ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===***=== ĐÀO THANH NGA
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ
TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành:Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS Hà Văn Đức HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===***=== ĐÀO THANH NGA
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ
TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO
TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Văn học Việt Nam
HÀ NỘI - 2010
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 3
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 4
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 11
4. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 12
5. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................. 12
6. Cấu trúc luận ................................................................................................ 12
NỘI DUNG ......................................................................................................... 13
CHƢƠNG 1. NGƢỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN
NAM CAO ......................................................................................................... 13
1.1. Điểm nhìn tự sự .......................................................................................... 15
1.1.1. Trần thuật theo điểm nhìn khách quan .................................................. 17
1.1.2. Trần thuật theo điểm nhìn chủ quan ...................................................... 23
1.1.3. Di chuyển điểm nhìn ................................................................................ 28
1.2. Vai trò ngƣời kể chuyện ............................................................................ 34
1.2.1. Người kể chuyện trong sứ mệnh tạo ra mạch tự sự độc đáo hấp dẫn .. 35
1.2.2. Người kể chuyện mang tiếng nói, quan điểm của tác giả
về cuộc sống con người và nghệ thuật .............................................................. 39
1.3. Tiểu kết ........................................................................................................ 41
CHƢƠNG 2. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN TRONG
TRUYỆN NGẮN NAM CAO ........................................................................... 43
2.1. Cốt truyện ................................................................................................... 43
2.2. Những yếu tố tham gia tổ chức, cấu trúc cốt truyện .............................. 45
2.2.1. Sự kiện- tình tiết- chi tiết ......................................................................... 45
2.2.2. Kết cấu ...................................................................................................... 46
1
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
2.2.3. Biến cố- tình huống…………………………………………………..47
2.3. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc
Cách mạng…………………………………………………………………..49
2.3.1. Cốt truyện tâm lý và những kiểu kết cấu đặc sắc……………………50
2.3.2. Triển khai các chi tiết, tình tiết, sự kiện trong việc phản ánh hiện
thực và nắm bắt nội tâm…………………………………………………….62
2.3.3. Xây dựng tình huống độc đáo thử thách nhân vật- sức đột phá của
tình huống rất lớn…………………………………………………………...68
2.4. Tiểu kết…………………………………………………………………78
CHƢƠNG 3. NGÔN NGỮ TỰ SỰ VÀ GIỌNG ĐIỆU TỰ SỰ TRONG
TRUYỆN NGẮN NAM CAO……………………………………………...80
3.1. Giọng điệu tự sự trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng….80
3.1.1. Tính phức điệu hóa…………………………………………………..83
3.1.2. Các sắc thái của giọng điệu………………………………………….89
3.2. Ngôn ngữ tự sự trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng…...98
3.2.1. Ngôn ngữ văn xuôi đóng góp vào việc xây dựng và phát triển văn
xuôi mới……………………………………………………………………..99
3.2.2. Sự sinh động gần gũi với ngôn ngữ hiện thực đời sống…………...102
3.2.3. Ngôn ngữ nhân vật độc đáo………………………………………...114
3.3. Tiểu kết………………………………………………………………..117
KẾT LUẬN………………………………………………………………..119
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………..123
2
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bản tự thuật Nam Cao gửi cho Ban tổ chức Hội văn nghệ Việt
Nam ngày 10/4/1950, cả một đời văn được tóm tắt như sau: "Bắt đầu viết từ
năm 1940. Ngoài những truyện ngắn đăng trên tờ Tiểu thuyết Thứ Bảy và một
số sách nhi đồng (Truyền Bá, Hoa Mai) không xuất bản được tác phẩm nào
đáng kể. Tuy nhiên, trong thời kỳ ấy đã viết được một số tiểu thuyết dài
nhưng vì bị kiểm duyệt bỏ hay vì dài quá không in được: Ngày lụt, Truyện
người hàng xóm, Sống mòn...(trừ bản thảo Sống mòn vẫn còn giữ được, còn
mất hết vì đã bán cho các nhà xuất bản cả rồi)"…[34, tr.11].
Giáo sư Phong Lê cũng từng nhận xét về một sự nghiệp như vậy có gì
đáng được để ý đối với người đương thời bên những tác phẩm của Tự Lực
văn đoàn, những Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng... cũng
là xứng hợp với tâm lý và tính cách Nam Cao: Nhũn nhặn, rụt rè, ít nói và ít
khi nói to, hay đỏ mặt! Cái đức nhũn nhặn và khiêm tốn này Nam Cao trung
thành cho đến hết tuổi 35 khi chấm hết cuộc đời mình.
Có thể nói trong đời tư và sự nghiệp văn học, Nam Cao luôn là một con
người mang nặng trong mình những nỗi niềm day dứt khắc khoải. Tất cả
những vấn đề thuộc về con người, làm cho con người không được hạnh phúc
Nam Cao không bao giờ nguôi nghĩ về điều ấy.
Giá trị tác phẩm của ông luôn và sẽ còn được khẳng định theo thời
gian, một phần trong đó đã đi vào cuộc sống làm nên những chuẩn mực,
những điển hình. Chúng ta không bao giờ quên được Chí Phèo, Thị Nở, Bá
Kiến, lão Hạc...trong những tác phẩm của ông cùng với chị Dậu - nhân vật
của nhà văn Ngô Tất Tố hay Xuân tóc đỏ trong tác phẩm của Vũ Trọng
Phụng.
3
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Nam Cao sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết đều thành công nhưng
nhiều hơn cả vẫn là truyện ngắn. Sự hấp dẫn trong truyện ngắn của ông không
chỉ thể hiện qua những tầng ý nghĩa sâu xa, có sức khái quát lớn mà còn đặc
sắc bởi chính những thành tố cấu trúc nội tại của truyện kể. Tôi muốn đi sâu
nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao trước Cách mạng
tháng Tám để làm sáng tỏ điều ấy và để có cái nhìn toàn diện hơn về giá trị
sáng tác của ông và mong là công trình nghiên cứu này có đóng góp nhất định
trong quá trình hiểu về sáng tác của nhà văn.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Giới thiệu khái niệm tự sự học
2.1.1. Quan niệm tự sự học
Tự sự học cần được phân biệt với trần thuật học, trần thuật học vốn là
một thuật ngữ của cú pháp học, các nhà lý luận cấu trúc đem mô hình trần
thuật của ngôn ngữ học vận vào tác phẩm văn học tự sự, xem các văn bản đó
như một loại câu, cho nên họ có xu hướng gọi đó là trần thuật học. Khuynh
hướng ngữ học hoá ấy tạo một cách hiểu hẹp không nên có. Một số nhà ngữ
học xem trần thuật học là một bộ phận của ngôn ngữ học diễn ngôn đem vận
dụng vào văn học. Trần thuật học trong ý thức một số nhà nghiên cứu chỉ
nghiên cứu diễn ngôn, lời kể với những người kể, điểm nhìn...trong khi đó tự
sự học bao gồm cả hệ thống sự kiện, cách tổ chức các sự kiện đó, các mô típ
truyện, sự phân loại chúng, lịch sử vận dụng của tự sự...những vấn đề rộng
lớn hơn trần thuật rất nhiều. Đồng thời khái niệm tự sự xưa nay không bao giờ
chỉ riêng loại hình nghệ thuật tự sự, phân biệt với trữ tình và kịch. Tự sự là
một phương thức biểu đạt mà văn học, báo chí, thông tin, lịch sử đều sử dụng.
Ngày nay, vận dụng ngôn ngữ học nghiên cứu văn học là xu hướng
chung của thời đại, nhưng đồng nhất nghiên cứu văn học vào ngữ học là
4
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
không cần thiết. Trần thuật học có một vị trí không thể thiếu trong tự sự học
và ta cũng cần có sự phân biệt rõ ràng giữa hai thuật ngữ này.
Tên gọi Tự sự học (Narratology) là do nhà nghiên cứu Pháp gốc
Bungari Tz.Todorov đề xuất năm 1969 trong sách Ngữ pháp “Câu chuyện
mười ngày”, làm cho ngành nghiên cứu tự sự trước nay có được một cái tên
chính thức và trở thành một khoa nghiên cứu có tính độc lập vì nội hàm văn
hoá của nó. Kể từ khi ông đề xuất, lý luận tự sự đã thay thế cho lý luận về tiểu
thuyết và trở thành một bộ môn nghiên cứu liên ngành có tính quốc tế, nó liên
ngành vì nghiên cứu tự sự học phải liên kết với ngôn ngữ học, sử học, nhân
loại học, tự sự học không đóng khung trong tiểu thuyết mà vận dụng cả vào
các hình thức "tự sự" khác, như tôn giáo, lịch sử, điện ảnh, triết học, chính trị,
khoa học. Ngày nay, tự sự không còn giản đơn là việc kể chuyện mà nó là
một phương pháp không thể thiếu để giải thích, lí giải quá khứ, có nguyên lí
riêng. Roland Barthes nói: "Đã có bản thân lịch sử loài người, thì đã có tự sự".
Tuy vậy, trong các hình thức tự sự, chỉ có tự sự văn học là phức tạp nhất,
đáng để nghiên cứu nhất, làm thành đối tượng chủ yếu của tự sự học.
Tự sự học đã có từ xưa. Từ Platon, Aristote, người ta đã sớm phân biệt
được các loại tự sự. Tuy vậy, phạm vi quan tâm không ra ngoài giới hạn tu từ
học. Tự sự học được định hình từ những năm 60-70 của thế kỷ XX ở Pháp và
dần lan rộng trên thế giới, đến những năm 80-90 của thế kỷ XX và cho đến
nay tự sự đã từ giai đoạn kinh điển của chủ nghĩa cấu trúc bước sang giai
đoạn hậu kinh điển, mở ra nhiều giả thiết nghiên cứu mới, cách nhìn mới,
phương pháp luận mới. Đó chính là một quá trình đổi thay hệ hình lý thuyết,
các tầng bậc và phương pháp nghiên cứu của tự sự.
Hệ hình tự sự học kinh điển tập trung nghiên cứu cấu trúc của truyện,
mối quan hệ của các sự kiện tạo nên truyện. Các đại diện tiêu biểu là
Shklovski, B.Tomashevski, V.Propp, Tz.Todorov...Tz.Todorov định nghĩa:
5
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
"Tự sự học là lý luận về cấu trúc của tự sự. Để phát hiện cấu trúc và miêu tả
cấu trúc ấy, người nghiên cứu tự sự đem hiện tượng tự sự chia thành các bộ
phận hợp thành, sau đó cố gắng xác định chức năng và mối quan hệ qua lại
giữa chúng"[43,tr.9]. Các nhà nghiên cứu có hoài bão tìm ra ngữ pháp phổ
quát của truyện để phân tích truyện được nhanh chóng dễ dàng nhưng thực tế
lại không như mong muốn.
Tự sự học kinh điển trong giai đoạn tiếp theo đó đã nghiên cứu diễn
ngôn tự sự, tức là ngôn ngữ trần thuật và các yếu tố tạo nên nó: người kể,
hành động kể, điểm nhìn, giọng điệu...đó là những khái niệm công cụ rất hiệu
quả để phần tích diễn ngôn tự sự và đọc hiểu văn bản tự sự. Tuy nhiên đối
tượng nghiên cứu của tự sự học kinh điển chủ yếu là các tác phẩm tương đối
đơn giản như truyện cổ tích, truyện kể thời Phục Hưng nên không thích hợp
với các hình thức tự sự phức tạp. Các công trình tự sự hậu kinh điển đều cố
gắng khắc phục các nhược điểm đó.
Nhà nghiên cứu Hà Lan Mieke Bal đã kết hợp nghiên cứu cấu trúc
chuyện với văn bản và định nghĩa khác hẳn Todorov: "Tự sự học là lý luận về
trần thuật, văn bản trần thuật, hình tượng, hình ảnh sự vật, sự kiện cùng sản
phẩm văn hoá “kể chuyện”" [43,tr.12]. Bà chia tự sự làm ba tầng bậc: văn bản
trần thuật (narrative text), chuyện kể (story), chất liệu (fabula). Công trình của
bà được đánh giá là đã cung cấp một hệ thống khái niệm được định nghĩa khá
chính xác, chặt chẽ và hệ thống, có thể làm cơ sở cho các công trình nghiên
cứu tự sự.
Tự sự học hậu kinh điển còn quan tâm đến mối quan hệ giữa tự sự và
tiếp nhận, các quy luật động trong tự sự, mở rộng phạm vi liên ngành của tự
sự học hay các khuynh hướng mới như tự sự học so sánh, tự sự học văn hoá
học...Tự sự học đến nay vẫn nhận được sự quan tâm nghiên cứu rộng rãi trên
thế giới.
6
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
2.1.2. Tự sự học ở Việt Nam
Tự sự học khi được giới thiệu vào Việt Nam đã được hưởng ứng rộng
rãi của giới nghiên cứu, đặc biệt là các trường đại học. Hội thảo Tự sự học
năm 2001 tại Đại học sư phạm Hà Nội và việc xuất bản tập công trình tuyển
chọn Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử (Trần Đình Sử chủ biên) đã
đánh dấu một bước khởi đầu mới trong nghiên cứu tự sự học ở nước ta có rất
nhiều nhà nghiên cứu tiến hành dịch thuật các công trình của các tác giả trên
thế giới như Mieke Bal, Roland Barthes, Hayden White...Các nhà nghiên cứu
cho thấy đối tượng tự sự học không chỉ là ngữ pháp tự sự nói chung mà còn là
thi pháp tự sự của các tác giả cụ thể, ngôn ngữ tự sự của các thể loại tự sự, các
loại hình tự sự, mô hình tự sự của các giai đoạn phát triển văn học, sự tiếp
nhận tự sự và cách tác động đến người đọc của tự sự.
GS. Trần Đình Sử xem tự sự học là một nhánh của thi pháp học hiện
đại nghiên cứu cấu trúc văn bản tự sự và các vấn đề có liên quan. Tác giả
phân biệt "cấu trúc lời văn", "cấu trúc sự kiện", phân biệt giữa "kể cái gì" và
"kể như thế nào".
Các nhà nghiên cứu cho rằng cần phải xây dựng một hệ thống thuật
ngữ tiếng Việt về tự sự học, ta cần giới thiệu, phiên dịch, nghiên cứu, thử
nghiệm ở những mức độ mới để không chỉ thấy đơn giản một chiều là kĩ thuật
trần thuật các thể loại, các nhà văn trong lý thuyết mà còn thấy cả truyền
thống văn hoá ở đằng sau nó. Việc này có ý nghĩa quan trọng giúp liên kết các
nhà nghiên cứu văn học Việt Nam với các nhà ngữ học, rộng hơn là các nhà
văn hoá học để cùng tìm hiểu khám phá thêm về truyền thống văn học, bản
sắc dân tộc trong lĩnh vực tự sự.
Như vậy, dựa trên những vấn đề lí luận tự sự học, người viết triển khai
luận văn theo hướng chú trọng cấu trúc sự kiện (kể cái gì) và cấu trúc lời văn
7
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
(kể như thế nào) qua hình tượng người kể chuyện, cốt truyện, ngôn ngữ -
giọng điệu trong các truyện ngắn Nam Cao trước Cách mạng.
2.2. Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao.
Nam Cao khai sinh văn nghiệp từ 1936 với truyện ngắn Cảnh cuối
cùng (bút danh Thuý Rư), in trên Tiểu thuyết Thứ Bảy, tiếp đó là Hai cái xác,
rồi từ nguồn mạch ban đầu ấy các sáng tác tiếp theo của nhà văn, kể cả thơ và
truyện cho thiếu nhi với các bút hiệu khác nhau lần lượt ra mắt bạn đọc. Sinh
thời tác phẩm của ông chưa được người cùng thời đánh giá xứng đáng, sự
nghiệp sáng tác của ông không dài, trong đó số lượng tác phẩm cũng không
nhiều nhưng thành quả văn học ông để lại cho chúng ta lại rất lớn.
Đã có hàng trăm bài viết và sách viết về nhà văn, tiêu biểu là các công
trình: Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc - Hà Minh Đức, Nam Cao, đời
văn và tác phẩm - Hà Minh Đức, Nam Cao, phác thảo sự nghiệp và chân
dung - Phong Lê, Nghĩ tiếp về Nam Cao - Hội nhà văn, Nam Cao - Nhà văn
hiện thực xuất sắc, nhà văn nhân đạo chủ nghĩa lớn - Trần Đăng Xuyền, Chủ
nghĩa hiện thực Nam Cao - Trần Đăng Xuyền, Nam Cao về tác gia và tác
phẩm - Bích Thu sưu tầm, tuyển chọn. Đặc biệt cuốn Nam Cao về tác gia và
tác phẩm là một tài liệu quý cho người nghiên cứu.
Đây là những công trình khoa học toàn diện và hệ thống của những
chuyên gia hàng đầu đã gần 40 năm đầu tư với di sản văn học phong phú và
đặc sắc của Nam Cao. Trong quá trình nghiên cứu, GS. Hà Minh Đức đã luôn
luôn nỗ lực tìm hiểu và ghi nhận những giá trị văn hóa phong phú và tiềm ẩn
của tác phẩm Nam Cao. Ông cho rằng, qua thời gian và những đổi thay của xã
hội, tác giả Nam Cao “vẫn ở giữa chúng ta và ngày càng được quý mến”. Còn
GS. Phong Lê thì “nghiện” đọc Nam Cao, ông nhấn mạnh đọc văn Nam Cao
không phải chỉ biết được “nội dung” mà thực chất để chiêm nghiệm các ý
tưởng của Nam Cao, những ý tưởng cùng với cách thể hiện và dẫn dắt câu
8
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
văn trong cách viết của tác giả là “bí quyết” cho một sự hấp dẫn thực sự dài
lâu.
Khi viết lời giới thiệu cho tập Đôi lứa xứng đôi (1941) nhà văn Lê Văn
Trương cho rằng Nam Cao đã dám nói và dám viết những cái khác người,
đem cho người đọc những khoái cảm mới mẻ và Nam Cao là một con người
can đảm. Nhà văn Vũ Bằng rất mến mộ Nam Cao, ngay khi đọc được một
truyện của nhà văn, Vũ Bằng đã thích lối hành văn với những câu kệch cỡm,
nghịch ngợm, có khi dớ dẩn nhưng đậm đà có duyên.
Kể từ khi xuất bản tập Đôi lứa xứng đôi phải hơn nhiều năm sau, qua
những xói mòn, thử thách của thời gian cùng với sự vận động của đời sống
văn học, giá trị của nhà văn mới thực sự được khẳng định. Tác phẩm của Nam
Cao được in lại, tiểu thuyết Sống mòn ra mắt độc giả (1956), cùng với những
hồi ký, tiểu luận của Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài,
Nguyên Hồng, chuyên luận của GS. Hà Minh Đức năm 1961 khơi dòng
nghiên cứu về Nam Cao và trải qua các lần làm tuyển tập Nam Cao năm
1975, năm 1987, 1988, 1997 thì văn chương Nam Cao được định vị vững trãi
trong lòng mọi thế hệ bạn đọc.
Giới phê bình hiện đại đã nghiên cứu Nam Cao trên nhiều cách tiếp cận
mới về phong cách, thi pháp, ngôn ngữ, góp phần khơi sâu và khám phá những
biểu hiện độc đáo, tài hoa trong phong cách nghệ thuật của nhà văn; từ cách tạo
dựng hoàn cảnh đến nét đặc trưng trong ngôn ngữ nghệ thuật của Nam
Cao…Khai thác vào những vỉa mới của giá trị, những người nghiên cứu cảm
nhận được tính văn xuôi trong phong cách nghệ thuật, trong văn Nam Cao, một
thứ văn xuôi tự nhiên như lời ăn tiếng nói hàng ngày mà soi kỹ lại thấy chữ
nghĩa rất chỉnh, tiếng nói nhân vật và tiếng nói tác giả hòa quyện, đan xen tạo
nên một thế giới đa thanh, phức điệu mà chỉ có văn xuôi hiện đại mới có.
9
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Về nghệ thuật tự sự trong tác phẩm của Nam Cao, các nhà nghiên cứu đã
đề cập ở từng góc độ, về ngôn ngữ, về giọng điệu, người kể chuyện…
Nhà nghiên cứu Trần Đăng Xuyền phát hiện ra một nét mới về cốt
truyện trong tác phẩm Nam Cao: "...Xét cho tới vùng, cái quan trọng nhất trong
tác phẩm không phải là bản thân sự kiện, biến cố tự thân mà là con người trước
sự kiện, biến cố. Vì vậy, trong sáng tác của Nam Cao, hứng thú của những chi
tiết tâm lý thường thay thế cho hứng thú của chính bản thân các sự kiện, biến
cố ..." 33, tr.157.
Nhà nghiên cứu Phong Lê trong bài viết Nam Cao - nhìn từ cuối thế kỷ
đã nhận xét về văn Nam Cao: "...Ở văn Nam Cao gần như có đủ các chất liệu:
hài và bi, trào phúng và chính luận, triết lý và trữ tình, nghịch dị và nhàm tẻ,
thô nhám và chất thơ... cho đến nay, sau hơn nửa thế kỷ, bất chấp mọi biến
động xã hội, ngôn ngữ Nam Cao vẫn cập được các bến bờ thời sự" 33,tr.113.
Vấn đề điểm nhìn gắn với người kể chuyện, về đối thoại đã được nhà
nghiên cứu Trần Đình Sử phân tích rất tâm đắc trong những truyện ngắn của
Nam Cao.
Có một số nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu về không gian- thời gian tự sự
trong văn Nam Cao. Nhà nghiên cứu Đào Duy Hiệp trong cuốn Phê bình văn
học từ lý thuyết hiện đại tiếp cận vấn đề thời gian trên cơ sở ứng dụng lý thuyết
của Genette trên ba cấp độ: trật tự, thời lưu, tần suất để phân tích truyện Chí
Phèo. Bài viết cho thấy trong một văn bản tự sự, người nghiên cứu luôn phải
tìm tòi khám phá về nghệ thuật thời gian ở tác phẩm Nam Cao chứ không chỉ
đơn thuần nghiên cứu thời gian xuất phát từ nội dung, không chỉ khảo sát các
từ ngữ chỉ thời gian để tìm sự vận động của cốt truyện. Những trang văn của
Nam Cao thấm đẫm nước mắt xót xa, buồn tủi cho kiếp người. Kiếp người như
Chí Phèo ám ảnh mãi trong ta cũng bởi thời gian mang đậm chất suy tư về cuộc
sống và con người của người sinh ra nó. Đây là nhân vật say độc nhất vô nhị
10
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
trong văn học Việt Nam bắt đầu ngay từ những dòng đầu tiên của tác phẩm,
say trong suốt hơn ba mươi trang thời gian văn bản, và còn say cho đến khi hắn
kết thúc cuộc đời.
Dựa trên khái niệm đưa ra của R.Barthes, nhà nghiên cứu Nguyễn Thái
Hoà với bài viết Chức năng chỉ dẫn trong đoạn mở đầu truyện ngắn Nam Cao
đã làm sáng rõ hơn tài năng của nhà văn là “một trong những người kể chuyện
hay nhất của thế kỷ”. Bằng lí thuyết tự sự học, dựa trên sự thống nhất những
khái niệm như “những tương quan có tính hoán dụ” và “những tương quan có
tính ẩn dụ”, ông đã phân tích những chỉ dẫn trong truyện ngắn Nam Cao có sức
mạnh thu hút, ám ảnh bạn đọc, giúp bạn đọc có một phương pháp khi tiếp
nhận tác phẩm và hiểu được phong cách, giọng kể của tác giả.
Nói chung, các nhà nghiên cứu đã vận dụng lý thuyết tự sự học để tìm
hiểu, phân tích những khía cạnh khác nhau trong tác phẩm của Nam Cao, có
người đi sâu tìm hiểu một vấn đề của tự sự như điểm nhìn hay người kể chuyện
và cũng có những người chỉ đề cập đến một số vấn đề của tự sự như một khía
cạnh trong bài nghiên cứu của mình.
Trong luận văn này, người viết tìm hiểu về nghệ thuật tự sự trong mảng
truyện ngắn. Luận văn không đi sâu phân tích tất cả các truyện ngắn, tiểu
thuyết, truyện dài của ông mà chỉ là ở mảng truyện ngắn trước Cách mạng.
Người viết nghĩ để làm sáng tỏ cái hay và độc đáo hay trong những truyện
ngắn của Nam Cao bằng lý thuyết tự sự học thì cũng đã góp phần không nhỏ
trong việc nghiên cứu hiện nay về tài năng lớn này.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tìm hiểu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao nhằm
làm rõ phong cách tự sự độc đáo của tác giả, cố gắng tìm cách tiếp cận mới,
khai thác những bình diện mới, những đặc điểm cơ bản trong nghệ thuật tự sự
11
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
như người kể chuyện, cốt truyện, ngôn ngữ…để thấy được vai trò của chúng
trong việc tạo nên giá trị tác phẩm.
4. Phạm vi nghiên cứu
Nam Cao sáng tác tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện dài…nhưng luận văn
chỉ khảo sát và nghiên cứu nghệ thuật tự sự biểu hiện trong thể loại truyện
ngắn: những truyện ngắn được sáng tác trước Cách mạng tháng Tám in trong
Tuyển tập Nam Cao - Tập 1, 2 – GS. Hà Minh Đức biên soạn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thống kê - phân loại.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo nội dung chính
được triển khai trong 3 chương.
Chương 1. Người kể chuyện trong truyện ngắn Nam Cao.
Chương 2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Nam Cao.
Chương 3. Giọng điệu tự sự và ngôn ngữ tự sự trong truyện ngắn Nam Cao.
12
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NGƢỜI KỂ TRUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO
Vấn đề người kể chuyện là một vấn đề trung tâm trong lí thuyết tự sự -
đó là hình tượng ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất
hiện khi nào câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó
có thể là hình tượng của chính tác giả xưng "tôi", dĩ nhiên không nên đồng
nhất hoàn toàn với tác giả ngoài đời, có thể là một nhân vật đặc biệt do tác giả
sáng tạo ra (ví dụ: người điên trong Nhật ký người điên của Lỗ Tấn) hoặc có
thể là một người biết một câu chuyện nào đó. Một tác phẩm có thể có một
hoặc nhiều người kể chuyện.
Từ đầu thế kỉ XX vấn đề người kể chuyện đã được các nhà hình thức
chủ nghĩa Nga và nhóm các nhà nghiên cứu Bắc Âu đặc biệt quan tâm đến.
Tuy nhiên, trải qua công trình của những nhà nghiên cứu thế hệ sau như
W.Kayser, Iu.Lotman. R.Barthes Tz.Todorov, G.Genette, M.Bal…mới đưa ra
được quan điểm tương đối rõ ràng về người kể chuyện.
Tz.Todorov xem "Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến
tạo thế giới tưởng tượng…Không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện.
Người kể chuyện không nói như các nhân vật tham thoại khác mà kể chuyện.
Như vậy, kết hợp đồng thời trong mình cả nhân vật và người kể, nhân vật mà
nhân danh nó cuốn sách được kể có một vị thế hoàn toàn đặc biệt".
42,tr.117.
Trên cơ sở lí thuyết giao tiếp, lí thuyết "giọng" và "với người khác" của
M.Bakhtin, qua thực tế nghiên cứu cấu trúc và chức năng của diễn ngôn, vấn
đề người kể chuyện được đặt ra trong mối quan hệ với người đọc giả định, với
vấn đề "điểm nhìn", các loại hình, cấp độ và tình huống trần thuật được các
13
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
nhà nghiên cứu cho đến cuối những năm 60 xác định một cách tỉ mỉ, cụ thể.
Tuy nhiên trong việc nghiên cứu không khỏi có những điểm cực đoan, khái
niệm "người kể chuyện" trở thành thuần tuý hình thức, được nghiên cứu riêng
biệt tách rời khỏi mối quan hệ với "tác giả" thực tế như chủ thể sáng tạo.
W.Kayser viết về người kể chuyện như một vai trò ước định, nhưng đến
R.Barthes và Tz.Todorov mối quan hệ mật thiết giữa người kể chuyện và tác
giả được xem như đã bị cắt đứt.
Theo quan niệm của G.Genette, người kể chuyện có mối quan hệ chặt
chẽ với câu chuyện của mình và chính vị trí của người kể chuyện trong mối
quan hệ với câu chuyện xác lập nên điểm nhìn của truyện kể. Từ đó,
G.Genette phân biệt hai kiểu người kể chuyện: người kể chuyện từ ngôi thứ
nhất và người kể chuyện từ ngôi thứ ba.
Người kể chuyện từ ngôi thứ nhất là người kể chuyện hiện diện như
một nhân vật trong truyện, vừa đóng vai trò người kể chuyện vừa đóng vai trò
là một nhân vật trong cấp độ hành động.
Người kể chuyện từ ngôi thứ ba là người thứ ba, không phải là nhân vật
trong truyện, có sự "khác nhau tự nhiên" giữa thế giới người kể chuyện và thế
giới hành động.
Nhà nghiên cứu M.Butor có ý kiến: "Tiểu thuyết là một hình thức đặc
biệt của trần thuật. Tam giác tự sự ba chiều" tác giả - nhân vật - độc giả" dần
được thay thế bởi sự huyền diệu và phức tạp hơn của tứ giác tự sự với "tác giả
- người tự sự - nhân vật - độc giả" 39, tr.32. Ý kiến đó đã bao quát được cả
tầm quan trọng của người kể chuyện với các tác phẩm tự sự nói chung và với
truyện ngắn nói riêng.
Trong truyện ngắn Nam Cao, người kể chuyện thực sự là một sản phẩm
của sự sáng tạo nghệ thuật, là một công cụ do nhà văn hư cấu nên để kể một
câu chuyện.Việc tác giả lựa chọn kiểu người kể chuyện nào để kể sẽ mang
14
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
tính quan niệm, nhằm mục đích chuyển tài tư tưởng, nội dung một cách hiệu
quả nhất, có thể là người kể chuyện từ ngôi thứ nhất, người kể chuyện từ ngôi
thứ ba, người kể chuyện bên trong, người kể chuyện bên ngoài.
1.1. Điểm nhìn tự sự
Khái niệm người kể chuyện có liên quan mật thiết với điểm nhìn tự sự,
điểm nhìn là một vấn đề then chốt của kết cấu. M.Bakhtin xem điểm nhìn
chính là lập trường mà xuất phát từ đó câu chuyện được kể, hình tượng được
miêu tả hay sự việc được thông báo. Theo G.Genette có thuật ngữ tương
đương là "sự tiêu điểm hoá" (focalisation) trong đó phân biệt rất rõ giữa người
kể chuyện (narrtor) và người tiêu điểm hoá hay còn gọi là người quan sát
(focalizer) - nhân vật mà nhận thức của anh ta sẽ định hướng cho sự phát triển
của truyện.
Như vậy, điểm nhìn chính là sự lựa chọn cho một cự li trần thuật nào
đó để kể lại câu chuyện, mà có thể giảm thiểu hoặc loại trừ khả năng can thiệp
của tác giả vào các sự kiện miêu tả, làm cho tác phẩm trở nên tự nhiên, gần
gũi với cuộc sống hơn. Tác giả là người đứng sau tác phẩm, tác giả có mặt ở
khắp nơi nhưng lại chẳng ở nơi nào cả, và là người có sức mạnh toàn năng đối
với từng chi tiết hành động, nhân vật…trong tác phẩm của mình. Điểm nhìn
của người kể chuyện trong nghệ thuật tự sự có thể hình dung cũng như điểm
nhìn, góc nhìn của nhiếp ảnh gia hay người họa sĩ trong nghệ thuật nhiếp ảnh,
hội họa. Mỗi người nghệ sĩ đều cần chọn cho mình chỗ đứng, một điểm nhìn
tốt nhất để có thể cảm nhận không gian nghệ thuật một cách tối ưu và sáng
tạo nên những kiệt tác. Sự khác biệt cơ bản ở chỗ, nếu như trong nghệ thuật
hội họa, nhiếp ảnh, điểm nhìn là của chính người nghệ sĩ trong mối quan hệ
với thế giới mà anh ta mô tả, thì trong nghệ thuật tự sự của mỗi truyện kể,
điểm nhìn tự sự là của một người kể chuyện - nhân vật do tác giả hư cấu nên
để kể lại câu chuyện - nhân vật thống nhất nhưng không đồng nhất với tác giả.
15
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Việc lựa chọn điểm nhìn trong tác phẩm tự sự là rất quan trọng, không
phải bất cứ nhà văn nào ngay từ đầu đã lựa chọn được điểm nhìn khi viết tác
phẩm, L.Tônxtôi lúc đầu đã kể chuyện Phục sinh từ điểm nhìn người trần
thuật, bắt đầu từ kỳ nghỉ hè Nêkhliuđốp về thăm dì và gặp Maxlôva, quyến rũ
cô rồi bỏ rơi, ông thấy việc trần thuật bằng phẳng, nhạt nhẽo và đã quyết định
thay đổi điểm nhìn, bắt đầu từ bi kịch của Maxlôva, từ nạn nhân, dưới con
mắt của Nêkhliuđốp, kẻ gây ra sự lỡ làng cho cô gái. Sự việc được hồi tưởng
trong cái nhìn mổ xẻ, hối hận…Tội ác và trừng phạt của Đốtxtôiépxki, Lâu
đài của Kafka lúc đầu được kể bằng ngôi thứ nhất, sau suy tính lại, nhà văn
lại chuyển sang ngôi thứ ba.
Trong truyện ngắn Nam Cao, việc xác định điểm nhìn được thấy rõ qua
việc sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, có thể theo quy
tắc:
- Một văn bản truyện kể theo điểm nhìn chủ quan: Nếu như trong
những câu kể lại hành động truyện có một số câu chứa đại từ nhân xưng ngôi
thứ nhất "tôi", "tôi" đồng nhất với một nhân vật trong truyện.
- Một văn bản truyện kể theo điểm nhìn khách quan: nếu như những
câu kể lại hành động truyện đều là những câu ở ngôi thứ ba (ông, bà, anh, chị,
nó ...); trường hợp đặc biệt, nếu xuất hiện ngôi thứ nhất "tôi, ta" với tư cách
người kể chuyện nhưng không phải là nhân vật nào trong truyện kể.
- Một văn bản truyện kể theo hình thức di chuyển điểm nhìn: nếu văn
bản được kể theo điểm nhìn di chuyển từ điểm nhìn khách quan sang điểm
nhìn chủ quan, từ điểm nhìn tác giả sang điểm nhìn nhân vật, hoặc từ điểm
nhìn của nhân vật này sang điểm nhìn của nhân vật khác.
Khảo sát truyện ngắn Nam Cao từ khía cạnh điểm nhìn chúng ta nhận
thấy có ba tình huống trần thuật.
16
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
1.1.1. Trần thuật theo điểm nhìn khách quan
Đây là cái nhìn bên ngoài không được nhân vật hoá mà ẩn đằng sau là
hình bóng tác giả, như vậy sẽ tạo ra được một khoảng cách nhất định với nhân
vật, sự kiện được miêu tả, nhà văn cố gắng tối đa trong việc giảm sự can thiệp
của mình vào tác phẩm, tạo cho độc giả độ tin cậy cao vào các sự kiện được
kể lại. Truyện được kể từ ngôi thứ ba, người kể chuyện vắng mặt, không qui
chiếu vào một nhân vật nào trong truyện, người kể chuyện chỉ có vai trò dẫn
truyện và là người sắp xếp, thông báo các tình tiết, sự kiện có thể xảy ra hoặc
sắp xảy ra.
Trong truyện ngắn Nam Cao trước Cách mạng, số lượng truyện được
trần thuật theo điểm nhìn khách quan chiếm số lượng lớn hơn những truyện
được trần thuật theo điểm nhìn chủ quan.
Tình huống trần thuật theo điểm nhìn khách quan có hai dạng tồn tại là
trần thuật theo điểm nhìn tác giả và trần thuật theo điểm nhìn bên trong của
nhân vật trong truyện.
