ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

===***=== ĐÀO THANH NGA

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ

TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO

TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành:Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 34

Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS Hà Văn Đức HÀ NỘI - 2010

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

===***=== ĐÀO THANH NGA

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ

TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO

TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành Văn học Việt Nam

HÀ NỘI - 2010

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 3

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 3

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 4

3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 11

4. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 12

5. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................. 12

6. Cấu trúc luận ................................................................................................ 12

NỘI DUNG ......................................................................................................... 13

CHƢƠNG 1. NGƢỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN

NAM CAO ......................................................................................................... 13

1.1. Điểm nhìn tự sự .......................................................................................... 15

1.1.1. Trần thuật theo điểm nhìn khách quan .................................................. 17

1.1.2. Trần thuật theo điểm nhìn chủ quan ...................................................... 23

1.1.3. Di chuyển điểm nhìn ................................................................................ 28

1.2. Vai trò ngƣời kể chuyện ............................................................................ 34

1.2.1. Người kể chuyện trong sứ mệnh tạo ra mạch tự sự độc đáo hấp dẫn .. 35

1.2.2. Người kể chuyện mang tiếng nói, quan điểm của tác giả

về cuộc sống con người và nghệ thuật .............................................................. 39

1.3. Tiểu kết ........................................................................................................ 41

CHƢƠNG 2. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN TRONG

TRUYỆN NGẮN NAM CAO ........................................................................... 43

2.1. Cốt truyện ................................................................................................... 43

2.2. Những yếu tố tham gia tổ chức, cấu trúc cốt truyện .............................. 45

2.2.1. Sự kiện- tình tiết- chi tiết ......................................................................... 45

2.2.2. Kết cấu ...................................................................................................... 46

1

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

2.2.3. Biến cố- tình huống…………………………………………………..47

2.3. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc

Cách mạng…………………………………………………………………..49

2.3.1. Cốt truyện tâm lý và những kiểu kết cấu đặc sắc……………………50

2.3.2. Triển khai các chi tiết, tình tiết, sự kiện trong việc phản ánh hiện

thực và nắm bắt nội tâm…………………………………………………….62

2.3.3. Xây dựng tình huống độc đáo thử thách nhân vật- sức đột phá của

tình huống rất lớn…………………………………………………………...68

2.4. Tiểu kết…………………………………………………………………78

CHƢƠNG 3. NGÔN NGỮ TỰ SỰ VÀ GIỌNG ĐIỆU TỰ SỰ TRONG

TRUYỆN NGẮN NAM CAO……………………………………………...80

3.1. Giọng điệu tự sự trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng….80

3.1.1. Tính phức điệu hóa…………………………………………………..83

3.1.2. Các sắc thái của giọng điệu………………………………………….89

3.2. Ngôn ngữ tự sự trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng…...98

3.2.1. Ngôn ngữ văn xuôi đóng góp vào việc xây dựng và phát triển văn

xuôi mới……………………………………………………………………..99

3.2.2. Sự sinh động gần gũi với ngôn ngữ hiện thực đời sống…………...102

3.2.3. Ngôn ngữ nhân vật độc đáo………………………………………...114

3.3. Tiểu kết………………………………………………………………..117

KẾT LUẬN………………………………………………………………..119

TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………..123

2

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong bản tự thuật Nam Cao gửi cho Ban tổ chức Hội văn nghệ Việt

Nam ngày 10/4/1950, cả một đời văn được tóm tắt như sau: "Bắt đầu viết từ

năm 1940. Ngoài những truyện ngắn đăng trên tờ Tiểu thuyết Thứ Bảy và một

số sách nhi đồng (Truyền Bá, Hoa Mai) không xuất bản được tác phẩm nào

đáng kể. Tuy nhiên, trong thời kỳ ấy đã viết được một số tiểu thuyết dài

nhưng vì bị kiểm duyệt bỏ hay vì dài quá không in được: Ngày lụt, Truyện

người hàng xóm, Sống mòn...(trừ bản thảo Sống mòn vẫn còn giữ được, còn

mất hết vì đã bán cho các nhà xuất bản cả rồi)"…[34, tr.11].

Giáo sư Phong Lê cũng từng nhận xét về một sự nghiệp như vậy có gì

đáng được để ý đối với người đương thời bên những tác phẩm của Tự Lực

văn đoàn, những Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng... cũng

là xứng hợp với tâm lý và tính cách Nam Cao: Nhũn nhặn, rụt rè, ít nói và ít

khi nói to, hay đỏ mặt! Cái đức nhũn nhặn và khiêm tốn này Nam Cao trung

thành cho đến hết tuổi 35 khi chấm hết cuộc đời mình.

Có thể nói trong đời tư và sự nghiệp văn học, Nam Cao luôn là một con

người mang nặng trong mình những nỗi niềm day dứt khắc khoải. Tất cả

những vấn đề thuộc về con người, làm cho con người không được hạnh phúc

Nam Cao không bao giờ nguôi nghĩ về điều ấy.

Giá trị tác phẩm của ông luôn và sẽ còn được khẳng định theo thời

gian, một phần trong đó đã đi vào cuộc sống làm nên những chuẩn mực,

những điển hình. Chúng ta không bao giờ quên được Chí Phèo, Thị Nở, Bá

Kiến, lão Hạc...trong những tác phẩm của ông cùng với chị Dậu - nhân vật

của nhà văn Ngô Tất Tố hay Xuân tóc đỏ trong tác phẩm của Vũ Trọng

Phụng.

3

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Nam Cao sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết đều thành công nhưng

nhiều hơn cả vẫn là truyện ngắn. Sự hấp dẫn trong truyện ngắn của ông không

chỉ thể hiện qua những tầng ý nghĩa sâu xa, có sức khái quát lớn mà còn đặc

sắc bởi chính những thành tố cấu trúc nội tại của truyện kể. Tôi muốn đi sâu

nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao trước Cách mạng

tháng Tám để làm sáng tỏ điều ấy và để có cái nhìn toàn diện hơn về giá trị

sáng tác của ông và mong là công trình nghiên cứu này có đóng góp nhất định

trong quá trình hiểu về sáng tác của nhà văn.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Giới thiệu khái niệm tự sự học

2.1.1. Quan niệm tự sự học

Tự sự học cần được phân biệt với trần thuật học, trần thuật học vốn là

một thuật ngữ của cú pháp học, các nhà lý luận cấu trúc đem mô hình trần

thuật của ngôn ngữ học vận vào tác phẩm văn học tự sự, xem các văn bản đó

như một loại câu, cho nên họ có xu hướng gọi đó là trần thuật học. Khuynh

hướng ngữ học hoá ấy tạo một cách hiểu hẹp không nên có. Một số nhà ngữ

học xem trần thuật học là một bộ phận của ngôn ngữ học diễn ngôn đem vận

dụng vào văn học. Trần thuật học trong ý thức một số nhà nghiên cứu chỉ

nghiên cứu diễn ngôn, lời kể với những người kể, điểm nhìn...trong khi đó tự

sự học bao gồm cả hệ thống sự kiện, cách tổ chức các sự kiện đó, các mô típ

truyện, sự phân loại chúng, lịch sử vận dụng của tự sự...những vấn đề rộng

lớn hơn trần thuật rất nhiều. Đồng thời khái niệm tự sự xưa nay không bao giờ

chỉ riêng loại hình nghệ thuật tự sự, phân biệt với trữ tình và kịch. Tự sự là

một phương thức biểu đạt mà văn học, báo chí, thông tin, lịch sử đều sử dụng.

Ngày nay, vận dụng ngôn ngữ học nghiên cứu văn học là xu hướng

chung của thời đại, nhưng đồng nhất nghiên cứu văn học vào ngữ học là

4

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

không cần thiết. Trần thuật học có một vị trí không thể thiếu trong tự sự học

và ta cũng cần có sự phân biệt rõ ràng giữa hai thuật ngữ này.

Tên gọi Tự sự học (Narratology) là do nhà nghiên cứu Pháp gốc

Bungari Tz.Todorov đề xuất năm 1969 trong sách Ngữ pháp “Câu chuyện

mười ngày”, làm cho ngành nghiên cứu tự sự trước nay có được một cái tên

chính thức và trở thành một khoa nghiên cứu có tính độc lập vì nội hàm văn

hoá của nó. Kể từ khi ông đề xuất, lý luận tự sự đã thay thế cho lý luận về tiểu

thuyết và trở thành một bộ môn nghiên cứu liên ngành có tính quốc tế, nó liên

ngành vì nghiên cứu tự sự học phải liên kết với ngôn ngữ học, sử học, nhân

loại học, tự sự học không đóng khung trong tiểu thuyết mà vận dụng cả vào

các hình thức "tự sự" khác, như tôn giáo, lịch sử, điện ảnh, triết học, chính trị,

khoa học. Ngày nay, tự sự không còn giản đơn là việc kể chuyện mà nó là

một phương pháp không thể thiếu để giải thích, lí giải quá khứ, có nguyên lí

riêng. Roland Barthes nói: "Đã có bản thân lịch sử loài người, thì đã có tự sự".

Tuy vậy, trong các hình thức tự sự, chỉ có tự sự văn học là phức tạp nhất,

đáng để nghiên cứu nhất, làm thành đối tượng chủ yếu của tự sự học.

Tự sự học đã có từ xưa. Từ Platon, Aristote, người ta đã sớm phân biệt

được các loại tự sự. Tuy vậy, phạm vi quan tâm không ra ngoài giới hạn tu từ

học. Tự sự học được định hình từ những năm 60-70 của thế kỷ XX ở Pháp và

dần lan rộng trên thế giới, đến những năm 80-90 của thế kỷ XX và cho đến

nay tự sự đã từ giai đoạn kinh điển của chủ nghĩa cấu trúc bước sang giai

đoạn hậu kinh điển, mở ra nhiều giả thiết nghiên cứu mới, cách nhìn mới,

phương pháp luận mới. Đó chính là một quá trình đổi thay hệ hình lý thuyết,

các tầng bậc và phương pháp nghiên cứu của tự sự.

Hệ hình tự sự học kinh điển tập trung nghiên cứu cấu trúc của truyện,

mối quan hệ của các sự kiện tạo nên truyện. Các đại diện tiêu biểu là

Shklovski, B.Tomashevski, V.Propp, Tz.Todorov...Tz.Todorov định nghĩa:

5

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

"Tự sự học là lý luận về cấu trúc của tự sự. Để phát hiện cấu trúc và miêu tả

cấu trúc ấy, người nghiên cứu tự sự đem hiện tượng tự sự chia thành các bộ

phận hợp thành, sau đó cố gắng xác định chức năng và mối quan hệ qua lại

giữa chúng"[43,tr.9]. Các nhà nghiên cứu có hoài bão tìm ra ngữ pháp phổ

quát của truyện để phân tích truyện được nhanh chóng dễ dàng nhưng thực tế

lại không như mong muốn.

Tự sự học kinh điển trong giai đoạn tiếp theo đó đã nghiên cứu diễn

ngôn tự sự, tức là ngôn ngữ trần thuật và các yếu tố tạo nên nó: người kể,

hành động kể, điểm nhìn, giọng điệu...đó là những khái niệm công cụ rất hiệu

quả để phần tích diễn ngôn tự sự và đọc hiểu văn bản tự sự. Tuy nhiên đối

tượng nghiên cứu của tự sự học kinh điển chủ yếu là các tác phẩm tương đối

đơn giản như truyện cổ tích, truyện kể thời Phục Hưng nên không thích hợp

với các hình thức tự sự phức tạp. Các công trình tự sự hậu kinh điển đều cố

gắng khắc phục các nhược điểm đó.

Nhà nghiên cứu Hà Lan Mieke Bal đã kết hợp nghiên cứu cấu trúc

chuyện với văn bản và định nghĩa khác hẳn Todorov: "Tự sự học là lý luận về

trần thuật, văn bản trần thuật, hình tượng, hình ảnh sự vật, sự kiện cùng sản

phẩm văn hoá “kể chuyện”" [43,tr.12]. Bà chia tự sự làm ba tầng bậc: văn bản

trần thuật (narrative text), chuyện kể (story), chất liệu (fabula). Công trình của

bà được đánh giá là đã cung cấp một hệ thống khái niệm được định nghĩa khá

chính xác, chặt chẽ và hệ thống, có thể làm cơ sở cho các công trình nghiên

cứu tự sự.

Tự sự học hậu kinh điển còn quan tâm đến mối quan hệ giữa tự sự và

tiếp nhận, các quy luật động trong tự sự, mở rộng phạm vi liên ngành của tự

sự học hay các khuynh hướng mới như tự sự học so sánh, tự sự học văn hoá

học...Tự sự học đến nay vẫn nhận được sự quan tâm nghiên cứu rộng rãi trên

thế giới.

6

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

2.1.2. Tự sự học ở Việt Nam

Tự sự học khi được giới thiệu vào Việt Nam đã được hưởng ứng rộng

rãi của giới nghiên cứu, đặc biệt là các trường đại học. Hội thảo Tự sự học

năm 2001 tại Đại học sư phạm Hà Nội và việc xuất bản tập công trình tuyển

chọn Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử (Trần Đình Sử chủ biên) đã

đánh dấu một bước khởi đầu mới trong nghiên cứu tự sự học ở nước ta có rất

nhiều nhà nghiên cứu tiến hành dịch thuật các công trình của các tác giả trên

thế giới như Mieke Bal, Roland Barthes, Hayden White...Các nhà nghiên cứu

cho thấy đối tượng tự sự học không chỉ là ngữ pháp tự sự nói chung mà còn là

thi pháp tự sự của các tác giả cụ thể, ngôn ngữ tự sự của các thể loại tự sự, các

loại hình tự sự, mô hình tự sự của các giai đoạn phát triển văn học, sự tiếp

nhận tự sự và cách tác động đến người đọc của tự sự.

GS. Trần Đình Sử xem tự sự học là một nhánh của thi pháp học hiện

đại nghiên cứu cấu trúc văn bản tự sự và các vấn đề có liên quan. Tác giả

phân biệt "cấu trúc lời văn", "cấu trúc sự kiện", phân biệt giữa "kể cái gì" và

"kể như thế nào".

Các nhà nghiên cứu cho rằng cần phải xây dựng một hệ thống thuật

ngữ tiếng Việt về tự sự học, ta cần giới thiệu, phiên dịch, nghiên cứu, thử

nghiệm ở những mức độ mới để không chỉ thấy đơn giản một chiều là kĩ thuật

trần thuật các thể loại, các nhà văn trong lý thuyết mà còn thấy cả truyền

thống văn hoá ở đằng sau nó. Việc này có ý nghĩa quan trọng giúp liên kết các

nhà nghiên cứu văn học Việt Nam với các nhà ngữ học, rộng hơn là các nhà

văn hoá học để cùng tìm hiểu khám phá thêm về truyền thống văn học, bản

sắc dân tộc trong lĩnh vực tự sự.

Như vậy, dựa trên những vấn đề lí luận tự sự học, người viết triển khai

luận văn theo hướng chú trọng cấu trúc sự kiện (kể cái gì) và cấu trúc lời văn

7

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

(kể như thế nào) qua hình tượng người kể chuyện, cốt truyện, ngôn ngữ -

giọng điệu trong các truyện ngắn Nam Cao trước Cách mạng.

2.2. Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao.

Nam Cao khai sinh văn nghiệp từ 1936 với truyện ngắn Cảnh cuối

cùng (bút danh Thuý Rư), in trên Tiểu thuyết Thứ Bảy, tiếp đó là Hai cái xác,

rồi từ nguồn mạch ban đầu ấy các sáng tác tiếp theo của nhà văn, kể cả thơ và

truyện cho thiếu nhi với các bút hiệu khác nhau lần lượt ra mắt bạn đọc. Sinh

thời tác phẩm của ông chưa được người cùng thời đánh giá xứng đáng, sự

nghiệp sáng tác của ông không dài, trong đó số lượng tác phẩm cũng không

nhiều nhưng thành quả văn học ông để lại cho chúng ta lại rất lớn.

Đã có hàng trăm bài viết và sách viết về nhà văn, tiêu biểu là các công

trình: Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc - Hà Minh Đức, Nam Cao, đời

văn và tác phẩm - Hà Minh Đức, Nam Cao, phác thảo sự nghiệp và chân

dung - Phong Lê, Nghĩ tiếp về Nam Cao - Hội nhà văn, Nam Cao - Nhà văn

hiện thực xuất sắc, nhà văn nhân đạo chủ nghĩa lớn - Trần Đăng Xuyền, Chủ

nghĩa hiện thực Nam Cao - Trần Đăng Xuyền, Nam Cao về tác gia và tác

phẩm - Bích Thu sưu tầm, tuyển chọn. Đặc biệt cuốn Nam Cao về tác gia và

tác phẩm là một tài liệu quý cho người nghiên cứu.

Đây là những công trình khoa học toàn diện và hệ thống của những

chuyên gia hàng đầu đã gần 40 năm đầu tư với di sản văn học phong phú và

đặc sắc của Nam Cao. Trong quá trình nghiên cứu, GS. Hà Minh Đức đã luôn

luôn nỗ lực tìm hiểu và ghi nhận những giá trị văn hóa phong phú và tiềm ẩn

của tác phẩm Nam Cao. Ông cho rằng, qua thời gian và những đổi thay của xã

hội, tác giả Nam Cao “vẫn ở giữa chúng ta và ngày càng được quý mến”. Còn

GS. Phong Lê thì “nghiện” đọc Nam Cao, ông nhấn mạnh đọc văn Nam Cao

không phải chỉ biết được “nội dung” mà thực chất để chiêm nghiệm các ý

tưởng của Nam Cao, những ý tưởng cùng với cách thể hiện và dẫn dắt câu

8

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

văn trong cách viết của tác giả là “bí quyết” cho một sự hấp dẫn thực sự dài

lâu.

Khi viết lời giới thiệu cho tập Đôi lứa xứng đôi (1941) nhà văn Lê Văn

Trương cho rằng Nam Cao đã dám nói và dám viết những cái khác người,

đem cho người đọc những khoái cảm mới mẻ và Nam Cao là một con người

can đảm. Nhà văn Vũ Bằng rất mến mộ Nam Cao, ngay khi đọc được một

truyện của nhà văn, Vũ Bằng đã thích lối hành văn với những câu kệch cỡm,

nghịch ngợm, có khi dớ dẩn nhưng đậm đà có duyên.

Kể từ khi xuất bản tập Đôi lứa xứng đôi phải hơn nhiều năm sau, qua

những xói mòn, thử thách của thời gian cùng với sự vận động của đời sống

văn học, giá trị của nhà văn mới thực sự được khẳng định. Tác phẩm của Nam

Cao được in lại, tiểu thuyết Sống mòn ra mắt độc giả (1956), cùng với những

hồi ký, tiểu luận của Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài,

Nguyên Hồng, chuyên luận của GS. Hà Minh Đức năm 1961 khơi dòng

nghiên cứu về Nam Cao và trải qua các lần làm tuyển tập Nam Cao năm

1975, năm 1987, 1988, 1997 thì văn chương Nam Cao được định vị vững trãi

trong lòng mọi thế hệ bạn đọc.

Giới phê bình hiện đại đã nghiên cứu Nam Cao trên nhiều cách tiếp cận

mới về phong cách, thi pháp, ngôn ngữ, góp phần khơi sâu và khám phá những

biểu hiện độc đáo, tài hoa trong phong cách nghệ thuật của nhà văn; từ cách tạo

dựng hoàn cảnh đến nét đặc trưng trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nam

Cao…Khai thác vào những vỉa mới của giá trị, những người nghiên cứu cảm

nhận được tính văn xuôi trong phong cách nghệ thuật, trong văn Nam Cao, một

thứ văn xuôi tự nhiên như lời ăn tiếng nói hàng ngày mà soi kỹ lại thấy chữ

nghĩa rất chỉnh, tiếng nói nhân vật và tiếng nói tác giả hòa quyện, đan xen tạo

nên một thế giới đa thanh, phức điệu mà chỉ có văn xuôi hiện đại mới có.

9

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Về nghệ thuật tự sự trong tác phẩm của Nam Cao, các nhà nghiên cứu đã

đề cập ở từng góc độ, về ngôn ngữ, về giọng điệu, người kể chuyện…

Nhà nghiên cứu Trần Đăng Xuyền phát hiện ra một nét mới về cốt

truyện trong tác phẩm Nam Cao: "...Xét cho tới vùng, cái quan trọng nhất trong

tác phẩm không phải là bản thân sự kiện, biến cố tự thân mà là con người trước

sự kiện, biến cố. Vì vậy, trong sáng tác của Nam Cao, hứng thú của những chi

tiết tâm lý thường thay thế cho hứng thú của chính bản thân các sự kiện, biến

cố ..."  33, tr.157.

Nhà nghiên cứu Phong Lê trong bài viết Nam Cao - nhìn từ cuối thế kỷ

đã nhận xét về văn Nam Cao: "...Ở văn Nam Cao gần như có đủ các chất liệu:

hài và bi, trào phúng và chính luận, triết lý và trữ tình, nghịch dị và nhàm tẻ,

thô nhám và chất thơ... cho đến nay, sau hơn nửa thế kỷ, bất chấp mọi biến

động xã hội, ngôn ngữ Nam Cao vẫn cập được các bến bờ thời sự" 33,tr.113.

Vấn đề điểm nhìn gắn với người kể chuyện, về đối thoại đã được nhà

nghiên cứu Trần Đình Sử phân tích rất tâm đắc trong những truyện ngắn của

Nam Cao.

Có một số nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu về không gian- thời gian tự sự

trong văn Nam Cao. Nhà nghiên cứu Đào Duy Hiệp trong cuốn Phê bình văn

học từ lý thuyết hiện đại tiếp cận vấn đề thời gian trên cơ sở ứng dụng lý thuyết

của Genette trên ba cấp độ: trật tự, thời lưu, tần suất để phân tích truyện Chí

Phèo. Bài viết cho thấy trong một văn bản tự sự, người nghiên cứu luôn phải

tìm tòi khám phá về nghệ thuật thời gian ở tác phẩm Nam Cao chứ không chỉ

đơn thuần nghiên cứu thời gian xuất phát từ nội dung, không chỉ khảo sát các

từ ngữ chỉ thời gian để tìm sự vận động của cốt truyện. Những trang văn của

Nam Cao thấm đẫm nước mắt xót xa, buồn tủi cho kiếp người. Kiếp người như

Chí Phèo ám ảnh mãi trong ta cũng bởi thời gian mang đậm chất suy tư về cuộc

sống và con người của người sinh ra nó. Đây là nhân vật say độc nhất vô nhị

10

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

trong văn học Việt Nam bắt đầu ngay từ những dòng đầu tiên của tác phẩm,

say trong suốt hơn ba mươi trang thời gian văn bản, và còn say cho đến khi hắn

kết thúc cuộc đời.

Dựa trên khái niệm đưa ra của R.Barthes, nhà nghiên cứu Nguyễn Thái

Hoà với bài viết Chức năng chỉ dẫn trong đoạn mở đầu truyện ngắn Nam Cao

đã làm sáng rõ hơn tài năng của nhà văn là “một trong những người kể chuyện

hay nhất của thế kỷ”. Bằng lí thuyết tự sự học, dựa trên sự thống nhất những

khái niệm như “những tương quan có tính hoán dụ” và “những tương quan có

tính ẩn dụ”, ông đã phân tích những chỉ dẫn trong truyện ngắn Nam Cao có sức

mạnh thu hút, ám ảnh bạn đọc, giúp bạn đọc có một phương pháp khi tiếp

nhận tác phẩm và hiểu được phong cách, giọng kể của tác giả.

Nói chung, các nhà nghiên cứu đã vận dụng lý thuyết tự sự học để tìm

hiểu, phân tích những khía cạnh khác nhau trong tác phẩm của Nam Cao, có

người đi sâu tìm hiểu một vấn đề của tự sự như điểm nhìn hay người kể chuyện

và cũng có những người chỉ đề cập đến một số vấn đề của tự sự như một khía

cạnh trong bài nghiên cứu của mình.

Trong luận văn này, người viết tìm hiểu về nghệ thuật tự sự trong mảng

truyện ngắn. Luận văn không đi sâu phân tích tất cả các truyện ngắn, tiểu

thuyết, truyện dài của ông mà chỉ là ở mảng truyện ngắn trước Cách mạng.

Người viết nghĩ để làm sáng tỏ cái hay và độc đáo hay trong những truyện

ngắn của Nam Cao bằng lý thuyết tự sự học thì cũng đã góp phần không nhỏ

trong việc nghiên cứu hiện nay về tài năng lớn này.

3. Mục đích nghiên cứu

Luận văn tìm hiểu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao nhằm

làm rõ phong cách tự sự độc đáo của tác giả, cố gắng tìm cách tiếp cận mới,

khai thác những bình diện mới, những đặc điểm cơ bản trong nghệ thuật tự sự

11

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

như người kể chuyện, cốt truyện, ngôn ngữ…để thấy được vai trò của chúng

trong việc tạo nên giá trị tác phẩm.

4. Phạm vi nghiên cứu

Nam Cao sáng tác tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện dài…nhưng luận văn

chỉ khảo sát và nghiên cứu nghệ thuật tự sự biểu hiện trong thể loại truyện

ngắn: những truyện ngắn được sáng tác trước Cách mạng tháng Tám in trong

Tuyển tập Nam Cao - Tập 1, 2 – GS. Hà Minh Đức biên soạn.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn kết hợp vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp thống kê - phân loại.

- Phương pháp phân tích tổng hợp.

- Phương pháp so sánh - đối chiếu.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo nội dung chính

được triển khai trong 3 chương.

Chương 1. Người kể chuyện trong truyện ngắn Nam Cao.

Chương 2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Nam Cao.

Chương 3. Giọng điệu tự sự và ngôn ngữ tự sự trong truyện ngắn Nam Cao.

12

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

NỘI DUNG

CHƢƠNG 1

NGƢỜI KỂ TRUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO

Vấn đề người kể chuyện là một vấn đề trung tâm trong lí thuyết tự sự -

đó là hình tượng ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất

hiện khi nào câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó

có thể là hình tượng của chính tác giả xưng "tôi", dĩ nhiên không nên đồng

nhất hoàn toàn với tác giả ngoài đời, có thể là một nhân vật đặc biệt do tác giả

sáng tạo ra (ví dụ: người điên trong Nhật ký người điên của Lỗ Tấn) hoặc có

thể là một người biết một câu chuyện nào đó. Một tác phẩm có thể có một

hoặc nhiều người kể chuyện.

Từ đầu thế kỉ XX vấn đề người kể chuyện đã được các nhà hình thức

chủ nghĩa Nga và nhóm các nhà nghiên cứu Bắc Âu đặc biệt quan tâm đến.

Tuy nhiên, trải qua công trình của những nhà nghiên cứu thế hệ sau như

W.Kayser, Iu.Lotman. R.Barthes Tz.Todorov, G.Genette, M.Bal…mới đưa ra

được quan điểm tương đối rõ ràng về người kể chuyện.

Tz.Todorov xem "Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến

tạo thế giới tưởng tượng…Không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện.

Người kể chuyện không nói như các nhân vật tham thoại khác mà kể chuyện.

Như vậy, kết hợp đồng thời trong mình cả nhân vật và người kể, nhân vật mà

nhân danh nó cuốn sách được kể có một vị thế hoàn toàn đặc biệt".

42,tr.117.

Trên cơ sở lí thuyết giao tiếp, lí thuyết "giọng" và "với người khác" của

M.Bakhtin, qua thực tế nghiên cứu cấu trúc và chức năng của diễn ngôn, vấn

đề người kể chuyện được đặt ra trong mối quan hệ với người đọc giả định, với

vấn đề "điểm nhìn", các loại hình, cấp độ và tình huống trần thuật được các

13

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

nhà nghiên cứu cho đến cuối những năm 60 xác định một cách tỉ mỉ, cụ thể.

Tuy nhiên trong việc nghiên cứu không khỏi có những điểm cực đoan, khái

niệm "người kể chuyện" trở thành thuần tuý hình thức, được nghiên cứu riêng

biệt tách rời khỏi mối quan hệ với "tác giả" thực tế như chủ thể sáng tạo.

W.Kayser viết về người kể chuyện như một vai trò ước định, nhưng đến

R.Barthes và Tz.Todorov mối quan hệ mật thiết giữa người kể chuyện và tác

giả được xem như đã bị cắt đứt.

Theo quan niệm của G.Genette, người kể chuyện có mối quan hệ chặt

chẽ với câu chuyện của mình và chính vị trí của người kể chuyện trong mối

quan hệ với câu chuyện xác lập nên điểm nhìn của truyện kể. Từ đó,

G.Genette phân biệt hai kiểu người kể chuyện: người kể chuyện từ ngôi thứ

nhất và người kể chuyện từ ngôi thứ ba.

Người kể chuyện từ ngôi thứ nhất là người kể chuyện hiện diện như

một nhân vật trong truyện, vừa đóng vai trò người kể chuyện vừa đóng vai trò

là một nhân vật trong cấp độ hành động.

Người kể chuyện từ ngôi thứ ba là người thứ ba, không phải là nhân vật

trong truyện, có sự "khác nhau tự nhiên" giữa thế giới người kể chuyện và thế

giới hành động.

Nhà nghiên cứu M.Butor có ý kiến: "Tiểu thuyết là một hình thức đặc

biệt của trần thuật. Tam giác tự sự ba chiều" tác giả - nhân vật - độc giả" dần

được thay thế bởi sự huyền diệu và phức tạp hơn của tứ giác tự sự với "tác giả

- người tự sự - nhân vật - độc giả" 39, tr.32. Ý kiến đó đã bao quát được cả

tầm quan trọng của người kể chuyện với các tác phẩm tự sự nói chung và với

truyện ngắn nói riêng.

Trong truyện ngắn Nam Cao, người kể chuyện thực sự là một sản phẩm

của sự sáng tạo nghệ thuật, là một công cụ do nhà văn hư cấu nên để kể một

câu chuyện.Việc tác giả lựa chọn kiểu người kể chuyện nào để kể sẽ mang

14

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

tính quan niệm, nhằm mục đích chuyển tài tư tưởng, nội dung một cách hiệu

quả nhất, có thể là người kể chuyện từ ngôi thứ nhất, người kể chuyện từ ngôi

thứ ba, người kể chuyện bên trong, người kể chuyện bên ngoài.

1.1. Điểm nhìn tự sự

Khái niệm người kể chuyện có liên quan mật thiết với điểm nhìn tự sự,

điểm nhìn là một vấn đề then chốt của kết cấu. M.Bakhtin xem điểm nhìn

chính là lập trường mà xuất phát từ đó câu chuyện được kể, hình tượng được

miêu tả hay sự việc được thông báo. Theo G.Genette có thuật ngữ tương

đương là "sự tiêu điểm hoá" (focalisation) trong đó phân biệt rất rõ giữa người

kể chuyện (narrtor) và người tiêu điểm hoá hay còn gọi là người quan sát

(focalizer) - nhân vật mà nhận thức của anh ta sẽ định hướng cho sự phát triển

của truyện.

Như vậy, điểm nhìn chính là sự lựa chọn cho một cự li trần thuật nào

đó để kể lại câu chuyện, mà có thể giảm thiểu hoặc loại trừ khả năng can thiệp

của tác giả vào các sự kiện miêu tả, làm cho tác phẩm trở nên tự nhiên, gần

gũi với cuộc sống hơn. Tác giả là người đứng sau tác phẩm, tác giả có mặt ở

khắp nơi nhưng lại chẳng ở nơi nào cả, và là người có sức mạnh toàn năng đối

với từng chi tiết hành động, nhân vật…trong tác phẩm của mình. Điểm nhìn

của người kể chuyện trong nghệ thuật tự sự có thể hình dung cũng như điểm

nhìn, góc nhìn của nhiếp ảnh gia hay người họa sĩ trong nghệ thuật nhiếp ảnh,

hội họa. Mỗi người nghệ sĩ đều cần chọn cho mình chỗ đứng, một điểm nhìn

tốt nhất để có thể cảm nhận không gian nghệ thuật một cách tối ưu và sáng

tạo nên những kiệt tác. Sự khác biệt cơ bản ở chỗ, nếu như trong nghệ thuật

hội họa, nhiếp ảnh, điểm nhìn là của chính người nghệ sĩ trong mối quan hệ

với thế giới mà anh ta mô tả, thì trong nghệ thuật tự sự của mỗi truyện kể,

điểm nhìn tự sự là của một người kể chuyện - nhân vật do tác giả hư cấu nên

để kể lại câu chuyện - nhân vật thống nhất nhưng không đồng nhất với tác giả.

15

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Việc lựa chọn điểm nhìn trong tác phẩm tự sự là rất quan trọng, không

phải bất cứ nhà văn nào ngay từ đầu đã lựa chọn được điểm nhìn khi viết tác

phẩm, L.Tônxtôi lúc đầu đã kể chuyện Phục sinh từ điểm nhìn người trần

thuật, bắt đầu từ kỳ nghỉ hè Nêkhliuđốp về thăm dì và gặp Maxlôva, quyến rũ

cô rồi bỏ rơi, ông thấy việc trần thuật bằng phẳng, nhạt nhẽo và đã quyết định

thay đổi điểm nhìn, bắt đầu từ bi kịch của Maxlôva, từ nạn nhân, dưới con

mắt của Nêkhliuđốp, kẻ gây ra sự lỡ làng cho cô gái. Sự việc được hồi tưởng

trong cái nhìn mổ xẻ, hối hận…Tội ác và trừng phạt của Đốtxtôiépxki, Lâu

đài của Kafka lúc đầu được kể bằng ngôi thứ nhất, sau suy tính lại, nhà văn

lại chuyển sang ngôi thứ ba.

Trong truyện ngắn Nam Cao, việc xác định điểm nhìn được thấy rõ qua

việc sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, có thể theo quy

tắc:

- Một văn bản truyện kể theo điểm nhìn chủ quan: Nếu như trong

những câu kể lại hành động truyện có một số câu chứa đại từ nhân xưng ngôi

thứ nhất "tôi", "tôi" đồng nhất với một nhân vật trong truyện.

- Một văn bản truyện kể theo điểm nhìn khách quan: nếu như những

câu kể lại hành động truyện đều là những câu ở ngôi thứ ba (ông, bà, anh, chị,

nó ...); trường hợp đặc biệt, nếu xuất hiện ngôi thứ nhất "tôi, ta" với tư cách

người kể chuyện nhưng không phải là nhân vật nào trong truyện kể.

- Một văn bản truyện kể theo hình thức di chuyển điểm nhìn: nếu văn

bản được kể theo điểm nhìn di chuyển từ điểm nhìn khách quan sang điểm

nhìn chủ quan, từ điểm nhìn tác giả sang điểm nhìn nhân vật, hoặc từ điểm

nhìn của nhân vật này sang điểm nhìn của nhân vật khác.

Khảo sát truyện ngắn Nam Cao từ khía cạnh điểm nhìn chúng ta nhận

thấy có ba tình huống trần thuật.

16

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

1.1.1. Trần thuật theo điểm nhìn khách quan

Đây là cái nhìn bên ngoài không được nhân vật hoá mà ẩn đằng sau là

hình bóng tác giả, như vậy sẽ tạo ra được một khoảng cách nhất định với nhân

vật, sự kiện được miêu tả, nhà văn cố gắng tối đa trong việc giảm sự can thiệp

của mình vào tác phẩm, tạo cho độc giả độ tin cậy cao vào các sự kiện được

kể lại. Truyện được kể từ ngôi thứ ba, người kể chuyện vắng mặt, không qui

chiếu vào một nhân vật nào trong truyện, người kể chuyện chỉ có vai trò dẫn

truyện và là người sắp xếp, thông báo các tình tiết, sự kiện có thể xảy ra hoặc

sắp xảy ra.

Trong truyện ngắn Nam Cao trước Cách mạng, số lượng truyện được

trần thuật theo điểm nhìn khách quan chiếm số lượng lớn hơn những truyện

được trần thuật theo điểm nhìn chủ quan.

Tình huống trần thuật theo điểm nhìn khách quan có hai dạng tồn tại là

trần thuật theo điểm nhìn tác giả và trần thuật theo điểm nhìn bên trong của

nhân vật trong truyện.

1.1.1.1. Trần thuật theo điểm nhìn của tác giả

Ưu thế của cách nhìn thế giới bao quát của tác giả người kể chuyện đặc

biệt phù hợp với việc phát hiện mô tả sức mạnh tinh thần cũng như những

khiếm khuyết của nhân vật. Hình thức này dường như đã có một huyết mạch

nối liền trong các truyện kể truyền thống của văn học Việt Nam, kể từ các

truyện cổ dân gian, truyện kể trung đại đến truyện ngắn hiện đại sau này. Tác

giả có quyền xuất hiện ở mọi nơi, có hiểu biết, phơi bày mọi khía cạnh của

các sự việc, nhân vật.

Những truyện ngắn này của Nam Cao hoàn toàn dùng ngôi thứ ba, hoặc

có tên (Dần, Nhu, Ninh ...) hoặc không tên (hắn, y, bà lão, thằng cu, nó…) có

thể kể đến những truyện như: Ở hiền, Xem bói, Một bữa no, Mua danh ...

17

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Truyện ngắn Mua danh kể về hai nhân vật là Bịch và ông cựu Tuý.

