cá nhân kiệt suất có tầm ảnh hƣởng

lớn lao. Trên những trang sử vàng, Lê Lợi đƣợc ghi nhận là một ngƣời anh

hùng, một vị lãnh đạo tài giỏi sáng suốt. Xuất phát từ lòng yêu nƣớc thƣơng

dân và lòng căm thù giặc sâu sắc, Lê Lợi đã “thề không cùng sống với kẻ

địch” để quyết tâm thực hiện lý tƣởng hoài bão xây dựng xã tắc, cứu vớt lê

dân. Giới thiệu khái quát về nguồn gốc xuất thân và quá trình xây dựng đại

nghiệp của Lê Lợi, các tác giả trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư có chép:

“Vua họ Lê, huý là Lợi người hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn

Thanh Hóa. Ở ngôi 6 năm, thọ 51 tuổi chôn ở Vĩnh Lăng. Vua hăng hái dấy

nghĩa binh đánh dẹp giặc Minh, 10 năm mà thiên hạ đại định. Đến khi lên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngôi, định luật chế lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, dựng quan chức. Lập

44

phủ huyện thu sách vở, mở học hiệu. Có thể nói là có mưu lớn sáng nghiệp.

Song đa nghi hay giết, đó là chỗ kém” [34,7].

Biết Lê Lợi là một ngƣời tài giỏi, kẻ địch tìm mọi cách mua chuộc

nhƣng Lê Lợi vẫn không hề nao núng “Năm mậu tuất (1948) (Minh, Vĩnh Lạc

năm thứ 16). Mùa xuân, tháng giêng, ngày canh thân, vua dấy binh ở Lam

Sơn. Trước người Minh thường trao cho quan chức để cám dỗ, vua không

chịu khuất, khẳng khái có chí dẹp loạn. Từng nói rằng: “Trượng phu sinh ở

đời phải cứu nạn lớn, lập công lớn, để tiếng thơm ngàn năm sau sao lại chịu

hèn nhát cho người sai khiến. Bèn đem hào kiệt dựng cờ nghĩa quyết diệt giặc

Minh” [34,9]. Buổi đầu dựng nghiệp, Lê Lợi dựa vào lực lƣợng xóm giềng là

chủ yếu, chiến đấu và trƣởng thành từ tay không, thiếu kẻ đỡ đần, nghĩa quân

gặp muôn ngàn khó khăn gian khổ nhƣng nhờ tinh thần đoàn kết, trải qua

mƣời năm gian khổ “nếm mật nằm gai” Lê Lợi cùng với nghĩa quân đã lập

nên những chiến công kỳ diệu, đánh đuổi giặc Minh trấn yên bờ cõi, mở ra

một kỷ nguyên mới cho đất nƣớc.

Bắt nguồn từ một nguyên mẫu có thật trong lịch sử, nhà văn Lê Hoan đã

lựa chọn để xây dựng thành một hình tƣợng văn học. Lựa chọn một nhân vật

có thật nhƣ Lê Lợi để xây dựng thành nhân vật văn học có thể nói là một sự

táo bạo của nhà văn Lê Hoan. Vốn dĩ, nhân vật Lê Lợi là một yếu nhân có vai

trò to lớn trong lịch sử và có nhiều dấu ấn trong tâm thức ngƣời Việt. Bởi vậy,

để cho ngƣời đọc có một cách nhìn mới hơn về nhân vật này là một điều

không dễ. Ý thức đƣợc điều đó, trong quá trình nhào nặn từ nhân vật lịch sử

trở thành một hình tƣợng nghệ thuật, nhà văn Lê Hoan đã rất khéo léo và thận

trọng để xây dựng nhân vật Lê Lợi trở thành một hình tƣợng văn học độc đáo

cũng là tâm điểm sáng ngời của tác phẩm Việt Lam tiểu sử.

Đọc tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử, ngƣời đọc vẫn bắt gặp một Lê Lợi rất

quen thuộc trong vai trò là một vị lãnh đạo tài giỏi nhân đức nhƣ trong lịch sử. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 45

Nhà văn vẫn trung thành với bản lý lịch tên tuổi, vai trò, vị trí của nhân vật,

tuy nhiên những chi tiết cụ thể về tính cách có khác đi nhiều. Chẳng hạn,

trong Đại Việt sử ký toàn thư, các tác giả có ghi rõ Lê Lợi là ngƣời “đa nghi

hay giết đó là chỗ kém” [34,7]. Minh chứng cho lời nhận định này đƣợc các

tác giả ghi chép cụ thể nhƣng rải rác ở các trang 39, 45, 103.

- “Ngày 10... tri châu phủ Chính Bình là Hà Trung bị vua bắt được giết

chết” [34,39].

- “Ngày 13... giết Tư mã Lê Lai, tịch thu gia sản, vì Lai cậy có công đánh

giặc, nói ra những lời ngạo mạn nên bị giết” [34,45].

- “Ngày 13... chém Thiên hộ Lý Vân và người đi theo là Bùi Vĩnh, vì cớ

chở trộm mắm muối vào thành Chí Linh” [34,45].

- “Nhâm tý, năm thứ 5 (1432) (Minh Tuyên Đức thứ 7). Mùa xuân tháng

giêng, sai thần vương Tư Tề đem quân đi đánh châu Mường Lễ. Đào Mạnh

Vương là con tù trưởng Đèo Cát Hãn ra hàng, cho ở Đông Kinh, lập làm tư

mã, rồi năm sau giết chết ” [34,103].

Khi tiếp xúc với nhân vật Lê Lợi trong tác phẩm Việt Lam tiểu sử, chúng

ta không hề thấy ở Lê Lợi tính “đa nghi hay giết” mà ngƣợc lại trong suốt

hành trình của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, tấm lòng nhân từ của ông nhƣ ngọn

lửa cháy sáng thấm thía đến từng tƣớng lĩnh, từng nghĩa quân. Nền tảng và cốt

lõi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là nhân nghĩa, bởi vậy với bất cứ ai dù là

tƣớng lĩnh hay là binh lính Lê Lợi đều tỏ ra rất sáng suốt. Ví dụ nhƣ khi bị

Trần Giản Định lột bỏ mũ áo đuổi về quê, ngƣời đọc những tƣởng Lê Lợi rất

căm phẫn không bao giờ nghĩ đến việc phò tá cho Giản Định nữa, vậy mà vì

trăm họ Lê Lợi luôn canh cánh bên lòng lý tƣởng giúp nhà Trần khôi phục lại

giang sơn. Lúc kéo quân về nghĩa An, Lê Lợi tìm vào bái yết vua Trần nhƣng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vua Trần đã rời vào Thuận Châu Lê Lợi ngậm ngùi tiếc nuối: “Muốn vào gặp

46

mặt vua may được rủ lòng thương để mình được dốc tâm phụng sự. Nay lại

không gặp phải chăng tại trời.

Rồi than rằng:

- Trời xanh thăm thẳm nỡ để xe loan long đong lận đận trên đường

những lúc chim kêu hoa rụng, gặp cảnh nước biếc non xanh lấy ai đỡ đần hộ

vệ” [26,224].

Một chi tiết khác cho thấy Lê Lợi là ngƣời rất bình tĩnh nhƣ chi tiết

Nguyễn Trãi tìm gặp Lê Lợi ở hồi 37. Vốn là một ngƣời thông minh lanh lợi,

Nguyễn Trãi lợi dụng lúc Lê Lợi trở về phòng liền bám theo trèo lên nóc nhà

chui vào ngồi yên trong góc phòng, đến lúc thấy Lê Lợi tính thái ất sai thì vén

màn xông vào, làm cho Lê Lợi giật mình rút gƣơm ra định chém nhƣng khi

nghe Nguyễn Trãi sụp lạy van lơn lại nói là Tiến sĩ triều Trần thì “lòng thấy

kính mộ, liền bước xuống dìu Nguyễn Trãi lên giường cùng ngồi” [26,252].

Dù bị Nguyễn Trãi đƣa vào tình thế bị động bất ngờ nhƣng Lê Lợi vẫn rất tỉnh

táo. Hành động “bước xuống dìu Nguyễn Trãi lên cùng ngồi” cho thấy Lê Lợi

là một con ngƣời rất thận trọng, một vị minh quân sáng suốt biết tôn hiền đãi

sĩ, không hề có tính đa nghi hay giết nhầm một ai cả.

Có thể nói rằng, dƣới cái nhìn của nhà tiểu thuyết khi lựa chọn và xây

dựng một nhân vật nhƣ ngƣời anh hùng Lê Lợi trở thành hình tƣợng văn học

thực sự, nhà văn Lê Hoan đã có nhiều cố gắng để xây dựng nhân vật theo

quan điểm và cái nhìn của một nhà văn làm cho nhân vật đƣợc sống một đời

sống mới mẻ và sinh động hơn nhiều so với nhân vật nguyên mẫu có trong

lịch sử.

2.2.2. Hồ Quý Ly từ nguyên mẫu lịch sử đến hình tƣợng văn học

Trong lịch sử Việt Nam, Hồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử cũng đƣợc

khá nhiều ngƣời biết đến. Trong sách Đại Việt sử ký toàn thư các tác giả chép:

“Quý Ly tự là Nguyên, suy tính rằng tổ trước là Hồ Hưng Dật vốn người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 47

Chiết Giang đời Hậu Hán Ngũ quý sang làm thái thú Diễn Châu... Đến đời

cháu thứ 12 là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại phủ Thanh Hóa làm con

nuôi của Tuyên uý Lê Huấn, từ đấy mới đổi làm họ Lê. Quý Ly là cháu 4 đời

của Liêm. Đời trần Nghệ Tôn từ chức Chi hậu tứ cục chánh trưởng, thăng lên

Khu mật đại sứ, lên Tiểu tư không, tiến phong Đồng bình chương sự, gia

phong đến Phụ chính thái sư nhiếp chính, Khâm đức hưng liệt đại vương,

Quốc tổ chương hoàng, rồi rời ngôi của nhà Trần, đặt quốc hiệu là Đại Ngu,

trở lại họ Hồ, chưa được một năm thì truyền ngôi cho con là Hán Thương...

sau 2 cha con đều bị người Minh bắt” [33,658]. Theo nhƣ sử sách, Hồ Quý Ly

là một kẻ bất trung bất nghĩa, ăn lộc của triều đình nhƣng chỉ toan tính bày

mƣu giết vua để cƣớp ngôi. Tội ác của Hồ Quý Ly đƣợc các tác giả trong Đại

Việt sử ký toàn thư ghi chép khá tỉ mỉ, có thể điểm qua nhƣ sau:

“Kỷ mão, Kiến Tân năm thứ 2 (1399) (Minh Doãn Văn Kiến văn thứ 1).

Mùa hạ tháng 4 Quý Ly bắt ép vua phải xuất gia theo đạo giáo, ở quán Ngọc

Thanh thuộc thôn Đạm Thủy, mật sai Nội tẩm học sinh là Nguyên Cẩn đi theo

trông nom. Vua hỏi rằng: “Người theo hầu ta muốn làm gì chăng?” Cẩn

không nỡ nói, Quý Ly làm bài thơ đưa cho Cẩn mà nói: “Nguyên Quân không

chết thì ngươi phải chết”. Lại làm bài thơ đưa cho Nguyên Quân rằng:

“Trước có vua hèn ngu, Hôn Đức và Linh Đức. Sao không liệu sớm đi. Chỉ để

bận người khác” Cẩn bèn tiến thuốc độc? Vua không chết, lại tiến nước dừa

mà không cho ăn. Cũng không chết. Đến đây sai xa kỵ vệ thượng tướng quân

là Phạm Khả Vĩnh thắt cổ giết chết. Chôn ở lăng Yên Sinh, miếu hiệu là thuận

tôn” [33,658-659].

Căm tức trƣớc tội ác của Hồ Quý Ly, bọn Trần Thái Bảo, Trần Hãng,

Trần Khát Chân là con cháu họ Trần mƣu giết Quý Ly, sự việc không thành

“bọn tôn thất Hãng, trụ quốc Nhật Đôn, tướng quân Trần Khát Chân... và các

liều thân thuộc cộng hơn 370 người đều bị giết cả, tịch thu gia sản, con gái Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 48

bắt làm tì, con trai từ một tuổi trở lên hoặc chôn sống, hoặc dìm nước”

[33,659].

Còn đây là cách để Hồ Quý Ly lên ngôi “Tháng 2, ngày 28, Lê Quý Ly ép

vua nhường ngôi và bắt người tôn thất và các quan ba lần dơng biểu khuyến

tiến, giả cách từ chối nói: “Ta sắp chết đến nơi, còn mặt mũi nào trông thấy

tiên đế dưới đất nữa?”. Rồi thì tự lập làm đế, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên,

quốc hiệu là Đại Ngu, đổi lại làm họ Hồ” [33,663].

Từ chân dung của một kẻ chuyên quyền bạo ngƣợc, nhân vật Hồ Quý Ly

đã gây đƣợc sự chú ý của nhà văn Lê Hoan. Bằng tài năng của mình, Lê Hoan

đã nhào nặn từ một nhân vật lịch sử thành một hình tƣợng văn học thực sự.

Hồ Quý Ly trong lịch sử là nhân vật phản diện đến với văn học vẫn là chân

dung của một kẻ phản diện. Trong quá trình xây dựng nhân vật, nhà văn vẫn

bảo lƣu những yếu tố tên tuổi, tính cách và môi trƣờng sống của nhân vật nhƣ

trong lịch sử, nhƣng để đem lại một cái nhìn mới từ một hình tƣợng cũ quen

thuộc nhà văn Lê Hoan không đi sâu vào kể lại những tội ác của Hồ Quý Ly

mà bằng cách trao cho nhân vật những lời thoại khiến cho nhân vật có điều

kiện để bộc lộ bản chất tham tàn độc ác của mình một cách khách quan nhất.

Chẳng hạn, ở hồi 5 khi đƣợc tin Trần Thiên Bình sắp về tới biên giới, Hán

Thƣơng liền sai cận thần vào hỏi kế Quý Ly, Quý Ly ngay lập tức lâm triều

nói: “Tiên lễ hậu binh, ấy là cách hay nhất trước hết ta hãy cử đại tướng đem

quân mai phục những nơi hiểm yếu. Tiếp đó cho người chuẩn bị rượu thịt

thiết đãi quân Thiên Bình, rồi dụ chúng vào rừng mà giết sạch để trừ mối họa

về sau. Chính hồi Khổng Minh đánh Chu Du cũng đã dùng kế này, gọi là

“bày cung thiêng để tóm mãnh hổ, thả mồi ngon để bắt cá to” [26,38].

Những lời nói của Hồ Quý Ly đã lộ rõ bản chất nham hiểm độc ác của

một kẻ lòng lang dạ sói, bề ngoài tỏ ra nhún nhƣờng chấp nhận sự sắp đặt của

thƣợng quốc, rƣớc Thiên Bình về nƣớc để trao lại ngôi vua nhƣng bên trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 49

thì ngấm ngầm lập mƣu trừ khử bằng một trận mai phục ngoạn mục. Kế sách

chiến lƣợc của kẻ từng chiếm ngôi nhƣ Quý Ly là “giết sạch để trừ mối họa

về sau”.

Hay ở hồi 7, khi Quý Ly xa giá về Tây Đô, Hán Thƣơng lúc tiễn thƣợng

hoàng ra ngoài thành có bày tỏ: “Hoàng phụ tiện đường hạ cố tới Lam Sơn

mời anh em Lê Lợi ra phò giúp, nếu được thì nước ta khỏi phải lo.

Quý Ly nói:

- Xem ra hắn cũng chỉ là một gã nhà quê thôi, việc gì phải hạ nhục trẫm

như vậy? Trẫm sẽ sai người gọi hắn tới, không tới thì trẫm giết quách đi là

xong” [26,57].

Nhờ phƣơng tiện ngôn ngữ, tác giả đã để nhân vật Hồ Quý Ly tự biểu lộ

đƣợc bản chất kiêu ngạo của mình. Khi có ý coi thƣờng xem anh em Lê Lợi

chỉ là “gã nhà quê” và coi việc cầu hiền tài là “hạ nhục”, Quý Ly tỏ ra là một

con ngƣời không biết tôn hiền đãi sĩ. Thói quen vốn dĩ của Quý Ly là giết

nhầm còn hơn bỏ xót cho nên cầu hiền tài mà không tới thì “giết quách đi là

xong”. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến Hồ Quý Ly

nhanh chóng bị thất bại trong sự nghiệp xây dựng đất nƣớc, trấn yên bờ cõi.

Xem xét nhân vật Hồ Quý Ly từ nguyên mẫu lịch sử đến hình tƣợng văn

học, ta thấy tác giả Lê Hoan đã rất cố gắng để thoát khỏi cách ghi chép lạnh

lùng của các sử gia. Nếu nhƣ nhân vật Hồ Quý Ly trong lịch sử đƣợc các nhà

sử học ghi chép theo trình tự gắn liền với các sự kiện chính xác thì khi trở

thành nhân vật văn học, tác giả Việt Lam tiểu sử không chỉ bằng tiến trình các

sự kiện mà còn bằng tƣ duy logíc nghệ thuật của một nhà văn để cho nhân vật

vận động nhƣ một chỉnh thể đƣợc bộc lộ những tính cách một cách khách

quan và chân thực nhất.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 50

2.2.3. Nhân vật Nguyễn Trãi từ nguyên mẫu lịch sử đến hình tƣợng văn

học

Trong lịch sử dân tộc, Nguyễn Trãi đƣợc biết đến là một vị danh nhân

văn hóa có đức độ tài năng. Với một sự nghiệp vinh quang vĩ đại gắn liền với

một giai đoạn lịch sử sôi động cùng những biến cố có tầm vóc lớn lao mà

trung tâm là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Khi giặc Minh xâm lƣợc, lửa khởi

nghĩa đang rực cháy trên nhiều vùng của đất nƣớc mà lớn nhất là cuộc khởi

nghĩa của Trần Ngỗi (Giản Định Đế) và Trần Quý Khoáng (Trần Trùng

Quang), nhƣng Nguyễn Trãi đã bỏ qua tất cả những cuộc khởi nghĩa của phái

hậu Trần để đem trái tim rực cháy tình yêu nƣớc góp thêm một ngọn lửa vào

cuộc khởi nghĩa Lam Sơn khi ấy vừa mới nhóm. Là một ngƣời có tài năng

đức độ nên ông đƣợc Lê Lợi rất tin cậy giao cho nhiệm vụ thừa chỉ học sĩ,

giúp Lê Lợi trù hoạch quân mƣu dự thảo các văn kiện chính trị, ngoại giao.

Những tháng ngày cùng chiến đấu với nghĩa quân Lam Sơn là những năm

tháng gian khổ mà vĩ đại nhất trong cuộc đời Nguyễn Trãi. Là một cá nhân

kiệt suất có vai trò to lớn trong lịch sử dân tộc nhƣng các trang sử viết về

Nguyễn Trãi còn rất hạn hẹp, nếu có cũng chỉ rất mờ nhạt. Điều này có thể đối

chiếu với bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư do các tác giả Ngô Sĩ Liên, Lê

Văn Hƣu, Phan Phu Tiên soạn thảo. Nói về vai trò, vị trí của Nguyễn Trãi với

cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, các tác giả có ghi chép tản mạn trong quyển X. Có

thể điểm qua nhƣ sau:

Ngày 22, Lê Lợi cùng tổng binh quan nƣớc Minh họp hội thề ở phía Nam

thành, quân bắc hẹn ngày 12 tháng 12 đem quân về nƣớc. Khi ấy các tƣớng sĩ

và ngƣời nƣớc ta bị khổ về sự tàn ngƣợc của giặc đã lâu nên rủ nhau cố xin

với Lê Lợi giết hết đi nhƣng duy có Hành Khiển Nguyễn Trãi ở nơi tham

mƣu, đƣợc xem thƣ bọc sáp của Thông gửi về nƣớc nói: “Chớ tham chỗ đất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 51

một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm, giả sử dùng quân đi như số quân đi

đánh khi đầu, lại được 6, 7, 8 đại tướng như bọn Trương Phụ thì mới có thể

đánh được, tuy nhiên có đánh được cũng không thể giữ được” nên biết rõ thế

mạnh yếu của giặc mới chuyên chủ mặt hoà. Vua nghe theo, và hạ lệnh cho

các quan giải vây lui ra” [34,67].

Tháng 3 ngày 18, Lê Lợi cho đại hội các tƣớng và các quan văn võ để

định công ban thƣởng, theo công cao thấp mà định thứ bậc “lấy thừa chỉ

Nguyễn Trãi làm quan phục hầu, tư đồ Trần Hãn làm tả tướng quốc, khu mật

đại sứ Phạm Văn Xảo làm thái bảo, đều cho quốc tính” [34,84].

Mùa thu, tháng 9, ngày mùng 8, sau khi thái tử Nguyễn Long lên ngôi

hoàng đế “Mùa đông, tháng 11, Nguyễn Trãi vâng sắc soạn văn bia,...”

[34,105].