1.1.1.1. Trần thuật theo điểm nhìn của tác giả
Ưu thế của cách nhìn thế giới bao quát của tác giả người kể chuyện đặc
biệt phù hợp với việc phát hiện mô tả sức mạnh tinh thần cũng như những
khiếm khuyết của nhân vật. Hình thức này dường như đã có một huyết mạch
nối liền trong các truyện kể truyền thống của văn học Việt Nam, kể từ các
truyện cổ dân gian, truyện kể trung đại đến truyện ngắn hiện đại sau này. Tác
giả có quyền xuất hiện ở mọi nơi, có hiểu biết, phơi bày mọi khía cạnh của
các sự việc, nhân vật.
Những truyện ngắn này của Nam Cao hoàn toàn dùng ngôi thứ ba, hoặc
có tên (Dần, Nhu, Ninh ...) hoặc không tên (hắn, y, bà lão, thằng cu, nó…) có
thể kể đến những truyện như: Ở hiền, Xem bói, Một bữa no, Mua danh ...
17
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Truyện ngắn Mua danh kể về hai nhân vật là Bịch và ông cựu Tuý.
Bịch là kẻ cùng đinh trong làng nhờ chút của "trời cho" - phất lên từ một sào
trầu đã thực hiện một việc mua danh bán tước, cố ngôi lên hàng vai vế trong
làng cho đỡ khổ nhục...và cuối cùng vì dốt nát, vì hèn kém, vì những thói hư
tật xấu của mình mà trở thành thảm hại hơn, khốn quẫn hơn trong cuộc đời.
Cuộc mua danh tưởng trót lọt dễ dàng và Bịch tưởng như được "ngoi" lên một
chút nhưng lại không được như vậy. Nghịch cảnh này dần dần hiện ra trước
mắt người đọc qua điểm nhìn khách quan của tác giả.
Mở đầu tác giả đứng ngoài khách quan kể lại bối cảnh truyện, cảnh ngộ
nhân vật: "Nhà Bịch được một sào trầu tốt. Cái tin ấy đồn đi. Dân làng kháo
nhau rằng hắn có tiền. Mà có tiền là phải. Chỉ tính ra cũng biết. Trầu làng năm
nay chết rất nhiều. Do trận bão vừa qua. Có những giàn nát như tương, chẳng
khác gì có người giật đổ xuống rồi lấy chân mà dận; người ta dỡ róng trúc, cắt
gốc đi, rồi trồng thay thế vào đấy vài trăm con rau diếp, gỡ được đồng nào
hay đồng ấy...".
Cái cảnh nghèo đói của một gia đình cùng đinh được hé mở: "Vợ đi
làm cỏ thuê mỗi ngày được hai hào...Chồng làm nghề xúc dậm. Đêm nào hắn
cũng đi từ chập tối. Rét đến đâu cũng mặc, hắn chỉ bịt mỗi cái khố rách bươm,
cái áo luội thuội cốn lên gần đến nách, lội bì bõm ở ven sông, đạp sùng sũng,
cứ lần mò như một con ma...". Người đọc đến đây nghĩ rằng vậy là vận may
cũng một lần đến với hạng cùng đinh nghèo khó, nhưng mọi việc lại không
đơn giản như thế, cuộc sống luôn có những trớ trêu, khi một gia đình, một anh
cùng đinh trong làng tự nhiên giàu lên có nghĩa là họ không được yên thân
nữa: " Một hôm ông cựu Tuý có họ xa với Bịch, cho tìm Bịch đến...
- Nhà anh được một sào trầu tốt lắm, phải không?
- Bẩm ông, cũng gọi là tốt đấy thôi, chứ so với trầu của người ta thì
chửa nước gì?
18
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
- Chào! Anh kín của vừa vừa chứ! Chửa nước gì thì anh cũng đã bòn
được bạc trăm"...
Như vậy ông cựu Tuý đã nghe được tin Bịch giầu lên và ông cho gọi
Bịch đến để "bán danh". Tác giả lại nhìn sâu vào suy nghĩ của Bịch, đó là
những suy nghĩ cực khổ của một người lép vế trong thôn xã phải chịu đựng
những trò làm tiền của bọn lý cựu. Chúng chỉ cần đánh hơi thấy mùi tiền ở
đâu là lập tức vây bủa lấy mà nóp nặn đến đồng xu cuối cùng. Kết quả là kẻ
cùng đinh, giờ đây khi đã mua danh xong đã trở thành kẻ hơn cả cùng đinh, rõ
ràng anh ta không chỉ đánh mất đi phần của cải vật chất.
Ở một số truyện ngắn khác, Nam Cao thể hiện sự tìm tòi của mình khi
đưa thêm ngôi thứ nhất xưng "ta", "ta" thường xuất hiện ở đầu hoặc cuối câu
chuyện nhằm đối thoại trực tiếp với độc giả về những vấn đề được đặt ra
nhưng thực chất câu chuyện vẫn được kể từ điểm nhìn ngôi thứ ba tác giả, vì
"ta" không là nhân vật nào trong truyện. Rửa hờn, Một truyện xú-vơ-nia
Rình trộm, Tư cách mõ là những truyện tiêu biểu cho truyện kể xuất hiện cả
ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba.
Lấy ví dụ đoạn cuối truyện Tư cách mõ: "Cứ vậy, hắn tiến bộ mãi trong
nghề nghiệp mõ. Người ta càng khinh hắn, càng làm nhục hắn, hắn càng
không biết nhục. Hỡi ôi! Thì ra lòng khinh trọng của chúng ta có ảnh hưởng
đến cái nhân cách của người khác nhiều lắm; nhiều người không biết gì là tự
trọng, chỉ vì không được ai trọng cả; làm nhục người là một cách rất diệu để
khiến người sinh đê tiện...".
Ngôi thứ nhất xưng "chúng ta" xuất hiện một lần duy nhất trong truyện
nhằm đối thoại luận bàn trực tiếp với độc giả về vấn đề: Sự đổi thay của tính
cách trước hoàn cảnh.
Anh Cu Lộ trước kia là người "hiền như đất. Cờ bạc không. Rượu chè
không, anh chỉ chăm chăm, chút chút làm để nuôi vợ, nuôi con". Sau một thời
19
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
gian làm mõ, Cu Lộ đã đổi thay, đã đủ "tư cách mõ chính tông" với tính tình
tham lam, đê tiện. Điều mà tác giả muốn luận bàn với bạn đọc là: sự sa đoạ ấy
không chỉ xảy ra với một con người, một cuộc đời như anh Cu Lộ mà có biết
bao người cũng rơi vào tình trạng như vậy. Những con người có tính cách bị
thay đổi bởi hoàn cảnh, bị hoàn cảnh cuốn theo mà không thể có một bản lĩnh
nào để chống đỡ. Đó cũng là nỗi khổ của những con người như thế.
Có truyện, ngôi nhân xưng thứ nhất "ta" xuất hiện một lần duy nhất và
hướng tới độc giả như là một cách để gây lòng tin khi "ta" có "cự li gần" với
các nhân vật trong truyện. Từ đó "ta" đứng ngoài, không phải là nhân vật của
truyện kể, mọi suy nghĩ, tâm lí, bản chất của các nhân vật được hiện lên qua
hành động, ngôn ngữ...
Ví dụ, trong truyện ngắn Rửa hờn, cuộc đấu đá, trả thù nhau xảy ra
giữa một bên là ông lý, một bên là ông khoá: "Mối hiềm bắt đầu từ một cái
trần ngôn. Ông lý Nhưng ngờ cho ông lý khoá Mẫn làm”. Thực chất cuộc trả
thù này có nguyên do từ việc các ông bóp nặn tiền từ dân và được một vụ trót
lọt: "Nguyên có vợ chồng nhà kia, lúc lấy nhau, bởi quá nghèo nên chẳng
cưới cheo gì. Họ ăn ở với nhau theo kiểu vợ chồng theo. Mới đây chị vợ đẻ
được một đứa con. Ông lý nhà ta biết thóp anh chồng non mặt, nên đến loè
anh ta đủ thứ…". Từ đó cuộc trả thù của hai ông bắt đầu với những suy tính
mưu mô mà không ai chịu ai.
Như vậy, so với cách kể chuyện truyền thống (hoàn toàn ngôi thứ ba),
truyện kể xen kẽ ngôi thứ nhất - ngôi thứ ba theo điểm nhìn tác giả rất ít,
song, sự linh động trong cách đưa cái "ta" khách quan khác nhau trong mỗi
câu chuyện thể hiện sự tìm tòi của nhà văn về cách kể.
20
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
1.1.1.2. Trần thuật theo điểm nhìn bên trong của nhân vật trong truyện.
Kể chuyện theo điểm nhìn bên trong của một nhân vật trong truyện là
cách để tác giả rút ngắn khoảng cách giữa độc giả và nhân vật, tạo cảm giác
không có sự can thiệp của tác giả - người kể chuyện. Người kể chuyện có vẻ
như rút lui hoặc ẩn sau nhân vật chính mà chúng ta gặp, độc giả có thể nhập
thân để hiểu, đồng cảm với nhân vật theo mỗi lứa tuổi, giới tính, suy nghĩ,
ước mơ...
Theo M.Jahn, đó là các truyển kể mà các sự kiện diễn ra trong truyện
được nhìn dưới con mắt của một người phản ánh bên trong ở ngôi thứ ba ...
Một trong những hiệu quả chính của điểm nhìn bên trong là thu hút sự chú ý
tới ý nghĩ của nhân vật - người phản ánh và bỏ qua người kể chuyện và quá
trình sắp xếp trần thuật. Theo quan niệm của M.Jahn, truyện kể theo điểm
nhìn này đem lại những cái nhìn sinh động của các nhân vật trong truyện. Đó
là góc nhìn của những em nhỏ phải chịu khổ sở (Từ ngày mẹ chết, Bài học
quét nhà) của bà lão đáng thương (Một bữa no, Nhìn người ta sung sướng),
hoặc góc nhìn của những người nghèo, người cùng đinh, anh nông dân (Chí
Phèo), của kẻ chỉ thèm miếng ăn (Trẻ con không được ăn thịt chó), hay góc
nhìn của những anh trí thức (Đời thừa, Nước mắt)...
Không có một nỗi buồn nào hơn là nỗi buồn mất mẹ. Qua những trang
viết của tác giả, người đọc như cùng hoà vào tâm trạng của bé Ninh (Từ ngày
mẹ chết), cái chết của người mẹ xảy đến, người cha dần phai nhạt tình cảm
với các con. Đó là nỗi khổ tâm nhất của một đứa bé như Ninh - những cảm
giác mơ hồ, những nỗi sợ xa xăm ập đến với hai chị em Ninh: "Bu chết ngót
ba năm. Thầy bảo thế. Thì ra ba năm cũng dài lắm nhỉ. Ninh tưởng bu Ninh
chết đã lâu lắm. Nhưng chắc gì!...Xưa kia, những ngày bu đi chợ tỉnh, độ gần
tối chưa về Ninh đã thấy mong. Ấy là mới vắng bu có một ngày. Mà nào cũng
đã hết cả ngày. Bây giờ vắng bu bằn bặt những ba năm. Bao nhiêu ngày
21
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
tháng! Ninh thấy lâu là phải. Biết bao giờ mẹ lại về với con? Ninh bâng
khuâng cả người. Y như là nằm mơ. Ấy là Ninh đã nguôi đấy. Hồi mẹ Ninh
mới chết, cứ nghĩ đến mẹ là Ninh khóc. Ninh khóc ằng ặc như người nuốt
phải ngụm gì đắng quá, nó quánh vào cổ họng. Khóc đến lặng người đi,
không còn ra tiếng nữa. Chẳng ngày nào không thế, mỗi ngày hai, ba lần.
Bây giờ thì Ninh không khóc nữa. Nhưng Ninh vẫn còn buồn lắm.
Buồn rũ rĩ Ninh ngẩn ngơ như mất vía. Có lúc Ninh làm gì mà cũng không
biết nữa. Ninh vừa cất con dao hay cái chổi, giá thầy Ninh có hỏi, Ninh đã lại
chẳng biết đâu mà lấy...". Tác giả đã giúp người đọc nhìn sâu vào tâm lý của
nhân vật, đó là tình cảm dành cho mẹ của đứa bé ngây thơ vì nhớ mẹ mà khóc
hết nước mắt, đến nỗi không khóc được nữa thì cả nỗi nhớ và nước mắt lặn
sâu vào trong tâm hồn, khắc sâu vào trí nhớ đứa trẻ.
Trong những truyện ngắn của Nam Cao, sự khổ sở lo nghĩ, ốm yếu
bệnh tật, đói nghèo, dường như hiện hữu ở khắp nơi. Tác giả đã bóc tách từng
mảng của cuộc sống trần trụi, phơi bầy ra trước mắt bạn đọc. Truyện Một bữa
no đề cập đến chuyện muôn thuở của con người là cái ăn, sự đói ăn. Một bà
lão đói triền miên, bà chỉ mong được ăn một bữa, nhưng ngờ đâu sau khi
được ăn no, thoả mãn cơn đói thì bà đã phải lìa bỏ cõi đời. Tâm trạng của bà
lão được tác giả thể hiện rất chân thực: "...Người đói mãi, vớ được một bữa,
tất bằng nào cũng chưa thấm tháp. Những người no mãi, người ta có cần ăn
nhiều lắm đâu. Vậy thì bà cứ ăn đi. Ăn đến kỳ no. Để ăn rình thì ăn ít cũng là
ăn ... Bà ăn như không biết gì. Đến khi bà đã tạm no, thì cơm vừa hết. Chỉ còn
một ít bám dưới đáy và chung quanh nồi. Bà vẫn tiếc… Bà bỗng nhiên nhận
ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở.
Bà tựa lưng vào vách để thở cho thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà
nhọc lắm. Ruột gan bà xôn xao. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ nhưng sợ người ra
22
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
cười. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn
thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao! ...".
Rồi bà lão suốt nửa tháng trời tức bụng, nôn mửa, tả lỵ và bà chết. Cái
khổ và cái đói đeo đuổi cuộc đời con người ta cho đến lúc chết, đáng lẽ ra một
người già như bà lão phải được con cháu mang ơn chăm sóc nhưng không
phải người già nào cũng được hưởng niềm an ủi từ con cháu. Chồng bà chết
sớm, con bà cũng chết, con dâu bà bỏ đứa cháu lại bà nuôi để đi lấy chồng
khác, bà nuôi cháu lớn chút thì cũng phải cho nó đi làm con nuôi lấy tiền
trang trải cuộc sống, ốm đau bệnh tật cũng sinh ra. Chuỗi dài đau khổ đói
nghèo của con người ta cứ kéo dài mãi vô tận như vậy, kết cục của bà lão
khiến ta thấy thật đau xót.
Có thể nói, trong những truyện được trần thuật theo điểm nhìn khách
quan, tác giả có thể lúc thì bước vào thế giới nội tâm của nhân vật này, lúc lại
bước sang thế giới nội tâm của nhân vật khác và tác giả tỏ ra hết sức linh hoạt.
Tuy nhiên, bên cạnh điểm nhìn khách quan, truyện ngắn Nam Cao còn
có những tình huống trần thuật theo điểm nhìn chủ quan.
1.1.2. Trần thuật theo điểm nhìn chủ quan
Điểm nhìn chủ quan trong truyện ngắn Nam Cao xuất hiện ở nhiều hình
thức đa dạng. Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, hiện diện trong truyện, đồng
nhất với một nhân vật trong cốt truyện mà anh ta kể.
Theo M.Jahn, trong trần thuật ngôi thứ nhất, đại từ nhân xưng ngôi thứ
nhất chỉ cả người kể chuyện (cái tôi kể chuyện) và một nhân vật trong câu
chuyện (cái tôi trải nghiệm). Nếu người kể chuyện là một nhân vật chính của
câu chuyện thì anh/cô ta là một cái tôi - vai chính, nếu anh/cô ta là nhân vật
phụ thì anh/cô ta là cái tôi - chứng nhân. Ta có thể khảo sát điểm nhìn chủ
quan trong truyện ngắn Nam Cao trước Cách mạng theo hai dạng đó.
23
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
1.1.2.1. Cái tôi - vai chính
Khá nhiều truyện ngắn xuất hiện điểm nhìn chủ quan ở ngôi thứ nhất
dưới dạng tự truyện, trong đó người kể chuyện là vai chính trong câu chuyện
của anh ta. Cách kể này phá vỡ khoảng cách người trần thuật với câu chuyện
được kể, làm tăng độ tin cậy của câu chuyện.
"Tôi" trong Những truyện không muốn viết đã viết lại chuyện của mình
và tự thú nhận rằng: "Đó chỉ là những chuyện mà thật ra tôi không muốn viết.
Bởi chuyện tôi thì bao giờ nghe cũng buồn". Cái nguyên nhân mà "tôi" đem
chuyện mình ra viết là "tôi" đã viết về nhiều cái khác nhưng toàn bị người ra
vơ lấy nhận là chuyện của người ta và bị người ta trách mắng.
"Thoạt tiên tôi viết chuyện một người đàn ông đã có vợ rồi. Đó chỉ là
người đàn ông rất vô danh. Hắn có thể là tôi, là anh, hay bất cứ một anh nào
có vợ. Nhưng một anh bạn tôi vơ chằng ngay lấy. Ông ta bảo tôi định nói về
ông. Ông hục hặc với tôi. Ông khuyên tôi chớ đem in. Đem in thì vỡ mặt. Tôi
chót dại chưa học võ. Thôi thì đành chiều ông.
Tôi viết chuyện một con chó mực. Tôi thề rằng quả thật đó chỉ là truyện
một con chó mực. Nhưng chuyện vừa in ra thì tôi gặp một thằng say. Hắn trợn
mắt lên. Mắt hắn đỏ ngàu ngàu. Hắn lè nhè hỏi tôi: Sao lại bảo hắn là chó?
Rồi hắn chửi cho tôi một mẻ, vuốt mặt không kịp. Tôi ức quá. Nhưng rồi tôi
lại cười. Tôi lẳng lặng về nhà, lấy giấy bút viết chuyện một thằng say rượu.
Thằng say này say lắm. Nó uống rượu vào rồi nó chửi. Chửi lung tung
cả. Thằng say nào chẳng vậy? Ấy thế mà có một bọn người rất tỉnh kêu bù lu
bù loa lên rằng: Tôi mượn rượu để chửi cả làng nhà họ. Và họ doạ tôi đủ thứ.
Trời đất ơi !...
Vậy thì tôi còn biết viết cái gì? Một anh bạn khuyên tôi đừng đả động
đến một người nào. Cứ viết chuyện buồng cau cây chuối, cục đất, buổi hoàng
hôn hay con lợn. Nhưng biết đâu đấy? Tôi vẫn sợ. Tôi sợ có người nhận mình
24
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
là buồng cau, cây chuối, cục đất, buổi hoàng hôn, hay là con lợn để mà không
bằng lòng. Bởi thế, tuy chẳng muốn, tôi đành lại lấy tôi ra mà viết để cho yên
chuyện".
Tâm sự này của "tôi" quả là cũng giống với tâm sự nhà văn ngoài đời.
Một bạn văn cùng thời Nam Cao là Nguyễn Công Hoan cũng thấy "mình kể
chuyện mình, xưng là tôi, thì dù ai cũng xấu, ngốc dại như người trong
truyện, có bị chạm nọc, họ cũng không giận tác giả đã lật tẩy họ" (Đời viết
văn của tôi).
Trong một số truyện, "tôi" không chỉ trải nghiệm với những câu chuyện
của bản thân mà còn trải nghiệm với cả những cảm xúc của người khác -
những người mà cảnh ngộ số phận của họ còn khổ hơn "tôi" nữa.
"Tôi" trong truyện ngắn Mua nhà luôn cảm thấy mặc cảm trước bạn bè
khi họ tới thăm nhà mình. Khi đến nhà bạn thì bạn có điều kiện đón tiếp thoải
mái nhưng bạn đến nhà "tôi" thì... “tôi bực tức vô cùng” vì “đến nhà tôi, các
anh phải cúi lom khom người để chui vào một cái lều tối om om. Nền nhà
bằng đất nên ẩm ẩm dưới chân. Một mùi mốc khăng khẳng làm các anh nhăn
mũi”. Rồi mưa bão đến, căn nhà bị đổ và vườn tược cũng mất. Một thời gian
sau, "tôi" làm lụng khổ sở ki cóp để mua nhà mới, đó là nhà của "kẻ nhiều
công nợ. Anh ta goá vợ, anh ra phải nuôi hai đứa con thơ dại. Anh ta lại mới
thua xóc đĩa ba, bốn canh mất tất cả đến hai trăm đồng bạc".
Người bán nhà là người bố đang nuôi hai đứa con nhưng anh ta bán nhà
không phải để lo cho con cái hay làm ăn mà để nướng vào anh bạc. Khi vừa
bán nhà xong, bọn chủ sòng biết mùi tiền từ anh ta thì lập tức không để thoát.
Đứa bé con anh ngồi đó và nhìn người ta dỡ ngôi nhà. "Tôi" ngồi đó xem
người ta dỡ và trông đứa trẻ. Nó nghe tiếng dùi đục mà sợ hãi, nó bừng mắt,
môi bụm lại, má phình ra và chạy sang nhà hàng xóm, rồi "tôi" nghe thấy
tiếng trẻ con khóc và hờ mẹ. Lúc đó "tim tôi động một cái giống như bước
25
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
hụt. Rồi nó đập loạng choạng. Tôi hơi lảo đảo. Bây giờ thì tôi không lẩn trốn
những ý nghĩ của tôi được nữa. Tôi ác quá! Tôi phải thú với tôi nhiều rồi…".
Chính sự trải nghiệm qua nỗi mặc cảm của mình "tôi" thấy rằng nỗi
khổ của mình chưa thấm tháp gì so với nỗi khổ của người khác. "Tôi" đã có
những khoảnh khắc cùng chia sẻ, thấu lòng tới tận tâm can với khổ đau của
đứa trẻ, nó đã mất mẹ, mất nhà, mái ấm chở che và giờ đây người cha đã
không quan tâm tới nó nữa. Hạnh phúc như bị giành giật lấy trên tay nó nhanh
đến nỗi khiến lòng "tôi" thấy: hạnh phúc là điều gì đó vô cùng mong manh, dễ
mất, khó đến được với mọi người: “Ở cảnh chúng ta lúc này, hạnh phúc cũng
chỉ là một cái chăn hẹp. Người này co thì người kia bị hở. Đâu phải tôi muốn
tệ? Nhưng biết làm sao được? Ai bảo đời cứ khắt khe vậy? Giá người ta vẫn
có thể nghĩ đến mình mà chẳng thiệt đến ai!”...
Trong truyện Cái mặt không chơi được, "tôi" luôn phải đi tìm một tiếng
đồng lòng với mình nhưng sao thật khó, tất cả chỉ vì tôi có "cái mặt không
chơi được". Bất cứ ai gặp "tôi" lại thấy không thể gần gũi được lâu dài. Con
người đôi khi rất kỳ lạ là đã lấy hình thức, vẻ bên ngoài làm thước đo cho việc
xem xét anh ta có thể là bạn mình hay không. "Tôi" rất buồn, buồn vì không
ai muốn tìm hiểu mình, "tôi" rất muốn được chia sẻ với người khác nhưng họ
cứ lánh xa. Trong cuộc hành trình vào Nam "tôi" mong muốn tìm được bạn
nhưng điều ấy cũng không thể. Cuối cùng "tôi" cũng tìm thấy được người có
thể chia sẻ với mình, gặp một cách giản dị không ai ngờ sau bao lâu tìm kiếm.
Có thể thấy nhân vật "tôi" trong truyện ngắn luôn phải cố gắng, nỗ lực
và trăn trở để vượt qua khỏi những ranh giới nhất định để gần người khác, để
được chứng tỏ mình và muốn họ hiểu được mình. Ranh giới đó chỉ là "cái mặt
không chơi được" của anh ta, mà bao người xa lánh. Ai cũng biết rằng cuộc
sống luôn có những ranh giới, giới hạn, có những điều trong giới hạn đó hết
26
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
sức bình thường, nhưng lại không mấy ai biết vượt qua những rào cản không
đáng có đó để hiểu nhau hơn.
Ngoài những truyện kể từ điểm nhìn của cái "tôi"- nhân vật chính,
nhiều truyện ngắn Nam Cao là những truyện kể từ điểm nhìn của cái "tôi"-
chứng nhân, như là một nhân vật phụ chứng kiến câu chuyện và kể lại.
1.1.2.2. Cái tôi - Chứng nhân
Trong những truyện này, "tôi" vừa là nhân vật phụ, vừa là người kể
chuyện đã chứng kiến trung thực, khách quan mọi chi tiết, sự kiện diễn ra.
Chẳng hạn, khi "tôi" là người thấy cảnh sống cam chịu khổ sở của anh chàng
Phúc (Điếu văn), khi "tôi" chứng kiến một anh chàng viết về truyện tình của
mình (Truyện tình), hay lúc "tôi" là khách mời nhậu bất đắc dĩ của một anh
chàng vất vả kiếm tiền nhưng tiêu tiền trong phút chốc (Thôi đi về).
Khi đặt điểm nhìn từ cái "tôi" kể chuyện, câu chuyện chắc chắn ít nhiều
vẫn mang bản sắc, thái độ, đánh giá của "tôi" về sự kiện. Tính chủ quan thể
hiện ở việc người kể chuyện xen kể, tả và lời bình luận...với giọng chủ quan
của mình, mọi hành động truyện cuối cùng vẫn là được lý giải, soi sáng từ
điểm nhìn chủ quan này.
Trong truyện ngắn Nam Cao, đây có thể là một người kể chuyện cùng
đồng cảm hoặc lạnh lùng trong cách nhìn nhận về câu chuyện.
Ví dụ, để kết luận về cuộc đời, cái chết của một con người đầy khổ sở
cam chịu, người kể chuyện xưng "tôi" gửi gắm nỗi niềm đồng cảm: “Bây giờ
thì sự im lặng bất tuyệt đã bịt chặt đôi tai anh, chán nghe những lời mỉa mai
của đời rồi. Bóng tối đời đã phủ kín đôi mắt anh, mở thao láo nhiều đêm để
tìm trong bóng tối những cảnh nó làm anh nhục nhã. Anh đã có thể dửng
dưng đối với những chuyện của loài người. Vậy thì anh Phúc ơi! Anh hãy
nghỉ cho yên! Những chuyện đời này bây giờ chỉ còn là của chúng tôi. Chúng
tôi, những kẻ đã đau khổ, đã uất ức, đã ước ao, đã khát thèm, đã thất vọng và
27
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
vẫn còn hy vọng mãi và phải hy vọng mãi. Sự đời không thể cứ mù tịt mãi thế
này đâu. Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi. Một mặt trời
mới sẽ mọc lên trên nấm mồ anh và bên trên đầu hai đưa con côi anh để lại.
Một bàn tay bạn bè sẽ nắm lấy bàn tay chúng ta cùng đi tới một cuộc đời đẹp
hơn"(Điếu văn).
Tuy "tôi" không phải là nhân vật chính nhưng điểm nhìn của anh ta
luôn là trung tâm định hướng cho độc giả. Dù "tôi" không kể chuyện mình,
hoặc không trực tiếp tham dự vào câu chuyện thì cũng không thể nói rằng câu
chuyện được kể không có chút gì liên quan đến "tôi". Bởi lẽ, khi câu chuyện
được kể ra có nghĩa là nó không tách rời ý thức của người kể. Đứng ở vị trí
người kể chuyện "tôi" không bị các nhân vật khác nhìn, chỉ có các nhân vật
khác bị nhìn theo quan điểm của "tôi". Vì vậy, điểm nhìn chủ quan cũng thể
hiện rất rõ nét.
1.1.3. Di chuyển điểm nhìn
Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao đa dạng và luôn vận
động, có nhiều tiếng nói vang lên và đối thoại, sự đan xen hòa nhập các tiếng
nói tạo sự thay đổi trong điểm nhìn trần thuật khiến lời văn biến hóa một cách
sinh động. Chẳng hạn, đoạn mở đầu truyện ngắn Chí Phèo:
"Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt
đầu hắn chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào. Rồi hắn chửi đời. Thế
cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất
cả làng Vũ Đại. Nhưng làng Vũ Đại ai cũng tự nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”.
Không ai lên tiếng. Tức thật! Ồ thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã
thế, hắn chửi cha đưa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra
điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không?...".
Đọc đoạn văn thoạt đầu ta cứ ngỡ chỉ có lời của tác giả (người kể
chuyện) đang kể và tả về tiếng chửi của Chí Phèo. Thực ra ở đây có sự kết
28
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
hợp các điểm nhìn: điểm nhìn người kể chuyện, điểm nhìn nhân vật, điểm
nhìn của dân làng tạo sự sinh động trong lời văn để khắc họa chân dung Chí
Phèo. Chân dung ấy hiện lên sinh động là do sự thay đổi điểm nhìn trần thuật.
Nam Cao sử dụng trực tiếp, rộng rãi, thường xuyên lời nửa trực tiếp,
kết hợp đan xen nhuần nhuyễn giữa lời người trần thuật và lời nhân vật. Nó
tạo nên mối quan hệ qua lại giữa các ý thức. Nét độc đáo trong lời văn Nam
Cao là ông sử dụng điểm nhìn nhân vật khác nhau với các ý thức đối thoại với
nhau và đối thoại với người kể chuyện thể hiện sự đồng tình hoặc phủ nhận
giữa các ý thức. Hình thức này miêu tả sự khủng hoảng, dằn vặt, căng thẳng
của nhân vật trong những tình huống tâm lý căng thẳng. Tâm trạng nhân vật
trở nên phức tạp, có cả sự căm ghét cả cay đắng lẫn tủi hờn. Chẳng hạn:
" Hắn thấy mình khổ quá, khổ như một con chó vậy(...) Như thế bởi vì
đâu? Chẳng phải vì vợ con ư? Nhưng nào vợ con có thấu biết cho đâu. Đã
chẳng thèm an ủi một lời vợ hắn còn vơ lấy một sự hắn quên nữa để mà đay
nghiến hắn! Ừ, mà cho rằng hắn không quên nữa, cho rằng hắn không lấy
thuốc cho con là cố ý, mà khỏi mất mấy đồng bạc nữa, thì vợ hắn có nên nói
tệ hắn như vậy không? Hắn hà tiện vì ai?...”( Nước mắt).
Đoạn văn là ý thức của Điền, lời của Điền nhưng nó phát ra trong sự
đối thoại ngầm. Nhưng bé Hường làm lòng Điền dịu lại, Điền đã nghĩ khác về
vợ: “...Ai chả thế? Người không phải là thánh. Sự khổ sở dễ khiến lòng chua
chát”. Lời nửa trực tiếp “ai chả thế...” lại hàm chứa ý thức và giọng điệu tác
giả. Ở đây có sự thỏa hiệp giữa hai ý thức, một bên là đang thanh minh, ăn
năn, một bên như rất cảm thông, chia sẻ.
Cũng có khi vẫn là sử dụng điểm nhìn nhân vật nhưng bên cạnh ý thức
nhân vật là ý thức tác giả không phải là đồng tình mà giễu nhại, khiêu khích
để nhân vật bộc lộ nội tâm của mình (ví dụ đoạn nói về tâm trạng cụ Bá khi
thấy bà Tư đi mãi chưa về)( Chí Phèo).
29
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Sự kết hợp nhiều điểm nhìn trần thuật tạo cho lời văn Nam Cao đa
giọng sinh động.
1.1.3.1. Di chuyển điểm nhìn từ nhân vật này sang nhân vật khác
Những tác phẩm kể theo điểm nhìn đơn nhất, khi câu chuyện được tổ
chức xoay quanh một điểm nhìn duy nhất, nhà văn thường chỉ có thể trình bày
sự kiện, hành động và đối chiếu tâm lý nhân vật đủ để phơi bày bản chất, tính
cách nhân vật ấy. Nhưng với sự chuyển dịch góc nhìn thường xuyên trong tác
phẩm, nhà văn có thể mở rộng tầm khái quát, giúp người đọc tiếp cận sâu hơn
hiện thực để nhận biết bản chất của nó toàn diện hơn.
Tính di động của điểm nhìn thể hiện ở sự thay đổi vị trí quan sát hoặc
vị trí được quan sát. Truyện ngắn Nam Cao có thể nghiệm sự dịch chuyển của
vị trí được quan sát. Ban đầu người kể chuyện hóa thân vào nhân vật nào đó
để nhìn và kể, rồi lại có thể nhập thân vào nhân vật khác. Như vậy, điểm nhìn
của truyện có thể di động theo điểm nhìn bao quát của một người kể giấu
mình, song điểm nhìn không chỉ trượt trên nhiều nhân vật mà còn được trao
cho vài nhân vật trong đó. Những nhân vật ấy là người trực tiếp thể hiện hành
vi quan sát, cảm nhận, đánh giá.
Đón khách gồm hai cảnh huống, tâm trạng khác nhau của nhân vật Sinh
và vợ chồng ông đồ Cảnh. Tình cảm của Sinh với cô Na (con ông bà đồ)
không phải là tình cảm thật, chỉ là trêu nghẹo để mà cười cợt. Ấy vậy mà chỉ
vì một chai rượu dâu, Sinh được cho nhưng không thích, rất muốn đem cho ai
hoặc quẳng đi thì chợt nhớ đến ông bà đồ. Ông bà được y cho rượu lại tưởng
thích con gái mình. Vậy là những cảnh huống tâm lý trái ngược nhau diễn ra:
"…Y quăng chai rượu vỡ xuống ruộng. Thuận tay, y quăng cả cái chai lành,
nhưng lại tiếc của giời. Y ngần ngừ một lúc rồi tặc lưỡi". Thế rồi y nghĩ " Ta
giữ lại" để " biếu ông hàn" hay " chú canh điền nhà ông Hàn" hay " đem phắt
30
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
ra cánh đồng chia cho lũ trẻ" và y nghĩ "sao không để biếu ông đồ nhà cô
Na!".
Trong khi đó vì chai rượu ấy mà vợ chồng ông đồ đã nghĩ nhức đầu:
“Không hiểu cậu phán có lòng thương con bé Na thật hay đùa bỡn vậy?
Nhưng đùa thì nào lại cho ông đồ chai rượu? Cái cổ chai có bọc giấy vàng cẩn
thận, cái nhãn hiệu in đẹp lắm. Chắc là rượu bổ. Có rẻ cũng phải ba, bốn
đồng. Ý tốt người ta có định lấy con mình thì người ta mới chịu bỏ tiền ra
mua biếu chứ! Vả lại, bây giờ những hạng thông, ký, phán lấy vợ nhà quê kể
cũng thường". Kết cục là trong ngày tết, Sinh cưới vợ mà vợ lại không phải là
con gái ông bà đồ, ông bà và cô Na ăn Tết trong cảnh cơm rượu chuẩn bị sẵn
tràn trề " nhưng mà cả một bát họ tiêu vào cái tết!...ông đồ lại nghẹn thêm cái
nữa. Đôi mắt ông ầng ậc nước”. Những thứ cô Na mặc đẹp để đón Sinh cô sẽ
đem đi bán để "lấy tiền đóng họ cho nhà bà lý Vinh".
Trong truyện ngắn Chí Phèo có sự di chuyển điểm nhìn nhân vật Chí
Phèo sang điểm nhìn của Thị Nở và lại đến điểm nhìn của Chí Phèo. Sự di
chuyển điểm nhìn hết sức linh hoạt cho người đọc thấy được những mảng tâm
trạng, những phút giây nghĩ suy, hay phẩm chất sống tốt đẹp của hai con
người này. Chí Phèo là người say triền miên, một anh nông dân cùng đinh
không ai ngó ngàng đến, sống nhờ nghề đâm thuê chém mướn rạch mặt ăn vạ.