Bịch là kẻ cùng đinh trong làng nhờ chút của "trời cho" - phất lên từ một sào

trầu đã thực hiện một việc mua danh bán tước, cố ngôi lên hàng vai vế trong

làng cho đỡ khổ nhục...và cuối cùng vì dốt nát, vì hèn kém, vì những thói hư

tật xấu của mình mà trở thành thảm hại hơn, khốn quẫn hơn trong cuộc đời.

Cuộc mua danh tưởng trót lọt dễ dàng và Bịch tưởng như được "ngoi" lên một

chút nhưng lại không được như vậy. Nghịch cảnh này dần dần hiện ra trước

mắt người đọc qua điểm nhìn khách quan của tác giả.

Mở đầu tác giả đứng ngoài khách quan kể lại bối cảnh truyện, cảnh ngộ

nhân vật: "Nhà Bịch được một sào trầu tốt. Cái tin ấy đồn đi. Dân làng kháo

nhau rằng hắn có tiền. Mà có tiền là phải. Chỉ tính ra cũng biết. Trầu làng năm

nay chết rất nhiều. Do trận bão vừa qua. Có những giàn nát như tương, chẳng

khác gì có người giật đổ xuống rồi lấy chân mà dận; người ta dỡ róng trúc, cắt

gốc đi, rồi trồng thay thế vào đấy vài trăm con rau diếp, gỡ được đồng nào

hay đồng ấy...".

Cái cảnh nghèo đói của một gia đình cùng đinh được hé mở: "Vợ đi

làm cỏ thuê mỗi ngày được hai hào...Chồng làm nghề xúc dậm. Đêm nào hắn

cũng đi từ chập tối. Rét đến đâu cũng mặc, hắn chỉ bịt mỗi cái khố rách bươm,

cái áo luội thuội cốn lên gần đến nách, lội bì bõm ở ven sông, đạp sùng sũng,

cứ lần mò như một con ma...". Người đọc đến đây nghĩ rằng vậy là vận may

cũng một lần đến với hạng cùng đinh nghèo khó, nhưng mọi việc lại không

đơn giản như thế, cuộc sống luôn có những trớ trêu, khi một gia đình, một anh

cùng đinh trong làng tự nhiên giàu lên có nghĩa là họ không được yên thân

nữa: " Một hôm ông cựu Tuý có họ xa với Bịch, cho tìm Bịch đến...

- Nhà anh được một sào trầu tốt lắm, phải không?

- Bẩm ông, cũng gọi là tốt đấy thôi, chứ so với trầu của người ta thì

chửa nước gì?

18

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

- Chào! Anh kín của vừa vừa chứ! Chửa nước gì thì anh cũng đã bòn

được bạc trăm"...

Như vậy ông cựu Tuý đã nghe được tin Bịch giầu lên và ông cho gọi

Bịch đến để "bán danh". Tác giả lại nhìn sâu vào suy nghĩ của Bịch, đó là

những suy nghĩ cực khổ của một người lép vế trong thôn xã phải chịu đựng

những trò làm tiền của bọn lý cựu. Chúng chỉ cần đánh hơi thấy mùi tiền ở

đâu là lập tức vây bủa lấy mà nóp nặn đến đồng xu cuối cùng. Kết quả là kẻ

cùng đinh, giờ đây khi đã mua danh xong đã trở thành kẻ hơn cả cùng đinh, rõ

ràng anh ta không chỉ đánh mất đi phần của cải vật chất.

Ở một số truyện ngắn khác, Nam Cao thể hiện sự tìm tòi của mình khi

đưa thêm ngôi thứ nhất xưng "ta", "ta" thường xuất hiện ở đầu hoặc cuối câu

chuyện nhằm đối thoại trực tiếp với độc giả về những vấn đề được đặt ra

nhưng thực chất câu chuyện vẫn được kể từ điểm nhìn ngôi thứ ba tác giả, vì

"ta" không là nhân vật nào trong truyện. Rửa hờn, Một truyện xú-vơ-nia

Rình trộm, Tư cách mõ là những truyện tiêu biểu cho truyện kể xuất hiện cả

ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba.

Lấy ví dụ đoạn cuối truyện Tư cách mõ: "Cứ vậy, hắn tiến bộ mãi trong

nghề nghiệp mõ. Người ta càng khinh hắn, càng làm nhục hắn, hắn càng

không biết nhục. Hỡi ôi! Thì ra lòng khinh trọng của chúng ta có ảnh hưởng

đến cái nhân cách của người khác nhiều lắm; nhiều người không biết gì là tự

trọng, chỉ vì không được ai trọng cả; làm nhục người là một cách rất diệu để

khiến người sinh đê tiện...".

Ngôi thứ nhất xưng "chúng ta" xuất hiện một lần duy nhất trong truyện

nhằm đối thoại luận bàn trực tiếp với độc giả về vấn đề: Sự đổi thay của tính

cách trước hoàn cảnh.

Anh Cu Lộ trước kia là người "hiền như đất. Cờ bạc không. Rượu chè

không, anh chỉ chăm chăm, chút chút làm để nuôi vợ, nuôi con". Sau một thời

19

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

gian làm mõ, Cu Lộ đã đổi thay, đã đủ "tư cách mõ chính tông" với tính tình

tham lam, đê tiện. Điều mà tác giả muốn luận bàn với bạn đọc là: sự sa đoạ ấy

không chỉ xảy ra với một con người, một cuộc đời như anh Cu Lộ mà có biết

bao người cũng rơi vào tình trạng như vậy. Những con người có tính cách bị

thay đổi bởi hoàn cảnh, bị hoàn cảnh cuốn theo mà không thể có một bản lĩnh

nào để chống đỡ. Đó cũng là nỗi khổ của những con người như thế.

Có truyện, ngôi nhân xưng thứ nhất "ta" xuất hiện một lần duy nhất và

hướng tới độc giả như là một cách để gây lòng tin khi "ta" có "cự li gần" với

các nhân vật trong truyện. Từ đó "ta" đứng ngoài, không phải là nhân vật của

truyện kể, mọi suy nghĩ, tâm lí, bản chất của các nhân vật được hiện lên qua

hành động, ngôn ngữ...

Ví dụ, trong truyện ngắn Rửa hờn, cuộc đấu đá, trả thù nhau xảy ra

giữa một bên là ông lý, một bên là ông khoá: "Mối hiềm bắt đầu từ một cái

trần ngôn. Ông lý Nhưng ngờ cho ông lý khoá Mẫn làm”. Thực chất cuộc trả

thù này có nguyên do từ việc các ông bóp nặn tiền từ dân và được một vụ trót

lọt: "Nguyên có vợ chồng nhà kia, lúc lấy nhau, bởi quá nghèo nên chẳng

cưới cheo gì. Họ ăn ở với nhau theo kiểu vợ chồng theo. Mới đây chị vợ đẻ

được một đứa con. Ông lý nhà ta biết thóp anh chồng non mặt, nên đến loè

anh ta đủ thứ…". Từ đó cuộc trả thù của hai ông bắt đầu với những suy tính

mưu mô mà không ai chịu ai.

Như vậy, so với cách kể chuyện truyền thống (hoàn toàn ngôi thứ ba),

truyện kể xen kẽ ngôi thứ nhất - ngôi thứ ba theo điểm nhìn tác giả rất ít,

song, sự linh động trong cách đưa cái "ta" khách quan khác nhau trong mỗi

câu chuyện thể hiện sự tìm tòi của nhà văn về cách kể.

20

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

1.1.1.2. Trần thuật theo điểm nhìn bên trong của nhân vật trong truyện.

Kể chuyện theo điểm nhìn bên trong của một nhân vật trong truyện là

cách để tác giả rút ngắn khoảng cách giữa độc giả và nhân vật, tạo cảm giác

không có sự can thiệp của tác giả - người kể chuyện. Người kể chuyện có vẻ

như rút lui hoặc ẩn sau nhân vật chính mà chúng ta gặp, độc giả có thể nhập

thân để hiểu, đồng cảm với nhân vật theo mỗi lứa tuổi, giới tính, suy nghĩ,

ước mơ...

Theo M.Jahn, đó là các truyển kể mà các sự kiện diễn ra trong truyện

được nhìn dưới con mắt của một người phản ánh bên trong ở ngôi thứ ba ...

Một trong những hiệu quả chính của điểm nhìn bên trong là thu hút sự chú ý

tới ý nghĩ của nhân vật - người phản ánh và bỏ qua người kể chuyện và quá

trình sắp xếp trần thuật. Theo quan niệm của M.Jahn, truyện kể theo điểm

nhìn này đem lại những cái nhìn sinh động của các nhân vật trong truyện. Đó

là góc nhìn của những em nhỏ phải chịu khổ sở (Từ ngày mẹ chết, Bài học

quét nhà) của bà lão đáng thương (Một bữa no, Nhìn người ta sung sướng),

hoặc góc nhìn của những người nghèo, người cùng đinh, anh nông dân (Chí

Phèo), của kẻ chỉ thèm miếng ăn (Trẻ con không được ăn thịt chó), hay góc

nhìn của những anh trí thức (Đời thừa, Nước mắt)...

Không có một nỗi buồn nào hơn là nỗi buồn mất mẹ. Qua những trang

viết của tác giả, người đọc như cùng hoà vào tâm trạng của bé Ninh (Từ ngày

mẹ chết), cái chết của người mẹ xảy đến, người cha dần phai nhạt tình cảm

với các con. Đó là nỗi khổ tâm nhất của một đứa bé như Ninh - những cảm

giác mơ hồ, những nỗi sợ xa xăm ập đến với hai chị em Ninh: "Bu chết ngót

ba năm. Thầy bảo thế. Thì ra ba năm cũng dài lắm nhỉ. Ninh tưởng bu Ninh

chết đã lâu lắm. Nhưng chắc gì!...Xưa kia, những ngày bu đi chợ tỉnh, độ gần

tối chưa về Ninh đã thấy mong. Ấy là mới vắng bu có một ngày. Mà nào cũng

đã hết cả ngày. Bây giờ vắng bu bằn bặt những ba năm. Bao nhiêu ngày

21

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

tháng! Ninh thấy lâu là phải. Biết bao giờ mẹ lại về với con? Ninh bâng

khuâng cả người. Y như là nằm mơ. Ấy là Ninh đã nguôi đấy. Hồi mẹ Ninh

mới chết, cứ nghĩ đến mẹ là Ninh khóc. Ninh khóc ằng ặc như người nuốt

phải ngụm gì đắng quá, nó quánh vào cổ họng. Khóc đến lặng người đi,

không còn ra tiếng nữa. Chẳng ngày nào không thế, mỗi ngày hai, ba lần.

Bây giờ thì Ninh không khóc nữa. Nhưng Ninh vẫn còn buồn lắm.

Buồn rũ rĩ Ninh ngẩn ngơ như mất vía. Có lúc Ninh làm gì mà cũng không

biết nữa. Ninh vừa cất con dao hay cái chổi, giá thầy Ninh có hỏi, Ninh đã lại

chẳng biết đâu mà lấy...". Tác giả đã giúp người đọc nhìn sâu vào tâm lý của

nhân vật, đó là tình cảm dành cho mẹ của đứa bé ngây thơ vì nhớ mẹ mà khóc

hết nước mắt, đến nỗi không khóc được nữa thì cả nỗi nhớ và nước mắt lặn

sâu vào trong tâm hồn, khắc sâu vào trí nhớ đứa trẻ.

Trong những truyện ngắn của Nam Cao, sự khổ sở lo nghĩ, ốm yếu

bệnh tật, đói nghèo, dường như hiện hữu ở khắp nơi. Tác giả đã bóc tách từng

mảng của cuộc sống trần trụi, phơi bầy ra trước mắt bạn đọc. Truyện Một bữa

no đề cập đến chuyện muôn thuở của con người là cái ăn, sự đói ăn. Một bà

lão đói triền miên, bà chỉ mong được ăn một bữa, nhưng ngờ đâu sau khi

được ăn no, thoả mãn cơn đói thì bà đã phải lìa bỏ cõi đời. Tâm trạng của bà

lão được tác giả thể hiện rất chân thực: "...Người đói mãi, vớ được một bữa,

tất bằng nào cũng chưa thấm tháp. Những người no mãi, người ta có cần ăn

nhiều lắm đâu. Vậy thì bà cứ ăn đi. Ăn đến kỳ no. Để ăn rình thì ăn ít cũng là

ăn ... Bà ăn như không biết gì. Đến khi bà đã tạm no, thì cơm vừa hết. Chỉ còn

một ít bám dưới đáy và chung quanh nồi. Bà vẫn tiếc… Bà bỗng nhiên nhận

ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở.

Bà tựa lưng vào vách để thở cho thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà

nhọc lắm. Ruột gan bà xôn xao. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ nhưng sợ người ra

22

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

cười. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn

thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao! ...".

Rồi bà lão suốt nửa tháng trời tức bụng, nôn mửa, tả lỵ và bà chết. Cái

khổ và cái đói đeo đuổi cuộc đời con người ta cho đến lúc chết, đáng lẽ ra một

người già như bà lão phải được con cháu mang ơn chăm sóc nhưng không

phải người già nào cũng được hưởng niềm an ủi từ con cháu. Chồng bà chết

sớm, con bà cũng chết, con dâu bà bỏ đứa cháu lại bà nuôi để đi lấy chồng

khác, bà nuôi cháu lớn chút thì cũng phải cho nó đi làm con nuôi lấy tiền

trang trải cuộc sống, ốm đau bệnh tật cũng sinh ra. Chuỗi dài đau khổ đói

nghèo của con người ta cứ kéo dài mãi vô tận như vậy, kết cục của bà lão

khiến ta thấy thật đau xót.

Có thể nói, trong những truyện được trần thuật theo điểm nhìn khách

quan, tác giả có thể lúc thì bước vào thế giới nội tâm của nhân vật này, lúc lại

bước sang thế giới nội tâm của nhân vật khác và tác giả tỏ ra hết sức linh hoạt.

Tuy nhiên, bên cạnh điểm nhìn khách quan, truyện ngắn Nam Cao còn

có những tình huống trần thuật theo điểm nhìn chủ quan.

1.1.2. Trần thuật theo điểm nhìn chủ quan

Điểm nhìn chủ quan trong truyện ngắn Nam Cao xuất hiện ở nhiều hình

thức đa dạng. Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, hiện diện trong truyện, đồng

nhất với một nhân vật trong cốt truyện mà anh ta kể.

Theo M.Jahn, trong trần thuật ngôi thứ nhất, đại từ nhân xưng ngôi thứ

nhất chỉ cả người kể chuyện (cái tôi kể chuyện) và một nhân vật trong câu

chuyện (cái tôi trải nghiệm). Nếu người kể chuyện là một nhân vật chính của

câu chuyện thì anh/cô ta là một cái tôi - vai chính, nếu anh/cô ta là nhân vật

phụ thì anh/cô ta là cái tôi - chứng nhân. Ta có thể khảo sát điểm nhìn chủ

quan trong truyện ngắn Nam Cao trước Cách mạng theo hai dạng đó.

23

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

1.1.2.1. Cái tôi - vai chính

Khá nhiều truyện ngắn xuất hiện điểm nhìn chủ quan ở ngôi thứ nhất

dưới dạng tự truyện, trong đó người kể chuyện là vai chính trong câu chuyện

của anh ta. Cách kể này phá vỡ khoảng cách người trần thuật với câu chuyện

được kể, làm tăng độ tin cậy của câu chuyện.

"Tôi" trong Những truyện không muốn viết đã viết lại chuyện của mình

và tự thú nhận rằng: "Đó chỉ là những chuyện mà thật ra tôi không muốn viết.

Bởi chuyện tôi thì bao giờ nghe cũng buồn". Cái nguyên nhân mà "tôi" đem

chuyện mình ra viết là "tôi" đã viết về nhiều cái khác nhưng toàn bị người ra

vơ lấy nhận là chuyện của người ta và bị người ta trách mắng.

"Thoạt tiên tôi viết chuyện một người đàn ông đã có vợ rồi. Đó chỉ là

người đàn ông rất vô danh. Hắn có thể là tôi, là anh, hay bất cứ một anh nào

có vợ. Nhưng một anh bạn tôi vơ chằng ngay lấy. Ông ta bảo tôi định nói về

ông. Ông hục hặc với tôi. Ông khuyên tôi chớ đem in. Đem in thì vỡ mặt. Tôi

chót dại chưa học võ. Thôi thì đành chiều ông.

Tôi viết chuyện một con chó mực. Tôi thề rằng quả thật đó chỉ là truyện

một con chó mực. Nhưng chuyện vừa in ra thì tôi gặp một thằng say. Hắn trợn

mắt lên. Mắt hắn đỏ ngàu ngàu. Hắn lè nhè hỏi tôi: Sao lại bảo hắn là chó?

Rồi hắn chửi cho tôi một mẻ, vuốt mặt không kịp. Tôi ức quá. Nhưng rồi tôi

lại cười. Tôi lẳng lặng về nhà, lấy giấy bút viết chuyện một thằng say rượu.

Thằng say này say lắm. Nó uống rượu vào rồi nó chửi. Chửi lung tung

cả. Thằng say nào chẳng vậy? Ấy thế mà có một bọn người rất tỉnh kêu bù lu

bù loa lên rằng: Tôi mượn rượu để chửi cả làng nhà họ. Và họ doạ tôi đủ thứ.

Trời đất ơi !...

Vậy thì tôi còn biết viết cái gì? Một anh bạn khuyên tôi đừng đả động

đến một người nào. Cứ viết chuyện buồng cau cây chuối, cục đất, buổi hoàng

hôn hay con lợn. Nhưng biết đâu đấy? Tôi vẫn sợ. Tôi sợ có người nhận mình

24

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

là buồng cau, cây chuối, cục đất, buổi hoàng hôn, hay là con lợn để mà không

bằng lòng. Bởi thế, tuy chẳng muốn, tôi đành lại lấy tôi ra mà viết để cho yên

chuyện".

Tâm sự này của "tôi" quả là cũng giống với tâm sự nhà văn ngoài đời.

Một bạn văn cùng thời Nam Cao là Nguyễn Công Hoan cũng thấy "mình kể

chuyện mình, xưng là tôi, thì dù ai cũng xấu, ngốc dại như người trong

truyện, có bị chạm nọc, họ cũng không giận tác giả đã lật tẩy họ" (Đời viết

văn của tôi).

Trong một số truyện, "tôi" không chỉ trải nghiệm với những câu chuyện

của bản thân mà còn trải nghiệm với cả những cảm xúc của người khác -

những người mà cảnh ngộ số phận của họ còn khổ hơn "tôi" nữa.

"Tôi" trong truyện ngắn Mua nhà luôn cảm thấy mặc cảm trước bạn bè

khi họ tới thăm nhà mình. Khi đến nhà bạn thì bạn có điều kiện đón tiếp thoải

mái nhưng bạn đến nhà "tôi" thì... “tôi bực tức vô cùng” vì “đến nhà tôi, các

anh phải cúi lom khom người để chui vào một cái lều tối om om. Nền nhà

bằng đất nên ẩm ẩm dưới chân. Một mùi mốc khăng khẳng làm các anh nhăn

mũi”. Rồi mưa bão đến, căn nhà bị đổ và vườn tược cũng mất. Một thời gian

sau, "tôi" làm lụng khổ sở ki cóp để mua nhà mới, đó là nhà của "kẻ nhiều

công nợ. Anh ta goá vợ, anh ra phải nuôi hai đứa con thơ dại. Anh ta lại mới

thua xóc đĩa ba, bốn canh mất tất cả đến hai trăm đồng bạc".

Người bán nhà là người bố đang nuôi hai đứa con nhưng anh ta bán nhà

không phải để lo cho con cái hay làm ăn mà để nướng vào anh bạc. Khi vừa

bán nhà xong, bọn chủ sòng biết mùi tiền từ anh ta thì lập tức không để thoát.

Đứa bé con anh ngồi đó và nhìn người ta dỡ ngôi nhà. "Tôi" ngồi đó xem

người ta dỡ và trông đứa trẻ. Nó nghe tiếng dùi đục mà sợ hãi, nó bừng mắt,

môi bụm lại, má phình ra và chạy sang nhà hàng xóm, rồi "tôi" nghe thấy

tiếng trẻ con khóc và hờ mẹ. Lúc đó "tim tôi động một cái giống như bước

25

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

hụt. Rồi nó đập loạng choạng. Tôi hơi lảo đảo. Bây giờ thì tôi không lẩn trốn

những ý nghĩ của tôi được nữa. Tôi ác quá! Tôi phải thú với tôi nhiều rồi…".

Chính sự trải nghiệm qua nỗi mặc cảm của mình "tôi" thấy rằng nỗi

khổ của mình chưa thấm tháp gì so với nỗi khổ của người khác. "Tôi" đã có

những khoảnh khắc cùng chia sẻ, thấu lòng tới tận tâm can với khổ đau của

đứa trẻ, nó đã mất mẹ, mất nhà, mái ấm chở che và giờ đây người cha đã

không quan tâm tới nó nữa. Hạnh phúc như bị giành giật lấy trên tay nó nhanh

đến nỗi khiến lòng "tôi" thấy: hạnh phúc là điều gì đó vô cùng mong manh, dễ

mất, khó đến được với mọi người: “Ở cảnh chúng ta lúc này, hạnh phúc cũng

chỉ là một cái chăn hẹp. Người này co thì người kia bị hở. Đâu phải tôi muốn

tệ? Nhưng biết làm sao được? Ai bảo đời cứ khắt khe vậy? Giá người ta vẫn

có thể nghĩ đến mình mà chẳng thiệt đến ai!”...

Trong truyện Cái mặt không chơi được, "tôi" luôn phải đi tìm một tiếng

đồng lòng với mình nhưng sao thật khó, tất cả chỉ vì tôi có "cái mặt không

chơi được". Bất cứ ai gặp "tôi" lại thấy không thể gần gũi được lâu dài. Con

người đôi khi rất kỳ lạ là đã lấy hình thức, vẻ bên ngoài làm thước đo cho việc

xem xét anh ta có thể là bạn mình hay không. "Tôi" rất buồn, buồn vì không

ai muốn tìm hiểu mình, "tôi" rất muốn được chia sẻ với người khác nhưng họ

cứ lánh xa. Trong cuộc hành trình vào Nam "tôi" mong muốn tìm được bạn

nhưng điều ấy cũng không thể. Cuối cùng "tôi" cũng tìm thấy được người có

thể chia sẻ với mình, gặp một cách giản dị không ai ngờ sau bao lâu tìm kiếm.

Có thể thấy nhân vật "tôi" trong truyện ngắn luôn phải cố gắng, nỗ lực

và trăn trở để vượt qua khỏi những ranh giới nhất định để gần người khác, để

được chứng tỏ mình và muốn họ hiểu được mình. Ranh giới đó chỉ là "cái mặt

không chơi được" của anh ta, mà bao người xa lánh. Ai cũng biết rằng cuộc

sống luôn có những ranh giới, giới hạn, có những điều trong giới hạn đó hết

26

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

sức bình thường, nhưng lại không mấy ai biết vượt qua những rào cản không

đáng có đó để hiểu nhau hơn.

Ngoài những truyện kể từ điểm nhìn của cái "tôi"- nhân vật chính,

nhiều truyện ngắn Nam Cao là những truyện kể từ điểm nhìn của cái "tôi"-

chứng nhân, như là một nhân vật phụ chứng kiến câu chuyện và kể lại.

1.1.2.2. Cái tôi - Chứng nhân

Trong những truyện này, "tôi" vừa là nhân vật phụ, vừa là người kể

chuyện đã chứng kiến trung thực, khách quan mọi chi tiết, sự kiện diễn ra.

Chẳng hạn, khi "tôi" là người thấy cảnh sống cam chịu khổ sở của anh chàng

Phúc (Điếu văn), khi "tôi" chứng kiến một anh chàng viết về truyện tình của

mình (Truyện tình), hay lúc "tôi" là khách mời nhậu bất đắc dĩ của một anh

chàng vất vả kiếm tiền nhưng tiêu tiền trong phút chốc (Thôi đi về).

Khi đặt điểm nhìn từ cái "tôi" kể chuyện, câu chuyện chắc chắn ít nhiều

vẫn mang bản sắc, thái độ, đánh giá của "tôi" về sự kiện. Tính chủ quan thể

hiện ở việc người kể chuyện xen kể, tả và lời bình luận...với giọng chủ quan

của mình, mọi hành động truyện cuối cùng vẫn là được lý giải, soi sáng từ

điểm nhìn chủ quan này.

Trong truyện ngắn Nam Cao, đây có thể là một người kể chuyện cùng

đồng cảm hoặc lạnh lùng trong cách nhìn nhận về câu chuyện.

Ví dụ, để kết luận về cuộc đời, cái chết của một con người đầy khổ sở

cam chịu, người kể chuyện xưng "tôi" gửi gắm nỗi niềm đồng cảm: “Bây giờ

thì sự im lặng bất tuyệt đã bịt chặt đôi tai anh, chán nghe những lời mỉa mai

của đời rồi. Bóng tối đời đã phủ kín đôi mắt anh, mở thao láo nhiều đêm để

tìm trong bóng tối những cảnh nó làm anh nhục nhã. Anh đã có thể dửng

dưng đối với những chuyện của loài người. Vậy thì anh Phúc ơi! Anh hãy

nghỉ cho yên! Những chuyện đời này bây giờ chỉ còn là của chúng tôi. Chúng

tôi, những kẻ đã đau khổ, đã uất ức, đã ước ao, đã khát thèm, đã thất vọng và

27

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

vẫn còn hy vọng mãi và phải hy vọng mãi. Sự đời không thể cứ mù tịt mãi thế

này đâu. Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi. Một mặt trời

mới sẽ mọc lên trên nấm mồ anh và bên trên đầu hai đưa con côi anh để lại.

Một bàn tay bạn bè sẽ nắm lấy bàn tay chúng ta cùng đi tới một cuộc đời đẹp

hơn"(Điếu văn).

Tuy "tôi" không phải là nhân vật chính nhưng điểm nhìn của anh ta

luôn là trung tâm định hướng cho độc giả. Dù "tôi" không kể chuyện mình,

hoặc không trực tiếp tham dự vào câu chuyện thì cũng không thể nói rằng câu

chuyện được kể không có chút gì liên quan đến "tôi". Bởi lẽ, khi câu chuyện

được kể ra có nghĩa là nó không tách rời ý thức của người kể. Đứng ở vị trí

người kể chuyện "tôi" không bị các nhân vật khác nhìn, chỉ có các nhân vật

khác bị nhìn theo quan điểm của "tôi". Vì vậy, điểm nhìn chủ quan cũng thể

hiện rất rõ nét.

1.1.3. Di chuyển điểm nhìn

Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao đa dạng và luôn vận

động, có nhiều tiếng nói vang lên và đối thoại, sự đan xen hòa nhập các tiếng

nói tạo sự thay đổi trong điểm nhìn trần thuật khiến lời văn biến hóa một cách

sinh động. Chẳng hạn, đoạn mở đầu truyện ngắn Chí Phèo:

"Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt

đầu hắn chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào. Rồi hắn chửi đời. Thế

cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất

cả làng Vũ Đại. Nhưng làng Vũ Đại ai cũng tự nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”.

Không ai lên tiếng. Tức thật! Ồ thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã

thế, hắn chửi cha đưa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra

điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không?...".

Đọc đoạn văn thoạt đầu ta cứ ngỡ chỉ có lời của tác giả (người kể

chuyện) đang kể và tả về tiếng chửi của Chí Phèo. Thực ra ở đây có sự kết

28

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

hợp các điểm nhìn: điểm nhìn người kể chuyện, điểm nhìn nhân vật, điểm

nhìn của dân làng tạo sự sinh động trong lời văn để khắc họa chân dung Chí

Phèo. Chân dung ấy hiện lên sinh động là do sự thay đổi điểm nhìn trần thuật.

Nam Cao sử dụng trực tiếp, rộng rãi, thường xuyên lời nửa trực tiếp,

kết hợp đan xen nhuần nhuyễn giữa lời người trần thuật và lời nhân vật. Nó

tạo nên mối quan hệ qua lại giữa các ý thức. Nét độc đáo trong lời văn Nam

Cao là ông sử dụng điểm nhìn nhân vật khác nhau với các ý thức đối thoại với

nhau và đối thoại với người kể chuyện thể hiện sự đồng tình hoặc phủ nhận

giữa các ý thức. Hình thức này miêu tả sự khủng hoảng, dằn vặt, căng thẳng

của nhân vật trong những tình huống tâm lý căng thẳng. Tâm trạng nhân vật

trở nên phức tạp, có cả sự căm ghét cả cay đắng lẫn tủi hờn. Chẳng hạn:

" Hắn thấy mình khổ quá, khổ như một con chó vậy(...) Như thế bởi vì

đâu? Chẳng phải vì vợ con ư? Nhưng nào vợ con có thấu biết cho đâu. Đã

chẳng thèm an ủi một lời vợ hắn còn vơ lấy một sự hắn quên nữa để mà đay

nghiến hắn! Ừ, mà cho rằng hắn không quên nữa, cho rằng hắn không lấy

thuốc cho con là cố ý, mà khỏi mất mấy đồng bạc nữa, thì vợ hắn có nên nói

tệ hắn như vậy không? Hắn hà tiện vì ai?...”( Nước mắt).

Đoạn văn là ý thức của Điền, lời của Điền nhưng nó phát ra trong sự

đối thoại ngầm. Nhưng bé Hường làm lòng Điền dịu lại, Điền đã nghĩ khác về

vợ: “...Ai chả thế? Người không phải là thánh. Sự khổ sở dễ khiến lòng chua

chát”. Lời nửa trực tiếp “ai chả thế...” lại hàm chứa ý thức và giọng điệu tác

giả. Ở đây có sự thỏa hiệp giữa hai ý thức, một bên là đang thanh minh, ăn

năn, một bên như rất cảm thông, chia sẻ.

Cũng có khi vẫn là sử dụng điểm nhìn nhân vật nhưng bên cạnh ý thức

nhân vật là ý thức tác giả không phải là đồng tình mà giễu nhại, khiêu khích

để nhân vật bộc lộ nội tâm của mình (ví dụ đoạn nói về tâm trạng cụ Bá khi

thấy bà Tư đi mãi chưa về)( Chí Phèo).

29

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Sự kết hợp nhiều điểm nhìn trần thuật tạo cho lời văn Nam Cao đa

giọng sinh động.

1.1.3.1. Di chuyển điểm nhìn từ nhân vật này sang nhân vật khác

Những tác phẩm kể theo điểm nhìn đơn nhất, khi câu chuyện được tổ

chức xoay quanh một điểm nhìn duy nhất, nhà văn thường chỉ có thể trình bày

sự kiện, hành động và đối chiếu tâm lý nhân vật đủ để phơi bày bản chất, tính

cách nhân vật ấy. Nhưng với sự chuyển dịch góc nhìn thường xuyên trong tác

phẩm, nhà văn có thể mở rộng tầm khái quát, giúp người đọc tiếp cận sâu hơn

hiện thực để nhận biết bản chất của nó toàn diện hơn.

Tính di động của điểm nhìn thể hiện ở sự thay đổi vị trí quan sát hoặc

vị trí được quan sát. Truyện ngắn Nam Cao có thể nghiệm sự dịch chuyển của

vị trí được quan sát. Ban đầu người kể chuyện hóa thân vào nhân vật nào đó

để nhìn và kể, rồi lại có thể nhập thân vào nhân vật khác. Như vậy, điểm nhìn

của truyện có thể di động theo điểm nhìn bao quát của một người kể giấu

mình, song điểm nhìn không chỉ trượt trên nhiều nhân vật mà còn được trao

cho vài nhân vật trong đó. Những nhân vật ấy là người trực tiếp thể hiện hành

vi quan sát, cảm nhận, đánh giá.

Đón khách gồm hai cảnh huống, tâm trạng khác nhau của nhân vật Sinh

và vợ chồng ông đồ Cảnh. Tình cảm của Sinh với cô Na (con ông bà đồ)

không phải là tình cảm thật, chỉ là trêu nghẹo để mà cười cợt. Ấy vậy mà chỉ

vì một chai rượu dâu, Sinh được cho nhưng không thích, rất muốn đem cho ai

hoặc quẳng đi thì chợt nhớ đến ông bà đồ. Ông bà được y cho rượu lại tưởng

thích con gái mình. Vậy là những cảnh huống tâm lý trái ngược nhau diễn ra:

"…Y quăng chai rượu vỡ xuống ruộng. Thuận tay, y quăng cả cái chai lành,

nhưng lại tiếc của giời. Y ngần ngừ một lúc rồi tặc lưỡi". Thế rồi y nghĩ " Ta

giữ lại" để " biếu ông hàn" hay " chú canh điền nhà ông Hàn" hay " đem phắt

30

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

ra cánh đồng chia cho lũ trẻ" và y nghĩ "sao không để biếu ông đồ nhà cô

Na!".

Trong khi đó vì chai rượu ấy mà vợ chồng ông đồ đã nghĩ nhức đầu:

“Không hiểu cậu phán có lòng thương con bé Na thật hay đùa bỡn vậy?

Nhưng đùa thì nào lại cho ông đồ chai rượu? Cái cổ chai có bọc giấy vàng cẩn

thận, cái nhãn hiệu in đẹp lắm. Chắc là rượu bổ. Có rẻ cũng phải ba, bốn

đồng. Ý tốt người ta có định lấy con mình thì người ta mới chịu bỏ tiền ra

mua biếu chứ! Vả lại, bây giờ những hạng thông, ký, phán lấy vợ nhà quê kể

cũng thường". Kết cục là trong ngày tết, Sinh cưới vợ mà vợ lại không phải là

con gái ông bà đồ, ông bà và cô Na ăn Tết trong cảnh cơm rượu chuẩn bị sẵn

tràn trề " nhưng mà cả một bát họ tiêu vào cái tết!...ông đồ lại nghẹn thêm cái

nữa. Đôi mắt ông ầng ậc nước”. Những thứ cô Na mặc đẹp để đón Sinh cô sẽ

đem đi bán để "lấy tiền đóng họ cho nhà bà lý Vinh".

Trong truyện ngắn Chí Phèo có sự di chuyển điểm nhìn nhân vật Chí

Phèo sang điểm nhìn của Thị Nở và lại đến điểm nhìn của Chí Phèo. Sự di

chuyển điểm nhìn hết sức linh hoạt cho người đọc thấy được những mảng tâm

trạng, những phút giây nghĩ suy, hay phẩm chất sống tốt đẹp của hai con

người này. Chí Phèo là người say triền miên, một anh nông dân cùng đinh

không ai ngó ngàng đến, sống nhờ nghề đâm thuê chém mướn rạch mặt ăn vạ.

Thị Nở là người ngẩn ngơ, xấu xí và cũng không ai để ý. Chỉ sau một đêm ở

bên nhau, Chí Phèo chợt nhận thấy mình muốn trở về với cuộc sống lương

thiện bên cạnh mọi người. Chí Phèo lắng nghe âm thanh của sự sống đang

diễn ra và chợt nhận thấy "hắn già mà vẫn cô độc". "Hắn đã tới cái dốc bên

kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao là chất độc, đầy đọa

cực nhọc mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu báo hiệu rằng cơ

thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một con mưa gió cuối thu cho biết trời giá rét,

nay mùa đông đã đến". Còn Thị Nở, thị nghĩ "Cái thằng liều lĩnh kể ra thì

31

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một

mình...thị kiêu ngạo vì đã cứu sống cho một người. Thị thấy như yêu hắn: đó

là một lòng yêu của một người làm ơn". Thị vẫn tiếp tục nghĩ "Gớm! Sao lại

có thứ người đâu mà lì quá thế! Người ta ngồi đấy mà dám xán lăn ngay vào,

nó chả ngang ngược mà người ta kêu bé, nó lại làm to hơn...Thổ trận ấy thật

là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì thì mới được...".

Thị Nở nấu cháo mang sang cho Chí Phèo và dòng tâm tưởng của Chí lại hiện

ra, điểm nhìn từ Thị Nở lại được di chuyển sang điểm nhìn Chí Phèo: "Hắn tự

hỏi rồi lại tự trả lời : vì có ai nấu cho ăn đâu? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa?

Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay "đàn bà". Hắn nhớ đến "bà

ba", cái con quỷ cái hay bắt hắn bóp chân mà lại kêu bóp lên trên, trên nữa, nó

chỉ nghĩ sao cho thỏa chứ nó có yêu hắn đâu...”.

Như vậy, sự di chuyển điểm nhìn giữa các nhân vật đã tạo điều kiện

cho chính nhân vật được bộc lộ mình một cách tự nhiên nhất, theo GS. Trần

Đình Sử thì: "Luân phiên điểm nhìn tạo hiệu quả đối thoại kịch tính thầm kín"

[40,tr.184].

1.1.3.2. Di chuyển điểm nhìn của tác giả sang điểm nhìn của nhân vật

và ngược lại

Đây là một hình thức mà Nam Cao sử dụng điểm nhìn dịch chuyển với

nhiều người kể chuyện xưng "tôi". Những cái "tôi" này không phải là sự phân

thân của một cái tôi nào đó, mỗi cái tôi được miêu tả như một ý thức. Cách kể

(kiểu truyện lồng truyện) này có chức năng trình bày, cung cấp thông tin về

những sự kiện nằm ngoài tuyến hành động của trần thuật như các sự kiện

trong quá khứ (Đui mù), hoặc làm ngắt quãng để làm rõ kết truyện như

Truyện tình.