Nhƣ vậy, nếu chỉ bám sát vào một số chi tiết đƣợc ghi chép về Nguyễn

Trãi trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư, chúng ta khó có thể hình dung đƣợc

những công lao to lớn mà ông đã đóng góp cho lịch sử dân tộc, đặc biệt là với

cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Với tƣ duy logíc nghệ thuật của một nhà văn, Lê

Hoan đã kịp thời đáp ứng đƣợc thị hiếu của ngƣời đọc khi quyết định xây

dựng nhân vật Nguyễn Trãi từ một nguyên mẫu lịch sử trở thành một hình

tƣợng văn học độc đáo. Trên những trang viết của Việt Lam tiểu sử, nhân vật

Nguyễn Trãi đã thực sự khẳng định đƣợc vai trò vị trí của mình trong lịch sử

dân tộc. Trong khi xây dựng nhân vật, tác giả Lê Hoan đã có nhiều tìm tòi

khám phá để xây dựng nhân vật Nguyễn Trãi nhƣ một nhân vật “sống”. Xuất

hiện trong Việt Lam tiểu sử, Nguyễn Trãi đƣợc giới thiệu một cách rõ ràng từ

ngọn nghành gốc gác cho đến tƣ chất tài năng: “Nguyễn Trãi người Nhị Khê,

huyện Thượng Phúc. Trãi từ tấm bé đã côi cút bần hàn, nhưng vốn tính thông

minh, các phép bói Nhâm, Cầm, Độn, Ất, không thứ nào không thạo”

[26,250]. Con đƣờng Nguyễn Trãi đến với Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 52

Sơn cũng đƣợc tác giả miêu tả rất kỹ. Khi tới nghỉ trọ ở một túp lều tranh, tình

cờ Nguyễn Trãi gặp đƣợc thần nữ ở Sùng Sơn, thần nữ cho biết: “Nghe các

ban ở lưỡng tào nói nước Nam đang nhiễu loạn, thượng đế sẽ cho Lê Lợi làm

vua, Nguyễn Trãi làm phụ tá để ổn định tình hình” [26,250]. Thấy vậy,

Nguyễn Trãi mừng rỡ tìm đến núi Thiên Nhẫn ở Nghĩa An chờ thời cơ tìm

gặp bằng đƣợc Lê Lợi. Qua 6, 7 tháng ở lại đây, nhân lúc các cụ già đến gặp

Lê Lợi đề đạt ý kiến, Nguyễn Trãi liền đi theo trèo lên mái nhà, thấy có một

chỗ hổng ông xuống nấp vào góc phòng chờ lúc Lê Lợi bày xong Thái ất thì

vén màn xông vào khiến cho Lê Lợi “giật mình tuốt gươm ra định chém”

[26,252]. Thì ra kẻ vén màn sụp lạy Lê Lợi chính là Nguyễn Trãi. Cuộc gặp

gỡ vào giữa lúc đêm khuya đầy bất ngờ tạo nên dấu nhấn giữa hai vị “vua

sáng” và “tôi hiền” mà sau này sẽ là “vi quân”, “vi thần” cùng sát cánh bên

nhau xây dựng đại nghiệp. Nguyễn Trãi đến với nghĩa quân Lam Sơn gần nhƣ

là do trời đã định sẵn “Đó là vị danh thần mở nước theo sứ mệnh trời trao”

[26,250]. Chính cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là môi trƣờng thuận lợi để Nguyễn

Trãi bộc lộ tâm huyết, tài năng và nhân cách của mình. Những ngày đầu mới

đến với nghĩa quân, ông đảm nhiệm việc dạy chữ cho binh lính. Ngƣời nhập

học rất đông “tiếng đọc sách hoà cùng âm thanh núi rừng, vẻ văn chương hợp

với cảnh sắc mây ngàn” [26,255]. Là một vị quân sƣ biết nhìn xa trông rộng,

Nguyễn Trãi thay mặt các tƣớng sĩ khuyên Lê Lợi lên ngôi hoàng đế để thuận

với lòng dân, thu họp quân sĩ đánh giặc. Vì sợ mang tiếng bất nghĩa Lê Lợi

không chịu lên ngôi, Nguyễn Trãi đã dùng kế lấy mật ong vẽ lên cây cổ thụ

dòng chữ “Lê Lợi vi vương, Nguyễn Trãi vi phụ” (Lê Lợi làm vua, Nguyễn

Trãi làm phụ tá) [26,260], để kiến ong tụ tập tới ăn, làm trống chỗ vỏ cây có

mật ong, tin đồn đi khắp nơi Lê Lợi cho rằng đó là ý trời mới quyết định chọn

ngày lên ngôi. Nhờ kế của Nguyễn Trãi, Lê Lợi lên ngôi giúp cho lòng dân

quy thuận, triều đình đƣợc tổ chức sắp xếp rạch ròi, trên dƣới đƣợc sắp đặt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 53

theo thứ bậc rõ ràng từ các quan văn, quan võ,... Những kẻ hào trƣởng lũ lƣợt

kéo nhau tới theo, quần thần tâu xin dấy binh, tƣớng sĩ một lòng hăm hở bƣớc

vào cuộc kháng chiến chống quân Minh. Không những là một ngƣời “trên

thông thiên văn dưới tường địa lý” Nguyễn Trãi còn là một vị tƣớng có tài

thao lƣợc. Với khả năng linh hoạt tính toán nhƣ thần lại khá am hiểu binh thƣ

binh pháp, Nguyễn Trãi luôn lƣờng trƣớc đƣợc âm mƣu của địch. Nhờ dùng

mƣu trí, trận Nghĩa An, Cầm Bành, Nguyễn Trãi thắng lớn. Lòng quân háo

hức thừa thắng tiến đánh Trà Long, Lâm Thao, Đoan Hùng, Tuyên Hóa,...

khiến kẻ thù phải hồn siêu phách lạc. Ví nhƣ trận đánh Cầm Bành, Nguyễn

Trãi bày binh bố trận cho quân mai phục để dụ cho Cầm Bành ra hàng, bực

tức Bành kiên quyết chống đỡ. Nguyễn Trãi “vờ tức giận” sai Đoàn Mãng ra

đánh đƣợc vài hiệp giả cách thua vừa chạy vừa chửi nhƣng Mãng biết là kế

nghi binh lừa địch nên quyết không đuổi theo. Nguyễn Trãi thấy mƣu kế bị lộ

lập tức bày kế khác cho quân theo đƣờng tắt, đánh kẹp lại từ hai bên, đánh

nhau với Bành hơn trăm hiệp mà vẫn chƣa phân thắng bại, Cầm Bành biết

chống đỡ không nổi nên chạy vào thành cố thủ không trở ra nữa, trƣớc tình

thế đó Nguyễn Trãi “lệnh cho quân sĩ đem đất lấp hào, dùng thang mây áp sát

vào thành leo lên. Trên thành cầm Bành sai bắn đá xuống, làm cho thang mây

bị đứt không thể nào leo lên được. Trãi ra lệnh khoét một đường hầm xuyên

vào trong thành, khiến đối phương khó bề vào nổi” [26,276]. Qua mấy ngày

thành vẫn chƣa hạ đƣợc, Nguyễn Trãi liền cho 1000 quân tới mai phục ở

ngoài cửa thành phía tây, lại cho một số khác đi lấy rơm củi chất thành phía

đông và chuẩn bị đốt thành. Bằng mƣu trí và sự kiên trì cuối cùng Nguyễn

Trãi cũng hạ đƣợc Cầm Bành.

Rõ ràng thông qua tác phẩm Việt Lam tiểu sử, hình tƣợng Nguyễn Trãi

đƣợc tác giả khắc họa chi tiết hơn nhiều so với những gì mà các tác giả Đại

Việt sử ký toàn thư ghi chép. Để ngƣời đọc có đƣợc cách nhìn nhận đầy đủ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 54

hơn về những đóng góp và công lao to lớn của ngƣời anh hùng Nguyễn Trãi

đối với lịch sử dân tộc, một phần công lao to lớn là nhờ vào sự sáng tạo của

nhà văn Lê Hoan.

Nhƣ vậy, qua việc tìm hiểu khái quát một số nhân vật trong tác phẩm

Việt Lam tiểu sử từ nguyên mẫu đến hình tƣợng văn học, chúng ta phần nào

thấy đƣợc sự sáng tạo của tác giả Lê Hoan trong quá trình xây dựng nhân vật.

Với tài năng và tâm huyết của mình, Lê Hoan đã có nhiều cố gắng để nhào

nặn từ những nhân vật lịch sử “xa xưa” trở thành những nhân vật “sống” có

suy nghĩ, có tính cách, có cả hành động, ngôn ngữ, giống nhƣ con ngƣời sống

trong hiện thực. Nhằm đem đến cho độc giả một cái nhìn toàn diện hơn, đầy

đủ hơn về các nhân vật lịch sử. Mặc dù, các nhân vật trong Việt Lam tiểu sử

phần lớn đƣợc xây dựng từ nguyên mẫu có thật trong lịch sử song không phải

nhà văn bê nguyên mẫu lịch sử ấy vào trong tác phẩm của mình, mà bằng trí

tƣởng tƣợng phong phú và tài năng của ngƣời nghệ sỹ, các nguyên mẫu đã

đƣợc nhà văn nhào nặn trở thành nhân vật văn học, phục vụ cho ý đồ sáng tạo

của mình, mang phong cách riêng của mình.

2.3. Những nét tƣơng đồng và khác biệt giữa nhân vật trong tiểu

thuyết Việt Lam tiểu sử với nhân vật trong lịch sử

Nhƣ đã biết, thể loại tiểu thuyết lịch sử trong văn học Việt Nam ngay từ

khi mới ra đời là những tác phẩm phản ánh trực tiếp những biến cố của lịch sử

dân tộc và lấy đó làm đề tài. Tác phẩm Việt Lam tiểu sử là một cuốn tiểu

thuyết lịch sử viết theo kết cấu chƣơng hồi, bởi vậy giữa tác phẩm với những

cuốn sử ghi chép về cùng một giai đoạn có những nét tƣơng đồng và khác biệt

nhất định. Tƣơng đồng, khác biệt về chi tiết phản ánh, sự kiện phản ánh,… Ở

đây, ngƣời viết không có tham vọng trình bày hết toàn bộ những điểm tƣơng

đồng và khác biệt mà chỉ tập trung trình bày sự tƣơng đồng và khác biệt cơ

bản giữa nhân vật trong Việt Lam tiểu sử và những nhân vật có thật đƣợc ghi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 55

chép trong sách sử. Cụ thể là bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư do Lê Văn

Hƣu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên soạn thảo (1272 – 1697), để thấy đƣợc khả

năng quan sát nhạy bén, sự tinh tế của tác giả Lê Hoan trong quá trình đƣa từ

nhân vật có thật trong lịch sử thành các hình tƣợng văn học.

2.3.1. Những nét tƣơng đồng giữa nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam

tiểu sử với nhân vật trong lịch sử và nguyên nhân của sự tƣơng đồng

2.3.1.1. Những nét tƣơng đồng

Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan là một cuốn tiểu thuyết lịch sử. Do vậy,

những nhân vật và sự kiện trong tác phẩm đƣợc xây dựng trên cơ sở những

nhân vật và sự kiện lịch sử có thật là điều tất yếu. Nhà nghiên cứu Chƣơng

Thâu trong bài viết Đọc Việt Lam xuân thu (bản duy tân) nghĩ về người khắc

in, công bố và một vài nhân vật, thời đại đã từng nhận xét Việt Lam tiểu sử là:

“Một cuốn tiểu thuyết, “tiểu thuyết lịch sử”. Bút pháp là theo kiểu chương hồi,

cách diễn thuật không hợp với nghệ thuật tiểu thuyết hiện đại, nhưng chủ đề,

chủ ý của tác giả thì rõ ràng là rất được trân trọng. Tác giả muốn tô đậm cho

những cử chỉ nghĩa khí, những sự tích anh hùng. Tư tưởng dân tộc, lòng tự

hào, chí bất khuất, niềm tha thiết với vận mệnh tổ quốc là điều rõ ràng không

thể nào phủ nhận được” [63,388]. Xuất phát từ đề tài lịch sử dân tộc, từ chủ ý

ca ngợi những ngƣời anh hùng dân tộc cho nên các nhân vật trong Việt Lam

tiểu sử ít nhiều cũng đƣợc bảo lƣu những đặc điểm nhất định. Những yếu tố

đƣợc bảo lƣu từ thực tế lịch sử rất phong phú và đa dạng. Đó là các sự kiện

chính trị diễn ra trong cuộc đời của nhân vật, là tên tuổi, vị trí vai trò của nhân

vật trong lịch sử, là các sự kiện chính trị diễn ra trong cuộc đời của nhân vật.

Chẳng hạn, trong lịch sử dân tộc, tiếng tăm của Lê Lợi gắn liền với

cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, vai trò to lớn của Lê Lợi là lãnh đạo nghĩa quân

Lam Sơn vƣợt qua mọi khó khăn gian khổ đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ

cõi, đem lại độc lập tự do cho nhân dân. Nói đến tên tuổi vai trò vị trí của Lê Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 56

Lợi, các tác giả Đại Việt sử ký toàn thư có ghi: “Vua họ Lê, huý là Lợi, người

hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hóa, ở ngôi 6 năm, thọ 51

tuổi, chôn ở Vĩnh Lăng. Vua hăng hái dấy nghĩa binh đánh dẹp giặc Minh, 10

năm mà thiên hạ đại định” [34,7].

Từ một yếu nhân có vai trò và vị trí trong lịch sử nhƣ Lê Lợi, khi xây

dựng trở thành một hình tƣợng văn học, nhà văn Lê Hoan vẫn bảo lƣu danh

tính và nguồn gốc xuất thân của nhân vật “Đám con của cụ Lê Thường người

hương Lam Sơn, huyện Nga Lạc, phủ Thanh Hóa. Trưởng là Lê Lai, thứ nữa

là Lê Lợi,…” [26,32]. Đồng thời nhà văn cũng bảo lƣu cả vai trò vị trí của Lê

Lợi nhƣ trong lịch sử. Tuy rằng trong quá trình xây dựng nhân vật, tác giả có

hƣ cấu thêm một số sự kiện gắn liền với cuộc đời nhân vật nhƣng đó là xuất

phát từ những ý đồ cá nhân của tác giả, vấn đề trung tâm đƣợc tác giả chú ý

khai thác vẫn là vai trò to lớn của ngƣời anh hùng Lê Lợi trong quá trình lãnh

đạo nghĩa quân Lam Sơn chống giặc ngoại xâm, giúp dân ổn định.

Đọc Việt Lam tiểu sử, chúng ta dễ dàng nhận thấy những sự kiện gắn với

nhân vật đƣợc tác giả chú ý bảo lƣu. Mặc dù những sự kiện ấy chƣa chính xác

hoàn toàn về thời gian nhƣ trong Đại Việt sử ký toàn thư nhƣng dù sao cũng

đƣợc tác giả đƣa vào làm nòng cốt. Ví dụ:

Sự kiện Hồ Quý Ly cƣớp ngôi nhà Trần là một trong những sự kiện quan

trọng, đánh dấu bƣớc ngoặt của lịch sử dân tộc. Chính từ sự việc họ Hồ cƣớp

ngôi nhà Trần, kẻ thù lợi dụng lúc trong nƣớc lòng dân nhiễu loạn đã đem

quân sang xâm lƣợc gây ra những thảm họa to lớn. Sự kiện này trong Việt

Lam tiểu sử, đã đƣợc tác giả Lê Hoan ghi lại tuy vắn tắt nhƣng rất cơ bản:

“Năm canh thìn, Thiên Thánh thứ một, Quý Ly chiếm ngôi lấy tên nước là Đại

Ngu, đặt niên hiệu là Thiên Thánh. Cướp ngôi được một năm tự xưng là Thái

thượng hoàng, truyền ngôi cho con là Hán Thương, đổi niên hiệu là Thiệu

Thành” [26,20]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 57

Nói về sự kiện này trong Đại Việt sử ký toàn thư, các tác giả cũng có

chép: “Canh thìn năm thứ 3 (1400) (Năm nay nhà Trần mất từ tháng 3 trở đi.

Quý Ly cướp ngôi, xưng là Thánh Nguyên năm thứ một - Minh Kiến Văn thứ

2). Mùa xuân tháng giêng, Lê Quý Ly lập con là Hán Thương làm thái tử”

[18,662]. Đến mùa đông tháng 12 Quý Ly “đem nhường ngôi cho con là Hán

Thương tự xưng là Thái thượng hoàng, cùng trông coi chính sự” [33,665].

Sự kiện Hồ Quý Ly bị bắt là một chi tiết đƣợc Lê Hoan chú ý khai thác

để khắc họa kết cục thảm hại của một ông vua chuyên quyền bạo ngƣợc trong

lịch sử nƣớc ta: “Ngày Ất Mão, Liễu Thăng dẫn vệ binh Vĩnh Định gồm

Vương, Sài, Hồ v.v. Cả thảy 7 người đi tầm nã, biết Quý Ly đang ẩn náu trong

núi, liền xua quân vào lùng sục, bắt được Quý Ly và con là Quý Trừng trói

đưa lên xe” [26,154]. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, các tác giả cũng có chép:

“Tháng 11 quân Minh đánh Vĩnh Ninh, vệ quân là bọn Vương Sài Hồ bảy

người bắt được Quý Ly ở ghềnh Chẩy Chẩy” [33,693].

Nhƣ vậy, ngoài các yếu tố nhƣ vai trò, vị trí, tên tuổi, của các nhân vật

trong lịch sử đƣợc tác giả bảo lƣu thì các sự kiện lịch sử gắn liền với cuộc đời

nhân vật cũng đƣợc tác giả chú ý bảo lƣu để làm nòng cốt cho tác phẩm.

2.3.1.2. Nguyên nhân của sự tƣơng đồng

Văn học là một hình thái ý thức xã hội đặc thù bắt nguồn từ hiện thực

đời sống. Nhà văn là ngƣời thƣ ký trung thành của thời đại luôn luôn bám sát

và phản ánh một cách sinh động, phong phú về cuộc sống. Vì vậy, tính hiện

thực là thuộc tính tất yếu của văn học. Tuy rằng, trong quá trình phản ánh hiện

thực khách quan đã thông qua lăng kính chủ quan của nhà văn nhƣng những

gì thuộc về thế giới hiện thực vẫn là nền tảng để tác giả thể hiện cách nhìn

nhận và thể hiện những quan niệm thẩm mỹ của mình. So sánh hai thế giới

hiện thực: Hiện thực ngoài đời và hiện thực trong tác phẩm, bao giờ cũng có

những điểm tƣơng đồng nhất định. Điều này đặc biệt đáng lƣu ý ở các tác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 58

phẩm đƣợc xây dựng trên nền của những sự kiện lịch sử nhƣ tiểu thuyết lịch

sử. Theo tác giả Nguyễn Phƣơng Chi: “Tiểu thuyết lịch sử tuyệt đối không cho

phép nhà văn xây dựng lịch sử trên những mẫu của bản thân hiện nay mà

phải trên những mẫu của bản thân lịch sử, cốt truyện phải phù hợp với xu thế

lịch sử, nhân vật phải mang đặc điểm của thời đại sinh ra nó, và ngôn ngữ

đặc biệt là ngôn ngữ đối thoại cũng phải có tính lịch sử” [11,113].

Chính bởi phải xây dựng trên những mẫu của bản thân lịch sử cho nên

một trong những vấn đề mà các tiểu thuyết gia lịch sử quan tâm đó là phản

ánh hiện thực lịch sử. Nhà văn Lê Hoan là một ngƣời có tâm huyết với lịch sử

dân tộc, lại là ngƣời có trình độ học vấn cao. Ông thƣờng xuyên có điều kiện

đi đây đi đó để khảo sát các tƣ liệu lịch sử và đặc biệt có sở thích lƣu lại

những điều mắt thấy tai nghe. Khi quyết định đƣa các nhân vật lịch sử đã

đƣợc sử sách lƣu truyền, đã đƣợc nhiều ngƣời biết đến nhƣ Lê Lợi, Hồ Quý

Ly, Nguyễn Trãi,... để gia công nhào nặn trở thành hình tƣợng văn học, Lê

Hoan đã rất thận trọng bám sát vào hiện thực lịch sử để làm sống lại những

nhân vật lịch sử vừa sinh động vừa có tác dụng khơi gợi sự hiếu kỳ ở ngƣời

nghe, ngƣời đọc. Do vậy, trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử chúng ta không

phủ nhận có những điểm tƣơng đồng với sự thật lịch sử. Đây cũng chính là cơ

sở để tạo nên tính tƣơng đồng cơ bản giữa nhân vật trong Việt Lam tiểu sử của

Lê Hoan với các nhân vật có thật trong lịch sử.

Tiểu thuyết chƣơng hồi chữ Hán Việt Nam là một hệ thống những tác

phẩm văn học có đề tài liên quan đến lịch sử đến các nhân vật và sự kiện lịch

sử đã xảy ra. Tác phẩm Việt Lam tiểu sử là cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo

lối kết cấu chƣơng hồi. Các nhân vật đƣợc Lê Hoan tập trung xây dựng là

những nhân vật lịch sử đã rất quen thuộc với đông đảo quần chúng nhân dân.

Khi đã có ý định làm sống lại các nhân vật lịch sử có thật thì điều đầu tiên

khiến tác giả phải chú ý đó là việc bảo lƣu danh tính, nguồn gốc xuất thân, vai Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 59

trò và vị trí của nhân vật, kể cả thời đại và môi trƣờng mà nhân vật đang sống.

Nhờ có những yếu tố cơ bản đƣợc bảo lƣu để làm nòng cốt giúp cho tác giả tự

tin hơn khi xây dựng nhân vật. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến sự tƣơng

đồng ở những mức độ nhất định giữa nhân vật trong Việt Lam tiểu sử của Lê

Hoan và các nhân vật có trong sử sách.

2.3.2. Những nét khác biệt giữa nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam

tiểu sử và nguyên nhân của sự khác biệt

2.3.2.1. Những nét khác biệt

Tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần của ngƣời nghệ sĩ mà nhân vật

chính là tâm huyết là ý đồ họ gửi gắm trong đó. Tuy nhiên, nhân vật văn học

là một đơn vị nghệ thuật mang tính ƣớc lệ, cho nên chúng ta không thể đồng

nhất giữa những nhân vật văn học với những con ngƣời có thật trong đời sống.

Ngay cả khi nhân vật đƣợc lấy nguyên mẫu từ một con ngƣời hoàn toàn có

thật. Tiểu thuyết lịch sử viết theo lối kết cấu chƣơng hồi thƣờng dựa vào lịch

sử, lấy lịch sử làm điểm tựa thế nhƣng nó lại có những điểm riêng biệt của

một tác phẩm nghệ thuật. Nghĩa là, nó tái hiện lịch sử bằng trí tƣởng tƣợng,

bằng quyền hƣ cấu và sáng tạo của mình. Nhân vật lịch sử và nhân vật văn

học tuy giống nhau mà vẫn khác, tuy một mà hai. Nhà văn vẫn trung thành với

tên tuổi, với một bản lý lịch đầy đủ, chính xác và cả thời đại, môi trƣờng mà

nhân vật sống nhƣng những chi tiết cụ thể về diện mạo, tính cách, ngôn ngữ,

hành động tâm tƣ tình cảm, thái độ với những gì diễn ra xung quanh nhân vật

đã khác đi nhiều, thể hiện một sự quan sát khác, cái nhìn khác về nhân vật.

Cũng chính vì thế nhân vật lịch sử trong tác phẩm văn học trở nên sống động

hơn, đầy đủ hơn.

Tác phẩm Việt Lam tiểu sử là cuốn tiểu thuyết viết về một thời kỳ lịch sử

đầy biến động của dân tộc 30 năm đầu thế kỷ XV. Hạt nhân của tác phẩm này

là lịch sử. tuy dựa vào lịch sử nhƣng khi sáng tác chủ yếu là tác giả sáng tạo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 60

hƣ cấu theo trí tƣởng tƣợng của mình. Cũng chính từ việc hƣ cấu mà các nhân

vật trong Việt Lam tiểu sử có nhiều điểm khác biệt với các nhân vật trong lịch

sử. Cùng một sự kiện diễn ra trong cuộc đời của nhân vật nhƣng đƣợc ghi lại

trong Việt Lam tiểu sử nó không hoàn toàn đơn thuần là những sự kiện lịch sử

nhƣ ở các cuốn lịch sử đã ghi chép. Các sự kiện này đã đƣợc nhìn nhận ở

những góc độ không hoàn toàn giống nhau nhờ có yếu tố hƣ cấu. Đọc Việt

Lam tiểu sử và các cuốn sử ghi chép cùng một giai đoạn lịch sử, chúng ta sẽ

nhận thấy điều này. Nếu nhƣ trong các sách chính sử các sự kiện đƣợc ghi

chép một cách đầy đủ, chi tiết, nhân vật chỉ có ý nghĩa là chủ thể của các sự

kiện và đƣợc ghi chép lại bằng những nét rất cơ bản chung chung thì trong

Việt Lam tiểu sử tác giả đã lựa chọn các sự kiện, các chi tiết đó để tái hiện

nhân vật một cách cụ thể sinh động theo cái nhìn và quan điểm của một nhà

văn. Không giống với các nhà sử học ghi chép về một ngƣời nào đó đòi hỏi

cao ở tính chân xác không đƣợc phép thêm bớt trong khi đó tác giả Việt Lam

tiểu sử lại đem đến cho bạn đọc một hình ảnh về con ngƣời rất sinh động.