Thị Nở là người ngẩn ngơ, xấu xí và cũng không ai để ý. Chỉ sau một đêm ở
bên nhau, Chí Phèo chợt nhận thấy mình muốn trở về với cuộc sống lương
thiện bên cạnh mọi người. Chí Phèo lắng nghe âm thanh của sự sống đang
diễn ra và chợt nhận thấy "hắn già mà vẫn cô độc". "Hắn đã tới cái dốc bên
kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao là chất độc, đầy đọa
cực nhọc mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu báo hiệu rằng cơ
thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một con mưa gió cuối thu cho biết trời giá rét,
nay mùa đông đã đến". Còn Thị Nở, thị nghĩ "Cái thằng liều lĩnh kể ra thì
31
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một
mình...thị kiêu ngạo vì đã cứu sống cho một người. Thị thấy như yêu hắn: đó
là một lòng yêu của một người làm ơn". Thị vẫn tiếp tục nghĩ "Gớm! Sao lại
có thứ người đâu mà lì quá thế! Người ta ngồi đấy mà dám xán lăn ngay vào,
nó chả ngang ngược mà người ta kêu bé, nó lại làm to hơn...Thổ trận ấy thật
là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì thì mới được...".
Thị Nở nấu cháo mang sang cho Chí Phèo và dòng tâm tưởng của Chí lại hiện
ra, điểm nhìn từ Thị Nở lại được di chuyển sang điểm nhìn Chí Phèo: "Hắn tự
hỏi rồi lại tự trả lời : vì có ai nấu cho ăn đâu? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa?
Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay "đàn bà". Hắn nhớ đến "bà
ba", cái con quỷ cái hay bắt hắn bóp chân mà lại kêu bóp lên trên, trên nữa, nó
chỉ nghĩ sao cho thỏa chứ nó có yêu hắn đâu...”.
Như vậy, sự di chuyển điểm nhìn giữa các nhân vật đã tạo điều kiện
cho chính nhân vật được bộc lộ mình một cách tự nhiên nhất, theo GS. Trần
Đình Sử thì: "Luân phiên điểm nhìn tạo hiệu quả đối thoại kịch tính thầm kín"
[40,tr.184].
1.1.3.2. Di chuyển điểm nhìn của tác giả sang điểm nhìn của nhân vật
và ngược lại
Đây là một hình thức mà Nam Cao sử dụng điểm nhìn dịch chuyển với
nhiều người kể chuyện xưng "tôi". Những cái "tôi" này không phải là sự phân
thân của một cái tôi nào đó, mỗi cái tôi được miêu tả như một ý thức. Cách kể
(kiểu truyện lồng truyện) này có chức năng trình bày, cung cấp thông tin về
những sự kiện nằm ngoài tuyến hành động của trần thuật như các sự kiện
trong quá khứ (Đui mù), hoặc làm ngắt quãng để làm rõ kết truyện như
Truyện tình.
Truyện tình được kể lại bởi nhân vật tên Lưu, Lưu viết câu chuyện tình
của mình ra (xưng "tôi") và đưa cho "tôi"- người kể chuyện (đóng vai trò một
32
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
nhân vật trong truyện) đọc. Câu chuyện tình của Lưu kết thúc không có hậu,
Lưu luôn mơ mộng về Kha và mong Kha đáp lại tình cảm của mình, anh đã từ
chối về quê thăm gia đình trong dịp hè để được ở bên bạn gái, nhưng Kha đi
nghỉ mát và để ở nhà một con vẹt của nàng cho anh chàng chăm sóc. Trong
khi đó ở quê, em gái anh chết nhưng không kịp gặp mặt anh lần cuối. Lưu
chưa viết kết cho chuyện mình thì tôi đến. "Tôi" được biết Lưu viết một cái
kết mà theo anh ta nhận là "nếu kể đúng như vậy thì truyện có một tính cách
tầm thường lắm. Vì vậy tôi sẽ viết: tôi hy sinh tình yêu và hạnh phúc đi vì
nàng". Cái kết này trái ngược hẳn với hành động trả thù Kha mà Lưu kể "tôi"
nghe.
Cách kể chuyện như vậy có tác dụng làm cho bạn đọc, bản thân nhân
vật, và chính người kể chuyện nhận thấy những bất ngờ, bản chất rất thật của
sự việc mà không có ý định ngầm ẩn.
Trong Đui mù những sự việc được kể trong quá khứ bởi nhân vật nhằm
mục đích làm rõ thêm sự việc ở hiện tại. Tác giả để “tôi” (người kể chuyện
ngôi thứ nhất) dẫn dắt truyện, "tôi" được mời đến gặp Hùng, Hùng đã kể lại
chuyện tình của mình (nhân vật tự kể chuyện - xưng "tôi"). Anh chua chát
nhận ra rằng : dành hết niềm tin tưởng và lòng yêu thương cho một người
nhưng lại bị chính người đó lừa gạt, Hùng phải chấp nhận một sự thật và
không thể tha thứ trong khi trái tim vẫn rỉ máu. "Tôi" - người kể chuyện đã
biết được một cái kết thật buồn.
Như vậy, điểm nhìn di chuyển từ tác giả sang điểm nhìn nhân vật và
ngược lại được vận dụng linh hoạt trong truyện ngắn Nam Cao.
33
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
1.2. Vai trò ngƣời kể chuyện
Trong tác phẩm văn học, tác giả lựa chọn kiểu người kể chuyện nào để
kể không phải là một sự ngẫu nhiên mà nó mang tính quan điểm, nhằm mục
đích chuyển tải tư tưởng nội dung một cách hiệu quả nhất. Người kể chuyện
là nhân vật trung gian nối liền giữa nhà văn, tác phẩm và bạn đọc. Vì vậy
nghiên cứu vai trò của người kể chuyện cần được xem xét trong ba mối quan
hệ này.
Trước hết, người kể chuyện có vai trò tổ chức, kết cấu tác phẩm.
L.I.Timofeev khẳng định là hình tượng này có tầm quan trọng hết sức to lớn
trong việc xây dựng tác phẩm bởi các quan niệm, các biến cố xảy ra, cách
đánh giá các nhân vật và các biến cố đều xuất phát từ cá nhân người kể.
Mỗi tác phẩm văn học có thể có nhiều khả năng kết cấu, mỗi khả năng
kết cấu thích hợp với một quá trình khái quát nghệ thuật của người nghệ sỹ .
Người kể chuyện phải thay mặt cho nhà văn tìm một kết cấu tối ưu để làm câu
chuyện hấp dẫn lôi cuốn người đọc.
Ngoài ra, người kể chuyện có vai trò dẫn dắt người đọc tiếp cận thế
giới nghệ thuật. Tác giả là người sáng tạo ra tác phẩm nhưng tác giả không
bao giờ xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm đó mà lại hư cấu ra người kể
chuyện để thay mặt mình dẫn dắt người đọc thâm nhập vào thế giới nghệ
thuật. Người kể chuyện là môi giới, gợi mở, giúp người đọc tiếp cận nhân vật,
hiểu nhân vật, rút ngắn khoảng cách với nhân vật, đồng thời hướng người đọc
cùng chia sẻ đồng cảm với những chiêm nghiệm, suy ngẫm của mình về cuộc
đời. Trong nhiều trường hợp, người kể chuyện tiến hành đối thoại, tranh luận
cùng người đọc để kiếm tìm khám phá chân lí cuộc sống.
Một vai trò nữa của người kể chuyện là thay mặt nhà văn trình bày
những quan điểm về cuộc sống, nghệ thuật. Nhà văn không trình bày tư tưởng
của mình bằng những lời phát biểu trực tiếp mà trình bày một cách nghệ thuật
34
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
thông qua các hình tượng do mình hư cấu nên trong đó có hình tượng người
kể chuyện.
Tìm hiểu vai trò người kể chuyện trong truyện ngắn Nam Cao chúng
tôi tập trung hai vấn đề.
1.2.1. Người kể chuyện trong sứ mệnh tạo ra mạch tự sự độc đáo hấp
dẫn
Vai trò tổ chức, kết cấu tác phẩm và vai trò dẫn dắt người đọc tiếp cận
thế giới nghệ thuật trong tác phẩm của người kể chuyện theo chúng tôi cũng
chính là sự mệnh tạo ra một mạch tự sự độc đáo, hấp dẫn của người kể
chuyện. Người kể chuyện ấy vừa tổ chức một câu chuyện kể vừa phải làm sao
để tạo nên sự hấp dẫn thu hút cho truyện, cuốn độc giả vào một mạch tự sự-
vòng xoáy của những gì đang diễn ra trong truyện kể.
Văn Nam Cao có một khả năng truyền cảm kỳ lạ mà bất cứ độc giả nào
cũng sẽ nhận thấy. Những điều ông thể hiện trong tác phẩm là những gì rất
bình thường, có những việc hết sức vụn vặt trong cuộc sống hàng ngày,
nhưng bạn đọc vẫn thấy hấp dẫn không nhàm chán và luôn bị ám ảnh. Bạn
văn cùng thời ông là Nguyễn Công Hoan lại rất quan tâm đến những hiện
tượng che đậy giả dối về cuộc sống thực, khi nào nhà văn cũng muốn bóc trần
nó, bóc trần "cả một thế giới làm trò, cái gì cũng giả dối, lừa bịp, đáng khôi
hài..."[15, tr.295]. Vì thế nhà văn coi cuộc đời là "một sân khấu hài kịch", tác
phẩm của ông có chất kịch rất đậm nét đặc trưng cho khuynh hướng "kịch
hóa" ở giai đoạn 1930 - 1945. Truyện nhà văn Thạch Lam tiêu biểu cho
khuynh hướng "trữ tình hóa". Tự sự kiểu Thạch Lam như một phương thức
gợi ra chủ đề, tự sự ở Nguyễn Công Hoan là một phương thức phơi bày trạng
thái trào phúng của thế giới, một phương thức để con người tự bộc lộ nhân
tính, còn tự sự ở Nam Cao là một phương thức để thể hiện những thảm trạng
của cuộc đời mà ở đó con người phải vật lộn đấu tranh, phải cố giữ lấy những
35
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
phẩm chất người giữa cuộc đời, con người phải nhận thức được trách nhiệm
của bản thân đối với cuộc sống, phải không ngừng vươn lên đấu tranh giữa tốt
- xấu, thiện - ác...để cuộc sống hoàn thiện, trước hết là ý thức được bản thân,
trách nhiệm với bản thân và hướng tới mọi người. Tất cả những gì Nam Cao
muốn gửi gắm đều vì con người, cuộc sống con người, nên mọi thói hư tật
xấu, đói nghèo ốm đau và những thứ tưởng như không có gì để nói vẫn có thể
đưa vào thành truyện.
Người kể chuyện trong truyện ngắn Nam Cao hết sức khéo léo để dẫn
dắt bạn đọc vào truyện, cuốn hút bạn đọc vào những biến thái tâm lý sâu thẳm
trong mỗi nhân vật và khơi dậy việc tự nhận thức ở người đọc.
Ngay từ phần đầu truyện, người kể truyện đã đưa bạn đọc dẫn nhập vào
mạch truyện, tiếp cận hệ thống tính cách nhân vật thông qua việc triển khai
trình bày hấp dẫn về cốt truyện, điểm nhìn trần thuật. Với các cách kể truyện
khác nhau, cách xuất hiện khác nhau của người kể chuyện, ta sẽ có các dạng
cốt truyện khác nhau, trong truyện ngắn Nam Cao có cốt truyện tâm lý, cốt
truyện "chuyện lồng chuyện". Tác phẩm có một hay nhiều người kể chuyện
về một hay nhiều câu chuyện.
Người kể chuyện trong truyện ngắn Nam Cao đưa bạn đọc cảm nhận
được câu chuyện ở khoảng thời gian - không gian nào, thậm chí tiếp cận được
với những bình luận đánh giá hay cảm xúc của tác giả- người kể chuyện.
Một truyện kể thông thường có mở đầu - phát triển - đỉnh điểm - kết
thúc. Truyện ngắn Nam Cao cũng không thể thiếu những phần đó nhưng
không phải có sự tách bạch riêng rẽ giữa các phần vì văn Nam Cao luôn chứa
đựng "mạch ngầm" tạo thành kết cấu không thể phá vỡ. Nếu là một cốt truyện
tâm lý như Đời thừa chẳng hạn thì mạch tâm lý sẽ chảy suốt từ đầu đến cuối
tác phẩm. Có lúc, tâm lí thăng trầm, đấu tranh hay giằng xé thì nó vẫn là một
mạch, người đọc sẽ theo dõi và tiếp cận nhân vật cũng như thế giới nghệ thuật
36
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
truyện thông qua mạch đó, mọi hành động nhân vật cũng theo mạch đó.
Thường thì Nam Cao có cách vào chuyện rất thoáng, ngắn gọn và kiệm
lời. Chỉ với một vài câu, nhà văn đã phác họa nên nhân vật, sự kiện và không
gian thời gian và sau đó sẽ lần lượt sẽ bóc tách trong "sự tình hậu cảnh"-
những tấn kịch của từng con người, của gia đình, xã hội dần hiện ra.
Ví dụ, trong truyện Nghèo, người kể chuyện khéo léo dẫn dắt độc giả
tiếp cận ngay một cuộc đối thoại của nhân vật mà biết được sự kiện gì xảy ra.
- " Bu ơi con đói.....
Lần này có lẽ là lần thứ mười, thằng cu bé chạy về đòi ăn, chị đĩ Chuột
đang quấy một nồi gì trong bếp, cáu tiết quay ra mắng át đi:
- Đã bảo hết cơm rồi, tí nữa chè chín thì ăn chè mà"…
Nhân vật, thời gian không đáng kể, chỉ có sự kiện "thằng bé đói" và
cơm không có lại có "chè" để ăn. Một điều khác thường! Và người đọc phải
tự hỏi xem "chè" là cái gì để đánh tan cơn đói giày vò mẹ con nhà đĩ Chuột.
Có những truyện nhân vật chưa có hình dáng mặt mũi, chưa có khung
thời gian, không gian mà chỉ có hành động:
" Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi..."
(Chí Phèo)
Ở những loại truyện này, hành động bộc lộ tính cách và vị thế xã hội có
tính nhất quán.
Tuy vậy, có những truyện tính cách và hành động có vẻ không phù hợp
với nhau nhưng mục đích lại hoàn toàn khác nhau:
" Những quân ăn cướp, bao giờ muốn ăn cướp một nhà nào, bao giờ
cũng phải thăm đất trước. Hắn cũng vậy, hắn sắp làm một cái việc tương tự
như ăn cướp. Vậy phải đi xem kỹ tình hình đã" (Một truyện Xúvơnia).
" Hắn" ở đây không phải là kẻ cướp mà chỉ là một kẻ si tình. Mọi kẻ si
tình đều ngốc nghếch, nhưng cái ngốc nghếch của anh ta thì khó lòng tưởng
37
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
tượng được. Chuyện có thế nên người kể phải biện luận phân tích, phải dựa
vào "lẽ thường" để lý luận tất cả. "Lẽ thường" ấy là chuyện nghèo, chuyện đói
được dùng làm cái "luận cứ" dẫn giải cho một số cốt truyện tương tự như:
Làm tổ, Đôi móng giò, Đón khách, Truyện tình.
Tác giả xác định mình là người vừa chứng kiến lại vừa tham gia vào
câu chuyện nên khoảng cách giữa người kể và nhân vật không phải là lớn.
Khoảng cách đó định vị điểm nhìn người kể.
Một nhà văn có phong cách đều chỉ cho bạn đọc cách đọc truyện ngay
từ đầu. Khi đọc đoạn mở đầu, người đọc phải tự hỏi: " Hắn" là ai?, "hắn" chửi
ai?, sao lại "vừa đi vừa chửi"?. Những câu hỏi đó là cái hướng cho người kể
và người đọc. Người đọc sẽ gặp những điều không đoán trước được, bị hụt
hẫng và cuối cùng được thỏa mãn: "À ra thế!". Cũng có lúc một nguyên nhân
trực tiếp được đưa ra:
“Đầu đuôi tại con mèo, nhưng cũng tại trời bức nữa, bức không chịu
được".
(Con mèo)
Nói “vậy mà không phải vậy". Không phải do con mèo hay trời nóng
bức, cũng không phải vì anh Cu nóng nảy và chị Cu "lỉa rỉa đay nghiến anh"
mà xảy ra cảnh xô xát của hai vợ chồng anh mà cái chính là vì cái nghèo, cái
cực của gia đình anh: kẻ ăn thì người phải nhịn. Người ăn để cho hả giận, còn
người nhịn thì càng căm tức. Chuyện ẩu đả của anh chị xảy ra, nhưng kết cục
rất có hậu: nửa đêm mưa gió, trời hết bức, anh vào làm lành với chị. Tuy
miếng ăn xúc phạm đến nhân cách con người nhưng sự ràng buộc của một gia
đình nghèo nên mọi chuyện bi hài đâu lại vào đó! Những truyện tương tự
cũng được kể theo cách này như Đui mù, Nhỏ nhen, nhưng người kể chuyện
dẫn nhập theo từng kiểu khác nhau. Người kể chuyện sẽ đưa ra một tiêu điểm
38
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
(focus), từ đó bạn đọc lần theo các lẽ thường để đọc, mỗi truyện có một mở
đầu riêng vì cấu trúc đa dạng của truyện quyết định.
Bằng cách viết như vừa kể và suy ngẫm nên ngòi bút Nam Cao là ngòi
bút đầy tinh lực, câu chữ nhuần nhuyễn, bạn đọc vừa được thưởng thức và
ngưỡng mộ bởi những trang viết của ông. Người kể chuyện đưa bạn đọc tới
tận cùng mọi ngóc ngách tâm lý tâm trạng của nhân vật, như được sống cùng
nhân vật và để trải nghiệm được mọi thứ.
Trong truyện ngắn Nam Cao, mọi kết thúc truyện đều không phải là
giải quyết được tất cả các vấn đề, tình trạng cuối cùng của xung đột được thể
hiện, nhưng còn quá nhiều điều dang dở. Có kết thúc tuy đánh dấu sự xóa bỏ
tính cách và số phận nhân vật nhưng mâu thuẫn vẫn có thể tiếp tục căng thẳng
hoặc chưa bị xóa bỏ (ví dụ kết thúc truyện Chí Phèo).
Có thể thấy truyện ngắn Nam Cao với sự linh hoạt độc đáo của người
kể chuyện luôn có một sức hút lớn hấp dẫn với mọi thế hệ bạn đọc.
1.2.2. Người kể chuyện mang tiếng nói, quan điểm của tác giả về
cuộc sống, con người và nghệ thuật
Trong những truyện ngắn của mình, Nam Cao đã thông qua nhân vật
người kể truyện để bày tỏ thái độ của mình trước cuộc sống, con người, xã
hội. Với vai trò đại diện của tác giả, người kể chuyện trong truyện ngắn Nam
Cao đem đến cho độc giả những đề tài, mà phần nào đã từng diễn ra, từng ảnh
hưởng nhiều trong cuộc đời tác giả. Bạn cùng nghề nhà văn là Nguyễn Công
Hoan từng tâm sự: "Người viết văn chịu ảnh hưởng về mặt nào nhiều nhất, thì
có khả năng sáng tác về mặt ấy nhiều nhất" [17, tr.1223].
Nam Cao cũng đã nói: "Sống đã rồi hãy viết". Không phải đơn giản nhà
văn nói ra như vậy mà câu nói ấy đã được đúc kết bằng cả một cuộc đời, lúc
nào tác giả cũng suy nghĩ, chiêm nghiệm, dằn vặt mỗi khi cầm bút. Vào
những thập niên đầu của thế kỷ XX, so với các nhà văn hiện thực phê phán
39
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
khác và các nhà văn trong Tự Lực văn đoàn, Nam Cao là người đến muộn
nhưng ông sớm định hình một lối riêng. Nam Cao đã ý thức về một nghệ
thuật vị nhân sinh, người viết văn không lẩn tránh sự thật, không thể thờ ơ
trước biết bao người quằn quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của
kiếp mình! Biết bao tiếng nghiến răng và chửi rủa! Biết bao cực khổ và lầm
than. Những sự thật tàn nhẫn, nghiệt ngã luôn bám riết mọi chỗ, mọi nơi
khiến nhà văn không thể viết văn chương giả dối. Nhà văn Ngô Tất Tố kêu
gọi: "Hãy ngó mắt đến những kẻ hạ lưu thôn quê", Vũ Trọng Phụng tuyên bố:
"Tiểu thuyết là sự thật ở đời". Nam Cao công khai quan điểm: "Nghệ thuật
không phải là ánh trăng lừa dối".
Người nghệ sĩ chân chính sáng tạo không chỉ vì mưu sinh, kiếm sống
mà trước hết là vì nhu cầu sáng tạo thôi thúc từ bên trong, văn chương phải
mới lạ, độc đáo. Ông không dễ dãi với ngòi bút của mình. Với ông, văn
chương phải có chiều sâu của nghệ thuật sáng tạo đích thực và nhà văn muốn
sáng tác của mình thật sự có ích. Đó là lý do Nam Cao đã sống và viết vì mọi
người, cho nhân dân, cho đất nước. Khi Cách mạng tháng Tám thành công
Nam Cao dâng hiến cả cuộc đời và sự nghiệp sáng tác cho Cách mạng, sẵn
sàng chối bỏ "tháp ngà" nghệ thuật thuần túy để sống và sáng tác vì mọi
người, vì cuộc đời.
Những con người trong tác phẩm của Nam Cao bị bám riết bởi sự đói
ăn, nghèo nàn, những định kiến cổ hủ lạc hậu, con người bị đẩy đến tình trạng
bần cùng hoá hoặc lưu manh hoá. Không gian làng, nông thôn không khác
nào mảnh vườn hoang cuối mùa tiêu điều xơ xác mà bọn quyền thế là lũ sâu
bọ hút hết nhựa sống, vặt trụi mọi nhành non lá biếc, tàn phá những mùa hoa.
Mảnh vườn quê ấy không thể kết trái, nếu có chăng là những quả còi quả cọc,
quả điếc mà những con người khốn khổ là sản phẩm của mảnh vườn quê đó.
Nếu nhân vật anh Pha của Nguyễn Công Hoan, chị Dậu của Ngô Tất Tố là
40
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
những con người tốt thuần nhất, trọn vẹn bởi tính cách của nhân vật là do bản
chất giai cấp của nhân vật chi phối, quyết định. Họ chìm nổi, thăng trầm về số
phận mà lại tĩnh tại, nguyên dạng về tính cách. Có thể nói, chỉ đến hàng loạt
các nhân vật của Nam Cao xuất hiện như Chí Phèo, lang Rận, lão Hạc, Hộ,
Thứ, San, Hoàng...mới đập vỡ cái nhìn phiến diện, tĩnh tại tạo ra một cái nhìn
phức tạp, đa chiều hơn và sâu sắc hơn về con người. Nhân vật dường như lúc
nào cũng chịu một sức nặng trên vai, đôi khi như quằn quại, khổ đau đến tột
cùng trên con đường đầy chông gai đi tìm nhân tính của mình.
Vì thế, những tâm sự, tình cảm, ý kiến, thái độ của Nam Cao đối với
hiện thực được bộc lộ trong tác phẩm qua hình tượng người kể chuyện. Trong
nhóm đề tài về người trí thức, nông dân, những người cùng đinh...ông đã
dựng lên cả một thế giới mà cuộc sống đầy bế tắc. Nam Cao chế giễu, phê
phán, cười chua xót và hơn hết là sự ám ảnh về vấn đề vận mệnh chung của
một xã hội buồn thảm, tủi nhục, trong đó đời sống không còn ý nghĩa, quay
về phía nào cũng thấy dựng lên những bức tường bế tắc.
Người kể chuyện trong truyện ngắn Nam Cao cũng hướng tới những
câu chuyện mang tính bi hài vì người kể chuyện ấy mang trong nó quan điểm
của tác giả về cuộc sống.
Như vậy, người kể chuyện có vai trò vô cùng quan trọng trong việc
mang tiếng nói, quan điểm của tác giả về cuộc sống con người và nghệ thuật.
1.3. Tiểu kết
Có thể nói, người kể chuyện là một công cụ do nhà văn hư cấu nên để
kể chuyện, đó là một dạng nhân vật đặc biệt trong tác phẩm, có chức năng tổ
chức các nhân vật khác, tổ chức kết cấu của tác phẩm, dẫn dắt định hướng và
khơi gợi khả năng đối thoại, tranh luận của người đọc. Ngoài ra người kể
chuyện còn là một điểm tựa để tác giả bộc lộ những quan điểm của mình về
cuộc sống, nghệ thuật. Giữa người kể truyện và tác giả có một mối liên hệ mật
41
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
thiết nhưng không đồng nhất với nhau. Người kể truyện trong truyện ngắn
Nam cao tỏ ra hết sức linh hoạt trong việc di chuyển điểm nhìn, truyện được
trần thuật theo điểm nhìn khách quan hoặc chủ quan hay có sự di chuyển
điểm nhìn giữa các nhân vật, từ điểm nhìn của tác giả sang điểm nhìn nhân
vật và ngược lại, như vậy sẽ tạo thuận lợi cho bạn đọc trong việc tiếp nhận tác
phẩm.
Sau Cách mạng tháng Tám, Nam Cao có sự chuyển biến về thế giới
quan và quan điểm nghệ thuật, từ một nhà văn hiện thực phê phán dần dần
chuyển thành một nhà văn Cách mạng. Người kể chuyện trong những truyện
của ông thời kỳ này cũng góp phần đem những quan điểm mới, tiếng nói mới
của tác giả về con người, cuộc sống và nghệ thuật đến với bạn đọc.
Nói chung, truyện ngắn Nam Cao đạt được thành công là sự hoà quyện
của nhiều yếu tố: Người kể chuyện, không gian, thời gian, cốt truyện, giọng
điệu. Vấn đề người kể chuyện là vấn đề trung tâm trong nghệ thuật tự sự và
vai trò của người kể chuyện rất quan trọng. Bên cạnh đó thì cốt truyện, giọng
điệu, ngôn ngữ cũng đóng góp không nhỏ làm nên thành công của tác phẩm,
chúng ta sẽ tìm hiểu rõ điều này ở chương sau.
42
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
CHƢƠNG 2
NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN
TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO
2.1. Cốt truyện
Khái niệm cốt truyện có cách hiểu truyền thống và hiện đại. Cách hiểu
khái niệm cốt truyện có truyền thống lâu đời, nó bắt nguồn từ Aristote và
được các nhà lý luận chủ nghĩa cổ điển định rõ. Theo đó cốt truyện tức là cấu
trúc sự kiện của truyện, là tiến trình các sự kiện xảy ra theo nguyên tắc nhân
quả dẫn đến một kết cục. Truyện nào cũng có tính thống nhất, bắt đầu từ một
trạng thái ổn định, thăng bằng, sau đó xảy ra hỗn loạn, xung đột, cuối cùng trở
lại trạng thái thăng bằng. Quan niệm này tổng kết mô hình cốt lõi của truyện
và đến nay vẫn còn có ý nghĩa.
Sau thế kỷ XX, đã xuất hiện hiện tượng không ít nhà văn, nhà nghiên
cứu phê bình tuyên bố cốt truyện không còn trong tác phẩm tự sự, không còn
tiểu thuyết nữa. Trong khi đó thực tế cho thấy tiểu thuyết cũng như các hình
thức tự sự khác không bao giờ chết. Điều này đồng nghĩa với việc cốt truyện
cũng sẽ luôn là thành tố cốt lõi, đồng hành với bất kì hình thức tự sự nào. Chỉ
có điều, qua thời gian, cốt truyện phải được đổi khác để đáp ứng nhu cầu mới
về thẩm mĩ.
Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư
tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản quan trọng nhất
trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch.
Có một cách hiểu khác về cốt truyện hiện nay, cốt truyện như là toàn bộ
các biến cố, sự kiện được nhà văn kể lại, là cái mà người đọc có thể đem kể
lại. Khái niệm về cốt truyện này được đem đối lập với câu chuyện, truyện và
sự trần thuật, sự kể chuyện.
43
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Boris Tomashevski phân biệt: "Truyện chứa đựng chuỗi những môtip
tự sự theo trật tự thời gian của chúng, dịch chuyển nhờ vào sự tác động nhân
quả của từng môtip; trái lại cốt truyện tuy cùng tái hiện những môtip đó,
nhưng theo một trật tự sắp xếp đặt biệt trong sự tổ chức văn bản" [43, tr.180].
Lý thuyết tự sự ngày nay chia làm hai hướng, một hướng đi sâu vào
nghiên cứu cấu trúc của truyện, đi tìm các đơn vị mang nghĩa bắt đầu từ
B.Tomashevski, V.Propp, R.Barthes, Tz.Todorov. Hướng thứ hai nghiên cứu
cấu trúc trần thuật với người kể, lời kể, điểm nhìn, không gian, thời
gian...Hướng này bắt đầu với H.James, P.Lubbock, G.Genette, M.Bal. Cũng
có người nghiên cứu kết hợp cả hai hướng trên, vì thực tế chúng không thể
tách rời. Ngày nay khái niệm cốt truyện được sử dụng để chỉ hai phương diện,
một là hệ thống sự kiện có tính nhân quả, cốt lõi và hai là cấu trúc của truyện.
Thông thường khi đề cập đến cốt truyện, các nhà nghiên cứu thường
tập trung vào tiểu thuyết. Nhưng thực tế, chính truyện ngắn mới là nơi phô
diễn những cách tân về cốt truyện một cách hiệu quả nhất. Có hai kiểu cốt
truyện gốc để nhà văn tiến hành những cách tân, thể nghiệm của mình là cốt
truyện kịch tính và cốt truyện trữ tình. Cốt truyện kịch tính gắn với cái nhìn
nhị nguyên, bởi người kể luôn đặt sự vật hiện tượng trong thế đối lập tốt -
xấu, cao cả- thấp hèn, ánh sáng - bóng tối, thiện - ác…Cách làm này hàm
chứa trong đó cái nhìn động: đi từ đau thương, bất hạnh đến hạnh phúc, sung
sướng. Có thể dễ nhận thấy đây là bản chất của cốt truyện phiêu lưu thần
thoại. Kiểu phiêu lưu của một người hùng trong một xã hội đối nghịch lẫn tự
nhiên, đối nghịch để khẳng định giá trị làm người cao quý và sự xả thân cho
cộng đồng.
Trong khi đó, cốt truyện trữ tình là sự sáng tạo đặc biệt của văn xuôi
hiện đại trong nỗ lực vượt thoát xa hơn cái bóng của cốt truyện thần thoại,
hướng đến sự chi phối bởi cái nhìn nhất nguyên. Vẫn còn sự phiêu lưu, nhưng
44
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
giờ đây không còn là sự phiêu lưu của một cá nhân với thế giới bên ngoài,
chỗ trú ẩn duy nhất của con người là thế giới nhỏ bé của cái tôi chính họ. Kể
từ đây, cốt truyện dần dịch chuyển sâu hơn vào thế giới nội tâm, nơi con
người ngập chìm trong cuộc đấu tranh bất tận với cái tôi của chính họ. Từ cốt
truyện tâm lý đến cốt truyện dòng ý thức là cả bước tiến dài trong việc chuyển
từ cái tôi chủ thể sang cái tôi khách thể trong tự sự. Chính ý thức dân chủ đã
làm nảy sinh ra cảm quan thu nhỏ dấu ấn chủ nhân của tự sự về điểm không
(Roland Barthes coi là độ không của lối viết) đã khiến cốt truyện hiện đại và
hậu hiện đại trở lên mênh mông trong thế giới nội tâm, thế giới trí tuệ ngẫu
hứng bao la của con người.
Sau đây ta sẽ xem xét cốt truyện trong việc tổ chức, cấu trúc cốt truyện,
tức là trong mối quan hệ với các yếu tố khác có vai trò tổ chức, cấu trúc cốt
truyện như: kết cấu, biến cố, tình huống, sự kiện - tình tiết - chi tiết.
2.2. Những yếu tố tham gia tổ chức, cấu trúc cốt truyện
2.2.1. Sự kiện - tình tiết - chi tiết
Chất liệu cơ bản để làm nên cốt truyện chính là các sự kiện có tác động
và ảnh hưởng đáng kể đến số phận và tính cách nhân vật. Sự kiện được tạo
nên bởi những tình tiết, chi tiết.
M.Bal xem xét sự kiện (event) là sự chuyển từ trạng thái này sang trạng
thái khác, được gây ra và trải nghiệm bởi nhân vật, cơ sở xác định sự kiện là
sự thay đổi, sự lựa chọn, sự đương đầu. Các sự kiện được liên hệ với nhau bởi
những nguyên tắc giống như những nguyên tắc chi phối hành vi và tư tưởng
của con người như: vòng tròn nhân quả (khả năng, sự kiện, kết quả), các sự
kiện cũng có thể được tập hợp trên cơ sở sự đồng nhất hay sự đối lập của các
nhân vật tham gia, có thể được đặt trong sự cách quãng về thời gian...
Thường thì trong truyện ngắn hệ thống sự kiện được tác giả kể lại gọn
gàng và thường là đơn giản về số lượng, tập trung thể hiện quá trình phát triển
45
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
tính cách của một vài nhân vật, có khi chỉ là một giai đoạn trong cuộc đời
nhân vật chính.
Trong một tác phẩm văn học, hình tượng nghệ thuật có cụ thể, gợi cảm,
sống động hay không là nhờ các chi tiết về phong cảnh, môi trường, chân
dung, cử chỉ, hành vi, lời nói, phản ứng nội tâm...Chi tiết trong tác phẩm tuỳ
theo sự biểu hiện cụ thể mà nó có vai trò khác nhau, nó có khả năng thể hiện,
minh chứng cho cấu tứ nghệ thuật của nhà văn. Hoặc cao hơn, nó cũng có thể
trở thành tiêu điểm- điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Đối với
việc tổ chức cốt truyện, chi tiết đóng vai trò "vật liệu xây dựng", làm tiền đề
cho cốt truyện phát triển hợp lý.
Tình tiết là đơn vị lớn hơn chi tiết. Những yếu tố cụ thể - chi tiết cụ thể
tạo thành sự kiện được gọi là các tình tiết. Tình tiết chính là diễn biến của cốt
truyện. Đó là những khúc đoạn mà chính tại đây nhân vật thăng hoặc trầm.
Một yếu tố của cốt truyện có thể được trình bày qua nhiều tình tiết khác nhau,
và việc sắp xếp các tình tiết trong trần thuật là yêu cầu quan trọng của kết cấu.
2.2.2. Kết cấu
Nếu như cốt truyện là yếu tố của nội dung tác phẩm thì kết cấu là yếu
tố của hình thức, là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm.
Cần phân biệt bố cục và kết cấu của tác phẩm. Thuật ngữ bố cục nhằm
chỉ sự sắp xếp, phân bố các chương đoạn, các bộ phận của tác phẩm theo một
trình tự nhất định. Kết cấu thể hiện nội dung rộng rãi, phức tạp hơn. Tổ chức
tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên
ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong,
nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm. Bố cục là một phương diện
của kết cấu. Ngoài bố cục kết cấu còn gồm: Tổ chức hệ thống tính cách, tổ
chức không gian - địa điểm và thời gian của tác phẩm, nghệ thuật tổ chức
những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày, bố
46
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
trí các yếu tố ngoài cốt truyện...sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở thành
một chỉnh thể nghệ thuật.
Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. Kết cấu là
phương diện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhiệm
các chức năng rất đa dạng: bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng của tác phẩm, triển
khai, trình bày hấp dẫn cốt truyện; cấu trúc hợp lý hệ thống tính cách; tổ chức
điểm nhìn trần thuật của tác giả; tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một
hiện tượng thẩm mĩ.
Nếu những yếu tố kĩ thuật, thủ pháp là có giới hạn thì kết cấu là vô hạn
vì mỗi tác phẩm là một "sinh mệnh", một "cơ thể sống" nên kết cấu tác phẩm
là một kiến trúc, một tổ chức cụ thể, phù hợp với nội dung cụ thể của tác
phẩm, kết cấu bộc lộ nhận thức, tài năng và phong cách của nhà văn.
2.2.3. Biến cố - tình huống
Biến cố là những sự kiện lớn, có thể tạo thành những bước ngoặt quan
trọng trong cuộc đời nhân vật. Chính từ những biến cố đó mà nhân vật có thể
sẽ bị đặt vào những tình huống.
Dựa trên định nghĩa của Hêghen trong Mỹ học, nhà nghiên cứu Bùi
Việt Thắng đã rút ra những kết luận chính về tình huống trong truyện ngắn:
“Tình huống giúp cho những gì còn nằm trong hình thức chưa phát triển nay
bộc lộ và hoạt động tích cực; là tình trạng có tính chất riêng biệt, trở thành
xung đột; là bước trung gian (giữa tình trạng im lìm và tình trạng hành động)”
[45, tr.111].