Truyện tình được kể lại bởi nhân vật tên Lưu, Lưu viết câu chuyện tình

của mình ra (xưng "tôi") và đưa cho "tôi"- người kể chuyện (đóng vai trò một

32

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

nhân vật trong truyện) đọc. Câu chuyện tình của Lưu kết thúc không có hậu,

Lưu luôn mơ mộng về Kha và mong Kha đáp lại tình cảm của mình, anh đã từ

chối về quê thăm gia đình trong dịp hè để được ở bên bạn gái, nhưng Kha đi

nghỉ mát và để ở nhà một con vẹt của nàng cho anh chàng chăm sóc. Trong

khi đó ở quê, em gái anh chết nhưng không kịp gặp mặt anh lần cuối. Lưu

chưa viết kết cho chuyện mình thì tôi đến. "Tôi" được biết Lưu viết một cái

kết mà theo anh ta nhận là "nếu kể đúng như vậy thì truyện có một tính cách

tầm thường lắm. Vì vậy tôi sẽ viết: tôi hy sinh tình yêu và hạnh phúc đi vì

nàng". Cái kết này trái ngược hẳn với hành động trả thù Kha mà Lưu kể "tôi"

nghe.

Cách kể chuyện như vậy có tác dụng làm cho bạn đọc, bản thân nhân

vật, và chính người kể chuyện nhận thấy những bất ngờ, bản chất rất thật của

sự việc mà không có ý định ngầm ẩn.

Trong Đui mù những sự việc được kể trong quá khứ bởi nhân vật nhằm

mục đích làm rõ thêm sự việc ở hiện tại. Tác giả để “tôi” (người kể chuyện

ngôi thứ nhất) dẫn dắt truyện, "tôi" được mời đến gặp Hùng, Hùng đã kể lại

chuyện tình của mình (nhân vật tự kể chuyện - xưng "tôi"). Anh chua chát

nhận ra rằng : dành hết niềm tin tưởng và lòng yêu thương cho một người

nhưng lại bị chính người đó lừa gạt, Hùng phải chấp nhận một sự thật và

không thể tha thứ trong khi trái tim vẫn rỉ máu. "Tôi" - người kể chuyện đã

biết được một cái kết thật buồn.

Như vậy, điểm nhìn di chuyển từ tác giả sang điểm nhìn nhân vật và

ngược lại được vận dụng linh hoạt trong truyện ngắn Nam Cao.

33

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

1.2. Vai trò ngƣời kể chuyện

Trong tác phẩm văn học, tác giả lựa chọn kiểu người kể chuyện nào để

kể không phải là một sự ngẫu nhiên mà nó mang tính quan điểm, nhằm mục

đích chuyển tải tư tưởng nội dung một cách hiệu quả nhất. Người kể chuyện

là nhân vật trung gian nối liền giữa nhà văn, tác phẩm và bạn đọc. Vì vậy

nghiên cứu vai trò của người kể chuyện cần được xem xét trong ba mối quan

hệ này.

Trước hết, người kể chuyện có vai trò tổ chức, kết cấu tác phẩm.

L.I.Timofeev khẳng định là hình tượng này có tầm quan trọng hết sức to lớn

trong việc xây dựng tác phẩm bởi các quan niệm, các biến cố xảy ra, cách

đánh giá các nhân vật và các biến cố đều xuất phát từ cá nhân người kể.

Mỗi tác phẩm văn học có thể có nhiều khả năng kết cấu, mỗi khả năng

kết cấu thích hợp với một quá trình khái quát nghệ thuật của người nghệ sỹ .

Người kể chuyện phải thay mặt cho nhà văn tìm một kết cấu tối ưu để làm câu

chuyện hấp dẫn lôi cuốn người đọc.

Ngoài ra, người kể chuyện có vai trò dẫn dắt người đọc tiếp cận thế

giới nghệ thuật. Tác giả là người sáng tạo ra tác phẩm nhưng tác giả không

bao giờ xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm đó mà lại hư cấu ra người kể

chuyện để thay mặt mình dẫn dắt người đọc thâm nhập vào thế giới nghệ

thuật. Người kể chuyện là môi giới, gợi mở, giúp người đọc tiếp cận nhân vật,

hiểu nhân vật, rút ngắn khoảng cách với nhân vật, đồng thời hướng người đọc

cùng chia sẻ đồng cảm với những chiêm nghiệm, suy ngẫm của mình về cuộc

đời. Trong nhiều trường hợp, người kể chuyện tiến hành đối thoại, tranh luận

cùng người đọc để kiếm tìm khám phá chân lí cuộc sống.

Một vai trò nữa của người kể chuyện là thay mặt nhà văn trình bày

những quan điểm về cuộc sống, nghệ thuật. Nhà văn không trình bày tư tưởng

của mình bằng những lời phát biểu trực tiếp mà trình bày một cách nghệ thuật

34

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

thông qua các hình tượng do mình hư cấu nên trong đó có hình tượng người

kể chuyện.

Tìm hiểu vai trò người kể chuyện trong truyện ngắn Nam Cao chúng

tôi tập trung hai vấn đề.

1.2.1. Người kể chuyện trong sứ mệnh tạo ra mạch tự sự độc đáo hấp

dẫn

Vai trò tổ chức, kết cấu tác phẩm và vai trò dẫn dắt người đọc tiếp cận

thế giới nghệ thuật trong tác phẩm của người kể chuyện theo chúng tôi cũng

chính là sự mệnh tạo ra một mạch tự sự độc đáo, hấp dẫn của người kể

chuyện. Người kể chuyện ấy vừa tổ chức một câu chuyện kể vừa phải làm sao

để tạo nên sự hấp dẫn thu hút cho truyện, cuốn độc giả vào một mạch tự sự-

vòng xoáy của những gì đang diễn ra trong truyện kể.

Văn Nam Cao có một khả năng truyền cảm kỳ lạ mà bất cứ độc giả nào

cũng sẽ nhận thấy. Những điều ông thể hiện trong tác phẩm là những gì rất

bình thường, có những việc hết sức vụn vặt trong cuộc sống hàng ngày,

nhưng bạn đọc vẫn thấy hấp dẫn không nhàm chán và luôn bị ám ảnh. Bạn

văn cùng thời ông là Nguyễn Công Hoan lại rất quan tâm đến những hiện

tượng che đậy giả dối về cuộc sống thực, khi nào nhà văn cũng muốn bóc trần

nó, bóc trần "cả một thế giới làm trò, cái gì cũng giả dối, lừa bịp, đáng khôi

hài..."[15, tr.295]. Vì thế nhà văn coi cuộc đời là "một sân khấu hài kịch", tác

phẩm của ông có chất kịch rất đậm nét đặc trưng cho khuynh hướng "kịch

hóa" ở giai đoạn 1930 - 1945. Truyện nhà văn Thạch Lam tiêu biểu cho

khuynh hướng "trữ tình hóa". Tự sự kiểu Thạch Lam như một phương thức

gợi ra chủ đề, tự sự ở Nguyễn Công Hoan là một phương thức phơi bày trạng

thái trào phúng của thế giới, một phương thức để con người tự bộc lộ nhân

tính, còn tự sự ở Nam Cao là một phương thức để thể hiện những thảm trạng

của cuộc đời mà ở đó con người phải vật lộn đấu tranh, phải cố giữ lấy những

35

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

phẩm chất người giữa cuộc đời, con người phải nhận thức được trách nhiệm

của bản thân đối với cuộc sống, phải không ngừng vươn lên đấu tranh giữa tốt

- xấu, thiện - ác...để cuộc sống hoàn thiện, trước hết là ý thức được bản thân,

trách nhiệm với bản thân và hướng tới mọi người. Tất cả những gì Nam Cao

muốn gửi gắm đều vì con người, cuộc sống con người, nên mọi thói hư tật

xấu, đói nghèo ốm đau và những thứ tưởng như không có gì để nói vẫn có thể

đưa vào thành truyện.

Người kể chuyện trong truyện ngắn Nam Cao hết sức khéo léo để dẫn

dắt bạn đọc vào truyện, cuốn hút bạn đọc vào những biến thái tâm lý sâu thẳm

trong mỗi nhân vật và khơi dậy việc tự nhận thức ở người đọc.

Ngay từ phần đầu truyện, người kể truyện đã đưa bạn đọc dẫn nhập vào

mạch truyện, tiếp cận hệ thống tính cách nhân vật thông qua việc triển khai

trình bày hấp dẫn về cốt truyện, điểm nhìn trần thuật. Với các cách kể truyện

khác nhau, cách xuất hiện khác nhau của người kể chuyện, ta sẽ có các dạng

cốt truyện khác nhau, trong truyện ngắn Nam Cao có cốt truyện tâm lý, cốt

truyện "chuyện lồng chuyện". Tác phẩm có một hay nhiều người kể chuyện

về một hay nhiều câu chuyện.

Người kể chuyện trong truyện ngắn Nam Cao đưa bạn đọc cảm nhận

được câu chuyện ở khoảng thời gian - không gian nào, thậm chí tiếp cận được

với những bình luận đánh giá hay cảm xúc của tác giả- người kể chuyện.

Một truyện kể thông thường có mở đầu - phát triển - đỉnh điểm - kết

thúc. Truyện ngắn Nam Cao cũng không thể thiếu những phần đó nhưng

không phải có sự tách bạch riêng rẽ giữa các phần vì văn Nam Cao luôn chứa

đựng "mạch ngầm" tạo thành kết cấu không thể phá vỡ. Nếu là một cốt truyện

tâm lý như Đời thừa chẳng hạn thì mạch tâm lý sẽ chảy suốt từ đầu đến cuối

tác phẩm. Có lúc, tâm lí thăng trầm, đấu tranh hay giằng xé thì nó vẫn là một

mạch, người đọc sẽ theo dõi và tiếp cận nhân vật cũng như thế giới nghệ thuật

36

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

truyện thông qua mạch đó, mọi hành động nhân vật cũng theo mạch đó.

Thường thì Nam Cao có cách vào chuyện rất thoáng, ngắn gọn và kiệm

lời. Chỉ với một vài câu, nhà văn đã phác họa nên nhân vật, sự kiện và không

gian thời gian và sau đó sẽ lần lượt sẽ bóc tách trong "sự tình hậu cảnh"-

những tấn kịch của từng con người, của gia đình, xã hội dần hiện ra.

Ví dụ, trong truyện Nghèo, người kể chuyện khéo léo dẫn dắt độc giả

tiếp cận ngay một cuộc đối thoại của nhân vật mà biết được sự kiện gì xảy ra.

- " Bu ơi con đói.....

Lần này có lẽ là lần thứ mười, thằng cu bé chạy về đòi ăn, chị đĩ Chuột

đang quấy một nồi gì trong bếp, cáu tiết quay ra mắng át đi:

- Đã bảo hết cơm rồi, tí nữa chè chín thì ăn chè mà"…

Nhân vật, thời gian không đáng kể, chỉ có sự kiện "thằng bé đói" và

cơm không có lại có "chè" để ăn. Một điều khác thường! Và người đọc phải

tự hỏi xem "chè" là cái gì để đánh tan cơn đói giày vò mẹ con nhà đĩ Chuột.

Có những truyện nhân vật chưa có hình dáng mặt mũi, chưa có khung

thời gian, không gian mà chỉ có hành động:

" Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi..."

(Chí Phèo)

Ở những loại truyện này, hành động bộc lộ tính cách và vị thế xã hội có

tính nhất quán.

Tuy vậy, có những truyện tính cách và hành động có vẻ không phù hợp

với nhau nhưng mục đích lại hoàn toàn khác nhau:

" Những quân ăn cướp, bao giờ muốn ăn cướp một nhà nào, bao giờ

cũng phải thăm đất trước. Hắn cũng vậy, hắn sắp làm một cái việc tương tự

như ăn cướp. Vậy phải đi xem kỹ tình hình đã" (Một truyện Xúvơnia).

" Hắn" ở đây không phải là kẻ cướp mà chỉ là một kẻ si tình. Mọi kẻ si

tình đều ngốc nghếch, nhưng cái ngốc nghếch của anh ta thì khó lòng tưởng

37

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

tượng được. Chuyện có thế nên người kể phải biện luận phân tích, phải dựa

vào "lẽ thường" để lý luận tất cả. "Lẽ thường" ấy là chuyện nghèo, chuyện đói

được dùng làm cái "luận cứ" dẫn giải cho một số cốt truyện tương tự như:

Làm tổ, Đôi móng giò, Đón khách, Truyện tình.

Tác giả xác định mình là người vừa chứng kiến lại vừa tham gia vào

câu chuyện nên khoảng cách giữa người kể và nhân vật không phải là lớn.

Khoảng cách đó định vị điểm nhìn người kể.

Một nhà văn có phong cách đều chỉ cho bạn đọc cách đọc truyện ngay

từ đầu. Khi đọc đoạn mở đầu, người đọc phải tự hỏi: " Hắn" là ai?, "hắn" chửi

ai?, sao lại "vừa đi vừa chửi"?. Những câu hỏi đó là cái hướng cho người kể

và người đọc. Người đọc sẽ gặp những điều không đoán trước được, bị hụt

hẫng và cuối cùng được thỏa mãn: "À ra thế!". Cũng có lúc một nguyên nhân

trực tiếp được đưa ra:

“Đầu đuôi tại con mèo, nhưng cũng tại trời bức nữa, bức không chịu

được".

(Con mèo)

Nói “vậy mà không phải vậy". Không phải do con mèo hay trời nóng

bức, cũng không phải vì anh Cu nóng nảy và chị Cu "lỉa rỉa đay nghiến anh"

mà xảy ra cảnh xô xát của hai vợ chồng anh mà cái chính là vì cái nghèo, cái

cực của gia đình anh: kẻ ăn thì người phải nhịn. Người ăn để cho hả giận, còn

người nhịn thì càng căm tức. Chuyện ẩu đả của anh chị xảy ra, nhưng kết cục

rất có hậu: nửa đêm mưa gió, trời hết bức, anh vào làm lành với chị. Tuy

miếng ăn xúc phạm đến nhân cách con người nhưng sự ràng buộc của một gia

đình nghèo nên mọi chuyện bi hài đâu lại vào đó! Những truyện tương tự

cũng được kể theo cách này như Đui mù, Nhỏ nhen, nhưng người kể chuyện

dẫn nhập theo từng kiểu khác nhau. Người kể chuyện sẽ đưa ra một tiêu điểm

38

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

(focus), từ đó bạn đọc lần theo các lẽ thường để đọc, mỗi truyện có một mở

đầu riêng vì cấu trúc đa dạng của truyện quyết định.

Bằng cách viết như vừa kể và suy ngẫm nên ngòi bút Nam Cao là ngòi

bút đầy tinh lực, câu chữ nhuần nhuyễn, bạn đọc vừa được thưởng thức và

ngưỡng mộ bởi những trang viết của ông. Người kể chuyện đưa bạn đọc tới

tận cùng mọi ngóc ngách tâm lý tâm trạng của nhân vật, như được sống cùng

nhân vật và để trải nghiệm được mọi thứ.

Trong truyện ngắn Nam Cao, mọi kết thúc truyện đều không phải là

giải quyết được tất cả các vấn đề, tình trạng cuối cùng của xung đột được thể

hiện, nhưng còn quá nhiều điều dang dở. Có kết thúc tuy đánh dấu sự xóa bỏ

tính cách và số phận nhân vật nhưng mâu thuẫn vẫn có thể tiếp tục căng thẳng

hoặc chưa bị xóa bỏ (ví dụ kết thúc truyện Chí Phèo).

Có thể thấy truyện ngắn Nam Cao với sự linh hoạt độc đáo của người

kể chuyện luôn có một sức hút lớn hấp dẫn với mọi thế hệ bạn đọc.

1.2.2. Người kể chuyện mang tiếng nói, quan điểm của tác giả về

cuộc sống, con người và nghệ thuật

Trong những truyện ngắn của mình, Nam Cao đã thông qua nhân vật

người kể truyện để bày tỏ thái độ của mình trước cuộc sống, con người, xã

hội. Với vai trò đại diện của tác giả, người kể chuyện trong truyện ngắn Nam

Cao đem đến cho độc giả những đề tài, mà phần nào đã từng diễn ra, từng ảnh

hưởng nhiều trong cuộc đời tác giả. Bạn cùng nghề nhà văn là Nguyễn Công

Hoan từng tâm sự: "Người viết văn chịu ảnh hưởng về mặt nào nhiều nhất, thì

có khả năng sáng tác về mặt ấy nhiều nhất" [17, tr.1223].

Nam Cao cũng đã nói: "Sống đã rồi hãy viết". Không phải đơn giản nhà

văn nói ra như vậy mà câu nói ấy đã được đúc kết bằng cả một cuộc đời, lúc

nào tác giả cũng suy nghĩ, chiêm nghiệm, dằn vặt mỗi khi cầm bút. Vào

những thập niên đầu của thế kỷ XX, so với các nhà văn hiện thực phê phán

39

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

khác và các nhà văn trong Tự Lực văn đoàn, Nam Cao là người đến muộn

nhưng ông sớm định hình một lối riêng. Nam Cao đã ý thức về một nghệ

thuật vị nhân sinh, người viết văn không lẩn tránh sự thật, không thể thờ ơ

trước biết bao người quằn quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của

kiếp mình! Biết bao tiếng nghiến răng và chửi rủa! Biết bao cực khổ và lầm

than. Những sự thật tàn nhẫn, nghiệt ngã luôn bám riết mọi chỗ, mọi nơi

khiến nhà văn không thể viết văn chương giả dối. Nhà văn Ngô Tất Tố kêu

gọi: "Hãy ngó mắt đến những kẻ hạ lưu thôn quê", Vũ Trọng Phụng tuyên bố:

"Tiểu thuyết là sự thật ở đời". Nam Cao công khai quan điểm: "Nghệ thuật

không phải là ánh trăng lừa dối".

Người nghệ sĩ chân chính sáng tạo không chỉ vì mưu sinh, kiếm sống

mà trước hết là vì nhu cầu sáng tạo thôi thúc từ bên trong, văn chương phải

mới lạ, độc đáo. Ông không dễ dãi với ngòi bút của mình. Với ông, văn

chương phải có chiều sâu của nghệ thuật sáng tạo đích thực và nhà văn muốn

sáng tác của mình thật sự có ích. Đó là lý do Nam Cao đã sống và viết vì mọi

người, cho nhân dân, cho đất nước. Khi Cách mạng tháng Tám thành công

Nam Cao dâng hiến cả cuộc đời và sự nghiệp sáng tác cho Cách mạng, sẵn

sàng chối bỏ "tháp ngà" nghệ thuật thuần túy để sống và sáng tác vì mọi

người, vì cuộc đời.

Những con người trong tác phẩm của Nam Cao bị bám riết bởi sự đói

ăn, nghèo nàn, những định kiến cổ hủ lạc hậu, con người bị đẩy đến tình trạng

bần cùng hoá hoặc lưu manh hoá. Không gian làng, nông thôn không khác

nào mảnh vườn hoang cuối mùa tiêu điều xơ xác mà bọn quyền thế là lũ sâu

bọ hút hết nhựa sống, vặt trụi mọi nhành non lá biếc, tàn phá những mùa hoa.

Mảnh vườn quê ấy không thể kết trái, nếu có chăng là những quả còi quả cọc,

quả điếc mà những con người khốn khổ là sản phẩm của mảnh vườn quê đó.

Nếu nhân vật anh Pha của Nguyễn Công Hoan, chị Dậu của Ngô Tất Tố là

40

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

những con người tốt thuần nhất, trọn vẹn bởi tính cách của nhân vật là do bản

chất giai cấp của nhân vật chi phối, quyết định. Họ chìm nổi, thăng trầm về số

phận mà lại tĩnh tại, nguyên dạng về tính cách. Có thể nói, chỉ đến hàng loạt

các nhân vật của Nam Cao xuất hiện như Chí Phèo, lang Rận, lão Hạc, Hộ,

Thứ, San, Hoàng...mới đập vỡ cái nhìn phiến diện, tĩnh tại tạo ra một cái nhìn

phức tạp, đa chiều hơn và sâu sắc hơn về con người. Nhân vật dường như lúc

nào cũng chịu một sức nặng trên vai, đôi khi như quằn quại, khổ đau đến tột

cùng trên con đường đầy chông gai đi tìm nhân tính của mình.

Vì thế, những tâm sự, tình cảm, ý kiến, thái độ của Nam Cao đối với

hiện thực được bộc lộ trong tác phẩm qua hình tượng người kể chuyện. Trong

nhóm đề tài về người trí thức, nông dân, những người cùng đinh...ông đã

dựng lên cả một thế giới mà cuộc sống đầy bế tắc. Nam Cao chế giễu, phê

phán, cười chua xót và hơn hết là sự ám ảnh về vấn đề vận mệnh chung của

một xã hội buồn thảm, tủi nhục, trong đó đời sống không còn ý nghĩa, quay

về phía nào cũng thấy dựng lên những bức tường bế tắc.

Người kể chuyện trong truyện ngắn Nam Cao cũng hướng tới những

câu chuyện mang tính bi hài vì người kể chuyện ấy mang trong nó quan điểm

của tác giả về cuộc sống.

Như vậy, người kể chuyện có vai trò vô cùng quan trọng trong việc

mang tiếng nói, quan điểm của tác giả về cuộc sống con người và nghệ thuật.

1.3. Tiểu kết

Có thể nói, người kể chuyện là một công cụ do nhà văn hư cấu nên để

kể chuyện, đó là một dạng nhân vật đặc biệt trong tác phẩm, có chức năng tổ

chức các nhân vật khác, tổ chức kết cấu của tác phẩm, dẫn dắt định hướng và

khơi gợi khả năng đối thoại, tranh luận của người đọc. Ngoài ra người kể

chuyện còn là một điểm tựa để tác giả bộc lộ những quan điểm của mình về

cuộc sống, nghệ thuật. Giữa người kể truyện và tác giả có một mối liên hệ mật

41

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

thiết nhưng không đồng nhất với nhau. Người kể truyện trong truyện ngắn

Nam cao tỏ ra hết sức linh hoạt trong việc di chuyển điểm nhìn, truyện được

trần thuật theo điểm nhìn khách quan hoặc chủ quan hay có sự di chuyển

điểm nhìn giữa các nhân vật, từ điểm nhìn của tác giả sang điểm nhìn nhân

vật và ngược lại, như vậy sẽ tạo thuận lợi cho bạn đọc trong việc tiếp nhận tác

phẩm.

Sau Cách mạng tháng Tám, Nam Cao có sự chuyển biến về thế giới

quan và quan điểm nghệ thuật, từ một nhà văn hiện thực phê phán dần dần

chuyển thành một nhà văn Cách mạng. Người kể chuyện trong những truyện

của ông thời kỳ này cũng góp phần đem những quan điểm mới, tiếng nói mới

của tác giả về con người, cuộc sống và nghệ thuật đến với bạn đọc.

Nói chung, truyện ngắn Nam Cao đạt được thành công là sự hoà quyện

của nhiều yếu tố: Người kể chuyện, không gian, thời gian, cốt truyện, giọng

điệu. Vấn đề người kể chuyện là vấn đề trung tâm trong nghệ thuật tự sự và

vai trò của người kể chuyện rất quan trọng. Bên cạnh đó thì cốt truyện, giọng

điệu, ngôn ngữ cũng đóng góp không nhỏ làm nên thành công của tác phẩm,

chúng ta sẽ tìm hiểu rõ điều này ở chương sau.

42

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

CHƢƠNG 2

NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN

TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO

2.1. Cốt truyện

Khái niệm cốt truyện có cách hiểu truyền thống và hiện đại. Cách hiểu

khái niệm cốt truyện có truyền thống lâu đời, nó bắt nguồn từ Aristote và

được các nhà lý luận chủ nghĩa cổ điển định rõ. Theo đó cốt truyện tức là cấu

trúc sự kiện của truyện, là tiến trình các sự kiện xảy ra theo nguyên tắc nhân

quả dẫn đến một kết cục. Truyện nào cũng có tính thống nhất, bắt đầu từ một

trạng thái ổn định, thăng bằng, sau đó xảy ra hỗn loạn, xung đột, cuối cùng trở

lại trạng thái thăng bằng. Quan niệm này tổng kết mô hình cốt lõi của truyện

và đến nay vẫn còn có ý nghĩa.

Sau thế kỷ XX, đã xuất hiện hiện tượng không ít nhà văn, nhà nghiên

cứu phê bình tuyên bố cốt truyện không còn trong tác phẩm tự sự, không còn

tiểu thuyết nữa. Trong khi đó thực tế cho thấy tiểu thuyết cũng như các hình

thức tự sự khác không bao giờ chết. Điều này đồng nghĩa với việc cốt truyện

cũng sẽ luôn là thành tố cốt lõi, đồng hành với bất kì hình thức tự sự nào. Chỉ

có điều, qua thời gian, cốt truyện phải được đổi khác để đáp ứng nhu cầu mới

về thẩm mĩ.

Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư

tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản quan trọng nhất

trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch.

Có một cách hiểu khác về cốt truyện hiện nay, cốt truyện như là toàn bộ

các biến cố, sự kiện được nhà văn kể lại, là cái mà người đọc có thể đem kể

lại. Khái niệm về cốt truyện này được đem đối lập với câu chuyện, truyện và

sự trần thuật, sự kể chuyện.

43

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Boris Tomashevski phân biệt: "Truyện chứa đựng chuỗi những môtip

tự sự theo trật tự thời gian của chúng, dịch chuyển nhờ vào sự tác động nhân

quả của từng môtip; trái lại cốt truyện tuy cùng tái hiện những môtip đó,

nhưng theo một trật tự sắp xếp đặt biệt trong sự tổ chức văn bản" [43, tr.180].

Lý thuyết tự sự ngày nay chia làm hai hướng, một hướng đi sâu vào

nghiên cứu cấu trúc của truyện, đi tìm các đơn vị mang nghĩa bắt đầu từ

B.Tomashevski, V.Propp, R.Barthes, Tz.Todorov. Hướng thứ hai nghiên cứu

cấu trúc trần thuật với người kể, lời kể, điểm nhìn, không gian, thời

gian...Hướng này bắt đầu với H.James, P.Lubbock, G.Genette, M.Bal. Cũng

có người nghiên cứu kết hợp cả hai hướng trên, vì thực tế chúng không thể

tách rời. Ngày nay khái niệm cốt truyện được sử dụng để chỉ hai phương diện,

một là hệ thống sự kiện có tính nhân quả, cốt lõi và hai là cấu trúc của truyện.

Thông thường khi đề cập đến cốt truyện, các nhà nghiên cứu thường

tập trung vào tiểu thuyết. Nhưng thực tế, chính truyện ngắn mới là nơi phô

diễn những cách tân về cốt truyện một cách hiệu quả nhất. Có hai kiểu cốt

truyện gốc để nhà văn tiến hành những cách tân, thể nghiệm của mình là cốt

truyện kịch tính và cốt truyện trữ tình. Cốt truyện kịch tính gắn với cái nhìn

nhị nguyên, bởi người kể luôn đặt sự vật hiện tượng trong thế đối lập tốt -

xấu, cao cả- thấp hèn, ánh sáng - bóng tối, thiện - ác…Cách làm này hàm

chứa trong đó cái nhìn động: đi từ đau thương, bất hạnh đến hạnh phúc, sung

sướng. Có thể dễ nhận thấy đây là bản chất của cốt truyện phiêu lưu thần

thoại. Kiểu phiêu lưu của một người hùng trong một xã hội đối nghịch lẫn tự

nhiên, đối nghịch để khẳng định giá trị làm người cao quý và sự xả thân cho

cộng đồng.

Trong khi đó, cốt truyện trữ tình là sự sáng tạo đặc biệt của văn xuôi

hiện đại trong nỗ lực vượt thoát xa hơn cái bóng của cốt truyện thần thoại,

hướng đến sự chi phối bởi cái nhìn nhất nguyên. Vẫn còn sự phiêu lưu, nhưng

44

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

giờ đây không còn là sự phiêu lưu của một cá nhân với thế giới bên ngoài,

chỗ trú ẩn duy nhất của con người là thế giới nhỏ bé của cái tôi chính họ. Kể

từ đây, cốt truyện dần dịch chuyển sâu hơn vào thế giới nội tâm, nơi con

người ngập chìm trong cuộc đấu tranh bất tận với cái tôi của chính họ. Từ cốt

truyện tâm lý đến cốt truyện dòng ý thức là cả bước tiến dài trong việc chuyển

từ cái tôi chủ thể sang cái tôi khách thể trong tự sự. Chính ý thức dân chủ đã

làm nảy sinh ra cảm quan thu nhỏ dấu ấn chủ nhân của tự sự về điểm không

(Roland Barthes coi là độ không của lối viết) đã khiến cốt truyện hiện đại và

hậu hiện đại trở lên mênh mông trong thế giới nội tâm, thế giới trí tuệ ngẫu

hứng bao la của con người.

Sau đây ta sẽ xem xét cốt truyện trong việc tổ chức, cấu trúc cốt truyện,

tức là trong mối quan hệ với các yếu tố khác có vai trò tổ chức, cấu trúc cốt

truyện như: kết cấu, biến cố, tình huống, sự kiện - tình tiết - chi tiết.

2.2. Những yếu tố tham gia tổ chức, cấu trúc cốt truyện

2.2.1. Sự kiện - tình tiết - chi tiết

Chất liệu cơ bản để làm nên cốt truyện chính là các sự kiện có tác động

và ảnh hưởng đáng kể đến số phận và tính cách nhân vật. Sự kiện được tạo

nên bởi những tình tiết, chi tiết.

M.Bal xem xét sự kiện (event) là sự chuyển từ trạng thái này sang trạng

thái khác, được gây ra và trải nghiệm bởi nhân vật, cơ sở xác định sự kiện là

sự thay đổi, sự lựa chọn, sự đương đầu. Các sự kiện được liên hệ với nhau bởi

những nguyên tắc giống như những nguyên tắc chi phối hành vi và tư tưởng

của con người như: vòng tròn nhân quả (khả năng, sự kiện, kết quả), các sự

kiện cũng có thể được tập hợp trên cơ sở sự đồng nhất hay sự đối lập của các

nhân vật tham gia, có thể được đặt trong sự cách quãng về thời gian...

Thường thì trong truyện ngắn hệ thống sự kiện được tác giả kể lại gọn

gàng và thường là đơn giản về số lượng, tập trung thể hiện quá trình phát triển

45

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

tính cách của một vài nhân vật, có khi chỉ là một giai đoạn trong cuộc đời

nhân vật chính.

Trong một tác phẩm văn học, hình tượng nghệ thuật có cụ thể, gợi cảm,

sống động hay không là nhờ các chi tiết về phong cảnh, môi trường, chân

dung, cử chỉ, hành vi, lời nói, phản ứng nội tâm...Chi tiết trong tác phẩm tuỳ

theo sự biểu hiện cụ thể mà nó có vai trò khác nhau, nó có khả năng thể hiện,

minh chứng cho cấu tứ nghệ thuật của nhà văn. Hoặc cao hơn, nó cũng có thể

trở thành tiêu điểm- điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Đối với

việc tổ chức cốt truyện, chi tiết đóng vai trò "vật liệu xây dựng", làm tiền đề

cho cốt truyện phát triển hợp lý.

Tình tiết là đơn vị lớn hơn chi tiết. Những yếu tố cụ thể - chi tiết cụ thể

tạo thành sự kiện được gọi là các tình tiết. Tình tiết chính là diễn biến của cốt

truyện. Đó là những khúc đoạn mà chính tại đây nhân vật thăng hoặc trầm.

Một yếu tố của cốt truyện có thể được trình bày qua nhiều tình tiết khác nhau,

và việc sắp xếp các tình tiết trong trần thuật là yêu cầu quan trọng của kết cấu.

2.2.2. Kết cấu

Nếu như cốt truyện là yếu tố của nội dung tác phẩm thì kết cấu là yếu

tố của hình thức, là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm.

Cần phân biệt bố cục và kết cấu của tác phẩm. Thuật ngữ bố cục nhằm

chỉ sự sắp xếp, phân bố các chương đoạn, các bộ phận của tác phẩm theo một

trình tự nhất định. Kết cấu thể hiện nội dung rộng rãi, phức tạp hơn. Tổ chức

tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên

ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong,

nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm. Bố cục là một phương diện

của kết cấu. Ngoài bố cục kết cấu còn gồm: Tổ chức hệ thống tính cách, tổ

chức không gian - địa điểm và thời gian của tác phẩm, nghệ thuật tổ chức

những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày, bố

46

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

trí các yếu tố ngoài cốt truyện...sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở thành

một chỉnh thể nghệ thuật.

Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. Kết cấu là

phương diện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhiệm

các chức năng rất đa dạng: bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng của tác phẩm, triển

khai, trình bày hấp dẫn cốt truyện; cấu trúc hợp lý hệ thống tính cách; tổ chức

điểm nhìn trần thuật của tác giả; tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một

hiện tượng thẩm mĩ.

Nếu những yếu tố kĩ thuật, thủ pháp là có giới hạn thì kết cấu là vô hạn

vì mỗi tác phẩm là một "sinh mệnh", một "cơ thể sống" nên kết cấu tác phẩm

là một kiến trúc, một tổ chức cụ thể, phù hợp với nội dung cụ thể của tác

phẩm, kết cấu bộc lộ nhận thức, tài năng và phong cách của nhà văn.

2.2.3. Biến cố - tình huống

Biến cố là những sự kiện lớn, có thể tạo thành những bước ngoặt quan

trọng trong cuộc đời nhân vật. Chính từ những biến cố đó mà nhân vật có thể

sẽ bị đặt vào những tình huống.

Dựa trên định nghĩa của Hêghen trong Mỹ học, nhà nghiên cứu Bùi

Việt Thắng đã rút ra những kết luận chính về tình huống trong truyện ngắn:

“Tình huống giúp cho những gì còn nằm trong hình thức chưa phát triển nay

bộc lộ và hoạt động tích cực; là tình trạng có tính chất riêng biệt, trở thành

xung đột; là bước trung gian (giữa tình trạng im lìm và tình trạng hành động)”

[45, tr.111].

Nguyễn Minh Châu - cây viết truyện ngắn xuất sắc quan niệm: “(...)

Những người cầm bút có biệt tài có thể chọn ra trong dòng đời xuôi chảy một

khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý

nghĩa nhất, (...) bắt buộc con người ở vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần

47

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi đó là cái khoảnh

khắc chứa cả một đời người, một nhân loại” [45, tr.112].

Có thể thấy tình huống là những sự kiện có ý nghĩa thử thách đối với số

phận nhân vật, đối với những đặc điểm bản chất của tính cách. Khi đối diện

với những sự kiện mang tính tình huống này tính cách buộc phải hành động,

phơi bày diễn biến tâm lý của nó, bộc lộ thái độ, tư tưởng của nhân vật, tình

huống càng giàu kịch tính thì khả năng bộc lộ những đặc điểm bản chất của

tính cách càng lớn.

Việc tổ chức cốt truyện cũng không loại trừ việc tổ chức triển khai hệ

thống các biến cố và tạo ra các tình huống trong truyện nhằm làm cho cốt

truyện diễn ra kịch tính. Tính kịch là biểu hiện những xung đột của hiện thực

đã được chắt lọc lựa chọn. Xung đột bắt buộc phải giải quyết bằng sự đấu

tranh gay gắt, quyết liệt. Chính xung đột là nhân tố quan trọng tạo nên độ

căng của cốt truyện. Thông qua cuộc đấu tranh để giải quyết xung đột thì các

tính cách của nhân vật mới được bộc lộ một cách rõ rệt nhất. Và nhiệm vụ của

cốt truyện không chỉ là phản ánh hiện thực mà còn là phát hiện ra ý nghĩa bản

chất của hiện thực được che giấu sau các xung đột có kịch tính này.

Như vậy, nghệ thuật tổ chức cốt truyện chính là nghệ thuật sắp xếp các

chi tiết, tình tiết trong một kết cấu nhất định mà ở trong đó các biến cố và các

tình huống được tạo ra một cách hợp lý nhằm mục đích cuối cùng là tạo ra

diễn biến cho cốt truyện. Đến lượt mình thì vai trò của cốt truyện chính là sự

truyền tải những nội dung tư tưởng của tác giả thông qua sự phát triển tính

cách, sự thay đổi số phận của nhân vật được thể hiện.

Xem xét cốt truyện ở khía cạnh nghệ thuật tổ chức, liên quan đến các

chi tiết, tình tiết, biến cố, tình huống được gói gọn trong một kết cấu cụ thể ta

sẽ thấy được một phần tự sự mà tác giả thể hiện trong việc cấu trúc tác phẩm.

Và quan trọng hơn, xem xét cốt truyện ở góc độ nghệ thuật, ở việc tổ chức ta

48

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

sẽ thấy được vai trò của nghệ thuật trong việc chuyển tải nội dung, làm rõ hơn

mối quan hệ qua lại sâu sắc giữa nghệ thuật và nội dung, giữa yếu tố hình

thức và yếu tố nội dung của tác phẩm.