Nhân vật của nhà văn Lê Hoan là những ngƣời đang sống có suy nghĩ, có tính

cách, và hành động ngôn ngữ, giống nhƣ con ngƣời trong cuộc sống hiện

thực. Ở đây, ngƣời viết chỉ dừng lại so sánh một vài sự kiện chính đƣợc ghi

chép trong chính sử đƣợc Lê Hoan lựa chọn và ghi lại trong Việt Lam tiểu sử.

Nói về sự kiện Trần Thiên Bình về nƣớc trong cuốn Đại Việt sử ký

toàn thư, các tác giả có ghi lại một cách rất khách quan: “Bính Tuất (1406)

(Hán Thương Khai Đại thứ 4 Minh Vĩnh Lạc thứ 4). Mùa hạ, tháng 4, nước

Minh sai Chinh nam tướng quân, Hữu quân đô đốc đồng tri là Hàn Quan,

Tham tướng đô đốc đồng tri là Hoàng Trung đem 10 vạn quân ở Quảng Tây

sang xâm lược, mượn tiếng đưa ngụy Trần vương là Thiêm Bình về nước”

[33,681]. Trong Việt Lam tiểu sử, Lê Hoan cũng lựa chọn chi tiết này nhƣng

có gắn thêm yếu tố hƣ cấu để gửi gắm những dụng ý của mình. Đó có thể xem Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 61

nhƣ là những lời dự báo đầy ẩn ý. Lời dự báo ấy bắt đầu từ khi Trần Thiên

Bình đƣợc Hoàng Trung hộ tống về đến nƣớc Nam, đêm đầu tiên sau khi

đƣợc trăm họ chào đón vái lạy, Thiên Bình trở vào đi nằm nhƣng suốt đêm

trằn trọc không sao ngủ đƣợc “vừa chợp mắt, bỗng thấy mặt trời hồng ở phía

Bắc mọc lên, di chuyển xuống phía Nam rồi rơi tõm xuống nước, ánh sáng

chói chang, ai thấy cũng phải sợ” [26,39]. Giấc chiêm bao ngắn ngủi ấy vô

tình lại chính là lời dự báo cho kết cục bi đát của Trần Thiên Bình. Số phận

của Trần Thiên Bình cũng giống nhƣ “mặt trời hồng” vừa mọc đã kịp di

chuyển rồi “rơi tõm xuống nước”. Quả đúng nhƣ giấc mộng, Trần Thiên Bình

bị rơi vào trận địa mai phục của Hồ Hán Thƣơng “vừa đi đến đầu cầu, kinh

hồn mất vía bị Dân Hiến đâm cho một nhát rơi xuống nước chết” [26,40].

Cùng nói về sự ra đời của ngƣời anh hùng Lê Lợi trong cuốn Đại Việt

sử ký toàn thư, các tác giả chép: “Vua họ Lê, huý là Lợi, người hương Lam

Sơn, huyện Lương Giang trấn Thanh Hóa... trước kia, tổ ba đời của vua huý

là Hối, từng một hôm đi chơi Lam Sơn, thấy đàn chim bay quanh dưới núi,

giống như hình trạng nhiều người tụ họp, bèn nói: “Chỗ này tất là đất tốt”,

mới dời nhà đến ở đấy. Được ba năm thì thành sản nghiệp. Từ đấy, đời đời

làm hùng trưởng một phương. Hối sinh ra Đinh nối được nghiệp nhà, có bộ

chúng đến hơn nghìn người, lấy vợ là Nguyễn thị (huý là Quách), sinh được

hai con trai, con trưởng là Tòng, con thứ là Khoáng. Khoáng lấy vợ người

Chủ Sơn (Chủ Sơn là Thuỷ Chú) là Trịnh thị (huý là Thương), đến năm Ất

Sửu, tháng 8, ngày mùng 6, sinh ra vua ở hương Chủ Sơn, huyện Lôi Dương.

Vua sinh ra, thiên tư tuấn tú khác thường, thần sắc đẹp mạnh, mắt sáng, mồm

rộng, mũi cao, vai có nốt ruồi, tiếng to như tiếng chuông, đi như rồng, bước

như hổ, kẻ thức giả biết là người phi thường” [34,7-8].

Rõ ràng khi giới thiệu về sự xuất hiện của Lê Lợi, các nhà sử học chỉ ghi

lại rất chính xác và khách quan, có chăng chỉ là so sánh ví von hình dáng thần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 62

sắc của vua để tô đậm sự khác thƣờng cho nhân vật lịch sử. Khác với các nhà

sử học, trong Việt Lam tiểu sử, Lê Hoan đã khai thác chi tiết này rồi hƣ cấu để

gửi gắm dụng ý của mình. Sự xuất hiện của Lê Lợi ngay từ lúc mới ra đời đã

có phần rất kỳ lạ “Lê Lợi lúc sinh, nhà có đoá mây hồng che phủ suốt ba ngày

liền không tan. Ông tính tình cởi mở ít nói có kiến thức Ngũ kinh, Chư sử chỉ

xem qua là nhớ” [26,32]. Có lẽ nắm bắt đƣợc trong mỗi tâm hồn ngƣời Việt,

hình tƣợng Lê Lợi đã đƣợc coi là một vĩ nhân một vị thánh nên Lê Hoan đã

huyền thoại hoá cuộc đời của nhân vật bằng yếu tố hƣ cấu từ sự ra đời cho đến

khả năng thiên bẩm. Dấu hiệu ấy không chỉ tạo nên sự hƣ thực xung quanh

nhân vật mà còn là điềm báo quý nhân rằng sau này Lê Lợi sẽ hoàn thành đại

nghiệp một cách vinh quang, lừng lẫy nhƣ áng mây hồng lan tỏa và ngƣời sẽ

là một ông vua sáng suốt chăm lo cho muôn dân.

Xuất phát từ dụng ý viết tác phẩm Việt Lam tiểu sử để làm phƣơng tiện

giải thích, thanh minh với đồng hữu, với dân tộc, cho nên những sự kiện gắn

liền với nhân vật đã đƣợc tác giả Lê Hoan hƣ cấu, sắp xếp theo ý muốn chủ

quan của mình. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, không hề có chi tiết Lê Lợi

hợp tác với nhà Minh đánh nhà Hồ và cũng không hề có chi tiết Lê Lợi đi tìm

hậu duệ của nhà Trần là Trần Giản Định để phò tá. Xung quanh sự kiện Lê

Lợi dấy binh ở Lam Sơn, các tác giả Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lại một

cách khách quan “trước đây người Châu Hóa là bọn Đặng Tất và Nguyễn Suý

cùng nhau lập con cháu nhà Trần là Trần Ngỗi, Trần Khoáng làm vua nhưng

vua thấy họ đều hèn nhát, lại say đắm tửu sắc, biết là không nên việc, mới ẩn

náu ở rừng núi, để lòng nghiên cứu thảo lược, tìm mời những người mưu trí,

chiêu tập những dân lưu li hăng hái dấy nghĩa binh, chỉ muốn dẹp loạn lớn.

Từng bảo người rằng: “Ta sở dĩ cất quân đánh giặc không phải là có lòng

tham phú quý, chỉ muốn cho người ngàn năm sau biết ta không chịu làm tôi

giặc tàn ngược thôi” [34,8]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 63

Cũng nói về quá trình dấy binh của Lê Lợi nhƣng sự kiện này trong Việt

Lam tiểu sử đã đƣợc nhìn nhận ở những góc độ khác nhau do có thêm yếu tố

hƣ cấu. Nhà văn đã hƣ cấu ra rằng, do tƣớng ít quân mỏng, nƣớc nhỏ dân

nghèo, thời cơ chƣa đến nên Lê Lợi đã “hợp tác” với Trƣơng Phụ để đánh nhà

Hồ, khi quân Minh bình định đƣợc An Nam bắt đƣợc họ Hồ thì chúng lại bộc

lộ dã tâm xâm lƣợc nƣớc Nam. Trƣớc việc làm bất nghĩa của quân Minh, Lê

Lợi tìm cách trả lại ấn sắc phong thƣởng của triều Minh rồi đến Châu Tri Hóa

tìm Giản Định là con cháu vua Trần tôn lên làm vua để phò tá, cuối cùng

không đƣợc Giản Định Đế dung nạp Lê Lợi đã tự đứng lên dựng cờ khởi

nghĩa vƣợt qua mọi khó khăn gian khổ để đem lại độc lập cho dân tộc.

Đọc Việt Lam tiểu sử, ta thấy rằng bên cạnh việc bảo lƣu tên tuổi, vai trò,

vị trí,... tác giả đã chú ý tới những yếu tố mà các nhà sử học thƣờng ít khi bàn

tới. Đó là quan tâm tới nhân vật không chỉ ở phƣơng diện là các nhân vật có

vai trò nhất định trong diễn trình lịch sử mà còn là những số phận chịu sự tác

động nhất định của những hoàn cảnh cụ thể nhƣ bao con ngƣời bình thƣờng

khác.Ví dụ:

Trong Đại Việt sử ký toàn thư, nhân vật Lê Lợi đƣợc các tác giả nhắc tới

là một vị tƣớng tài kiệt suất, một ông vua mƣu lƣợc. Mặc dù trong quá trình

khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi có nhiều lúc thất bại nhƣng sự thất bại ấy chỉ

đƣợc các nhà sử học ghi chép là những chi tiết nhỏ ở mức độ khái quát. Vấn

đề đƣợc các sử gia chú ý tái hiện là những mốc son lịch sử và những chiến

công lừng lẫy của Lê Lợi. Khác với các nhà sử học, tác giả Lê Hoan đã chủ

tâm lựa chọn từ những chi tiết nhỏ để xây dựng thành các sự kiện lớn gắn liền

với cuộc đời nhân vật. Bằng con mắt “đời tư”, nhà văn đã tái hiện một Lê Lợi

không chỉ tài giỏi mƣu lƣợc mà đôi lúc còn có cả những tính toán sai lệch dẫn

đến sự thất bại khôn lƣờng. Ví nhƣ ở hồi 47, sau khi nhận đƣợc tin của Đoàn

Mãng báo về quân Bắc đang ồ ạt kéo quân vào Thanh Hóa khí thế rất mạnh, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 64

Lê Lợi thân chinh dẫn 5000 quân ra trận, do không lƣờng trƣớc đƣợc thế

mạnh của giặc, Lê Lợi bị bao vây: “Lúc này Thái Tổ còn hơn 300 quân, vùng

vẫy thế nào cũng không thoát ra được. Hậu bộ Phạm Đán gương cung bắn

chết mấy chục người, cứu thoát Thái Tổ ra... Thái Tổ sau khi được Phạm Đán

cứu thoát, liền cướp đường cùng Đoàn Mãng và Lê Lai chạy tháo thân”

[26,312]. Khi qua suối, Lê Lai ở lại dứt cầu dây để an toàn mặt hậu do trở tay

không kịp bị Trần Trung giết, nghe đƣợc tin Thái Tổ liền “khóc oà lên rồi ngã

vật xuống đất ngất lịm... Nói chưa dứt lời, Trần Trung đã xua chó ngao chạy

lại. Mãng bất đắc dĩ phải xốc nách Thái Tổ nằm sát xuống rồi lấy thân mình

che lên trên” [26,314].

Hay ở hồi 55 sau khi nhận đƣợc thƣ chiêu hàng của Thái Tổ, Lý An tức

tối sai ngƣời đƣa thƣ trả lời Thái Tổ hết sức xớc xƣợc. Do quá bực tức, Lê Lợi

nóng vội cho quân tấn công Giao Chỉ: “Thái Tổ tiến quân đến bên ngoài

thành Giao Chỉ, truyền lệnh hạ trại... Bỗng thấy một hồi còi đồng vang lên

của quân Nam trận địa còn dở nên thua chạy... Thái Tổ bị địch bao vây chặt

lớp trong lớp ngoài.

Vua than rằng:

- Chỉ vì ta coi thường địch nên mới đến nông nỗi này! Nói đoạn, rút bảo

kiếm chỉ thẳng về phía quân Bắc. Những quân Nam theo vua đều tử trận.

Cùng lúc ấy Thiếu Ngại và Công Soạn đều bị thương nặng, đang dẫn quân

chạy tới kêu rằng:

- Chúa thượng hãy khoan đã, bọn thần xin liều mình cứu chúa. Hai người

cố mở một con đường máu xông vào đưa Thái Tổ ra ngoài” [26,351].

Những minh chứng này cho thấy tác giả Lê Hoan khi xây dựng nhân vật

văn học đã nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau. Lê Lợi là một vị tƣớng chỉ

huy, việc thắng lợi hay thất bại là điều thƣờng gặp trong chiến trận. Miêu tả

chi tiết và chân thực những thất bại này, tác giả không nhằm chỉ ra những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 65

điểm yếu của nhân vật mà nhằm tô đậm thêm ý chí quật khởi chống xâm lăng

của ngƣời anh hùng Lê Lợi. Trong quá trình khởi nghĩa, Lê Lợi và nghĩa quân

đã từng vào sinh ra tử, chiến đấu chốn xa trƣờng phải đối mặt với những gian

nan thử thách kể cả là những thất bại, có trận thắng lớn có trận thua to. Nhƣng

với ý chí quyết tâm không quản ngại khó khăn gian khổ, Lê Lợi đã lãnh đạo

nghĩa quân Lam Sơn vƣợt qua mọi thử thách để làm nên những thắng lợi huy

hoàng cho dân tộc Việt Nam.

2.3.2.2. Nguyên nhân của sự khác biệt

Sở dĩ có sự khác biệt giữa nhân vật trong Việt Lam tiểu sử với những

nhân vật đƣợc ghi chép trong sử sách là do đối tƣợng quan tâm của sử học và

văn chƣơng có sự khác nhau. Nếu các tác phẩm sử học quan tâm tới các sự

kiện và nhân vật theo tiến trình của nó thì văn học lại chú ý các nhân vật.

Nguyên tắc cao nhất của chính sử là trung thành với “sử thực” (sự thật của

lịch sử). Còn tiểu thuyết lịch sử lại coi trọng sự sáng tạo hƣ cấu, sử chỉ dừng

lại ở chuyện đời thƣờng nhƣng tiểu thuyết lại có thể vƣơn tới những bến bờ xa

lạ những miền bí ẩn mà con ngƣời ít hoặc chƣa biết đến theo óc lãng mạn và

trí tƣởng tƣợng của con ngƣời. Với thể loại tiểu thuyết, hƣ cấu nghệ thuật

đƣợc xem là một đặc trƣng của thể loại, và là một thao tác nghệ thuật không

thể thiếu trong tƣ duy sáng tạo của thể loại này. Hƣ cấu cho phép tác phẩm tái

hiện những thời đại lịch sử phát triển trong câu chuyện hƣ cấu không hiện

thực nhƣ sử học và nhân vật hoàn toàn không bị lệ thuộc bởi nguyên mẫu

ngoài đời nhƣ những tác phẩm thuộc thể ký. Nhiệm vụ của tác giả tiểu thuyết

lịch sử là phải chứng minh sự tồn tại của hoàn cảnh và các nhân vật lịch sử

bằng công cụ nghệ thuật và làm sống lại lịch sử bằng quyền hƣ cấu, bằng khả

năng sáng tạo nghệ thuật của mình. Nói đến tiểu thuyết là nói đến tƣởng

tƣợng, đến hƣ cấu nghệ thuật và nói đến tiểu thuyết lịch sử là nói đến tài

“tƣởng tƣợng lịch sử” của nhà văn. Vấn đề đặt ra với nhà tiểu thuyết lịch sử là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 66

ở chỗ hƣ cấu nhƣ thế nào để không phá vỡ tính logíc của lịch sử mà trái lại

làm cho nó thêm rõ nét, thêm sinh động. Ngƣời viết tiểu thuyết lịch sử không

bắt buộc phải trung thành với lịch sử cả ở những chi tiết nhỏ nhất của nó mà

chỉ đòi hỏi họ phải phản ánh trung thành những biến cố của lịch sử và quá

trình phát triển khách quan của nó. Tác giả Hà Minh Đức trong cuốn “Nhà

văn và tác phẩm văn học” viết: “Có khi nhà nghệ sĩ chỉ cần có một vài khoảnh

khắc trong đời sống của nhân vật lịch sử, có khi nghệ sĩ đưa vào tác phẩm

những điều phi lịch sử không quan trọng, thậm chí trong chừng mực nào đó,

có quyền vi phạm sự đúng đắn về mặt sự kiện lịch sử bởi vì tác giả chỉ cần

đúng đắn lý tưởng mà thôi” [19,27].

Với các nhà tiểu thuyết lịch sử, “sự thực” lịch sử không phải là mối quan

tâm hàng đầu, cái mà họ quan tâm là làm sao cho các nhân vật của tiểu thuyết

lịch sử phải sinh động hơn các nhân vật lịch sử vì các nhân vật tiểu thuyết lịch

sử đƣợc trao cho sự sống còn các nhân vật lịch sử thì đã sống. Nhà văn khi

xây dựng nhân vật không kể lại các sự kiện lịch sử mà là thi vị hóa những con

ngƣời đóng vai trò trong các sự kiện đó. Chính vì thế đối với tiểu thuyết, hƣ

cấu đã trở thành yếu tố bộc lộ rõ rệt phẩm chất sáng tạo dồi dào của nhà văn.

Nhƣ vậy, đối với một ngƣời làm công việc viết văn nhƣ Lê Hoan thì việc

sáng tạo hƣ cấu là điều tất yếu. Việt Lam tiểu sử là một cuốn tiểu thuyết. Tiểu

thuyết cho phép nhà văn có quyền hƣ cấu theo quan điểm, cái nhìn của mình,

thậm chí không quá quan tâm tới phản ứng của ngƣời đọc trƣớc một vấn đề

của lịch sử đƣợc đƣa ra trong tác phẩm. Viết tác phẩm Việt Lam tiểu sử, Lê

Hoan nhằm để minh họa cho ý đồ cá nhân của mình cho nên những yếu tố hƣ

cấu xuất hiện tƣơng đối nhiều trong tác phẩm. Có lẽ vì thế mà nhà sử học

Phan Huy Lê đã phải lƣu ý ngƣời đọc rằng: “Đây là một bộ tiểu thuyết lịch sử

về căn bản xây dựng theo hư cấu theo trí tưởng tượng của tác giả” [31,35].

Cũng chính vì trong quá trình xây dựng nhân vật, nhà văn Lê Hoan sử dụng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 67

yếu tố hƣ cấu và tần số hƣ cấu tƣơng đối nhiều dẫn đến sự khác biệt nhất định

giữa các nhân vật trong tác phẩm Việt Lam tiểu sử với các nhân vật trong lịch

sử.

Một nguyên nhân khác dẫn đến sự khác biệt nhất định giữa các nhân vật

trong Việt Lam tiểu sử với các nhân vật trong lịch sử là do các nhà sử học xƣa

thƣờng coi trọng việc kể lại có ngọn ngành có thời gian niên đại, địa điểm, kể

cả hành động lời nói của nhân vật. Họ khéo léo sử dụng tài liệu truyền thuyết

dân gian, kết hợp với trí tƣởng tƣợng rồi nhận xét đánh giá. Họ thƣờng có sở

thích ghi lại các chuyện quái lạ kể cả các chi tiết sinh hoạt. Có thể nói các nhà

sử học xƣa hình dung cuộc sống cụ thể nhƣ một bức tranh sinh động. Họ

chính là kiểu nhà khoa học đặc biệt vừa nghiên cứu quy luật vừa nghiên cứu

phục chế các sự kiện chi tiết lại vừa miêu tả đánh giá, vừa kết hợp ý thức khoa

học khách quan lại rất nghiêm cẩn với ý thức văn nghệ linh hoạt sinh động.

Chính vì vậy mà văn học và sử học hình thành mối duyên bền chặt lâu đời. Đó

là cội nguồn của tính chất văn sử bất phân. Bởi thế, tác giả Lê Hoan trong quá

trình sáng tác văn chƣơng bên cạnh những yếu tố lịch sử đƣợc bảo lƣu nhƣ

vốn có trong lịch sử thì yếu tố làm nên một tác phẩm văn chƣơng không gì

khác chính là sự hƣ cấu sáng tạo của nhà văn. Hƣ cấu là một biểu hiện của ý

thức nghệ thuật, đặt trong tình trạng Văn - Sử - Triết bất phân thì việc nhà văn

sử dụng yếu tố hƣ cấu góp phần làm cho chất văn chƣơng trong tác phẩm

đƣợc thể hiện đậm nét hơn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 68

Tiểu kết

Nhân vật trong tác phẩm Việt Lam tiểu sử phần nhiều lấy nguyên mẫu

từ lịch sử. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng các hình tƣợng văn học, tác giả

Lê Hoan chỉ bảo lƣu một số chi tiết quan trọng làm nòng cốt, còn lại cơ bản là

những hƣ cấu do tác giả tƣởng tƣợng sáng tạo ra. Các nhân vật của Lê Hoan

trong quá trình miêu tả dù vẫn chƣa thoát khỏi những công thức vốn là

nguyên tắc sáng tác của văn học trung đại. Nhƣng có những nhân vật đã để lại

ấn tƣợng khá sâu sắc trong tâm thức ngƣời đọc nhƣ Lê Lợi, Nguyễn Trãi,...

Với con mắt nhìn đời tƣ, sự chiêm nghiệm của bản thân về các nhân vật lịch

sử, Lê Hoan đã đem đến cho bạn đọc một cách nhìn hoàn toàn mới, sâu sắc

hơn, cụ thể hơn về các nhân vật lịch sử. Sử dụng yếu tố hƣ cấu nghệ thuật để

hƣ cấu những nhân vật có thật trong lịch sử, tác giả muốn trình bày một nhận

thức mới về lịch sử, làm cho lịch sử sống lại lung linh hơn. Nhờ thế ngƣời đời

sau dễ hình dung về lịch sử, dễ hiểu về quá khứ hơn. Tiểu thuyết Việt Lam

tiểu sử đã làm nên sự khác biệt so với chính sử và đặc biệt là sự tiến bộ vƣợt

bậc trong nhận thức của tác giả Lê Hoan về vai trò của văn học nghệ thuật với

công việc ghi chép lịch sử thông thƣờng. Đọc tác phẩm Việt Lam tiểu sử, ta

vừa thấy những con ngƣời trong tác phẩm là những con ngƣời của lịch sử

nhƣng đồng thời ta cũng thấy họ là những con ngƣời của cuộc sống thƣờng

nhật mà chúng ta đang trải qua. Những nhân vật ấy vừa là những con ngƣời có

thật trong lịch sử vừa là những hình tƣợng văn học thực sự là kết quả sáng tạo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của nhà văn Lê Hoan.

69

CHƢƠNG BA

NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT LAM TIỂU SỬ 3.1. Khái niệm nhân vật và vai trò của nhân vật trong tiểu thuyết chƣơng hồi 3.1.1. Khái niệm nhân vật

Nhân vật là hình thức phản ánh hiện thực cơ bản nhất của văn học. Có

rất nhiều cách định nghĩa nhân vật trong sách lý luận và từ điển văn học. Theo

sách Lý luận văn học do Trần Đình Sử (chủ biên) viết: “Nhân vật văn học là

con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học.