Nguyễn Minh Châu - cây viết truyện ngắn xuất sắc quan niệm: “(...)
Những người cầm bút có biệt tài có thể chọn ra trong dòng đời xuôi chảy một
khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý
nghĩa nhất, (...) bắt buộc con người ở vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần
47
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi đó là cái khoảnh
khắc chứa cả một đời người, một nhân loại” [45, tr.112].
Có thể thấy tình huống là những sự kiện có ý nghĩa thử thách đối với số
phận nhân vật, đối với những đặc điểm bản chất của tính cách. Khi đối diện
với những sự kiện mang tính tình huống này tính cách buộc phải hành động,
phơi bày diễn biến tâm lý của nó, bộc lộ thái độ, tư tưởng của nhân vật, tình
huống càng giàu kịch tính thì khả năng bộc lộ những đặc điểm bản chất của
tính cách càng lớn.
Việc tổ chức cốt truyện cũng không loại trừ việc tổ chức triển khai hệ
thống các biến cố và tạo ra các tình huống trong truyện nhằm làm cho cốt
truyện diễn ra kịch tính. Tính kịch là biểu hiện những xung đột của hiện thực
đã được chắt lọc lựa chọn. Xung đột bắt buộc phải giải quyết bằng sự đấu
tranh gay gắt, quyết liệt. Chính xung đột là nhân tố quan trọng tạo nên độ
căng của cốt truyện. Thông qua cuộc đấu tranh để giải quyết xung đột thì các
tính cách của nhân vật mới được bộc lộ một cách rõ rệt nhất. Và nhiệm vụ của
cốt truyện không chỉ là phản ánh hiện thực mà còn là phát hiện ra ý nghĩa bản
chất của hiện thực được che giấu sau các xung đột có kịch tính này.
Như vậy, nghệ thuật tổ chức cốt truyện chính là nghệ thuật sắp xếp các
chi tiết, tình tiết trong một kết cấu nhất định mà ở trong đó các biến cố và các
tình huống được tạo ra một cách hợp lý nhằm mục đích cuối cùng là tạo ra
diễn biến cho cốt truyện. Đến lượt mình thì vai trò của cốt truyện chính là sự
truyền tải những nội dung tư tưởng của tác giả thông qua sự phát triển tính
cách, sự thay đổi số phận của nhân vật được thể hiện.
Xem xét cốt truyện ở khía cạnh nghệ thuật tổ chức, liên quan đến các
chi tiết, tình tiết, biến cố, tình huống được gói gọn trong một kết cấu cụ thể ta
sẽ thấy được một phần tự sự mà tác giả thể hiện trong việc cấu trúc tác phẩm.
Và quan trọng hơn, xem xét cốt truyện ở góc độ nghệ thuật, ở việc tổ chức ta
48
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
sẽ thấy được vai trò của nghệ thuật trong việc chuyển tải nội dung, làm rõ hơn
mối quan hệ qua lại sâu sắc giữa nghệ thuật và nội dung, giữa yếu tố hình
thức và yếu tố nội dung của tác phẩm.
2.3. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Nam Cao
trƣớc Cách mạng
Đọc truyện ngắn Nam Cao cảm nhận đầu tiên của độc giả có lẽ là sự
ám ảnh đến khắc khoải. Trong sáng tác của ông, tâm hồn con người là sân
khấu bi kịch và bi hài kịch của những xung đột tư tưởng, ý tưởng. Tác giả
thiên về nghiên cứu, phân tích và khám phá bằng nghệ thuật tâm lý của nhân
vật hơn là việc phân tích và miêu tả những biến cố, xung đột đích thực của
chính bản thân đời sống xã hội. Đối với nhà văn "sự phân tích tâm lý hầu như
là điều kiện cơ bản nhất của việc thể hiện con người theo phương pháp hiện
thực có chiều sâu"[33, tr.198].
Ông lấy thế giới nội tâm nhân vật làm đối tượng chính của sự miêu tả.
Ông hướng ngòi bút vào việc khám phá con người trong con người, miêu tả
và phân tích mọi chiều sâu, mọi chuyển biến trong thế giới tâm hồn của nhân
vật (điều này giải thích cho việc miêu tả ngoại hình chỉ có ý nghĩa khi nó
nhằm thể hiện và làm nổi rõ bộ mặt tinh thần của nhân vật và những cảnh vật
thiên nhiên cũng chỉ có lý do tồn tại khi nó gắn liền với tâm trạng của con
người). Việc phân tích tâm lý nhân vật không tách rời việc phân tích cuộc
sống xã hội nói chung, thể hiện những mâu thuẫn, xung đột xã hội. Có thể nói
cảm hứng phân tích phê phán thấm nhuần trong toàn bộ sáng tác của Nam
Cao.
Thế nên, có thể nói nhà văn nhìn đời, nhìn con người vừa bằng đôi mắt
hiện thức sắc sảo, nghiêm ngặt, vừa bằng đôi mắt của tình thương và lòng vị
tha. Để chuyển tải nội dung của cái nhìn ấy, tác giả chú trọng xây dựng những
49
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
cốt truyện tâm lý (với sự giằng co, dặt vặt, thao thức đến khắc khoải của nhân
vật).
Trong sáng tác của mình Nam Cao không mấy vướng bận về cốt
truyện. Thậm chí có những tác phẩm rất khó khăn để nắm bắt để quy nó vào
cái khung cốt truyện. Theo lời kể của nhà văn Vũ Bằng, sinh thời Nam Cao đã
nuôi cái ý thích là "viết chuyện không có chuyện" và điều này bạn đọc đã thấy
được phần nào trong những sáng tác của ông.
2.3.1. Cốt truyện tâm lý và những kiểu kết cấu đặc sắc
Truyện ngắn trước Cách mạng tháng Tám của Nam Cao là truyện tâm
lý. Ngay từ những dòng mở đầu của mỗi truyện, Nam Cao đã dẫn ta nhập
ngay vào những dòng đang suy nghĩ của nhân vật. Tính chất " đang suy nghĩ"
"đang đối thoại", “đang độc thoại", "đang nói chuyện ở trong tâm tưởng" của
nhân vật là một đặc trưng phong cách truyện của Nam Cao. Tác giả không kể
lại những suy nghĩ của nhân vật, nhân vật cũng không tự suy nghĩ như một
dòng ý thức tuôn chảy, nhân vật cũng ít phân tích những trạng thái tâm lý,
cảm xúc mà dường như nhân vật đang nói to lên, nói toạc ra, đang mở toang
ra cánh cửa tâm hồn của mình. Thế nên người ta thường nói nhân vật trong
truyện ngắn của ông dám sống thật và suy nghĩ thật. Những ý nghĩ bộc trực
thẳng thừng đầy chất liên tưởng, tạo mạch truyện dường như loại bỏ thời gian.
Đó là mạch lập luận suy diễn ngầm trong tâm lý nhân vật, trong kết cấu
truyện.
Trong bất cứ truyện ngắn nào của tác giả cũng nhận thấy sự xuất hiện
với tính chất ít nhiều của mạch ngầm đó. Trong truyện Trẻ con không được ăn
thịt chó có đoạn:"...Ấy là lúc hắn lò dò về đến sân. Hắn đang đi bỗng giật
mình. Một con chó đang thiu thiu trong một bụi dong ở đầu sân nhảy choàng
ra. Một tí nữa thì nó đớp vào chân hắn. Hắn nhẩy cẫng lên một cái và hắn sực
nhớ rằng: Nhà hắn có một con chó vện, con chó vện ấy hay trông gà hoá cuốc,
50
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
nên lắm khi chực đớp cả chân người nhà. Đó là một cái tật không thể nào tha
thứ được. Bởi không ai nuôi chó để nó cắn què chân bao giờ. Ờ mà lại điều
này nữa: nuôi mèo hay nuôi chó thì cũng phải tuỳ gia cảnh; nhà giàu nuôi là
phải; bởi nhà giàu sợ trộm mà lại nhiều cơm hớt; còn nghèo rớt mồng tơi như
nhà hắn, nuôi làm gì? Giá thử nhà còn trẻ nhỏ, thì nuôi chó cũng được việc.
Nhưng nhà không còn trẻ nhỏ, thằng cu con đã lên ba. Nó đã có thể ra vườn
được. Hạt gạo năm nay khó chuốc như hạt ngọc. Đến bữa ăn, phải tính đầu để
chia cơm. Cứ tình hình ấy, thì phải dở hơi lắm lắm mới nuôi một con chó để
chẳng có việc gì cho nó làm. Thế là đủ lắm. Hắn sung sướng vì đã nghĩ ra
điều ấy. Hắn gật đầu luôn mấy cái. Rồi hắn đưa mắt nhìn trộm con chó
vện...".
Khi một ý tưởng là khởi điểm xuất phát, qua nhiều chặng liên tưởng
loại suy, qua những sự việc hô ứng liên châu, câu chuyện phải tiến triển theo
hướng đã định. Chẳng hạn truyện Những truyện không muốn viết, tác giả đã
lập luận rằng kể chuyện mình tức là "đổ đốn". Nói "cái tôi" là đáng ghét, là bỉ
ổi, thời còn nói đến làm gì. Tác giả nói đến những cái khác. Cái khác đó là
chuyện người đàn ông đã có vợ rồi, chuyện con chó mực, chuyện thằng say và
cuối cùng không dám viết cái gì nữa, bởi vì viết chuyện gì cũng bị chạm kể cả
chuyện "buồng cau, cây chuối, cục đất, buổi hoàng hôn hay con lợn. Nhưng
biết đâu đấy?...Tôi sợ có người lại nhận mình là buồng cau, cây chuối, cục
đất, buổi hoàng hôn hay là con lợn để mà không bằng lòng. Bởi thế, tuy chẳng
muốn, tôi đành lại lấy tôi ra mà viết để cho yên chuyện”.
Rõ ràng là có một cách lập luận, một cấu trúc vòng tròn phát triển.
Truyện Cười cũng có một sự vận động tương tự. Mọi diễn biến xoay quanh
cái trục lập luận là phải cười "cứ cười đi, cười nhiều đi". Truyện Cái mặt
không chơi được xoay quanh chính cái tiêu đề ấy mà phát triển qua nhiều tình
huống, nhiều thời điểm trong cuộc đời...
51
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Trong truyện ngắn Nam Cao, thời gian không phải là yếu tố chi phối
tâm lý nhân vật và cốt truyện, mà tâm lý nhân vật luôn vận động đẩy câu
chuyện tiến tới. Nhân vật luôn suy nghĩ tính toán lật đi lật lại rồi hành động.
Mạch truyện phát triển trên mạch tâm lý. Tâm lý diễn ra trước, hành động
diễn ra sau nhuần nhuyễn kết hợp rất tài tình làm cho người đọc thấy tính
cách nhân vật hiện lên rõ, không thấy chỗ nào là gượng ép là áp đặt, không
thấy đâu là bàn tay sắp đặt của tác giả. Tâm lý gợi tâm lý, tâm lý gợi liên
tưởng, suy diễn, tâm lý thúc đẩy hành động, và kết thúc truyện bao giờ cũng
là kết thúc bất ngờ, lúc tâm lý nhân vật được dần đẩy lên đến đỉnh cao nhất,
được cường điệu hoá cao nhất, được xô đẩy dồn nén dưới một áp lực quyết
liệt nhất thì nhân vật hành động và kết thúc.
Chẳng hạn "Anh đĩ Chuột rít hai hàm răng lại. Hai chân giận dữ đạp
phắt cái ghế đổ văng xuống đất. Cái tròng rút mạnh lại. Cái bộ xương bọc da
giãy giụa như một con gà bị bẫy, sau cùng, nó chỉ còn giật từng cái chậm dưới
sợi thừng lủng lẳng"(Nghèo).
Anh đĩ Chuột treo cổ tự tử chết một cách dữ dội. Mọi chi tiết trước đó
trong truyện như những sức ép tâm lý ngày càng tăng lên, mãnh liệt như nước
dâng, như lửa cháy, khiến cho anh không thể nào hành động khác được. Anh
ta quyết liệt cho đầu vào thòng lọng và giận dữ đạp phăng ghế. Cái chết của
Chí Phèo, của lão Hạc cũng dữ dội như vậy.
Trong truyện Đón khách, tuy tình huống là vui vẻ, nhưng mạch tâm lý
được tích tụ ngấm ngầm, đầy ứ lên và uất nghẹn ở kết thúc truyện. Trước
mâm cơm Tết “cơm trắng, cá ngon, giò đầy mâm, bánh chưng rền lắm”, cả
nhà ngồi lặng im. “Ông Đồ cứ nghẹn luôn mãi, đôi mắt ông ầng ậc nước mắt.
Uất quá, ác quá mà không nói ra được”. Truyện kết thúc gây một ấn tượng rất
mạnh trong lòng người đọc và một dư vị lâu dài làm cho người đọc phải suy
nghĩ.
52
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Không phải tất cả mọi truyện ngắn của Nam Cao đều có một cấu trúc rõ
nhưng lại dễ nhận thấy một mạch lập luận ngầm, dù là trong một đoạn văn,
hay một cảnh hoặc trong cấu trúc cả truyện. Ví dụ: "...Có giời biết đấy; quả
thật Sinh không ác. Nhưng mà Sinh nhẹ dạ. Ấy là cái tật chung của những
người trẻ tuổi. Vả lại Sinh vẫn tưởng không đời nào lại có những người ngớ
ngẩn như thế được. Vẫn biết ông Đồ tính thật thà. Nhưng còn bà cụ nữa chứ.
Bà phải hiểu rằng Sinh đùa cợt, có ai ngờ bà Đồ cũng lẩn thẩn như ông Đồ
nốt. Bởi thế, mới đầu năm mà hàng xóm đã được một mẻ tức cười. Nhưng nói
thế thì ai hiểu. Truyện phải kể có đầu, có đuôi. Vậy đầu đuôi như thế này...".
Trong suy nghĩ của nhân vật hoặc trong chuyển mạch truyện Nam Cao
hay dùng những từ ngữ của văn nghị luận: “quả thật”, “nhưng mà”, “vả lại”,
“bởi thế”, “vậy”, “nên”, “thế mà”...Điều đặc sắc là tuy có sự lập luận như vậy,
nhân vật phải cảm nghĩ như vậy, câu chuyện phải tiến triển như vậy, không
khác đi được.
Khi xây dựng cốt truyện tâm lý thì không thể không nói tới việc Nam
Cao thể hiện rất tài tình và chân thật tâm lý người nông dân, những người
nghèo khổ và người trí thức tiểu tư sản trước Cách mạng tháng Tám. Cuộc
sống của họ ngột ngạt, bế tắc, đói khổ dằn vặt triền miên. Tâm hồn họ luôn
cuồn cuộn những cơn bão, những xung đột bi kịch. Họ khao khát sống có ích,
sống tốt, sống lương thiện, sống với ý nghĩa đích thực một con người. Nhưng
xã hội cũ không cho họ được quyền sống như vậy. Hoặc họ phải cam chịu (Dì
Hảo, Ở hiền) hoặc phải dũng cảm, quyết liệt tìm lấy cái chết (Nghèo, Lão
Hạc, Lang Rận, Chí Phèo), hoặc bị tha hoá, hoặc âm thầm khóc cười. Nam
Cao không đem đến một chút ánh sáng nào cho nhân vật của mình. Duy nhất
có một lần, trong truyện (Điếu văn), Nam Cao tin tưởng: "Tương lai phải sáng
sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi. Một mặt trời mới sẽ mọc lên..." và nhà
văn "lờ mờ thấy sự sụp đổ gì sắp tới" của cái xã hội cũ trước Cách mạng
53
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
tháng Tám. Đọc Nam Cao ta không tìm thấy những rung chuyển lớn lao của
một xã hội trước Cách mạng, không có những trang phản ánh bối cảnh lịch sử
đang vận động mà dường như chỉ có một mạch tâm lý chung vận động qua
nhiều tình huống hoàn cảnh, ở một loại nhân vật mà ông thường gọi trống
không là" hắn" hoặc "y", "thị", dù cho Nam Cao có gọi riêng ra thành tên hẳn
hoi hoặc chỉ gọi trống không như vậy.
Ở nhiều truyện ngắn, trong những cái kết, cái chết luôn hiện hữu, có cái
chết vì no của bà cái Đĩ, cái chết trong quằn quại vì ăn bả chó của lão Hạc.
Cái chết vì xấu hổ của lang Rận và mụ Lợi, cái chết giữa tỉnh và say của Chí
Phèo và hai cha con nhà Thiên Lôi, có cái chết nhẫn nhục câm lặng của anh
Phúc trong Điếu văn và cái chết giấu giếm vợ con của người cha đau ốm
trong Nghèo...Những cái chết vì bần cùng hoặc khùng điên, còn trong tiểu
thuyết Sống mòn thì là "chết ngay trong lúc sống". Cái chết cũng là cách giải
quyết, để thay đổi tình trạng túng quẫn, ngột ngạt, để giải thoát cho nhân
phẩm nhưng không phải vấn đề nằm ở đó, mà là vấn đề khác được đặt ra:
Làm sao để con người ta được sống, để được hạnh phúc, để được giải phóng
về năng lực người, để được gần nhau hơn mà không phải tìm đến cách giải
quyết bần cùng kiệt quệ và đau khổ nhất là cái chết. Như vậy những vấn đề về
con người phải được thực hiện khi con người còn sống, đang sống, đang tồn
tại trên thế giới này. Và vì ai hay cái gì, điều gì được cái quyền đẩy con người
vào đường chết. Câu trả lời là không ai hay điều gì có thể huỷ hoại được cuộc
sống con người, vì con người là thiêng liêng nhất. Chính con người và chỉ có
con người, cùng với việc thiết lập những môi trường, những mối quan hệ
thuận lợi giữa người- người với nhau thì mới tạo lập được những điều tốt đẹp
và có ích. Không ở nơi đâu bằng trong chính môi trường của mình mà con
người được hạnh phúc. Vấn đề này có thể cho người tiếp nhận tác phẩm Nam
Cao hiểu được những sáng tác cũng như cuộc đời tác giả ở thời kỳ sau Cách
54
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
mạng. Khi một cuộc Cách mạng nào đó diễn ra sẽ có sự thay đổi, biến chuyển
mối quan hệ giữa người và người. Với một nước chiến đấu chống kẻ thù trong
tình trạng còn nghèo nàn về kinh tế và những mối ràng buộc xã hội cũ thì việc
chiến đấu đó đã là một bước ngoặt cực kỳ to lớn và quan trọng trong việc thiết
lập những mối quan hệ mới, trong đó mối quan hệ con người - con người là
cơ bản và tối thượng. Một mối quan hệ giữa con người mới được xác lập và
đem lại cho nhiều người niềm tin tưởng cuộc sống, trong đó có Nam Cao. Vì
vậy nhà văn không ngần ngại và khó khăn gì trong việc nắm bắt lấy đầu mối
quan trọng đó để viết nên những tác phẩm mang đầy sức sống mới, có thể nói
nhà văn đã nắm bắt được vấn đề bản chất của cuộc sống và đặc biệt là những
điều về con người. Chính vì vậy những sáng tác của ông sau này có vô số
những con người không chỉ nghĩ, nhận thức mà còn hành động cực kỳ hăng
hái cho những điều tốt đẹp có thể mang lại niềm tin mới cho cuộc sống con
người.
Trong truyện ngắn trước Cách mạng nói riêng và sáng tác trước Cách
mạng nói chung, giữa hai mạch hành động và tâm lý trong những truyện viết
về người trí thức nghèo thì mạch tâm lý nối tiếp liên tục và chặt chẽ hơn, chi
phối cả mạch hành động. Do đó, đường dây cốt truyện được hình thành theo
một kiểu cấu tạo riêng. Ở loại truyện này Nam Cao không chú ý xây dựng cốt
truyện hoàn chỉnh, có đầu có cuối, sự kiện và hành động phát triển theo một
mạch khép kín. Nam Cao chú ý đến những trạng thái tâm lý do mọi cảnh ngộ
tạo nên, trạng thái tâm lý mang ý nghĩa tiêu biểu điển hình cho một loại tính
cách và hoàn cảnh xã hội. Từ trạng thái tâm lý ấy một đường dây cốt truyện
theo kiểu kết cấu liên hoàn được hình thành phù hợp: Cười, Nước mắt, Đời
thừa, Trăng sáng, Mua nhà, Quên điều độ, Cái mặt không chơi được...được
xây dựng theo hướng đó. Dường như chỉ có một nhân vật phát triển từ truyện
này sang truyện khác và mỗi truyện là một cảnh ngộ của họ, một cảnh ngộ cụ
55
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
thể để bộc lộ một trạng thái tâm lý của tính cách, ở những cảnh ngộ này ông
khai thác tính tương phản, đối lập của cảnh sống. Mâu thuẫn tâm lý chán nản
bực dọc và lối giải thoát (Cười), giữa sự thực cảnh sống vất vả của cảnh sống
gia đình và tâm trạng lãng mạn thi vị hoá của người trong cuộc (Trăng sáng),
giữa nội dung ý tưởng và chủ định với hình thức biểu hiện (Cái mặt không
chơi được), giữa cái có được về phần người này là do mất mát phần người kia
(Mua nhà). Thông thường truyện của Nam Cao “được xây dựng theo một lối
kết cấu bề ngoài có vẻ rất phóng túng, tuỳ tiện mà thực ra rất chặt chẽ, không
thể phá vỡ, tháo gỡ nổi”[ 33, tr.31].
Trong truyện ngắn Từ ngày mẹ chết, dòng suy nghĩ miên man của cô bé
Ninh cứ diễn ra hết ngày này sang ngày khác, suy nghĩ của Ninh về nỗi đau
mất mẹ. Nhưng càng ngày Ninh nhận ra rằng hai chị em còn đứng trước nguy
cơ mất bố (bố Ninh vẫn sống nhưng tâm hồn tình cảm dần dần không dành
cho hai chị em nữa). Ninh từng khóc rất nhiều, khóc đến lúc tự nhiên không
thể khóc được nữa nhưng một ngày kia khi biết bố mình không còn là người
bố tốt nữa thì Ninh khóc rất to, khóc vì nhớ người mẹ đã từng hết lòng vì hai
con và gia đình.
Điều mà làm cho cốt truyện thật mạch lạc lại không phải chỉ thể hiện ở
những sự kiện ấy mà biểu hiện ở bức tranh tâm hồn của một đứa trẻ thơ. Sự
sống và những sự việc của cuộc sống diễn ra không ngừng, với Ninh mỗi
ngày trôi đi không sáng sủa hơn mà ngày càng tối đen đi. Tâm hồn đứa trẻ chỉ
còn chỗ dựa duy nhất là những ký ức về mẹ, ký ức đẹp xen lẫn hiện tại khổ
cực mòn mỏi. Ninh bị quá sức với những điều đó. Đáng lẽ một đứa trẻ cần
phải được yên vui về mặt tâm hồn để hưởng thụ cuộc sống. Nếu Nam Cao
không đặt mình vào một tâm thế trạng thái của một đứa trẻ thì không thể nào
viết hay được như vậy, nhà văn đã sống thật cùng nhân vật, đặt điểm nhìn từ
bên trong và như hoá thân vào nhân vật. Tại sao bu Ninh cứ bảo đàn ông
56
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
chẳng mấy ai biết thương con cái! Ninh thấy thầy thương Ninh lắm, thầy lo
từng tý cho hai chị em. Ấy vậy mà lời mẹ nói thành sự thật, chính thầy là
người chơi bạc, xóc đĩa mà phải bán cả nhà đi.
Trong truyện, thời gian bắt đầu ở hiện tại rồi nhanh chóng trôi về quá
khứ để tái hiện hồi ức, rồi lại quay lại hiện tại, cứ thế đan xen nhau. Ở hiện tại
thì có lo lắng sợ hãi đan xen với quá khứ vui thì ít, nhưng buồn nhiều. Sự
sống cứ âm thầm, đem đến bao âu lo với một đứa trẻ khiến tâm hồn nó không
còn được thoả sức bay bổng vào thế giới nội tâm trong lành nữa, chỉ cần một
tác động nhỏ, một điều gì đó không tốt đẹp đến chạm vào tâm hồn ấy cũng đủ
sức làm nó sụp đổ và lại tìm về, hy vọng sự cứu cánh của những kỷ niệm, hồi
ức.
Chính sức sống của các chi tiết rất chân thực trong tác phẩm đã cho bạn
đọc thấy cuộc sống phải diễn ra như thế, như nó vốn có, chi tiết nọ gợi ra chi
tiết kia chứ không phải nhà văn muốn sắp đặt như thế đã tạo ra một mạch văn
xuyên suốt. Tác giả như nhập thân vào nhân vật đón nhận mọi đổi thay của
cuộc sống, trải nghiệm những kỷ niệm buồn và như cất tiếng khóc cùng đứa
trẻ vậy.
So với những nhà văn sáng tác truyện ngắn cùng thời, cấu trúc truyện
ngắn Nam Cao có nhiều nét khác lạ và mới mẻ. Truyện ngắn Thạch Lam gần
với thơ (Cô hàng xén, Dưới bóng hoàng lan, Hai đứa trẻ), truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan gần với kịch (Kép Tư Bền, Đào kép mới, Ngựa người và
người ngựa)... Còn truyện ngắn Nam Cao là một dòng xám buồn của chất văn
xuôi- đời thường.
Nguyên tắc về cái chốc lát trong truyện ngắn, hoặc luật thắt nút, mở nút
dùng để xây dựng thể truyện ngắn cũng bị phá vỡ căn bản. Cấu trúc truyện
thường nương theo trục thời gian, dõi theo cuộc đời nhân vật hoặc một chặng
dài của cuộc đời. Theo nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh, có thể khái quát ba loại
57
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
hình cấu trúc, ba kiểu dẫn truyện quen thuộc của Nam Cao: Cấu trúc theo số
phận nhân vật (Chí Phèo, Nửa đêm, Dì Hảo, Điếu văn), cấu trúc theo tâm lý
nhân vật (Trăng sáng, Đời thừa, Những truyện không muốn viết) hoặc cấu
trúc quanh một triết lý, một tính cách (Ở hiền, Tư cách mõ, Nhỏ nhen).
Nét tạo nên sự độc đáo trong sáng tác Nam Cao là kiểu kết cấu phức
hợp, có sự đan cài nhiều kết cấu khác nhau trong tác phẩm tạo nên "truyện
trong truyện", dồn chất tiểu thuyết vào trong khuôn khổ thể loại, chỉ bó gọn
trong đề tài hẹp mà tư tưởng lớn, có ý nghĩa khái quát, triết lý sâu sắc. Truyện
Lão Hạc là một ví dụ.
Tác giả cứ viết về những cuộc đời nhỏ mọn tầm thường, cứ viết về
những truyện vặt vãnh, tủn mủn không đâu của đời thường tẻ nhạt, ngán
ngẩm này thôi, thế mà nó có thể dằn vặt cuộc đời, có thể làm đau tất cả chúng
ta. Bởi dưới ngòi bút của Nam Cao cái nhỏ nhặt nhất không đâu vụt trở nên
thăm thẳm, cái hàng ngày dễ quên lại chứa đựng cái muôn đời, phát hiện càng
sâu sắc bao nhiêu lại càng truyền cảm bấy nhiêu. Viết về cái tầm thường mà
làm sống dậy những ý nghĩa không thể xem thường.
Mạch truyện của Lão Hạc được tác giả tổ chức theo các logic quanh co
quen thuộc và tự nhiên trong nhận thức của nhân vật ông giáo. Cứ "ngộ nhận"
rồi "vỡ lẽ", rồi lại "ngộ nhận" để rồi cuối cùng kết thúc bằng một "vỡ lẽ"
muộn màng hụt hẫng. Nam Cao lại dựng được một cấu trúc cảm hứng- ý
tưởng đa tầng để mạch truyện tải được trọn vẹn đến ba cảm hứng lớn, khiến
câu chuyện đơn sơ mà có sức chứa, sức nén không ngờ: Vừa triết luận về vấn
đề nhìn đời bằng đôi mắt tình thương: “Chao ôi! Đối với những người quanh
ta, nếu ta không có mà tìm hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần
tiện, xấu xa, bỉ ổi...toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy
họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương”; vừa triết lý về
kiếp sống cực nhọc của kiếp người: "Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp
58
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút(...) nếu
kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng? (...) chẳng kiếp
gì sung sướng thật ”; và thêm một cảm hứng nữa là khám phá những bí mật
của người nông dân Việt Nam.
Giáo sư Trương Chính đã nhận định "Truyện Lão Hạc là một bức tranh
thu nhỏ về đời sống nông dân, thời gian từ cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai
đến trước Cách mạng tháng Tám" [33, tr.285]. Vấn đề có ý nghĩa xã hội lớn
nhưng cũng có những vấn đề rất riêng đó là câu chuyện tình cha con. Truyện
có một mạch chìm: Đây là câu chuyện cảm động, day dứt về một lão nông
dân nghèo nhưng giàu lòng tự trọng đến khảng khái! So với những hình tượng
khác như Lộ (Tư cách mõ) bà lão (Một bữa no), Chí Phèo (Chí Phèo), Hộ
(Đời thừa), Thứ (Sống mòn) thì lão Hạc không chịu quỵ ngã dù bị cái nghèo
cái đói và nguy cơ sa đọa về nhân phẩm đe dọa.
Là người đòi hỏi rất cao về việc luôn luôn đổi mới, sáng tạo trong văn
chương, Nam Cao đã đem lại sự cách tân to lớn, sâu sắc trong văn xuôi Việt
Nam đang trưởng thành nhanh chóng theo hướng hiện đại hóa. Có điều là mặc
dù đổi mới táo bạo, truyện của ông lại không hề có dáng vẻ độc đáo gì đặc
biệt ở bề ngoài mà thường rất mực dung dị, tự nhiên, hết sức gần với đời sống
thực bình thường hàng ngày xung quanh. Song đó là sự dung dị tự nhiên chỉ
có thể có ở một cây bút già giặn bậc thầy. Một số truyện ngắn như Cười,
Quên điều độ, Đời thừa…không có một cốt truyện đầy kịch tính, éo le, ly kỳ,
không có những diện mạo, ngôn ngữ, hành vi độc đáo đọc một lần làm nhớ
mãi.
Cốt truyện Đời thừa khá đơn giản, có thể nói là xoàng xĩnh. Chuyện
diễn ra trong một không gian hẹp: có hai vợ chồng hay va chạm vì cảnh
nghèo, nhưng không có gì gay gắt và không gây biến cố gì đáng kể...Song từ
những chuyện dường như tầm thường trong sinh hoạt gia đình hàng ngày ấy,
59
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
nhà văn đã đặt ra những vấn đề mang ý nghĩa xã hội, nhân sinh to lớn, sâu
sắc, vừa là những cảnh đời rất thực, rất quen thuộc, vừa đầy ắp suy nghĩ, tư
tưởng. Đạt được như vậy chính vì nhà văn đã sống hết sức sâu sắc cuộc sống,
đã quan sát, mổ xẻ, suy ngẫm về tất cả những gì trải nghiệm. Câu chuyện Đời
thừa chỉ xoàng xĩnh thế thôi, nhưng bao vấn đề hệ trọng trong đời sống tinh
thần thời đại đã được đặt ra một cách đầy ám ảnh: cá nhân và xã hội, lý tưởng
và hiện thực, nghệ thuật và tình thương, nhân cách và hoàn cảnh.
Một số truyện ngắn của Nam Cao có kết cấu để ngỏ. Điểm mở đầu và
điểm kết thúc của trần thuật không phải bao giờ cũng trùng hợp với điểm mở
đầu và kết thúc của cốt truyện.
Ví dụ, trong những sáng tác dân gian, nói chung là có sự trùng hợp đó.
Truyện Cây khế bắt đầu khi cha mẹ chết sớm, hai anh em chia gia tài, người
anh giành hết của cải, chỉ để cho em có một cây khế và kết thúc bằng cái chết
của người anh tham lam. Đó là kết cấu khép kín. Nhưng trong văn học viết
nói chung tình hình ngược lại. Tác phẩm thường mở đầu khi sự kiện đã xảy ra
rồi và kết thúc ở điểm khi sự việc chưa hoàn thành xong xuôi. Khoảng cách
khách quan từ điểm mở đầu trần thuật cho đến kết thúc trần thuật càng rút
ngắn thì tác phẩm càng có nhu cầu tăng cường các thành phần hồi thuật, hồi
tưởng bổ sung về các sự kiện xảy ra trước điểm mở đầu của trần thuật. Chẳng
hạn tiểu thuyết Sống lại của L.Tônxtôi, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, truyện
Chí Phèo của nhà văn cũng như vậy.
Việc xác định đúng điểm mở đầu và điểm kết thúc trần thuật có ý nghĩa
lớn để làm nổi bật chủ đề. Chẳng hạn mở đầu bằng Nhật đảo chính Pháp và
kết thúc bằng khởi nghĩa thắng lợi 1945, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi tập
trung thể hiện vai trò tổ chức, lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng tháng
Tám. Mở đầu bằng cái chết của viện trưởng Uxpenxki và kết thúc bằng việc
gạt bỏ một tên cơ hội muốn chiếm vị trí lãnh đạo nghiên cứu, rõ ràng tiểu
60
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
thuyết Thao thức của Crôn muốn biểu hiện vấn đề người kế vị lãnh đạo của
một viện khoa học. Cũng như vậy, mở đầu bằng việc “hắn vừa đi vừa chửi”
và kết thúc bằng cái chết bên xác kẻ thù trong truyện Chí Phèo, Nam Cao tập
trung biểu hiện một vấn để xã hội của nhân vật: niềm uất hận chưa được ý
thức, lòng khao khát mơ hồ muốn trở lại làm người lương thiện. Tác phẩm
không thể được mở đầu và kết thúc một cách ngẫu nhiên, tuỳ tiện, nếu như
muốn nâng cao tầm tư tưởng khái quát của nó.
Những kết thúc trong truyện ngắn trước Cách mạng của nhà văn
thường là bỏ ngỏ như vậy. Kết thúc không có hậu, kích thích trí tuệ đối với
người đọc và tạo cơ hội đồng sáng tạo của người đọc với nhà văn.
Kết thúc trong truyện Nghèo là cái chết của anh đĩ Chuột trong tiếng
đòi nợ:
“- Bu mày đâu?
Tiếng cái Gái rụt rè đáp lại:
- Bẩm bà, bu con đi vắng
- Đi vắng! Đi vắng mãi! mày về bảo con mẹ mày nội ngày mai trả tiền
không trả tiền tao thì tao đào mả lên đấy. Cái giống chỉ biết ăn không.
Anh đĩ Chuột rít hai hàm răng lại. Hai chân giận dữ đạp phắt cái ghế đổ
văng xuống đất. Cái tròng rút mạnh lại. Cái bộ xương bọc da giãy giụa như
một con gà bị bẫy, sau cùng, nó chỉ còn gật từng cái chậm dưới sợi thừng lủng
lẳng.
Ở ngoài ngõ, mẹ con chị Chuột vừa kêu vừa khóc vừa van lạy. Bà
Huyên nhất định bắt mẻ gạo mới đong để trừ sáu hào nợ chị Chuột vay từ hai
tháng trước cho chồng uống thuốc”.
Khi đọc xong cái kết này, bạn đọc sẽ âm thầm tự hỏi rồi cuộc sống hai
mẹ con chị sẽ đi về đâu, như thế nào khi người cha, người chồng mất đi. Chắc
chắn nỗi túng quẫn và mối nợ vẫn bám theo họ...
61
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Những mảnh đời như dì Hảo, Nhu sẽ phải cam chịu nhẫn nhục đến lúc
nào nữa, cuộc sống những đứa trẻ thơ sẽ thế nào, rồi lão Hạc, Chí Phèo, lang
Rận cũng đã chết nhưng không phải mọi vấn đề được giải quyết, cả Điền, Hộ
và những người nghèo khác sẽ phải đối mặt cuộc sinh nhai thế nào mà vẫn
giữ được mình... Bao vấn đề hiện thực vẫn đặt ra, như chất chứa, nhiều ngổn
ngang trong các sáng tác của ông.