2.3. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Nam Cao

trƣớc Cách mạng

Đọc truyện ngắn Nam Cao cảm nhận đầu tiên của độc giả có lẽ là sự

ám ảnh đến khắc khoải. Trong sáng tác của ông, tâm hồn con người là sân

khấu bi kịch và bi hài kịch của những xung đột tư tưởng, ý tưởng. Tác giả

thiên về nghiên cứu, phân tích và khám phá bằng nghệ thuật tâm lý của nhân

vật hơn là việc phân tích và miêu tả những biến cố, xung đột đích thực của

chính bản thân đời sống xã hội. Đối với nhà văn "sự phân tích tâm lý hầu như

là điều kiện cơ bản nhất của việc thể hiện con người theo phương pháp hiện

thực có chiều sâu"[33, tr.198].

Ông lấy thế giới nội tâm nhân vật làm đối tượng chính của sự miêu tả.

Ông hướng ngòi bút vào việc khám phá con người trong con người, miêu tả

và phân tích mọi chiều sâu, mọi chuyển biến trong thế giới tâm hồn của nhân

vật (điều này giải thích cho việc miêu tả ngoại hình chỉ có ý nghĩa khi nó

nhằm thể hiện và làm nổi rõ bộ mặt tinh thần của nhân vật và những cảnh vật

thiên nhiên cũng chỉ có lý do tồn tại khi nó gắn liền với tâm trạng của con

người). Việc phân tích tâm lý nhân vật không tách rời việc phân tích cuộc

sống xã hội nói chung, thể hiện những mâu thuẫn, xung đột xã hội. Có thể nói

cảm hứng phân tích phê phán thấm nhuần trong toàn bộ sáng tác của Nam

Cao.

Thế nên, có thể nói nhà văn nhìn đời, nhìn con người vừa bằng đôi mắt

hiện thức sắc sảo, nghiêm ngặt, vừa bằng đôi mắt của tình thương và lòng vị

tha. Để chuyển tải nội dung của cái nhìn ấy, tác giả chú trọng xây dựng những

49

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

cốt truyện tâm lý (với sự giằng co, dặt vặt, thao thức đến khắc khoải của nhân

vật).

Trong sáng tác của mình Nam Cao không mấy vướng bận về cốt

truyện. Thậm chí có những tác phẩm rất khó khăn để nắm bắt để quy nó vào

cái khung cốt truyện. Theo lời kể của nhà văn Vũ Bằng, sinh thời Nam Cao đã

nuôi cái ý thích là "viết chuyện không có chuyện" và điều này bạn đọc đã thấy

được phần nào trong những sáng tác của ông.

2.3.1. Cốt truyện tâm lý và những kiểu kết cấu đặc sắc

Truyện ngắn trước Cách mạng tháng Tám của Nam Cao là truyện tâm

lý. Ngay từ những dòng mở đầu của mỗi truyện, Nam Cao đã dẫn ta nhập

ngay vào những dòng đang suy nghĩ của nhân vật. Tính chất " đang suy nghĩ"

"đang đối thoại", “đang độc thoại", "đang nói chuyện ở trong tâm tưởng" của

nhân vật là một đặc trưng phong cách truyện của Nam Cao. Tác giả không kể

lại những suy nghĩ của nhân vật, nhân vật cũng không tự suy nghĩ như một

dòng ý thức tuôn chảy, nhân vật cũng ít phân tích những trạng thái tâm lý,

cảm xúc mà dường như nhân vật đang nói to lên, nói toạc ra, đang mở toang

ra cánh cửa tâm hồn của mình. Thế nên người ta thường nói nhân vật trong

truyện ngắn của ông dám sống thật và suy nghĩ thật. Những ý nghĩ bộc trực

thẳng thừng đầy chất liên tưởng, tạo mạch truyện dường như loại bỏ thời gian.

Đó là mạch lập luận suy diễn ngầm trong tâm lý nhân vật, trong kết cấu

truyện.

Trong bất cứ truyện ngắn nào của tác giả cũng nhận thấy sự xuất hiện

với tính chất ít nhiều của mạch ngầm đó. Trong truyện Trẻ con không được ăn

thịt chó có đoạn:"...Ấy là lúc hắn lò dò về đến sân. Hắn đang đi bỗng giật

mình. Một con chó đang thiu thiu trong một bụi dong ở đầu sân nhảy choàng

ra. Một tí nữa thì nó đớp vào chân hắn. Hắn nhẩy cẫng lên một cái và hắn sực

nhớ rằng: Nhà hắn có một con chó vện, con chó vện ấy hay trông gà hoá cuốc,

50

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

nên lắm khi chực đớp cả chân người nhà. Đó là một cái tật không thể nào tha

thứ được. Bởi không ai nuôi chó để nó cắn què chân bao giờ. Ờ mà lại điều

này nữa: nuôi mèo hay nuôi chó thì cũng phải tuỳ gia cảnh; nhà giàu nuôi là

phải; bởi nhà giàu sợ trộm mà lại nhiều cơm hớt; còn nghèo rớt mồng tơi như

nhà hắn, nuôi làm gì? Giá thử nhà còn trẻ nhỏ, thì nuôi chó cũng được việc.

Nhưng nhà không còn trẻ nhỏ, thằng cu con đã lên ba. Nó đã có thể ra vườn

được. Hạt gạo năm nay khó chuốc như hạt ngọc. Đến bữa ăn, phải tính đầu để

chia cơm. Cứ tình hình ấy, thì phải dở hơi lắm lắm mới nuôi một con chó để

chẳng có việc gì cho nó làm. Thế là đủ lắm. Hắn sung sướng vì đã nghĩ ra

điều ấy. Hắn gật đầu luôn mấy cái. Rồi hắn đưa mắt nhìn trộm con chó

vện...".

Khi một ý tưởng là khởi điểm xuất phát, qua nhiều chặng liên tưởng

loại suy, qua những sự việc hô ứng liên châu, câu chuyện phải tiến triển theo

hướng đã định. Chẳng hạn truyện Những truyện không muốn viết, tác giả đã

lập luận rằng kể chuyện mình tức là "đổ đốn". Nói "cái tôi" là đáng ghét, là bỉ

ổi, thời còn nói đến làm gì. Tác giả nói đến những cái khác. Cái khác đó là

chuyện người đàn ông đã có vợ rồi, chuyện con chó mực, chuyện thằng say và

cuối cùng không dám viết cái gì nữa, bởi vì viết chuyện gì cũng bị chạm kể cả

chuyện "buồng cau, cây chuối, cục đất, buổi hoàng hôn hay con lợn. Nhưng

biết đâu đấy?...Tôi sợ có người lại nhận mình là buồng cau, cây chuối, cục

đất, buổi hoàng hôn hay là con lợn để mà không bằng lòng. Bởi thế, tuy chẳng

muốn, tôi đành lại lấy tôi ra mà viết để cho yên chuyện”.

Rõ ràng là có một cách lập luận, một cấu trúc vòng tròn phát triển.

Truyện Cười cũng có một sự vận động tương tự. Mọi diễn biến xoay quanh

cái trục lập luận là phải cười "cứ cười đi, cười nhiều đi". Truyện Cái mặt

không chơi được xoay quanh chính cái tiêu đề ấy mà phát triển qua nhiều tình

huống, nhiều thời điểm trong cuộc đời...

51

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Trong truyện ngắn Nam Cao, thời gian không phải là yếu tố chi phối

tâm lý nhân vật và cốt truyện, mà tâm lý nhân vật luôn vận động đẩy câu

chuyện tiến tới. Nhân vật luôn suy nghĩ tính toán lật đi lật lại rồi hành động.

Mạch truyện phát triển trên mạch tâm lý. Tâm lý diễn ra trước, hành động

diễn ra sau nhuần nhuyễn kết hợp rất tài tình làm cho người đọc thấy tính

cách nhân vật hiện lên rõ, không thấy chỗ nào là gượng ép là áp đặt, không

thấy đâu là bàn tay sắp đặt của tác giả. Tâm lý gợi tâm lý, tâm lý gợi liên

tưởng, suy diễn, tâm lý thúc đẩy hành động, và kết thúc truyện bao giờ cũng

là kết thúc bất ngờ, lúc tâm lý nhân vật được dần đẩy lên đến đỉnh cao nhất,

được cường điệu hoá cao nhất, được xô đẩy dồn nén dưới một áp lực quyết

liệt nhất thì nhân vật hành động và kết thúc.

Chẳng hạn "Anh đĩ Chuột rít hai hàm răng lại. Hai chân giận dữ đạp

phắt cái ghế đổ văng xuống đất. Cái tròng rút mạnh lại. Cái bộ xương bọc da

giãy giụa như một con gà bị bẫy, sau cùng, nó chỉ còn giật từng cái chậm dưới

sợi thừng lủng lẳng"(Nghèo).

Anh đĩ Chuột treo cổ tự tử chết một cách dữ dội. Mọi chi tiết trước đó

trong truyện như những sức ép tâm lý ngày càng tăng lên, mãnh liệt như nước

dâng, như lửa cháy, khiến cho anh không thể nào hành động khác được. Anh

ta quyết liệt cho đầu vào thòng lọng và giận dữ đạp phăng ghế. Cái chết của

Chí Phèo, của lão Hạc cũng dữ dội như vậy.

Trong truyện Đón khách, tuy tình huống là vui vẻ, nhưng mạch tâm lý

được tích tụ ngấm ngầm, đầy ứ lên và uất nghẹn ở kết thúc truyện. Trước

mâm cơm Tết “cơm trắng, cá ngon, giò đầy mâm, bánh chưng rền lắm”, cả

nhà ngồi lặng im. “Ông Đồ cứ nghẹn luôn mãi, đôi mắt ông ầng ậc nước mắt.

Uất quá, ác quá mà không nói ra được”. Truyện kết thúc gây một ấn tượng rất

mạnh trong lòng người đọc và một dư vị lâu dài làm cho người đọc phải suy

nghĩ.

52

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Không phải tất cả mọi truyện ngắn của Nam Cao đều có một cấu trúc rõ

nhưng lại dễ nhận thấy một mạch lập luận ngầm, dù là trong một đoạn văn,

hay một cảnh hoặc trong cấu trúc cả truyện. Ví dụ: "...Có giời biết đấy; quả

thật Sinh không ác. Nhưng mà Sinh nhẹ dạ. Ấy là cái tật chung của những

người trẻ tuổi. Vả lại Sinh vẫn tưởng không đời nào lại có những người ngớ

ngẩn như thế được. Vẫn biết ông Đồ tính thật thà. Nhưng còn bà cụ nữa chứ.

Bà phải hiểu rằng Sinh đùa cợt, có ai ngờ bà Đồ cũng lẩn thẩn như ông Đồ

nốt. Bởi thế, mới đầu năm mà hàng xóm đã được một mẻ tức cười. Nhưng nói

thế thì ai hiểu. Truyện phải kể có đầu, có đuôi. Vậy đầu đuôi như thế này...".

Trong suy nghĩ của nhân vật hoặc trong chuyển mạch truyện Nam Cao

hay dùng những từ ngữ của văn nghị luận: “quả thật”, “nhưng mà”, “vả lại”,

“bởi thế”, “vậy”, “nên”, “thế mà”...Điều đặc sắc là tuy có sự lập luận như vậy,

nhân vật phải cảm nghĩ như vậy, câu chuyện phải tiến triển như vậy, không

khác đi được.

Khi xây dựng cốt truyện tâm lý thì không thể không nói tới việc Nam

Cao thể hiện rất tài tình và chân thật tâm lý người nông dân, những người

nghèo khổ và người trí thức tiểu tư sản trước Cách mạng tháng Tám. Cuộc

sống của họ ngột ngạt, bế tắc, đói khổ dằn vặt triền miên. Tâm hồn họ luôn

cuồn cuộn những cơn bão, những xung đột bi kịch. Họ khao khát sống có ích,

sống tốt, sống lương thiện, sống với ý nghĩa đích thực một con người. Nhưng

xã hội cũ không cho họ được quyền sống như vậy. Hoặc họ phải cam chịu (Dì

Hảo, Ở hiền) hoặc phải dũng cảm, quyết liệt tìm lấy cái chết (Nghèo, Lão

Hạc, Lang Rận, Chí Phèo), hoặc bị tha hoá, hoặc âm thầm khóc cười. Nam

Cao không đem đến một chút ánh sáng nào cho nhân vật của mình. Duy nhất

có một lần, trong truyện (Điếu văn), Nam Cao tin tưởng: "Tương lai phải sáng

sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi. Một mặt trời mới sẽ mọc lên..." và nhà

văn "lờ mờ thấy sự sụp đổ gì sắp tới" của cái xã hội cũ trước Cách mạng

53

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

tháng Tám. Đọc Nam Cao ta không tìm thấy những rung chuyển lớn lao của

một xã hội trước Cách mạng, không có những trang phản ánh bối cảnh lịch sử

đang vận động mà dường như chỉ có một mạch tâm lý chung vận động qua

nhiều tình huống hoàn cảnh, ở một loại nhân vật mà ông thường gọi trống

không là" hắn" hoặc "y", "thị", dù cho Nam Cao có gọi riêng ra thành tên hẳn

hoi hoặc chỉ gọi trống không như vậy.

Ở nhiều truyện ngắn, trong những cái kết, cái chết luôn hiện hữu, có cái

chết vì no của bà cái Đĩ, cái chết trong quằn quại vì ăn bả chó của lão Hạc.

Cái chết vì xấu hổ của lang Rận và mụ Lợi, cái chết giữa tỉnh và say của Chí

Phèo và hai cha con nhà Thiên Lôi, có cái chết nhẫn nhục câm lặng của anh

Phúc trong Điếu văn và cái chết giấu giếm vợ con của người cha đau ốm

trong Nghèo...Những cái chết vì bần cùng hoặc khùng điên, còn trong tiểu

thuyết Sống mòn thì là "chết ngay trong lúc sống". Cái chết cũng là cách giải

quyết, để thay đổi tình trạng túng quẫn, ngột ngạt, để giải thoát cho nhân

phẩm nhưng không phải vấn đề nằm ở đó, mà là vấn đề khác được đặt ra:

Làm sao để con người ta được sống, để được hạnh phúc, để được giải phóng

về năng lực người, để được gần nhau hơn mà không phải tìm đến cách giải

quyết bần cùng kiệt quệ và đau khổ nhất là cái chết. Như vậy những vấn đề về

con người phải được thực hiện khi con người còn sống, đang sống, đang tồn

tại trên thế giới này. Và vì ai hay cái gì, điều gì được cái quyền đẩy con người

vào đường chết. Câu trả lời là không ai hay điều gì có thể huỷ hoại được cuộc

sống con người, vì con người là thiêng liêng nhất. Chính con người và chỉ có

con người, cùng với việc thiết lập những môi trường, những mối quan hệ

thuận lợi giữa người- người với nhau thì mới tạo lập được những điều tốt đẹp

và có ích. Không ở nơi đâu bằng trong chính môi trường của mình mà con

người được hạnh phúc. Vấn đề này có thể cho người tiếp nhận tác phẩm Nam

Cao hiểu được những sáng tác cũng như cuộc đời tác giả ở thời kỳ sau Cách

54

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

mạng. Khi một cuộc Cách mạng nào đó diễn ra sẽ có sự thay đổi, biến chuyển

mối quan hệ giữa người và người. Với một nước chiến đấu chống kẻ thù trong

tình trạng còn nghèo nàn về kinh tế và những mối ràng buộc xã hội cũ thì việc

chiến đấu đó đã là một bước ngoặt cực kỳ to lớn và quan trọng trong việc thiết

lập những mối quan hệ mới, trong đó mối quan hệ con người - con người là

cơ bản và tối thượng. Một mối quan hệ giữa con người mới được xác lập và

đem lại cho nhiều người niềm tin tưởng cuộc sống, trong đó có Nam Cao. Vì

vậy nhà văn không ngần ngại và khó khăn gì trong việc nắm bắt lấy đầu mối

quan trọng đó để viết nên những tác phẩm mang đầy sức sống mới, có thể nói

nhà văn đã nắm bắt được vấn đề bản chất của cuộc sống và đặc biệt là những

điều về con người. Chính vì vậy những sáng tác của ông sau này có vô số

những con người không chỉ nghĩ, nhận thức mà còn hành động cực kỳ hăng

hái cho những điều tốt đẹp có thể mang lại niềm tin mới cho cuộc sống con

người.

Trong truyện ngắn trước Cách mạng nói riêng và sáng tác trước Cách

mạng nói chung, giữa hai mạch hành động và tâm lý trong những truyện viết

về người trí thức nghèo thì mạch tâm lý nối tiếp liên tục và chặt chẽ hơn, chi

phối cả mạch hành động. Do đó, đường dây cốt truyện được hình thành theo

một kiểu cấu tạo riêng. Ở loại truyện này Nam Cao không chú ý xây dựng cốt

truyện hoàn chỉnh, có đầu có cuối, sự kiện và hành động phát triển theo một

mạch khép kín. Nam Cao chú ý đến những trạng thái tâm lý do mọi cảnh ngộ

tạo nên, trạng thái tâm lý mang ý nghĩa tiêu biểu điển hình cho một loại tính

cách và hoàn cảnh xã hội. Từ trạng thái tâm lý ấy một đường dây cốt truyện

theo kiểu kết cấu liên hoàn được hình thành phù hợp: Cười, Nước mắt, Đời

thừa, Trăng sáng, Mua nhà, Quên điều độ, Cái mặt không chơi được...được

xây dựng theo hướng đó. Dường như chỉ có một nhân vật phát triển từ truyện

này sang truyện khác và mỗi truyện là một cảnh ngộ của họ, một cảnh ngộ cụ

55

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

thể để bộc lộ một trạng thái tâm lý của tính cách, ở những cảnh ngộ này ông

khai thác tính tương phản, đối lập của cảnh sống. Mâu thuẫn tâm lý chán nản

bực dọc và lối giải thoát (Cười), giữa sự thực cảnh sống vất vả của cảnh sống

gia đình và tâm trạng lãng mạn thi vị hoá của người trong cuộc (Trăng sáng),

giữa nội dung ý tưởng và chủ định với hình thức biểu hiện (Cái mặt không

chơi được), giữa cái có được về phần người này là do mất mát phần người kia

(Mua nhà). Thông thường truyện của Nam Cao “được xây dựng theo một lối

kết cấu bề ngoài có vẻ rất phóng túng, tuỳ tiện mà thực ra rất chặt chẽ, không

thể phá vỡ, tháo gỡ nổi”[ 33, tr.31].

Trong truyện ngắn Từ ngày mẹ chết, dòng suy nghĩ miên man của cô bé

Ninh cứ diễn ra hết ngày này sang ngày khác, suy nghĩ của Ninh về nỗi đau

mất mẹ. Nhưng càng ngày Ninh nhận ra rằng hai chị em còn đứng trước nguy

cơ mất bố (bố Ninh vẫn sống nhưng tâm hồn tình cảm dần dần không dành

cho hai chị em nữa). Ninh từng khóc rất nhiều, khóc đến lúc tự nhiên không

thể khóc được nữa nhưng một ngày kia khi biết bố mình không còn là người

bố tốt nữa thì Ninh khóc rất to, khóc vì nhớ người mẹ đã từng hết lòng vì hai

con và gia đình.

Điều mà làm cho cốt truyện thật mạch lạc lại không phải chỉ thể hiện ở

những sự kiện ấy mà biểu hiện ở bức tranh tâm hồn của một đứa trẻ thơ. Sự

sống và những sự việc của cuộc sống diễn ra không ngừng, với Ninh mỗi

ngày trôi đi không sáng sủa hơn mà ngày càng tối đen đi. Tâm hồn đứa trẻ chỉ

còn chỗ dựa duy nhất là những ký ức về mẹ, ký ức đẹp xen lẫn hiện tại khổ

cực mòn mỏi. Ninh bị quá sức với những điều đó. Đáng lẽ một đứa trẻ cần

phải được yên vui về mặt tâm hồn để hưởng thụ cuộc sống. Nếu Nam Cao

không đặt mình vào một tâm thế trạng thái của một đứa trẻ thì không thể nào

viết hay được như vậy, nhà văn đã sống thật cùng nhân vật, đặt điểm nhìn từ

bên trong và như hoá thân vào nhân vật. Tại sao bu Ninh cứ bảo đàn ông

56

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

chẳng mấy ai biết thương con cái! Ninh thấy thầy thương Ninh lắm, thầy lo

từng tý cho hai chị em. Ấy vậy mà lời mẹ nói thành sự thật, chính thầy là

người chơi bạc, xóc đĩa mà phải bán cả nhà đi.

Trong truyện, thời gian bắt đầu ở hiện tại rồi nhanh chóng trôi về quá

khứ để tái hiện hồi ức, rồi lại quay lại hiện tại, cứ thế đan xen nhau. Ở hiện tại

thì có lo lắng sợ hãi đan xen với quá khứ vui thì ít, nhưng buồn nhiều. Sự

sống cứ âm thầm, đem đến bao âu lo với một đứa trẻ khiến tâm hồn nó không

còn được thoả sức bay bổng vào thế giới nội tâm trong lành nữa, chỉ cần một

tác động nhỏ, một điều gì đó không tốt đẹp đến chạm vào tâm hồn ấy cũng đủ

sức làm nó sụp đổ và lại tìm về, hy vọng sự cứu cánh của những kỷ niệm, hồi

ức.

Chính sức sống của các chi tiết rất chân thực trong tác phẩm đã cho bạn

đọc thấy cuộc sống phải diễn ra như thế, như nó vốn có, chi tiết nọ gợi ra chi

tiết kia chứ không phải nhà văn muốn sắp đặt như thế đã tạo ra một mạch văn

xuyên suốt. Tác giả như nhập thân vào nhân vật đón nhận mọi đổi thay của

cuộc sống, trải nghiệm những kỷ niệm buồn và như cất tiếng khóc cùng đứa

trẻ vậy.

So với những nhà văn sáng tác truyện ngắn cùng thời, cấu trúc truyện

ngắn Nam Cao có nhiều nét khác lạ và mới mẻ. Truyện ngắn Thạch Lam gần

với thơ (Cô hàng xén, Dưới bóng hoàng lan, Hai đứa trẻ), truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan gần với kịch (Kép Tư Bền, Đào kép mới, Ngựa người và

người ngựa)... Còn truyện ngắn Nam Cao là một dòng xám buồn của chất văn

xuôi- đời thường.

Nguyên tắc về cái chốc lát trong truyện ngắn, hoặc luật thắt nút, mở nút

dùng để xây dựng thể truyện ngắn cũng bị phá vỡ căn bản. Cấu trúc truyện

thường nương theo trục thời gian, dõi theo cuộc đời nhân vật hoặc một chặng

dài của cuộc đời. Theo nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh, có thể khái quát ba loại

57

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

hình cấu trúc, ba kiểu dẫn truyện quen thuộc của Nam Cao: Cấu trúc theo số

phận nhân vật (Chí Phèo, Nửa đêm, Dì Hảo, Điếu văn), cấu trúc theo tâm lý

nhân vật (Trăng sáng, Đời thừa, Những truyện không muốn viết) hoặc cấu

trúc quanh một triết lý, một tính cách (Ở hiền, Tư cách mõ, Nhỏ nhen).

Nét tạo nên sự độc đáo trong sáng tác Nam Cao là kiểu kết cấu phức

hợp, có sự đan cài nhiều kết cấu khác nhau trong tác phẩm tạo nên "truyện

trong truyện", dồn chất tiểu thuyết vào trong khuôn khổ thể loại, chỉ bó gọn

trong đề tài hẹp mà tư tưởng lớn, có ý nghĩa khái quát, triết lý sâu sắc. Truyện

Lão Hạc là một ví dụ.

Tác giả cứ viết về những cuộc đời nhỏ mọn tầm thường, cứ viết về

những truyện vặt vãnh, tủn mủn không đâu của đời thường tẻ nhạt, ngán

ngẩm này thôi, thế mà nó có thể dằn vặt cuộc đời, có thể làm đau tất cả chúng

ta. Bởi dưới ngòi bút của Nam Cao cái nhỏ nhặt nhất không đâu vụt trở nên

thăm thẳm, cái hàng ngày dễ quên lại chứa đựng cái muôn đời, phát hiện càng

sâu sắc bao nhiêu lại càng truyền cảm bấy nhiêu. Viết về cái tầm thường mà

làm sống dậy những ý nghĩa không thể xem thường.

Mạch truyện của Lão Hạc được tác giả tổ chức theo các logic quanh co

quen thuộc và tự nhiên trong nhận thức của nhân vật ông giáo. Cứ "ngộ nhận"

rồi "vỡ lẽ", rồi lại "ngộ nhận" để rồi cuối cùng kết thúc bằng một "vỡ lẽ"

muộn màng hụt hẫng. Nam Cao lại dựng được một cấu trúc cảm hứng- ý

tưởng đa tầng để mạch truyện tải được trọn vẹn đến ba cảm hứng lớn, khiến

câu chuyện đơn sơ mà có sức chứa, sức nén không ngờ: Vừa triết luận về vấn

đề nhìn đời bằng đôi mắt tình thương: “Chao ôi! Đối với những người quanh

ta, nếu ta không có mà tìm hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần

tiện, xấu xa, bỉ ổi...toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy

họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương”; vừa triết lý về

kiếp sống cực nhọc của kiếp người: "Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp

58

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút(...) nếu

kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng? (...) chẳng kiếp

gì sung sướng thật ”; và thêm một cảm hứng nữa là khám phá những bí mật

của người nông dân Việt Nam.

Giáo sư Trương Chính đã nhận định "Truyện Lão Hạc là một bức tranh

thu nhỏ về đời sống nông dân, thời gian từ cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai

đến trước Cách mạng tháng Tám" [33, tr.285]. Vấn đề có ý nghĩa xã hội lớn

nhưng cũng có những vấn đề rất riêng đó là câu chuyện tình cha con. Truyện

có một mạch chìm: Đây là câu chuyện cảm động, day dứt về một lão nông

dân nghèo nhưng giàu lòng tự trọng đến khảng khái! So với những hình tượng

khác như Lộ (Tư cách mõ) bà lão (Một bữa no), Chí Phèo (Chí Phèo), Hộ

(Đời thừa), Thứ (Sống mòn) thì lão Hạc không chịu quỵ ngã dù bị cái nghèo

cái đói và nguy cơ sa đọa về nhân phẩm đe dọa.

Là người đòi hỏi rất cao về việc luôn luôn đổi mới, sáng tạo trong văn

chương, Nam Cao đã đem lại sự cách tân to lớn, sâu sắc trong văn xuôi Việt

Nam đang trưởng thành nhanh chóng theo hướng hiện đại hóa. Có điều là mặc

dù đổi mới táo bạo, truyện của ông lại không hề có dáng vẻ độc đáo gì đặc

biệt ở bề ngoài mà thường rất mực dung dị, tự nhiên, hết sức gần với đời sống

thực bình thường hàng ngày xung quanh. Song đó là sự dung dị tự nhiên chỉ

có thể có ở một cây bút già giặn bậc thầy. Một số truyện ngắn như Cười,

Quên điều độ, Đời thừa…không có một cốt truyện đầy kịch tính, éo le, ly kỳ,

không có những diện mạo, ngôn ngữ, hành vi độc đáo đọc một lần làm nhớ

mãi.

Cốt truyện Đời thừa khá đơn giản, có thể nói là xoàng xĩnh. Chuyện

diễn ra trong một không gian hẹp: có hai vợ chồng hay va chạm vì cảnh

nghèo, nhưng không có gì gay gắt và không gây biến cố gì đáng kể...Song từ

những chuyện dường như tầm thường trong sinh hoạt gia đình hàng ngày ấy,

59

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

nhà văn đã đặt ra những vấn đề mang ý nghĩa xã hội, nhân sinh to lớn, sâu

sắc, vừa là những cảnh đời rất thực, rất quen thuộc, vừa đầy ắp suy nghĩ, tư

tưởng. Đạt được như vậy chính vì nhà văn đã sống hết sức sâu sắc cuộc sống,

đã quan sát, mổ xẻ, suy ngẫm về tất cả những gì trải nghiệm. Câu chuyện Đời

thừa chỉ xoàng xĩnh thế thôi, nhưng bao vấn đề hệ trọng trong đời sống tinh

thần thời đại đã được đặt ra một cách đầy ám ảnh: cá nhân và xã hội, lý tưởng

và hiện thực, nghệ thuật và tình thương, nhân cách và hoàn cảnh.

Một số truyện ngắn của Nam Cao có kết cấu để ngỏ. Điểm mở đầu và

điểm kết thúc của trần thuật không phải bao giờ cũng trùng hợp với điểm mở

đầu và kết thúc của cốt truyện.

Ví dụ, trong những sáng tác dân gian, nói chung là có sự trùng hợp đó.

Truyện Cây khế bắt đầu khi cha mẹ chết sớm, hai anh em chia gia tài, người

anh giành hết của cải, chỉ để cho em có một cây khế và kết thúc bằng cái chết

của người anh tham lam. Đó là kết cấu khép kín. Nhưng trong văn học viết

nói chung tình hình ngược lại. Tác phẩm thường mở đầu khi sự kiện đã xảy ra

rồi và kết thúc ở điểm khi sự việc chưa hoàn thành xong xuôi. Khoảng cách

khách quan từ điểm mở đầu trần thuật cho đến kết thúc trần thuật càng rút

ngắn thì tác phẩm càng có nhu cầu tăng cường các thành phần hồi thuật, hồi

tưởng bổ sung về các sự kiện xảy ra trước điểm mở đầu của trần thuật. Chẳng

hạn tiểu thuyết Sống lại của L.Tônxtôi, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, truyện

Chí Phèo của nhà văn cũng như vậy.

Việc xác định đúng điểm mở đầu và điểm kết thúc trần thuật có ý nghĩa

lớn để làm nổi bật chủ đề. Chẳng hạn mở đầu bằng Nhật đảo chính Pháp và

kết thúc bằng khởi nghĩa thắng lợi 1945, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi tập

trung thể hiện vai trò tổ chức, lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng tháng

Tám. Mở đầu bằng cái chết của viện trưởng Uxpenxki và kết thúc bằng việc

gạt bỏ một tên cơ hội muốn chiếm vị trí lãnh đạo nghiên cứu, rõ ràng tiểu

60

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

thuyết Thao thức của Crôn muốn biểu hiện vấn đề người kế vị lãnh đạo của

một viện khoa học. Cũng như vậy, mở đầu bằng việc “hắn vừa đi vừa chửi”

và kết thúc bằng cái chết bên xác kẻ thù trong truyện Chí Phèo, Nam Cao tập

trung biểu hiện một vấn để xã hội của nhân vật: niềm uất hận chưa được ý

thức, lòng khao khát mơ hồ muốn trở lại làm người lương thiện. Tác phẩm

không thể được mở đầu và kết thúc một cách ngẫu nhiên, tuỳ tiện, nếu như

muốn nâng cao tầm tư tưởng khái quát của nó.

Những kết thúc trong truyện ngắn trước Cách mạng của nhà văn

thường là bỏ ngỏ như vậy. Kết thúc không có hậu, kích thích trí tuệ đối với

người đọc và tạo cơ hội đồng sáng tạo của người đọc với nhà văn.

Kết thúc trong truyện Nghèo là cái chết của anh đĩ Chuột trong tiếng

đòi nợ:

“- Bu mày đâu?

Tiếng cái Gái rụt rè đáp lại:

- Bẩm bà, bu con đi vắng

- Đi vắng! Đi vắng mãi! mày về bảo con mẹ mày nội ngày mai trả tiền

không trả tiền tao thì tao đào mả lên đấy. Cái giống chỉ biết ăn không.

Anh đĩ Chuột rít hai hàm răng lại. Hai chân giận dữ đạp phắt cái ghế đổ

văng xuống đất. Cái tròng rút mạnh lại. Cái bộ xương bọc da giãy giụa như

một con gà bị bẫy, sau cùng, nó chỉ còn gật từng cái chậm dưới sợi thừng lủng

lẳng.

Ở ngoài ngõ, mẹ con chị Chuột vừa kêu vừa khóc vừa van lạy. Bà

Huyên nhất định bắt mẻ gạo mới đong để trừ sáu hào nợ chị Chuột vay từ hai

tháng trước cho chồng uống thuốc”.

Khi đọc xong cái kết này, bạn đọc sẽ âm thầm tự hỏi rồi cuộc sống hai

mẹ con chị sẽ đi về đâu, như thế nào khi người cha, người chồng mất đi. Chắc

chắn nỗi túng quẫn và mối nợ vẫn bám theo họ...

61

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Những mảnh đời như dì Hảo, Nhu sẽ phải cam chịu nhẫn nhục đến lúc

nào nữa, cuộc sống những đứa trẻ thơ sẽ thế nào, rồi lão Hạc, Chí Phèo, lang

Rận cũng đã chết nhưng không phải mọi vấn đề được giải quyết, cả Điền, Hộ

và những người nghèo khác sẽ phải đối mặt cuộc sinh nhai thế nào mà vẫn

giữ được mình... Bao vấn đề hiện thực vẫn đặt ra, như chất chứa, nhiều ngổn

ngang trong các sáng tác của ông.

Có thể nói, để viết truyện được hay và độc đáo, các nhà văn đều phải

phối hợp ăn ý được rất nhiều yếu tố, trong đó xây dựng cốt truyện kết cấu là

một yếu tố. Và để hoàn thành tốt công đoạn này nhà văn cần phải biết triển

khai các chi tiết, tình tiết, sự kiện. Trong các tác phẩm của mình, Nam Cao đã

triển khai các chi tiết, tình tiết, sự kiện bằng khả năng nắm bắt tâm lý nhân

vật.

2.3.2. Triển khai các chi tiết, tình tiết, sự kiện trong việc phản ánh

hiện thực và nắm bắt nội tâm.

Chất liệu cơ bản làm nên cốt truyện chính là các sự kiện có tác động và

ảnh hưởng đáng kể đến số phận và tính cách nhân vật. Trong đó, những sự

kiện quan trọng, tạo thành bước ngoặt trong cuộc đời nhân vật là các biến cố,

còn những yếu tố cụ thể tạo nên sự kiện được gọi là những tình tiết. Truyện

ngắn Chí Phèo của Nam Cao có cốt truyện là một hệ thống các sự kiện: Chí

Phèo ra tù và trở thành con quỷ dữ, quay trở lại sự kiện Chí Phèo làm thuê

cho nhà Bá Kiến, bị Bá Kiến đẩy vào tù vì ghen, rồi đến sự kiện Chí Phèo gặp

Thị Nở, cuối cùng Chí Phèo đâm chết Bá Kiến đòi lương thiện. Trong cốt

truyện, trình tự các sự kiện có thể bị đảo lộn chứ không nhất thiết phải theo

một trình tự nhất định như đời sống thật. Như ví dụ trên, tình tiết Chí Phèo

vừa đi vừa chửi của hiện tại đã được đưa lên làm mở đầu rồi sau đó mới đến

tình tiết Chí Phèo được sinh ra như thế nào trong quá khứ...Việc thay đổi như

vậy nhằm gây ấn tượng với người đọc hoặc làm bật lên tư tưởng chủ đề của

62

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

tác phẩm. Trong truyện ngắn này, chi tiết bát cháo hành mà Thị Nở nấu mang

đến cho Chí Phèo được coi là một trong những chi tiết đắt giá, có tầm quan

trọng lớn trong công việc thay đổi cái nhìn cuộc đời và khơi dậy tấm lòng

lương thiện của nhân vật này.

Kết cấu tâm lý khiến cho nhiều truyện của nhà văn không diễn biến theo

trình tự thời gian, không gian thông thường mà theo dòng tâm trạng nhân vật.

Do vậy mà các chi tiết, sự kiện, tình tiết cũng phải sắp xếp theo dòng tâm

trạng nhân vật.

Thông thường ở một tài năng tiểu thuyết thì sức mạnh tư duy tập trung

ở hình tượng nhân vật. Đọc Nam Cao, người ta có ấn tượng rõ rệt về các nhân

vật, tính cách, đồng thời lại cảm nhận sâu sắc cách nhìn của tác giả đối với

cuộc sống, tấm lòng của ông với con người. Ở Nam Cao có một sự kết hợp

hiếm có giữa năng lực quan sát miêu tả, nắm bắt những chi tiết của cuộc sống,

xây dựng những hình tượng, những bức tranh xã hội sinh động và một giọng

trữ tình kín đáo, thiết tha, vừa xót thương cho những người bất hạnh, vừa

chua chát trước điều nhố nhăng, vô nghĩa, luôn khát khao sự thay đổi hướng

về cái nhân bản, tốt đẹp.

Độc giả khi đọc và cảm nhận tác phẩm của Nam Cao hẳn không thể

quên được sức thu hút từ những chi tiết rất chân thực.

Trong truyện Nghèo, các chi tiết, tình tiết nói về cái nghèo liên tục xuất

hiện, chi tiết “chè” mà bọn trẻ nhỏ nghe thấy mẹ nói là sắp được ăn đấy lại là

“cám”, không phải chè ngọt mà là cám ăn khé cả cổ họng, từ đó gợi đến cảnh

sống lôi thôi lếch thếch của nhà nghèo đói: “Chị vừa lẩm bẩm, vừa dập lửa

với bắc cái nồi ở trên bếp xuống, lấy một cái vỏ trai múc vào mấy cái bát sành

sứt mẻ lung tung, đặt ngay trên mặt đất. Thằng cu Bé vội vàng lê xích lại gần,

hai mắt lấp lánh đổ dồn cả vào mấy bát “chè” màu nâu đục...