Văn học không thể thiếu nhân vật bởi vì nó là hình thức cơ bản để qua đó văn

học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Nhân vật văn học là phương tiện

khái quát tính cách, số phận con người và các quan niệm về chúng” [57,62-

64].

Từ điển thuật ngữ văn học viết: “Con người được miêu tả trong tác phẩm

văn học là nhân vật văn học. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy

tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống. Nó

có chức năng cơ bản là khái quát tính cách của con người và chức năng này

cũng mang tính lịch sử. Nhân vật văn học... thể hiện quan niệm nghệ thuật và

lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về con người. Nhân vật văn học là một chỉnh

thể vận động có tính cách được bộc lộ dần trong không gian, thời gian mang

tính chất quá trình” [23,161- 162].

Theo tác giả Lại Nguyên Ân trong cuốn 150 thuật ngữ văn học viết:

“Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật nó mang tính ước lệ, không thể bị

đồng nhất con người có thật ngay khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

rất gần với nguyên mẫu có thật. Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm

70

nghệ thuật của nhà văn về con người. Nó có thể được xây dựng dựa trên cơ sở

quan niệm ấy” [1,250].

Điểm qua một vài khái niệm trên, chúng ta thấy các nhà lý luận đều

thống nhất rằng con ngƣời trong tác phẩm văn học chính là nhân vật văn học

và nhân vật ấy là đứa con tinh thần của nhà văn để thể hiện quan niệm thẩm

mỹ và lý tƣởng thẩm mỹ của nhà văn về cuộc đời và con ngƣời. Tuy nhiên,

các nhà lý luận cũng nhấn mạnh đến tính nghệ thuật, tính ƣớc lệ của nhân vật

văn học. Nhân vật văn học không đồng nhất nhƣ con ngƣời có thật ngoài đời,

vì chúng có những đặc trƣng nghệ thuật và đƣợc thể hiện trong tác phẩm bằng

các phƣơng tiện văn học thông qua lăng kính chủ quan của nhà văn, nhƣng

không vì thế mà chúng kém phần chân thật. Đã là tác phẩm văn học thì không

thể thiếu nhân vật văn học bởi vì nó là phƣơng tiện quan trọng nhất của tác

phẩm quyết định phần lớn, vừa cốt truyện, vừa lựa chọn chi tiết, vừa phƣơng

tiện, ngôn ngữ và thậm chí cả kết cấu nữa.

3.1.2. Vai trò của nhân vật trong tiểu thuyết chƣơng hồi

Trong quá trình tiếp xúc với tác phẩm, cùng với việc theo dõi diễn tiến

của các sự kiện, ngƣời đọc thƣờng chú ý đến các nhân vật. Chính nhân vật là

yếu tố quan trọng tạo nên tính hấp dẫn của câu chuyện đƣợc kể. Nhiều khi,

ngƣời đọc chỉ mải mê theo dõi bƣớc đi của nhân vật, sống cùng cảm xúc của

nhân vật nhƣ chính mình đang trực tiếp tham gia đời sống của nhân vật. Thực

tế đã chứng minh rằng, một tác phẩm văn chƣơng đƣợc đánh giá là có giá trị,

có chiều sâu, có sức sống lâu bền khi tác phẩm ấy khắc họa rõ nét, chân thực,

sinh động hình tƣợng các nhân vật trong tác phẩm. Văn học không thể thiếu

nhân vật. Vì nhân vật là linh hồn của tác phẩm văn học, là phƣơng tiện cơ bản

để nhà văn khái quát hiện thực. Nói cách khác, nhân vật chính là chiếc chìa

khóa để bạn đọc có thể giải mã đƣợc những vấn đề hiện thực mà nhà văn đặt

ra trong tác phẩm. Nhân vật trong tác phẩm văn học là sản phẩm sáng tạo của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 71

một nhà văn nhất định. Nó là kết quả của quá trình khám phá, chiêm nghiệm,

là sản phẩm của sự tổng hợp nhào nặn. Do vậy nó mang dấu ấn của cá nhân

sáng tạo ra nó. Đặc biệt đối với thể loại tiểu thuyết chƣơng hồi, nhân vật có

vai trò hết sức quan trọng, bởi tiểu thuyết chƣơng hồi là tác phẩm tự sự cỡ lớn

có khả năng phản ánh hiện thực ở tất cả mọi giới hạn không gian và thời gian.

Vấn đề đƣợc phản ánh trong tác phẩm thƣờng là những sự kiện lịch sử mang

tầm ảnh hƣởng quốc gia, vấn đề hƣng vong của cả dân tộc hoặc một triều đại

hay những nhân vật lịch sử có vai trò quan trọng trong lịch sử đất nƣớc. Để tái

hiện bức tranh hiện thực rộng lớn một cách bao quát, sinh động trên cả bề

rộng lẫn chiều sâu của nó, thì tiểu thuyết chƣơng hồi không thể không có nhân

vật. Nhân vật trong tiểu thuyết chƣơng hồi là hạt nhân của mọi sự sáng tạo

nghệ thuật, là trọng điểm để nhà văn giải quyết những vấn đề của xã hội. Tìm

hiểu nhân vật, ngƣời đọc có thể thấy đƣợc thái độ của nhà văn đối với tính

cách xã hội mà nhà văn miêu tả, đồng thời hiểu đƣợc tƣ tƣởng của nhà văn gửi

gắm trong tác phẩm.

3.2. Giới thuyết chung về nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu

thuyết chƣơng hồi

3.2.1. Vai trò của nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết

chƣơng hồi

Mỗi một tác phẩm văn học là một chỉnh thể mà nhân vật là một mảnh

ghép quan trọng tạo nên bức tranh toàn vẹn đó, bên cạnh những mảnh ghép đề

tài, chủ đề, cốt truyện,... Đặc biệt với những tác phẩm văn xuôi tự sự thì nhân

vật là một trong hai yếu tố quan trọng tạo nên loại hình tự sự và góp phần tạo

nên hơi thở, sức sống cho tác phẩm.

Đối với các nhà tiểu thuyết chƣơng hồi, vấn đề đầu tiên khiến họ quan

tâm chính là các nhân vật trong lịch sử. Việc nhà văn làm cho nhân vật hiện

lên nhƣ thế nào trong tác phẩm là do nghệ thuật thể hiện nhân vật. Nhân vật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 72

trong tác phẩm văn học đƣợc thể hiện qua các thủ pháp khác nhau: Có thể là

ngoại hình, hành động, có thể là ngôn ngữ, những nét tính cách hoặc có thể

đƣợc giới thiệu qua ngôn ngữ của ngƣời kể chuyện, hay sự cảm nhận của nhân

vật khác trong tác phẩm,...

Bởi nhân vật trong tác phẩm là một chỉnh thể vận động, hội tụ đầy đủ các

yếu tố của một cá thể sống cho nên một diện mạo đầy đủ phải là sự tổng hợp

của tất cả các thủ pháp thể hiện nhân vật. Các phƣơng diện thể hiện nhân vật

có thể rất chung nhƣng thủ pháp thể hiện nhân vật ở mỗi tác phẩm lại có sự

khác nhau. Tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần của ngƣời nghệ sĩ mà

nhân vật là tâm huyết, là ý đồ họ gửi gắm trong tác phẩm của mình. Chính vì

thế, việc lựa chọn những thủ pháp nào phù hợp cho việc thể hiện nhân vật của

mình là yếu tố quan trọng, là tiêu chí để đánh giá tài năng sáng tạo nghệ thuật

của mỗi nhà văn.

3.2.2. Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết chƣơng hồi

Tiểu thuyết chƣơng hồi chữ Hán Việt Nam thƣờng tuân thủ những

nguyên tắc chung về xây dựng nhân vật trong văn xuôi trung đại. Theo tác giả

Trần Đình Sử: “Văn học trung đại là một loại hình văn học, sản phẩm của xã

hội xây dựng trên nền tảng các quan hệ phong kiến, văn học trung đại có

nhiều thể loại khác nhau và các thể loại cũng biến động qua các thời kỳ của

loại hình này. Nhưng nhìn chung con người trong nền văn học này có một số

đặc điểm loại hình như sau: Mang dấu ấn đẳng cấp dấu ấn của hệ tư tưởng,

tôn giáo, của sáng tác dân gian” [58,54].

Đối với văn học trung đại Việt Nam, nhân vật có những “dấu hiệu” rất

riêng, thể hiện rõ đặc điểm của tƣ duy văn học trung đại lúc bấy giờ. Do ảnh

hƣởng của quan niệm thiên địa nhân nhất thể có từ cổ xƣa, cũng do cuộc sống

bắt nguồn từ nền tảng nông nghiệp, ngƣời ta quan niệm con ngƣời là cá thể

của vũ trụ mang dấu ấn của vũ trụ thiên nhiên nên thƣờng lấy thiên nhiên làm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 73

vẻ đẹp chuẩn mực cho con ngƣời. Với cái dấu ấn vững bền sâu thẳm của nó,

con ngƣời thƣờng thấy chân dung của mình trong “dáng liễu”, “dáng mai”

trong “mắt phƣợng, mặt rồng”. Do ảnh hƣởng sâu sắc những quan niệm

phong kiến, các tác giả tiểu thuyết chƣơng hồi thƣờng xây dựng nhân vật theo

bút pháp ƣớc lệ tƣợng trƣng hoặc theo một mô típ có sẵn đƣợc quy về những

công thức cố định cho từng loại nhân vật trong văn học trung đại. Các dạng

nhân vật mà chúng ta thƣờng gặp trong tiểu thuyết chƣơng hồi bao gồm kiểu

nhân vật: Trung nghĩa, nhân hòa, nham hiểm, trí tuệ siêu phàm, cƣơng trực,

phản bội, kiểu nhân vật tức thời (hoặc tuỳ thời), những minh chúa tôi hiền,...

Tuy có nhiều loại nhân vật đƣợc nhắc đến trong tác phẩm nhƣng khi miêu tả

các nhân vật các tác giả đều phải tuân thủ những nguyên tắc chung đã trở

thành khuôn mẫu của nền văn học trung đại.

3.2.3. Một số thủ pháp thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết chƣơng hồi

Các tác giả tiểu thuyết chƣơng hồi khi thể hiện nhân vật thƣờng tuân thủ

những nguyên tắc chung của nền văn học trung đại. Ngoài tuân thủ những

nguyên tắc chung về xây dựng nhân vật trong văn học trung đại còn có những

thủ pháp riêng biệt. Có thể khái quát thành một số thủ pháp cơ bản nhƣ sau:

Miêu tả ngoại hình nhân vật; khắc họa tính cách nhân vật; miêu tả hành động

nhân vật; miêu tả tâm lý nhân vật; miêu tả ngôn ngữ; hoàn cảnh nảy sinh và

phát triển tính cách nhân vật (xây dựng tình huống),...

Dựa trên các thủ pháp cơ bản này, trong mỗi một tác phẩm các tác giả

bằng khả năng nghệ thuật của mình lại khéo léo thể hiện theo những cách thức

khác nhau. Mỗi nhà văn dù chịu sự chi phối của những nguyên tắc chung

nhƣng vẫn có những bản sắc riêng, phong cách riêng khi thể hiện nhân vật của

mình.

3.3. Nghệ thuật thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử

của Lê Hoan Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 74

Trong quá trình viết tác phẩm Việt Lam tiểu sử, nhà văn Lê Hoan luôn

có những suy nghĩ tìm tòi các hình thức nghệ thuật thể hiện nhân vật sao cho

truyền tải nội dung mà mình muốn gửi gắm đến bạn đọc một cách đầy đủ

nhất, độc đáo nhất, bên cạnh đó thông qua các nhân vật tác giả có thể gửi gắm

đƣợc những ý tƣởng và dụng ý nghệ thuật của mình. Đọc Việt Lam tiểu sử,

chúng ta thấy trong quá trình thể hiện nhân vật tác giả rất ít chú trọng đến việc

miêu tả ngoại hình và khắc họa nội tâm nhân vật mà chủ yếu là tập trung thể

hiện tính cách nhân vật; hành động nhân vật; và ngôn ngữ nhân vật. Cùng với

việc chỉ ra những biện pháp nghệ thuật đã đƣợc tác giả Việt Lam tiểu sử sử

dụng để thể hiện nhân vật, chúng tôi đồng thời chỉ ra ý nghĩa của những cách

thức ấy trong việc thể hiện bản chất của nhân vật. Các nhân vật sẽ dần bộc lộ

đầy đủ bản chất của mình qua quá trình vận động trong tác phẩm.

3.3.1. Nghệ thuật thể hiện hành động nhân vật và sự kiện

3.3.1.1. Nghệ thuật thể hiện hành động nhân vật

Đối với các nhà văn, khi miêu tả nhân vật một trong những yếu tố đƣợc

các tác giả chú ý chính là hành động nhân vật. Đặc biệt là với các tác giả tiểu

thuyết chƣơng hồi chữ Hán Việt Nam, hành động nhân vật không chỉ là yếu tố

cần thiết để bộc lộ tính cách mà còn là yếu tố không thể thiếu để thúc đẩy diễn

biến của cốt truyện trong tác phẩm. Theo tác giả Hà Minh Đức, hành động

nhân vật là: “Những việc làm cụ thể của nhân vật trong quan hệ ứng xử với

các nhân vật khác và trong những tình huống khác nhau của cuộc sống... việc

miêu tả hành động của nhân vật có thể được thực hiện thông qua ngôn ngữ

người kể chuyện hoặc qua ngôn ngữ của nhân vật khác” [20,134].

Có thể nói rằng, hành động nhân vật có một vai trò rất quan trọng trong

tác phẩm để lột tả rõ ràng, chân thực những hành động vốn có của nhân vật.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Để hành động của các nhân vật đƣợc bộc lộ một cách khách quan đúng với

75

bản chất của họ, các nhà văn phải hòa mình, phải hóa thân nói cách khác là

phải “sống với cuộc sống của các nhân vật”.

Trong tác phẩm Việt Lam tiểu sử, các nhân vật của Lê Hoan mỗi ngƣời

đều có những tính cách riêng do vậy mà hành động ở mỗi nhân vật cũng rất

khác nhau phù hợp với bản chất của từng ngƣời. Tác giả Lê Hoan khi miêu tả

hành động nhân vật phần lớn là thể hiện một cách trực tiếp. Những việc làm

của nhân vật dù khái quát hay cụ thể bao giờ cũng kèm theo kết quả của hành

động. Đây cũng là một cách để nhận diện bản chất hành động của nhân vật, từ

đó nhận rõ những nét tính cách của nhân vật.

Việc miêu tả một cách khái quát hành động của nhân vật và kết quả của

hành động đƣợc tác giả sử dụng nhƣ một sự đánh giá, tổng kết về những việc

làm của nhân vật để từ đó các nhân vật có điều kiện tự bộc lộ những phẩm

chất của mình

Mỗi nhân vật trong Việt Lam tiểu sử đều có nhiều hành động, việc làm

khác nhau, tuy nhiên các nhân vật trung tâm bao giờ cũng đƣợc tác giả chú ý,

khắc họa và miêu tả một cách rõ nét hơn cả. Chẳng hạn khi miêu tả hành động

của ngƣời anh hùng Lê Lợi đã làm trong sự nghiệp lãnh đạo nghĩa quân Lam

Sơn, đánh đuổi giặc ngoại xâm, tác giả đã nhiều lần khái quát những hành

động của nhân vật nhƣ là những lời ca ngợi công lao to lớn của vị vua tài đức

này ở các trang 130, 216, 381.

Lê Lợi sau khi đem quân ra Mỹ Lƣơng “thiết lập đồn trại, chiêu hiền đãi

sĩ” [26,83]. Kết quả là: “Phàm nhân tài trong thiên hạ do Quý Ly vô đạo mà

phải lánh vào rừng núi để ở, nay nghe Lê Lợi khởi binh, đều rủ nhau theo về

rất đông” [26,83].

Ngày Tân Dậu, khi lấy đƣợc Đông Đô “Lê Lợi vào thành vỗ yên trăm

họ” kết quả là: “Nhân dân trong thành phủ phục hai bên đường nghênh đón”

[26,130]. Không chỉ có vậy Lê Lợi còn “Ra lệnh trong quân tơ hào không Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 76

được đụng tới của dân, ai vi phạm sẽ xử trảm” [26,130], làm cho: “Trăm họ

vui mừng, khôn xiết” [26,130].

Lê Lợi sau khi bị vua Trần khiển trách liền đến cƣ trú ở Lam Sơn

“trong vòng ba bốn năm an thường thủ phận giáo hóa đến tận xóm thôn”

[26,216] cho nên khắp nơi: “Nhân dân đều vui vẻ may sao một miền mưa

thuận gió hòa, thóc lúa đầy bồ, người các vùng lân cận kéo tới đây đông như

về chợ” [26,216].

Khi nói đến Lê Thiện một vị tƣớng tài trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn,

tác giả cũng miêu tả tƣơng tự nhƣ vậy. Lúc cùng với Lê Lợi đƣa quân về

nghĩa An, tới núi Thiên Nhẫn Lê Thiện đích thân đi xem chỗ ở, lệnh cho quân

sĩ xây thành sau đó “tìm nơi yên tĩnh trong núi làm nhà cho nhân dân già trẻ

cùng ở. Lại sai những người khoẻ mạnh vỡ đất cấy trồng” [26,225] khiến cho:

“Trăm họ an cư lạc nghiệp” [26,225].

Khái quát những hành động này của nhân vật, tác giả Lê Hoan không

những ca ngợi công lao to lớn của các nhân vật mà thông qua những hành

động này các nhân vật có cơ hội để bộc lộ những phẩm chất, cá tính của mình

một cách tự nhiên và khách quan nhất. Đây cũng chính là cách để tác giả gửi

gắm thái độ của mình đối với những việc làm của nhân vật. Khi việc làm của

bậc minh chúa mà phù hợp với lòng ngƣời thì ngay cả trời đất cũng phải “mưa

thuận gió hòa”, hào kiệt đến theo, nhân tâm hƣớng về.

Bên cạnh những hành động khái quát đƣợc miêu tả thì các hành động

cụ thể của nhân vật trong những tình huống cụ thể cũng đƣợc tác giả chú ý thể

hiện. Nếu nhƣ các hành động khái quát đƣợc xem nhƣ là những nhận định

khái quát về nhân vật thì các hành động cụ thể sẽ là những minh chứng làm

cho những nhận định khái quát rõ ràng và sinh động hơn. Qua đó, phẩm chất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của các nhân vật đƣợc thể hiện rõ nét hơn.

77

Bản chất của Lê Lợi là nhân đức, những việc làm của ông sáng suốt

nhƣ thanh thiên bạch nhật, đối đãi với ngƣời trong sáng vằng vặc nhƣ trăng

soi. Bởi vậy, nhân dân, tƣớng sĩ trên dƣới một lòng quy phục. Với Lê Lợi, xã

tắc và cuộc sống bình yên của ngƣời dân mới là điều “vi quý” không hề vì

mục đích “mưu đồ bá vương”, theo dõi những hành động cụ thể tiêu biểu của

Lê Lợi ta sẽ thấy điều đó.

Khi đƣợc Lê Lợi giúp đỡ, quân Bắc chiến thắng liên tiếp dẫn đến đắc

chí không còn kiêng nể ai, chúng ra ngoài thành cƣớp bóc, hãm hiếp phụ nữ

khiến cho nhân dân khốn khổ phải đến kêu cứu Lê Lợi, thấy vậy Lê Lợi liền

sai ngƣời đuổi bắt quân sĩ lôi về ba bốn tên “lập tức sai đem chém. Tướng tá

nhà Minh trông thấy vậy đều thất sắc nhưng vì đuối lý nên không dám hé

môi” [26,132]. Hành động này cho thấy tính công bằng quyết đoán của Lê

Lợi, việc chém các quân sĩ nhà Minh vừa để răn dậy quân sĩ nhƣng cũng là để

các tƣớng tá nhà Minh lấy đó làm gƣơng.

Mục đích cao cả nhất mà Lê Lợi luôn hƣớng tới là xây dựng xã tắc, cứu

vớt lê dân. Bởi vậy Lê Lợi yêu dân nhƣ yêu mình sẵn sàng chết để bảo vệ

nhân dân. Khi bị thua ở trận Thanh Hóa, tính mạng còn ngàn cân treo sợi tóc

“cướp đường cùng Lê Lai và Đoàn Mãng chạy tháo thân” nhƣng đến giữa

đƣờng thấy một mỹ nữ bị quân Bắc hiếp chết nằm ngay ở lối đi, Lê Lợi vô

cùng đau xót không hề nghĩ đến bản thân đang gặp cảnh nguy nan, kẻ thù truy

sát ngay ở sau lƣng vẫn “dừng lại đào hố chôn cất người xấu số. Vừa mai

táng xong đã thấy Trần Trung xua quân ồ ạt tới” [26,313]. Không chỉ đối với

nhân dân ta, mà ngay cả với kẻ địch Lê Lợi cũng có những hành động rất cao

thƣợng khiến cho kẻ thù phải kính nể.

Ví nhƣ ở hồi 30, sau khi làm cho tƣớng sĩ quân đội nhà Minh phải kinh

hãi bỏ chạy, Lê Lợi “dẫn quân sĩ đi thu nhặt trang phục khí giới mang về. Sai

triệu Hộ đốc thúc binh lính lượm xác quân Bắc đem chôn dưới chân núi Đông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 78

Sơn trước khi rút quân” [26,222]. Hay ở hồi 60, “Thái Phúc không may chết ở

Đông Quan được Thái Tổ cho khâm liệm trong quan ngoài quách lại sai đem

xác các tướng nhà Minh tử trận trước đây thiêu thành tro, đóng vào hộp gỗ

mang về để ngoài cửa thành Đông Đô, lập đàn cho tướng sĩ Bắc triều đến tế”

[26,377].

Có thể nói để cho nhân cách của Lê Lợi đƣợc bộc lộ qua những hành

động, tác giả đã cố gắng tỏ ra hết sức khách quan. Chính thông qua những

hành động này ta biết đến một Lê Lợi rất mẫu mực nhân từ. Mọi hành động

của Lê Lợi dù lớn hay nhỏ đều đáng để cho nhân dân ta, và ngay cả kẻ thù

cũng phải tâm phục khẩu phục.