Có thể nói, để viết truyện được hay và độc đáo, các nhà văn đều phải
phối hợp ăn ý được rất nhiều yếu tố, trong đó xây dựng cốt truyện kết cấu là
một yếu tố. Và để hoàn thành tốt công đoạn này nhà văn cần phải biết triển
khai các chi tiết, tình tiết, sự kiện. Trong các tác phẩm của mình, Nam Cao đã
triển khai các chi tiết, tình tiết, sự kiện bằng khả năng nắm bắt tâm lý nhân
vật.
2.3.2. Triển khai các chi tiết, tình tiết, sự kiện trong việc phản ánh
hiện thực và nắm bắt nội tâm.
Chất liệu cơ bản làm nên cốt truyện chính là các sự kiện có tác động và
ảnh hưởng đáng kể đến số phận và tính cách nhân vật. Trong đó, những sự
kiện quan trọng, tạo thành bước ngoặt trong cuộc đời nhân vật là các biến cố,
còn những yếu tố cụ thể tạo nên sự kiện được gọi là những tình tiết. Truyện
ngắn Chí Phèo của Nam Cao có cốt truyện là một hệ thống các sự kiện: Chí
Phèo ra tù và trở thành con quỷ dữ, quay trở lại sự kiện Chí Phèo làm thuê
cho nhà Bá Kiến, bị Bá Kiến đẩy vào tù vì ghen, rồi đến sự kiện Chí Phèo gặp
Thị Nở, cuối cùng Chí Phèo đâm chết Bá Kiến đòi lương thiện. Trong cốt
truyện, trình tự các sự kiện có thể bị đảo lộn chứ không nhất thiết phải theo
một trình tự nhất định như đời sống thật. Như ví dụ trên, tình tiết Chí Phèo
vừa đi vừa chửi của hiện tại đã được đưa lên làm mở đầu rồi sau đó mới đến
tình tiết Chí Phèo được sinh ra như thế nào trong quá khứ...Việc thay đổi như
vậy nhằm gây ấn tượng với người đọc hoặc làm bật lên tư tưởng chủ đề của
62
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
tác phẩm. Trong truyện ngắn này, chi tiết bát cháo hành mà Thị Nở nấu mang
đến cho Chí Phèo được coi là một trong những chi tiết đắt giá, có tầm quan
trọng lớn trong công việc thay đổi cái nhìn cuộc đời và khơi dậy tấm lòng
lương thiện của nhân vật này.
Kết cấu tâm lý khiến cho nhiều truyện của nhà văn không diễn biến theo
trình tự thời gian, không gian thông thường mà theo dòng tâm trạng nhân vật.
Do vậy mà các chi tiết, sự kiện, tình tiết cũng phải sắp xếp theo dòng tâm
trạng nhân vật.
Thông thường ở một tài năng tiểu thuyết thì sức mạnh tư duy tập trung
ở hình tượng nhân vật. Đọc Nam Cao, người ta có ấn tượng rõ rệt về các nhân
vật, tính cách, đồng thời lại cảm nhận sâu sắc cách nhìn của tác giả đối với
cuộc sống, tấm lòng của ông với con người. Ở Nam Cao có một sự kết hợp
hiếm có giữa năng lực quan sát miêu tả, nắm bắt những chi tiết của cuộc sống,
xây dựng những hình tượng, những bức tranh xã hội sinh động và một giọng
trữ tình kín đáo, thiết tha, vừa xót thương cho những người bất hạnh, vừa
chua chát trước điều nhố nhăng, vô nghĩa, luôn khát khao sự thay đổi hướng
về cái nhân bản, tốt đẹp.
Độc giả khi đọc và cảm nhận tác phẩm của Nam Cao hẳn không thể
quên được sức thu hút từ những chi tiết rất chân thực.
Trong truyện Nghèo, các chi tiết, tình tiết nói về cái nghèo liên tục xuất
hiện, chi tiết “chè” mà bọn trẻ nhỏ nghe thấy mẹ nói là sắp được ăn đấy lại là
“cám”, không phải chè ngọt mà là cám ăn khé cả cổ họng, từ đó gợi đến cảnh
sống lôi thôi lếch thếch của nhà nghèo đói: “Chị vừa lẩm bẩm, vừa dập lửa
với bắc cái nồi ở trên bếp xuống, lấy một cái vỏ trai múc vào mấy cái bát sành
sứt mẻ lung tung, đặt ngay trên mặt đất. Thằng cu Bé vội vàng lê xích lại gần,
hai mắt lấp lánh đổ dồn cả vào mấy bát “chè” màu nâu đục...
63
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
(...)Thằng cu chừng đói quá không chịu được, lại há mồm ra. Mẹ nó đút
cho nó một sêu nhỏ nữa. Nó nhắm mắt, duỗi cổ, cố nuốt cho trôi. Nhưng cũng
như lần trước, nó lại oẹ ra và khóc ào lên. Chị đĩ Chuột lấy tay áo lau nước
mắt không cầm nổi đã trào ra hai má hõm xanh bủng như người ngã nước. Cái
Gái lấy tay di một cục “chè”. Rồi bỗng nói to lên:
- À! Con biết rồi! Không phải chè, cám mà! Cám mà bu bảo chè!...”.
Từ những điều ấy chắp nhặt lại, anh đĩ Chuột đã nghe thấy, hiểu được
cảnh mẹ con đang đói khát ngoài kia, còn mình ốm nằm đấy, rồi cái nghèo,
cải tủi hận, cái tức tối… cứ trào lên trong lòng anh. Những chi tiết, tình tiết cứ
trùng điệp xuất hiện sự kiện cuối truyện: Anh đã kết thúc sự sống của mình.
Cái cảnh nghèo đói đó là hiện thực chung của các gia đình nghèo đói thời kỳ
ấy.
Trong các tác phẩm văn học, chi tiết nghệ thuật mang sức chứa lớn về
cảm xúc, tư tưởng và có khả năng “nói” nhiều hơn bản thân nó.
Đọc Lão Hạc bạn đọc được biết đến một ông lão nông thôn nhân hậu
và giàu đức hi sinh đồng thời cũng thấy được tấm lòng của lão Hạc với con
chó Vàng. Không có con chó Vàng có lẽ truyện Lão Hạc không thể sâu lắng
và cảm động đến thế.
Dùng con vật như một đối sánh để khắc hoạ chân dung con người
không còn là một thủ pháp nghệ thuật xa lạ. Trở đi trở lại trong nhiều tác
phẩm Nam Cao, con chó đã thực sự là một tình tiết nghệ thuật đắt giá. Vậy
mà ám ảnh hơn cả vẫn là cậu Vàng của ông lão. Ở đây, con chó không chỉ
sắm một vai truyện, cậu Vàng còn như một phần của lão Hạc. Liệu có thể
hình dung đầy đủ về lão Hạc không, nếu thiếu đi con chó ấy?
Ông giáo trong truyện vô cùng quý những cuốn sách của mình, nhưng
với ông, sách chỉ là một kỷ vật về một thời đầy mơ ước, và cũng chỉ thế thôi!
Con chó Vàng với lão Hạc thì biết bao ý nghĩa. Nó là một tài sản (lão lẩm
64
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
bẩm quy ra tiền), một vật nuôi (định bụng lúc cưới thằng con sẽ thịt), nó còn
là kỷ vật của đứa con trai, một mối dây liên lạc lạ lùng giữa lão với đứa con
vắng mặt. Song, đặc biệt hơn hết nó là một thành viên trong gia đình lão Hạc.
Có một đứa con độc nhất thì đã bỏ lão mà đi. Sống cô quạnh trong một tuổi
già trống trơ, lạnh lẽo, lão có một nhu cầu rất tự nhiên: được làm cha, làm ông
nội. Bao nhiêu tình cảm chất chứa trong lòng, lão dồn hết vào con chó, lão coi
nó như một đứa con, rồi chăm chút cưu mang như một đứa cháu nội bé bỏng,
côi cút: lão bắt rận, lão tắm, lão trò chuyện âu yếm, lão gọi là "cậu Vàng như
bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự", lão mắng yêu, cưng nựng ...Cứ thế, ranh giới
của sự phân đẳng người - vật đã bị xoá nhoà tự bao giờ.
Khi đến với cái chết, lão tự đánh bả chính mình - tự chọn cho mình cái
chết thê thảm của một con chó. Đó cũng chính là cách lão tự chuộc lỗi với cậu
Vàng. Kết cục đến với lão Hạc là bị hai kẻ lực lưỡng đè lên lưng, lão rũ rượi,
sùi bọt, vật vã, còn con chó cũng bị thằng Mực và thằng Xiên đè lên. Con chó
luôn là bạn đồng hành chia ngọt sẻ bùi với ông lão, cũng chính nó ở bên cạnh
lão Hạc và làm nổi bật lên những đức tính cao cả nhất của lão - đức tính mà
không mấy ai có được.
Những ý nghĩa bạn đọc thấy được trong các truyện của Nam Cao thật
đặc biệt: Trước hết là do nhà văn có một quan niệm về cuộc sống: "Sống tức
là cảm giác và tư tưởng. Sống cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là
phần phụ. Có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động". Một quan niệm
về con người như thế đã chi phối thi pháp chủ nghĩa hiện thực tâm lý của
Nam Cao. Sự chú ý đặc biệt tới thế giới bên trong của con người đã thường
xuyên chế ước hứng thú nghệ thuật ngày càng tăng của nhà văn đối với tính
chất nhiều dự định của cá tính con người, động cơ nội tại của hành vi nhân vật
và quan hệ phức tạp của nó với hiện thực xung quanh.
65
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Đối với Nam Cao, cái quan trọng hơn cả trong nhiệm vụ phản ánh chân
thật cuộc sống là cái chân thật của tư tưởng, của nội tâm nhân vật. Xét cho
cùng, cái quan trọng nhất trong tác phẩm không phải là bản thân sự kiện, biến
cố tự thân mà là con người trước sự kiện, biến cố. Vì vậy, trong sáng tác của
nhà văn, hứng thú của những chi tiết tâm lý thường thay thế cho hứng thú của
chính bản thân các sự kiện, biến cố. Như một nguyên tắc, các sự kiện, biến cố,
tình tiết chỉ giữ vai trò "khiêu khích" các nhân vật để cho nhân vật bộc lộ
những nét tâm lý, tính cách của mình. Cho nên, trong Mua nhà, Nam Cao
không tập trung miêu tả sự việc mua được cái nhà gỗ rẻ mà tập trung xoáy sâu
vào những suy nghĩ dằn vặt, những ân hận, giày vò của nhân vật người kể
chuyện về tình trạng "hạnh phúc chỉ là một cái chăn quá hẹp. Người này co
thì người kia bị hở".
Đời thừa cũng không hướng ngòi bút vào việc miêu tả nỗi khổ áo cơm
mà tập trung thể hiện phản ứng tâm lý của con người trước gánh nặng áo cơm
làm mai một tài năng và xói mòn nhân cách. Trước khi bán một con chó mà
lão Hạc phải trải qua biết bao băn khoăn, day dứt, dằn vặt, và khi buộc phải
bán nó thì lão vô cùng ân hận, tột cùng đau đớn, tuổi già mà khóc hu hu như
con nít. Chí Phèo, con quỷ dữ của làng Vũ Đại, ăn trong lúc say, ngủ trong
lúc say, như là con vật sống trong vô thức, vậy mà sau lần gặp Thị Nở ở bờ
sông, Chí Phèo cứ "vẩn vơ nghĩ mãi". Còn Thị Nở, người đàn bà vô tâm có
cái tật đột nhiên muốn ngủ không sao chữa được, về nhà lên giường định ngủ
hẳn hoi mà vẫn không sao ngủ nổi…Nam Cao chẳng những miêu tả sinh động
những chi tiết, những biểu hiện tâm lý nhỏ nhất mà còn theo dõi, phân tích
quá trình tích tụ của chúng dẫn tới sự nảy sinh những phẩm chất mới trong
tâm hồn con người. Không chỉ dừng lại ở những khoảnh khắc, Nam Cao đã
miêu tả thành công những quá trình tâm lý của nhân vật. Ngòi bút của ông tỏ
ra có biệt tài trong khi miêu tả những trạng thái tâm lý phức tạp, những hiện
66
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
tượng lưỡng tính dở say dở tỉnh, dở khóc dở cười, mấp mé ranh giới giữa
thiện và ác, giữa hiền với dữ, giữa con người với con vật...Nam Cao đã khắc
phục được tính phiến diện, đơn giản trong việc miêu tả tâm lý nhân vật. Qua
ngòi bút của ông, tâm lý con người được thể hiện một cách phong phú, đa
dạng với nhiều sắc thái tinh vi.
Đôi khi, trong tác phẩm văn học, truyện có các sự kiện nhưng lại được
coi là "không có truyện". Nhiều tác phẩm của Nam Cao cũng được coi là
"không có truyện", từ đầu đến cuối truyện không có gì thay đổi, nếu có cũng
không có gì to lớn. Đời thừa, Cười, Quên điều độ...là những truyện như vậy.
Truyện ngắn Thạch Lam cũng được coi là không có truyện. Đó là
chuyện để mài sắc thêm cảm giác con người về cuộc sống. Thanh (Dưới bóng
hoàng lan) về với bà rồi đi để xác nhận cảm giác hạnh phúc. Nhà mẹ Lê xác
nhận tương lai đen tối của mười đứa trẻ mồ côi. Hai đứa trẻ với chi tiết cố
thức chờ con tàu chạy qua để xác nhận khát vọng ánh sáng và nhận rõ thêm
cuộc đời tối tăm chưa có lối thoát.
Nhà nghiên cứu A.Chuđacốp nghiên cứu truyện của A.Sêkhốp và nhận
thấy trong truyện ngắn của Sêkhốp sự kiện không ít hơn trong truyện của bất
cứ nhà văn nào, song người ta vẫn cho rằng truyện của ông "không có
truyện". Đó là vì thông thường sự kiện lớn phải cho kết quả lớn, thay đổi lớn,
nhưng các sự kiện trong truyện ngắn của ông thì tuy có diễn ra nhưng không
có kết quả, không làm thay đổi gì cả. Hiện tượng "không có truyện" của ông
đã nêu ra một sự kiện lớn của đời sống, đó là quan niệm về sự bất biến, không
đổi thay của thực tại.
Nhà văn Nguyễn Công Hoan lại có quan niệm rõ về biến cố trong
truyện của mình. Ông nêu câu hỏi: “Mọi việc xảy ra ở trên đời, khi nào thì nó
thành truyện? Có hai trường hợp, đó là khi sự việc bình thường sinh ra hậu
quả bất thường, hai là khi sự việc bất thường sinh ra hậu quả bất thường”.Như
67
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
vậy, đối với ông truyện phải cho hậu quả bất thường mới có ý nghĩa, mới
đáng viết thành truyện. Sự kiện trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan không
chỉ bất thường mà còn ngược đời, ngược đời một cách tồi tệ. Trước hết là sự
kiện ngược lại với lẽ phải thông thường, nó làm hiện lên một cuộc sống phi
đạo lý, phi lý.
Những nhân vật trong truyện Cười, Quên điều độ không thay đổi được
cuộc sống vốn đã rất nhàn tẻ của mình. Họ cũng có những triết lý sống cho
riêng mình, những triết lý khá độc đáo là cười và điều độ. Thường thì đó là
những biểu hiện khả quan để người ta có thể sống tốt hơn cuộc sống của
mình. Nhưng thực tế, đôi khi những điều đó lại làm hại cuộc sống của họ.
Cười và điều độ là những gì có thể huyễn hoặc được họ trong những thời khắc
nào đó để họ trốn tránh thực tế đang diễn ra. Nhân vật đưa ra mọi lập luận, lí
lẽ để được cười và thực thi kế hoạch điều độ.
Như vậy, việc triển khai các chi tiết, sự kiện để phản ánh hiện thực và
nắm bắt nội tâm có vai trò rất quan trọng trong truyện Nam Cao. Bên cạnh đó,
tác giả còn xây dựng tình huống độc đáo nhằm thử thách nhân vật.
2.3.3 Xây dựng tình huống độc đáo thử thách nhân vật - sức đột phá
của tình huống rất lớn.
Đối với nghệ thuật truyện ngắn, việc xây dựng tình huống truyện là một
khâu then chốt, nói như nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh thì "tình huống
giống như thứ nước rửa ảnh, nó sẽ làm nổi hình nổi sắc các nhân vật, bộc lộ
các số phận, tính cách, các tâm trạng, đồng thời làm bật nổi các vấn đề nhà
văn muốn đặt và tư tưởng ông ta muốn phát biểu" [33, tr.315].
Nhà văn cùng thời Nam Cao là Nguyễn Công Hoan rất giỏi sáng tạo ra
những tình huống trào phúng, đưa đến cho tác phẩm tiếng cười bất ngờ dựa
trên những nghịch lý của cuộc đời. Còn nhà văn Vũ Trọng Phụng đã xây dựng
trong truyện ngắn của mình những tình huống phản ánh sự đảo ngược những
68
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
lôgíc thông thường để giễu nhại tính chất vô nghĩa lý của cuộc đời, của con
người, trong đó hầu hết là những tình huống vô nghĩa lý có tính trào phúng.
Đặc trưng của truyện ngắn Nam Cao là truyện ngắn tâm lý, nổi bật là tình
huống bi hài kịch nội tâm.
Nếu tình huống truyện của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng
thường làm nảy sinh mâu thuẫn giữa nhân vật này với nhân vật khác thì trong
truyện ngắn Nam Cao thì tình huống truyện thường nảy sinh xung đột trong
nội tâm nhân vật. Cái tôi của nhân vật bị lưỡng hoá trở thành những tư tưởng
đối thoại và đối chọi nhau, tác giả thường đặt nhân vật của mình vào những
tình huống làm bộc lộ xung đột tư tưởng.
Tác giả đặt nhân vật vào những tình thế thử thách để lật tẩy những ý
nghĩa, những ham muốn phàm tục, những dối trá được che đậy, giấu kín.
Trong Quên điều độ, triết lý điều độ của nhân vật Hài: "Người điều độ
chính là người khôn ngoan" được đặt trong tình huống có cơ hội hưởng lạc
(Hài tình cờ gặp Thư, người bạn cũ. Thư mới Hài một tiệc rượu và một chầu
đi hát). Tình huống này đã làm cho tư tưởng thèm khát hưởng lạc và thái độ
giả dối của nhân vật Hài được bộc lộ một cách hài hước ở sự "quên điều độ".
Truyện tình là một trường hợp khác. Nhân vật chính của truyện là Lưu,
một cậu học trò ở nhà quê ra tỉnh học. Con người của thế giới hồn nhiên bình
dị này đã được tác giả đặt vào trong một tình thế có hy vọng bước sang một
thế giới khác, thế giới của những kẻ có lối sống kiểu cách, lãng mạn và giả
dối ở thành thị. Tình huống bi hài ở đây là những lời hứa hẹn của Kha, bạn
học của Lưu (một nữ học sinh con nhà giàu). Những lời hứa hẹn của Kha đã
làm cho Lưu hy vọng có được tình yêu của Kha. Nghỉ hè nhưng Lưu vẫn
không về quê, nói dối mẹ là ở lại học, nhưng thực ra là để được gần Kha, Kha
dạy đàn cho Lưu. Nhưng rồi những lời hứa của Kha chỉ là hứa hão, Kha bỏ
mặc Lưu ở nhà để đi chơi với những người bạn khác. Lưu vẫn biết là mẹ và
69
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
em đang mỏi mắt mong chờ, nhưng "vẫn đem ngày giờ quý hoá ăn cắp của
mẹ" để "phụng sự một con sáo, mua cái lồng mới đáng giá ba hào rưỡi và cho
thế là hạnh phúc...". Trong khi đó em Lưu ở nhà ốm nặng, sắp chết, người cậu
đến báo tin mới về thăm em thì đã quá muộn.
Truyện Cười khơi sâu vào đời sống nội tâm của người trí thức tiểu tư
sản. Cuộc sống nghèo với những lo toan cơm áo hàng ngày đã làm cho quan
hệ vợ chồng vốn rất thuận hoà, yêu thương trở nên căng thẳng bởi những bất
hoà vô nghĩa lý, ngu xuẩn. Nhân vật "hắn" trong truyện thường phải dùng
tiếng cười gượng gạo, thiểu não, tội nghiệp của mình như một "liều thuốc giải
uất".
Trong truyện Một đám cưới, Nam Cao đưa ra một tình huống là một
cảnh ngược đời. Nguyễn Công Hoan cũng rất "khoái" những tình huống
ngược đời để gây cười và châm biếm. Chẳng hạn, Thật là phúc mà thật là hoạ,
Một tấm gương sáng là một tấm gương tồi, Báo hiếu trả nghĩa cha, Báo hiếu
trả nghĩa mẹ là những chuyện đại bất hiếu, Đào kép mới là đào kép cũ, Xuất
giá tòng phu là tòng phu "xuất giá", Tinh thần thể dục là "phản tinh thần thể
dục"…Dưới ngòi bút Nguyễn Công Hoan, tất cả trở thành những tình huống
trào phúng. Ở Nam Cao thì khác, ông tạo nên cảnh ngược đời để càng làm nổi
bật số phận bi thảm và cái cay cực chua chát của những cảnh đời nghèo khổ.
Quên điều độ nói chuyện thèm ăn khát uống, Một bữa no để diễn tả cái đói
đến thê thảm của bà cái Tí, cũng như vậy Một đám cưới không phải để nói
chuyện sum vầy hạnh phúc mà để nói nỗi bất hạnh và sự chia lìa của bố con
cái Dần.
Đó là một đám cưới bất dắc dĩ, cưới vội vàng, bỏ hết mọi lễ nghi tối
thiểu: đám cưới mà như đám xẩm, cưới để bớt một miệng ăn, để trừ nợ, cưới
để lấy dăm đồng bạc làm vốn lên rừng...Sau đám cưới là sự tan rã của một gia
đình. Giá như Dần không bắt buộc phải cưới thì gia đình nhỏ của mấy bố con
70
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
lại sống hạnh phúc dù phải rau cháo nuôi nhau, miễn là không ai phải rời xa
ai. Đám cưới của Dần khiến người bố thấy đau buồn và cũng nghĩ liều một
thân một mình lên rừng làm ăn.
Trong truyện Lang Rận, nhân vật bị đặt vào tình huống túng quẫn, hai
con người nghèo khổ, xấu xí, bị đời khinh bỉ, tình cờ gặp nhau và có tình với
nhau. Mối tình ấy bị coi là hài hước và bị biến thành trò giải trí quái ác của
mấy kẻ quá buồn chán vì phải sống một cuốc sống quẩn quanh, đơn điệu, tẻ
nhạt và vô nghĩa. Kết cục là cái chết xảy ra với lang Rận vì quá xấu hổ, quá
túng quẫn. Những con người này không chỉ có nỗi khổ về vật chất, mà còn có
nỗi đau đớn về tinh thần do bị xã hội khinh bỉ, lăng nhục - một môi trường
tiểu tư sản thị dân ích kỷ, ngu xuẩn, vô nghĩa lý, sống quẩn quanh mòn mỏi,
mất dần nhân tính.
Trong văn Nam Cao xuất hiện rất nhiều những tình huống bất ngờ,
những tình thế đảo ngược và những yếu tố khác thường như là dấu hiệu báo
trước, là lý do của những gì sắp xảy ra. Vào cái buổi chiều Thị Nở đi ra sông
lấy nước để rồi ngủ quên bên vườn chuối nhà Chí Phèo, dẫn đến cuộc tình
duyên kỳ ngộ, Nam Cao viết:
"Chiều hôm ấy, Thị Nở cũng ra sông kín nước như mọi chiều. Nhưng
chiều hôm ấy, trăng lại sáng hơn mọi chiều, trăng toả trên sông và sông gợn
biết bao gợn vàng".
(Chí Phèo)
Một trong những đặc điểm nổi bật trong truyện ngắn Nam Cao là ông
sử dụng rất tài tình cả một hệ thống các tình huống truyện dưới dạng tình
huống nhận thức - lựa chọn gắn chặt với những tình huống tâm lý và trên cơ
sở miêu tả, lý giải mọi khía cạnh phong phú, phức tạp của quá trình này mà đi
sát vào thế giới tâm lý của con người, vào những đối thoại tư tưởng giữa nhà
văn với người đọc. Những tư tưởng triết lý, những quan điểm đạo đức, nhân
71
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
sinh ấy được cảm nhận từ hệ thống tình hình tượng, từ những rung động thẩm
mĩ. Nhiều nhà nghiên cứu văn học hiện đại cho rằng tính phức điệu trong văn
xuôi Việt Nam trước 1945 chỉ xuất hiện trong sáng tác của Nam Cao mà thôi.
Không ít truyện của Nam Cao vẫn khá đậm nét những chuyện kể nhưng
nhìn toàn thể thì có thể thấy rất rõ ông không đi tìm kiếm cốt truyện mà chủ
yếu là nêu ra những tình huống của đời sống, những hoàn cảnh.
Khác với Nguyễn Công Hoan khi đã có một tình huống thì "bắt vít"
nhân vật vào đó, đẩy nó tới một hành động mà tác giả đã lựa chọn, Nam Cao
đẩy nhân vật của mình vào một hoàn cảnh rồi để cho nó hành động trong
nhiều mối liên hệ nổi và chìm, có thể sẽ thế này mà cũng có thể khác (về mặt
hình thức) nhưng thực ra bắt nó phải nhận thức tình thế của mình và lựa chọn
con đường thoát ra khỏi tình huống đó như một tất yếu phải như thế.
M.Bakhtin khi nghiên cứu thi pháp của tiểu thuyết đã khẳng định:
“Hình thức nghệ thuật được hiểu đúng nghĩa không trình bày các nội dung có
sẵn, đã tìm thấy mà lần đầu tiên cho phép tìm thấy, trong cái nội dung ấy”. Có
thể nhận thấy điều này khá rõ ở các tình huống nhận thức - lựa chọn trong các
tác phẩm của Nam Cao.
Hầu hết các truyện của Nam Cao đều đặt nhân vật trước các tình huống
xảy ra nhiều cách lựa chọn, nhiều quyết định, nhiều lối thoát. Khi đã rơi vào
tình huống nào đó, nhân vật bắt đầu một quá trình liên tiếp của những nhận
thức hoàn cảnh, bản thân, đánh giá mọi khả năng có thể xảy ra và lựa chọn
thái độ ứng xử của mình. Mọi trạng thái, tâm lý của nhân vật đều được tác giả
phanh phui, lý giải đầy sức thuyết phục mà trong các nhà văn sau này có
chăng chỉ Nguyễn Minh Châu mới có thể tiếp thu được một phần kinh nghiệm
nghệ thuật của Nam Cao.
Trong hầu hết các truyện gắn với loại tình huống này như Một chuyện
Xú- vơ- nia, Đui mù, Nghèo, Truyện tình... chỉ tồn tại một tình huống nhận
72
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
thức - lựa chọn làm xương sống cho truyện và quá trình phát triển tâm lý của
nhân vật thường tương đối đơn giản, thuận chiều. Nhân vật, thường là sau khi
nhận thức được hoàn cảnh, hiểu đúng nó và cảnh ngộ của mình đã có một
quyết định khá chính xác, phù hợp với cả lôgic đời sống, lẫn đạo lý nhưng rồi
sau đó lại phải hối hận vì sự lựa chọn của mình. Nỗi ân hận ở đây không phải
vì mình đã sai lầm trong cái quyết định cuối cùng của sự lựa chọn mà là sự
thất vọng do đã phát hiện ra sự thật. Hàn trong Một truyện Xú -vơ-nia từ khi
phát hiện ra sự thật của một mối tình thơ mộng của mình đã hoàn toàn thay
đổi cả một quan niệm sống: "nó sửa đường cho một cuộc đổi thay. Rất nhiều
mộng mơ tan. Một chút thẹn thùng. Một chút lòng thương. Nhưng tình yêu thì
nhất định không còn nữa". Hàn, sau khi phát hiện ra sự thật đã đánh mất luôn
cả bản thân mình, không còn là mình. Tình huống truyện ở đây bề ngoài mang
màu sắc hài kịch nhưng bên trong chứa đầy tính bi thảm của cuộc sống con
người - cái bi kịch ấy nếu chỉ thoáng qua sẽ không thể phát hiện ra.
Hùng trong Đui mù ngẫu nhiên chứng kiến sự phản bội của người khác
đã phải dằn vặt rất nhiều trước khi quyết định kiểm tra lòng chung thuỷ của
người yêu. Thật trớ trêu những điều anh ta "phát hiện" ra lại quá trái ngược
với điều anh ta mong đợi. Thế là bắt đầu một bi kịch mới: bi kịch vỡ mộng.
Cách xử lý của anh ta hợp với lẽ phải thông thường, nó có sự tỉnh táo của lý
trí (chia tay với người yêu đã phản bội mình), nhưng trái tim thì vẫn âm thầm
rỉ máu, bi kịch của Hùng tới tầm khái quát hơn: "Tôi hối hận. Thà rằng tôi cứ
ở chúi xó thôn quê ấy để âm thầm ca tụng lòng chung thuỷ của Nga, thà rằng
tôi cũng đui mù như anh lính nọ lại được hoàn toàn sung sướng hơn là tìm
đến sự thực để thất vọng vì sự thực". Cũng như Hàn (Một truyện Xú-vơ-nia),
Hùng phải trả giá cho phát hiện của mình bằng cả một cuộc đời khác mà từ
sau lựa chọn ấy hạnh phúc trong tình yêu, sự yên tĩnh trong cuộc sống cũng
vĩnh viễn chấm dứt.
73
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Có những truyện xoay quanh một tình huống mà nhân vật chính hoàn
toàn tỉnh táo khi phân tích, đánh giá hoàn cảnh, nhận thức chính xác chỗ đứng
của mình, thậm chí biết được và hoàn toàn có khả năng để thoát ra khỏi hoàn
cảnh ấy nhưng lại lựa chọn một thái độ ứng xử ngược lại: đầu hàng hoàn cảnh
để tiếp tục bị đoạ đày, đau khổ và bị day dứt, vật vã vì sự đầu hàng ấy. Bằng
những khổ đau, thất vọng của mình khi phải chấp nhận sự lựa chọn ấy, nhân
vật phản tỉnh người đọc. Dì Hảo, Ở hiền, Đời thừa, Mua nhà, Sống mòn...có
kiểu tình huống này.
Trước khi lấy chồng Nhu chủ trương sống "hiền" - một cách ở hiền bản
năng, vô thức...Lớn lên, va chạm với cuộc sống, Nhu thấy người khác đâu có
ở hiền, chịu đựng hậu quả của cách ở hiền của mình, nhân vật bắt đầu tự vấn:
"Tại sao trên đời này có nhiều sự bất công đến thế? Tại sao ở hiền không bao
giờ cũng cũng gặp lành? Tại sao những kẻ hay nhịn, hay nhường thì thường
lại chẳng được ai nhường nhịn mình; còn những kẻ thành công thì hầu hết lại
là những người rất tham lam, chẳng biết nhường nhịn ai, nhiều khi lại xảo trá,
lọc lừa và tàn nhẫn, nhất là tàn nhẫn?...". Thông thường một khi nhận thức đã
được đào sâu đến thế thì nhân vật sẽ tìm cách để thoát ra khỏi tình huống ấy
bằng cách phản kháng lại hoàn cảnh. Nhưng nhân vật của Nam cao lại có
cách xử lý hoàn toàn khác: đó là cam chịu.
Ở Dì Hảo và Ở hiền tác giả đã chỉ ra cho nhân vật hàng loạt giải pháp
có thể lựa chọn: Nhu có thể không cho anh trai tiền đi chơi, có thể mắng con
ở, có thể không đi lấy chồng, có thể không cho chồng cưới vợ hai, có thể kiện
chồng tình phụ...và dì Hảo có thể hoàn toàn tự làm nuôi mình, sống thanh
thản hơn chứ không phải để chồng lấy tiền của mình uống rượu, lấy vợ bé và
đánh đập dì như đập vải, như đòn thù...Song mọi lối thoát ấy chỉ là các khả
năng mà người ngoài cuộc có thể lựa chọn chứ Nhu hay dì Hảo lại chọn cách
giải quyết bất ngờ nhất, phi lý nhất. Cách ấy phi lý với lôgic thông thường
74
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
nhưng nó phù hợp với lôgic hiện tại của nhân vật. Dì Hảo "biết giận dì" và
Nhu thì "đã vâng theo cái bản tính hiền lành" của mình, nghĩa là các nhân vật
của Nam Cao có cái lý của mình khi lựa chọn các giải pháp đang đặt ra trước
họ.
Qua các lựa chọn ấy Nam Cao nói với độc giả bao nhiêu chiêm nghiệm,
nghiền ngẫm về cuộc đời. Đâu cứ "ở hiền" sẽ gặp lành, đâu phải cứ "một điều
nhịn là chín điều lành", cái mặt trái của các quan niệm đã thành đường mòn
ấy trong đời sống trở nên cụ thể và nghiệt ngã biết chừng nào. Đây là một đối
thoại tư tưởng của nhà văn với bạn đọc mang tính triết học về đời sống rất ít
gặp trong văn học Việt Nam giai đoạn này. Nhưng những tình huống này
chưa phải là những tình huống bi thảm nhất trong truyện của Nam Cao bởi vì
dù sao nhân vật cũng còn được là mình hay ít nhất họ cũng còn được an ủi là
sự hi sinh cho người khác của họ là một hành vi đầy chất vị tha, dù sao nó
cũng còn được thông cảm, chia sẻ.
Ở một số truyện khác như Mua nhà, Mua danh, Tư cách mõ, Một bữa
no, Trẻ con không được ăn thịt chó... tính bi kịch đậm nét hơn nhiều.
Ở các truyện này nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, khôn ngoan hiểu rõ hoàn
cảnh biết rõ việc mình làm nhưng vì sức ép của hoàn cảnh lại buộc phải lựa
chọn cái điều mang tính phản đề của những gì họ đã nhận thức. Ở loại tình
huống này có thể thấy nhân vật xưng "tôi" trong Mua nhà bị đẩy vào một tình
huống thật khó xử. Anh ta đã lựa chọn cách giải quyết có lợi cho mình về mặt
vật chất nhưng tâm hồn anh ta mất sự yên ổn, sự lựa chọn ấy báo trước một
tương lai đầy u ám, nó chỉ ra trước một câu hỏi mà không tìm thấy câu trả lời
và kèm theo đó là một nỗi hối tiếc không nguôi.
Nhân vật vừa bào chữa, vừa kết tội mình. Mâu thuẫn không thể giải
quyết giữa cái lẽ phải thông thường của nhận thức với hành vi lựa chọn cách
giải quyết vấn đề của nhân vật lại đẩy nó vào một tình huống phải nhận thức-
75
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
lựa chọn tiếp nhưng phức tạp hơn. Nhiều tiếng nói khác nhau, nhiều đối thoại
tranh cãi của những quan niệm đạo đức, nhân sinh được - thua, hơn - thiệt,
đúng - sai...và chính điều này là yếu tố quan trọng nhất tạo nên tính chất phức
điệu của tư tưởng, sự phong phú của đời sống hiện thực trong truyện của Nam
Cao.
Trong một số truyện khác như Mua danh, Một bữa no, Tư cách mõ, Trẻ
con không được ăn thịt chó và một phần nào đó của Chí Phèo có tình huống
nhận thức, lựa chọn thay đổi về chất theo chiều ngược lại. Các nhân vật chính
ở đây sau khi đã nhận thức đầy đủ, chính xác hoàn cảnh đã tìm cách biện
minh cho sự tha hoá, cho việc đánh mất nhân cách với những lý lẽ khá thuyết
phục! Lộ từ một người "lành" như đất. Cờ bạc không, rượu chè không...ăn ở
phân minh...kẻ trên, người dưới, hàng xóm, láng giềng ai cũng mến... "bị biến
thành một thằng mõ"... cũng ti tiện, cũng lầy là, cũng tham ăn như bất kỳ một
thằng mõ thực thụ nào.