63

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

(...)Thằng cu chừng đói quá không chịu được, lại há mồm ra. Mẹ nó đút

cho nó một sêu nhỏ nữa. Nó nhắm mắt, duỗi cổ, cố nuốt cho trôi. Nhưng cũng

như lần trước, nó lại oẹ ra và khóc ào lên. Chị đĩ Chuột lấy tay áo lau nước

mắt không cầm nổi đã trào ra hai má hõm xanh bủng như người ngã nước. Cái

Gái lấy tay di một cục “chè”. Rồi bỗng nói to lên:

- À! Con biết rồi! Không phải chè, cám mà! Cám mà bu bảo chè!...”.

Từ những điều ấy chắp nhặt lại, anh đĩ Chuột đã nghe thấy, hiểu được

cảnh mẹ con đang đói khát ngoài kia, còn mình ốm nằm đấy, rồi cái nghèo,

cải tủi hận, cái tức tối… cứ trào lên trong lòng anh. Những chi tiết, tình tiết cứ

trùng điệp xuất hiện sự kiện cuối truyện: Anh đã kết thúc sự sống của mình.

Cái cảnh nghèo đói đó là hiện thực chung của các gia đình nghèo đói thời kỳ

ấy.

Trong các tác phẩm văn học, chi tiết nghệ thuật mang sức chứa lớn về

cảm xúc, tư tưởng và có khả năng “nói” nhiều hơn bản thân nó.

Đọc Lão Hạc bạn đọc được biết đến một ông lão nông thôn nhân hậu

và giàu đức hi sinh đồng thời cũng thấy được tấm lòng của lão Hạc với con

chó Vàng. Không có con chó Vàng có lẽ truyện Lão Hạc không thể sâu lắng

và cảm động đến thế.

Dùng con vật như một đối sánh để khắc hoạ chân dung con người

không còn là một thủ pháp nghệ thuật xa lạ. Trở đi trở lại trong nhiều tác

phẩm Nam Cao, con chó đã thực sự là một tình tiết nghệ thuật đắt giá. Vậy

mà ám ảnh hơn cả vẫn là cậu Vàng của ông lão. Ở đây, con chó không chỉ

sắm một vai truyện, cậu Vàng còn như một phần của lão Hạc. Liệu có thể

hình dung đầy đủ về lão Hạc không, nếu thiếu đi con chó ấy?

Ông giáo trong truyện vô cùng quý những cuốn sách của mình, nhưng

với ông, sách chỉ là một kỷ vật về một thời đầy mơ ước, và cũng chỉ thế thôi!

Con chó Vàng với lão Hạc thì biết bao ý nghĩa. Nó là một tài sản (lão lẩm

64

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

bẩm quy ra tiền), một vật nuôi (định bụng lúc cưới thằng con sẽ thịt), nó còn

là kỷ vật của đứa con trai, một mối dây liên lạc lạ lùng giữa lão với đứa con

vắng mặt. Song, đặc biệt hơn hết nó là một thành viên trong gia đình lão Hạc.

Có một đứa con độc nhất thì đã bỏ lão mà đi. Sống cô quạnh trong một tuổi

già trống trơ, lạnh lẽo, lão có một nhu cầu rất tự nhiên: được làm cha, làm ông

nội. Bao nhiêu tình cảm chất chứa trong lòng, lão dồn hết vào con chó, lão coi

nó như một đứa con, rồi chăm chút cưu mang như một đứa cháu nội bé bỏng,

côi cút: lão bắt rận, lão tắm, lão trò chuyện âu yếm, lão gọi là "cậu Vàng như

bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự", lão mắng yêu, cưng nựng ...Cứ thế, ranh giới

của sự phân đẳng người - vật đã bị xoá nhoà tự bao giờ.

Khi đến với cái chết, lão tự đánh bả chính mình - tự chọn cho mình cái

chết thê thảm của một con chó. Đó cũng chính là cách lão tự chuộc lỗi với cậu

Vàng. Kết cục đến với lão Hạc là bị hai kẻ lực lưỡng đè lên lưng, lão rũ rượi,

sùi bọt, vật vã, còn con chó cũng bị thằng Mực và thằng Xiên đè lên. Con chó

luôn là bạn đồng hành chia ngọt sẻ bùi với ông lão, cũng chính nó ở bên cạnh

lão Hạc và làm nổi bật lên những đức tính cao cả nhất của lão - đức tính mà

không mấy ai có được.

Những ý nghĩa bạn đọc thấy được trong các truyện của Nam Cao thật

đặc biệt: Trước hết là do nhà văn có một quan niệm về cuộc sống: "Sống tức

là cảm giác và tư tưởng. Sống cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là

phần phụ. Có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động". Một quan niệm

về con người như thế đã chi phối thi pháp chủ nghĩa hiện thực tâm lý của

Nam Cao. Sự chú ý đặc biệt tới thế giới bên trong của con người đã thường

xuyên chế ước hứng thú nghệ thuật ngày càng tăng của nhà văn đối với tính

chất nhiều dự định của cá tính con người, động cơ nội tại của hành vi nhân vật

và quan hệ phức tạp của nó với hiện thực xung quanh.

65

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Đối với Nam Cao, cái quan trọng hơn cả trong nhiệm vụ phản ánh chân

thật cuộc sống là cái chân thật của tư tưởng, của nội tâm nhân vật. Xét cho

cùng, cái quan trọng nhất trong tác phẩm không phải là bản thân sự kiện, biến

cố tự thân mà là con người trước sự kiện, biến cố. Vì vậy, trong sáng tác của

nhà văn, hứng thú của những chi tiết tâm lý thường thay thế cho hứng thú của

chính bản thân các sự kiện, biến cố. Như một nguyên tắc, các sự kiện, biến cố,

tình tiết chỉ giữ vai trò "khiêu khích" các nhân vật để cho nhân vật bộc lộ

những nét tâm lý, tính cách của mình. Cho nên, trong Mua nhà, Nam Cao

không tập trung miêu tả sự việc mua được cái nhà gỗ rẻ mà tập trung xoáy sâu

vào những suy nghĩ dằn vặt, những ân hận, giày vò của nhân vật người kể

chuyện về tình trạng "hạnh phúc chỉ là một cái chăn quá hẹp. Người này co

thì người kia bị hở".

Đời thừa cũng không hướng ngòi bút vào việc miêu tả nỗi khổ áo cơm

mà tập trung thể hiện phản ứng tâm lý của con người trước gánh nặng áo cơm

làm mai một tài năng và xói mòn nhân cách. Trước khi bán một con chó mà

lão Hạc phải trải qua biết bao băn khoăn, day dứt, dằn vặt, và khi buộc phải

bán nó thì lão vô cùng ân hận, tột cùng đau đớn, tuổi già mà khóc hu hu như

con nít. Chí Phèo, con quỷ dữ của làng Vũ Đại, ăn trong lúc say, ngủ trong

lúc say, như là con vật sống trong vô thức, vậy mà sau lần gặp Thị Nở ở bờ

sông, Chí Phèo cứ "vẩn vơ nghĩ mãi". Còn Thị Nở, người đàn bà vô tâm có

cái tật đột nhiên muốn ngủ không sao chữa được, về nhà lên giường định ngủ

hẳn hoi mà vẫn không sao ngủ nổi…Nam Cao chẳng những miêu tả sinh động

những chi tiết, những biểu hiện tâm lý nhỏ nhất mà còn theo dõi, phân tích

quá trình tích tụ của chúng dẫn tới sự nảy sinh những phẩm chất mới trong

tâm hồn con người. Không chỉ dừng lại ở những khoảnh khắc, Nam Cao đã

miêu tả thành công những quá trình tâm lý của nhân vật. Ngòi bút của ông tỏ

ra có biệt tài trong khi miêu tả những trạng thái tâm lý phức tạp, những hiện

66

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

tượng lưỡng tính dở say dở tỉnh, dở khóc dở cười, mấp mé ranh giới giữa

thiện và ác, giữa hiền với dữ, giữa con người với con vật...Nam Cao đã khắc

phục được tính phiến diện, đơn giản trong việc miêu tả tâm lý nhân vật. Qua

ngòi bút của ông, tâm lý con người được thể hiện một cách phong phú, đa

dạng với nhiều sắc thái tinh vi.

Đôi khi, trong tác phẩm văn học, truyện có các sự kiện nhưng lại được

coi là "không có truyện". Nhiều tác phẩm của Nam Cao cũng được coi là

"không có truyện", từ đầu đến cuối truyện không có gì thay đổi, nếu có cũng

không có gì to lớn. Đời thừa, Cười, Quên điều độ...là những truyện như vậy.

Truyện ngắn Thạch Lam cũng được coi là không có truyện. Đó là

chuyện để mài sắc thêm cảm giác con người về cuộc sống. Thanh (Dưới bóng

hoàng lan) về với bà rồi đi để xác nhận cảm giác hạnh phúc. Nhà mẹ Lê xác

nhận tương lai đen tối của mười đứa trẻ mồ côi. Hai đứa trẻ với chi tiết cố

thức chờ con tàu chạy qua để xác nhận khát vọng ánh sáng và nhận rõ thêm

cuộc đời tối tăm chưa có lối thoát.

Nhà nghiên cứu A.Chuđacốp nghiên cứu truyện của A.Sêkhốp và nhận

thấy trong truyện ngắn của Sêkhốp sự kiện không ít hơn trong truyện của bất

cứ nhà văn nào, song người ta vẫn cho rằng truyện của ông "không có

truyện". Đó là vì thông thường sự kiện lớn phải cho kết quả lớn, thay đổi lớn,

nhưng các sự kiện trong truyện ngắn của ông thì tuy có diễn ra nhưng không

có kết quả, không làm thay đổi gì cả. Hiện tượng "không có truyện" của ông

đã nêu ra một sự kiện lớn của đời sống, đó là quan niệm về sự bất biến, không

đổi thay của thực tại.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan lại có quan niệm rõ về biến cố trong

truyện của mình. Ông nêu câu hỏi: “Mọi việc xảy ra ở trên đời, khi nào thì nó

thành truyện? Có hai trường hợp, đó là khi sự việc bình thường sinh ra hậu

quả bất thường, hai là khi sự việc bất thường sinh ra hậu quả bất thường”.Như

67

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

vậy, đối với ông truyện phải cho hậu quả bất thường mới có ý nghĩa, mới

đáng viết thành truyện. Sự kiện trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan không

chỉ bất thường mà còn ngược đời, ngược đời một cách tồi tệ. Trước hết là sự

kiện ngược lại với lẽ phải thông thường, nó làm hiện lên một cuộc sống phi

đạo lý, phi lý.

Những nhân vật trong truyện Cười, Quên điều độ không thay đổi được

cuộc sống vốn đã rất nhàn tẻ của mình. Họ cũng có những triết lý sống cho

riêng mình, những triết lý khá độc đáo là cười và điều độ. Thường thì đó là

những biểu hiện khả quan để người ta có thể sống tốt hơn cuộc sống của

mình. Nhưng thực tế, đôi khi những điều đó lại làm hại cuộc sống của họ.

Cười và điều độ là những gì có thể huyễn hoặc được họ trong những thời khắc

nào đó để họ trốn tránh thực tế đang diễn ra. Nhân vật đưa ra mọi lập luận, lí

lẽ để được cười và thực thi kế hoạch điều độ.

Như vậy, việc triển khai các chi tiết, sự kiện để phản ánh hiện thực và

nắm bắt nội tâm có vai trò rất quan trọng trong truyện Nam Cao. Bên cạnh đó,

tác giả còn xây dựng tình huống độc đáo nhằm thử thách nhân vật.

2.3.3 Xây dựng tình huống độc đáo thử thách nhân vật - sức đột phá

của tình huống rất lớn.

Đối với nghệ thuật truyện ngắn, việc xây dựng tình huống truyện là một

khâu then chốt, nói như nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thì "tình huống

giống như thứ nước rửa ảnh, nó sẽ làm nổi hình nổi sắc các nhân vật, bộc lộ

các số phận, tính cách, các tâm trạng, đồng thời làm bật nổi các vấn đề nhà

văn muốn đặt và tư tưởng ông ta muốn phát biểu" [33, tr.315].

Nhà văn cùng thời Nam Cao là Nguyễn Công Hoan rất giỏi sáng tạo ra

những tình huống trào phúng, đưa đến cho tác phẩm tiếng cười bất ngờ dựa

trên những nghịch lý của cuộc đời. Còn nhà văn Vũ Trọng Phụng đã xây dựng

trong truyện ngắn của mình những tình huống phản ánh sự đảo ngược những

68

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

lôgíc thông thường để giễu nhại tính chất vô nghĩa lý của cuộc đời, của con

người, trong đó hầu hết là những tình huống vô nghĩa lý có tính trào phúng.

Đặc trưng của truyện ngắn Nam Cao là truyện ngắn tâm lý, nổi bật là tình

huống bi hài kịch nội tâm.

Nếu tình huống truyện của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng

thường làm nảy sinh mâu thuẫn giữa nhân vật này với nhân vật khác thì trong

truyện ngắn Nam Cao thì tình huống truyện thường nảy sinh xung đột trong

nội tâm nhân vật. Cái tôi của nhân vật bị lưỡng hoá trở thành những tư tưởng

đối thoại và đối chọi nhau, tác giả thường đặt nhân vật của mình vào những

tình huống làm bộc lộ xung đột tư tưởng.

Tác giả đặt nhân vật vào những tình thế thử thách để lật tẩy những ý

nghĩa, những ham muốn phàm tục, những dối trá được che đậy, giấu kín.

Trong Quên điều độ, triết lý điều độ của nhân vật Hài: "Người điều độ

chính là người khôn ngoan" được đặt trong tình huống có cơ hội hưởng lạc

(Hài tình cờ gặp Thư, người bạn cũ. Thư mới Hài một tiệc rượu và một chầu

đi hát). Tình huống này đã làm cho tư tưởng thèm khát hưởng lạc và thái độ

giả dối của nhân vật Hài được bộc lộ một cách hài hước ở sự "quên điều độ".

Truyện tình là một trường hợp khác. Nhân vật chính của truyện là Lưu,

một cậu học trò ở nhà quê ra tỉnh học. Con người của thế giới hồn nhiên bình

dị này đã được tác giả đặt vào trong một tình thế có hy vọng bước sang một

thế giới khác, thế giới của những kẻ có lối sống kiểu cách, lãng mạn và giả

dối ở thành thị. Tình huống bi hài ở đây là những lời hứa hẹn của Kha, bạn

học của Lưu (một nữ học sinh con nhà giàu). Những lời hứa hẹn của Kha đã

làm cho Lưu hy vọng có được tình yêu của Kha. Nghỉ hè nhưng Lưu vẫn

không về quê, nói dối mẹ là ở lại học, nhưng thực ra là để được gần Kha, Kha

dạy đàn cho Lưu. Nhưng rồi những lời hứa của Kha chỉ là hứa hão, Kha bỏ

mặc Lưu ở nhà để đi chơi với những người bạn khác. Lưu vẫn biết là mẹ và

69

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

em đang mỏi mắt mong chờ, nhưng "vẫn đem ngày giờ quý hoá ăn cắp của

mẹ" để "phụng sự một con sáo, mua cái lồng mới đáng giá ba hào rưỡi và cho

thế là hạnh phúc...". Trong khi đó em Lưu ở nhà ốm nặng, sắp chết, người cậu

đến báo tin mới về thăm em thì đã quá muộn.

Truyện Cười khơi sâu vào đời sống nội tâm của người trí thức tiểu tư

sản. Cuộc sống nghèo với những lo toan cơm áo hàng ngày đã làm cho quan

hệ vợ chồng vốn rất thuận hoà, yêu thương trở nên căng thẳng bởi những bất

hoà vô nghĩa lý, ngu xuẩn. Nhân vật "hắn" trong truyện thường phải dùng

tiếng cười gượng gạo, thiểu não, tội nghiệp của mình như một "liều thuốc giải

uất".

Trong truyện Một đám cưới, Nam Cao đưa ra một tình huống là một

cảnh ngược đời. Nguyễn Công Hoan cũng rất "khoái" những tình huống

ngược đời để gây cười và châm biếm. Chẳng hạn, Thật là phúc mà thật là hoạ,

Một tấm gương sáng là một tấm gương tồi, Báo hiếu trả nghĩa cha, Báo hiếu

trả nghĩa mẹ là những chuyện đại bất hiếu, Đào kép mới là đào kép cũ, Xuất

giá tòng phu là tòng phu "xuất giá", Tinh thần thể dục là "phản tinh thần thể

dục"…Dưới ngòi bút Nguyễn Công Hoan, tất cả trở thành những tình huống

trào phúng. Ở Nam Cao thì khác, ông tạo nên cảnh ngược đời để càng làm nổi

bật số phận bi thảm và cái cay cực chua chát của những cảnh đời nghèo khổ.

Quên điều độ nói chuyện thèm ăn khát uống, Một bữa no để diễn tả cái đói

đến thê thảm của bà cái Tí, cũng như vậy Một đám cưới không phải để nói

chuyện sum vầy hạnh phúc mà để nói nỗi bất hạnh và sự chia lìa của bố con

cái Dần.

Đó là một đám cưới bất dắc dĩ, cưới vội vàng, bỏ hết mọi lễ nghi tối

thiểu: đám cưới mà như đám xẩm, cưới để bớt một miệng ăn, để trừ nợ, cưới

để lấy dăm đồng bạc làm vốn lên rừng...Sau đám cưới là sự tan rã của một gia

đình. Giá như Dần không bắt buộc phải cưới thì gia đình nhỏ của mấy bố con

70

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

lại sống hạnh phúc dù phải rau cháo nuôi nhau, miễn là không ai phải rời xa

ai. Đám cưới của Dần khiến người bố thấy đau buồn và cũng nghĩ liều một

thân một mình lên rừng làm ăn.

Trong truyện Lang Rận, nhân vật bị đặt vào tình huống túng quẫn, hai

con người nghèo khổ, xấu xí, bị đời khinh bỉ, tình cờ gặp nhau và có tình với

nhau. Mối tình ấy bị coi là hài hước và bị biến thành trò giải trí quái ác của

mấy kẻ quá buồn chán vì phải sống một cuốc sống quẩn quanh, đơn điệu, tẻ

nhạt và vô nghĩa. Kết cục là cái chết xảy ra với lang Rận vì quá xấu hổ, quá

túng quẫn. Những con người này không chỉ có nỗi khổ về vật chất, mà còn có

nỗi đau đớn về tinh thần do bị xã hội khinh bỉ, lăng nhục - một môi trường

tiểu tư sản thị dân ích kỷ, ngu xuẩn, vô nghĩa lý, sống quẩn quanh mòn mỏi,

mất dần nhân tính.

Trong văn Nam Cao xuất hiện rất nhiều những tình huống bất ngờ,

những tình thế đảo ngược và những yếu tố khác thường như là dấu hiệu báo

trước, là lý do của những gì sắp xảy ra. Vào cái buổi chiều Thị Nở đi ra sông

lấy nước để rồi ngủ quên bên vườn chuối nhà Chí Phèo, dẫn đến cuộc tình

duyên kỳ ngộ, Nam Cao viết:

"Chiều hôm ấy, Thị Nở cũng ra sông kín nước như mọi chiều. Nhưng

chiều hôm ấy, trăng lại sáng hơn mọi chiều, trăng toả trên sông và sông gợn

biết bao gợn vàng".

(Chí Phèo)

Một trong những đặc điểm nổi bật trong truyện ngắn Nam Cao là ông

sử dụng rất tài tình cả một hệ thống các tình huống truyện dưới dạng tình

huống nhận thức - lựa chọn gắn chặt với những tình huống tâm lý và trên cơ

sở miêu tả, lý giải mọi khía cạnh phong phú, phức tạp của quá trình này mà đi

sát vào thế giới tâm lý của con người, vào những đối thoại tư tưởng giữa nhà

văn với người đọc. Những tư tưởng triết lý, những quan điểm đạo đức, nhân

71

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

sinh ấy được cảm nhận từ hệ thống tình hình tượng, từ những rung động thẩm

mĩ. Nhiều nhà nghiên cứu văn học hiện đại cho rằng tính phức điệu trong văn

xuôi Việt Nam trước 1945 chỉ xuất hiện trong sáng tác của Nam Cao mà thôi.

Không ít truyện của Nam Cao vẫn khá đậm nét những chuyện kể nhưng

nhìn toàn thể thì có thể thấy rất rõ ông không đi tìm kiếm cốt truyện mà chủ

yếu là nêu ra những tình huống của đời sống, những hoàn cảnh.

Khác với Nguyễn Công Hoan khi đã có một tình huống thì "bắt vít"

nhân vật vào đó, đẩy nó tới một hành động mà tác giả đã lựa chọn, Nam Cao

đẩy nhân vật của mình vào một hoàn cảnh rồi để cho nó hành động trong

nhiều mối liên hệ nổi và chìm, có thể sẽ thế này mà cũng có thể khác (về mặt

hình thức) nhưng thực ra bắt nó phải nhận thức tình thế của mình và lựa chọn

con đường thoát ra khỏi tình huống đó như một tất yếu phải như thế.

M.Bakhtin khi nghiên cứu thi pháp của tiểu thuyết đã khẳng định:

“Hình thức nghệ thuật được hiểu đúng nghĩa không trình bày các nội dung có

sẵn, đã tìm thấy mà lần đầu tiên cho phép tìm thấy, trong cái nội dung ấy”. Có

thể nhận thấy điều này khá rõ ở các tình huống nhận thức - lựa chọn trong các

tác phẩm của Nam Cao.

Hầu hết các truyện của Nam Cao đều đặt nhân vật trước các tình huống

xảy ra nhiều cách lựa chọn, nhiều quyết định, nhiều lối thoát. Khi đã rơi vào

tình huống nào đó, nhân vật bắt đầu một quá trình liên tiếp của những nhận

thức hoàn cảnh, bản thân, đánh giá mọi khả năng có thể xảy ra và lựa chọn

thái độ ứng xử của mình. Mọi trạng thái, tâm lý của nhân vật đều được tác giả

phanh phui, lý giải đầy sức thuyết phục mà trong các nhà văn sau này có

chăng chỉ Nguyễn Minh Châu mới có thể tiếp thu được một phần kinh nghiệm

nghệ thuật của Nam Cao.

Trong hầu hết các truyện gắn với loại tình huống này như Một chuyện

Xú- vơ- nia, Đui mù, Nghèo, Truyện tình... chỉ tồn tại một tình huống nhận

72

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

thức - lựa chọn làm xương sống cho truyện và quá trình phát triển tâm lý của

nhân vật thường tương đối đơn giản, thuận chiều. Nhân vật, thường là sau khi

nhận thức được hoàn cảnh, hiểu đúng nó và cảnh ngộ của mình đã có một

quyết định khá chính xác, phù hợp với cả lôgic đời sống, lẫn đạo lý nhưng rồi

sau đó lại phải hối hận vì sự lựa chọn của mình. Nỗi ân hận ở đây không phải

vì mình đã sai lầm trong cái quyết định cuối cùng của sự lựa chọn mà là sự

thất vọng do đã phát hiện ra sự thật. Hàn trong Một truyện Xú -vơ-nia từ khi

phát hiện ra sự thật của một mối tình thơ mộng của mình đã hoàn toàn thay

đổi cả một quan niệm sống: "nó sửa đường cho một cuộc đổi thay. Rất nhiều

mộng mơ tan. Một chút thẹn thùng. Một chút lòng thương. Nhưng tình yêu thì

nhất định không còn nữa". Hàn, sau khi phát hiện ra sự thật đã đánh mất luôn

cả bản thân mình, không còn là mình. Tình huống truyện ở đây bề ngoài mang

màu sắc hài kịch nhưng bên trong chứa đầy tính bi thảm của cuộc sống con

người - cái bi kịch ấy nếu chỉ thoáng qua sẽ không thể phát hiện ra.

Hùng trong Đui mù ngẫu nhiên chứng kiến sự phản bội của người khác

đã phải dằn vặt rất nhiều trước khi quyết định kiểm tra lòng chung thuỷ của

người yêu. Thật trớ trêu những điều anh ta "phát hiện" ra lại quá trái ngược

với điều anh ta mong đợi. Thế là bắt đầu một bi kịch mới: bi kịch vỡ mộng.

Cách xử lý của anh ta hợp với lẽ phải thông thường, nó có sự tỉnh táo của lý

trí (chia tay với người yêu đã phản bội mình), nhưng trái tim thì vẫn âm thầm

rỉ máu, bi kịch của Hùng tới tầm khái quát hơn: "Tôi hối hận. Thà rằng tôi cứ

ở chúi xó thôn quê ấy để âm thầm ca tụng lòng chung thuỷ của Nga, thà rằng

tôi cũng đui mù như anh lính nọ lại được hoàn toàn sung sướng hơn là tìm

đến sự thực để thất vọng vì sự thực". Cũng như Hàn (Một truyện Xú-vơ-nia),

Hùng phải trả giá cho phát hiện của mình bằng cả một cuộc đời khác mà từ

sau lựa chọn ấy hạnh phúc trong tình yêu, sự yên tĩnh trong cuộc sống cũng

vĩnh viễn chấm dứt.

73

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Có những truyện xoay quanh một tình huống mà nhân vật chính hoàn

toàn tỉnh táo khi phân tích, đánh giá hoàn cảnh, nhận thức chính xác chỗ đứng

của mình, thậm chí biết được và hoàn toàn có khả năng để thoát ra khỏi hoàn

cảnh ấy nhưng lại lựa chọn một thái độ ứng xử ngược lại: đầu hàng hoàn cảnh

để tiếp tục bị đoạ đày, đau khổ và bị day dứt, vật vã vì sự đầu hàng ấy. Bằng

những khổ đau, thất vọng của mình khi phải chấp nhận sự lựa chọn ấy, nhân

vật phản tỉnh người đọc. Dì Hảo, Ở hiền, Đời thừa, Mua nhà, Sống mòn...có

kiểu tình huống này.

Trước khi lấy chồng Nhu chủ trương sống "hiền" - một cách ở hiền bản

năng, vô thức...Lớn lên, va chạm với cuộc sống, Nhu thấy người khác đâu có

ở hiền, chịu đựng hậu quả của cách ở hiền của mình, nhân vật bắt đầu tự vấn:

"Tại sao trên đời này có nhiều sự bất công đến thế? Tại sao ở hiền không bao

giờ cũng cũng gặp lành? Tại sao những kẻ hay nhịn, hay nhường thì thường

lại chẳng được ai nhường nhịn mình; còn những kẻ thành công thì hầu hết lại

là những người rất tham lam, chẳng biết nhường nhịn ai, nhiều khi lại xảo trá,

lọc lừa và tàn nhẫn, nhất là tàn nhẫn?...". Thông thường một khi nhận thức đã

được đào sâu đến thế thì nhân vật sẽ tìm cách để thoát ra khỏi tình huống ấy

bằng cách phản kháng lại hoàn cảnh. Nhưng nhân vật của Nam cao lại có

cách xử lý hoàn toàn khác: đó là cam chịu.

Ở Dì Hảo và Ở hiền tác giả đã chỉ ra cho nhân vật hàng loạt giải pháp

có thể lựa chọn: Nhu có thể không cho anh trai tiền đi chơi, có thể mắng con

ở, có thể không đi lấy chồng, có thể không cho chồng cưới vợ hai, có thể kiện

chồng tình phụ...và dì Hảo có thể hoàn toàn tự làm nuôi mình, sống thanh

thản hơn chứ không phải để chồng lấy tiền của mình uống rượu, lấy vợ bé và

đánh đập dì như đập vải, như đòn thù...Song mọi lối thoát ấy chỉ là các khả

năng mà người ngoài cuộc có thể lựa chọn chứ Nhu hay dì Hảo lại chọn cách

giải quyết bất ngờ nhất, phi lý nhất. Cách ấy phi lý với lôgic thông thường

74

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

nhưng nó phù hợp với lôgic hiện tại của nhân vật. Dì Hảo "biết giận dì" và

Nhu thì "đã vâng theo cái bản tính hiền lành" của mình, nghĩa là các nhân vật

của Nam Cao có cái lý của mình khi lựa chọn các giải pháp đang đặt ra trước

họ.

Qua các lựa chọn ấy Nam Cao nói với độc giả bao nhiêu chiêm nghiệm,

nghiền ngẫm về cuộc đời. Đâu cứ "ở hiền" sẽ gặp lành, đâu phải cứ "một điều

nhịn là chín điều lành", cái mặt trái của các quan niệm đã thành đường mòn

ấy trong đời sống trở nên cụ thể và nghiệt ngã biết chừng nào. Đây là một đối

thoại tư tưởng của nhà văn với bạn đọc mang tính triết học về đời sống rất ít

gặp trong văn học Việt Nam giai đoạn này. Nhưng những tình huống này

chưa phải là những tình huống bi thảm nhất trong truyện của Nam Cao bởi vì

dù sao nhân vật cũng còn được là mình hay ít nhất họ cũng còn được an ủi là

sự hi sinh cho người khác của họ là một hành vi đầy chất vị tha, dù sao nó

cũng còn được thông cảm, chia sẻ.

Ở một số truyện khác như Mua nhà, Mua danh, Tư cách mõ, Một bữa

no, Trẻ con không được ăn thịt chó... tính bi kịch đậm nét hơn nhiều.

Ở các truyện này nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, khôn ngoan hiểu rõ hoàn

cảnh biết rõ việc mình làm nhưng vì sức ép của hoàn cảnh lại buộc phải lựa

chọn cái điều mang tính phản đề của những gì họ đã nhận thức. Ở loại tình

huống này có thể thấy nhân vật xưng "tôi" trong Mua nhà bị đẩy vào một tình

huống thật khó xử. Anh ta đã lựa chọn cách giải quyết có lợi cho mình về mặt

vật chất nhưng tâm hồn anh ta mất sự yên ổn, sự lựa chọn ấy báo trước một

tương lai đầy u ám, nó chỉ ra trước một câu hỏi mà không tìm thấy câu trả lời

và kèm theo đó là một nỗi hối tiếc không nguôi.

Nhân vật vừa bào chữa, vừa kết tội mình. Mâu thuẫn không thể giải

quyết giữa cái lẽ phải thông thường của nhận thức với hành vi lựa chọn cách

giải quyết vấn đề của nhân vật lại đẩy nó vào một tình huống phải nhận thức-

75

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

lựa chọn tiếp nhưng phức tạp hơn. Nhiều tiếng nói khác nhau, nhiều đối thoại

tranh cãi của những quan niệm đạo đức, nhân sinh được - thua, hơn - thiệt,

đúng - sai...và chính điều này là yếu tố quan trọng nhất tạo nên tính chất phức

điệu của tư tưởng, sự phong phú của đời sống hiện thực trong truyện của Nam

Cao.

Trong một số truyện khác như Mua danh, Một bữa no, Tư cách mõ, Trẻ

con không được ăn thịt chó và một phần nào đó của Chí Phèo có tình huống

nhận thức, lựa chọn thay đổi về chất theo chiều ngược lại. Các nhân vật chính

ở đây sau khi đã nhận thức đầy đủ, chính xác hoàn cảnh đã tìm cách biện

minh cho sự tha hoá, cho việc đánh mất nhân cách với những lý lẽ khá thuyết

phục! Lộ từ một người "lành" như đất. Cờ bạc không, rượu chè không...ăn ở

phân minh...kẻ trên, người dưới, hàng xóm, láng giềng ai cũng mến... "bị biến

thành một thằng mõ"... cũng ti tiện, cũng lầy là, cũng tham ăn như bất kỳ một

thằng mõ thực thụ nào.

Khảo sát quá trình tha hoá của nhân vật Nam Cao chỉ ra rằng "lòng

khinh trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến nhân cách của người khác nhiều

lắm" và nhà văn cho rằng sự ti tiện của Lộ là một cách phản ứng lại hoàn

cảnh. Thực ra hoàn cảnh mới chỉ là một lý do, cơ bản nhưng không phải là

quyết định. Cái chính là nhân vật đã tự chọn cho mình con đường ấy, cách

sống ấy, qua nhiều khúc ngoặt, nhiều ngả đường quanh co để dẫn tới một sự

lựa chọn thật tồi tệ.

Lần đầu tiên nhận thấy những dấu hiệu khác thường trong cách ứng xử

của những người xung quanh với mình- một thằng mõ, Lộ "bắt đầu hối hận".

Nhưng nỗi hối hận ấy lại kèm theo một cái "tặc lưỡi" đầy thách thức (bề

ngoài) nhưng thực chất là thú nhận sự đầu hàng hoàn cảnh. Thua cuộc rồi

nhưng Lộ vẫn thấy "tấm tức" với người đời, xấu hổ với vợ, không dám nhìn

thị "làm như thị đã thấy cả cái việc nhục nhã vừa rồi"..."thở ngắn, thở dài",

76

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

định trả lại vườn cho "bõ tức". Nhưng rồi hắn tháy "tiếc" cái vườn (có được

nhờ cái danh mõ làng) và "tặc lưỡi" lần thứ hai "mặc chúng nó". Cái khoảnh

khắc này đánh dấu sự biến đổi về chất của quá trình nhận thức - lựa chọn ở

nhân vật "Muốn nói, ông cho chúng mày nói chán! Ông cần gì?" và Lộ hiểu

rằng con người ta không thể vừa làm người lương thiện, sống lương thiện mà

có được cuộc sống no đủ. Hơn nữa nhu cầu tồn tại còn lớn hơn nhu cầu giữ

gìn danh dự. Như thế việc Lộ lựa chọn là hợp quy luật(!) là khôn ngoan trong

hoàn cảnh ấy(!). Đúng là Nam Cao đã đi sâu vào tâm linh con người và qua

đó phản ánh được những vấn đề chung của con người.

Như vậy tình huống nhận thức - lựa chọn trong các truyện loại này đều

mang đậm tính bi kịch nhưng bi kịch của lang Rận khác với bi kịch của Lão

Hạc, của Hộ tuy cái chết kết thúc cuối cùng của Lang Rận cũng mang tính

chất cảnh tỉnh. Nó vẫn như tia sáng trong vương quốc tối tăm, loé lên dù chỉ

một lần để chứng minh nhân cách con người trong nhân vật ấy là có thật.

Tình huống nhận thức - lựa chọn có ý nghĩa quan trọng nhất trong

truyện của Nam Cao là nhân vật nhận thức, lựa chọn cách xử lý tình huống rồi

phủ nhận nó, rồi lại tiếp tục nhận thức, lựa chọn. Quá trình này diễn ra dai

dẳng, quyết liệt hoặc là ở bề mặt, hoặc là trong chiều sâu của đời sống tinh

thần của nhân vật chính, làm xương sống cho truyện. Quá trình nhận thức lựa

chọn của Chí Phèo (Chí Phèo) hết sức phức tạp quanh co. Trước mỗi tình

huống mới đặt ra nhân vật lại xem xét và gần như phủ nhận toàn bộ sự nhận

thức, lựa chọn trước đó của mình. Tuy rất ít khi nhà văn để cho nhân vật độc

thoại, đào sâu vào trong thế giới tâm hồn, tình cảm nhưng người đọc vẫn thấy

kết quả của sự nhận thức và lựa chọn ấy. Ở những nhân vật này trạng thái cảm

xúc bao giờ cũng mang màu sắc bi kịch: hờn tủi, buồn tẻ, nuối tiếc, sợ hãi,

căm giận…và sự lựa chọn bị đẩy lên đỉnh điểm. Chí Phèo sau khi ở tù về xách

dao đến nhà Bá Kiến ba lần mà mỗi lần mang màu sắc bi kịch khác nhau, lần

77

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

cuối hắn đến nhà Bá Kiến để kết thúc cuộc đời bằng cái chết đau đớn. Vấn đề

đặt ra là: con người luôn phải vật lộn không chỉ với hoàn cảnh mà vật lộn với

chính bản thân mình, không phải chỉ vì miếng cơm manh áo mà để sống cho

ra con người với những nhân phẩm của nó. Con người khi rơi vào những tình

huống đó thường phải chấp nhận một trong hai cách lựa chọn: con người giữ

được nhân cách nhưng phải trả giá bằng sự thua thiệt suốt đời, có khi bằng cả

mạng sống để đổi lấy nhân cách. Hoặc là nhân vật đánh mất nhân cách của

mình, trở thành những con người khác, bị tha hoá trở thành con vật người. Và

trên đời, không gì nguy hiểm hơn việc đánh mất bản thân mình, nhưng để níu

giữ nhân phẩm phải lựa chọn cái chết thật không khác nào một bước đường

cùng trong thế giới này.

Những loại tình huống trong truyện Nam Cao tạo tiền đề cho những đối

thoại tư tưởng - một khía cạnh quan trọng của chất triết lý trong truyện Nam

Cao, cho kiểu kết cấu tác phẩm độc đáo, tự nhiên, thích dụng nhất cho tư

tưởng của mình, cho cách thể hiện một thời gian và không gian nghệ thuật

đầy tâm trạng, gắn với con người trong những tình huống cụ thể chứ không

phải các quan niệm thời gian và không gian mang tính cơ học, không có khả

năng phản ánh được quan hệ của con người với tự nhiên và xã hội như trong

văn học cổ hay cả trong văn học đầu thế kỷ XX.

2.4. Tiểu kết

Nhà văn Nam Cao luôn bị ám ảnh bởi cái cảnh tượng cuộc sống vô lý,

những con người bị tha hóa, bị biến chất, bị hóa thành cái ngược lại với nó.