Khi khắc họa nhân vật Nguyễn Trãi, Lê Hoan đặc biệt chú ý đến

những hành động cụ thể của vị quân sƣ tài ba này. Ngay từ lúc đầu xuất hiện,

Nguyễn Trãi đã có những hành động dũng cảm mƣu lƣợc đúng với bản chất

của một vị anh hùng. Lúc dừng chân nghỉ trọ ở một túp lều ven đƣờng, ban

đêm nghe tiếng yêu tinh bàn kế bắt Nguyễn Trãi ăn thịt, không hề sợ hãi ông

liền “rút kiếm lẻn ra ngoài cửa” khiến cho “cả bọn đều chạy tản” [26,251]. Vì

quyết chí tìm bằng đƣợc minh chủ phò tá, Nguyễn Trãi đã bỏ qua mọi cảm

giác sợ hãi, kiên trì, gan dạ chờ đợi cơ hội. Nhân lúc các cụ già vào gặp Lê

Lợi, Nguyễn Trãi đi theo nấp sẵn bên cạnh trại, tận dụng lúc Lê Lợi trở về

phòng ông liền bám sát theo sau phát hiện có một chỗ trống “bèn trèo lên nóc

nhà chui vào... Trãi vào phòng ngồi yên, chờ lúc quẻ bày gần xong thì vén

màn xông vào” [26,252]. Cách ra mắt độc đáo cùng với những việc làm mạnh

bạo của Nguyễn Trãi đã giúp cho ngƣời đọc phần nào sớm nhận biết đƣợc khí

chất của con ngƣời này. Quả đúng nhƣ vậy, khi đƣợc Lê Lợi trọng dụng,

Nguyễn Trãi đã đem hết tài năng và sức lực để trợ giúp. Là ngƣời có con mắt

tinh đời biết nhìn xa trông rộng, khi đƣa ra ý kiến khuyên Lê Lợi lên ngôi vua

không đƣợc Lê Lợi chấp nhận, Nguyễn Trãi đã nảy ra một mƣu kế và hành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 79

động theo cách riêng của mình “lấy mật ong vẽ lên cây cổ thụ dòng chữ “Lê

Lợi vi vương, Nguyễn Trãi vi phụ” để cho kiến ong tụ tập kéo tới ăn, làm

trống chỗ vỏ có mật ong”. Việc làm của Nguyễn Trãi không phải vì mƣu cầu

danh lợi mà thực chất là lo lắng cho xã tắc, giang sơn, muốn cho Lê Lợi lên

làm vua để bình ổn lòng dân, triều đình có kỷ cƣơng, cũng là để danh chính

khởi binh cho nên ông phải cố tìm ra một mƣu mẹo thật khôn khéo, khiến cho

Lê Lợi phải tin rằng đó là mệnh trời rồi mới chịu lên ngôi. Vừa là một vị quân

sƣ tài trí Nguyễn Trãi vừa là một vị tƣớng mƣu lƣợc am hiểu binh thƣ binh

pháp. Khi trực tiếp chỉ huy các trận chiến, Nguyễn Trãi không chỉ có những

hành động đúng đắn sắc sảo để đem lại những chiến thắng lẫy lừng mà ông

còn hành sự trƣợng nghĩa và có những việc làm thật đáng nể phục. Trong trận

Giao Chỉ lúc hạ đƣợc thành Nguyễn Trãi dẫn quân vào trong thành “thấy hơn

ba mươi mỹ nữ đều là con gái của dân bị Lương Thành bức đem về đây làm

của riêng. Trãi liền ra lệnh thả tất cả ra” [26,285]. Đó là một hành động đúng

đắn xuất phát từ lòng yêu nƣớc thƣơng dân mong cho nhân dân có cuộc sống

bình yên.

Cũng tƣơng tự nhƣ với Nguyễn Trãi, khi xây dựng hình tƣợng Lê

Thiện, tác giả Lê Hoan thƣờng chú ý miêu tả hành động của Lê Thiện để qua

đó làm nổi bật đƣợc phẩm chất và tài năng thiên bẩm của con ngƣời này.

Điểm nổi bật ở nhân vật Lê Thiện là sự tài giỏi mƣu trí, thông minh và quyền

biến. Có thể nói, đây là nhân vật hóa thân của chữ “trí”, mọi việc làm, mọi

hành động của nhân vật này đều nhằm “bồi sấn” cho chữ trí. Là một ngƣời có

nhiều công lao to lớn đối với nghĩa quân Lam Sơn nên nói đến Lê Thiện mọi

ngƣời đều rất nể phục. Mọi hành động của Lê Thiện đều toát lên sự sáng suốt

hơn ngƣời. Ví dụ ở hồi 17, khi quân lính đã bắt sống đƣợc Đoàn Phát, các

tƣớng đều đoán rằng Đoàn Phát chắc chắn bị Lê Thiện sử tội chết, nhƣng với

con mắt của một ngƣời sáng suốt tinh tƣờng, biết trọng dụng hiền tài Lê Thiện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 80

đã có những hành động rất hảo hán. Thấy quân sĩ trói Đoàn Phát dẫn đến

trƣớc cửa, Lê Thiện “vội vàng bước tới quát mọi người lui ra, thân hành cởi

trói cho Phát, rồi đẩy Phát ngồi lên chiếu trên, pha trà mời” [26,116]. Dù bị

Đoàn Phát dùng những lời lẽ thiếu tôn trọng, Lê Thiện vẫn rất bình tĩnh đối

đãi tử tế, dùng lời nói để thuyết phục cuối cùng Đoàn Phát phải bái phục xin

hàng. Thấy Đoàn Phát đã phân biệt đƣợc chính ngụy, Lê Thiện liền “đỡ dậy,

dắt vào trong trướng cùng mưu tính việc quân” [26,117 ]. Đây quả thực là

hành động của một bậc trƣợng phu tiết tháo sẵn sàng chịu nhẫn nhục để làm

nên nghiệp lớn. Ngƣời đọc thật sự cảm phục trƣớc tầm nhìn xa trông rộng của

Lê Thiện. Có thể gọi đó là kế sách lùi một bƣớc mà tiến hai bƣớc vậy.

Lê Thiện là một ngƣời giỏi về quân sự, sắc sảo về trí tuệ lại có khả năng

đoán biết nhƣ thần cho nên cách mà Lê Thiện hành động bao giờ cũng vậy, đó

là một loạt hành động có chủ ý, có cân nhắc tính toán rất kỹ lƣỡng.

Ví dụ: ở hồi 52, với những mƣu lƣợc của mình tại Tích Giang, Lê Thiện

đã làm cho Vƣơng Thông phải “vỡ mật” vì mất vía. Để trả thù cho cái chết

của Hoàng Tất, Lê Thiện liền lệnh cho các tƣớng xuất quân và gửi chiến thƣ

hẹn Vƣơng Thông ngày giờ quyết chiến. Khi đƣợc tin Vƣơng Thông đang tức

tối nên muốn qua sông ngay, Lê Thiện lập tức sai Doãn Hài xuống sách La

Giang, Đinh Tuận sang mặt hậu sách Kim Quan, Mai Tố đánh trại Bắc, Cao

Đoan ra mé sông phục binh còn Phạm Đán thì đi dụ địch. Cắt đặt xong công

việc, Lê Thiện vào doanh trại nghỉ. Vừa thiu thiu ngủ đƣợc Hoàng Tất báo

mộng nên dậy sai đốt đèn xem sách, chợt nghe tiếng súng nổ liên hồi thì ra

mới canh năm Vƣơng Thông đã thúc quân vào nơi có mai phục. Giao chiến

với Phạm Đán đƣợc ba bốn hiệp thấy Đán thua chạy, Vƣơng Thông tiếp tục

cho quân tiến, vừa dừng ngựa đứng xem đã thấy Lê Thiện đang “ngồi chễm

chệ trên núi uống rượu” [26,336]. Hành động ngồi uống rƣợu trên núi toát lên

đƣợc phong thái ung dung bình tĩnh của Lê Thiện. Cũng chính từ hành động Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 81

này làm cho Vƣơng Thông tức phát điên “liền xua quân đánh thẳng lên núi”.

Lúc này, Lê Thiện mới thực thi kế hoạch đã chuẩn bị từ trƣớc “Thiện bắn

súng liên châu, phóng một phát hoả tiễn tức thì bên tả có Mai Tố kéo quân

đánh ra, trên núi Thiện cho quân đánh xuống… từ bên tả Cao Đoan chia

quân xông tới” [26,336], rơi vào thế bí quân địch vùi mình trong khói lửa phải

“dựa lưng vào nước mà đánh, chết đuối đầy sông” [26,336]. Nhờ những mƣu

kế của Lê Thiện mà Vƣơng Thông phải kinh hồn bạt vía “cởi bỏ quần áo” giả

làm nông phu trốn về Đông Đô, toàn bộ quân của Vƣơng Thông bị đánh tan ở

Tích Giang.

Nếu nhƣ qua hành động của các nhân vật Lê Thiện, Lê Lợi, Nguyễn

Trãi chúng ta thấy đƣợc thái độ chân trọng ngợi ca và những tình cảm ƣu ái

đặc biệt của tác giả với các nhân vật thì qua hành động cụ thể của các nhân vật

Hồ Hán Thƣơng, Hồ Quý Ly hay Trƣơng Phụ,… Chúng ta cũng có thể cảm

nhận đƣợc những thái độ căm giận oán trách của nhà văn dành cho nhân vật.

Cách mà tác giả để cho nhân vật tự bộc lộ bản chất của mình qua hành động

cũng chính là cách để tác giả gửi gắm thái độ của chính mình đối với việc làm

của nhân vật. Chẳng hạn nhƣ khi miêu tả nhân vật Hồ Hán Thƣơng, tác giả

thƣờng chú ý khắc họa những việc làm cụ thể để qua đó bộc lộ đƣợc bản chất

tham tàn, độc ác của nhân vật này.

Đƣợc Phụ hoàng nhƣờng ngôi, Hồ Hán Thƣơng thâu tóm mọi quyền

hành trong tay. Dƣới sự trợ giúp của Phụ hoàng, Hồ Hán Thƣơng thỏa sức

“làm mưa làm gió” trong triều đình. Khi vừa mới lên ngôi, Hán Thƣơng đã

ban chiếu chỉ xuống “trong triều đình ngoài dân dã đâu đâu cũng tổ chức tiệc

tùng linh đình, đàn sáo râm ran, đèn đóm sáng rực, đêm hóa thành ngày”

[26,22]. Trong lúc đang vui chơi đƣợc tin Trần Thiên Bình sang nhà Minh cầu

cứu, Hán Thƣơng cho bộ binh chỉ thị các nơi biên ải đem quân đuổi theo, sau

đó lại tiếp tục cho bề tôi vui chơi, say sƣa hết chỗ nói trong ba ngày liền. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 82

Nhân dân phải nai lƣng phục dịch mà Hán Thƣơng thì không hề hay biết.

Chƣa thỏa mãn đƣợc dục vọng xấu xa của mình, Hán Thƣơng tiếp tục lệnh

cho Nội giám đi xục sạo khắp thiên hạ “hễ có gái đẹp thì bắt cống nạp cho

vua, ai không nghe sẽ giết cả ba họ”. Đƣợc sự tiếp tay của bề trên, Nội giám

ra ngoài “hiếp dâm phụ nữ không chút kiêng dè” để rồi không đầy một tháng y

đã mang về triều 3000 gái đẹp để “chọn 300 người vào hầu thượng hoàng từ

đó suốt ba tháng liền Hán Thương không ngó ngàng gì đến việc triều chính

ngày đêm ở lỳ trong hậu cung để vui đùa cùng mỹ nữ” [26,22]. Vừa mới lên

ngôi mà Hán Thƣơng đã có những việc làm bất nhân bất nghĩa. Nắm giữ mọi

quyền hành trong tay nhƣng Hán Thƣơng không chịu lo lắng vỗ về dân chúng

mà chỉ lo ăn chơi xa đọa hành hạ nhân dân phục dịch gây oán hận lầm than.

Tác giả Lê Hoan đã khắc họa một cách chân thực không phóng đại mà

cũng không nhân nhƣợng về những hành động của nhân vật Hán Thƣơng nhƣ

một lời phê phán gửi vào trang viết của mình. Qua đó giúp ngƣời đọc có thể

nhận diện đƣợc bản chất của nhân vật.

Khi khắc họa nhân vật Trƣơng Phụ - một tƣớng giặc của quân Bắc, tác

giả Việt Lam tiểu sử cũng thƣờng chú ý đến những hành động để làm rõ bản

chất mƣu mô xảo quyệt của con ngƣời này. Sau khi đƣợc anh em Lê Lợi giúp

đỡ bắt đƣợc cha con họ Hồ, Trƣơng Phụ dƣơng dƣơng tự đắc quyết chí thôn

tính phƣơng Nam bèn “sai người vẽ bản đồ nước Nam. Phàm núi sông thành

quách, quận huyện châu phủ, hộ khẩu gia súc, khí giới lương thuyền đều theo

thực số mà chép thành một quyển để đối chiếu” [26,156]. Không chỉ có vậy

khi Lê Lợi đƣa ra ý kiến lập con cháu nhà Trần để yên định lòng dân, Trƣơng

Phụ liền lấy lý do mừng công rồi giả lờ đi ra ngoài “sai người đi xúi giục dân

xin lập lại chế độ quận huyện” [26,156]. Tất cả những hành động này đã bộc

lộ rõ lòng dạ xảo quyệt nham hiểm và dã tâm xâm lƣợc nƣớc Nam của

Trƣơng Phụ. Đƣợc cử làm tƣớng chỉ huy quân Bắc sang xâm lƣợc phƣơng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 83

Nam, Trƣơng Phụ có những việc làm hết sức bạo ngƣợc. Chẳng hạn ở hồi 30,

Trƣơng Phụ do căm tức quân Nam đã giết chết Giang Hạo, bản thân thì bị

Nguyễn Nhạc đâm trúng đùi bên trái nên khi bắt sống đƣợc Phạm Hữu cùng

với hơn hai nghìn ngƣời, Phụ liền sai quân lính đem “chôn sống tất cả đắp

thành ngôi mộ chung gọi là kinh quán” [26,203]. Việc làm của Trƣơng Phụ

chồng chất những tội ác khiến cho “mây sầu gió thảm”. Có lẽ với những hành

động của mình, Trƣơng Phụ đã trở thành một kẻ đại diện đầy đủ nhất cho sự

tàn bạo của quân Bắc. Miêu tả những hành động của Trƣơng Phụ, tác giả Việt

Lam tiểu sử cũng ngầm phản ánh những tội ác tày đình mà quân Minh đã gieo

rắc khi xâm lƣợc nƣớc Nam.

Tìm hiểu một tác phẩm với một số lƣợng lớn các nhân vật nhƣ Việt

Lam tiểu sử, thật khó có thể trình bày về hành động của tất cả các nhân vật.

Vả lại điều đó cũng không cần thiết bởi không phải nhân vật nào cũng đƣợc

tác giả tập trung xây dựng nhƣ nhau. Do đó, chúng tôi chỉ chọn một số nhân

vật tiêu biểu để phân tích. Qua những phân tích ở trên, chúng ta thấy rằng tác

giả Lê Hoan luôn hết sức chú trọng việc miêu tả hành động của các nhân vật.

Đặc biệt, nhà văn đã biết chú ý lựa chọn những hành động điển hình đặc trƣng

nhất để thông qua đó nêu bật đƣợc tính cách của nhân vật và tạo ra những

dáng hình riêng cho từng loại nhân vật. Chính vì thế nhân vật có sức sống

hơn, sinh động hơn so với nhân vật trong lịch sử. Xây dựng các hành động

nhân vật theo tính cách của mỗi loại nhân vật, cho thấy không phải tác giả chỉ

làm lại công việc của ngƣời chép sử. Rõ ràng ở đây có sự dụng công xây dựng

hành động cũng nhƣ diện mạo của nhân vật. Có thể nói, sử dụng nghệ thuật

miêu tả hành động để thể hiện nhân vật, nhà văn Lê Hoan đã dựng lên một

bức tranh với sự góp mặt phong phú, đa dạng của mọi kiểu loại nhân vật.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3.3.1.2. Nghệ thuật thể hiện sự kiện

84

Việt Lam tiểu sử là cuốn tiểu thuyết lịch sử, những nhân vật trung tâm

trong tác phẩm vốn là những con ngƣời của lịch sử. Họ có vai trò vị trí nhất

định trong tiến trình lịch sử dân tộc. Do vậy, khi xây dựng những nhân vật

này, tác giả cũng đã đặt họ vào những sự kiện lịch sử cụ thể để làm nổi bật vai

trò lịch sử của các nhân vật. Nắm bắt đƣợc tính cách nhân vật đƣợc bộc lộ và

phát triển trong những sự kiện cụ thể, tác giả Lê Hoan rất chú trọng các sự

kiện nhằm tái hiện rõ những đặc điểm về phẩm chất và tính cách của nhân vật.

Tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan tập trung miêu tả những sự

kiện lịch sử từ “năm Khai Hựu, triều Hiên Tông (1239 – 1341)” đến năm Bính

Ngọ Thuận Thiên thứ nhất (1428). Tác phẩm đã phản ánh đƣợc những sự kiện

lịch sử quan trọng của giai đoạn nhà Trần mất vai trò lãnh đạo và bị nhà Hồ

truất ngôi; cuộc xâm lƣợc với quy mô và sức tàn phá khốc liệt của giặc Minh;

cuộc kháng chiến của nhân dân dƣới sự lãnh đạo của Lê Lợi giành thắng lợi

vẻ vang lập nên triều đại nhà Lê. Những sự kiện mà tác giả miêu tả trong Việt

Lam tiểu sử ngoài các sự kiện lịch sử có tính chất “chính sử” nhƣ sự kiện: Nhà

Minh xâm lƣợc nƣớc ta; đánh thành Đa Bang; trận đánh sông Sinh Quyết; nhà

Minh xâm lƣợc lần thứ hai; trận đánh thành Trà Long, thành Đông Quan,

thành Xƣơng Giang,...Tác giả còn bổ sung thêm một số sự kiện có tính chất

“dã sử” nhƣ: Hồ Quý Ly gặp yêu tinh ở vùng Liêu Đông; Lê Lợi vớt đƣợc

gƣơm báu; chồn trắng giải nguy cho Lê Lợi khỏi bị chó ngao của Trần Trung;

rắn chửa mầu vàng báo mộng,... Khi miêu tả các sự kiện trên, tác giả Việt Lam

tiểu sử nhằm nêu bật công lao của họ Lê trên con đƣờng thống nhất đất nƣớc

dẹp đƣợc nội loạn và đánh đuổi giặc ngoại xâm.

Tác phẩm Việt Lam tiểu sử có 60 hồi thì 49 hồi miêu tả chiến trận. Các

nhân vật trong Việt Lam tiểu sử phần lớn là nhân vật của chiến trận, do vậy

những sự kiện có liên quan đến chiến trận thƣờng đƣợc tác giả chú ý miêu tả.

Trong quá trình nhân vật xử lý các tình huống chiến trận, tài năng về quân sự Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 85

và những đặc điểm tính cách nhất định vốn có của nhân vật sẽ đƣợc bộc lộ

một cách rõ nét hơn.

Ví dụ: Theo dõi trận Lam Sơn chắc chắn độc giả sẽ rất thích thú bởi

những diễn biến bất ngờ của trận đánh. Với nghệ thuật miêu tả các sự kiện, tác

giả Lê Hoan đã đem lại những hình ảnh đầy sống động bất ngờ. Sức hấp dẫn

ban đầu là nhờ vào không khí chiến trận hết sức gấp gáp khẩn trƣơng, không

khí ấy đƣợc gợi lên ngay từ lúc đôi bên chuẩn bị lực lƣợng, chiến cụ,… cho

đến khi giao chiến cùng nhau. Trƣơng Phụ sau khi dẫn quân về Đông Đô

chém xong Nhữ Hí liền hùng hổ quyết ý khởi binh đem tám mƣơi vạn quân đi

đánh dẹp anh em Lê Lợi. Quân Trƣơng Phụ đông đến nỗi “đi chật cả đường

sá”. Theo dự đoán quân Bắc sẽ tới anh em Lê Lợi cùng nghĩa quân cũng tìm

cách chống trả với một không khí cũng rất khẩn trƣơng “Lợi bèn yết thị cho

mọi người đều biết tin. Thiện sai người vào núi khuân vác khí giới, đánh trống

thu quân, chẳng mấy chốc được hai nghìn người” [26,217].

Việc tạo ra không khí chiến trận gây đƣợc sự chú ý, nhƣng đáng chú ý

hơn nữa là khi xử lý tình huống các nhân vật đã tự bộc lộ đƣợc những nét tính

cách của mình. Theo dõi diễn biến của trận đánh Lam Sơn, chúng ta có thể

thấy Trƣơng Phụ là một kẻ nóng nảy kiêu căng, bất chấp mọi lời khuyên can

của Hoàng Phúc gấp gáp khởi binh nên cuối cùng chuốc lấy thất bại. Khác với

Trƣơng Phụ, Lê Thiện là một ngƣời có tác phong quân sự khá bình tĩnh. Khi

biết tin Trƣơng Phụ tiến đánh, Lê Thiện đã ứng phó bằng những mƣu kế hết

sức linh hoạt uyển chuyển, việc đầu tiên là truyền lệnh cho các tƣớng, ngƣời

thì mai phục ở Bà Sơn, ngƣời ở Bái Lâm, ngƣời thì ra Lam Sơn đón địch. Chỗ

này “đêm thì đốt lửa đánh trống, ngày thì dựng cờ quạt tới nơi phục binh, chờ

khi giặc thua hãy tung quân ra đánh”, chỗ kia “thấy giặc thua thì gióng trống

phất cờ, đốt lửa để trợ uy” [26,217]. Bài bản hơn nữa, Lê Thiện bố trí cho các

cụ già “dáng vẻ bơ phờ đang đốt nhang phủ phục bên đường” đợi đến lúc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 86

Trƣơng Phụ hỏi thăm thì chau mày nhăn mặt ra sức than phiền, kể tội anh em

Lê Lợi rồi vui vẻ nhận lời đi trƣớc mở đƣờng cho quân Trƣơng Phụ, cho đến

khi Trƣơng Phụ vừa cho quân tiếp cận gần nhà Lê Lợi thì các cụ phụ lão bỗng

“biến đâu hết”. Phụ trúng kế của Lê Thiện “định lui quân thấy một tiếng súng

nổ khói lửa ngùn ngụt bốc lên, thiêu cháy cả một chòm rừng núi, tiếng la hét

inh ỏi. Bên trái Đinh Lễ đánh ra, bên phải Lê Trãi sáp tới” [26,220]. Quân

Trƣơng Phụ đang vùi mình trong khói lửa vừa chạy tới Bà Sơn lại “nghe một

tiếng súng nổ, lửa bốc cháy, tiếng trống vang lừng”. Tiếp tục mở đƣờng máu

chạy thoát tới Bái Lâm “lại nghe tiếng la hét ầm ĩ”. Trƣơng Phụ hồn vía lên

mây không biết chạy đâu “quân Minh chạy toán loạn, dẫm đạp lên nhau, xô

đẩy nhau rơi xuống vực... Phụ chạy ra đường lớn, thấy hai bên khe núi trong

ánh lửa, cờ quạt hiện ra, trống đánh như sấm vang, tiếng hò la dậy đất”

[26,221]. Một không khí hỗn loạn bao vây bọn Trƣơng Phụ và toàn bộ chiến

trƣờng. Ở đó mƣu kế của Lê Thiện lần lƣợt đƣợc thực thi, đƣa ngƣời đọc từ

bất ngờ này đến bất ngờ khác. Chắc chắn rằng khi kết thúc trận chiến Lam

Sơn, ngƣời đọc sẽ rất hài lòng về cách xử trí các tình huống chiến trận của vị

quân sƣ tài ba Lê Thiện.