Khảo sát quá trình tha hoá của nhân vật Nam Cao chỉ ra rằng "lòng
khinh trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến nhân cách của người khác nhiều
lắm" và nhà văn cho rằng sự ti tiện của Lộ là một cách phản ứng lại hoàn
cảnh. Thực ra hoàn cảnh mới chỉ là một lý do, cơ bản nhưng không phải là
quyết định. Cái chính là nhân vật đã tự chọn cho mình con đường ấy, cách
sống ấy, qua nhiều khúc ngoặt, nhiều ngả đường quanh co để dẫn tới một sự
lựa chọn thật tồi tệ.
Lần đầu tiên nhận thấy những dấu hiệu khác thường trong cách ứng xử
của những người xung quanh với mình- một thằng mõ, Lộ "bắt đầu hối hận".
Nhưng nỗi hối hận ấy lại kèm theo một cái "tặc lưỡi" đầy thách thức (bề
ngoài) nhưng thực chất là thú nhận sự đầu hàng hoàn cảnh. Thua cuộc rồi
nhưng Lộ vẫn thấy "tấm tức" với người đời, xấu hổ với vợ, không dám nhìn
thị "làm như thị đã thấy cả cái việc nhục nhã vừa rồi"..."thở ngắn, thở dài",
76
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
định trả lại vườn cho "bõ tức". Nhưng rồi hắn tháy "tiếc" cái vườn (có được
nhờ cái danh mõ làng) và "tặc lưỡi" lần thứ hai "mặc chúng nó". Cái khoảnh
khắc này đánh dấu sự biến đổi về chất của quá trình nhận thức - lựa chọn ở
nhân vật "Muốn nói, ông cho chúng mày nói chán! Ông cần gì?" và Lộ hiểu
rằng con người ta không thể vừa làm người lương thiện, sống lương thiện mà
có được cuộc sống no đủ. Hơn nữa nhu cầu tồn tại còn lớn hơn nhu cầu giữ
gìn danh dự. Như thế việc Lộ lựa chọn là hợp quy luật(!) là khôn ngoan trong
hoàn cảnh ấy(!). Đúng là Nam Cao đã đi sâu vào tâm linh con người và qua
đó phản ánh được những vấn đề chung của con người.
Như vậy tình huống nhận thức - lựa chọn trong các truyện loại này đều
mang đậm tính bi kịch nhưng bi kịch của lang Rận khác với bi kịch của Lão
Hạc, của Hộ tuy cái chết kết thúc cuối cùng của Lang Rận cũng mang tính
chất cảnh tỉnh. Nó vẫn như tia sáng trong vương quốc tối tăm, loé lên dù chỉ
một lần để chứng minh nhân cách con người trong nhân vật ấy là có thật.
Tình huống nhận thức - lựa chọn có ý nghĩa quan trọng nhất trong
truyện của Nam Cao là nhân vật nhận thức, lựa chọn cách xử lý tình huống rồi
phủ nhận nó, rồi lại tiếp tục nhận thức, lựa chọn. Quá trình này diễn ra dai
dẳng, quyết liệt hoặc là ở bề mặt, hoặc là trong chiều sâu của đời sống tinh
thần của nhân vật chính, làm xương sống cho truyện. Quá trình nhận thức lựa
chọn của Chí Phèo (Chí Phèo) hết sức phức tạp quanh co. Trước mỗi tình
huống mới đặt ra nhân vật lại xem xét và gần như phủ nhận toàn bộ sự nhận
thức, lựa chọn trước đó của mình. Tuy rất ít khi nhà văn để cho nhân vật độc
thoại, đào sâu vào trong thế giới tâm hồn, tình cảm nhưng người đọc vẫn thấy
kết quả của sự nhận thức và lựa chọn ấy. Ở những nhân vật này trạng thái cảm
xúc bao giờ cũng mang màu sắc bi kịch: hờn tủi, buồn tẻ, nuối tiếc, sợ hãi,
căm giận…và sự lựa chọn bị đẩy lên đỉnh điểm. Chí Phèo sau khi ở tù về xách
dao đến nhà Bá Kiến ba lần mà mỗi lần mang màu sắc bi kịch khác nhau, lần
77
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
cuối hắn đến nhà Bá Kiến để kết thúc cuộc đời bằng cái chết đau đớn. Vấn đề
đặt ra là: con người luôn phải vật lộn không chỉ với hoàn cảnh mà vật lộn với
chính bản thân mình, không phải chỉ vì miếng cơm manh áo mà để sống cho
ra con người với những nhân phẩm của nó. Con người khi rơi vào những tình
huống đó thường phải chấp nhận một trong hai cách lựa chọn: con người giữ
được nhân cách nhưng phải trả giá bằng sự thua thiệt suốt đời, có khi bằng cả
mạng sống để đổi lấy nhân cách. Hoặc là nhân vật đánh mất nhân cách của
mình, trở thành những con người khác, bị tha hoá trở thành con vật người. Và
trên đời, không gì nguy hiểm hơn việc đánh mất bản thân mình, nhưng để níu
giữ nhân phẩm phải lựa chọn cái chết thật không khác nào một bước đường
cùng trong thế giới này.
Những loại tình huống trong truyện Nam Cao tạo tiền đề cho những đối
thoại tư tưởng - một khía cạnh quan trọng của chất triết lý trong truyện Nam
Cao, cho kiểu kết cấu tác phẩm độc đáo, tự nhiên, thích dụng nhất cho tư
tưởng của mình, cho cách thể hiện một thời gian và không gian nghệ thuật
đầy tâm trạng, gắn với con người trong những tình huống cụ thể chứ không
phải các quan niệm thời gian và không gian mang tính cơ học, không có khả
năng phản ánh được quan hệ của con người với tự nhiên và xã hội như trong
văn học cổ hay cả trong văn học đầu thế kỷ XX.
2.4. Tiểu kết
Nhà văn Nam Cao luôn bị ám ảnh bởi cái cảnh tượng cuộc sống vô lý,
những con người bị tha hóa, bị biến chất, bị hóa thành cái ngược lại với nó.
Con người không chủ động được cuộc sống của mình, không được sống như
mình mong muốn thậm chí là phải gồng mình lên để chống chọi với bao nỗi
khổ trong cuộc sống. Nam Cao muốn gửi gắm nhiều điều băn khoăn của mình
vào những trang văn và muốn được chia sẻ với bạn đọc. Trong tác phẩm,
Nam Cao đã xây dựng nhân vật người kể chuyện mang tiếng nói quan điểm
78
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
của ông về cuộc sống, con người, nghệ thuật, nhiều tác phẩm không quá gay
cấn li kỳ mà vẫn để lại nhiều ấn tượng, âm vang trong lòng bạn đọc. Chính vì
vậy mà ông không cầu kỳ trong việc xây dựng những cốt truyện, quan trọng
hơn cả là văn Nam Cao luôn chứa đựng những mạch ngầm xuyên suốt, tác
phẩm luôn sinh động như một cơ thể sống và bạn đọc vẫn có thể cảm nhận
được những suy tư của nhà văn về con người, cuộc đời.
Nhiều nhà văn cùng thời với Nam Cao đã sáng tạo ra nhiều tình huống
truyện rất độc đáo nhưng không có ai như Nam Cao đã khai thác kỹ tình
huống truyện dưới dạng những điều kiện để miêu tả chiều sâu của đời sống
tâm linh con người, để trình bày quan điểm của mình về đời sống dưới dạng
thẩm mĩ.
Như vậy, có thể thấy nghệ thuật tổ chức cốt truyện là nghệ thuật sắp
xếp các chi tiết, tình tiết, sự kiện, tình huống của kết cấu. Đó là sự thể hiện hài
hoà mối quan hệ giữa yếu tố nội dung là cốt truyện với yếu tố hình thức nghệ
thuật là kết cấu. Qua việc khảo sát các truyện ngắn của Nam Cao ta thấy
không phải truyện nào cũng có những cốt truyện hay kết cấu theo một khuôn
thước nhất định. Các yếu tố làm nên cốt truyện trong truyện ngắn của ông có
những đặc sắc độc đáo riêng được gắn kết với những nội dung, những quan
niệm, lý tưởng thẩm mỹ đã làm cho tác phẩm không bị quên lãng cùng thời
gian, mà trái lại, nó vẫn có sức hấp dẫn lớn với bạn độc hiện nay.
Bên cạnh việc khảo sát về điểm nhìn hay cốt truyện trong nghệ thuật tự
sự của truyện ngắn Nam Cao, luận văn còn nghiên cứu về giọng điệu hay
ngôn ngữ tự sự để thấy được ngôn ngữ và giọng điệu cũng là một phần tạo
nên sức hấp dẫn của các tác phẩm Nam Cao.
79
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
CHƢƠNG 3.
NGÔN NGỮ TỰ SỰ VÀ GIỌNG ĐIỆU TỰ SỰ
TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO
3.1. Giọng điệu tự sự trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách
mạng
Ta thường nói văn học là nghệ thuật ngôn từ, nhưng ngôn từ "không chỉ
bao gồm từ, mỹ từ. Trong tác phẩm văn học, câu văn phải có hồn (...) câu văn
có hồn là câu văn quan trọng nhưng bài văn không có giọng đọc nên vẫn nhạt
nhẽo vô vị. Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đà của bài văn trước hết là
ở giọng” [12, tr.61].
Như vậy, giọng điệu có vai trò hết sức quan trọng trong tác phẩm văn
học. Nó là "thái độ, tình cảm, lập trường đạo đức của nhà văn đối với hiện
tượng được mô tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng
từ, ca ngợi hay châm biếm (...). Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái
độ tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo
nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc" [10, tr. 91].
Có thể nói giọng điệu là một yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả
trong tác phẩm. Nếu như trong đời sống ta thường chỉ nghe giọng nói là nhận
ra con người, thì trong văn học cũng vậy. Giọng điệu giúp nhận ra tác giả. Có
điều giọng điệu ở đây không đơn giản là một tín hiệu âm thanh có âm sắc đặc
thù để nhận ra người nói, mà là một điệu mang nội dung tình cảm, thái độ,
ứng xử trước các hiện tượng đời sống. Nói như M.Khrapchenco đó là hệ số
tình cảm của lời văn được biểu hiện trước hết ở giọng điệu cơ bản. Theo
B.Brecht có thể hiểu giọng điệu trong kịch như một tư thế biểu cảm. Ông đã
nói về cái cử chỉ biểu cảm như cúi đầu, ngẩng đầu, khoát tay, ngoảnh mặt…
đều có ý nghĩa biểu cảm. Do đó, giọng điệu trong văn học không chỉ biểu hiện
80
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
bằng cách xưng hô, từng từ vựng, mà còn bằng cả hệ thống tư thế, cử chỉ biểu
cảm trong tác phẩm.
Giọng điệu có cấu trúc của nó. Sự thống nhất là giọng điệu cơ bản và
ngữ điệu tạo thành giọng điệu.
Nền tảng của giọng điệu là ảm hứng chủ đạo của nhà văn. V.Biêlinxki
từng nói: "Cảm hứng là một sức mạnh hùng hậu. Trong cảm hứng nhà thơ là
người yêu say tư tưởng, như yêu cái đẹp, yêu một sinh thể, đắm đuối và trong
đó và anh ta ngắm nó không phải bằng lý trí, lý tình, không phải bằng tình
cảm hay một năng lực nào đó của tâm hồn, mà là bằng tất cả sự tràn đầy và
toàn vẹn của tâm hồn mình, và do đó tư tưởng xuất hiện trong tác phẩm
không phải là những suy nghĩ trừu tượng, không phải là hình thức chết cứng,
mà nó là một sáng tạo sống động" [40, tr.133].
Vị thế của nhà văn cũng tạo ra giọng điệu. Nhà văn tự coi mình là ai thì
sẽ có giọng điệu thích hợp với vị thế đó. Nếu nhà văn có cảm hứng chính
luận, phê phán, bất mãn với thực tại thì anh ta sẽ có giọng điệu lên án, tố cáo,
lúc đó anh ta sẽ sử dụng biện pháp mỉa mai, châm biếm, giễu nhại. Yếu tố
hình thái, biểu hiện sự đánh giá của tác giả đối với phát ngôn của mình, cũng
là yếu tố quan trọng của hình tượng tác giả. Truyện đau thương đòi hỏi giọng
buồn, ngậm ngùi, truyện hài hước thì giọng đùa vui, giễu cợt…Bên trong cảm
hứng là thái độ của nghệ sĩ đối với đối tượng miêu tả và đối với người đối
thoại ở trong hay ngoài tác phẩm là chất giọng bắt nguồn từ bản chất đạo đức
của tác giả.
Các nhà nghiên cứu đã nói đến giọng điệu của L.Tônxtôi trong Chiến
tranh và hoà bình, một giọng điệu mềm mại tỉnh táo, đôn hậu của một người
vững tin vào đạo đức và chân lý. Giọng điệu của ông vang lên khắp nơi trong
tác phẩm của ông, ta nhận ra giọng của ông trong cậu Nicôlenca, trong
Anđrây, trong Lêvin, trong Nêkhiuđốp. Khác với giọng điệu của L.Tônxtôi,
81
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
một giọng điệu tự tin, độc thoại trong tiểu thuyết của Đốtxtôiépxki thể hiện
một giọng điệu đầy biến động, bất an, gấp gáp, truyền đạt một cảm nhận về
kịch tính của cuộc đời. Có người nhận xét là nhà văn trần thuật trong một
giọng điệu hoàn toàn xa lạ với ông và cái giọng thật của ông luôn tìm cách
xâm nhập vào giọng xa lạ ấy với tinh thần đối thoại. Đó là nét chân dung nghệ
thuật về nhà văn trong văn của ông.
M. Bakhtin, qua nhiều công trình nghiên cứu về thi pháp văn xuôi tự sự
đưa ra khái niệm đa âm (đa thanh) như một sự cách tân giọng trong văn học
tự sự. Ông cho rằng, giọng điệu bao giờ cũng thể hiện thái độ, lập trường, tư
tưởng của chủ đề đối với sự vật, hiện tượng được miêu tả. Một nhà văn tài
năng bao giờ cũng tìm được cho mình một giọng điệu riêng biệt, độc đáo
bởi giọng điệu là một trong những yếu tố tạo nên phong cách và dấu ấn
sáng tạo của người nghệ sĩ.
Tác phẩm văn học, xét đến cùng là một phát ngôn của con người về đời
sống, vì vậy giọng điệu cơ bản của một tác phẩm là sự bộc lộ các sắc điệu,
tình cảm của chủ thể phát ngôn nên không phải lúc nào trong tác phẩm cũng
có một giọng điệu thuần nhất, mà nó có thể bao gồm nhiều giọng điệu khác,
tuỳ thuộc vào mục đích phát ngôn của nhà văn.
Từ đó ta có các giọng điệu trong văn bản: là giọng điệu của người kể
chuyện, nhân vật trong truyện kể. Ta lại có giọng điệu ngoài văn bản với tư
cách như là giọng điệu của tác giả. Hai kiểu giọng điệu ấy có thể tồn tại trong
thế đối lập nhau, nhưng cũng có thể song hành cùng nhau. Sự đan xen, lồng
ghép giữa hai kiểu giọng điệu này cũng sẽ tạo nên tính chất đơn thanh hay đa
thanh, độc thoại hay đối thoại của tác phẩm, nó sẽ được kết nối với bạn đọc
khi bạn đọc tiếp nhận tác phẩm.
82
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Khảo sát những truyện ngắn Nam Cao trước Cách mạng, chúng tôi thấy
có sự kết hợp của nhiều giọng điệu đa dạng, tạo nên tính phức điệu trong
giọng điệu tự sự Nam Cao.
3.1.1. Tính phức điệu hoá
Đọc truyện ngắn Nam Cao ta thường gặp một giọng điệu đa âm mà ở
đó khi thì là ngôn ngữ nhân vật, khi thì là ngôn ngữ trần thuật của người kể
chuyện, có khi là lời đan xen của tác giả tạo nên những trang sinh động và
hấp dẫn. Hơn nữa tuỳ từng truyện có từng nhân vật mà ông điều chỉnh giọng
kể cho phù hợp. Có truyện Nam Cao gọi nhân vật như hắn, thị, y, Lý Cường,
Bá Kiến (Chí Phèo) dường như để giọng điệu trở nên khách quan của người
chứng kiến, hoặc gọi là Điền, Hộ (Trăng sáng) giọng kể vừa khách quan
nhưng lại thấp thoáng lối tự truyện của tác giả. Khi thì là anh Cu, chị Cu, chị
Cu Thiêm (Thôi đi về), lão Hạc (Lão Hạc) mang giọng kể giữ khoảng cách
nhân vật - người kể nhưng không phải là khoảng cách lớn, vừa xót xa, nể
trọng.
Có điều Nam Cao kể bằng suy nghĩ nội tâm của chính mình hoà với ý
thức của nhân vật và luôn thay đổi điểm nhìn trong giọng kể. Ông nhập vai
vào nhân vật rất nhanh và đổi vai cũng rất nhanh. Chẳng hạn, trong truyện
Chí Phèo, Nam Cao vừa đứng ở vai người kể, vừa nhập vai vào người nghe
(dân làng Vũ Đại, Chí Phèo, Thị Nở) làm cho truyện sinh động.
Nhập vai mà không đổi giọng kể (giọng kể không phải giọng văn) là
nét chủ đạo trong giọng kể Nam Cao:
" Có giời biết đấy: quả thật Sinh không ác. Nhưng mà Sinh nhẹ dạ. Ấy
là tật chung của những người trẻ tuổi. Vả lại Sinh vẫn tương không đời nào có
những người ngớ ngẩn như thế được. Vẫn biết ông đồ tính thật thà, nhưng còn
bà cụ chứ! Bà phải hiểu rằng Sinh đùa cợt. Có ai ngờ bà đồ cũng lẩn thẩn như
83
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
ông đồ nốt. Bởi thế, mới đầu năm mà hàng xóm đã được mẻ tức cười. Nhưng
nói thế thì ai hiểu.Truyện phải có đầu có đuôi.
Vậy đầu đuôi như thế này ..."
(Đón khách)
Ta dõi theo mạch kể tư duy triết lý - suy ngẫm của Nam Cao qua những
từ ngữ liên kết: Có…biết đấy, quả thật, nhưng mà, ấy là, vả lại, vẫn biết
...nhưng còn, phải hiểu rằng, có ai ngờ, bởi thế, nhưng, phải có vậy…
như thế này.
Nam Cao thường viết những câu rất ngắn. Điều này ai cũng biết. Có cái
ngắn của câu văn Nguyễn Công Hoan:
"Và bụi. Và tanh. Và ồn ào. Và hơi người. Và chen chúc.
Chợ họp mỗi lúc một đông"
(Bữa no...đòn)
- "Từ chiều, lại bắt đầu trở rét.
Gió
Mưa
Não nùng"
(Anh Xẩm)
Thật là ngắn gọn nhưng cũng lộ ra sự gia công làm văn của người kể.
Còn Nam Cao thì như không cố tình viết văn, ông có một giọng kể khi vào
truyện tự nhiên thật như chính cuộc sống vẫn diễn ra, có thể là bất chợt, có thể
là một trạng thái, một tình hình, một con người được đem đến trước mắt bạn
đọc theo cách sinh động nhất.
- "Đầu đuôi tại con mèo" (Con mèo)
- "Bọn họ có bốn người" (Nhỏ nhen)
- "Nhà Bịch được một sào trấu tốt" (Mua danh)
- "Bà lão ấy hờ con suốt đêm" (Một bữa no)
84
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
- "Ông Đẩu chả lẩn thẩn mà lại thế! Tự nhiên đi mới cái anh cu lang
Rận ấy về".
(Lang Rận)
Mở đầu truyện giọng kể của tác giả thật tự nhiên, thân mật, bỗ bã, hợp
với cốt truyện và nhân vật trong truyện. Ông không dụng ý viết văn làm văn
quá tô điểm, kiểu cách mà dường như theo cái mạch tư duy "thấy thế nào viết
thế ấy", độc giả càng đọc càng thấy bất ngờ, lý thú. Điều này khiến truyện
ngắn Nam Cao trở nên gần gũi với mọi người và thật "giản dị mà lạ lùng" như
nhà văn Vũ Bằng cảm nhận. Với giọng kể đặc biết ấy đã làm cho sự hoá thân
đổi vai trong ngôn ngữ người kể chuyện, của tác giả hay nhân vật biến hoá
linh hoạt, tài tình, nhiều khi rất khó phân biệt được ranh giới giữa chúng.
Trong nhiều truyện Nam Cao không chỉ kể chuyện mà còn kể về tâm
trạng, đến một lúc nào đó truyện sẽ biến thành tâm trạng. Đương nhiên, là
một nhà văn hiện thực tỉnh táo, nghiêm ngặt, ông không né tránh việc phơi
bầy thực trạng u ám của đời sống với đầy đủ vẻ phức tạp và bề bộn của nó.
Nhưng cũng thật đặc biệt, cuối cùng dường như tâm trạng vẫn nổi lên trên
chuyện. Điều này có thể được thể hiện bàng bạc hoặc đậm đặc ở những tác
phẩm khác nhau, có thể là sự ẩn chứa, cũng có thể ngưng tụ lại thành lời lẽ cụ
thể cất lên ngoài cả "khuôn phép" của thể loại: "Dì Hảo ơi, tôi hãy còn nhớ cái
ngày dì bỏ tôi đi lấy chồng...", "lão Hạc ơi, lão hãy yên lòng mà nhắm mắt".
Trường hợp sinh động và biến hoá nhất của cách kể này là khi nhà văn
dùng đến thủ thuật thường vẫn thấy trong ngôn ngữ người kể chuyện của ông,
đó là sự chuyển hoá từ ngôn ngữ người kể chuyện sang ngôn ngữ nhân vật
(thực chất vẫn là ngôn ngữ người kể chuyện, nhưng hiện ra dưới dạng thức
độc thoại nội tâm của nhân vật).
Đây là một đoạn trong truyện ngắn Chí Phèo: "Sao bà ấy còn trẻ quá!
Gần bốn mươi rồi mà trông vẫn còn phây phây. Còn phây phây quá đi nữa!
85
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Cụ năm nay đã ngoài sáu mươi. Già yếu quá, nghĩ mà chua xót. Giá thế thì bà
ấy cũng già cho xong. Bà ấy lại cứ trẻ, cứ phây phây, cứ đẹp như mới ngoài
hai mươi tuổi, mà sao đa tình. Nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ"...Và cứ
thế, kể chuyện bà Tư nhưng cũng là kể về tâm trạng của cụ Bá. Với cách vừa
kể chuyện, vừa kể tâm trạng, truyện ngắn Nam Cao mang những đặc điểm đối
nghịch: sắc lạnh và tình cảm, tỉnh táo nghiêm ngặt và chứa chan trữ tình.
Đối với người đọc thì cách kể này đã khiến cho truyện ngắn của ông
có khả năng khơi dậy trong họ cả phần lý trí lẫn tình cảm. Mối giao hòa giữa
người kể, nhân vật và người đọc thường xuyên được diễn ra.
Tác giả kể chuyện và suy ngẫm. Có thể nói Nam Cao hầu như xa lạ với
những gì là to tát, cao siêu. Nhưng sự việc bất thường, những con người bé
nhỏ hầu như suốt đời bị gắn chặt vào những bi kịch nhân sinh nho nhỏ, tụ vào
các trang sách của Nam Cao, và ông rủ rỉ kể về chúng một cách kỹ càng như
không biết nản, ông không bao giờ chịu kể qua quýt sơ sài, mà phân tích mổ
xẻ tới tận ngọn nguồn sự vật, cảnh ngộ. Nhưng tính toán chi li, những suy xét
thiệt hơn, những ý nghĩ hơn kém trong suy nghĩ con người đều lộ rõ. Thế rồi
khi đã khảm được vào tâm trí người đọc thật nhiều những chi tiết có vẻ như
vụn vặt về các số phận, cảnh đời, ông nhẹ nhàng đưa ra những câu khái quát,
triết lý vừa như là bất ngờ, nhưng lại thật hiển nhiên. Người đọc hầu như
không băn khoăn gì về sự "xoàng xĩnh" của các cốt truyện hay việc gặp đi gặp
lại một mẫu người, một cuộc đời. Họ thoả mãn với chiều sâu tác phẩm được
tích tụ lại bằng những suy nghĩ trăn trở mang nặng màu sắc triết lý.
Điểm mới mẻ cần đánh giá cao trong nghệ thuật tự sự Nam Cao về
phương diện giọng điệu, tính chất độc thoại tiến đến một kiểu trần thuật đa
thanh mang tính đối thoại rất hiện đại.
Đến Nam Cao yêu tố tâm lý đã trở thành đối tượng miêu tả trực tiếp
của nghệ thuật. Nhiều truyện chỉ có dòng tâm lý vận động, nên Nam Cao có
86
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
sở trường vận dụng thủ pháp độc thoại nội tâm. Hình thức độc thoại trong
truyện ngắn Nam Cao rất phong phú, có khi hướng ngoại, có khi hướng nội
nhưng chủ yếu là hướng nội bởi nhân vật trong truyện luôn suy nghĩ, tự phân
tích đánh giá, tự mổ xẻ bản thân. Ông hướng người đọc theo chiều sâu suy
nghĩ của nhân vật. Đối với Nam Cao việc phản ánh tư tưởng chân thật của con
người, tư tưởng xấu và tốt thường là xung đột trong đời sống bên trong của
con người chứ không phải là xung đột bên ngoài giữa nhân vật này với nhân
vật kia. Việc phân tích tâm lý là điều cơ bản nhất trí để tác giả mô phỏng con
người theo phương pháp hiện thực có chiều sâu.
Người ta hay nói đến lời văn hai giọng của Nam Cao, lời độc thoại nội
tâm của nhân vật cũng là một hình thức thể hiện lời văn hai giọng, lời trần
thuật của tác giả, lời độc thoại của nhân vật có khi hoà nhập, xuyên thấm lẫn
nhau tạo thành lời nửa trực tiếp.
Lời nửa trực tiếp mang đậm ý thức nhân vật là biến thể của độc thoại
nội tâm, đó là những dòng độc thoại không ghi trong ngoặc kép, không có lời
dẫn, nó vẫn theo mạch trần thuật nhưng bộc lộ rõ ý thức nhân vật. Đây là lời
người trần thuật, nhưng nó lại thấm nhuần từ vựng, ngữ nghĩa và các cấu trúc
cú pháp của lời nói nhân vật, thấm nhuần ngữ điệu, tình cảm và suy nghĩ của
nhân vật. Sử dụng phương thức này, Nam Cao có thể tự do khai thác nội tâm
nhân vật, từ những phản ứng nhỏ cho đến ý thức về số phận và cuộc đời,
những cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt, những giằng xé giữa hai phần tối và
sáng, giữa cái thiện và cái ác.
Đây là đoạn "hắn" nghĩ sau khi hai vợ chồng cãi nhau: "...Nhưng lần
này hắn không còn bực tức, đêm qua nằm nghĩ ngợi hắn xét ra rằng: vợ hắn
không đáng trách, khi đầu người ta lúc nào cũng rối tung lên vì trăm thứ tiền,
trăm nghìn công việc phải lo toan, rồi lại lật quật suốt ngày, chẳng ngơi chân
ngơi tay một chút nào, mải miết cả trong lúc ăn, thế mà đêm đến cũng chưa
87
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
được ngủ yên lành, còn bị con quấy rối, lúc khóc, lúc giẫy, lúc đay vú như
con chó nhai giẻ... thì người ta bình tĩnh làm sao được. Người ôn hòa đến đâu
cũng phải sinh ra gắt gỏng. Trước kia vợ hắn có thế đâu?" (Cười).
Đoạn văn thể hiện sự thông cảm của người chồng đối với vợ. Xét về
hình thức đó là lời miêu tả tâm lý của người trần thuật, nhưng ngữ điệu cảm
xúc thì đã chuyển sang giọng của nhân vật. Ban đầu là giọng người trần thuật,
sau đó người trần thuật tự giấu mình để nhân vật tự nói bằng giọng của mình.
Rồi dần dần giọng người trần thuật và giọng nhân vật hòa quyện xuyên thấm
vào nhau. Đây là một thứ ngôn ngữ giọng điệu song thanh cùng phương
hướng nên khó lòng chia tách bạch đâu là giọng tác giả, đâu là giọng nhân
vật. Nhờ thế mà người đọc như nghe thấy âm vang sinh động giọng nói của
từng nhân vật trong tác phẩm.
Cũng có lúc Nam Cao dùng hình thức song thanh khác: Song thanh
khác phương hướng. Bên cạnh ý thức nhân vật là ý thức tác giả, không phải là
đồng tình mà giễu nhại, khiêu khích để nhân vật bộc lộ rõ hơn thế giới nội
tâm của mình. Ngôn ngữ kể chuyện thường mang sắc thái trêu chọc, mỉa mai,
khiêu khích. Đọc đoạn văn miêu tả tâm trạng cụ Bá (Chí Phèo) khi đợi bà Tư
về, người đọc có thể hiểu đó là giọng cụ Bá nhưng cũng có thể hiểu là giọng
giễu nhại tâm trạng cụ Bá của tác giả. Tác giả đã tạo ra được một giọng điệu
mới, một cách thể hiện mới trên cơ sở cái đã có là lời nói bên trong của nhân
vật. Rõ ràng đó là tâm trạng uất nghẹn của cụ nhưng thấp thoáng đâu đó là
giọng giễu nhại, khiêu khích của tác giả. Những suy nghĩ bên trong được bộc
lộ và tâm trạng nhân vật bị giễu nhại, khiêu khích đã càng lúc càng tăng cảm
xúc. Hoá ra cái con người ngọt nhạt bề ngoài, uy quyền bên ngoài ấy lại là
một kẻ nhỏ nhen, ghen tuông đáng sợ.
Giọng điệu nhân vật trong truyện ngắn Nam Cao được thể hiện phong
phú qua lời độc thoại. Cũng là tiếng cười tự trào nhưng được thể hiện bằng
88
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
nhiều trạng thái tình cảm, lúc thì hài hước: "hắn muốn đập một cái gì đó cho
đỡ tức. Nhưng đập phá lắm thì chỉ thiệt (thời buổi này một cái niêu đất cũng
phải hai hào chỉ..." (Cười). Lúc thì chua chát: "hắn lại phải xót xa một lần
nữa, mười đồng bạc bỏ ra cho hai đứa con uống thuốc. Hắn xót xa lắm (...)
Hắn chỉ thở dài ngao ngán cho kiếp mình..." (Nước mắt). Lúc thì cay đắng
ngậm ngùi buồn tủi: "Hắn tưởng có thể khóc oà lên được. Chao ôi! Chẳng là
gì cả... Đó chỉ là những cái rất tầm thường chẳng đáng cho một người cao
thượng phải quan tâm; sự đói nhọc... một chút lòng khinh của một người
chẳng hiểu mình. Nhưng Điền cực lắm. Hắn thấy một lớp buồn tủi nữa chất
thêm vào lòng ..." (Nước mắt). Lúc đay nghiến, xỉ vả: "Khốn nạn! Khốn nạn
thay cho hắn! Bởi hắn chính là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất
lương!" (Đời thừa). Lúc cảm thông chia sẻ: "Người không phải là thánh...Khi
người ta lam lũ quá, lại còn lo trăm thứ nữa, bị làm rầy vì trăm thứ, thì ai mà
bình tĩnh được? Ai mà chả hay gắt gỏng" (Nước mắt).
Những lời độc thoại vừa có hướng nội vừa có hướng ngoại. Hướng nội
thì nghiêm khắc với chính mình, còn hướng ngoại thì sẻ chia, cảm thông nhân
ái. Vì thế trong văn của Nam Cao bao giờ cũng giàu tình thương thể hiện một
tâm hồn nhân hậu nồng ấm của tác giả.
3.1.2. Các sắc thái của giọng điệu
Các nhà nghiên cứu dường như đã thống nhất khi nhận định giọng điệu
của Nam Cao là sự tổng hợp của nhiều chất liệu, giọng điệu và không lẫn với
bất cứ ai. Nếu như những nhà văn Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng tạo
cho mình một giọng điệu chính là trào phúng thì Nam Cao không tạo một
giọng điệu chủ đạo, thống lĩnh. Ông có đóng góp lớn trong việc đa thanh hoá
giọng điệu tự sự. Việc sử dụng giọng điệu căn cứ vào đối tượng và hiện thực
mà tác phẩm phản ánh. Đó là lối kể chuyện bằng nhiều chất giọng: nghiêm
89
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
nghị và hài hước, trân trọng nâng niu và nhạo, đay, mỉa. Các chất giọng kể
chuyện được trong một truyện, và ngay trong từng đoạn của truyện.
Các truyện Lão Hạc, Dì Hảo, Mua nhà, Từ ngày mẹ chết... giọng
nghiêm nghị nổi bật, hình tượng các nhân vật có phẩm chất cao quý, hay
những nét tính cách đẹp đẽ hiện lên trong sự trân trọng của người kể. Truyện
Cái mặt không chơi được nổi lên giọng hài hước chua chát kể về bộ mặt “lạnh
như nước đá, và ngượng nghịu, và vô duyên, và lố bịch”.
Có những truyện có sự trộn lẫn các chất giọng kể như Chí Phèo, Những
truyện không muốn viết, Trẻ con không được ăn thịt chó, Quên điều độ,
Cười...
“Trọn đời tôi, tôi chỉ lo chết đói. Như thế bảo còn nghĩ đến những cái
to tát làm sao được? Nguyện vọng của tôi? Ấy là làm thế nào cho vợ có tiền
đong gạo, mua nước mắm và mua ba xu thuốc chốc đầu của bà lang lùn về
cho con. Không có mộng. Nói vậy sợ hơi quá quắt. Thật ra tôi cũng có chút
mộng văn chương. Nhưng cái mộng ấy cũng hơi...khỉ khỉ. Tôi cứ muốn vừa
có thể phụng sự nghệ thuật, lại vừa có thể kiếm tiền để nuôi cả nhà. Nghĩa là
tôi ham viết lắm. Nhưng giá thử viết mà không được một đồng xu nhỏ thì có
lẽ tôi cũng ham vừa vừa thôi. Cái tôi của tôi sự thật thì nó bỉ ổi như thế đấy”
(Những truyện không muốn viết). Đoạn văn này có cả những câu nghiêm túc
nhưng giọng đay nghiến, mỉa mai...cả phần hài hước trộn lẫn với nhau.
3.1.2.1. Giọng điệu triết lý
Sự hấp dẫn bạn đọc của truyện Nam Cao trước hết đó là sự hấp dẫn của
những tư tưởng, những ý nghĩ của ông. Đọc Nam Cao, thấy ông hay triết lý,
thích khái quát. Dĩ nhiên sức hấp dẫn không thể có được, nếu ông chỉ lặp lại
những nguyên lý chung chung, đó là những tìm tòi, những phát hiện của riêng
ông về cuộc sống, nghĩa là nó mang đẫm mồ hôi của tâm não ông. Cho nên
90
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
triết lý mà không khô khan, triết luận mà như mở ra những chân trời thơ bát
ngát.
Nhiều tác phẩm của ông vì thế thường có hai bình diện nội dung: một
là nội dung xã hội trực tiếp gắn liền với những tình tiết, những nhân vật cụ
thể. Hai là những suy nghĩ có tầm khái quát rộng lớn vượt rất xa ra ngoài
những điều ông thuật kể. Những mệnh đề triết lý của ông nhiều khi đột ngột
chuyển hướng thưởng thức người đọc từ tầng ý nghĩa này sang lớp ý nghĩa
khác, từ bút pháp nọ sang bút pháp kia, một cuộc nhảy vọt đầy thú vị từ môi
trường của đời sống chật hẹp tầm thường sang thế giới bao la của những vấn
đề trọng đại liên quan đến sự sống còn của nhân loại.
Trong truyện Lão Hạc, nhà văn đã triết lý về kiếp sống con người. Kiếp
gì là khổ nhất! Hoá ra là kiếp người. Truyện Mua nhà là giọng điệu triết lý về
cuộc sống hạnh phúc của cuộc đời, hạnh phúc là chiếc chăn, người này được
ấm, người kia sẽ bị hở, không thể nào toàn vẹn được. Đó cũng là ngầm ước
của tác giả mong sao hạnh phúc có thể đến, dù nhiều hay ít đối với mỗi con
người.