Con người không chủ động được cuộc sống của mình, không được sống như

mình mong muốn thậm chí là phải gồng mình lên để chống chọi với bao nỗi

khổ trong cuộc sống. Nam Cao muốn gửi gắm nhiều điều băn khoăn của mình

vào những trang văn và muốn được chia sẻ với bạn đọc. Trong tác phẩm,

Nam Cao đã xây dựng nhân vật người kể chuyện mang tiếng nói quan điểm

78

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

của ông về cuộc sống, con người, nghệ thuật, nhiều tác phẩm không quá gay

cấn li kỳ mà vẫn để lại nhiều ấn tượng, âm vang trong lòng bạn đọc. Chính vì

vậy mà ông không cầu kỳ trong việc xây dựng những cốt truyện, quan trọng

hơn cả là văn Nam Cao luôn chứa đựng những mạch ngầm xuyên suốt, tác

phẩm luôn sinh động như một cơ thể sống và bạn đọc vẫn có thể cảm nhận

được những suy tư của nhà văn về con người, cuộc đời.

Nhiều nhà văn cùng thời với Nam Cao đã sáng tạo ra nhiều tình huống

truyện rất độc đáo nhưng không có ai như Nam Cao đã khai thác kỹ tình

huống truyện dưới dạng những điều kiện để miêu tả chiều sâu của đời sống

tâm linh con người, để trình bày quan điểm của mình về đời sống dưới dạng

thẩm mĩ.

Như vậy, có thể thấy nghệ thuật tổ chức cốt truyện là nghệ thuật sắp

xếp các chi tiết, tình tiết, sự kiện, tình huống của kết cấu. Đó là sự thể hiện hài

hoà mối quan hệ giữa yếu tố nội dung là cốt truyện với yếu tố hình thức nghệ

thuật là kết cấu. Qua việc khảo sát các truyện ngắn của Nam Cao ta thấy

không phải truyện nào cũng có những cốt truyện hay kết cấu theo một khuôn

thước nhất định. Các yếu tố làm nên cốt truyện trong truyện ngắn của ông có

những đặc sắc độc đáo riêng được gắn kết với những nội dung, những quan

niệm, lý tưởng thẩm mỹ đã làm cho tác phẩm không bị quên lãng cùng thời

gian, mà trái lại, nó vẫn có sức hấp dẫn lớn với bạn độc hiện nay.

Bên cạnh việc khảo sát về điểm nhìn hay cốt truyện trong nghệ thuật tự

sự của truyện ngắn Nam Cao, luận văn còn nghiên cứu về giọng điệu hay

ngôn ngữ tự sự để thấy được ngôn ngữ và giọng điệu cũng là một phần tạo

nên sức hấp dẫn của các tác phẩm Nam Cao.

79

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

CHƢƠNG 3.

NGÔN NGỮ TỰ SỰ VÀ GIỌNG ĐIỆU TỰ SỰ

TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO

3.1. Giọng điệu tự sự trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách

mạng

Ta thường nói văn học là nghệ thuật ngôn từ, nhưng ngôn từ "không chỉ

bao gồm từ, mỹ từ. Trong tác phẩm văn học, câu văn phải có hồn (...) câu văn

có hồn là câu văn quan trọng nhưng bài văn không có giọng đọc nên vẫn nhạt

nhẽo vô vị. Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đà của bài văn trước hết là

ở giọng” [12, tr.61].

Như vậy, giọng điệu có vai trò hết sức quan trọng trong tác phẩm văn

học. Nó là "thái độ, tình cảm, lập trường đạo đức của nhà văn đối với hiện

tượng được mô tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng

từ, ca ngợi hay châm biếm (...). Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái

độ tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo

nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc" [10, tr. 91].

Có thể nói giọng điệu là một yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả

trong tác phẩm. Nếu như trong đời sống ta thường chỉ nghe giọng nói là nhận

ra con người, thì trong văn học cũng vậy. Giọng điệu giúp nhận ra tác giả. Có

điều giọng điệu ở đây không đơn giản là một tín hiệu âm thanh có âm sắc đặc

thù để nhận ra người nói, mà là một điệu mang nội dung tình cảm, thái độ,

ứng xử trước các hiện tượng đời sống. Nói như M.Khrapchenco đó là hệ số

tình cảm của lời văn được biểu hiện trước hết ở giọng điệu cơ bản. Theo

B.Brecht có thể hiểu giọng điệu trong kịch như một tư thế biểu cảm. Ông đã

nói về cái cử chỉ biểu cảm như cúi đầu, ngẩng đầu, khoát tay, ngoảnh mặt…

đều có ý nghĩa biểu cảm. Do đó, giọng điệu trong văn học không chỉ biểu hiện

80

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

bằng cách xưng hô, từng từ vựng, mà còn bằng cả hệ thống tư thế, cử chỉ biểu

cảm trong tác phẩm.

Giọng điệu có cấu trúc của nó. Sự thống nhất là giọng điệu cơ bản và

ngữ điệu tạo thành giọng điệu.

Nền tảng của giọng điệu là ảm hứng chủ đạo của nhà văn. V.Biêlinxki

từng nói: "Cảm hứng là một sức mạnh hùng hậu. Trong cảm hứng nhà thơ là

người yêu say tư tưởng, như yêu cái đẹp, yêu một sinh thể, đắm đuối và trong

đó và anh ta ngắm nó không phải bằng lý trí, lý tình, không phải bằng tình

cảm hay một năng lực nào đó của tâm hồn, mà là bằng tất cả sự tràn đầy và

toàn vẹn của tâm hồn mình, và do đó tư tưởng xuất hiện trong tác phẩm

không phải là những suy nghĩ trừu tượng, không phải là hình thức chết cứng,

mà nó là một sáng tạo sống động" [40, tr.133].

Vị thế của nhà văn cũng tạo ra giọng điệu. Nhà văn tự coi mình là ai thì

sẽ có giọng điệu thích hợp với vị thế đó. Nếu nhà văn có cảm hứng chính

luận, phê phán, bất mãn với thực tại thì anh ta sẽ có giọng điệu lên án, tố cáo,

lúc đó anh ta sẽ sử dụng biện pháp mỉa mai, châm biếm, giễu nhại. Yếu tố

hình thái, biểu hiện sự đánh giá của tác giả đối với phát ngôn của mình, cũng

là yếu tố quan trọng của hình tượng tác giả. Truyện đau thương đòi hỏi giọng

buồn, ngậm ngùi, truyện hài hước thì giọng đùa vui, giễu cợt…Bên trong cảm

hứng là thái độ của nghệ sĩ đối với đối tượng miêu tả và đối với người đối

thoại ở trong hay ngoài tác phẩm là chất giọng bắt nguồn từ bản chất đạo đức

của tác giả.

Các nhà nghiên cứu đã nói đến giọng điệu của L.Tônxtôi trong Chiến

tranh và hoà bình, một giọng điệu mềm mại tỉnh táo, đôn hậu của một người

vững tin vào đạo đức và chân lý. Giọng điệu của ông vang lên khắp nơi trong

tác phẩm của ông, ta nhận ra giọng của ông trong cậu Nicôlenca, trong

Anđrây, trong Lêvin, trong Nêkhiuđốp. Khác với giọng điệu của L.Tônxtôi,

81

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

một giọng điệu tự tin, độc thoại trong tiểu thuyết của Đốtxtôiépxki thể hiện

một giọng điệu đầy biến động, bất an, gấp gáp, truyền đạt một cảm nhận về

kịch tính của cuộc đời. Có người nhận xét là nhà văn trần thuật trong một

giọng điệu hoàn toàn xa lạ với ông và cái giọng thật của ông luôn tìm cách

xâm nhập vào giọng xa lạ ấy với tinh thần đối thoại. Đó là nét chân dung nghệ

thuật về nhà văn trong văn của ông.

M. Bakhtin, qua nhiều công trình nghiên cứu về thi pháp văn xuôi tự sự

đưa ra khái niệm đa âm (đa thanh) như một sự cách tân giọng trong văn học

tự sự. Ông cho rằng, giọng điệu bao giờ cũng thể hiện thái độ, lập trường, tư

tưởng của chủ đề đối với sự vật, hiện tượng được miêu tả. Một nhà văn tài

năng bao giờ cũng tìm được cho mình một giọng điệu riêng biệt, độc đáo

bởi giọng điệu là một trong những yếu tố tạo nên phong cách và dấu ấn

sáng tạo của người nghệ sĩ.

Tác phẩm văn học, xét đến cùng là một phát ngôn của con người về đời

sống, vì vậy giọng điệu cơ bản của một tác phẩm là sự bộc lộ các sắc điệu,

tình cảm của chủ thể phát ngôn nên không phải lúc nào trong tác phẩm cũng

có một giọng điệu thuần nhất, mà nó có thể bao gồm nhiều giọng điệu khác,

tuỳ thuộc vào mục đích phát ngôn của nhà văn.

Từ đó ta có các giọng điệu trong văn bản: là giọng điệu của người kể

chuyện, nhân vật trong truyện kể. Ta lại có giọng điệu ngoài văn bản với tư

cách như là giọng điệu của tác giả. Hai kiểu giọng điệu ấy có thể tồn tại trong

thế đối lập nhau, nhưng cũng có thể song hành cùng nhau. Sự đan xen, lồng

ghép giữa hai kiểu giọng điệu này cũng sẽ tạo nên tính chất đơn thanh hay đa

thanh, độc thoại hay đối thoại của tác phẩm, nó sẽ được kết nối với bạn đọc

khi bạn đọc tiếp nhận tác phẩm.

82

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Khảo sát những truyện ngắn Nam Cao trước Cách mạng, chúng tôi thấy

có sự kết hợp của nhiều giọng điệu đa dạng, tạo nên tính phức điệu trong

giọng điệu tự sự Nam Cao.

3.1.1. Tính phức điệu hoá

Đọc truyện ngắn Nam Cao ta thường gặp một giọng điệu đa âm mà ở

đó khi thì là ngôn ngữ nhân vật, khi thì là ngôn ngữ trần thuật của người kể

chuyện, có khi là lời đan xen của tác giả tạo nên những trang sinh động và

hấp dẫn. Hơn nữa tuỳ từng truyện có từng nhân vật mà ông điều chỉnh giọng

kể cho phù hợp. Có truyện Nam Cao gọi nhân vật như hắn, thị, y, Lý Cường,

Bá Kiến (Chí Phèo) dường như để giọng điệu trở nên khách quan của người

chứng kiến, hoặc gọi là Điền, Hộ (Trăng sáng) giọng kể vừa khách quan

nhưng lại thấp thoáng lối tự truyện của tác giả. Khi thì là anh Cu, chị Cu, chị

Cu Thiêm (Thôi đi về), lão Hạc (Lão Hạc) mang giọng kể giữ khoảng cách

nhân vật - người kể nhưng không phải là khoảng cách lớn, vừa xót xa, nể

trọng.

Có điều Nam Cao kể bằng suy nghĩ nội tâm của chính mình hoà với ý

thức của nhân vật và luôn thay đổi điểm nhìn trong giọng kể. Ông nhập vai

vào nhân vật rất nhanh và đổi vai cũng rất nhanh. Chẳng hạn, trong truyện

Chí Phèo, Nam Cao vừa đứng ở vai người kể, vừa nhập vai vào người nghe

(dân làng Vũ Đại, Chí Phèo, Thị Nở) làm cho truyện sinh động.

Nhập vai mà không đổi giọng kể (giọng kể không phải giọng văn) là

nét chủ đạo trong giọng kể Nam Cao:

" Có giời biết đấy: quả thật Sinh không ác. Nhưng mà Sinh nhẹ dạ. Ấy

là tật chung của những người trẻ tuổi. Vả lại Sinh vẫn tương không đời nào có

những người ngớ ngẩn như thế được. Vẫn biết ông đồ tính thật thà, nhưng còn

bà cụ chứ! Bà phải hiểu rằng Sinh đùa cợt. Có ai ngờ bà đồ cũng lẩn thẩn như

83

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

ông đồ nốt. Bởi thế, mới đầu năm mà hàng xóm đã được mẻ tức cười. Nhưng

nói thế thì ai hiểu.Truyện phải có đầu có đuôi.

Vậy đầu đuôi như thế này ..."

(Đón khách)

Ta dõi theo mạch kể tư duy triết lý - suy ngẫm của Nam Cao qua những

từ ngữ liên kết: Có…biết đấy, quả thật, nhưng mà, ấy là, vả lại, vẫn biết

...nhưng còn, phải hiểu rằng, có ai ngờ, bởi thế, nhưng, phải có vậy…

như thế này.

Nam Cao thường viết những câu rất ngắn. Điều này ai cũng biết. Có cái

ngắn của câu văn Nguyễn Công Hoan:

"Và bụi. Và tanh. Và ồn ào. Và hơi người. Và chen chúc.

Chợ họp mỗi lúc một đông"

(Bữa no...đòn)

- "Từ chiều, lại bắt đầu trở rét.

Gió

Mưa

Não nùng"

(Anh Xẩm)

Thật là ngắn gọn nhưng cũng lộ ra sự gia công làm văn của người kể.

Còn Nam Cao thì như không cố tình viết văn, ông có một giọng kể khi vào

truyện tự nhiên thật như chính cuộc sống vẫn diễn ra, có thể là bất chợt, có thể

là một trạng thái, một tình hình, một con người được đem đến trước mắt bạn

đọc theo cách sinh động nhất.

- "Đầu đuôi tại con mèo" (Con mèo)

- "Bọn họ có bốn người" (Nhỏ nhen)

- "Nhà Bịch được một sào trấu tốt" (Mua danh)

- "Bà lão ấy hờ con suốt đêm" (Một bữa no)

84

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

- "Ông Đẩu chả lẩn thẩn mà lại thế! Tự nhiên đi mới cái anh cu lang

Rận ấy về".

(Lang Rận)

Mở đầu truyện giọng kể của tác giả thật tự nhiên, thân mật, bỗ bã, hợp

với cốt truyện và nhân vật trong truyện. Ông không dụng ý viết văn làm văn

quá tô điểm, kiểu cách mà dường như theo cái mạch tư duy "thấy thế nào viết

thế ấy", độc giả càng đọc càng thấy bất ngờ, lý thú. Điều này khiến truyện

ngắn Nam Cao trở nên gần gũi với mọi người và thật "giản dị mà lạ lùng" như

nhà văn Vũ Bằng cảm nhận. Với giọng kể đặc biết ấy đã làm cho sự hoá thân

đổi vai trong ngôn ngữ người kể chuyện, của tác giả hay nhân vật biến hoá

linh hoạt, tài tình, nhiều khi rất khó phân biệt được ranh giới giữa chúng.

Trong nhiều truyện Nam Cao không chỉ kể chuyện mà còn kể về tâm

trạng, đến một lúc nào đó truyện sẽ biến thành tâm trạng. Đương nhiên, là

một nhà văn hiện thực tỉnh táo, nghiêm ngặt, ông không né tránh việc phơi

bầy thực trạng u ám của đời sống với đầy đủ vẻ phức tạp và bề bộn của nó.

Nhưng cũng thật đặc biệt, cuối cùng dường như tâm trạng vẫn nổi lên trên

chuyện. Điều này có thể được thể hiện bàng bạc hoặc đậm đặc ở những tác

phẩm khác nhau, có thể là sự ẩn chứa, cũng có thể ngưng tụ lại thành lời lẽ cụ

thể cất lên ngoài cả "khuôn phép" của thể loại: "Dì Hảo ơi, tôi hãy còn nhớ cái

ngày dì bỏ tôi đi lấy chồng...", "lão Hạc ơi, lão hãy yên lòng mà nhắm mắt".

Trường hợp sinh động và biến hoá nhất của cách kể này là khi nhà văn

dùng đến thủ thuật thường vẫn thấy trong ngôn ngữ người kể chuyện của ông,

đó là sự chuyển hoá từ ngôn ngữ người kể chuyện sang ngôn ngữ nhân vật

(thực chất vẫn là ngôn ngữ người kể chuyện, nhưng hiện ra dưới dạng thức

độc thoại nội tâm của nhân vật).

Đây là một đoạn trong truyện ngắn Chí Phèo: "Sao bà ấy còn trẻ quá!

Gần bốn mươi rồi mà trông vẫn còn phây phây. Còn phây phây quá đi nữa!

85

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Cụ năm nay đã ngoài sáu mươi. Già yếu quá, nghĩ mà chua xót. Giá thế thì bà

ấy cũng già cho xong. Bà ấy lại cứ trẻ, cứ phây phây, cứ đẹp như mới ngoài

hai mươi tuổi, mà sao đa tình. Nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ"...Và cứ

thế, kể chuyện bà Tư nhưng cũng là kể về tâm trạng của cụ Bá. Với cách vừa

kể chuyện, vừa kể tâm trạng, truyện ngắn Nam Cao mang những đặc điểm đối

nghịch: sắc lạnh và tình cảm, tỉnh táo nghiêm ngặt và chứa chan trữ tình.

Đối với người đọc thì cách kể này đã khiến cho truyện ngắn của ông

có khả năng khơi dậy trong họ cả phần lý trí lẫn tình cảm. Mối giao hòa giữa

người kể, nhân vật và người đọc thường xuyên được diễn ra.

Tác giả kể chuyện và suy ngẫm. Có thể nói Nam Cao hầu như xa lạ với

những gì là to tát, cao siêu. Nhưng sự việc bất thường, những con người bé

nhỏ hầu như suốt đời bị gắn chặt vào những bi kịch nhân sinh nho nhỏ, tụ vào

các trang sách của Nam Cao, và ông rủ rỉ kể về chúng một cách kỹ càng như

không biết nản, ông không bao giờ chịu kể qua quýt sơ sài, mà phân tích mổ

xẻ tới tận ngọn nguồn sự vật, cảnh ngộ. Nhưng tính toán chi li, những suy xét

thiệt hơn, những ý nghĩ hơn kém trong suy nghĩ con người đều lộ rõ. Thế rồi

khi đã khảm được vào tâm trí người đọc thật nhiều những chi tiết có vẻ như

vụn vặt về các số phận, cảnh đời, ông nhẹ nhàng đưa ra những câu khái quát,

triết lý vừa như là bất ngờ, nhưng lại thật hiển nhiên. Người đọc hầu như

không băn khoăn gì về sự "xoàng xĩnh" của các cốt truyện hay việc gặp đi gặp

lại một mẫu người, một cuộc đời. Họ thoả mãn với chiều sâu tác phẩm được

tích tụ lại bằng những suy nghĩ trăn trở mang nặng màu sắc triết lý.

Điểm mới mẻ cần đánh giá cao trong nghệ thuật tự sự Nam Cao về

phương diện giọng điệu, tính chất độc thoại tiến đến một kiểu trần thuật đa

thanh mang tính đối thoại rất hiện đại.

Đến Nam Cao yêu tố tâm lý đã trở thành đối tượng miêu tả trực tiếp

của nghệ thuật. Nhiều truyện chỉ có dòng tâm lý vận động, nên Nam Cao có

86

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

sở trường vận dụng thủ pháp độc thoại nội tâm. Hình thức độc thoại trong

truyện ngắn Nam Cao rất phong phú, có khi hướng ngoại, có khi hướng nội

nhưng chủ yếu là hướng nội bởi nhân vật trong truyện luôn suy nghĩ, tự phân

tích đánh giá, tự mổ xẻ bản thân. Ông hướng người đọc theo chiều sâu suy

nghĩ của nhân vật. Đối với Nam Cao việc phản ánh tư tưởng chân thật của con

người, tư tưởng xấu và tốt thường là xung đột trong đời sống bên trong của

con người chứ không phải là xung đột bên ngoài giữa nhân vật này với nhân

vật kia. Việc phân tích tâm lý là điều cơ bản nhất trí để tác giả mô phỏng con

người theo phương pháp hiện thực có chiều sâu.

Người ta hay nói đến lời văn hai giọng của Nam Cao, lời độc thoại nội

tâm của nhân vật cũng là một hình thức thể hiện lời văn hai giọng, lời trần

thuật của tác giả, lời độc thoại của nhân vật có khi hoà nhập, xuyên thấm lẫn

nhau tạo thành lời nửa trực tiếp.

Lời nửa trực tiếp mang đậm ý thức nhân vật là biến thể của độc thoại

nội tâm, đó là những dòng độc thoại không ghi trong ngoặc kép, không có lời

dẫn, nó vẫn theo mạch trần thuật nhưng bộc lộ rõ ý thức nhân vật. Đây là lời

người trần thuật, nhưng nó lại thấm nhuần từ vựng, ngữ nghĩa và các cấu trúc

cú pháp của lời nói nhân vật, thấm nhuần ngữ điệu, tình cảm và suy nghĩ của

nhân vật. Sử dụng phương thức này, Nam Cao có thể tự do khai thác nội tâm

nhân vật, từ những phản ứng nhỏ cho đến ý thức về số phận và cuộc đời,

những cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt, những giằng xé giữa hai phần tối và

sáng, giữa cái thiện và cái ác.

Đây là đoạn "hắn" nghĩ sau khi hai vợ chồng cãi nhau: "...Nhưng lần

này hắn không còn bực tức, đêm qua nằm nghĩ ngợi hắn xét ra rằng: vợ hắn

không đáng trách, khi đầu người ta lúc nào cũng rối tung lên vì trăm thứ tiền,

trăm nghìn công việc phải lo toan, rồi lại lật quật suốt ngày, chẳng ngơi chân

ngơi tay một chút nào, mải miết cả trong lúc ăn, thế mà đêm đến cũng chưa

87

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

được ngủ yên lành, còn bị con quấy rối, lúc khóc, lúc giẫy, lúc đay vú như

con chó nhai giẻ... thì người ta bình tĩnh làm sao được. Người ôn hòa đến đâu

cũng phải sinh ra gắt gỏng. Trước kia vợ hắn có thế đâu?" (Cười).

Đoạn văn thể hiện sự thông cảm của người chồng đối với vợ. Xét về

hình thức đó là lời miêu tả tâm lý của người trần thuật, nhưng ngữ điệu cảm

xúc thì đã chuyển sang giọng của nhân vật. Ban đầu là giọng người trần thuật,

sau đó người trần thuật tự giấu mình để nhân vật tự nói bằng giọng của mình.

Rồi dần dần giọng người trần thuật và giọng nhân vật hòa quyện xuyên thấm

vào nhau. Đây là một thứ ngôn ngữ giọng điệu song thanh cùng phương

hướng nên khó lòng chia tách bạch đâu là giọng tác giả, đâu là giọng nhân

vật. Nhờ thế mà người đọc như nghe thấy âm vang sinh động giọng nói của

từng nhân vật trong tác phẩm.

Cũng có lúc Nam Cao dùng hình thức song thanh khác: Song thanh

khác phương hướng. Bên cạnh ý thức nhân vật là ý thức tác giả, không phải là

đồng tình mà giễu nhại, khiêu khích để nhân vật bộc lộ rõ hơn thế giới nội

tâm của mình. Ngôn ngữ kể chuyện thường mang sắc thái trêu chọc, mỉa mai,

khiêu khích. Đọc đoạn văn miêu tả tâm trạng cụ Bá (Chí Phèo) khi đợi bà Tư

về, người đọc có thể hiểu đó là giọng cụ Bá nhưng cũng có thể hiểu là giọng

giễu nhại tâm trạng cụ Bá của tác giả. Tác giả đã tạo ra được một giọng điệu

mới, một cách thể hiện mới trên cơ sở cái đã có là lời nói bên trong của nhân

vật. Rõ ràng đó là tâm trạng uất nghẹn của cụ nhưng thấp thoáng đâu đó là

giọng giễu nhại, khiêu khích của tác giả. Những suy nghĩ bên trong được bộc

lộ và tâm trạng nhân vật bị giễu nhại, khiêu khích đã càng lúc càng tăng cảm

xúc. Hoá ra cái con người ngọt nhạt bề ngoài, uy quyền bên ngoài ấy lại là

một kẻ nhỏ nhen, ghen tuông đáng sợ.

Giọng điệu nhân vật trong truyện ngắn Nam Cao được thể hiện phong

phú qua lời độc thoại. Cũng là tiếng cười tự trào nhưng được thể hiện bằng

88

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

nhiều trạng thái tình cảm, lúc thì hài hước: "hắn muốn đập một cái gì đó cho

đỡ tức. Nhưng đập phá lắm thì chỉ thiệt (thời buổi này một cái niêu đất cũng

phải hai hào chỉ..." (Cười). Lúc thì chua chát: "hắn lại phải xót xa một lần

nữa, mười đồng bạc bỏ ra cho hai đứa con uống thuốc. Hắn xót xa lắm (...)

Hắn chỉ thở dài ngao ngán cho kiếp mình..." (Nước mắt). Lúc thì cay đắng

ngậm ngùi buồn tủi: "Hắn tưởng có thể khóc oà lên được. Chao ôi! Chẳng là

gì cả... Đó chỉ là những cái rất tầm thường chẳng đáng cho một người cao

thượng phải quan tâm; sự đói nhọc... một chút lòng khinh của một người

chẳng hiểu mình. Nhưng Điền cực lắm. Hắn thấy một lớp buồn tủi nữa chất

thêm vào lòng ..." (Nước mắt). Lúc đay nghiến, xỉ vả: "Khốn nạn! Khốn nạn

thay cho hắn! Bởi hắn chính là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất

lương!" (Đời thừa). Lúc cảm thông chia sẻ: "Người không phải là thánh...Khi

người ta lam lũ quá, lại còn lo trăm thứ nữa, bị làm rầy vì trăm thứ, thì ai mà

bình tĩnh được? Ai mà chả hay gắt gỏng" (Nước mắt).

Những lời độc thoại vừa có hướng nội vừa có hướng ngoại. Hướng nội

thì nghiêm khắc với chính mình, còn hướng ngoại thì sẻ chia, cảm thông nhân

ái. Vì thế trong văn của Nam Cao bao giờ cũng giàu tình thương thể hiện một

tâm hồn nhân hậu nồng ấm của tác giả.

3.1.2. Các sắc thái của giọng điệu

Các nhà nghiên cứu dường như đã thống nhất khi nhận định giọng điệu

của Nam Cao là sự tổng hợp của nhiều chất liệu, giọng điệu và không lẫn với

bất cứ ai. Nếu như những nhà văn Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng tạo

cho mình một giọng điệu chính là trào phúng thì Nam Cao không tạo một

giọng điệu chủ đạo, thống lĩnh. Ông có đóng góp lớn trong việc đa thanh hoá

giọng điệu tự sự. Việc sử dụng giọng điệu căn cứ vào đối tượng và hiện thực

mà tác phẩm phản ánh. Đó là lối kể chuyện bằng nhiều chất giọng: nghiêm

89

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

nghị và hài hước, trân trọng nâng niu và nhạo, đay, mỉa. Các chất giọng kể

chuyện được trong một truyện, và ngay trong từng đoạn của truyện.

Các truyện Lão Hạc, Dì Hảo, Mua nhà, Từ ngày mẹ chết... giọng

nghiêm nghị nổi bật, hình tượng các nhân vật có phẩm chất cao quý, hay

những nét tính cách đẹp đẽ hiện lên trong sự trân trọng của người kể. Truyện

Cái mặt không chơi được nổi lên giọng hài hước chua chát kể về bộ mặt “lạnh

như nước đá, và ngượng nghịu, và vô duyên, và lố bịch”.

Có những truyện có sự trộn lẫn các chất giọng kể như Chí Phèo, Những

truyện không muốn viết, Trẻ con không được ăn thịt chó, Quên điều độ,

Cười...

“Trọn đời tôi, tôi chỉ lo chết đói. Như thế bảo còn nghĩ đến những cái

to tát làm sao được? Nguyện vọng của tôi? Ấy là làm thế nào cho vợ có tiền

đong gạo, mua nước mắm và mua ba xu thuốc chốc đầu của bà lang lùn về

cho con. Không có mộng. Nói vậy sợ hơi quá quắt. Thật ra tôi cũng có chút

mộng văn chương. Nhưng cái mộng ấy cũng hơi...khỉ khỉ. Tôi cứ muốn vừa

có thể phụng sự nghệ thuật, lại vừa có thể kiếm tiền để nuôi cả nhà. Nghĩa là

tôi ham viết lắm. Nhưng giá thử viết mà không được một đồng xu nhỏ thì có

lẽ tôi cũng ham vừa vừa thôi. Cái tôi của tôi sự thật thì nó bỉ ổi như thế đấy”

(Những truyện không muốn viết). Đoạn văn này có cả những câu nghiêm túc

nhưng giọng đay nghiến, mỉa mai...cả phần hài hước trộn lẫn với nhau.

3.1.2.1. Giọng điệu triết lý

Sự hấp dẫn bạn đọc của truyện Nam Cao trước hết đó là sự hấp dẫn của

những tư tưởng, những ý nghĩ của ông. Đọc Nam Cao, thấy ông hay triết lý,

thích khái quát. Dĩ nhiên sức hấp dẫn không thể có được, nếu ông chỉ lặp lại

những nguyên lý chung chung, đó là những tìm tòi, những phát hiện của riêng

ông về cuộc sống, nghĩa là nó mang đẫm mồ hôi của tâm não ông. Cho nên

90

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

triết lý mà không khô khan, triết luận mà như mở ra những chân trời thơ bát

ngát.

Nhiều tác phẩm của ông vì thế thường có hai bình diện nội dung: một

là nội dung xã hội trực tiếp gắn liền với những tình tiết, những nhân vật cụ

thể. Hai là những suy nghĩ có tầm khái quát rộng lớn vượt rất xa ra ngoài

những điều ông thuật kể. Những mệnh đề triết lý của ông nhiều khi đột ngột

chuyển hướng thưởng thức người đọc từ tầng ý nghĩa này sang lớp ý nghĩa

khác, từ bút pháp nọ sang bút pháp kia, một cuộc nhảy vọt đầy thú vị từ môi

trường của đời sống chật hẹp tầm thường sang thế giới bao la của những vấn

đề trọng đại liên quan đến sự sống còn của nhân loại.

Trong truyện Lão Hạc, nhà văn đã triết lý về kiếp sống con người. Kiếp

gì là khổ nhất! Hoá ra là kiếp người. Truyện Mua nhà là giọng điệu triết lý về

cuộc sống hạnh phúc của cuộc đời, hạnh phúc là chiếc chăn, người này được

ấm, người kia sẽ bị hở, không thể nào toàn vẹn được. Đó cũng là ngầm ước

của tác giả mong sao hạnh phúc có thể đến, dù nhiều hay ít đối với mỗi con

người.

Giọng điệu triết lý dù sắc lạnh nghiêm nghị hay là trữ tình thì đều thể

hiện những ngẫm nghĩ rất sâu sắc của nhà văn với cuộc đời, với con người.

Điều đó còn thể hiện tinh thần trách nhiệm của Nam Cao với cuộc đời ấy –

không thờ ơ, không bàng quan mà luôn nồng nhiệt một tấm lòng với cuộc đời,

với những kiếp người. Giọng điệu đó như ghim sâu vào tâm hồn mỗi bạn đọc

khi được tiếp xúc với tác phẩm của ông, người đọc thấy không nặng nề,

không áp lực mà sao cứ đau nhói và tự hỏi nếu mình là nhân vật đó, ở trong

hoàn cảnh đó, mình sẽ thấy như thế nào? Và đọc tác phẩm Nam Cao, ta sẽ dễ

dàng tìm thấy hình bóng con người mình trong đó, có thể chỉ giống phần nào

hoặc có thể là giống nhiều phần.

91

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

3.1.2.2. Giọng điệu hài hài hước mỉa mai

Giọng hài hước mỉa mai thể hiện tiếng cười có mức độ phê phán nhẹ

nhàng nhưng sâu sắc, trên cơ sở vạch ra sự mất cân đối hài hoà giữa nội dung

và hình thức, bản chất và tiếng cười, đặc biệt là lý tưởng và thực tế.

Chính giọng điệu này trộn lẫn với giọng triết lý làm cho những vấn đề

tưởng như to tát khô khan nhưng lại rất dễ đi vào lòng bạn đọc. Điều này giải

thích vì sao văn Nam Cao vẫn hấp dẫn nhiều thế hệ bởi sự dung hoà giữa điều

bình dị và những điều lớn lao. Nhiều khi đọc văn của ông, chúng ta tưởng như

Nam Cao khô khan, không có tình cảm, câu văn có vẻ cộc cằn tưởng như chỉ

có trơ trụi một sự phản ánh hiện thực cằn cỗi, xộc xệch, lúc nào cũng như sự

bám víu khổ sở giữa con người, cuộc sống. Nhưng không, vì chất giọng Nam

Cao vẫn hàm chứa những yếu tố hài, ngay trong một mạch lập luận về cái tên

Trạch Văn Đoành: “Ngay cái tên cũng khó nghe rồi. Thà cứ là Kèo, là Cột,

hay là Hạ, là Đông. Là gì cũng còn dễ nghe. Nhưng hắn ta lại là Trạch Văn

Đoành. Nghe như súng thần công. Nó chọc vào lỗ tai" (Đôi móng giò).

Yếu tố gây cười này nó góp phần làm cho bạn đọc tiếp thu câu chuyện

cuộc đời Trạch Văn Đoành một cách thú vị hơn.

Người ta nói ngôn ngữ Nam Cao nhiều khi trở nên tàn nhẫn khắc

nghiệt, vì ông có ví con người hay nỗi khổ con người như nỗi khổ của một

con vật hay một con vật lạ (gương mặt của Chí Phèo, hoặc Thiên Lôi...),

nhưng điều này cũng chỉ là những yếu tố, những mặt góp phần giúp nhà văn

thể hiện nhiều điều, vẽ được bức tranh cuộc sống sinh động, tạc được pho

tượng người có thần sắc. Mà ai cũng biết là cuộc sống và con người đều muôn

hình vạn trạng.

Chất hài có trong nhiều hình ảnh méo mó của nhân vật, nó toát ra từ

bản thân câu chuyện mà tác giả kể. Có những cái cười gượng, nói toạc những

cái xấu ra để cười (Nhỏ nhen), có cái cười hết sức khôi hài, tuy Nam Cao tỏ ra

92

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

rất trang nghiêm khi kể (Cái mặt không chơi được), có cái cười để lại bài học

thú vị (Truyện tình), có cái cười châm biếm, sâu cay, cười tàn nhẫn (Đón

khách), có cái cười sảng khoái (Đôi móng giò)...

Nếu như tiếng cười của Nguyễn Công Hoan giòn giã, phũ phàng, khoái

trá, tiếng cười của Ngô Tất Tố dí dỏm, sâu sắc, thâm trầm và tiếng cười của

Vũ Trọng Phụng hài hước, giễu cợt, sâu cay thì tiếng cười của Nam Cao lại

đượm vẻ bi thương, nhiều khi pha chất triết lý.

Mỗi ngòi bút có một cách khai thác và thể hiện vấn đề theo một cách

riêng, miễn sao đạt được hiệu quả cao. Trong khi phản ánh hiện thực, Nam

Cao thường hay đi vào những chủ đề mang tính suy ngẫm, thiên về việc truy

tìm, đúc rút ra một triết lý cho cuộc sống, có pha chất hài, nhưng nặng về suy

tư, trầm lắng hơn là những tiếng cười hả hê, khoái trá. Nói chung, ông không

lấy cái hài làm phương tiện chủ yếu của truyện. Bên cạnh một số truyện có

âm hưởng trữ tình thật sâu sắc, gần như không có yếu tố trào phúng như Lão

Hạc, Một đám cưới, Nghèo.

3.1.2.3. Giọng điệu giễu nhại

GS. Đỗ Đức Hiểu cho rằng: "Nhại ai, nhại cái gì là bắt chước người ấy

bằng những điệu bộ, ngôn ngữ trào lộng nhằm mục đích chế nhạo, gây cười.

Cái cười nhại chồng cái kính lúp hoặc tấm gương trong trào phúng lên cái bị

nhại, mang tính nghiêm túc, đứng đắn. Cái "nghiêm túc", "đứng đắn", "quan

trọng" bị nhại và trở thành cái buồn cười, cái lố bịch, cái bịp bợm tức là chính

nó" [14,tr.262].

Nhà văn đã dùng tiếng cười nhại để "lộn trái" đối tượng, bắt đối tượng

trở ra cái mặt thật đằng sau cái mặt nạ che đậy của chính nó. Có điều thú vị là

ngay từ cái nhan đề đã cất lên tiếng cười. Tác giả kể chuyện từ đầu đề với

cách đặt tên truyện có tính chất trào phúng. Tên truyện nhại lại nội dung

truyện.

93

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Nguyễn Công Hoan có truyện nhại nổi tiếng là Báo hiếu: trả nghĩa cha,

Báo hiếu: trả nghĩa mẹ, tên truyện khi nhắc đến luân lý, đạo đức nhưng nội

dung lại là câu chuyện đại bất hiếu, cực kỳ vô luân.

Nam Cao có truyện Một truyện Xúvơnia, tên truyện nhại lại tiếng Tây.

Xúvơnia là kỷ niệm. Cái khăn mà Hàn xúvơnia cho người yêu để kỷ niệm

một tình yêu thơ mộng, lãng mạn của Hàn nhưng Tơ - người yêu Hàn đã bán

đi để lấy hai hào. Chứng kiến cảnh các cô gái mua đi bán lại chiếc khăn để lấy

tiền ăn bánh đúc Hàn đã rút ra bài học "cuộc sống vốn không tha thứ cho

những gì là quá thơ".

Giọng giễu nhại của nhà văn thể hiện rõ ở các hệ thống có tên nhân vật.