Có thể kể thêm một số trận đánh cũng đƣợc tác giả Việt Lam tiểu sử dàn

dựng công phu thành những bức tranh khá hoành tráng, tên bay đạn réo, khói

lửa ngút trời,… nhƣ trận Giao Chỉ, Nguyễn Trãi dẫn quân từ Ngũ Lĩnh, xuất

phát với một khí thế xung trận “cờ quạt kín đất, gươm giáo đầy trời. Quân đi

đến đâu, giặc chạy trốn tới đó” [26,283]. Khi bắt đầu đối mặt với những khó

khăn cũng là lúc quân sƣ Nguyễn Trãi có cơ hội bộc lộ những phẩm chất và

tài năng của mình. Trong quá trình hành quân đi đánh Giao Chỉ, vừa đến Hồi

Hồ thì gặp một con sông lớn chắn ngang, ông liền nhanh trí “cho đóng quân

lại, sai lính đi trưng tập thuyền bè kết thành cầu phao để quân đội qua sông”

[26,283]. Biết kẻ địch có phòng bị, Nguyễn Trãi đã thực hiện một nƣớc cờ rất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 87

lợi hại, cho quân lính tấn công Lâm Thao để chặt đứt hàng rào che chắn mặt

sau của Giao Chỉ. Thực thi mƣu kế đã chuẩn bị sẵn, Nguyễn Trãi lệnh cho

quân sỹ ngƣời thì theo đƣờng rừng xuống vùng hạ lƣu “chờ trời tối chèo

thuyền qua sông đi đường tắt tới mai phục ở bên trái thành Lâm Thao” ngƣời

thì đem quân về phía thƣợng lƣu “bí mật sang sông, rồi đi đường tắt tới mai

phục ở bên phải” [26,284]. Không chỉ có vậy, ông còn lệnh cho quân sỹ giả

cách quấn rơm thành hình ngƣời tay cầm gậy gộc đứng dọc hai bên mạn

thuyền “khoảng canh hai. Mỗi thuyền chở bốn người, hai người cầm đèn, hai

người chèo thuyền lên phía trước, đại quân tiếp theo sau đánh trống hò hét,

vẫy quân qua sông” [26,284]. Dù đã có phòng bị từ trƣớc nhƣng quân Bắc

không thể nào đối chọi đƣợc với mƣu kế của Nguyễn Trãi. Đang đêm “Quân

Bắc thấy trên sông đèn đuốc sáng rực tiếng người xôn xao như muôn vạn

hùng binh rầm rộ qua sông” [26,284]. Nƣớc cờ lợi hại của Nguyễn Trãi làm

kẻ địch không kịp xoay sở chỉ biết “dùng cung nỏ đồng loạt bắn xuống nước.

Cứ thế kéo dài đến nửa buổi bao nhiêu tên và mũi tiêu đều dùng sạch”. Bấy

giờ Nguyễn Trãi mới cho quân xông tới bao vây kẻ địch, chém đứt đầu tƣớng

giặc Tô Khang rồi chiếm giữ thành Lâm Thao.

Theo dõi trận Giao Chỉ, ngƣời đọc nhiều khi nín thở hồi hộp và không

khỏi trầm trồ thán phục trƣớc những mƣu kế hết sức mềm dẻo linh hoạt của

Nguyễn Trãi. Mỗi khi đối mặt với những khó khăn, Nguyễn Trãi luôn có

những cách xử lý làm hài lòng độc giả. Sở dĩ ngƣời đọc có đƣợc những phút

giây hồi hộp nhƣ vậy là nhờ vào nghệ thuật miêu tả sự kiện của nhà văn Lê

Hoan.

Trong khởi nghĩa Lam Sơn, trận Liễu Thăng phá bẫy đồn nhƣ đi vào

chỗ không ngƣời rồi bỏ mạng tại Chi Lăng để lại dấu ấn khá đậm nét trong

lòng ngƣời đọc. Bằng nghệ thuật miêu tả sự kiện, tác giả Việt Lam tiểu sử đã

dàn dựng nên khung cảnh chiến trận khá căng thẳng, hồi hộp. Sau khi Vƣơng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 88

Thông bị đánh tan ở Tích Giang, các thành Đông Quan, Thanh Hóa, Di

Nam,… lần lƣợt bị hạ, Minh Tuyên Tông tiếp tục cử tƣớng đánh An Nam,

Liễu Thăng đƣợc giao trọng trách chỉ huy mấy vạn hùng binh tiến đánh quan

ải nƣớc Nam. Dù có một đội quân hùng mạnh nhƣng Liễu Thăng là kẻ hữu

dũng vô mƣu nên sớm chuốc lấy thất bại. Vốn là một kẻ nóng nảy lại hiếu

chiến, bất chấp mọi lời can ngăn của Hoàng Phúc, Liễu Thăng vừa tới quan ải

đã ngông nghênh tự phụ coi thƣờng quân Nam vội vã đem quân đánh ồ ạt, dễ

dàng chiếm đƣợc bảy đồn mà không hề nghi ngờ điều gì. Nắm bắt đƣợc bản

chất kiêu căng tự phụ của tƣớng giặc, Lê Thiện và Lê Lợi phối hợp chặt chẽ

cùng nghĩa quân Lam Sơn để dụ địch vào bẫy. Với một đội quân có vẻ chậm

chạp toàn là những lính tráng mệt mỏi “thành rào sơ sài”, “hàng ngũ rời rạc,

cờ xí nghiêng ngả” [26,367-368], quân ta đã đánh trúng vào lòng kiêu căng tự

phụ của Liễu Thăng. Các tƣớng Xa Tam, Nông Văn Lịch, Phạm Đán, Cao

Đoan, Doãn Hài, Mai Tố đƣợc giao trọng trách giữ các đồn nhƣng chỉ đánh

vài hiệp lại giả thua bỏ chạy làm cho Liễu Thăng càng dƣơng dƣơng tự đắc

không một chút hoài nghi “thấy nơi nào mình qua, đồn lũy đối phương đều

liên tiếp bị phá, không ai dám chống cự, Thăng an tâm tiến thẳng tới địa giới

Trấn Di” [26,368]. Nhƣ một con ngựa bất kham, Liễu Thăng bỏ qua mọi lời

cảnh tỉnh can ngăn của Lý Khánh coi thƣờng quân Nam “dùng quân như kiến

ong tụ tập”. Hắn tuyên bố phải quyết “chém được bọn man khấu mới nghe”.

Liễu Thăng đâu ngờ con đƣờng tƣởng nhƣ quá dễ dàng lại đƣa hắn đến cõi

chết. Lúc hùng hổ, tức tối vì bị quân Nam lăng nhục “một mình cùng một trăm

quân kỵ phóng ngựa qua cầu trước” Liễu Thăng nghe thấy “súng nổ liên hồi”.

Vừa tới đầu cầu bờ Nam, Thăng bị “Thái tổ giương cung bắn trúng ngực…

ngã xuống nước chết… quân Bắc chết quá nửa” [26,369]. Ngƣời đọc thật sự

thấy hả hê thoải mái vì sau những phút giây hồi hộp đợi chờ, trận đánh đã

diễn ra theo đúng với mong muốn của mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 89

Bằng nghệ thuật miêu tả các sự kiện lịch sử, tác giả Việt Lam tiểu sử đã

dàn dựng lại đƣợc hàng chục trận đánh lớn nhỏ với không khí sôi sục, diễn

biến bất ngờ. Điểm khả thủ của nghệ thuật miêu tả sự kiện trong Việt Lam tiểu

sử chính là ở chỗ tác giả đã để cho ngòi bút của mình cuốn theo dòng cảm xúc

khi miêu tả những trận chiến quân sự trên chiến trƣờng, đem lại cho ngƣời

đọc cảm giác nhƣ đƣợc sống lại những phút giây hào hùng của những trận

chiến kinh thiên động địa, những phen biến đổi sơn hà. Qua đó đem đến cho

độc giả cảm hứng tự hào về truyền thống đấu tranh giữ nƣớc vĩ đại của dân

tộc. Đồng thời nghệ thuật miêu tả sự kiện cũng góp phần phác họa những nét

tính cách của nhân vật làm tô đậm thêm chân dung của những ngƣời anh hùng

khởi nghĩa Lam Sơn.

3.3.2. Nghệ thuật thể hiện tính cách nhân vật

Theo cuốn Lý luận văn học do tác giả Hà Minh Đức chủ biên, “tính

cách” đƣợc dùng theo cách hiểu sau đây: “Tính cách cũng là nhân vật nhưng

là nhân vật được thể hiện với một chất lượng tư tưởng và nghệ thuật cao hơn,

tuy chưa đạt tới mức độ là các điển hình. Tính cách mang bản sắc riêng, độc

đáo của con người cá biệt, cụ thể nhưng lại mang những nét chung tiêu biểu

cho nhiều người khác nhau ở một mức độ nhất định đồng thời nó là một quá

trình phát triển hợp với logíc cuộc sống. Tóm lại nó có tính chung tính riêng

và tính Logíc” [20,130].

Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học của tác giả Lại Nguyên Ân, tính cách

đƣợc trình bày nhƣ sau: “… Tính cách là hình ảnh con người được phác họa

đến mức đủ rõ và đủ tính xác định, thông qua đó làm bộc lộ một kiểu ứng xử

(hành vi, ứng xử, lời nói) có căn nguyên lịch sử, đồng thời cũng làm bộc lộ

một quan niệm của tác giả về con người... Tính cách (của văn học nghệ thuật)

là sự thống nhất hữu cơ giữa cái chung, cái mang tính trùng lặp và cái cá thể,

cái riêng không bị lặp lại, là sự thống nhất giữa cái có tính khách quan (thực Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 90

tại xã hội lịch sử của đời sống con người, nơi cung cấp hình mẫu cho tính

cách văn học) và cái mang đặc tính chủ quan, sự trình bày và đánh giá hình

mẫu ấy bởi tác giả” [1,260].

Qua một vài khái niệm trên, ta có thể thấy tính cách có một vai trò hết

sức quan trọng đối với cả nội dung và hình thức trong tác phẩm văn học. Nói

nhƣ Hê ghen: “Tính cách là điểm trung tâm của mối quan hệ giữa nội dung và

hình thức”. Hay Đôxtôiepski cũng khẳng định: “Đối với nhà văn toàn bộ vấn

đề là ở tính cách” [20,129] (Trích lại theo giáo sƣ Hà Minh Đức). Nhận thức

đƣợc tính cách là yếu tố hạt nhân của văn học cho nên trong tác phẩm Việt

Lam tiểu sử Lê Hoan rất chú ý đến việc xây dựng tính cách nhân vật. Với một

số lƣợng nhân vật đông đảo hùng hậu gồm cả ta và địch, quân tƣớng và binh

sĩ, mẹ con, vợ chồng nhƣng đƣợc tác giả khắc họa mỗi ngƣời một nét tính

cách không ai giống ai. Có những nhân vật đƣợc miêu tả rất kỹ nhƣng cũng có

những nhân vật chỉ đƣợc phác họa qua một vài ba dòng hoặc xuất hiện trong

một vài trang song mỗi ngƣời đều để lại dấu ấn riêng của mình không dễ bị

nhòa lẫn. Những biện pháp đƣợc tác giả Lê Hoan sử dụng để thể hiện tính

cách nhân vật rất phong phú và đa dạng có thể qua lời ngƣời kể chuyện, qua

thái độ, cách đánh giá của nhân vật trong truyện hoặc qua ngôn ngữ, hành

động,... Vì lý do hành động nhân vật đã đƣợc khai thác ở mục 3.3.1, và ngôn

ngữ nhân vật sẽ đƣợc đề cập đến ở mục 3.3.3, cho nên trong phần này ngƣời

viết chỉ tập trung tìm hiểu cách giới thiệu tính cách của nhân vật thông qua lời

giới thiệu trực tiếp của ngƣời kể chuyện và lời giới thiệu gián tiếp của các

nhân vật khác ở trong truyện.

3.3.2.1. Giới thiệu trực tiếp nét tính cách của nhân vật thông qua lời ngƣời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

kể chuyện

91

Trong tác phẩm Việt Lam tiểu sử, tác giả giới thiệu trực tiếp những

phẩm chất vốn có của nhân vật là cách để tác giả đƣa ra những đánh giá khái

quát về nhân vật nhƣ những nhận định chung nhất về nhân vật.

Khi giới thiệu nhân vật Đặng Tất tác giả viết: “Đặng Tất vốn tính cần

kiệm nhân từ, thương người cô quả, sống hòa mình với dân” [26,174]. Hay

nói về Nguyễn Trãi tác giả viết: “Trãi từ tấm bé đã côi cút bần hàn, nhưng

vốn tính thông minh, các phép bói Nhâm, Cầm, Độn, Ất, không thứ nào không

thạo” [26,250].

Những lời giới thiệu trực tiếp về nhân vật đƣợc xem nhƣ là những nhận

định khái quát về tính cách của nhân vật. Những lời giới thiệu ấy thƣờng đƣợc

sử dụng khi nhân vật mới xuất hiện trong tác phẩm để từ đó ngƣời đọc có thể

cảm nhận những nét tính cách và phẩm chất hiện lên rõ nét trong tác phẩm.

Cũng có lúc những nét tính cách của nhân vật lại đƣợc đánh giá khái quát sau

khi nhân vật đã xuất hiện, tức là khi nhân vật đã bộc lộ những phẩm chất đƣợc

nói tới. Chẳng hạn khi ca ngợi tài đức của Lê Lợi, tác giả viết: “Thế mới biết

kẻ có đức ắt được trời giúp, người theo, không cậy phú cường mà thiên hạ

vẫn tự bình trị” [26,381]. Những nhận định này có ý nghĩa nhƣ là sự tổng kết

lại sau một quá trình tiếp xúc với nhân vật giúp cho ngƣời đọc khẳng định lại

những gì mà mình cảm nhận đƣợc là đúng đắn.

Trong Việt Lam tiểu sử, tác giả giới thiệu trực tiếp nét tính cách của

nhân vật là rất ít, tuy nhiên qua những lời giới thiệu trực tiếp xen kẽ thêm vào

đó những lời bình luận của chính tác giả cũng là một cách góp phần làm nổi

bật đƣợc phẩm chất và tính cách của một số nhân vật, đồng thời cũng là cách

để tác giả bày tỏ thái độ của mình với các nhân vật trong tác phẩm.

3.3.2.2. Giới thiệu gián tiếp nét tính cách của nhân vật thông qua các nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vật khác ở trong truyện

92

Trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử, những nét tính cách của nhân vật

chủ yếu đƣợc hiện lên qua thái độ, tình cảm và cái nhìn của các nhân vật khác.

Các nhân vật khác mà ngƣời viết muốn nói ở đây chính là những cá nhân cụ

thể trong tác phẩm và những nhân vật đám đông (hay còn gọi là những ngƣời

đƣơng thời và ngƣời đời sau).

+ Tính cách nhân vật đƣợc khắc họa gián tiếp qua các cá nhân cụ thể

Văn học vốn phản ánh đời sống của con ngƣời. Con ngƣời là tổng hòa

của những mối quan hệ xã hội phức tạp. Các nhân vật trong tiểu thuyết Việt

Lam tiểu sử cũng tồn tại trong các mối quan hệ nhất định với những cá nhân

khác và từ đó tất yếu nảy sinh những thái độ tình cảm nhất định trong mỗi cá

nhân. Chính bởi vậy, tác giả Lê Hoan đã nhiều lần không miêu tả trực tiếp

những phẩm chất, tính cách nhân vật mà để cho nhân vật của mình đƣợc hiện

lên rõ nét trong cái nhìn của nhân vật khác, và rõ ràng sự cảm nhận của nhân

vật khác về tính cách của nhân vật này bao giờ cũng tạo nên tính khách quan

cho các hình tƣợng nhân vật bởi vì đây là những cảm nhận đã trải qua một

thời gian tiếp xúc nhất định tức là đã trải qua một sự chiêm nghiệm, một quá

trình lâu dài.

Tâm điểm của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là ngƣời anh hùng Lê Lợi cho

nên tác giả đã rất cố gắng lột tả tính cách của nhân vật này. Ngay từ đầu khi

nói về lai lịch xuất xứ và tính cách của Lê Lợi, tác giả không trực tiếp giới

thiệu mà để cho nhân vật hiện lên qua cảm nhận của nhân vật khác là Đoàn

Phát. Khi nhận đƣợc tin Trần Thiên Bình về nƣớc, Hồ Hán Thƣơng rất lo lắng

không biết phải làm gì đang trong lúc bối rối thì Đoàn Phát bƣớc lên xin tiến

cử một ngƣời có thể giúp gỡ rắc rối. Lúc tiến cử Lê Lợi, Đoàn Phát giới thiệu:

“Lê Lợi lúc sinh nhà có đóa mây hồng che phủ suốt ba ngày liền không tan.

Ông tính tình cởi mở, ít nói, có kiến thức, Ngũ kinh, Chư sử chỉ xem qua là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 93

nhớ’’ [26,32]. Mặc dù lúc này Đoàn Phát còn đang là một vị tƣớng trung

nghĩa của nhà Hồ, nhƣng trong mắt Đoàn Phát, Lê Lợi luôn đƣợc xem nhƣ

một thần tƣợng, một cá nhân kiệt xuất đáng để ngợi ca. Chẳng thế mà vừa

nghe Dân Hiến phỉ báng Lê Lợi, Đoàn Phát đã nói: “Nguyên soái chớ coi

thường người ta, Lê Lợi có cái lượng của bậc đế vương” [26,113]. Ngay cả

mẹ Đoàn Phát cũng rất tự hào vinh dự vì thấy con mình đã bỏ chỗ tối về chỗ

sáng phục vụ cho Lê Lợi. Trong lời nói với con, bà luôn kính trọng và hết lời

ca ngợi ông chân nhân họ Lê “Ngày trước do tình thế bức bách, con phải ra

phục vụ ngụy triều, lòng mẹ thường áy náy. Nay gặp buổi Lê Công là vị vua

trưởng giả khoan hồng độ lượng, mẹ muốn đến Đông Đô chửi bọn Hoàng

Phúc, Trương Phụ một mẻ, có chết cũng sướng” [26,211]. Phải là con ngƣời

có nhân cách mẫu mực lắm Lê Lợi mới đƣợc nhân dân mến mộ và ca ngợi hết

lời đến nhƣ vậy.

Khi nói về vị tƣớng tài Lê Thiện, tác giả cũng để cho ngƣời đọc cảm

nhận những nét tính cách của nhân vật này qua lời giới thiệu của nhân vật

Đoàn Phát “Riêng Lê Thiện mẹ ông lúc có mang, đêm nằm mộng thấy một

ngôi sao to bằng hạt cườm rơi trên bụng, lúc tỉnh dậy sinh ra ông. Năm lên

ba, ông đã biết nói; mười lăm tuổi, làu thông các sách kinh điển, am hiểu thao

lược, người đương thời gọi ông là thần đồng” [26,32]. Cũng mến mộ Lê

Thiện nhƣ Đoàn Phát, nhân vật thổ quan khi đƣợc Trƣơng Phụ hỏi: “Lê Thiện

ở nước người như thế nào” thì liền đáp: “Ông ấy học vấn uyên thâm, vừa có

tài, vừa có trí, cha con cùng nổi tiếng ở đời. Họ Hồ nhiều lần cho người đến

mời ra giúp mà không được, nói chi tước lộc” [26,74]. Vốn là một ngƣời giàu

lòng cƣơng trực, đạo đức trong sáng không màng danh lợi và luôn hết lòng vì

đại cuộc, Lê Thiện luôn để lại những dấu ấn tốt đẹp với mọi ngƣời. Dù không

nhận chức quân sƣ do Lê Lợi ban cho nhƣng ông vẫn đem hết khả năng của

mình ra giúp dân giúp nƣớc. Trong mắt Lê Lợi, Lê Thiện là cánh tay phải đắc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 94

lực trợ giúp cho ông hoàn thành đại nghiệp đánh đuổi giặc Minh vì vậy làm

việc gì Lê Lợi cũng hỏi Lê Thiện. Ngay cả kẻ thù cũng phải trầm trồ ca ngợi:

“Lê Thiện dùng binh thật như thần” [26,119]; “Quân sư mưu lược thần tình,

khiến người ta không sao đoán nổi” [26,130]; “Quân sư tính toán giỏi như

thế, thật là bậc kỳ tài” [26,136]. Đến cả Nguyễn Trãi là một vị quân sƣ tài trí

hơn ngƣời cũng phải phục tài của Lê Thiện: “Ông tư kiến thức hơn thần gấp

mười lần, xin bệ hạ bảo ông ấy cùng hiệp sức thì có khả năng lấy thiên hạ

được” [26,325]. Chỉ qua thái độ tình cảm và lời nhận xét của các cá nhân khác

dành cho Lê Thiện, chúng ta đã có thể phần nào nắm bắt đƣợc những phẩm

chất và tính cách của nhân vật này.

Vị quân sƣ tài ba Nguyễn Trãi cũng đƣợc tác giả giới thiệu tƣơng tự,

tác giả để cho phẩm chất tài năng của Nguyễn Trãi hiện lên qua cái nhìn của

Lê Thiện. Khi đƣợc Lê Lợi hỏi về Nguyễn Trãi, Lê Thiện nói: “Trãi thiên văn

địa lý không mặt nào là không thạo, tam giáo cửu lưu không thứ gì là không

học, hơn Thiện kể gấp mười lần. Tiểu đệ nghe tên tuổi của ông ấy đã lâu,

nhiều phen muốn gặp mà chưa có dịp” [26,257]. Là một ngƣời thông minh tài

trí nhƣ Lê Thiện mà hết lời ca ngợi Nguyễn Trãi nhƣ vậy, khiến cho chúng ta

càng hiểu hơn về phẩm chất tài năng của Nguyễn Trãi.

Có thể nói, sử dụng hình thức miêu tả tính cách nhân vật qua ngôn ngữ

của các cá nhân khác mang lại sự nhìn nhận đánh giá từ nhiều góc độ, nhiều

hệ quy chiếu. Đó là cơ sở để có thể so sánh các ý kiến khác nhau về cùng một

nhân vật và việc tổng hợp các ý kiến đó để rút ra kết luận sẽ khách quan hơn

là nhìn từ một phía. Nhờ vậy mà tính cách của các nhân vật sẽ đƣợc bộc lộ

khách quan và tự nhiên hơn.

+ Tính cách nhân vật đƣợc khắc họa gián tiếp qua lời ngợi ca của ngƣời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đƣơng thời và ngƣời đời sau.

95

Ở đây “ngƣời đƣơng thời và ngƣời đời sau” ngƣời viết sử dụng để chỉ

số đông, không cụ thể một cá nhân nào. Những lời ngợi ca hay chê trách bình

luận của họ chỉ có ý nghĩa nhƣ những lời lan truyền hay là những dƣ luận.

Tuy nhiên chúng ta không thể coi thƣờng dƣ luận bởi vì trong dƣ luận ít nhiều

đều có một phần sự thật. Nhằm phát triển tính khách quan, tạo góc nhìn khác

nhau về nhân vật sau mỗi sự kiện mỗi quyết định của nhân vật, tác giả Việt

Lam tiểu sử thƣờng đƣa ra các bài thơ bình tán của ngƣời đƣơng thời và ngƣời

đời sau để làm cho tính cách của các nhân vật hiện lên rõ nét hơn trong tác

phẩm. Ví dụ:

Sau sự kiện Trƣơng Phụ sai Đinh Mỹ ra chém, Mỹ luôn mồm chửi

mắng bọn giặc cho đến chết, tác giả viết: “Người đường thời có thơ ca ngợi

rằng:

Trượng Phu ngạo nghễ chí cần vương,

Thà chết lòng son chẳng chịu hàng.