Giọng điệu triết lý dù sắc lạnh nghiêm nghị hay là trữ tình thì đều thể
hiện những ngẫm nghĩ rất sâu sắc của nhà văn với cuộc đời, với con người.
Điều đó còn thể hiện tinh thần trách nhiệm của Nam Cao với cuộc đời ấy –
không thờ ơ, không bàng quan mà luôn nồng nhiệt một tấm lòng với cuộc đời,
với những kiếp người. Giọng điệu đó như ghim sâu vào tâm hồn mỗi bạn đọc
khi được tiếp xúc với tác phẩm của ông, người đọc thấy không nặng nề,
không áp lực mà sao cứ đau nhói và tự hỏi nếu mình là nhân vật đó, ở trong
hoàn cảnh đó, mình sẽ thấy như thế nào? Và đọc tác phẩm Nam Cao, ta sẽ dễ
dàng tìm thấy hình bóng con người mình trong đó, có thể chỉ giống phần nào
hoặc có thể là giống nhiều phần.
91
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
3.1.2.2. Giọng điệu hài hài hước mỉa mai
Giọng hài hước mỉa mai thể hiện tiếng cười có mức độ phê phán nhẹ
nhàng nhưng sâu sắc, trên cơ sở vạch ra sự mất cân đối hài hoà giữa nội dung
và hình thức, bản chất và tiếng cười, đặc biệt là lý tưởng và thực tế.
Chính giọng điệu này trộn lẫn với giọng triết lý làm cho những vấn đề
tưởng như to tát khô khan nhưng lại rất dễ đi vào lòng bạn đọc. Điều này giải
thích vì sao văn Nam Cao vẫn hấp dẫn nhiều thế hệ bởi sự dung hoà giữa điều
bình dị và những điều lớn lao. Nhiều khi đọc văn của ông, chúng ta tưởng như
Nam Cao khô khan, không có tình cảm, câu văn có vẻ cộc cằn tưởng như chỉ
có trơ trụi một sự phản ánh hiện thực cằn cỗi, xộc xệch, lúc nào cũng như sự
bám víu khổ sở giữa con người, cuộc sống. Nhưng không, vì chất giọng Nam
Cao vẫn hàm chứa những yếu tố hài, ngay trong một mạch lập luận về cái tên
Trạch Văn Đoành: “Ngay cái tên cũng khó nghe rồi. Thà cứ là Kèo, là Cột,
hay là Hạ, là Đông. Là gì cũng còn dễ nghe. Nhưng hắn ta lại là Trạch Văn
Đoành. Nghe như súng thần công. Nó chọc vào lỗ tai" (Đôi móng giò).
Yếu tố gây cười này nó góp phần làm cho bạn đọc tiếp thu câu chuyện
cuộc đời Trạch Văn Đoành một cách thú vị hơn.
Người ta nói ngôn ngữ Nam Cao nhiều khi trở nên tàn nhẫn khắc
nghiệt, vì ông có ví con người hay nỗi khổ con người như nỗi khổ của một
con vật hay một con vật lạ (gương mặt của Chí Phèo, hoặc Thiên Lôi...),
nhưng điều này cũng chỉ là những yếu tố, những mặt góp phần giúp nhà văn
thể hiện nhiều điều, vẽ được bức tranh cuộc sống sinh động, tạc được pho
tượng người có thần sắc. Mà ai cũng biết là cuộc sống và con người đều muôn
hình vạn trạng.
Chất hài có trong nhiều hình ảnh méo mó của nhân vật, nó toát ra từ
bản thân câu chuyện mà tác giả kể. Có những cái cười gượng, nói toạc những
cái xấu ra để cười (Nhỏ nhen), có cái cười hết sức khôi hài, tuy Nam Cao tỏ ra
92
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
rất trang nghiêm khi kể (Cái mặt không chơi được), có cái cười để lại bài học
thú vị (Truyện tình), có cái cười châm biếm, sâu cay, cười tàn nhẫn (Đón
khách), có cái cười sảng khoái (Đôi móng giò)...
Nếu như tiếng cười của Nguyễn Công Hoan giòn giã, phũ phàng, khoái
trá, tiếng cười của Ngô Tất Tố dí dỏm, sâu sắc, thâm trầm và tiếng cười của
Vũ Trọng Phụng hài hước, giễu cợt, sâu cay thì tiếng cười của Nam Cao lại
đượm vẻ bi thương, nhiều khi pha chất triết lý.
Mỗi ngòi bút có một cách khai thác và thể hiện vấn đề theo một cách
riêng, miễn sao đạt được hiệu quả cao. Trong khi phản ánh hiện thực, Nam
Cao thường hay đi vào những chủ đề mang tính suy ngẫm, thiên về việc truy
tìm, đúc rút ra một triết lý cho cuộc sống, có pha chất hài, nhưng nặng về suy
tư, trầm lắng hơn là những tiếng cười hả hê, khoái trá. Nói chung, ông không
lấy cái hài làm phương tiện chủ yếu của truyện. Bên cạnh một số truyện có
âm hưởng trữ tình thật sâu sắc, gần như không có yếu tố trào phúng như Lão
Hạc, Một đám cưới, Nghèo.
3.1.2.3. Giọng điệu giễu nhại
GS. Đỗ Đức Hiểu cho rằng: "Nhại ai, nhại cái gì là bắt chước người ấy
bằng những điệu bộ, ngôn ngữ trào lộng nhằm mục đích chế nhạo, gây cười.
Cái cười nhại chồng cái kính lúp hoặc tấm gương trong trào phúng lên cái bị
nhại, mang tính nghiêm túc, đứng đắn. Cái "nghiêm túc", "đứng đắn", "quan
trọng" bị nhại và trở thành cái buồn cười, cái lố bịch, cái bịp bợm tức là chính
nó" [14,tr.262].
Nhà văn đã dùng tiếng cười nhại để "lộn trái" đối tượng, bắt đối tượng
trở ra cái mặt thật đằng sau cái mặt nạ che đậy của chính nó. Có điều thú vị là
ngay từ cái nhan đề đã cất lên tiếng cười. Tác giả kể chuyện từ đầu đề với
cách đặt tên truyện có tính chất trào phúng. Tên truyện nhại lại nội dung
truyện.
93
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Nguyễn Công Hoan có truyện nhại nổi tiếng là Báo hiếu: trả nghĩa cha,
Báo hiếu: trả nghĩa mẹ, tên truyện khi nhắc đến luân lý, đạo đức nhưng nội
dung lại là câu chuyện đại bất hiếu, cực kỳ vô luân.
Nam Cao có truyện Một truyện Xúvơnia, tên truyện nhại lại tiếng Tây.
Xúvơnia là kỷ niệm. Cái khăn mà Hàn xúvơnia cho người yêu để kỷ niệm
một tình yêu thơ mộng, lãng mạn của Hàn nhưng Tơ - người yêu Hàn đã bán
đi để lấy hai hào. Chứng kiến cảnh các cô gái mua đi bán lại chiếc khăn để lấy
tiền ăn bánh đúc Hàn đã rút ra bài học "cuộc sống vốn không tha thứ cho
những gì là quá thơ".
Giọng giễu nhại của nhà văn thể hiện rõ ở các hệ thống có tên nhân vật.
Tên nhân vật của văn học hiện thực phê phán đối lập kịch liệt với tên các
nhân vật trong văn học lãng mạn. Nào là Chí Phèo, Thị Nở, lang Rận, cu Lộ,
đĩ Chuột, Dần, Điền, Hộ... những cái tên thô mộc, giản đơn, xù xì như chính
bản thân đời sống, Nam Cao còn hài hước tô đậm cái tên thô mộc của nhân
vật như Trạch Văn Đoành, nghe như súng thần công, nó chọc vào lỗ tai. Nó
khác hẳn với những cái tên thơ mộng lãng mạn với những Tuyết, Mai, Loan,
Chương...
Nhà văn Nam Cao khi mới cầm bút có ảnh hưởng của văn học lãng
mạn nhưng sau đó ông có ý thức nhại lại truyện lãng mạn để phá bỏ cách viết
không còn phù hợp. Trong văn của ông có khi vẫn có những câu văn hơi lãng
mạn nhưng chỉ còn mang ý nghĩa là một sự đùa cợt mà thôi.Văn chương lãng
mạn thường chối từ sự thật, sợ sự thật. Là một nhà văn hiện thực, Nam Cao
không từ chối hiện thực mà nhìn thẳng vào đó, hiện thực ấy có khi nghiệt ngã
đau đớn nhưng ông không bao giờ chối bỏ nó. Ở truyện Cái mặt không chơi
được Nam Cao đã nói thẳng ra cái khuynh hướng đối lập của mình với văn
chương lãng mạn: "Giá tôi yêu tôi hơn trước nữa thì tôi phải tả Bình với một
cái dáng thơ mộng hơn. Nhưng tôi yêu sự thật thà mà muốn thật thà thì phải
94
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
nói là Bình không đẹp". Nhân vật Hùng trong truyện Đui mù (một truyện
cũng có xu hướng nhại) đã đau khổ kêu lên: "Tôi hối hận. Thà rằng tôi cứ ở
chúi xó thôn quê ấy để thầm ca tụng lòng chung thuỷ của Nga, thà rằng tôi cứ
đui mù như anh lính nọ lại được hoàn toàn sung sướng hơn tìm đến sự thực".
Tiêu biểu nhất cho loại truyện nhại của Nam Cao là Một truyện xú vơ
nia. Giống như Đônkihôtê của Xécvantéc đầu óc mê mẩn tiểu thuyết hiệp sĩ
nên nhìn đâu, làm gì cũng như sách, nhân vật Hàn cũng thấm đẫm tâm hồn
bởi những tiểu thuyết lãng mạn. Cho nên khi gặp Tơ, một thôn nữ đến nhà
mua dâu Hàn đã nhìn rất kỹ. Tơ được hiện lên trước mắt Hàn theo đúng như
dung nhan, dáng điệu thường tả trong văn chương lãng mạn. Hắn tự bảo:
"Cuốn tiểu thuyết của đời ta đã bắt đầu ...".
Giọng điệu giễu nhại có trong tác phẩm của Nam Cao nhằm tạo ra sự
đối lập với những gì giữa hiện thực cuộc sống và mơ mộng xa vời. Ta không
thể phủ nhận những thành tựu của văn chương nhóm Tự Lực văn đoàn và ảnh
hưởng của nó ít nhiều tới các nhà văn hiện thực phê phán. Trước sự thịnh
hành của trào lưu văn chương lãng mạn Tây Âu, các nhà văn nước ta thời kỳ
đó đều tiếp nhận nó với những ưu điểm, song, cũng tồn tại nhiều nhược điểm.
Sự phủ định văn chương lãng mạn ở Nam Cao đồng nghĩa với việc nhà văn
đã tìm cho mình một hướng đi khác là đối mặt và ghim mình vào chính những
bề bộn của cuộc đời, tức là nhà văn đủ bản lĩnh để sống chung với hiện thực
và phản ánh hiện thực trong các tác phẩm. Tác giả vẫn biết mơ mộng đôi khi
không thể thiếu trong cuộc sống, làm cho người ta hy vọng và hướng tới
tương lai tốt đẹp. Những nhân vật trí thức của ông chẳng đã từng mơ về giải
Nobel, mơ viết về những áng văn bất hủ, mong được vừa phụng sự nghệ thuật
vừa làm tròn trách nhiệm với gia đình đó sao! Nhân vật Chí Phèo (Chí Phèo)
cũng từng ước mơ về một mái ấm gia đình, về cuộc sống giản dị và hạnh
phúc.
95
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Đoạn tuyệt văn chương lãng mạn không có nghĩa là đoạn tuyệt với cả
những ước mơ của nhân vật. Nam Cao phản ánh hiện thực nhưng vẫn giữ lại
những điều tốt đẹp trong tâm tư, trong ước muốn của mỗi nhân vật, làm cho
nhân vật không trở nên xơ cứng. Điều ấy có nghĩa là Nam Cao luôn biết trân
trọng con người, dù đôi lúc con người luôn mơ mộng về những điều gì rất
viễn tưởng, xa xôi và biết là có thể chẳng bao giờ làm được. Như vậy, trong
một địa hạt nào đó ở các tác phẩm của mình, Nam Cao để cho nhân vật được
thoát khỏi hiện thực cuộc sống bề bộn để sống với những ước mơ, rồi nhanh
chóng để nhân vật trở lại với hiện thực, điều này cho thấy tác giả đã phản ánh
rất thực tâm tư tình cảm của con người.
3.1.2.4. Giọng điệu bi quan, chua chát.
Giọng điệu bi quan, chua chát trong văn Nam Cao khi nói về những
thất vọng và thất bại của con người. Giọng điệu này xuất hiện khi con người
không có lối thoát trong cuộc sống, con người đứng trước những vấn đề
không thể giải quyết, hoặc giải quyết theo những cách không có kết quả tốt
đẹp. Đó là những truyện Nước mắt, Đời thừa, Trăng sáng, Ở hiền, Dì Hảo...
Trong truyện Ở hiền, cuộc đời của cô gái là Nhu cứ trôi đi theo tháng ngày tù
đọng lại, cô rất hiền nhưng cuộc sống không như ý, cô cũng nhận thấy mình
như thế là bị thiệt thòi, lép vế, khổ sở nhưng bảo cô vùng lên sống khác đi,
phải mạnh hơn, phải chanh chua hơn để giành giật cuộc sống thì đó không
phải là đức tính của cô. Giọng điệu của tác giả nhiều lúc như một tiếng thở dài
khi viết về một cuộc sống sẽ khổ suốt đời của Nhu: "...Câu chuyện còn khá
dài dòng. Nhưng kéo dài ra để làm gì? Có kể tường tận cuộc đời làm vợ của
Nhu thì cũng chỉ thế mà thôi. Người thì ở chỗ nào chả là người? Mà cuộc đời
thì bất cứ cảnh nào cũng chảy trôi theo những định luật chưa bao giờ lay
chuyển được...".
96
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Nam Cao giống với Xuân Diệu, Thạch Lam ở chỗ đã thức tỉnh sâu sắc
về ý thức cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời. Họ hết
sức nhạy cảm với những kiếp sống nhỏ bé, cơ cực, cuộc sống mỏi mòn, lay
lắt, quẩn quanh, bế tắc. Những con người không hề biết sống làm vui, không
bao giờ biết đến ánh sáng và hạnh phúc. Ước mơ của những đứa trẻ là: chỉ
mong được nhìn thấy một chuyến tàu đêm vụt đi qua cái phố huyện nghèo
(Thạch Lam - Hai đứa trẻ), Xuân Diệu cũng không sao chịu nổi "nỗi đìu hiu
của cái ao đời bằng phẳng" (Tỏa nhị Kiều). Nhưng có lẽ không ai trong số họ
lại đau đớn, phẫn uất cao độ như Nam Cao trước tình trạng con người sống
trong túng quẫn. Mỗi nhân vật của ông là một kiểu đời thừa, một lối sống
mòn, một cách chết mòn, một cuộc sống vô nghĩa, vô lý.
Nam Cao không chấp nhận sự sống của con người chỉ là sự tồn tại sinh
học. Ông coi đó không phải là cuộc sống xứng đáng của con người: "Có thú
vị gì các lối sống co quắp vào mình, cái lối sống quá ư loài vật, chẳng còn biết
một việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào dạ dày?". Cuộc sống xứng
đáng với danh hiệu cao quý của con người, theo quan niệm của ông, là phải
có đời sống tinh thần cao đẹp, sống với đầy đủ giá trị của sự sống. Xuất phát
từ tư tưởng đó, Nam Cao đã đồng cảm vô hạn trước những bi kịch của những
con người muốn sống có ý nghĩa bằng sự cống hiến của mình mà rốt cuộc
phải sống như "một kẻ vô ích, một người thừa". "Còn gì đau đớn hơn cho một
kẻ vẫn khao khát làm một cái gì mà nâng cao giá trị đời sống của mình, mà
kết cục chẳng làm được gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?" (Đời thừa).
Đôi khi đọc truyện Nam Cao bạn đọc cũng nhận thấy tác giả hết sức bi
quan trong khi nhìn nhận con người và thế sự. Nhưng không vì thế mà ông
quên đi trách nhiệm của một nhà văn khi cầm bút viết về vấn đề con người.
Trước hết, con người trong văn Nam Cao phải hiểu rõ được về mình, về trạng
thái mà mình đang lâm vào, cũng tức là chỉ rõ cái tình cảnh biến dạng cả mày
97
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
mặt đến tâm linh mà sự khốn cùng đã để lại trên con người mình. Bạn đọc tác
phẩm - trước hết với tư cách là người tiếp nhận, sau đó lại là người hiểu và
đồng cảm cùng tác phẩm sẽ được thức tỉnh suy nghĩ để với mỗi người tự xác
định lấy thái độ, tình cảm của mình. Đọc kỹ Nam Cao, một lúc nào đó người
đọc chợt nhận ra cuộc đời chung quanh họ không bằng bằng nhạt nhạt như họ
vẫn thấy mà bỗng nhiên rất giống cuộc đời trong văn Nam Cao - tức là thấy
chung quanh cũng đầy rẫy những dì Hảo, Nhu, Đức, Trạch Văn Đoành ...và
cái không khí bao quanh họ đôi khi là không khí của những Nửa đêm, Lang
Rận, Đời thừa, Lão Hạc ...
Như vậy, ngoài một số giọng điệu trên truyện ngắn Nam Cao còn có sự
pha trộn rất nhiều giọng điệu khác. Đặc sắc giọng điệu truyện ngắn của ông
cũng là ở sự pha trộn này. Ngoài sự đóng góp về giọng điệu có thể nói ngôn
ngữ trong văn Nam Cao có một sức truyền tải lớn và rất hấp dẫn bạn đọc.
3.2. Ngôn ngữ tự sự trong truyện ngắn Nam Cao trƣớc Cách mạng.
Nằm trong tính toàn vẹn của cơ cấu nghệ thuật, tác phẩm văn học là
một cơ thể sinh động, có sự thống nhất của nhiều yếu tố mà ở đây bao giờ
ngôn ngữ cũng là điểm khởi đầu, đồng thời là điểm tựa.
Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học, M.Gorki đã
khẳng định “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” [10, tr.185]. Ngôn ngữ
là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách,
tài năng của nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là tấm gương sáng về mặt
hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ nhân dân, cần cù lao động để trau dồi ngôn ngữ
trong quá trình sáng tác.
Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng nhất của văn xuôi tự sự. Trước đây ngôn
ngữ luôn được coi như một công cụ để truyền đạt tư tưởng và tình cảm của
con người. Do đó, đối với tiêu chuẩn cao nhất, sự tìm tòi khả năng thể hiện
của ngôn ngữ là khả năng tái hiện thế giới hiện thực và thế giới nội tâm một
98
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
cách chuẩn xác, sống động mà quan trọng nhất chính là vấn đề cá tính hóa
cho ngôn ngữ của các nhân vật trong tiểu thuyết. Martin Heidegget nhận xét:
“Ngôn ngữ là ngôi nhà của tồn tại”, Ludwing Wittgenstein quan niệm: “Nghĩ
đến một ngôn ngữ có nghĩa là nghĩ đến một phương thức sống”, Wolfgang
Kayser lại cho rằng “Bên ngoài ngôn ngữ thì không thể có thế giới”.
Từ ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu lại chỉ ra rằng: Một truyện kể có một
cốt truyện dựa trên một hành động mà nhân vật tạo ra và trải nghiệm và có
một người kể chuyện kể về nó. Như vậy chắc chắn rằng, trong câu chuyện
không thể không có người kể chuyện. Với một người kể chuyện bằng xương
thịt hiện diện trước mặt thì việc tiếp nhận quá dễ dàng. Nhưng liệu qua những
dòng chữ in trên văn bản, ta sẽ tiếp nhận một cách đầy đủ và thấu đáo? Vì vậy
để truyền tải đến độc giả người người kể chuyện phải biết dùng ngôn ngữ một
cách thật đặc biệt để bạn đọc dễ tiếp nhận tác phẩm.
Ngôn ngữ trong văn Nam Cao không quá xa lạ với bạn đọc. Ông
thường dùng những câu văn ngắn nhanh chóng giúp bạn đọc chiếm lĩnh, chỉ
dẫn bạn đọc, đồng thời lời văn cũng dễ hiểu, không quá trừu tượng, đôi khi
thô mộc nhưng vẫn tự nhiên và mượt mà. Ngôn ngữ trong tác phẩm của ông
thực sự đi sâu vào lòng người, thực sự là lời ăn tiếng nói của nhân dân.
3.2.1. Ngôn ngữ văn xuôi đóng góp vào việc xây dựng và phát triển
văn xuôi mới.
Ở hầu hết các tác phẩm, các tác giả của nhóm Tự Lực văn đoàn thường
không hoặc ít chú ý đến việc miêu tả ngôn ngữ, chỉ có một ngôn ngữ duy nhất
là ngôn ngữ tác giả. Tác giả như một chủ thể đưa ra một ngôn ngữ chuẩn
mực, trong sáng, dùng ngôn ngữ ấy cho mọi loại đối tượng. Văn phong trong
tác phẩm của họ sạch sẽ, trong sáng, tỏ rõ một ý thức xây dựng chuẩn mực,
nhưng nó cũng dễ thành đơn điệu, một khi nó đã thành phổ biến.
99
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Khá đông các nhà “tả chân” cũng theo cách đó của các tác giả Tự Lực
văn đoàn, nếu xét về thành phần ngôn ngữ tác giả. Chỗ mới của họ là do xu
thế điều tra xã hội học đưa lại: thành phần ngôn ngữ nhân vật, nhất là các tầng
lớp dưới đáy, đem lại cho ngôn ngữ tác phẩm những phong vị mới, một chất
lượng mới. Xét theo tập hợp các nhóm nhà văn thì Nam Cao thuộc số các nhà
văn bình dân, nhưng xét theo cốt cách sáng tác thì ông vừa có chỗ gần với các
nhà văn trên lại vừa có chỗ gần với các nhà văn Tự Lực văn đoàn, nhất là
Thạch Lam. Chỗ Nam Cao gần Thạch Lam không phải chỗ nhà văn này có
lúc cũng miêu tả các tầng lớp nghèo khổ, mà ở chỗ Nam Cao – không phải ở
toàn bộ nhưng là ở phần lớn tác phẩm – cũng chú ý đến phương diện đời sống
tâm linh con người như Thạch Lam.
Nam Cao không chỉ là người chịu ơn vì đã được thừa hưởng rất nhiều
điều của phong trào hiện đại hóa văn học dân tộc, cái phong trào đã diễn ra
một cách rất hào hứng và chuyển biến hết sức nhanh chóng, cả thảy chỉ trong
vòng vài chục năm. Là người tham dự tiến trình ấy, có thể là ở chặng cuối,
Nam Cao thực sự đã góp phần phát triển và hoàn thiện nó, góp phần khép lại
một giai đoạn quan trọng nhất của nền văn học mới Việt Nam, một giai đoạn
quan trọng nhất của việc xây dựng lại nền văn xuôi tự sự mới trong những
điều kiện và tiền đề văn hóa xã hội mới.
Trong ngôn ngữ, ở Nam Cao thành phần ngôn ngữ nhân vật không có
những phương ngữ hay biệt ngữ thật thật nổi bật nếu so với một số phóng sự
của các nhà tả chân khác, nhưng nó cũng không bị thôn tính bởi ngôn ngữ tác
giả như các nhà Tự Lực văn đoàn. Mặt khác, do quan tâm truyền đạt những
dao động, biến thiên của tâm lý, tâm trạng, Nam Cao tạo nên được một ngôn
ngữ ít nhiều phức điệu, tổ chức được những mạng lưới phức tạp gồm cả ngôn
ngữ bên ngoài và ngôn ngữ bên trong, cả ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ nhân
vật, thậm chí của những sự đan xen và hòa lẫn vào nhau của hai ngôn ngữ ấy,
100
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Nam Cao là một trong số không nhiều tác giả cùng thời có những tác phẩm
mà ngôn ngữ không bị cũ đi so với thời gian, tức là có những tác phẩm đạt
đến mức cổ điển của văn xuôi tiếng Việt.
Trong tác phẩm Nam Cao, ngôn ngữ không chỉ là công cụ, là phương
tiện miêu tả mà còn là đối tượng của sự miêu tả. Nhân vật của ông có khẩu
khí riêng, cách diễn đạt riêng: “Cảnh ngộ nào – ngôn ngữ ấy. Tính cách nào –
lời lẽ ấy” [33, tr.32].
Ngôn ngữ trong sáng tác của Nam Cao là ngôn ngữ đa âm, phức điệu,
hiện đại, dù được viết vào thời ông nhưng bạn đọc bây giờ vẫn thấy mới. Cái
biệt tài của Nam Cao so với những tác giả cùng khuynh hướng hoặc cùng thời
đại không chỉ là cách sử dụng đắc địa các đại từ nhân xưng mà còn là khả
năng hóa thân, nhập vai vào tất cả các nhân vật, suy nghĩ và nói năng bằng
tiếng nói nhân vật. Ông đặc biệt thành công trong cách dùng khẩu ngữ với sự
điểm xuyết những thành ngữ, tục ngữ dân gian. Nam Cao thực sự khác lạ với
các nhà văn khác, khi ông mượn đặc điểm của con người để miêu tả loài vật,
sự vật: “Chí chóe cãi nhau như đứa trẻ con tập làm người lớn” (tả chim - Điếu
văn), “lấc cấc vụng dại như anh con trai mười sáu tuổi” (tả gà trống - Một
đám cưới), “trời thì cay nghiệt như một bà già thiếu ăn ngay từ lúc còn thơ”
(Trẻ con không được ăn thịt chó). Hoặc dùng tính xấu của loài vật để miêu tả
hình dạng và tính cách con người: “Mắt híp lại như mắt lợn sề”, “mụ khóc
rống lên như một con chó chưa quen xích” (Lang Rận), “đa nghi như con
chuột” (Nhỏ nhen), “vác mặt lên như con trâu nghênh suốt ngày” (Những
truyện không muốn viết).
Ngôn ngữ của tác phẩm Nam Cao là sự hòa âm, phối hợp của nhiều
loại ngôn ngữ khác nhau như là sự sống tự nó cất lên như thế. Trong Chí Phèo
diễn ra mạch ngầm đối thoại giữa người kể chuyện với Chí Phèo, giữa nhân
vật Chí Phèo với làng Vũ Đại. Cụ Bá kể chuyện bà Tư nhưng thực chất là bày
101
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
tỏ tâm trạng của mình. Đó là ngôn ngữ đối thoại nội tại, tâm trạng, một đặc
trưng của ngôn ngữ tiểu thuyết trong ngôn ngữ Nam Cao.
Sự thành thạo trong sử dụng ngôn ngữ của Nam Cao còn thể hiện ở
ngôn ngữ đối thoại mang đầy chất văn xuôi đời thường, ngoài việc thực hiện
chức năng tự sự còn là để khắc họa tính cách, nội tâm nhân vật (Chí Phèo,
Một đám cưới, Nhỏ nhen, Lão Hạc...). Bên cạnh đó Nam Cao có nhiều đóng
góp trong việc miêu tả lời thoại nội tâm, đặc biệt trong sự tiếp thu một cách
sáng tạo chắt lọc phương pháp “dòng ý thức” của văn học phương Tây trong
các sáng tác, tạo điều kiện đi sâu vào phân tích tâm lý nhân vật, khiến nhân
vật đối diện với chính mình, tự phơi bày, tạo ra những cuộc tranh luận ngầm,
bộc lộ ý kiến cá nhân của nhân vật về một vấn đề đang được quan tâm: nhân
cách trong cuộc đời, trong sáng tạo nghệ thuật.
3.2.2. Sự sinh động gần gũi với ngôn ngữ hiện thực đời sống
Khá nhiều truyện ngắn của nhiều tác giả thành công lại đã vay mượn
“tố chất” của các thể loại khác: chất trữ tình của thơ, xung đột gay gắt của
kịch, kích cỡ đường nét hoành tráng của sử thi, chất tự do phóng túng của tùy
bút, chất cổ tích...Nghệ thuật của lời văn Nam Cao lại chính là ở chỗ nó đã
tước đi mọi thứ trang sức, hay ở chính trong tính văn xuôi của nó. Không
ngẫu nhiên mà các nhà nghiên cứu nhận thấy một khả năng truyền cảm kỳ lạ
của văn xuôi Nam Cao. Nó không còn là văn nữa mà nó là đời!
Ngôn ngữ trong tác phẩm của ông đụng chạm tới mọi mảng tranh tối
tranh sáng, mọi ngóc ngách hiện trạng cuộc sống hay nội tâm con người.
Ngôn ngữ truyền tải đến trí óc bạn đọc những cảnh nghèo nàn của đời sống,
từ những cái bát sành sứt mẻ tứ tung đặt ngay trên mặt đất, đến những mơ
mộng, hoài bão ấp ủ trong đầu óc con người đến cảnh mái nhà người nghèo
xiêu vẹo khi qua trận bão, sự no đói của những đứa trẻ, bà lão, ông lão, những
cùng đinh ở làng. Ngay cả một anh nông dân vừa phất lên nhờ sào trầu nhà
102
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
mình mà chẳng may bị bọn khác biết được rồi rắp tâm bòn rút, một người bố
quá thèm thịt chó làm thịt ngay con chó nhà mình mà không để lại cho vợ con
một miếng nào cũng được viết lại dưới ngôn ngữ chân thực, sinh động. Một
anh say rượu chửi bừa bãi cũng trở thành hiện tượng độc đáo qua cách thể
hiện của tác giả... rất nhiều điều khác nữa của đời sống luôn ám ảnh chính bản
thân tác giả và độc giả. Bản thân của những hiện tượng đời sống được viết
trong văn Nam Cao nó cứ âm thầm diễn ra, không phải quá sôi động nhộn
nhịp, không xô bồ tạp nham, không mang tính tranh đấu quyết liệt. Đôi lúc có
những tiếng quát tháo, tiếng chửi nhưng nó không làm ảnh hưởng đến ai.
Xong thì đâu đấy lại vào như cũ. Có những cái chết xuất hiện, cái chết của các
nhân vật, ầm ĩ có, chết trong âm thầm cũng có mà chết trong lúc sống cũng
có. Đó là kết quả tất yếu khi cuộc sống đối với con người trở nên kiệt quệ,
không có lối giải thoát. Nếu có cố thoát khỏi cuộc sống ấy thì sẽ đi đến một
cuộc sống với màu sắc khác còn khổ đau không kém cuộc sống cũ, con người
bị bủa vây trong chính cuộc sống của mình, không có khả năng cải thiện cuộc
sống của mình.
Ngay sự giải thoát trong phút chốc của con người đến với thế giới
mộng mơ cũng bị cái khổ của cuộc sống lôi giật lại một cách phũ phàng. Con
người dù là ai, tầng lớp nào cũng phải đối mặt với điều đầu tiên trong cuộc
sống là sự no đói, nhiều nhân vật của ông bị ám ảnh nhiều khi mặc cảm bởi
chính miếng cơm manh áo mà gây tổn thương đến lòng tự trọng của con
người. Nhà thơ Đỗ Phủ nổi tiếng Trung Quốc cũng coi sự đói là vấn đề hàng
đầu, sau đó là bệnh tật, chiến tranh – những nỗi khổ đeo bám con người đời
đời kiếp kiếp. Trong thơ ông, một bà lão phải ăn trộm quả của hàng xóm để
sống qua ngày nhưng kết cục vẫn phải chết. Bà lão trong văn Nam Cao dù
được ăn một bữa no nhưng vẫn phải trả giá bằng sinh mạng mình.
103
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Bản thân cuộc đời Nam Cao cũng khổ vì cái đói, về quê gia đình đã
khánh kiệt, sống vất vả túng đói. Làng vẫn như xưa, khổ hơn xưa, vải Tây rẻ
như bèo, nghề dệt của làng chết hẳn. Nhà văn ra Hà Nội làm nghề dạy học tư,
cuộc đời túng thiếu, tù hãm cứ quấn chặt lấy ông. Nam Cao gắn bó với nghề
văn vào khoảng những năm phát xít Nhật đặt chân lên Đông Dương, phát xít
Phát bóp nghẹt đất nước. Bọn chúng nuôi dưỡng tờ báo tống tiền, ca tụng
tướng Nhật, Pháp, “Cách mạng quốc gia”, Thiên hoàng, phi công Nhật, rượu
xakê, gái điếm Phù Tang. Chúng cho tồn tại những tiểu thuyết lãng mạn cuối
mùa, với những “chàng, nàng”, “người hùng” hay sùng cổ “trật tự, đạo lý, cao
đẹp” thời phong kiến.
Nam Cao không chịu khuất phục với chế độ nghẹt thở, nhà văn nhìn rõ
cái chế độ đầy đọa và làm trụy lạc con người, ông nguyền rủa văn chương thi
vị hóa cái khổ, của bọn nhà văn tư sản “cúi mình xuống dân chúng”. Nạn đói
diễn ra ở khắp nơi, lan sâu vào hang cùng ngõ hẻm cướp đi mạng sống cùng
nhân cách con người, bản thân Nam Cao và gia đình cũng là nạn nhân của sự
đói khổ. Nhà văn bị ám ảnh vấn đề vận mệnh chung của cả một xã hội chua
xót, đau đớn, buồn thảm, tủi nhục, trong đó đời sống không còn ý nghĩa, quay
về phía nào cũng thấy dựng lên những bức tường bế tắc.
Bản thân Nam Cao đối mặt với nó, cũng dằn vặt đấu tranh để mọi điều
xấu không lấy đi mất phần nhân phẩm của mình. Đó là một bản lĩnh rất lớn.
Không những không bị sa đọa nhấn chìm trong vực đen tối ấy mà Nam Cao
còn thấy trách nhiệm của bản thân trước hiện thực. Ông xác định vẫn mở lòng
đón nhận thấu suốt mọi kiếp người khổ đau và sẵn sàng tinh thần tranh đấu
khi đất nước cần. Như Nguyễn Đình Thi đã nói: “Văn Nam Cao, ngay trong
những tác phẩm đầu, đã thực sắc sảo. Anh nhìn sâu vào sự thật một cách sắc
cạnh, nhiều khi mỉa mai. Không ve vuốt ngay bản thân mình và giai cấp mình
như một vài nhà văn tiểu tư sản tìm an ủi trong một triết lý hàng phục chế độ
104
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
đương thời, anh tạo được những điển hình giai cấp thật sống và cảm động.
Trong lúc văn lãng mạn tư sản đã xa rời lời ăn tiếng nói của nhân dân, viết lai
Tây như văn dịch, càng ngày càng trống rỗng, hình thức, anh đã tạo cho mình
một lối văn mới, đậm đà bản sắc bình dân, nhưng không rời vào chỗ thô tục.
Và qua những lời phẫn uất, cũng đồng thời thấy biết bao thương yêu. Nam
Cao yêu trìu mến cái làng khổ sở của anh, anh yêu những bến đò hiền lành,
những buổi sáng, buổi trưa của thôn quê Việt Nam. Mỗi khi nói đến những
cái ngốc dại quanh quẩn của những người đau khổ quằn quại, biết bao nhiêu
xót xa độ lượng trong câu văn anh...”[ 33, tr.46].
Có thể nói tác giả biết nhìn rõ những chuyện nhỏ nhen hằng ngày trong
cuộc đời đầu tắt mặt tối của bao nhiêu người chung quanh và làm nổi rõ lên
cho ta thấy tất cả những sự vô lý của một chế độ thối nát, trong những chuyện
tầm thường lặng lẽ nhất.
Ngôn ngữ Nam Cao bình dị thể hiện ngay trong việc đặt tên những
nhân vật trong tác phẩm.