Tên nhân vật của văn học hiện thực phê phán đối lập kịch liệt với tên các

nhân vật trong văn học lãng mạn. Nào là Chí Phèo, Thị Nở, lang Rận, cu Lộ,

đĩ Chuột, Dần, Điền, Hộ... những cái tên thô mộc, giản đơn, xù xì như chính

bản thân đời sống, Nam Cao còn hài hước tô đậm cái tên thô mộc của nhân

vật như Trạch Văn Đoành, nghe như súng thần công, nó chọc vào lỗ tai. Nó

khác hẳn với những cái tên thơ mộng lãng mạn với những Tuyết, Mai, Loan,

Chương...

Nhà văn Nam Cao khi mới cầm bút có ảnh hưởng của văn học lãng

mạn nhưng sau đó ông có ý thức nhại lại truyện lãng mạn để phá bỏ cách viết

không còn phù hợp. Trong văn của ông có khi vẫn có những câu văn hơi lãng

mạn nhưng chỉ còn mang ý nghĩa là một sự đùa cợt mà thôi.Văn chương lãng

mạn thường chối từ sự thật, sợ sự thật. Là một nhà văn hiện thực, Nam Cao

không từ chối hiện thực mà nhìn thẳng vào đó, hiện thực ấy có khi nghiệt ngã

đau đớn nhưng ông không bao giờ chối bỏ nó. Ở truyện Cái mặt không chơi

được Nam Cao đã nói thẳng ra cái khuynh hướng đối lập của mình với văn

chương lãng mạn: "Giá tôi yêu tôi hơn trước nữa thì tôi phải tả Bình với một

cái dáng thơ mộng hơn. Nhưng tôi yêu sự thật thà mà muốn thật thà thì phải

94

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

nói là Bình không đẹp". Nhân vật Hùng trong truyện Đui mù (một truyện

cũng có xu hướng nhại) đã đau khổ kêu lên: "Tôi hối hận. Thà rằng tôi cứ ở

chúi xó thôn quê ấy để thầm ca tụng lòng chung thuỷ của Nga, thà rằng tôi cứ

đui mù như anh lính nọ lại được hoàn toàn sung sướng hơn tìm đến sự thực".

Tiêu biểu nhất cho loại truyện nhại của Nam Cao là Một truyện xú vơ

nia. Giống như Đônkihôtê của Xécvantéc đầu óc mê mẩn tiểu thuyết hiệp sĩ

nên nhìn đâu, làm gì cũng như sách, nhân vật Hàn cũng thấm đẫm tâm hồn

bởi những tiểu thuyết lãng mạn. Cho nên khi gặp Tơ, một thôn nữ đến nhà

mua dâu Hàn đã nhìn rất kỹ. Tơ được hiện lên trước mắt Hàn theo đúng như

dung nhan, dáng điệu thường tả trong văn chương lãng mạn. Hắn tự bảo:

"Cuốn tiểu thuyết của đời ta đã bắt đầu ...".

Giọng điệu giễu nhại có trong tác phẩm của Nam Cao nhằm tạo ra sự

đối lập với những gì giữa hiện thực cuộc sống và mơ mộng xa vời. Ta không

thể phủ nhận những thành tựu của văn chương nhóm Tự Lực văn đoàn và ảnh

hưởng của nó ít nhiều tới các nhà văn hiện thực phê phán. Trước sự thịnh

hành của trào lưu văn chương lãng mạn Tây Âu, các nhà văn nước ta thời kỳ

đó đều tiếp nhận nó với những ưu điểm, song, cũng tồn tại nhiều nhược điểm.

Sự phủ định văn chương lãng mạn ở Nam Cao đồng nghĩa với việc nhà văn

đã tìm cho mình một hướng đi khác là đối mặt và ghim mình vào chính những

bề bộn của cuộc đời, tức là nhà văn đủ bản lĩnh để sống chung với hiện thực

và phản ánh hiện thực trong các tác phẩm. Tác giả vẫn biết mơ mộng đôi khi

không thể thiếu trong cuộc sống, làm cho người ta hy vọng và hướng tới

tương lai tốt đẹp. Những nhân vật trí thức của ông chẳng đã từng mơ về giải

Nobel, mơ viết về những áng văn bất hủ, mong được vừa phụng sự nghệ thuật

vừa làm tròn trách nhiệm với gia đình đó sao! Nhân vật Chí Phèo (Chí Phèo)

cũng từng ước mơ về một mái ấm gia đình, về cuộc sống giản dị và hạnh

phúc.

95

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Đoạn tuyệt văn chương lãng mạn không có nghĩa là đoạn tuyệt với cả

những ước mơ của nhân vật. Nam Cao phản ánh hiện thực nhưng vẫn giữ lại

những điều tốt đẹp trong tâm tư, trong ước muốn của mỗi nhân vật, làm cho

nhân vật không trở nên xơ cứng. Điều ấy có nghĩa là Nam Cao luôn biết trân

trọng con người, dù đôi lúc con người luôn mơ mộng về những điều gì rất

viễn tưởng, xa xôi và biết là có thể chẳng bao giờ làm được. Như vậy, trong

một địa hạt nào đó ở các tác phẩm của mình, Nam Cao để cho nhân vật được

thoát khỏi hiện thực cuộc sống bề bộn để sống với những ước mơ, rồi nhanh

chóng để nhân vật trở lại với hiện thực, điều này cho thấy tác giả đã phản ánh

rất thực tâm tư tình cảm của con người.

3.1.2.4. Giọng điệu bi quan, chua chát.

Giọng điệu bi quan, chua chát trong văn Nam Cao khi nói về những

thất vọng và thất bại của con người. Giọng điệu này xuất hiện khi con người

không có lối thoát trong cuộc sống, con người đứng trước những vấn đề

không thể giải quyết, hoặc giải quyết theo những cách không có kết quả tốt

đẹp. Đó là những truyện Nước mắt, Đời thừa, Trăng sáng, Ở hiền, Dì Hảo...

Trong truyện Ở hiền, cuộc đời của cô gái là Nhu cứ trôi đi theo tháng ngày tù

đọng lại, cô rất hiền nhưng cuộc sống không như ý, cô cũng nhận thấy mình

như thế là bị thiệt thòi, lép vế, khổ sở nhưng bảo cô vùng lên sống khác đi,

phải mạnh hơn, phải chanh chua hơn để giành giật cuộc sống thì đó không

phải là đức tính của cô. Giọng điệu của tác giả nhiều lúc như một tiếng thở dài

khi viết về một cuộc sống sẽ khổ suốt đời của Nhu: "...Câu chuyện còn khá

dài dòng. Nhưng kéo dài ra để làm gì? Có kể tường tận cuộc đời làm vợ của

Nhu thì cũng chỉ thế mà thôi. Người thì ở chỗ nào chả là người? Mà cuộc đời

thì bất cứ cảnh nào cũng chảy trôi theo những định luật chưa bao giờ lay

chuyển được...".

96

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Nam Cao giống với Xuân Diệu, Thạch Lam ở chỗ đã thức tỉnh sâu sắc

về ý thức cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời. Họ hết

sức nhạy cảm với những kiếp sống nhỏ bé, cơ cực, cuộc sống mỏi mòn, lay

lắt, quẩn quanh, bế tắc. Những con người không hề biết sống làm vui, không

bao giờ biết đến ánh sáng và hạnh phúc. Ước mơ của những đứa trẻ là: chỉ

mong được nhìn thấy một chuyến tàu đêm vụt đi qua cái phố huyện nghèo

(Thạch Lam - Hai đứa trẻ), Xuân Diệu cũng không sao chịu nổi "nỗi đìu hiu

của cái ao đời bằng phẳng" (Tỏa nhị Kiều). Nhưng có lẽ không ai trong số họ

lại đau đớn, phẫn uất cao độ như Nam Cao trước tình trạng con người sống

trong túng quẫn. Mỗi nhân vật của ông là một kiểu đời thừa, một lối sống

mòn, một cách chết mòn, một cuộc sống vô nghĩa, vô lý.

Nam Cao không chấp nhận sự sống của con người chỉ là sự tồn tại sinh

học. Ông coi đó không phải là cuộc sống xứng đáng của con người: "Có thú

vị gì các lối sống co quắp vào mình, cái lối sống quá ư loài vật, chẳng còn biết

một việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào dạ dày?". Cuộc sống xứng

đáng với danh hiệu cao quý của con người, theo quan niệm của ông, là phải

có đời sống tinh thần cao đẹp, sống với đầy đủ giá trị của sự sống. Xuất phát

từ tư tưởng đó, Nam Cao đã đồng cảm vô hạn trước những bi kịch của những

con người muốn sống có ý nghĩa bằng sự cống hiến của mình mà rốt cuộc

phải sống như "một kẻ vô ích, một người thừa". "Còn gì đau đớn hơn cho một

kẻ vẫn khao khát làm một cái gì mà nâng cao giá trị đời sống của mình, mà

kết cục chẳng làm được gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?" (Đời thừa).

Đôi khi đọc truyện Nam Cao bạn đọc cũng nhận thấy tác giả hết sức bi

quan trong khi nhìn nhận con người và thế sự. Nhưng không vì thế mà ông

quên đi trách nhiệm của một nhà văn khi cầm bút viết về vấn đề con người.

Trước hết, con người trong văn Nam Cao phải hiểu rõ được về mình, về trạng

thái mà mình đang lâm vào, cũng tức là chỉ rõ cái tình cảnh biến dạng cả mày

97

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

mặt đến tâm linh mà sự khốn cùng đã để lại trên con người mình. Bạn đọc tác

phẩm - trước hết với tư cách là người tiếp nhận, sau đó lại là người hiểu và

đồng cảm cùng tác phẩm sẽ được thức tỉnh suy nghĩ để với mỗi người tự xác

định lấy thái độ, tình cảm của mình. Đọc kỹ Nam Cao, một lúc nào đó người

đọc chợt nhận ra cuộc đời chung quanh họ không bằng bằng nhạt nhạt như họ

vẫn thấy mà bỗng nhiên rất giống cuộc đời trong văn Nam Cao - tức là thấy

chung quanh cũng đầy rẫy những dì Hảo, Nhu, Đức, Trạch Văn Đoành ...và

cái không khí bao quanh họ đôi khi là không khí của những Nửa đêm, Lang

Rận, Đời thừa, Lão Hạc ...

Như vậy, ngoài một số giọng điệu trên truyện ngắn Nam Cao còn có sự

pha trộn rất nhiều giọng điệu khác. Đặc sắc giọng điệu truyện ngắn của ông

cũng là ở sự pha trộn này. Ngoài sự đóng góp về giọng điệu có thể nói ngôn

ngữ trong văn Nam Cao có một sức truyền tải lớn và rất hấp dẫn bạn đọc.

3.2. Ngôn ngữ tự sự trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng.

Nằm trong tính toàn vẹn của cơ cấu nghệ thuật, tác phẩm văn học là

một cơ thể sinh động, có sự thống nhất của nhiều yếu tố mà ở đây bao giờ

ngôn ngữ cũng là điểm khởi đầu, đồng thời là điểm tựa.

Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học, M.Gorki đã

khẳng định “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” [10, tr.185]. Ngôn ngữ

là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách,

tài năng của nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là tấm gương sáng về mặt

hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ nhân dân, cần cù lao động để trau dồi ngôn ngữ

trong quá trình sáng tác.

Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng nhất của văn xuôi tự sự. Trước đây ngôn

ngữ luôn được coi như một công cụ để truyền đạt tư tưởng và tình cảm của

con người. Do đó, đối với tiêu chuẩn cao nhất, sự tìm tòi khả năng thể hiện

của ngôn ngữ là khả năng tái hiện thế giới hiện thực và thế giới nội tâm một

98

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

cách chuẩn xác, sống động mà quan trọng nhất chính là vấn đề cá tính hóa

cho ngôn ngữ của các nhân vật trong tiểu thuyết. Martin Heidegget nhận xét:

“Ngôn ngữ là ngôi nhà của tồn tại”, Ludwing Wittgenstein quan niệm: “Nghĩ

đến một ngôn ngữ có nghĩa là nghĩ đến một phương thức sống”, Wolfgang

Kayser lại cho rằng “Bên ngoài ngôn ngữ thì không thể có thế giới”.

Từ ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu lại chỉ ra rằng: Một truyện kể có một

cốt truyện dựa trên một hành động mà nhân vật tạo ra và trải nghiệm và có

một người kể chuyện kể về nó. Như vậy chắc chắn rằng, trong câu chuyện

không thể không có người kể chuyện. Với một người kể chuyện bằng xương

thịt hiện diện trước mặt thì việc tiếp nhận quá dễ dàng. Nhưng liệu qua những

dòng chữ in trên văn bản, ta sẽ tiếp nhận một cách đầy đủ và thấu đáo? Vì vậy

để truyền tải đến độc giả người người kể chuyện phải biết dùng ngôn ngữ một

cách thật đặc biệt để bạn đọc dễ tiếp nhận tác phẩm.

Ngôn ngữ trong văn Nam Cao không quá xa lạ với bạn đọc. Ông

thường dùng những câu văn ngắn nhanh chóng giúp bạn đọc chiếm lĩnh, chỉ

dẫn bạn đọc, đồng thời lời văn cũng dễ hiểu, không quá trừu tượng, đôi khi

thô mộc nhưng vẫn tự nhiên và mượt mà. Ngôn ngữ trong tác phẩm của ông

thực sự đi sâu vào lòng người, thực sự là lời ăn tiếng nói của nhân dân.

3.2.1. Ngôn ngữ văn xuôi đóng góp vào việc xây dựng và phát triển

văn xuôi mới.

Ở hầu hết các tác phẩm, các tác giả của nhóm Tự Lực văn đoàn thường

không hoặc ít chú ý đến việc miêu tả ngôn ngữ, chỉ có một ngôn ngữ duy nhất

là ngôn ngữ tác giả. Tác giả như một chủ thể đưa ra một ngôn ngữ chuẩn

mực, trong sáng, dùng ngôn ngữ ấy cho mọi loại đối tượng. Văn phong trong

tác phẩm của họ sạch sẽ, trong sáng, tỏ rõ một ý thức xây dựng chuẩn mực,

nhưng nó cũng dễ thành đơn điệu, một khi nó đã thành phổ biến.

99

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Khá đông các nhà “tả chân” cũng theo cách đó của các tác giả Tự Lực

văn đoàn, nếu xét về thành phần ngôn ngữ tác giả. Chỗ mới của họ là do xu

thế điều tra xã hội học đưa lại: thành phần ngôn ngữ nhân vật, nhất là các tầng

lớp dưới đáy, đem lại cho ngôn ngữ tác phẩm những phong vị mới, một chất

lượng mới. Xét theo tập hợp các nhóm nhà văn thì Nam Cao thuộc số các nhà

văn bình dân, nhưng xét theo cốt cách sáng tác thì ông vừa có chỗ gần với các

nhà văn trên lại vừa có chỗ gần với các nhà văn Tự Lực văn đoàn, nhất là

Thạch Lam. Chỗ Nam Cao gần Thạch Lam không phải chỗ nhà văn này có

lúc cũng miêu tả các tầng lớp nghèo khổ, mà ở chỗ Nam Cao – không phải ở

toàn bộ nhưng là ở phần lớn tác phẩm – cũng chú ý đến phương diện đời sống

tâm linh con người như Thạch Lam.

Nam Cao không chỉ là người chịu ơn vì đã được thừa hưởng rất nhiều

điều của phong trào hiện đại hóa văn học dân tộc, cái phong trào đã diễn ra

một cách rất hào hứng và chuyển biến hết sức nhanh chóng, cả thảy chỉ trong

vòng vài chục năm. Là người tham dự tiến trình ấy, có thể là ở chặng cuối,

Nam Cao thực sự đã góp phần phát triển và hoàn thiện nó, góp phần khép lại

một giai đoạn quan trọng nhất của nền văn học mới Việt Nam, một giai đoạn

quan trọng nhất của việc xây dựng lại nền văn xuôi tự sự mới trong những

điều kiện và tiền đề văn hóa xã hội mới.

Trong ngôn ngữ, ở Nam Cao thành phần ngôn ngữ nhân vật không có

những phương ngữ hay biệt ngữ thật thật nổi bật nếu so với một số phóng sự

của các nhà tả chân khác, nhưng nó cũng không bị thôn tính bởi ngôn ngữ tác

giả như các nhà Tự Lực văn đoàn. Mặt khác, do quan tâm truyền đạt những

dao động, biến thiên của tâm lý, tâm trạng, Nam Cao tạo nên được một ngôn

ngữ ít nhiều phức điệu, tổ chức được những mạng lưới phức tạp gồm cả ngôn

ngữ bên ngoài và ngôn ngữ bên trong, cả ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ nhân

vật, thậm chí của những sự đan xen và hòa lẫn vào nhau của hai ngôn ngữ ấy,

100

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Nam Cao là một trong số không nhiều tác giả cùng thời có những tác phẩm

mà ngôn ngữ không bị cũ đi so với thời gian, tức là có những tác phẩm đạt

đến mức cổ điển của văn xuôi tiếng Việt.

Trong tác phẩm Nam Cao, ngôn ngữ không chỉ là công cụ, là phương

tiện miêu tả mà còn là đối tượng của sự miêu tả. Nhân vật của ông có khẩu

khí riêng, cách diễn đạt riêng: “Cảnh ngộ nào – ngôn ngữ ấy. Tính cách nào –

lời lẽ ấy” [33, tr.32].

Ngôn ngữ trong sáng tác của Nam Cao là ngôn ngữ đa âm, phức điệu,

hiện đại, dù được viết vào thời ông nhưng bạn đọc bây giờ vẫn thấy mới. Cái

biệt tài của Nam Cao so với những tác giả cùng khuynh hướng hoặc cùng thời

đại không chỉ là cách sử dụng đắc địa các đại từ nhân xưng mà còn là khả

năng hóa thân, nhập vai vào tất cả các nhân vật, suy nghĩ và nói năng bằng

tiếng nói nhân vật. Ông đặc biệt thành công trong cách dùng khẩu ngữ với sự

điểm xuyết những thành ngữ, tục ngữ dân gian. Nam Cao thực sự khác lạ với

các nhà văn khác, khi ông mượn đặc điểm của con người để miêu tả loài vật,

sự vật: “Chí chóe cãi nhau như đứa trẻ con tập làm người lớn” (tả chim - Điếu

văn), “lấc cấc vụng dại như anh con trai mười sáu tuổi” (tả gà trống - Một

đám cưới), “trời thì cay nghiệt như một bà già thiếu ăn ngay từ lúc còn thơ”

(Trẻ con không được ăn thịt chó). Hoặc dùng tính xấu của loài vật để miêu tả

hình dạng và tính cách con người: “Mắt híp lại như mắt lợn sề”, “mụ khóc

rống lên như một con chó chưa quen xích” (Lang Rận), “đa nghi như con

chuột” (Nhỏ nhen), “vác mặt lên như con trâu nghênh suốt ngày” (Những

truyện không muốn viết).

Ngôn ngữ của tác phẩm Nam Cao là sự hòa âm, phối hợp của nhiều

loại ngôn ngữ khác nhau như là sự sống tự nó cất lên như thế. Trong Chí Phèo

diễn ra mạch ngầm đối thoại giữa người kể chuyện với Chí Phèo, giữa nhân

vật Chí Phèo với làng Vũ Đại. Cụ Bá kể chuyện bà Tư nhưng thực chất là bày

101

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

tỏ tâm trạng của mình. Đó là ngôn ngữ đối thoại nội tại, tâm trạng, một đặc

trưng của ngôn ngữ tiểu thuyết trong ngôn ngữ Nam Cao.

Sự thành thạo trong sử dụng ngôn ngữ của Nam Cao còn thể hiện ở

ngôn ngữ đối thoại mang đầy chất văn xuôi đời thường, ngoài việc thực hiện

chức năng tự sự còn là để khắc họa tính cách, nội tâm nhân vật (Chí Phèo,

Một đám cưới, Nhỏ nhen, Lão Hạc...). Bên cạnh đó Nam Cao có nhiều đóng

góp trong việc miêu tả lời thoại nội tâm, đặc biệt trong sự tiếp thu một cách

sáng tạo chắt lọc phương pháp “dòng ý thức” của văn học phương Tây trong

các sáng tác, tạo điều kiện đi sâu vào phân tích tâm lý nhân vật, khiến nhân

vật đối diện với chính mình, tự phơi bày, tạo ra những cuộc tranh luận ngầm,

bộc lộ ý kiến cá nhân của nhân vật về một vấn đề đang được quan tâm: nhân

cách trong cuộc đời, trong sáng tạo nghệ thuật.

3.2.2. Sự sinh động gần gũi với ngôn ngữ hiện thực đời sống

Khá nhiều truyện ngắn của nhiều tác giả thành công lại đã vay mượn

“tố chất” của các thể loại khác: chất trữ tình của thơ, xung đột gay gắt của

kịch, kích cỡ đường nét hoành tráng của sử thi, chất tự do phóng túng của tùy

bút, chất cổ tích...Nghệ thuật của lời văn Nam Cao lại chính là ở chỗ nó đã

tước đi mọi thứ trang sức, hay ở chính trong tính văn xuôi của nó. Không

ngẫu nhiên mà các nhà nghiên cứu nhận thấy một khả năng truyền cảm kỳ lạ

của văn xuôi Nam Cao. Nó không còn là văn nữa mà nó là đời!

Ngôn ngữ trong tác phẩm của ông đụng chạm tới mọi mảng tranh tối

tranh sáng, mọi ngóc ngách hiện trạng cuộc sống hay nội tâm con người.

Ngôn ngữ truyền tải đến trí óc bạn đọc những cảnh nghèo nàn của đời sống,

từ những cái bát sành sứt mẻ tứ tung đặt ngay trên mặt đất, đến những mơ

mộng, hoài bão ấp ủ trong đầu óc con người đến cảnh mái nhà người nghèo

xiêu vẹo khi qua trận bão, sự no đói của những đứa trẻ, bà lão, ông lão, những

cùng đinh ở làng. Ngay cả một anh nông dân vừa phất lên nhờ sào trầu nhà

102

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

mình mà chẳng may bị bọn khác biết được rồi rắp tâm bòn rút, một người bố

quá thèm thịt chó làm thịt ngay con chó nhà mình mà không để lại cho vợ con

một miếng nào cũng được viết lại dưới ngôn ngữ chân thực, sinh động. Một

anh say rượu chửi bừa bãi cũng trở thành hiện tượng độc đáo qua cách thể

hiện của tác giả... rất nhiều điều khác nữa của đời sống luôn ám ảnh chính bản

thân tác giả và độc giả. Bản thân của những hiện tượng đời sống được viết

trong văn Nam Cao nó cứ âm thầm diễn ra, không phải quá sôi động nhộn

nhịp, không xô bồ tạp nham, không mang tính tranh đấu quyết liệt. Đôi lúc có

những tiếng quát tháo, tiếng chửi nhưng nó không làm ảnh hưởng đến ai.

Xong thì đâu đấy lại vào như cũ. Có những cái chết xuất hiện, cái chết của các

nhân vật, ầm ĩ có, chết trong âm thầm cũng có mà chết trong lúc sống cũng

có. Đó là kết quả tất yếu khi cuộc sống đối với con người trở nên kiệt quệ,

không có lối giải thoát. Nếu có cố thoát khỏi cuộc sống ấy thì sẽ đi đến một

cuộc sống với màu sắc khác còn khổ đau không kém cuộc sống cũ, con người

bị bủa vây trong chính cuộc sống của mình, không có khả năng cải thiện cuộc

sống của mình.

Ngay sự giải thoát trong phút chốc của con người đến với thế giới

mộng mơ cũng bị cái khổ của cuộc sống lôi giật lại một cách phũ phàng. Con

người dù là ai, tầng lớp nào cũng phải đối mặt với điều đầu tiên trong cuộc

sống là sự no đói, nhiều nhân vật của ông bị ám ảnh nhiều khi mặc cảm bởi

chính miếng cơm manh áo mà gây tổn thương đến lòng tự trọng của con

người. Nhà thơ Đỗ Phủ nổi tiếng Trung Quốc cũng coi sự đói là vấn đề hàng

đầu, sau đó là bệnh tật, chiến tranh – những nỗi khổ đeo bám con người đời

đời kiếp kiếp. Trong thơ ông, một bà lão phải ăn trộm quả của hàng xóm để

sống qua ngày nhưng kết cục vẫn phải chết. Bà lão trong văn Nam Cao dù

được ăn một bữa no nhưng vẫn phải trả giá bằng sinh mạng mình.

103

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Bản thân cuộc đời Nam Cao cũng khổ vì cái đói, về quê gia đình đã

khánh kiệt, sống vất vả túng đói. Làng vẫn như xưa, khổ hơn xưa, vải Tây rẻ

như bèo, nghề dệt của làng chết hẳn. Nhà văn ra Hà Nội làm nghề dạy học tư,

cuộc đời túng thiếu, tù hãm cứ quấn chặt lấy ông. Nam Cao gắn bó với nghề

văn vào khoảng những năm phát xít Nhật đặt chân lên Đông Dương, phát xít

Phát bóp nghẹt đất nước. Bọn chúng nuôi dưỡng tờ báo tống tiền, ca tụng

tướng Nhật, Pháp, “Cách mạng quốc gia”, Thiên hoàng, phi công Nhật, rượu

xakê, gái điếm Phù Tang. Chúng cho tồn tại những tiểu thuyết lãng mạn cuối

mùa, với những “chàng, nàng”, “người hùng” hay sùng cổ “trật tự, đạo lý, cao

đẹp” thời phong kiến.

Nam Cao không chịu khuất phục với chế độ nghẹt thở, nhà văn nhìn rõ

cái chế độ đầy đọa và làm trụy lạc con người, ông nguyền rủa văn chương thi

vị hóa cái khổ, của bọn nhà văn tư sản “cúi mình xuống dân chúng”. Nạn đói

diễn ra ở khắp nơi, lan sâu vào hang cùng ngõ hẻm cướp đi mạng sống cùng

nhân cách con người, bản thân Nam Cao và gia đình cũng là nạn nhân của sự

đói khổ. Nhà văn bị ám ảnh vấn đề vận mệnh chung của cả một xã hội chua

xót, đau đớn, buồn thảm, tủi nhục, trong đó đời sống không còn ý nghĩa, quay

về phía nào cũng thấy dựng lên những bức tường bế tắc.

Bản thân Nam Cao đối mặt với nó, cũng dằn vặt đấu tranh để mọi điều

xấu không lấy đi mất phần nhân phẩm của mình. Đó là một bản lĩnh rất lớn.

Không những không bị sa đọa nhấn chìm trong vực đen tối ấy mà Nam Cao

còn thấy trách nhiệm của bản thân trước hiện thực. Ông xác định vẫn mở lòng

đón nhận thấu suốt mọi kiếp người khổ đau và sẵn sàng tinh thần tranh đấu

khi đất nước cần. Như Nguyễn Đình Thi đã nói: “Văn Nam Cao, ngay trong

những tác phẩm đầu, đã thực sắc sảo. Anh nhìn sâu vào sự thật một cách sắc

cạnh, nhiều khi mỉa mai. Không ve vuốt ngay bản thân mình và giai cấp mình

như một vài nhà văn tiểu tư sản tìm an ủi trong một triết lý hàng phục chế độ

104

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

đương thời, anh tạo được những điển hình giai cấp thật sống và cảm động.

Trong lúc văn lãng mạn tư sản đã xa rời lời ăn tiếng nói của nhân dân, viết lai

Tây như văn dịch, càng ngày càng trống rỗng, hình thức, anh đã tạo cho mình

một lối văn mới, đậm đà bản sắc bình dân, nhưng không rời vào chỗ thô tục.

Và qua những lời phẫn uất, cũng đồng thời thấy biết bao thương yêu. Nam

Cao yêu trìu mến cái làng khổ sở của anh, anh yêu những bến đò hiền lành,

những buổi sáng, buổi trưa của thôn quê Việt Nam. Mỗi khi nói đến những

cái ngốc dại quanh quẩn của những người đau khổ quằn quại, biết bao nhiêu

xót xa độ lượng trong câu văn anh...”[ 33, tr.46].

Có thể nói tác giả biết nhìn rõ những chuyện nhỏ nhen hằng ngày trong

cuộc đời đầu tắt mặt tối của bao nhiêu người chung quanh và làm nổi rõ lên

cho ta thấy tất cả những sự vô lý của một chế độ thối nát, trong những chuyện

tầm thường lặng lẽ nhất.

Ngôn ngữ Nam Cao bình dị thể hiện ngay trong việc đặt tên những

nhân vật trong tác phẩm.

3.2.2.1. Cách đặt tên, gọi tên nhân vật.

Tên nhân vật trong truyện ngắn Nam Cao cũng thật đặc biệt. Nếu như

những cái tên như Xuân tóc đỏ, Tuýp phờ nờ, Văn Minh, ... là tên nhân vật

tiêu biểu trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng, hay như Kép Tư Bền, chị Cu, con

Đỏ, thằng Quýt, Phô, Cốc, Tiêu, Mấu...là tên nhân vật trong truyện của

Nguyễn Công Hoan đều mang những dụng ý khi đặt tên, thì Nam Cao cũng

có dụng ý riêng khi đặt tên nhân vật của mình là hắn, y, thị, gã, Chí Phèo, Thị

Nở, lang Rận, lão Hạc, anh đĩ, chị đĩ, cái đĩ, ...

Trước hết ta thấy đó là những tên gọi giản dị, thô mộc có khi là suồng

sã. Nó thật như chính tên gọi ngoài đời sống thực. Những tên gọi này trong

sáng tác của ông như những biểu tượng về một loại người, một loại nhân vật

nhất định.

105

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Ở Chí Phèo (Chí Phèo), cái tư cách “hắn” hằn lên như một thứ căn

bệnh xã hội ngày đó – lưu manh, sa đọa, ngu tối và độc ác mặc dù ai cũng

thấy Chí Phèo không đáng ghét, đáng khinh hoàn toàn. Cùng loại với Chí

Phèo, là những “hắn” khác: Binh Chức, Năm Thọ, Binh Tư, Trương Rự, ...

Có loại “hắn” không cướp của giết người nhưng cũng là những nhân

cách sa đọa méo mó, ác độc như người cha trong (Trẻ con không được ăn thịt

chó), hay chồng dì Hảo (Dì Hảo), của Nhu (Ở hiền), ích kỷ và tàn nhẫn cùng

trở thành nguyên nhân nỗi đau khổ triền miên trong gia đình. Cũng có loại

“hắn” khác vừa đáng thương vừa đáng giận...

Gọi nhân vật của mình là “hắn”, Nam Cao bộc lộ rất độc đáo khuynh

hướng hiện thực nghiệt ngã trong sáng tác của mình. Có lúc “hắn” được tác

giả chuyển gọi rất trịnh trọng thành “ông”. Đó là khi Trạch Văn Đoành – các

nhân vật thuộc vào loại “trông gớm chết” - sắp sửa cho làng một vố đau. Cái

tư cách “ông” (ông Cửu, có vai vế trong làng) được nhấn mạnh, làm đòn bẩy

cho cái bất ngờ trong hành động của nhân vật, tạo tính kịch cho truyện. Và

đồng thời, trong cái cách gọi “hắn” bằng “ông”, dường như ngấm ngầm một

thái độ đồng tình, hả hê của tác giả. Nói ngấm ngầm vì thực ra tác giả vẫn tỏ

ra lạnh lùng, nghiệt ngã với nhân vật này. Cái tư cách “ông” chẳng hề làm mờ

đi cái tư cách “hắn” trong nhân vật tai quái ấy.

Còn những tên như Chí Phèo, Thị Nở đã quá quen thuộc với bạn đọc

đến nỗi đó như những điển hình rất quen thuộc cho lớp người ngoài đời sống

hiện thực.

3.2.2.2. Cách so sánh, phóng đại, tăng cấp.

Ở truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, biện pháp so sánh được dùng để đả

kích thật mạnh vào nét tính cách xấu nào đó của nhân vật trào phúng, trong

truyện Vũ Trọng Phụng hay sử dụng so sánh phức (có nhiều mệnh đề so sánh

trong một câu) với giọng gai góc sắc nhọn chế giễu hàng loạt đối tượng theo

106

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

kiểu tạt ngang đá móc. Gặp nhiều trong văn Nam Cao là lối so sánh ví người

– vật. Tiếp thu nhuần nhuyễn lời ăn tiếng nói dân gian ông đã sử dụng những

câu ví người vật với mật độ lớn theo hai dạng. Thứ nhất, dùng nguyên dạng

thành ngữ: “đỉa phải vôi” (Điếu văn), “đàn cá tranh mồi” (Chí Phèo)...Thứ

hai, chiếm phần nhiều hơn là vận dụng để tạo câu đưa các so sánh ở cấp độ

khác nhau: “Trông anh chàng như con giun chết” (Điếu văn), “mắt híp lại như

mắt lợn sề” (Lang Rận), “đa nghi như con chuột” (Nhỏ nhen), “mặt y nhăn

như mặt hổ phù” (Những truyện không muốn viết)...

Đáng chú ý là các so sánh đều nhắc đến những đặc tính xấu của loài

vật: “Giọng điệu một kẻ sợ hãi cố cười với người nó sợ” (tả chó – Cái chết

của con mực)... Cách sử dụng so sánh ví người – vật có lẽ xuất phát từ suy

nghĩ của ông về hai chữ con người. Điều quan tâm của ông là làm sao cho con

người gần với người hơn (mỗi con người vượt thắng phần con trong mình để

đạt được tính người trong ý nghĩa cao đẹp của hai từ ấy), khi đọc những câu

văn sử dụng cách so sánh ấy, ngòi bút Nam Cao không hạ thấp con người, ai

cũng cần cần phải vươn lên sống đẹp với chữ NGƢỜI cao quý! Đằng sau cái

lạnh lùng ngỡ như tàn nhẫn là cái nhìn của một tâm hồn luôn đặt niềm tin vào

con người.

Nhà văn cũng ưa dùng những so sánh mang tính triết lý, có những triết

lý đầy suy tư dằn vặt: “Ở cảnh chúng ta lúc này, hạnh phúc cũng chỉ là một

cái chăn hẹp. Người này co thì người kia bị hở (...). Giá người ta vẫn có thể

nghĩ đến mình mà chẳng thiệt đến ai!” (Mua nhà). Có những triết lý lại chỉ

mang tính hài: “Ở nhà để cãi nhau với thị. Cãi nhau hai người thì mới đúng

phép và mới thích; cũng như đánh quần vợt, đánh cờ hay đấu kiếm, một

người không thành cuộc ...” (Cười).

Ngoài ra phóng đại – là thủ pháp được nhà văn Nam Cao sử dụng nhằm

tạo tiếng cười, thể hiện dụng ý nghệ thuật.

107

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Đọc Nhìn người ta sung sướng ta thấy thật lạ lùng đến mức khó tin.

Thông thường bà mẹ nào chẳng muốn con gái mình sung sướng, nhất nữa lại

là con gái một. Thế mà bà lão trong truyện trên thấy con gái mình sung

sướng: không phải lo nghĩ gì, trẻ như măng, vợ chồng âu yếm, chiều chuộng

nhau thì bà tức đến thành “bệnh kinh niên”, “không thuốc nào chữa được”.

Người nông dân vốn sống đơn giản, ít tưởng tượng nên thường bị ốm khi cơ

thể có bệnh. Ở đây bà cụ chỉ nhìn thấy con gái mình sung sướng mà đã phát

ốm. Cứ như một thứ thuốc phiện ngấm mạnh dần và đến lúc “phá bung ra

ngoài” thì bà nằm rên hừ hừ. Đến khi được lời an ủi của cháu, bà lại nghĩ đến

việc tạo hạnh phúc cho cháu. Nhưng lúc biết cưới xong, cháu bà sẽ đưa vợ lên

Hà Nội để được gần nhau luôn thì bà lại uất lên “sầm mặt”, “ngực nóng ran”,

hằn học chửi đứa cháu hư hỏng và đe cưới rồi bà còn “bắt ở nhà hầu bà đủ

mười bốn năm”. Ở đây sự phóng đại làm tăng thêm hiệu quả trào phúng.

Nhân vật, chi tiết được cường điệu mà vẫn có lý, được phóng đại mà vẫn chân

thực. Căn bệnh kỳ quái của bà lão phải chăng là do bà suốt đời khổ sở nên

nhìn người ta sung sướng hơn một chút thì thấy gai mắt, không thể chấp nhận

được. Tiếng cười ở đây mang ý nghĩa triết lý về một cách nhìn: xuất phát từ

sự so sánh, đối chiếu với chính bản thân để chấp nhận hoặc không chấp nhận

một cái gì trong cuộc sống.

Không chỉ cường điệu ở cốt truyện mà khi xây dựng nhân vật tác giả

cũng sử dụng cường điệu có khi tới mức kỳ quái. Thủ pháp này thường được

nhà văn sử dụng khi miêu tả ngoại hình nhân vật. Chân dung của Thị Nở (Chí

Phèo) được nhà văn dựng lên theo lối phóng đại: “Một người ngẩn ngơ như

những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn”, “cái mặt của thị thực

sự là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngẩn ngơ đến nỗi, người ta cứ tưởng

bề ngang hơn bề dài thế mà hai má lại hóp vào mới thật là tai hại (...)”. Tả

như vậy có lẽ tác giả nhằm làm tăng cái vẻ chua chát của Chí Phèo muốn có

108

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

một người vợ như vậy cũng không xong. Mặt khác tác giả có ý hài hước để

cho Thị Nở “xứng đôi” với Chí Phèo (lúc đầu truyện có tên Đôi lứa xứng

đôi).