Trung hiếu để đời vừng nhật nguyệt,

Nghìn thu sử sách mãi lưu hương” [26,65].

Sau sự kiện Lê Lợi chài đƣợc gƣơm báu ở Bích Hồ “Người đương thời

có thơ ca ngợi rằng:

Vật thiêng đây vốn của trời trao,

Tỏa chiếu hào quang tận Đẩu, Ngưu.

Ba thước Long tuyền nơi đức độ,

Đế vương vẫn thuộc chúa Nam châu” [26,138].

Tƣơng tự nhƣ vậy, sau sự kiện Trƣơng Phụ bị Phan Để đấm vào mắt

suýt lòi con ngƣơi, Trƣơng Phụ cả giận quát lôi ra chém. Phan Để giƣơng cổ

đón lấy cái chết, ca ngợi về khí tiết của Phan Để, “Người đương thời có thơ

điếu rằng:

Tấm lòng trung nghĩa thấu thần linh,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 96

Một vạn cô nhi chống hải kình.

Giặc nghịch đang tâm mà giết hại,

Trời kia rõ khí tiết Phan Sinh” [26,195].

Hoặc sau sự việc Phạm Yến bị Lý Bân rút gƣơm chém mà vẫn luôn

mồm chửi giặc cho đến chết “Người đương thời có thơ điếu rằng:

Quân kỳ ủ rũ bóng trầm trầm,

Máu đẫm chiến bào chí vẫn căm.

Một dạ thờ vua không đổi chủ,

Lâm nguy, sống chết vẫn vô tâm” [26,282].

Đây mới chỉ là một trong số rất nhiều các bài thơ bình tán của ngƣời

đƣơng thời và ngƣời đời sau đƣợc tác giả Lê Hoan sử dụng. Những lời ngợi

ca, lời bình luận ấy có giá trị không nhỏ trong việc nhấn mạnh phẩm chất và

tƣ cách của nhân vật, đồng thời có ý nghĩa nhƣ là những lời đánh giá khách

quan về nhân vật trong tác phẩm. Đây cũng chính là cách thức để tác giả lồng

ghép những nhận định, sự đánh giá hay những quan niệm của mình đối với

những hành động việc làm cũng nhƣ nhân cách của các nhân vật. Việc sử

dụng những bài thơ bình tán của ngƣời đƣơng thời và ngƣời đời sau là một

trong những sáng tạo và cũng là sự táo bạo của ngƣời viết nhằm thể hiện tối

đa quan niệm về tính khách quan cho các nhân vật của mình.

Cùng với sự thể hiện tính cách của nhân vật văn học thông qua hành

động và ngôn ngữ, thì việc sử dụng trực tiếp ngôn ngữ của tác giả và gián tiếp

qua ngôn ngữ của các nhân vật khác để bộc lộ tính cách của nhân vật, cho

thấy một đóng góp mới trong nghệ thuật thể hiện hình tƣợng nhân vật của tiểu

thuyết Việt Lam tiểu sử với văn xuôi chữ Hán Việt Nam thời trung đại. Có

một điều đáng nói là, dù nhân vật đƣợc miêu tả theo cách nào, trực tiếp hay

gián tiếp thì tất cả đều là sự nỗ lực cố gắng của tác giả Lê Hoan nhằm khai

thác và thể hiện toàn diện những nét tính cách của từng nhân vật. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 97

3.3.3. Nghệ thuật thể hiện ngôn ngữ nhân vật

Theo Từ điển thuật ngữ văn học viết: “Ngôn ngữ nhân vật là một trong

các phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống

và cá tính nhân vật... trong các tác phẩm tự sự, nhà văn thường trực tiếp miêu

tả phong cách ngôn ngữ của nhân vật” [23,214].

Ngôn ngữ nhân vật là yếu tố quan trọng để cấu thành nên nhân vật.

Tính cách cũng nhƣ bản chất nhân vật sẽ đƣợc bộc lộ một cách rõ ràng thông

qua ngôn ngữ nhân vật. Với Việt Lam tiểu sử nói riêng, văn học trung đại nói

chung, ngôn ngữ nhân vật là một phƣơng tiện để tác giả bộc lộ thái độ, quan

điểm của mình về nhân vật, về cuộc sống xã hội. Nói cách khác ngôn ngữ

nhân vật trong văn học trung đại và Việt Lam tiểu sử đã đƣợc sàng lọc cẩn

thận qua ngôn ngữ của tác giả.

Ngôn ngữ của nhân vật văn học trong tác phẩm đƣợc thể hiện dƣới

nhiều dạng thức khác nhau nhƣ: Ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ độc thoại nội

tâm. Trong Việt Lam tiểu sử, ngôn ngữ của nhân vật hầu hết là thể hiện qua

ngôn ngữ đối thoại. Đó là lời nói trực tiếp của các nhân vật trong những tình

huống cụ thể, là những phản ứng rất tự nhiên của nhân vật trƣớc hiện thực

nhƣng lại bắt nguồn sâu xa từ tính cách nhân vật. Do vậy bao giờ qua những

lời nói ấy cũng thể hiện đƣợc những nét thuộc về bản chất nhân vật.

Để khắc họa chân dung Lê Lợi - một vị vua nhân từ trung nghĩa, tác giả

Lê Hoan không những chỉ bằng những hành động mà còn chú ý miêu tả rất kỹ

ngôn ngữ của nhân vật này. Bất kỳ một lời nói nào của Lê Lợi nói ra đều thấm

đẫm tình yêu thƣơng dân chúng. Ông dấy binh dẹp loạn không phải màng

danh lợi mà tất cả là vì giang sơn xã tắc. Khi giặc Minh lộ rõ tham vọng thôn

tính nƣớc Nam, Lê Lợi quyết không thoả hiệp với giặc Minh. Lúc sứ nhà

Minh mang chiếu sang An Nam, Lê Lợi nói với các tƣớng rằng: “Ta dẹp giặc

là để khôi phục nhà Trần, không ngờ lại hóa thành trò bù nhìn! không biết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 98

Giản Định giờ đang ở đâu” [26,161]. Khát vọng giúp nhà Trần khôi phục lại

giang sơn đã nhen nhóm từ lâu trong suy nghĩ của Lê Lợi, cho nên khi Đoàn

Phát vừa có ý “tôn minh công lên làm chúa” Lê Lợi nói: “Tiên sinh mới đến

sao lại đẩy tôi vào chỗ bất nghĩa? Tôi mặt mũi nào đang tâm chiếm đoạt thiên

hạ của họ Trần” [26,162]. Điều Lê Lợi sợ nhất là phụ nghĩa với ngƣời. Dù bị

Trần Giản Định lột hết chức tƣớc đuổi về quê, Lê Lợi vẫn một lòng giữ trọn

khí tiết. Lúc cho quân vào Nghĩa An Lê Lợi vẫn cho quân vào bái yết vua

Trần. Biết tin vua Trần đã vào Thuận Châu Lê Lợi nói: “Muốn được vào gặp

mặt vua, may được rủ lòng thương để mình phải dốc tâm phụng sự. Nay lại

không gặp phải chăng tại trời?” [26,224]. Là ngƣời nhân từ lại có cá tính

khiêm tốn, khi Nguyễn Trãi và các tƣớng sĩ đồng lòng “xin minh công hãy lên

làm chúa”, Lê Lợi vẫn nhất định không nghe. Lê Lợi nói với Nguyễn Trãi:

“Sao ông lại thốt ra những lời như vậy? Ta có đức độ gì đâu mà giám làm

vua” [26,259]. Từ chối lời đề nghị của mọi ngƣời không phải vì ông sợ gánh

nặng trách nhiệm mà ông không muốn mang tiếng là kẻ bất nghĩa chiếm ngôi

của nhà Trần. Với Lê Lợi, khát vọng trừ bạo cứu dân luôn là một lý tƣởng cao

nhất để ông hƣớng tới.

Nói đến Nguyễn Trãi là nói đến một vị quân sƣ tài trí mƣu lƣợc. Bởi

vậy khi thể hiện nhân vật, tác giả Lê Hoan rất chú ý lựa chọn ngôn ngữ để thể

hiện đƣợc bản chất của con ngƣời này. Vốn là ngƣời yêu thƣơng dân chúng,

những lời nói của Nguyễn Trãi đối với ngƣời trên kẻ dƣới đều xứng danh là

một bậc hiền sĩ. Chẳng hạn lúc “vén màn xông vào” gặp Lê Lợi, Nguyễn Trãi

làm Lê Lợi giật mình định rút gƣơm ra chém nhƣng nhờ những lời nói hết sức

giõng rạc lƣu loát Nguyễn Trãi không những không bị Lê Lợi sử tội chết mà

còn đƣợc kính mộ “thần là tiến sĩ triều Trần, người Nhị Khê, họ Nguyễn tên

Trãi, bởi tướng nhà Minh bạo ngược nên phải lẩn lút tha phương. Nghe minh

công là bậc trưởng giả khoan dung, thần đặc biệt muốn tới đây xin theo, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 99

nhưng không có cách gì đề đạt nguyÖn vọng. May gặp lúc minh công ra tiếp

dân, thần hân hạnh được biết dung nhan, muốn vái chào nhưng sợ đường đột.

Vì vậy mà liều lĩnh đi theo trốn vào góc phòng” [26,252]. Chỉ thông qua một

vài câu nói rất ngắn gọn khi đối đáp với Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã bộc lộ tất cả

sự khôn ngoan khéo léo của mình. Cũng vì những lời nói khôn khéo này mà

ông nhanh chóng chiếm đƣợc cảm tình của Lê Lợi. Bản chất lanh lợi cộng với

sự thẳng thắn khiến cho Nguyễn Trãi không ngại nói ra những suy nghĩ của

mình với bất cứ ai kể cả với Lê Lợi. Thấy Lê Lợi một mực từ chối lên làm

chúa, Nguyễn Trãi nói: “Mệnh trời ở lòng người, lòng người theo về đâu tức

mệnh trời ở đó. Nay mệnh trời đã ở minh công đúng như người ta nói: “Mệnh

trời quy về kẻ có đức”. Nếu không có đức sao nhân tâm lại hướng về? Minh

công dù muốn tránh cũng không được” [26,259]. Những lời nói của Nguyễn

Trãi thể hiện sự am hiểu sâu rộng về “mệnh trời” về lòng ngƣời. Qua cách nói

ấy còn thấy đƣợc ở Nguyễn Trãi một vị quân sƣ có tầm nhìn xa trông rộng,

một con ngƣời sáng suốt am hiểu lòng dân. Nguyễn Trãi thật không hổ danh

là một vị quân sƣ “văn võ song toàn” đƣợc Lê Lợi hết sức tin cậy.

Dẫu không phải là một yếu nhân lịch sử nhƣng Đoàn Phát cũng đƣợc

tác giả Lê Hoan chú ý miêu tả ngôn ngữ để làm nổi bật đƣợc phẩm chất thẳng

thắn cƣơng trực của nhân vật này. Ví dụ khi còn là một tƣớng nhà Hồ, ngƣời

đọc rất ấn tƣợng với những lời nói rất ngay thẳng dứt khoát của Đoàn Phát.

Lúc Dân Hiến bị Phạm Đán lừa tổ chức tiệc tùng khao quân ăn uống, Đoàn

Phát không hề sợ hãi “hớt ha hớt hải” từ ngoài vào lớn tiếng mắng rằng: “Nay

hai nước đang giằng co chưa biết hươu chết vào tay ai, vậy mà Nguyên

Nhung không biết lo xa, đam mê chơi bời” [26,92]. Những lời nói này đã

chứng tỏ đƣợc khí chất khẳng khái của Đoàn Phát. Với con ngƣời này, mọi lời

nói đều tỏ ra ngay thẳng không biết vòng vèo uốn lƣợn. Tuy đã bị bắt nhƣng

Đoàn Phát không hề nhún mình, thấy Lê Thiện hạ mình pha trà liền gạt đổ cốc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 100

nƣớc rồi mắng Lê thiện rằng: “Ngươi là kẻ không có lương tâm cùng sinh ở

cõi nước Nam lại thông đồng với giặc Bắc, cùng chung một tổ quốc mà lại bỏ

rơi dân mình, sống ở nước nhà mà dở mặt phản chúa, ta mặt mũi nào đi uống

trà cùng ngươi? mau mau chém ta đi” [26,116]. Những lời nói lƣu loát thẳng

thắn của Đoàn Phát làm cho Lê Thiện càng mến mộ và quyết tìm mọi lý lẽ để

thuyết phục. Khi đã phân biệt đƣợc chính ngụy, Đoàn Phát về phò tá cho Lê

Lợi trƣớc sau vẫn là con ngƣời thẳng thắn dám nghĩ dám làm. Vừa biết tin

triều Minh chiếm giữ lãnh thổ, Đoàn Phát không quản gió mƣa tức tốc đến

gặp Lê Lợi nói: “Kế sách bây giờ là hãy tiêu diệt bọn tướng tá nhà Minh rồi

tôn Minh công lên làm chúa... nếu chúng đến là đánh chứ đâu có chuyện non

sông ta cứ để bọn chúng ngang nhiên muốn làm gì thì làm” [26,162]. Thấy Lê

Lợi không chịu lên làm chúa, Đoàn Phát không ngại nói ra những suy nghĩ

của mình: “Người ta theo minh công là để chung lo việc đánh kẻ có tội, cứu

vớt dân lành. May được chút công lao, trên có thể làm vẻ vang tiên tổ, dưới có

thể làm hiển hách họ hàng. Nếu Minh công không làm theo ý nguyện của dân

thì lòng người sẽ trễ biếng, còn ai cộng sự với minh công nữa” [26,258]. Dám

nói ra những suy nghĩ của mình không phải Đoàn Phát không kính nể ngƣời

khác mà xuất phát từ bản chất thật thà ngay thẳng. Từng lời nói của Đoàn Phát

đều là lời nói của một con ngƣời trung nghĩa thật đáng để cho ngƣời sau phải

ngƣỡng mộ nể phục.

Để lột tả bộ mặt xấu xa nham hiểm của Trƣơng Phụ - một tƣớng giặc

của nhà Minh, tác giả Việt Lam tiểu sử không chỉ bằng hành động mà còn tái

hiện qua ngôn ngữ của nhân vật này. Vừa thấy Trần Thiên Bình sang cầu cứu

nhà Minh, Phụ đã tâu với Minh Thành Tổ “Quý Ly phản phúc bạo ngược đủ

điều, tội ác không gì lớn hơn. Nay nhân cơ hội trong nước biến loạn, phúc tộ

họ Trần đã hết, ta nên đưa quân đi bắt cha con họ Hồ đem về đây rồi đặt

nước họ vào chế độ quận huyện để dứt mối lo về sau” [26,27]. Lời nói của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 101

Trƣơng Phụ ngay từ đầu đã bộc lộ rõ ý định thôn tính phƣơng Nam, bắt

phƣơng Nam thuần phục và biến cả đất nƣớc ấy thành quận huyện nhỏ, thuộc

quyền cai trị của phƣơng Bắc. Khi đảm nhiệm làm một tƣớng giặc đƣa quân

sang xâm lƣợc Nam Việt, Trƣơng Phụ luôn tỏ ra kiêu căng tự phụ. Mặc dù

mọi chiến thắng nhà Hồ phần lớn là nhờ công lao của Lê Thiện nhƣng thấy

nhiều ngƣời tán dƣơng Lê Thiện, Phụ khó chịu nói: “Hạng tép riu ấy thì làm

nên trò trống gì. Chẳng qua là dựa vào cái thế của ta để hành động mới được

như vậy” [26,120]. Những lời nói của Trƣơng Phụ còn bộc lộ đƣợc cả bản

chất lạnh lùng thâm độc của hắn. Khi thấy Tiết Thạch và Nhiếp Hạnh giết bọn

Hiến, Nhạc, trả thù cho cha, Trƣơng Phụ thản nhiên nói: “Ngươi trả thù cho

cha một cách ngoạn mục, chỉ tiếc là giết khi người ta đang bị trói, giết như

thế thì chưa khoái lắm” [26,121]. Chỉ với ngần ấy câu nói cũng đã đủ vẽ nên

những nét tính cách cơ bản của Trƣơng Phụ - một kẻ tàn bạo không có tính

ngƣời. Những ngày tháng đƣa quân sang xâm lƣợc Nam Việt, chính Trƣơng

Phụ đã nhiều lần hồn siêu phách lạc, biết bao nhiêu tƣớng sĩ nhà Minh phải bỏ

mạng ở nƣớc Nam, nhân dân đất Việt thì lầm than nheo nhóc. Vậy mà cho

đến phút cuối khi Minh Tuyên Tông đƣa tờ biểu cầu hòa của Lê Lợi cho

Trƣơng Phụ đọc để ngầm xem ý Phụ thế nào, Phụ vẫn một mực nói: “Không

thể như thế được. Tướng sĩ vất vả suốt bao nhiêu năm trời mới có được đất

ấy. Tờ biểu này là do sự xảo quyệt của Lê Lợi mà ra. Ta nên đưa thêm quân

sang để giết tên giặc đó” [26,375].

Tất cả mọi lời nói của Trƣơng Phụ đều chứa chất những mƣu đồ xảo

quyệt nham hiểm. Mỗi lời nói mà Y thốt ra đều làm sáng tỏ bản chất của một

kẻ hiếu chiến luôn khát chinh chiến và xâm lăng. Với con mắt nhìn tinh tế của

tác giả, chỉ thông qua một vài câu nói của nhân vật thì tính cách của nhân vật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đã hiện lên một cách rõ rệt, cụ thể và đầy đủ nhất.

102

Có thể thấy khi xây dựng nhân vật, tác giả Lê Hoan rất chú trọng đến

ngôn ngữ nhân vật. Thực chất ngôn ngữ cũng là một dạng hành động của nhân

vật, chỉ có điều đặc biệt hơn đây là hành động với chất liệu là ngôn từ. Việc

tách riêng ngôn ngữ ra khỏi hành động cũng là nhằm đi sâu hơn vào hệ thống

này để tìm hiểu đặc trƣng rất riêng của nó. Từ đó hiểu hơn về nhân vật, chủ

thể của ngôn ngữ đó. Các nhân vật trong Việt Lam tiểu sử do đƣợc xây dựng

chủ yếu trên bút pháp tƣợng trƣng, ƣớc lệ cho nên ngôn ngữ của nhân vật

cũng chịu ảnh hƣởng bởi bút pháp này. Ngôn ngữ của các nhân vật nhiều khi

bị quy định chặt chẽ bởi lối công thức, nhiều sáo ngữ hoa mĩ, diễn tả bằng

nhiều câu biền ngẫu, đăng đối nhịp nhàng. Ta có thể dễ dàng bắt gặp trong

Việt Lam tiểu sử những đoạn đối thoại giữa ngƣời trên kẻ dƣới, giữa bề tôi và

tƣớng lĩnh. Các nhân vật bề tôi đều có một thái độ rất khiêm nhƣờng, lời lẽ

của họ bao giờ cũng thể hiện sự tôn kính. Lời nói của các nhân vật thƣờng

chứa những cụm từ có tính chất hoa mĩ, giàu hình ảnh, ngƣời nói thƣờng so

sánh mình với những sự vật nhỏ nhoi thấp hèn đã trở thành công thức kiểu

nhƣ: “Gắng sức ngựa hèn”, “tài hèn học cạn, ít trí nghèo mưu”, “cá bơi trong

chậu”,… Chẳng hạn nhƣ lời nói của Trần Thiên Bình với vua Minh Thành

Tổ: “Nay hoàng thượng thừa kế đại Tống, tôn trọng nếp xưa cúi mong bệ hạ

lấy đức sinh thành của trời đất cha mẹ mà thương sót kẻ bề tôi bé mọn này,

làm cho đời đời được giữ đất phương Nam chăm lo triều cống” [26,24]. Hoặc

lời nói của Lê Thiện với Mai Sĩ sứ giả nhà Hồ: “Coi như anh em Thiện đây

chỉ là hạng trí mọn tài sơ không xứng đáng để triều đình sai phái” [26,36].

Có thể nói, ngôn ngữ đối thoại trong Việt Lam tiểu sử của Lê Hoan là

một hiện tƣợng khá lý thú. Dù nhân vật là ngƣời có trình độ học vấn cao hay

chỉ là kẻ bề tôi hèn mọn không biết chữ, dù là bậc khanh tƣớng hay những con

ngƣời bình thƣờng thì ngôn ngữ của họ bao giờ cũng rất sang trọng thể hiện

tầm nhận thức cao của những ngƣời có học thức. Đấy là cách nói có hình ảnh, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 103

thƣờng hay so sánh ví von với những ngƣời nổi tiếng trong sử sách khiến cho

ngƣời đối thoại có ấn tƣợng sâu sắc. Ví nhƣ lời nói của Mai Sĩ sứ giả nhà Hồ

lúc đem thƣ của Hồ Quý Ly đến gặp Lê Lợi: “Ngày nay trên có thánh chúa

sáng suốt, khắp bốn biển không ai không xưng bề tôi. Giúp triều đình giữ mối

hòa hiếu với các nước vĩnh viễn loại bỏ nạn xâm chiếm từ bên ngoài, vin theo

mình rồng, tựa vào cánh phượng vốn không thiếu chi người. Riêng có hạng

hiền sĩ câu ở sông Vị, cày ở núi Sằn thì còn đang khát khao mong ngóng. Nếu

quý ngài chịu tung chí hồng hộc, trổ tài kỳ lân ra mà duy trì thế đạo giúp chúa

làm lợi cho dân khiến công danh lưu sử sách thì hay biết mấy” [26,36]. Rõ

ràng thông qua ngôn ngữ nhân vật, tác giả đã nói lên đƣợc rất nhiều điều. Chỉ

cần qua những ngôn ngữ này chúng ta có thể thấy Mai Sĩ là một ngƣời có

trình độ học vấn cao. Để cố gắng thuyết phục đƣợc anh em nhà họ Lê về với

Hồ Quý Ly, Mai Sĩ đã lựa chọn những ngôn ngữ hết sức giàu hình ảnh, có sức

thuyết phục mạnh mẽ. Nhƣng thật không may cho Mai Sĩ ngƣời đối thoại với

ông lại là Lê Thiện một con ngƣời tài trí vốn thông kim bác cổ. Nếu nhƣ ngôn

ngữ của Mai Sĩ đã rất sắc bén thì những lời nói của Lê Thiện còn sắc bén hơn.

Đáp lại những lời nói của Mai Sĩ, Lê Thiện cũng dùng những lời nói ví von

gắn liền với những điển tích điển cố “Trên đã có bậc vua hiền như Nghưu

Thuấn, dưới lại có bề tôi giỏi như Trác, Tiết, Vũ, Cao, dù bên ngoài triều đình

có hàng trăm Sào Phủ, Hứa Do đi chăng nữa thì cũng không ảnh hưởng đến

nền thịnh trị của đời Đường, còn như anh em Thiện đây…” [26,36]. Những

lời nói của Lê Thiện không chỉ thể hiện đƣợc sự hiểu biết sâu rộng về tri thức

mà qua đó ông cũng kín đáo gửi gắm lời từ chối hợp tác với họ Hồ. Đây cũng

là một cách từ chối rất khéo léo, chắc chắn rằng ngƣời có hiểu biết nhƣ Mai Sĩ

không những không bực tức mà còn phải kính nể.