Thông thường, người ta có thể chửi trời, chửi đời, chửi tất cả những ai

làm cho họ tức giận, còn hễ ai động đến bố mẹ người ta thì không yên. Thế

mà Chí Phèo lại “chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn” quá quắt và lạ

lùng hơn, hắn chửi cả người đẻ ra thân hắn thì đáng cười thật, đáng cười

nhưng cũng đáng thương cho một con người cô độc giữa cuộc đời. “Cái đứa

chết mẹ nào đẻ ra thân hắn” nào hắn đâu biết, đó chỉ là tiếng chửi đổng thôi.

Hắn chửi mà chẳng ai lên tiếng. Hắn là con người thừa của xã hội, con người

bị bỏ rơi ngay từ lúc mới sinh ra, lớn lên cũng vậy.

Những từ ngữ phóng đại mang nội dung miêu tả các tác động trực tiếp

với tâm lý, tình cảm và cơ thể bộ phận con người được Nam Cao sử dụng

nhiều: “tiếng cười nảy lên đành đạch” (Nhìn người ta sung sướng), “tim tôi

nhảy chồm lên như một mụ đàn bà ghen tuông” (Cái mặt không chơi được),

“đôi mắt thì long sòng sọc, chúng như muốn nhảy vọt ra” (Những truyện

không muốn viết) ...

Tăng cấp cũng là thủ pháp được Nam Cao ưa sử dụng, tăng cấp trong

hành động để thể hiện kịch tính. Đây là một đoạn văn trong Những truyện

không muốn viết: “Mặt y nhăn như mặt hổ phù. Cái mũi phình ra, nó chứa đầy

khí giận. Đôi mắt thì long sòng sọc. Chúng toan nhảy vọt ra. Ghê gớm quá!

Lại nghiến răng kèn kẹt nữa.

(...) Vợ tôi càng ngứa mắt. Y gầm lên. Y xốc váy lên trên đầu gối. Y giậm

chân bồ bồ. Rồi y lại buông váy xuống. Y vừa nhảy cẫng lên như một con gà

chọi, vừa vỗ tay đen đét mà xỉa xói vào mặt tôi :

- Đi chết đâu mà đi mãi thế? Sao không chết dẫm chết dúi ở đâu đi cho rồi?

Còn về đây làm gì? Còn vác mặt về đây làm gì?”.

109

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Những hành động cử chỉ đầy giận dữ của người vợ được tả theo lối

tăng cấp làm nhân vật “tôi” tưởng vợ ghen tuông do đã biết chuyện anh ta lên

Hà Nội đi hát cô đầu. Xung đột trào phúng được đẩy tới cao trào, chỉ đến khi

vợ bảo: “Còn về đây làm gì nữa! Cả nhà có một vé sợi nó nuốt trời mất rồi”

thì “tôi” mới hoàn hồn, “mặt thư thới”. Phép tăng cấp còn phát huy hiệu quả

trong việc bộc lộ tiếng cười tự hào của “tôi”. “Tôi” tự chế giễu cái hèn nhát

của mình. Thấy vợ giận dữ: “Tôi toát mồ hôi trán. Mắt tôi nhìn xuống mũi,

mũi tôi nhìn xuống miệng, và miệng tôi thì bịu ra. Cái thằng tôi nó hèn như

thế đấy. Chẳng bao giờ nó dám nhìn nỗi nguy vào tận mặt. Nó chỉ nhìn xuống

đất. Nó chỉ nhìn xuống đất để xem có cái lỗ nào thì chui lọt vào. Nó cứ tưởng

nó là con giun. Cố nhìn là không có lỗ. Mà có lỗ thì không chui lọt. Tôi đành

đứng ỳ ra vậy”.

Phép tăng cấp đã phát huy hiệu quả trong khi nhà văn miêu tả tâm trạng

của ông lý Nhưng (Rửa hờn) khi bị ông khóa Mẫn chửi xỏ: “Ông đỏ bừng mặt

mũi. Ông nghẹn cổ không nói ra được. Mãi đến lúc tên người nhà ông khóa ra

rồi, ông mới bật ta một tiếng. Ông chửi tục. Ông nghiến răng lại mà chửi tục.

Mắt ông nảy lửa. Mép ông sùi bọt. Người ông rung lên vì tức giận. Ông đổ

xuống cái giường như một cây gỗ đổ. Ông hậm hực. Đôi mắt ông ầng ậng

nước. Ông nghĩ đến một con dao. Ông nghĩ đến một cái búa đinh...Ông nghĩ

đến một cái chai ...Ông nghĩ đến cả một mâm rượu hắt vào mặt ông khóa

Mẫn ...”. Nỗi căm giận của ông lý Nhưng được diễn tả thật ghê gớm. Người

đọc nghĩ có thể xảy ra một vụ án mạng. Nhưng không, sau sự giận dữ ấy là

hành động ông “hằm hằm” bước ra khỏi nhà, đến nghĩa địa tìm mộ bố ông

khóa Mẫn ... “để giải thoát cho cái bong bóng”. Và thế là ông đã rửa được

hờn.

110

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

3.2.2.3. Sử dụng lời ăn tiếng nói của làng quê Bắc Bộ.

Nhà nghiên cứu Phong Lê đã nhận xét về những sáng tác của Nam Cao:

“Gần như toàn bộ những gì của Nam Cao sưu tầm được đến có thể in, có thể

đọc, trong đó một tỷ lệ lớn những trang hay, tức là những trang có thể đọc đi

đọc lại nhiều lần, mà không gây cảm giác cũ. Phải chăng đó chính là phẩm

chất của những gì thật ưu tú, là cái giá trị đã có thể đi dần vào quỹ đạo của

những gì thuộc về cổ điển” [33, tr.368]. Có lẽ điều đầu tiên góp phần làm nên

những thành tựu ấy ở Nam Cao là sự giản dị và dễ hiểu của lời văn. Nó hấp

dẫn, dễ gây thiện cảm trước hết là một văn phong giản dị mượt mà, hấp thụ

mọi biến đổi đời sống – chính là một nhà văn đã mở tâm hồn mình đón lấy

cuộc đời, đón nhận mọi “tiếng đau khổ” , “những kiếp lầm than vang dội lên

mạnh mẽ trong lòng”.

Văn Nam Cao dễ dàng được tiếp thu từ mọi bạn đọc, dù là ai, ở tầng

lớp nào cũng thấy thật dễ hiểu, văn ông gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày

của nhân dân: Mộc mạc, chân chất. Có thể nói trong truyện ngắn của ông,

chất giọng chính là giọng nói của nông dân Bắc Bộ. Vừa cộc, vừa đốp chát,

bô bô thẳng thừng, vừa tính toán, nói xuôi cũng được mà ngược lời cũng nên.

“Dường như nhà văn đã đem ngôn ngữ của làng quê Bắc Bộ vào trong truyện

của mình một cách tự nhiên nguyên vẹn, cả giọng điệu, ngôn ngữ, tính cách

và tư duy. Nhân vật luôn luôn nghĩ đi thì thế này, nghĩ lại là thế này, đằng nào

cũng có lý cả”[ 33, tr.371].

Đọc truyện ngắn Nam Cao có thể gặp rất nhiều những từ ngữ đặc biệt

của nông dân Bắc Bộ. Những từ ngữ trong sinh hoạt hàng ngày, những cách

so sánh ví von, những cách suy nghĩ nói năng. Chẳng hạn: “Chạy xạc cả gấu

váy”, “buồn cười chửa, có vậy mà cũng gắt như mắm thối”, “cứ ngay mặt ra

như cái tàn...”, “đầu gio mặt muối”, “chõ mồm vào ...”, “Giời ơi là giời! Có

111

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

chồng con nào thế không? Chỉ vác cái mặt lên như con trâu nghênh suốt ngày.

Chẳng nhìn nhõ đến cái gì. Để cho con ăn đất ngoài sân kia kìa! ...”.

Đây là một đoạn trong truyện Một đám cưới: “ ...Cô dâu chỉ mặc những

cái áo vải ngày thường nghĩa là một cái quần cộc xẫng và đụp những miếng

vá thật to, một cái áo cánh nâu bạc phếch và cũng vá nhiều chỗ lắm, một bên

tay rách quá, đã xe cụt gần đến nách. Nó sụt sịt khóc đi bên cạnh mẹ chồng,

chú rể dắt đứa em lớn của Dần. Còn thằng bé thì ông bố cõng. Cả bọn đi lủi

thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm, lẳng lặng, dắt díu

nhau đi tìm chỗ ngủ”. Như vậy thực chất đám cưới cái Dần chỉ là một đám

cưới chạy đói, để bớt đi một miệng ăn trong nhà.

Có thể nói chất giọng ngôn ngữ nông dân Bắc Bộ chi phối nhiều yếu tố

và là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên phong cách ngôn ngữ của

ông, đặc biệt là trong việc thể hiện tâm lý nhân vật. Có khi nhân vật đang suy

nghĩ, bỗng chen vào một ý nghĩ như một triết lý sống, từ cái triết lý ấy, tâm lý

nhân vật vận động. Nó làm cho tính chất triết lý trong văn phong Nam Cao trở

nên uyển chuyển, không quá khó hiểu với bạn đọc, triết lý không phải ở

những ngôn từ xa xôi mà đó thực chất là cách nghĩ, cách nói nông dân, trong

khi nói thường thêm vào những câu nhận định, những kinh nghiệm sống đã

được rút thành những chân lý, thành lẽ phải ai cũng phải công nhận trong một

hoàn cảnh xã hội nhất định, ví dụ: “Ngon hay không là tại miệng. Mà cái

miệng người đói thì ăn gì cũng ngon”, “sống khổ đến đâu cũng còn hơn chết.

Cái tâm lý chung của người đời như vậy”, “thương con thì để bụng, nuông

con thì thà giết con đi”, “người điều độ là người khôn ngoan”...

Nam Cao muốn vươn tới những ý nghĩa triết lý nhân sinh sâu rộng hơn,

triết lý về kiếp người, về sướng khổ theo cái cách của người nông dân:

“ ... Lão chua chát bảo:

112

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

- Ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta phải hóa kiếp cho nó

để nó làm kiếp người, may ra nó sung sướng hơn một chút...kiếp người

như kiếp tôi chẳng hạn!...

Tôi bùi ngùi nhìn lão bảo:

- Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng?

- Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì

cho thật sướng?

Lão cười và ho sòng sọc. Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo:

- Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: bây

giờ cụ ngồi xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu

một ấm nước chè tươi thật đặc; ông con mình ăn khoai, uống nước chè,

rồi hút thuốc lào ... Thế là sướng.

- Vâng! Ông giáo dạy phải! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng”.

(Lão Hạc)

Đó là hạnh phúc nhỏ nhoi. Trong hoàn cảnh đói khổ, có được củ khoai,

tách trà, hơi thuốc lào và nhất là có được một người thông cảm được nỗi khổ,

đó là sướng. Bản thân Nam Cao thấy được sự sướng khổ chính là ở sự bất

công của xã hội, trước hết là ở sự bóc lột của giàu với nghèo. Cũng vẫn bằng

ngôn ngữ mộc mạc ấy nhà văn có những triết lý và suy nghiệm về bọn bóc

lột: “Cơm nhà giàu khó nuốt. Ăn của họ mà không làm lợi cho họ được thì họ

làm cho đến phải mửa mặt ra mà giả họ” (Một đám cưới).

Nhà văn Nguyễn Công Hoan trong Đời viết văn của tôi có nhận xét

rằng khi văn chương mà viết đúng như tiếng nói của dân tộc thì nó hay và

đứng vững mãi. Điều này cũng hết sức đúng với trường hợp của Nam Cao –

một lối viết thật giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân.

113

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

3.2.3. Ngôn ngữ nhân vật độc đáo.

Ngôn ngữ nhân vật là một trong các phương tiện quan trọng được nhà

văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật. “Ngôn ngữ nhân

vật bao giờ cũng phải đảm bảo sự kết hợp sinh động giữa cá thể và tính khái

quát, nghĩa là một mặt, mỗi nhân vật có một ngôn ngữ mang đặc điểm riêng,

có “lời ăn tiếng nói” riêng, mặt khác ngôn ngữ ấy lại phản ánh được đặc điểm

ngôn ngữ của tầng lớp người nhất định gần gũi với nghề nghiệp, tâm lý giai

cấp, trình độ văn hóa ...” [10, tr.183]. Với chủ nghĩa hiện thực, ngôn ngữ nhân

vật được coi là một đối tượng miêu tả, cá tính hóa trở thành một yêu cầu thẩm

mĩ.

Người nông dân và trí thức tiêu tư sản nghèo là những nhân vật trung

tâm, trong tác phẩm Nam Cao. Song ngoài hình tượng đóng vai trò chính ấy

tác giả còn viết về rất nhiều những con người nghèo khổ của xã hội, những

hạng cùng đinh, mà đó là những con người chiếm số đông của đất nước ta

thời đó. Nhưng một thực trạng vẫn tồn tại rất lâu dài, số người nghèo luôn

nhiều hơn số người khá giả giàu có, con người chìm ngập trong âu lo cho số

phận mình, họ không đoán định được tương lai thế nào. Bản thân Bác Hồ là

người đã nghiền ngẫm rất kĩ và nhận thấy tình cảnh này, trước Cách mạng

đâu đâu cũng là người nghèo đói, Người ví số người đó như vành của chiếc

nón úp và ta phải lật ngược tình thế ấy. Cách mạng thành công là bước ngoặt

trong đời sống chính trị tinh thần của nhân dân ta, thay đổi cơ bản về những

mặt đó, trước hết con người được thỏa sức trong môi trường sống của

mình, vấn đề cơm áo không còn quá nặng nề như trước.

Người nông dân vẫn chiếm số đông và là đối tượng miêu tả của nhiều

nhà văn trước Nam Cao như trong tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công

Hoan…Trong sáng tác của Nam Cao, nhân vật người nông dân vẫn có nét

riêng của mình và nhân vật cũng có đặc điểm riêng. Ngôn ngữ nhân vật cho

114

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

thấy vẻ đẹp của lối viết văn tước đi mọi trang sức. Lời lão Hạc (Lão Hạc) là

sự lên tiếng của tính cách, của giọng điệu, của cả tâm lý nông dân của lão vốn

nặng những lo toan, tính đếm, kể lể, cà kê…nhiều câu rất bâng quơ, lạc điệu

so với mạch đối thoại, khiến nó có cái vẻ lẩn thẩn, lẩm cẩm rất riêng. Nhưng

thực ra nó che giấu một mạch ngầm. Những lời gàn gàn, lẩn thẩn lại là những

trao gửi, ủy thác khôn ngoan nhất của một người sắp đi vào cái chết. Đó là

những lời mà độ dư vang của nó không cảm nhận được tức thời, nó vang lên

ở không gian khác. Chỉ khi truyện kết thúc, ta mới thấy tiếng vọng chợt nhói

lên của nó. Những lời ấy chợt mở ra cái thế giới cao đẹp đầy dữ dội và hết sức

cô đơn của lão Hạc. Nó chưa từng được cảm thông. Đến khi cảm thông được

thì đã muộn mất rồi!

Nhân vật trong sáng tác của Nam Cao rất hay độc thoại nội tâm bởi

dòng chảy về cuộc sống, con người trong ý nghĩa nhân vật là miên man vô

tận. Có thể nói chỉ khi nào dòng đời thôi không chảy nữa thì nhân vật mới

dừng suy nghĩ.

Ngôn ngữ đối thoại cũng thể hiện rõ nét đặc trưng bút pháp nhà văn.

Nguyễn Công Hoan dựa trên cái nền hiện thực cường điệu, phóng đại thành

đối thoại như một phần của bức biếm họa nhằm lật phăng cái mặt nạ của “tấn

trò đời”. Còn những đối thoại của Nam Cao chân thực đến xù xì, góc cạnh

như được đưa thẳng từ cuộc đời vào trong sách. Anh Chí Phèo (Chí Phèo) đã

từng đến nhà Bá Kiến đặt thẳng vấn đề xin lại được ở tù lần nữa và cụ Bá thì

không ngần ngại tỏ rõ ý định thâm độc của mình:

“Cụ Bá quát, bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh của người.

- Anh này lại say khướt rồi!

Hắn xông lại gần, đảo ngược mắt, giơ tay lên nửa chừng:

- Bẩm không ạ, bẩm thật là không say. Con đến xin cụ cho con đi ở tù mà

nếu không được thì…thì…thưa cụ…

115

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

Hắn móc đủ mọi túi, để tìm một cái gì, hắn giơ ra: đó là một con dao nhỏ,

nhưng rất sắc. Hắn nghiến răng nói tiếp:

- Vâng, bẩm cụ không được thì con phải đâm chết dăm ba thằng, rồi cụ bắt

con giải huyện.

Rồi hắn cúi xuống, tần mần gọt cái bàn lim. Cụ Bá cười khanh khách. Cụ vẫn

tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy. Cụ đứng lên vỗ vai hắn mà bảo rằng:

- Anh bứa lắm. Nhưng này, anh Chí ạ, anh muốn đâm chết người cũng không

khó gì. Đội Tảo nó còn nợ tôi năm mươi đồng đấy, anh chịu khó đến đòi cho

tôi, đòi được tự nhiên có vườn”.

Trong những truyện ngắn của Nam Cao, nhân vật độc thoại nội tâm

nhiều, nhân vật sống với kỉ niệm, với hiện tại và cả chút mơ ước về tương lai.

Nam Cao không phải là nhà văn đầu tiên sử dụng độc thoại nội tâm. Độc

thoại nội tâm xen giữa dòng đối thoại, đi sâu vào hồi tưởng quá khứ và mong

ước với mai sau. Độc thoại nội tâm trong tâm trạng đơn độc của nhân vật, độc

thoại nội tâm trong khi vui chuyện chung của nhiều người. Độc thoại nội tâm

của nhân vật có thể là một ý nghĩ ngắn bột phát, nảy sinh tức thời: “Và lắm

lúc thị ngạc nhiên: sao người ta ghê hắn thế?” (Chí Phèo), “dù thấy bồn chồn

và vẩn vơ: thương, hối hận hay là thẹn…Phải dám giết mà không run tay khi

cần phải giết. Còn làm được trò gì nữa nếu chỉ giết một con chó mà tim cũng

đập?” (Cái chết của con mực)…Có khi độc thoại nội tâm là kết quả của một

chiêm nghiệm, tổng kết đầy thấm thía: “Buồn thay cho đời! Có lý nào như thế

được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu ...” (Chí Phèo), hoặc

chất chứa sự bất lực đầy chua xót khi con người phải từ bỏ những ước vọng

được viết, được sáng tạo văn chương nghệ thuật hay những ám ảnh về cái đói

cái nghèo trong tâm trí con người. Nhưng những cảm xúc yêu thương thắp lên

chất người trong mỗi con người vẫn là những độc thoại nội tâm sâu kín, đẹp

đẽ nhất trong những truyện ngắn của Nam Cao: “...Cho nên thị nghĩ: mình bỏ

116

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau

như “vợ chồng”. Gớm! Sao lại có thứ người đâu mà lì quá thế! Người ta ngồi

đấy mà dám xán lăn ngay vào, nó chả ngang ngược mà người ta kêu bé, nó lại

làm to hơn. Mà kể thì cũng ngù ngờ. Cái thằng trời đánh không chết ấy, nó

còn sợ ai mà hòng kêu. Nhưng mà đáng kiếp. Thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ

gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được, đang ốm thế thì chỉ ăn

cháo hành. Ra được mồ hôi là nhẹ nhõm người ngay đó mà ...” (Chí Phèo).

Cách diễn đạt giản đơn, ngây ngô những thẳm sâu lại thắp lên chất ngọc

đẹp đẽ cao cả của tình người đầy yêu thương. Những con người bất hạnh,

cùng đường, cô độc tìm đến với nhau, lo nghĩ cho nhau để lần đầu biết đến

hai tiếng vợ chồng thật giản dị, hạnh phúc của con người dẫu nhỏ bé, giản

đơn nhưng thật quý giá, nó chính là “chất người trong con người” mà Nam

Cao đã chắt chiu tìm kiếm và nuôi dưỡng trong sâu nhất của hồn người.

3.3. Tiểu kết

Một nhà văn đích thực phải ý thức về mình như một nhà ngôn ngữ vì

“ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên quy định cung cách ứng xử” của nhà văn, là

phương tiện bắt buộc để nhà văn giao tiếp với bạn đọc.

Đối với văn chương, ngôn ngữ không chỉ là “cái vỏ của tư duy” mà còn

là tài năng, cá tính và quan điểm nghệ thuật. Ngôn ngữ trong văn Nam Cao

luôn luôn mới mẻ với bạn đọc vì trước hết đó là văn của đời sống hiện thực,

là lời ăn tiếng nói mà ta vẫn thấy hàng ngày, những câu triết lý trong tác phẩm

cũng được diễn đạt dưới dạng cụ thể nhất.

Ngôn ngữ nhân vật được nhà văn khai thác tối đa, nhân vật nói những

điều cần nói và nói chính ngôn ngữ của mình. Trong khuôn khổ truyện ngắn,

truyện Nam Cao là những mảnh đời đến với ta từ nhiều phía, và trong nhiều

dạng, không trùng lặp, không đơn điệu. Bằng một giọng trầm buồn, một sức

nén của cảm xúc, Nam Cao như lùi lại sau hàng rào ngôn ngữ, để cho ta cảm

117

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

nhận trực tiếp cái đa thanh của cuộc đời. Cuộc đời như vốn có. Cuộc đời như

chính nó.

Ngôn ngữ hiện thực Nam Cao, một giọng điệu Nam Cao - đó là nét in

dấu và nổi đậm lên trên những trang văn của ông, khiến cho tác giả không lặp

lại những Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng,

Tô Hoài ...và đưa ông lên hàng đầu dòng văn học hiện thực Việt Nam đang đi

vào chặng cuối - trước khi vào bản lề Cách mạng.

118

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

KẾT LUẬN

Bạn đọc khi tiếp nhận tác phẩm của Nam Cao xin đừng dừng ở bề mặt

của chữ nghĩa mà hãy lặn sâu vào những tầng ý nghĩa thì mới thấy được ánh

sáng long lanh như ngọc của nó. Như J.O.Gasset đã nói rằng trong khi tạo ra

thế giới bên trong riêng của mình, tiểu thuyết tất yếu hủy diệt thế giới bên

ngoài. Mục đích cuối cùng của nghệ thuật chính là đưa lại cái nhìn về sự vật

và thế giới đầy đủ và sâu sắc hơn. Đối với truyện ngắn cũng như thế. Và

truyện ngắn Nam Cao với những kỹ thuật tự sự độc đáo, đã đưa lại cái nhìn

chân thực và sâu sắc về hiện thực.

Những “kỹ thuật” tự sự của Nam Cao đã có đóng góp lớn trên con

đường hiện đại hóa văn học từ những ngày đầu tiên. Ông đã tìm cho mình

một hướng đi riêng trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực. Nếu như

Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố – những nhà văn hiện thực

xuất sắc thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936 – 1939) đến tập trung phản ánh trực

tiếp những mâu thuẫn, xung đột xã hội thì sáng tác của Nam Cao - đại biểu ưu

tú nhất của trào lưu hiện thực chặng đường cuối cùng (1940 – 1945) tập trung

thể hiện xung đột trong thế giới nội tâm nhân vật. Chưa bao giờ những

chuyện vặt vãnh hằng ngày lại có một sức mạnh ghê gớm như trong sáng tác

của ông, từ những chuyện rất đời thường, Nam Cao đã thực sự đụng chạm

đến vấn đề có tính chất nhân bản, đã đặt ra những vấn đề sâu sắc từ cuộc

sống, về thân phận con người, về vấn đề cải tạo xã hội, về tương lai dân tộc và

nhân loại. Ông đã sống hết mình và viết cũng hết mình, ông quan niệm “sống

đã rồi hãy viết”. Đến khi đất nước lên tiếng gọi, ông đã cầm bút và sống cho

cuộc chiến đấu vĩ đại ấy.

Những truyện của ông có sức hấp dẫn không bị phải mờ bởi thời gian,

dù đến thời đại ngày nay văn học đã có những bước phát triển mới, không khí

119

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

thời đại cũng khác, bạn đọc có những nhu cầu thưởng thức đa dạng. Khi đọc

văn Nam Cao, người thưởng thức văn chương nghệ thuật vẫn thấy hấp dẫn và

đôi khi họ thấy văn Nam Cao là bóng dáng đang diễn ra ngoài kia.

Tác phẩm Nam Cao có nhân vật người kể chuyện lúc hóa thân vào

xưng “tôi” để kể chuyện lúc thì tách ra kể ở ngôi thứ ba khách quan, cũng có

khi nhập vào điểm nhìn của nhân vật trong truyện. Điểm nhìn trần thuật trong

truyện ngắn Nam Cao đa dạng và luôn vận động, có nhiều tiếng nói vang lên

và đối thoại, sự đan xen hòa nhập các tiếng nói tạo sự thay đổi trong điểm

nhìn trần thuật khiến lời văn biến hóa một cách sinh động. Việc xuất hiện một

người kể chuyện linh hoạt làm cho điểm nhìn tự sự phong phú, tạo điều kiện

cho ngòi bút nhà văn di chuyển tới mọi ngóc ngách cuộc sống tâm hồn con

người.

Người kể chuyện trong truyện ngắn Nam Cao hết sức khéo léo để dẫn

dắt bạn đọc vào truyện, cuốn hút bạn đọc vào những biến thái tâm lý sâu thẳm

trong mỗi nhân vật và khơi dậy việc tự nhận thức ở người đọc. Với các cách

kể truyện khác nhau, cách xuất hiện khác nhau của người kể chuyện sẽ có các

dạng truyện khác nhau. Với vai trò đại diện của tác giả, người kể chuyện

trong truyện ngắn Nam Cao đem đến cho độc giả những đề tài mà phần nào

đã từng diễn ra, từng ảnh hưởng nhiều trong cuộc đời tác giả. Người nghệ sĩ

chân chính sáng tạo không chỉ vì mưu sinh, kiếm sống mà trước hết là vì nhu

cầu sáng tạo thôi thúc từ bên trong, văn chương phải mới lạ, độc đáo. Với

Nam Cao, văn chương phải có chiều sâu của nghệ thuật sáng tạo đích thực và

các sáng tác phải thật sự có ích. Đó là lý do nhà văn đã sống và viết vì mọi

người, cho nhân dân, cho đất nước.

Bên cạnh đó cốt truyện cũng khá quan trọng, nhiều truyện của Nam

Cao được xếp vào “truyện như không có cốt truyện” nhưng luôn có những

mạch ngầm khiến kết cấu khó có thể bị phá vỡ. Truyện ngắn trước Cách mạng

120

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

tháng tháng Tám của Nam Cao là truyện tâm lý vì vậy cốt truyện tâm lý được

triển khai cùng với những kiểu kết cấu đặc sắc. Trong đó nhà văn biết khai

thác triệt để sức mạnh phản ánh của những chi tiết, sức mạnh bật phá của tình

huống, thử thách nhân vật làm nổi bật lên những bi hài kịch của cuộc sống nội

tâm con người. Nhiều nhà văn cùng thời với Nam Cao đã sáng tạo ra nhiều

tình huống truyện rất độc đáo nhưng không có ai như Nam Cao đã khai thác

kỹ tình huống truyện dưới dạng những điều kiện để miêu tả chiều sâu của đời

sống tâm linh con người, để trình bày quan điểm của mình về đời sống dưới

dạng thẩm mĩ.

Trong tác phẩm Nam Cao, ngôn ngữ và giọng điệu cũng là một phần

tạo nên sức hấp dẫn với bạn đọc, đồng thời ông tạo cho mình được một phong

thái ngôn ngữ - giọng điệu của riêng mình mà không trùng lặp với các nhà

văn tên tuổi cùng thời như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công

Hoan… Đọc truyện ngắn Nam Cao ta thường gặp một giọng điệu đa âm mà ở

đó khi thì là ngôn ngữ nhân vật, khi thì là ngôn ngữ trần thuật của người kể

chuyện, có khi là lời đan xen của tác giả tạo nên những trang sinh động. Nam

Cao kể bằng suy nghĩ nội tâm của chính mình hòa với ý thức của nhân vật và

luôn thay đổi điểm nhìn trong giọng kể. Ông có một giọng kể khi vào truyện

tự nhiên thật như chính cuộc sống vẫn diễn ra, điền nay khiến truyện ngắn

Nam Cao trở nên gần gũi với mọi người và thật “giản dị mà lạ lùng” như nhà

văn Vũ Bằng cảm nhận.

Tác giả vừa kể chuyện vừa suy ngẫm, người ta hay nói đến lời văn hai

giọng của ông, lời trần thuật của tác giả, lời độc thoại của nhân vật có khi hòa

nhập, xuyên thấm lẫn nhau tạo thành lời nửa trực tiếp. Đó là một thứ ngôn

ngữ giọng điệu đa thanh mang tính đối thoại rất hiện đại. Sắc thái giọng điệu

trong truyện ngắn Nam Cao cũng rất đa dạng và có sự đan xen giọng điệu:

giọng điệu triết lý, giọng điệu hài hước mỉa mai, giọng điệu giễu nhại, giọng

121

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

điệu bi quan chua chát… Đôi khi đọc truyện Nam Cao bạn đọc cũng thấy tác

giả bi quan trong khi nhìn nhận con người và thế sự, nhưng không vì thế mà

ông quên đi trách nhiệm của một nhà văn khi cầm bút viết về vấn đề con

người.

Ngôn ngữ trong văn Nam Cao không quá xa lạ với bạn bạn đọc. Ông

thường dùng những câu văn ngắn nhanh chóng giúp bạn đọc chiếm lĩnh, chỉ

dẫn bạn đọc, đồng thời lời văn cũng dễ hiểu, không quá trừu tượng, đôi khi

thô mộc nhưng vẫn tự nhiên và mượt mà. Ngôn ngữ trong tác phẩm của ông

thực sự đi sâu vào lòng người, thực sự là lời ăn tiếng nói của nhân dân. Khá

nhiều truyện ngắn của nhiều tác giả thành công đã vay mượn “tố chất” của

các thể loại khác nhưng nghệ thuật lời văn Nam Cao lại chính ở chỗ nó đã

tước đi mọi thứ trang sức, hay ở chính trong tính văn xuôi của nó.

Luận văn đã đề xuất việc nghiên cứu tác phẩm Nam Cao từ phương

pháp nghiên cứu tự sự học – một công cụ hữu ích cho việc vận dụng đối với

các sáng tác văn học cụ thể. Song giá trị văn chương Nam Cao để lại còn rất

nhiều điều ta chưa thể khám phá hết, mỗi thời đại khi tiếp nhận sáng tác Nam

Cao sẽ còn thấy được những điều được coi là muôn thuở, những vấn đề nan

giải của thời đại mình như vấn đề về con người, hạnh phúc, cái đói nghèo,

nhân phẩm ...Nhà làm phim Đoàn Lê khi nhắc lại kỷ niệm làm phim chuyển

thể từ các tác phẩm của Nam Cao cảm nhận về văn và đời nhà văn: “…dù làm

phim hay cầm bút, cái ma lực trong văn chương ông không ngừng cuốn hút

tôi. Cái ma lực ấy là sự chân thật sinh động đến kỳ lạ. Mỗi chữ đều tựa hồ từ

đáy lòng của ông không chút sai ngoa, tô vẽ. Bao năm qua, càng đọc văn ông

càng thấy mình bị chinh phục bởi sự chân thật ấy. Càng không thể phân biệt

được con người ông là cái toàn thể hay một phần nhỏ trong dòng đời mênh

mang kia, người đã dùng nguồn sáng khôn soi rọi vào chính mình, soi vào

cảnh ngộ chung của cộng đồng mình, để thấy ra một lẽ sống” [33, tr.542].

122

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1992), Nam Cao và cuộc cách tân văn học đầu thế

kỷ XX, Tạp chí văn học, số 1.

2. Vũ Khắc Chương (2000), Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm

Nam Cao, NXB Văn học.

3. Nguyễn Văn Dân (2004) Phương pháp luận nghiên cứu văn học,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội

4. Đinh Trí Dũng (2005), Nhân vật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, NXB

Khoa học Xã hội, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.

5. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng, Nguyễn Trác, Hà Văn

Đức (1999), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

6. Hà Minh Đức (1961), Nam Cao, nhà văn hiện thực xuất sắc, NXB

Văn học, Hà Nội.

7. Hà Minh Đức (1999), Tuyển tập Nam Cao, Tập 1, NXB Văn học,

Hà Nội.

8. Hà Minh Đức (1999), Tuyển Tập Nam Cao, Tập 2, NXB Văn học,

Hà Nội.

9. Hà Minh Đức (1998), Nam Cao - đời văn và tác phẩm, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật

ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

11. Lê Thị Đức Hạnh (1991), Nguyễn Công Hoan (1903 - 1907), NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

12. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, NXB Văn học, Hà

Nội.

123

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

13. Trần Văn Hiếu (1997), Ba phong cách trào phúng trong văn học

Việt Nam thời kỳ 1930 – 1945: Nguyễn Công Hoan – Vũ Trọng

Phụng – Nam Cao, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

14. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, NXB Khoa học Xã

hội và NXB Cà Mau.

15. Nguyễn Công Hoan (1971), Đời viết văn của tôi, NXB Văn hóa, Hà

Nội.

16. Nguyễn Công Hoan (2006), Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ

Chí Minh, quyển 1, NXB Văn học Hà Nội.

17. Nguyễn Công Hoan (2006), Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ

Chí Minh, quyển 2, NXB Văn học Hà Nội.

18. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

19. Tô Hoài (1997), Những gương mặt: Chân dung văn học, NXB Hội

nhà văn, Hà Nội.

20. Vũ Ngọc Khánh (1974), Nhà thơ trào phúng Việt Nam – phần văn

học viết từ thế kỷ XIII đến 1945, NXB Văn học, Hà Nội.

21. Đinh Gia Khánh (2002) Văn học Việt Nam (Thế kỷ X - nửa đầu thế

kỷ XVIII) NXB Giáo dục, Hà Nội.

22. Nguyễn Hoành Khung (1978), Nam Cao – Giáo trình lịch sử văn

học Việt Nam 1930 – 1945, tập 5 – phần 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.

23. Đinh Trọng Lạc (2002), 99 phương tiện và biện pháp tu từ Tiếng

Việt (in lần thứ 6), NXB Giáo dục , Hà Nội.

24. Hoài Lam (1973), Tìm hiểu mỹ học Mác – Lênin, NXB Văn hóa , Hà

Nội.

25. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB

Đại học Sư phạm Hà Nội.

124

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

26. Phương Lựu (Chủ biên) (2003), Lý luận văn học, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

27. Phương Lựu (1995), Tìm hiểu lý luận văn học phương Tây hiện đại,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

28. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB

Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam.

29. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật

của nhà văn, (in lần thứ 2), NXB Giáo dục, Hà Nội.

30. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Những bài giảng về tác giả văn học

trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, tập 1, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội.

31. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Giáo trình văn học lịch sử Việt Nam

1930 – 1945, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

32. Tôn Thảo Miên (2004), “ “Lời giới thiệu”, Vũ Trọng Phụng toàn

tập”, tập 5, NXB Văn hóa, Hà Nội.

33. Nhiều tác giả (2001), Nam Cao – về tác giả và tác phẩm, (Bích Thu

biên soạn và tuyên chọn), NXB Giáo dục, Hà Nội.

34. Nhiều tác giả (1992), Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn.

35. Nhiều tác giả (2001), Nguyễn Công Hoan – về tác giả và tác phẩm,

(Lê Thị Đức Hạnh giới thiệu và tuyển chọn), NXB Giáo dục, Hà

Nội.

36. Hoàng Phê (1997), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng và Trung tâm

Từ điển học.

37. Vũ Trọng Phụng (2004), Vũ Trọng Phụng toàn tập, tập 5, NXB Văn

học, Hà Nội.

125

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...

38. Nguyễn Mạnh Quỳnh (2008) Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng nhìn từ

lý thuyết thời gian tự sự của G.Genette, Luận án tiến sỹ khoa học

ngữ văn, Hà Nội

39. Diệp Tú Sơn (1991), Mỹ học tiểu thuyết, NXB Đông Dương (tái bản

lần 2 – 1997), Người dịch: Nguyễn Kim Sơn, Hà Nội, 2004.

40. Trần Đình Sử (2006), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

41. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt

Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

42. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2004), Tự sự học – một số vấn đề lý luận

và lịch sử, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.

43. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2004), Tự sự học – một số vấn đề lý luận

và lịch sử, phần 2, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.

44. Trần Đình Sử, Nguyễn Thanh Tú (2001), Thi pháp truyện ngắn trào

phúng Nguyễn Công Hoan, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

45. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn – những vấn đề lý thuyết và

thực tiễn thể loại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

46. Nguyễn An Tiêm (1993), Cái hài từ truyện cười dân gian đến văn

xuôi hiện đại, Văn hóa dân gian (4), Trang 24 – 28.

47. Nguyễn Quang Trung (2002), Tiếng cười Vũ Trọng Phụng, NXB

Văn hóa Thông Tin, Hà Nội.

48. Phùng Văn Tửu (1990), Tiểu thuyết Pháp hiện đại, những tìm tòi

đổi mới, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

126