Hay nhƣ lời biện bạch của ngƣời đàn bà họ Đinh ở vùng Liêu Đông

nói với chồng về bài thơ tức cảnh trên vách cũng xứng danh là một ngƣời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 104

thông thạo chữ nghĩa “thiếp từ tuổi còn thơ đã nâng khăn sửa túi cho chàng,

không hề thay lòng đổi dạ, trước sau vẫn một niềm chung thuỷ, nào có chuyện

chăng gió như Tiểu Ngọc, sỗ sàng như Văn Quân? Bài thơ kia là để vịnh cái

bóng của thiếp đó thôi” [26,45]. Cho đến khi tự tử biến thành yêu tinh nƣơng

náu trên cây ngô đồng ngàn năm mà lời nói của ngƣời đàn bà họ Đinh vẫn

một mực là con nhà dòng dõi. Lúc nói chuyện với Quý Ly, luận về đức trị của

vua thị nói: “Nhà trần hết phúc cho nên đức không thắng được yêu tinh, còn

nay là triều thánh yêu tinh không thắng được đức. Huống chi bệ hạ đạo như

Nghiêu Thuấn, đức giống Vũ Thang, lấy lễ làm nhạc đánh xe, lấy nhạc làm cỗ

xe chở, dùng người làm cái mộc, dùng nghĩa làm cái khiên. Như thế kẻ xa sẽ

tới, người gần sẽ đẹp lòng” [26,47]. Chỉ là một ngƣời phụ nữ bình thƣờng thôi

nhƣng mọi lời nói đều hết sức chau chuốt bóng bẩy. Ngƣời đàn bà họ Đinh

trong khi đối thoại thƣờng hay so sánh ví von với các nhân vật nổi tiếng có

trong sử sách. Cách nói ấy vừa thể hiện đƣợc trình độ hiểu biết sâu sắc lại vừa

gây đƣợc thiện cảm đối với ngƣời nghe.

Các nhân vật trong Việt Lam tiểu sử khi đối thoại không chỉ so sánh ví

von với các nhân vật có trong điển tích điển cố mà đôi lúc họ còn sử dụng

những lời nói hết sức văn hoa bóng bẩy kiểu nhƣ lời nói của Trƣơng Phụ (đại

tƣớng nhà Minh) với thái giám nhà Trần là Lý Tự Thành: “Lan sinh ở khe sâu

không có ý khoe thơm mà hương thơm ngào ngạt, trăng mọc ở nơi biển thẳm

không cố tình phô sắc mà ánh sáng lung linh. Cần gì phải ngắm mình trước

gương, đứng đầu ngọn gió rồi mới biết?” [26,75]. Để thuyết phục đƣợc Lý Tự

Thành sớm khuyên con rể ra hợp tác với mình, Trƣơng Phụ đã dùng những lời

nói thật bay bƣớm khen chàng rể Lê Thiện khiến cho Lý Tự Thành ít nhiều

cũng phải xiêu lòng.

Điểm dễ nhận thấy nhất với các nhân vật trong tiểu thuyết Việt Lam tiểu

sử là trong những cuộc đối thoại giao tiếp, tác giả Lê Hoan thƣờng để cho các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 105

nhân vật viện dẫn các điển tích điển cố trong sử sách Trung Quốc khiến cho

tính chất của lời nói trở nên sắc sảo, mạnh mẽ và dễ hiểu hơn đối với ngƣời

đối thoại. Chẳng hạn khi đối thoại với Đoàn Phát, luận về tội ác của họ Hồ, Lê

Thiện nói: “Họ Hồ tàn hại muôn vật giết hại dân lành ác như Kiệt Trụ, giết

vua cướp nước tội quá Vương Tào. Huống hồ dân là dân nhà Trần, chúa là

chúa nhà Trần. Việc dấy quân của Thiện này không nhằm lợi ích bản thân,

mà chính là trên là vì nước dưới thì vì dân” [26,117]. Để thu phục đƣợc Đoàn

Phát một vị tƣớng giỏi trung nghĩa của nhà Hồ, Lê Thiện đã rất khéo léo viện

dẫn những điển tích, điển cố rất quen thuộc để vạch ra tội ác tày trời của nhà

Hồ giúp Đoàn Phát nhanh chóng phân biệt đƣợc chính ngụy. Những câu đối

đáp ngắn gọn của Lê Thiện vừa thể hiện sự hiểu biết về lẽ đời, khả năng đối

đáp linh hoạt lại vừa làm cho ngôn ngữ trở nên trang trọng, giàu khả năng

biểu cảm.

Ngoài ra, chúng ta còn có thể dễ dàng bắt gặp các điển tích điển cố

đƣợc các nhân vật trích dẫn trong khi giao tiếp nhƣ lời của Cảnh Dị lúc đối

đáp với vua Trần: “Nhị đế nhường ngôi cho người hiền, Tam Vương nhường

ngôi cho con mình. Trần Tể tướng đức, nghĩa, nhân, hiếu đều nổi tiếng ở đời,

bệ hạ nhường ngôi cho ông ấy ý đồ cũng giống như vua Nghiêu, vua Thuấn có

gì mà không được” [26,183]. Hay nhƣ lời của Phùng Quý nói với Đỗ Dung:

“Ta là tôi con của thiên triều, đứng vào hàng danh giá chỉ muốn sống như

Hứa Viễn, Trương Tuần, chứ không thể làm theo Lý Lăng, Vệ Luật. Nguyện

làm cái lưỡi của Nhan Thường Sơn, cái đầu của Nghiêu tướng quân, đó là tố

trí của đấng trượng phu” [26,294]. Việc tác giả Việt Lam tiểu sử để cho các

nhân vật vận dụng các điển tích điển cố trong sử sách Trung Quốc và Việt

Nam, vừa nhằm mục đích tô điểm cho ngôn ngữ của nhân vật có sắc thái trang

trọng vừa thể hiện đƣợc sự hiểu biết sâu sắc của ngƣời nói làm cho ngƣời đối

thoại nhanh chóng bị thuyết phục trƣớc ngôn ngữ đầy hàm xúc nhƣ vậy. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 106

Có thể nói rằng, ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật trong tiểu thuyết

Việt Lam tiểu sử là một đặc điểm khá lý thú. Cùng với lối nói ví von hình ảnh,

viện dẫn các điển tích, điển cố, các nhân vật trong Việt Lam tiểu sử nhiều lúc

còn sử dụng lối chơi chữ trong khi giao tiếp thể hiện đƣợc trình độ học vấn

của ngƣời nói, đồng thời khiến cho lối diễn đạt phù hợp với cấu trúc câu văn

biền ngẫu. Chẳng hạn, nhân cơ hội Phạm Đán vào rừng bắt đƣợc đôi chồn đen

mang tới dâng nộp cho Lê Thiện, ông đã mƣợn hình ảnh đôi chồn đen này để

chơi chữ nói về Hồ Hán Thƣơng “Chồn tức là Hồ, đen tức là Thương. Hán

Thương sắp đi đời rồi sao?” [26,88]. Lối chơi chữ của Lê Thiện càng góp

phần thể hiện đƣợc trình độ uyên thâm của ông. Vốn là ngƣời “trên thông

thiên văn, dưới tường địa lý” những lời mà Lê Thiện nói ra đều xuất phát từ

sự am hiểu sâu sắc về thời thế. Bởi vậy, dựa vào đôi chồn đen Phạm Đán vừa

săn đƣợc, Lê Thiện đã chơi chữ luận giải ý nghĩa sau đó sai ngƣời nộp cho

Dân Hiến khiến hắn bị mắc mƣu góp phần dẫn đến sự thất bại của nhà Hồ sau

này.

Nhìn chung trong Việt Lam tiểu sử, Lê Hoan đã vận dụng rất có hiệu

quả việc tái hiện lại những lời nói của các nhân vật nhƣ một phƣơng tiện để

làm nổi bật những nét tính cách cơ bản của nhân vật. Có thể khẳng định rằng,

ngôn ngữ nhân vật trong Việt Lam tiểu sử đã thực hiện tốt chức năng của mình

là một trong những yếu tố quan trọng để tạo nên tính cách nhân vật. Ngôn ngữ

đối thoại của các nhân vật trong tác phẩm đã tạo nên đƣợc một phần giá trị

nghệ thuật của tác phẩm Việt Lam tiểu sử nói riêng và tiểu thuyết chƣơng hồi

Việt Nam chữ Hán nói chung. Chính nhờ có ngôn ngữ làm cho các nhân vật

trong Việt Lam tiểu sử sống động hơn so với các nhân vật trong sử sách. Ngôn

ngữ nhân vật có thể đƣợc đánh giá là một trong những thành công của Việt

Lam tiểu sử.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 107

Tiểu kết

Với sự kết hợp một cách hài hòa các thủ pháp xây dựng nhân vật, tác

phẩm Việt Lam tiểu sử đã rất thành công trong nghệ thuật thể hiện nhân vật.

Sở dĩ tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử có nhiều trang viết gây đƣợc ấn tƣợng đối

với ngƣời đọc chính là nhờ vào nghệ thuật thể hiện nhân vật của Lê Hoan.

Một mặt, tác giả Việt Lam tiểu sử vẫn tuân theo những công thức của bút pháp

truyền thống, mặt khác nhà văn cũng luôn cố gắng sáng tạo theo cách riêng

của mình và đã để lại những dấu ấn khá đậm nét. Trong quá trình thể hiện

nhân vật, tác giả Lê Hoan không tránh khỏi những hạn chế nhƣ: Tính cách của

nhân vật đa dạng nhƣng chƣa thật sự có chiều sâu, nhà văn chƣa chú ý miêu tả

nội tâm nhân vật, hoặc do ảnh hƣởng của tiểu thuyết chƣơng hồi Trung Quốc

đặc biệt là tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa nên nhiều nhân vật còn mang

dáng dấp nhân vật của tiểu thuyết này: Lê Lợi giống Lƣu Bị, Lê Thiện giống

Khổng Minh, Đoàn Phát giống Từ Thứ,... Song với những gì mà tác giả Lê

Hoan thể hiện, chúng ta không thể không khẳng định rằng nhờ nghệ thuật thể

hiện nhân vật, Lê Hoan đã giúp cho Việt Lam tiểu sử đạt đến giá trị văn học

đích thực. Nhân vật từ nguyên mẫu lịch sử trở thành hình tƣợng văn học sống

động lung linh hơn, giúp cho tác phẩm có một sức sống lâu dài và bền bỉ hơn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 108

KẾT LUẬN

1. Việt Lam tiểu sử là cuốn tiểu thuyết chữ Hán viết theo lối kết cấu

chƣơng hồi ra đời vào buổi xế chiều của nền văn học trung đại Việt Nam. Tác

phẩm đã dựng lên đƣợc một bức tranh hoành tráng rộng lớn của dân tộc trong

vòng 30 năm đầu thế kỷ XV. Đây là giai đoạn có nhiều biến cố lịch sử trọng

đại, đặc biệt là sự kiện Lê Lợi lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn đánh thắng quân

Minh đem lại độc lập tự do cho dân tộc. Bằng tài năng của mình, tác giả Việt

Lam tiểu sử đã đem đến cho ngƣời đọc cái cảm giác đƣợc sống lại những giây

phút hào hùng, những phen biến đổi sơn hà. Qua đó, đem đến cho độc giả cảm

hứng tự hào về truyền thống đấu tranh giữ nƣớc vĩ đại của dân tộc. Chúng ta

ghi nhận tâm huyết và sự cố gắng của nhà văn Lê Hoan trong việc tái tạo lại

những năm tháng vừa đau thƣơng vừa hùng tráng ấy. Tìm hiểu giá trị của Việt

Lam tiểu sử ta có thêm cơ sở để khẳng định, cùng với truyện ngắn, ký, tiểu

thuyết chƣơng hồi đã hoàn chỉnh hình thức văn xuôi tự sự trung đại. Từ đây,

văn xuôi tự sự trƣởng thành vƣợt bậc, đủ sức phản ánh những vấn đề lịch sử

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

xã hội rộng lớn với tầm khái quát hóa cuộc sống trên quy mô toàn quốc.

109

2. Việt Lam tiểu sử là một cuốn tiểu thuyết lịch sử lấy nhân vật và sự

kiện lịch sử làm nòng cốt. Từ nguyên mẫu lịch sử đi vào tác phẩm văn học để

trở thành hình tƣợng nghệ thuật là cả một quá trình. Tuy vậy trong khi sáng

tạo nghệ thuật, nhà văn Lê Hoan luôn cố gắng thoát khỏi cách ghi chép lạnh

lùng của các sử gia, đồng thời chú ý khai thác những yếu tố mà các nhà sử học

ít khi chú ý tới. Đó là những chi tiết cụ thể trong hành động, ngôn ngữ tính

cách của nhân vật, đặc biệt là sử dụng các yếu tố hƣ cấu để làm nên chất

huyền thoại và tạo nên hƣơng men quyến rũ cho ngƣời đọc.

3. Một trong những thành công của Việt Lam tiểu sử chính là nghệ thuật

thể hiện nhân vật. Nhân vật trong Việt Lam tiểu sử không chú trọng miêu tả về

đặc điểm tâm lý mà đƣợc chú ý nhiều hơn ở phƣơng diện hành động, ngôn

ngữ. Chính ở phƣơng diện này, nhân vật có khả năng tự bộc lộ những phẩm

chất và tính cách của mình một cách khách quan và nhiều chiều nhất. Nghệ

thuật thể hiện nhân vật có thể xem là một yếu tố quan trọng giúp chúng ta

khẳng định tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử là một tác phẩm văn học có nhiều giá

trị trong nền văn học truyền thống của dân tộc.

4. Mặc dù đạt đƣợc nhiều thành tựu nhƣng tiểu thuyết Việt Lam tiểu sử

vẫn mắc phải những hạn chế nhƣ: Việc phản ánh sai lệch sự kiện tiến trình

lịch sử (sáng tạo ra việc Lê Lợi bắt tay với giặc Minh đánh nhà Hồ); khắc họa

hình ảnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi, mờ nhạt bên cạnh Lê Thiện. Tuy nhiên, những

hạn chế đó cũng bắt nguồn từ nhiều lý do cá nhân của tác giả. Những hạn chế

ấy cũng có thể xem nhƣ là những “hạt sạn” trong nội dung Việt Lam tiểu sử và

ít nhiều có gây nên một số phản cảm tâm lý ở ngƣời đọc, nhƣng chúng ta

không thể phủ nhận những thành tựu to lớn trong nội dung và nghệ thuật mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tác phẩm Việt Lam tiểu sử đã đạt đƣợc.

110

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học (tái bản), Nxb Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

2. A.Brebion (1935), Từ điển thư mục tác giả, tác phẩm tổng quát, cổ điển và

hiện đại về Đông Dương thuộc Pháp (Trung tâm dịch thuật dịch), Nxb

Thế giới, Hà Nội.

3. M. Baktin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cƣ tuyển

chọn và dịch), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

4. Trần Lê Bảo (1991), “Cái kỳ trong tổ chức nghệ thuật Tam quốc chí diễn

nghĩa của La Quán Trung”, Tạp chí Văn học, số 3.

5. Nguyễn Đông Châu (1914), Nhời của người dịch sách, sách Việt Lam xuân

thu, Đông kinh ấn quán, Hà Nội

6. Phạm Tú Châu (1981), “Đọc văn bản Hoàng Lê nhất thống chí”, Tạp chí

Văn học, số 2.

7. Phạm Tú Châu (1997), Hoàng Lê nhất thống chí – văn bản, tác giả và nhân

vật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

8. Phạm Tú Châu (2001), Tiểu thuyết Minh Thanh và diễn tiến tiểu thuyết Hán

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nôm ở nước ta, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

111

9. Nguyễn Huệ Chi (2002), “Con đƣờng giao tiếp văn học cổ trung đại Việt

Nam trong mối liên hệ khu vực”, Tạp chí Văn học, số 5.

10. Nguyễn Huệ Chi (2003), “Mấy đặc trƣng loại đặc biệt của nền văn học

Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX”, Tạp chí Văn học, số 4.

11. Nguyễn Phƣơng Chi (1980), “Tiểu thuyết “Trùng Quang tâm sử” nghĩ về

đề tài lịch sử chống Trung Quốc xâm lƣợc qua một số sáng tác hiện nay”,

Tạp chí Văn học, số 4.

12. Nguyễn Khoa Chiêm (1994), Nam Triều công nghiệp diễn chí (Ngô Đức

Thọ – Nguyễn Thuý Nga giới thiệu dịch và chú thích), Nxb Hội Nhà văn

Hà Nội.

13. Nguyễn Đình Chú (2002), “Hiện tƣợng Văn - Sử - Triết bất phân trong

văn học Việt Nam thời trung đại”, Tạp chí Văn học, số 5.

14. Quỳnh Cƣ - Đỗ Đức Hùng (2006), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh

Niên, Hà Nội.

15. Đỗ Đức Dục (1968), “Tính cách điển hình trong Hoàng Lê nhất thống

chí”, Tạp chí Văn học, số 4.

16. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

17. Trần Xuân Đề (2001), Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo Dục, Hà

Nội.

18. Trần Xuân Đề (2003), Tác giả, tác phẩm văn học phương Đông (Trung

Quốc), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

19. Hà Minh Đức (1971) Nhà văn và tác phẩm văn học, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

20. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2006), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội

21. Trần Văn Giáp (1990), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Nxb Khoa học xã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hội, Hà Nội.

112

22. Vũ Thanh Hà (2005), “Hoàng Lê nhất thống chí và thể loại tiểu thuyết

chƣơng hồi trong văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số 6.

23. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004), Từ

điển thuật ngữ văn học (tái bản), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

24. Đỗ Đức Hiểu - Nguyễn Huệ Chi - Phùng Văn Tửu - Trần Hữu Tá (Đồng

chủ biên) (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.

25 Nguyễn Xuân Hoà (1998), Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc

đến tiểu thuyết cổ Việt Nam, Nxb Thanh Hoá.

26. Lê Hoan (1999), Việt Lam xuân thu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

27. Nguyễn Văn Hoàn (1973), “Phong trào khởi nghĩa nông dân và văn học

Việt Nam thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX”, Tạp chí Văn học, số 4.

28. Nguyễn Huy Khánh (1991), Khảo luận tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa,

Nxb Văn học, Hà Nội.

29. M. B. Khrarchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp nghiên

cứu văn học (Trần Đình Sử tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

30. N. I. Konrat (1997 ), Phương Đông và phương Tây (Trịnh Bá Đĩnh dịch),

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

31. Phan Huy Lê (1964), “Tác phẩm Việt Lam xuân thu có giá trị về mặt sử

liệu hay không?”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 58.

32. Phan Thị Minh Lễ (1998), “Thƣ gửi từ Pháp”, Tạp chí Xưa và Nay, số 55.

33. Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử ký toàn thư (tái bản), Tập 1 (Cao Huy

Giu dịch), Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

34. Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử ký toàn thư (tái bản), Tập 2 (Cao Huy

Giu dịch), Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

35. Đoàn Ánh Loan (2000), “Ảnh hƣởng của quan niệm thẩm mĩ cổ phƣơng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Đông trong việc sử dụng điển cố”, Tạp chí Văn học, số 3.

113

36. Nguyễn Lộc (1997), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế

kỷ thứ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

37. Bùi Văn Lợi (1999), “Mối quan hệ giữa tính chân thực lịch sử và hƣ cấu

nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX”, Tạp

chí Văn học, số 9.

38. Phƣơng Lựu (chủ biên) (2002), Lý luận văn học, Tập 1, Nxb Đại học Sƣ

phạm, Hà Nội.

39. Phƣơng lựu (2005), Lý luận văn học cổ điển phương Đông, Tập 1, NXb

Giáo dục, Hà Nội.

40. Đặng Thai Mai (1961), “Mối quan hệ lâu đời và mật thiết giữa văn học

Việt Nam và văn học Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 7.

41. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn, tư tưởng và phong cách (tái bản),

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

42. Nguyễn Đăng Na (2000), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Tập 3,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

43. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

44. Trần Nghĩa (chủ biên) (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam,

Tập 1, Nxb Thế giới, Hà Nội.

45. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, danh mục và phân

loại”, Tạp chí Hán Nôm, số 3.

46. Trần Nghĩa (1997), Nguồn gốc tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam sách Tổng

tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Tập 1, Nxb Thế giới, Hà Nội.

47. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, nội dung và nghệ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thuật”, Tạp chí Hán Nôm, số 4.

114

48. Trần Nghĩa (1999), “Chỗ khác nhau giữa tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam

và tiểu thuyết cổ các nƣớc trong khu vực”, Tạp chí Văn học, số 4.

49. Bùi Văn Nguyên (1987), Lịch sử văn học Việt Nam, Tập 2, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

50. Charles Fourniau (1998), “Thƣ gửi từ Pháp”, Tạp chí Xưa và Nay, số 55.

51. G. N. Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu khoa học, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

52. Nguyễn Hữu Sơn (1988), “Đặc điểm văn học Việt Nam thế kỷ XVI – các

bƣớc nối tiếp và phát triển”, Tạp chí Văn học, số 5.

53. Nguyễn Hữu Sơn (1990), “Khảo sát cái nhìn đạo lý trong văn học cổ điển

dân tộc”, Tạp chí Văn học, số 6.

54. Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Về thi pháp và việc nghiên cứu văn học trung

đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số 7.

55. Nguyễn Hữƣ Sơn ( 2005), Văn học trung đại Việt Nam - Quan niệm con

người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

56. Trần Đình Sử (chủ biên) (1987), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

57. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

58. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

59. Gerard Sasger (2002), “Quanh việc đánh giá nhân vật Lê Hoan trong

lịch sử cận đại”, Tạp chí Xưa và Nay, số 110.

60. Bùi Duy Tân (2005), Theo dòng khảo luận văn học trung đại Việt Nam,

Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

61. Bùi Duy Tân (2006), “Mối quan hệ về thể loại giữa văn học Trung Quốc

và văn học Việt Nam thời trung đại: Tiếp nhận - cách tân - sáng tạo”,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tạp chí Văn học, số 1.

115

62. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa thông tin, Hà

Nội.

63. Chƣơng Thâu (1999), “Đọc Việt Lam xuân thu (bản Duy Tân), nghĩ về

ngƣời khắc in công bố và một vài nhân vật thời đại”, Tạp chí Văn học,

số 8.

64. La Quán Trung (2006), Tam quốc diễn nghĩa, Tập 2 (Phan kế Bính dịch),

Nxb Văn học, Hà Nội.

65. La Quán Trung (2006), Tam quốc diễn nghĩa, Tập 3 (Phan Kế Bính dịch),

Nxb Văn học, Hà Nội.

66. Lê Trí Viễn (2000), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Văn nghệ

thành phố Hồ Chí Minh.

67. Trần Ngọc Vƣơng (2003), “Một số vấn đề liên quan đến tính đặc thù của

văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số 5.

68. Trần Ngọc Vƣơng (chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỷ X - XIX,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

116