3.2.2.1. Cách đặt tên, gọi tên nhân vật.
Tên nhân vật trong truyện ngắn Nam Cao cũng thật đặc biệt. Nếu như
những cái tên như Xuân tóc đỏ, Tuýp phờ nờ, Văn Minh, ... là tên nhân vật
tiêu biểu trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng, hay như Kép Tư Bền, chị Cu, con
Đỏ, thằng Quýt, Phô, Cốc, Tiêu, Mấu...là tên nhân vật trong truyện của
Nguyễn Công Hoan đều mang những dụng ý khi đặt tên, thì Nam Cao cũng
có dụng ý riêng khi đặt tên nhân vật của mình là hắn, y, thị, gã, Chí Phèo, Thị
Nở, lang Rận, lão Hạc, anh đĩ, chị đĩ, cái đĩ, ...
Trước hết ta thấy đó là những tên gọi giản dị, thô mộc có khi là suồng
sã. Nó thật như chính tên gọi ngoài đời sống thực. Những tên gọi này trong
sáng tác của ông như những biểu tượng về một loại người, một loại nhân vật
nhất định.
105
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Ở Chí Phèo (Chí Phèo), cái tư cách “hắn” hằn lên như một thứ căn
bệnh xã hội ngày đó – lưu manh, sa đọa, ngu tối và độc ác mặc dù ai cũng
thấy Chí Phèo không đáng ghét, đáng khinh hoàn toàn. Cùng loại với Chí
Phèo, là những “hắn” khác: Binh Chức, Năm Thọ, Binh Tư, Trương Rự, ...
Có loại “hắn” không cướp của giết người nhưng cũng là những nhân
cách sa đọa méo mó, ác độc như người cha trong (Trẻ con không được ăn thịt
chó), hay chồng dì Hảo (Dì Hảo), của Nhu (Ở hiền), ích kỷ và tàn nhẫn cùng
trở thành nguyên nhân nỗi đau khổ triền miên trong gia đình. Cũng có loại
“hắn” khác vừa đáng thương vừa đáng giận...
Gọi nhân vật của mình là “hắn”, Nam Cao bộc lộ rất độc đáo khuynh
hướng hiện thực nghiệt ngã trong sáng tác của mình. Có lúc “hắn” được tác
giả chuyển gọi rất trịnh trọng thành “ông”. Đó là khi Trạch Văn Đoành – các
nhân vật thuộc vào loại “trông gớm chết” - sắp sửa cho làng một vố đau. Cái
tư cách “ông” (ông Cửu, có vai vế trong làng) được nhấn mạnh, làm đòn bẩy
cho cái bất ngờ trong hành động của nhân vật, tạo tính kịch cho truyện. Và
đồng thời, trong cái cách gọi “hắn” bằng “ông”, dường như ngấm ngầm một
thái độ đồng tình, hả hê của tác giả. Nói ngấm ngầm vì thực ra tác giả vẫn tỏ
ra lạnh lùng, nghiệt ngã với nhân vật này. Cái tư cách “ông” chẳng hề làm mờ
đi cái tư cách “hắn” trong nhân vật tai quái ấy.
Còn những tên như Chí Phèo, Thị Nở đã quá quen thuộc với bạn đọc
đến nỗi đó như những điển hình rất quen thuộc cho lớp người ngoài đời sống
hiện thực.
3.2.2.2. Cách so sánh, phóng đại, tăng cấp.
Ở truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, biện pháp so sánh được dùng để đả
kích thật mạnh vào nét tính cách xấu nào đó của nhân vật trào phúng, trong
truyện Vũ Trọng Phụng hay sử dụng so sánh phức (có nhiều mệnh đề so sánh
trong một câu) với giọng gai góc sắc nhọn chế giễu hàng loạt đối tượng theo
106
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
kiểu tạt ngang đá móc. Gặp nhiều trong văn Nam Cao là lối so sánh ví người
– vật. Tiếp thu nhuần nhuyễn lời ăn tiếng nói dân gian ông đã sử dụng những
câu ví người vật với mật độ lớn theo hai dạng. Thứ nhất, dùng nguyên dạng
thành ngữ: “đỉa phải vôi” (Điếu văn), “đàn cá tranh mồi” (Chí Phèo)...Thứ
hai, chiếm phần nhiều hơn là vận dụng để tạo câu đưa các so sánh ở cấp độ
khác nhau: “Trông anh chàng như con giun chết” (Điếu văn), “mắt híp lại như
mắt lợn sề” (Lang Rận), “đa nghi như con chuột” (Nhỏ nhen), “mặt y nhăn
như mặt hổ phù” (Những truyện không muốn viết)...
Đáng chú ý là các so sánh đều nhắc đến những đặc tính xấu của loài
vật: “Giọng điệu một kẻ sợ hãi cố cười với người nó sợ” (tả chó – Cái chết
của con mực)... Cách sử dụng so sánh ví người – vật có lẽ xuất phát từ suy
nghĩ của ông về hai chữ con người. Điều quan tâm của ông là làm sao cho con
người gần với người hơn (mỗi con người vượt thắng phần con trong mình để
đạt được tính người trong ý nghĩa cao đẹp của hai từ ấy), khi đọc những câu
văn sử dụng cách so sánh ấy, ngòi bút Nam Cao không hạ thấp con người, ai
cũng cần cần phải vươn lên sống đẹp với chữ NGƢỜI cao quý! Đằng sau cái
lạnh lùng ngỡ như tàn nhẫn là cái nhìn của một tâm hồn luôn đặt niềm tin vào
con người.
Nhà văn cũng ưa dùng những so sánh mang tính triết lý, có những triết
lý đầy suy tư dằn vặt: “Ở cảnh chúng ta lúc này, hạnh phúc cũng chỉ là một
cái chăn hẹp. Người này co thì người kia bị hở (...). Giá người ta vẫn có thể
nghĩ đến mình mà chẳng thiệt đến ai!” (Mua nhà). Có những triết lý lại chỉ
mang tính hài: “Ở nhà để cãi nhau với thị. Cãi nhau hai người thì mới đúng
phép và mới thích; cũng như đánh quần vợt, đánh cờ hay đấu kiếm, một
người không thành cuộc ...” (Cười).
Ngoài ra phóng đại – là thủ pháp được nhà văn Nam Cao sử dụng nhằm
tạo tiếng cười, thể hiện dụng ý nghệ thuật.
107
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Đọc Nhìn người ta sung sướng ta thấy thật lạ lùng đến mức khó tin.
Thông thường bà mẹ nào chẳng muốn con gái mình sung sướng, nhất nữa lại
là con gái một. Thế mà bà lão trong truyện trên thấy con gái mình sung
sướng: không phải lo nghĩ gì, trẻ như măng, vợ chồng âu yếm, chiều chuộng
nhau thì bà tức đến thành “bệnh kinh niên”, “không thuốc nào chữa được”.
Người nông dân vốn sống đơn giản, ít tưởng tượng nên thường bị ốm khi cơ
thể có bệnh. Ở đây bà cụ chỉ nhìn thấy con gái mình sung sướng mà đã phát
ốm. Cứ như một thứ thuốc phiện ngấm mạnh dần và đến lúc “phá bung ra
ngoài” thì bà nằm rên hừ hừ. Đến khi được lời an ủi của cháu, bà lại nghĩ đến
việc tạo hạnh phúc cho cháu. Nhưng lúc biết cưới xong, cháu bà sẽ đưa vợ lên
Hà Nội để được gần nhau luôn thì bà lại uất lên “sầm mặt”, “ngực nóng ran”,
hằn học chửi đứa cháu hư hỏng và đe cưới rồi bà còn “bắt ở nhà hầu bà đủ
mười bốn năm”. Ở đây sự phóng đại làm tăng thêm hiệu quả trào phúng.
Nhân vật, chi tiết được cường điệu mà vẫn có lý, được phóng đại mà vẫn chân
thực. Căn bệnh kỳ quái của bà lão phải chăng là do bà suốt đời khổ sở nên
nhìn người ta sung sướng hơn một chút thì thấy gai mắt, không thể chấp nhận
được. Tiếng cười ở đây mang ý nghĩa triết lý về một cách nhìn: xuất phát từ
sự so sánh, đối chiếu với chính bản thân để chấp nhận hoặc không chấp nhận
một cái gì trong cuộc sống.
Không chỉ cường điệu ở cốt truyện mà khi xây dựng nhân vật tác giả
cũng sử dụng cường điệu có khi tới mức kỳ quái. Thủ pháp này thường được
nhà văn sử dụng khi miêu tả ngoại hình nhân vật. Chân dung của Thị Nở (Chí
Phèo) được nhà văn dựng lên theo lối phóng đại: “Một người ngẩn ngơ như
những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn”, “cái mặt của thị thực
sự là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngẩn ngơ đến nỗi, người ta cứ tưởng
bề ngang hơn bề dài thế mà hai má lại hóp vào mới thật là tai hại (...)”. Tả
như vậy có lẽ tác giả nhằm làm tăng cái vẻ chua chát của Chí Phèo muốn có
108
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
một người vợ như vậy cũng không xong. Mặt khác tác giả có ý hài hước để
cho Thị Nở “xứng đôi” với Chí Phèo (lúc đầu truyện có tên Đôi lứa xứng
đôi).
Thông thường, người ta có thể chửi trời, chửi đời, chửi tất cả những ai
làm cho họ tức giận, còn hễ ai động đến bố mẹ người ta thì không yên. Thế
mà Chí Phèo lại “chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn” quá quắt và lạ
lùng hơn, hắn chửi cả người đẻ ra thân hắn thì đáng cười thật, đáng cười
nhưng cũng đáng thương cho một con người cô độc giữa cuộc đời. “Cái đứa
chết mẹ nào đẻ ra thân hắn” nào hắn đâu biết, đó chỉ là tiếng chửi đổng thôi.
Hắn chửi mà chẳng ai lên tiếng. Hắn là con người thừa của xã hội, con người
bị bỏ rơi ngay từ lúc mới sinh ra, lớn lên cũng vậy.
Những từ ngữ phóng đại mang nội dung miêu tả các tác động trực tiếp
với tâm lý, tình cảm và cơ thể bộ phận con người được Nam Cao sử dụng
nhiều: “tiếng cười nảy lên đành đạch” (Nhìn người ta sung sướng), “tim tôi
nhảy chồm lên như một mụ đàn bà ghen tuông” (Cái mặt không chơi được),
“đôi mắt thì long sòng sọc, chúng như muốn nhảy vọt ra” (Những truyện
không muốn viết) ...
Tăng cấp cũng là thủ pháp được Nam Cao ưa sử dụng, tăng cấp trong
hành động để thể hiện kịch tính. Đây là một đoạn văn trong Những truyện
không muốn viết: “Mặt y nhăn như mặt hổ phù. Cái mũi phình ra, nó chứa đầy
khí giận. Đôi mắt thì long sòng sọc. Chúng toan nhảy vọt ra. Ghê gớm quá!
Lại nghiến răng kèn kẹt nữa.
(...) Vợ tôi càng ngứa mắt. Y gầm lên. Y xốc váy lên trên đầu gối. Y giậm
chân bồ bồ. Rồi y lại buông váy xuống. Y vừa nhảy cẫng lên như một con gà
chọi, vừa vỗ tay đen đét mà xỉa xói vào mặt tôi :
- Đi chết đâu mà đi mãi thế? Sao không chết dẫm chết dúi ở đâu đi cho rồi?
Còn về đây làm gì? Còn vác mặt về đây làm gì?”.
109
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Những hành động cử chỉ đầy giận dữ của người vợ được tả theo lối
tăng cấp làm nhân vật “tôi” tưởng vợ ghen tuông do đã biết chuyện anh ta lên
Hà Nội đi hát cô đầu. Xung đột trào phúng được đẩy tới cao trào, chỉ đến khi
vợ bảo: “Còn về đây làm gì nữa! Cả nhà có một vé sợi nó nuốt trời mất rồi”
thì “tôi” mới hoàn hồn, “mặt thư thới”. Phép tăng cấp còn phát huy hiệu quả
trong việc bộc lộ tiếng cười tự hào của “tôi”. “Tôi” tự chế giễu cái hèn nhát
của mình. Thấy vợ giận dữ: “Tôi toát mồ hôi trán. Mắt tôi nhìn xuống mũi,
mũi tôi nhìn xuống miệng, và miệng tôi thì bịu ra. Cái thằng tôi nó hèn như
thế đấy. Chẳng bao giờ nó dám nhìn nỗi nguy vào tận mặt. Nó chỉ nhìn xuống
đất. Nó chỉ nhìn xuống đất để xem có cái lỗ nào thì chui lọt vào. Nó cứ tưởng
nó là con giun. Cố nhìn là không có lỗ. Mà có lỗ thì không chui lọt. Tôi đành
đứng ỳ ra vậy”.
Phép tăng cấp đã phát huy hiệu quả trong khi nhà văn miêu tả tâm trạng
của ông lý Nhưng (Rửa hờn) khi bị ông khóa Mẫn chửi xỏ: “Ông đỏ bừng mặt
mũi. Ông nghẹn cổ không nói ra được. Mãi đến lúc tên người nhà ông khóa ra
rồi, ông mới bật ta một tiếng. Ông chửi tục. Ông nghiến răng lại mà chửi tục.
Mắt ông nảy lửa. Mép ông sùi bọt. Người ông rung lên vì tức giận. Ông đổ
xuống cái giường như một cây gỗ đổ. Ông hậm hực. Đôi mắt ông ầng ậng
nước. Ông nghĩ đến một con dao. Ông nghĩ đến một cái búa đinh...Ông nghĩ
đến một cái chai ...Ông nghĩ đến cả một mâm rượu hắt vào mặt ông khóa
Mẫn ...”. Nỗi căm giận của ông lý Nhưng được diễn tả thật ghê gớm. Người
đọc nghĩ có thể xảy ra một vụ án mạng. Nhưng không, sau sự giận dữ ấy là
hành động ông “hằm hằm” bước ra khỏi nhà, đến nghĩa địa tìm mộ bố ông
khóa Mẫn ... “để giải thoát cho cái bong bóng”. Và thế là ông đã rửa được
hờn.
110
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
3.2.2.3. Sử dụng lời ăn tiếng nói của làng quê Bắc Bộ.
Nhà nghiên cứu Phong Lê đã nhận xét về những sáng tác của Nam Cao:
“Gần như toàn bộ những gì của Nam Cao sưu tầm được đến có thể in, có thể
đọc, trong đó một tỷ lệ lớn những trang hay, tức là những trang có thể đọc đi
đọc lại nhiều lần, mà không gây cảm giác cũ. Phải chăng đó chính là phẩm
chất của những gì thật ưu tú, là cái giá trị đã có thể đi dần vào quỹ đạo của
những gì thuộc về cổ điển” [33, tr.368]. Có lẽ điều đầu tiên góp phần làm nên
những thành tựu ấy ở Nam Cao là sự giản dị và dễ hiểu của lời văn. Nó hấp
dẫn, dễ gây thiện cảm trước hết là một văn phong giản dị mượt mà, hấp thụ
mọi biến đổi đời sống – chính là một nhà văn đã mở tâm hồn mình đón lấy
cuộc đời, đón nhận mọi “tiếng đau khổ” , “những kiếp lầm than vang dội lên
mạnh mẽ trong lòng”.
Văn Nam Cao dễ dàng được tiếp thu từ mọi bạn đọc, dù là ai, ở tầng
lớp nào cũng thấy thật dễ hiểu, văn ông gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày
của nhân dân: Mộc mạc, chân chất. Có thể nói trong truyện ngắn của ông,
chất giọng chính là giọng nói của nông dân Bắc Bộ. Vừa cộc, vừa đốp chát,
bô bô thẳng thừng, vừa tính toán, nói xuôi cũng được mà ngược lời cũng nên.
“Dường như nhà văn đã đem ngôn ngữ của làng quê Bắc Bộ vào trong truyện
của mình một cách tự nhiên nguyên vẹn, cả giọng điệu, ngôn ngữ, tính cách
và tư duy. Nhân vật luôn luôn nghĩ đi thì thế này, nghĩ lại là thế này, đằng nào
cũng có lý cả”[ 33, tr.371].
Đọc truyện ngắn Nam Cao có thể gặp rất nhiều những từ ngữ đặc biệt
của nông dân Bắc Bộ. Những từ ngữ trong sinh hoạt hàng ngày, những cách
so sánh ví von, những cách suy nghĩ nói năng. Chẳng hạn: “Chạy xạc cả gấu
váy”, “buồn cười chửa, có vậy mà cũng gắt như mắm thối”, “cứ ngay mặt ra
như cái tàn...”, “đầu gio mặt muối”, “chõ mồm vào ...”, “Giời ơi là giời! Có
111
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
chồng con nào thế không? Chỉ vác cái mặt lên như con trâu nghênh suốt ngày.
Chẳng nhìn nhõ đến cái gì. Để cho con ăn đất ngoài sân kia kìa! ...”.
Đây là một đoạn trong truyện Một đám cưới: “ ...Cô dâu chỉ mặc những
cái áo vải ngày thường nghĩa là một cái quần cộc xẫng và đụp những miếng
vá thật to, một cái áo cánh nâu bạc phếch và cũng vá nhiều chỗ lắm, một bên
tay rách quá, đã xe cụt gần đến nách. Nó sụt sịt khóc đi bên cạnh mẹ chồng,
chú rể dắt đứa em lớn của Dần. Còn thằng bé thì ông bố cõng. Cả bọn đi lủi
thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm, lẳng lặng, dắt díu
nhau đi tìm chỗ ngủ”. Như vậy thực chất đám cưới cái Dần chỉ là một đám
cưới chạy đói, để bớt đi một miệng ăn trong nhà.
Có thể nói chất giọng ngôn ngữ nông dân Bắc Bộ chi phối nhiều yếu tố
và là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên phong cách ngôn ngữ của
ông, đặc biệt là trong việc thể hiện tâm lý nhân vật. Có khi nhân vật đang suy
nghĩ, bỗng chen vào một ý nghĩ như một triết lý sống, từ cái triết lý ấy, tâm lý
nhân vật vận động. Nó làm cho tính chất triết lý trong văn phong Nam Cao trở
nên uyển chuyển, không quá khó hiểu với bạn đọc, triết lý không phải ở
những ngôn từ xa xôi mà đó thực chất là cách nghĩ, cách nói nông dân, trong
khi nói thường thêm vào những câu nhận định, những kinh nghiệm sống đã
được rút thành những chân lý, thành lẽ phải ai cũng phải công nhận trong một
hoàn cảnh xã hội nhất định, ví dụ: “Ngon hay không là tại miệng. Mà cái
miệng người đói thì ăn gì cũng ngon”, “sống khổ đến đâu cũng còn hơn chết.
Cái tâm lý chung của người đời như vậy”, “thương con thì để bụng, nuông
con thì thà giết con đi”, “người điều độ là người khôn ngoan”...
Nam Cao muốn vươn tới những ý nghĩa triết lý nhân sinh sâu rộng hơn,
triết lý về kiếp người, về sướng khổ theo cái cách của người nông dân:
“ ... Lão chua chát bảo:
112
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
- Ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta phải hóa kiếp cho nó
để nó làm kiếp người, may ra nó sung sướng hơn một chút...kiếp người
như kiếp tôi chẳng hạn!...
Tôi bùi ngùi nhìn lão bảo:
- Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng?
- Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì
cho thật sướng?
Lão cười và ho sòng sọc. Tôi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo:
- Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: bây
giờ cụ ngồi xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu
một ấm nước chè tươi thật đặc; ông con mình ăn khoai, uống nước chè,
rồi hút thuốc lào ... Thế là sướng.
- Vâng! Ông giáo dạy phải! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng”.
(Lão Hạc)
Đó là hạnh phúc nhỏ nhoi. Trong hoàn cảnh đói khổ, có được củ khoai,
tách trà, hơi thuốc lào và nhất là có được một người thông cảm được nỗi khổ,
đó là sướng. Bản thân Nam Cao thấy được sự sướng khổ chính là ở sự bất
công của xã hội, trước hết là ở sự bóc lột của giàu với nghèo. Cũng vẫn bằng
ngôn ngữ mộc mạc ấy nhà văn có những triết lý và suy nghiệm về bọn bóc
lột: “Cơm nhà giàu khó nuốt. Ăn của họ mà không làm lợi cho họ được thì họ
làm cho đến phải mửa mặt ra mà giả họ” (Một đám cưới).
Nhà văn Nguyễn Công Hoan trong Đời viết văn của tôi có nhận xét
rằng khi văn chương mà viết đúng như tiếng nói của dân tộc thì nó hay và
đứng vững mãi. Điều này cũng hết sức đúng với trường hợp của Nam Cao –
một lối viết thật giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân.
113
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
3.2.3. Ngôn ngữ nhân vật độc đáo.
Ngôn ngữ nhân vật là một trong các phương tiện quan trọng được nhà
văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật. “Ngôn ngữ nhân
vật bao giờ cũng phải đảm bảo sự kết hợp sinh động giữa cá thể và tính khái
quát, nghĩa là một mặt, mỗi nhân vật có một ngôn ngữ mang đặc điểm riêng,
có “lời ăn tiếng nói” riêng, mặt khác ngôn ngữ ấy lại phản ánh được đặc điểm
ngôn ngữ của tầng lớp người nhất định gần gũi với nghề nghiệp, tâm lý giai
cấp, trình độ văn hóa ...” [10, tr.183]. Với chủ nghĩa hiện thực, ngôn ngữ nhân
vật được coi là một đối tượng miêu tả, cá tính hóa trở thành một yêu cầu thẩm
mĩ.
Người nông dân và trí thức tiêu tư sản nghèo là những nhân vật trung
tâm, trong tác phẩm Nam Cao. Song ngoài hình tượng đóng vai trò chính ấy
tác giả còn viết về rất nhiều những con người nghèo khổ của xã hội, những
hạng cùng đinh, mà đó là những con người chiếm số đông của đất nước ta
thời đó. Nhưng một thực trạng vẫn tồn tại rất lâu dài, số người nghèo luôn
nhiều hơn số người khá giả giàu có, con người chìm ngập trong âu lo cho số
phận mình, họ không đoán định được tương lai thế nào. Bản thân Bác Hồ là
người đã nghiền ngẫm rất kĩ và nhận thấy tình cảnh này, trước Cách mạng
đâu đâu cũng là người nghèo đói, Người ví số người đó như vành của chiếc
nón úp và ta phải lật ngược tình thế ấy. Cách mạng thành công là bước ngoặt
trong đời sống chính trị tinh thần của nhân dân ta, thay đổi cơ bản về những
mặt đó, trước hết con người được thỏa sức trong môi trường sống của
mình, vấn đề cơm áo không còn quá nặng nề như trước.
Người nông dân vẫn chiếm số đông và là đối tượng miêu tả của nhiều
nhà văn trước Nam Cao như trong tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công
Hoan…Trong sáng tác của Nam Cao, nhân vật người nông dân vẫn có nét
riêng của mình và nhân vật cũng có đặc điểm riêng. Ngôn ngữ nhân vật cho
114
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
thấy vẻ đẹp của lối viết văn tước đi mọi trang sức. Lời lão Hạc (Lão Hạc) là
sự lên tiếng của tính cách, của giọng điệu, của cả tâm lý nông dân của lão vốn
nặng những lo toan, tính đếm, kể lể, cà kê…nhiều câu rất bâng quơ, lạc điệu
so với mạch đối thoại, khiến nó có cái vẻ lẩn thẩn, lẩm cẩm rất riêng. Nhưng
thực ra nó che giấu một mạch ngầm. Những lời gàn gàn, lẩn thẩn lại là những
trao gửi, ủy thác khôn ngoan nhất của một người sắp đi vào cái chết. Đó là
những lời mà độ dư vang của nó không cảm nhận được tức thời, nó vang lên
ở không gian khác. Chỉ khi truyện kết thúc, ta mới thấy tiếng vọng chợt nhói
lên của nó. Những lời ấy chợt mở ra cái thế giới cao đẹp đầy dữ dội và hết sức
cô đơn của lão Hạc. Nó chưa từng được cảm thông. Đến khi cảm thông được
thì đã muộn mất rồi!
Nhân vật trong sáng tác của Nam Cao rất hay độc thoại nội tâm bởi
dòng chảy về cuộc sống, con người trong ý nghĩa nhân vật là miên man vô
tận. Có thể nói chỉ khi nào dòng đời thôi không chảy nữa thì nhân vật mới
dừng suy nghĩ.
Ngôn ngữ đối thoại cũng thể hiện rõ nét đặc trưng bút pháp nhà văn.
Nguyễn Công Hoan dựa trên cái nền hiện thực cường điệu, phóng đại thành
đối thoại như một phần của bức biếm họa nhằm lật phăng cái mặt nạ của “tấn
trò đời”. Còn những đối thoại của Nam Cao chân thực đến xù xì, góc cạnh
như được đưa thẳng từ cuộc đời vào trong sách. Anh Chí Phèo (Chí Phèo) đã
từng đến nhà Bá Kiến đặt thẳng vấn đề xin lại được ở tù lần nữa và cụ Bá thì
không ngần ngại tỏ rõ ý định thâm độc của mình:
“Cụ Bá quát, bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh của người.
- Anh này lại say khướt rồi!
Hắn xông lại gần, đảo ngược mắt, giơ tay lên nửa chừng:
- Bẩm không ạ, bẩm thật là không say. Con đến xin cụ cho con đi ở tù mà
nếu không được thì…thì…thưa cụ…
115
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
Hắn móc đủ mọi túi, để tìm một cái gì, hắn giơ ra: đó là một con dao nhỏ,
nhưng rất sắc. Hắn nghiến răng nói tiếp:
- Vâng, bẩm cụ không được thì con phải đâm chết dăm ba thằng, rồi cụ bắt
con giải huyện.
Rồi hắn cúi xuống, tần mần gọt cái bàn lim. Cụ Bá cười khanh khách. Cụ vẫn
tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy. Cụ đứng lên vỗ vai hắn mà bảo rằng:
- Anh bứa lắm. Nhưng này, anh Chí ạ, anh muốn đâm chết người cũng không
khó gì. Đội Tảo nó còn nợ tôi năm mươi đồng đấy, anh chịu khó đến đòi cho
tôi, đòi được tự nhiên có vườn”.
Trong những truyện ngắn của Nam Cao, nhân vật độc thoại nội tâm
nhiều, nhân vật sống với kỉ niệm, với hiện tại và cả chút mơ ước về tương lai.
Nam Cao không phải là nhà văn đầu tiên sử dụng độc thoại nội tâm. Độc
thoại nội tâm xen giữa dòng đối thoại, đi sâu vào hồi tưởng quá khứ và mong
ước với mai sau. Độc thoại nội tâm trong tâm trạng đơn độc của nhân vật, độc
thoại nội tâm trong khi vui chuyện chung của nhiều người. Độc thoại nội tâm
của nhân vật có thể là một ý nghĩ ngắn bột phát, nảy sinh tức thời: “Và lắm
lúc thị ngạc nhiên: sao người ta ghê hắn thế?” (Chí Phèo), “dù thấy bồn chồn
và vẩn vơ: thương, hối hận hay là thẹn…Phải dám giết mà không run tay khi
cần phải giết. Còn làm được trò gì nữa nếu chỉ giết một con chó mà tim cũng
đập?” (Cái chết của con mực)…Có khi độc thoại nội tâm là kết quả của một
chiêm nghiệm, tổng kết đầy thấm thía: “Buồn thay cho đời! Có lý nào như thế
được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu ...” (Chí Phèo), hoặc
chất chứa sự bất lực đầy chua xót khi con người phải từ bỏ những ước vọng
được viết, được sáng tạo văn chương nghệ thuật hay những ám ảnh về cái đói
cái nghèo trong tâm trí con người. Nhưng những cảm xúc yêu thương thắp lên
chất người trong mỗi con người vẫn là những độc thoại nội tâm sâu kín, đẹp
đẽ nhất trong những truyện ngắn của Nam Cao: “...Cho nên thị nghĩ: mình bỏ
116
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau
như “vợ chồng”. Gớm! Sao lại có thứ người đâu mà lì quá thế! Người ta ngồi
đấy mà dám xán lăn ngay vào, nó chả ngang ngược mà người ta kêu bé, nó lại
làm to hơn. Mà kể thì cũng ngù ngờ. Cái thằng trời đánh không chết ấy, nó
còn sợ ai mà hòng kêu. Nhưng mà đáng kiếp. Thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ
gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được, đang ốm thế thì chỉ ăn
cháo hành. Ra được mồ hôi là nhẹ nhõm người ngay đó mà ...” (Chí Phèo).
Cách diễn đạt giản đơn, ngây ngô những thẳm sâu lại thắp lên chất ngọc
đẹp đẽ cao cả của tình người đầy yêu thương. Những con người bất hạnh,
cùng đường, cô độc tìm đến với nhau, lo nghĩ cho nhau để lần đầu biết đến
hai tiếng vợ chồng thật giản dị, hạnh phúc của con người dẫu nhỏ bé, giản
đơn nhưng thật quý giá, nó chính là “chất người trong con người” mà Nam
Cao đã chắt chiu tìm kiếm và nuôi dưỡng trong sâu nhất của hồn người.
3.3. Tiểu kết
Một nhà văn đích thực phải ý thức về mình như một nhà ngôn ngữ vì
“ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên quy định cung cách ứng xử” của nhà văn, là
phương tiện bắt buộc để nhà văn giao tiếp với bạn đọc.
Đối với văn chương, ngôn ngữ không chỉ là “cái vỏ của tư duy” mà còn
là tài năng, cá tính và quan điểm nghệ thuật. Ngôn ngữ trong văn Nam Cao
luôn luôn mới mẻ với bạn đọc vì trước hết đó là văn của đời sống hiện thực,
là lời ăn tiếng nói mà ta vẫn thấy hàng ngày, những câu triết lý trong tác phẩm
cũng được diễn đạt dưới dạng cụ thể nhất.
Ngôn ngữ nhân vật được nhà văn khai thác tối đa, nhân vật nói những
điều cần nói và nói chính ngôn ngữ của mình. Trong khuôn khổ truyện ngắn,
truyện Nam Cao là những mảnh đời đến với ta từ nhiều phía, và trong nhiều
dạng, không trùng lặp, không đơn điệu. Bằng một giọng trầm buồn, một sức
nén của cảm xúc, Nam Cao như lùi lại sau hàng rào ngôn ngữ, để cho ta cảm
117
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
nhận trực tiếp cái đa thanh của cuộc đời. Cuộc đời như vốn có. Cuộc đời như
chính nó.
Ngôn ngữ hiện thực Nam Cao, một giọng điệu Nam Cao - đó là nét in
dấu và nổi đậm lên trên những trang văn của ông, khiến cho tác giả không lặp
lại những Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng,
Tô Hoài ...và đưa ông lên hàng đầu dòng văn học hiện thực Việt Nam đang đi
vào chặng cuối - trước khi vào bản lề Cách mạng.
118
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
KẾT LUẬN
Bạn đọc khi tiếp nhận tác phẩm của Nam Cao xin đừng dừng ở bề mặt
của chữ nghĩa mà hãy lặn sâu vào những tầng ý nghĩa thì mới thấy được ánh
sáng long lanh như ngọc của nó. Như J.O.Gasset đã nói rằng trong khi tạo ra
thế giới bên trong riêng của mình, tiểu thuyết tất yếu hủy diệt thế giới bên
ngoài. Mục đích cuối cùng của nghệ thuật chính là đưa lại cái nhìn về sự vật
và thế giới đầy đủ và sâu sắc hơn. Đối với truyện ngắn cũng như thế. Và
truyện ngắn Nam Cao với những kỹ thuật tự sự độc đáo, đã đưa lại cái nhìn
chân thực và sâu sắc về hiện thực.
Những “kỹ thuật” tự sự của Nam Cao đã có đóng góp lớn trên con
đường hiện đại hóa văn học từ những ngày đầu tiên. Ông đã tìm cho mình
một hướng đi riêng trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực. Nếu như
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố – những nhà văn hiện thực
xuất sắc thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936 – 1939) đến tập trung phản ánh trực
tiếp những mâu thuẫn, xung đột xã hội thì sáng tác của Nam Cao - đại biểu ưu
tú nhất của trào lưu hiện thực chặng đường cuối cùng (1940 – 1945) tập trung
thể hiện xung đột trong thế giới nội tâm nhân vật. Chưa bao giờ những
chuyện vặt vãnh hằng ngày lại có một sức mạnh ghê gớm như trong sáng tác
của ông, từ những chuyện rất đời thường, Nam Cao đã thực sự đụng chạm
đến vấn đề có tính chất nhân bản, đã đặt ra những vấn đề sâu sắc từ cuộc
sống, về thân phận con người, về vấn đề cải tạo xã hội, về tương lai dân tộc và
nhân loại. Ông đã sống hết mình và viết cũng hết mình, ông quan niệm “sống
đã rồi hãy viết”. Đến khi đất nước lên tiếng gọi, ông đã cầm bút và sống cho
cuộc chiến đấu vĩ đại ấy.
Những truyện của ông có sức hấp dẫn không bị phải mờ bởi thời gian,
dù đến thời đại ngày nay văn học đã có những bước phát triển mới, không khí
119
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
thời đại cũng khác, bạn đọc có những nhu cầu thưởng thức đa dạng. Khi đọc
văn Nam Cao, người thưởng thức văn chương nghệ thuật vẫn thấy hấp dẫn và
đôi khi họ thấy văn Nam Cao là bóng dáng đang diễn ra ngoài kia.
Tác phẩm Nam Cao có nhân vật người kể chuyện lúc hóa thân vào
xưng “tôi” để kể chuyện lúc thì tách ra kể ở ngôi thứ ba khách quan, cũng có
khi nhập vào điểm nhìn của nhân vật trong truyện. Điểm nhìn trần thuật trong
truyện ngắn Nam Cao đa dạng và luôn vận động, có nhiều tiếng nói vang lên
và đối thoại, sự đan xen hòa nhập các tiếng nói tạo sự thay đổi trong điểm
nhìn trần thuật khiến lời văn biến hóa một cách sinh động. Việc xuất hiện một
người kể chuyện linh hoạt làm cho điểm nhìn tự sự phong phú, tạo điều kiện
cho ngòi bút nhà văn di chuyển tới mọi ngóc ngách cuộc sống tâm hồn con
người.
Người kể chuyện trong truyện ngắn Nam Cao hết sức khéo léo để dẫn
dắt bạn đọc vào truyện, cuốn hút bạn đọc vào những biến thái tâm lý sâu thẳm
trong mỗi nhân vật và khơi dậy việc tự nhận thức ở người đọc. Với các cách
kể truyện khác nhau, cách xuất hiện khác nhau của người kể chuyện sẽ có các
dạng truyện khác nhau. Với vai trò đại diện của tác giả, người kể chuyện
trong truyện ngắn Nam Cao đem đến cho độc giả những đề tài mà phần nào
đã từng diễn ra, từng ảnh hưởng nhiều trong cuộc đời tác giả. Người nghệ sĩ
chân chính sáng tạo không chỉ vì mưu sinh, kiếm sống mà trước hết là vì nhu
cầu sáng tạo thôi thúc từ bên trong, văn chương phải mới lạ, độc đáo. Với
Nam Cao, văn chương phải có chiều sâu của nghệ thuật sáng tạo đích thực và
các sáng tác phải thật sự có ích. Đó là lý do nhà văn đã sống và viết vì mọi
người, cho nhân dân, cho đất nước.
Bên cạnh đó cốt truyện cũng khá quan trọng, nhiều truyện của Nam
Cao được xếp vào “truyện như không có cốt truyện” nhưng luôn có những
mạch ngầm khiến kết cấu khó có thể bị phá vỡ. Truyện ngắn trước Cách mạng
120
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
tháng tháng Tám của Nam Cao là truyện tâm lý vì vậy cốt truyện tâm lý được
triển khai cùng với những kiểu kết cấu đặc sắc. Trong đó nhà văn biết khai
thác triệt để sức mạnh phản ánh của những chi tiết, sức mạnh bật phá của tình
huống, thử thách nhân vật làm nổi bật lên những bi hài kịch của cuộc sống nội
tâm con người. Nhiều nhà văn cùng thời với Nam Cao đã sáng tạo ra nhiều
tình huống truyện rất độc đáo nhưng không có ai như Nam Cao đã khai thác
kỹ tình huống truyện dưới dạng những điều kiện để miêu tả chiều sâu của đời
sống tâm linh con người, để trình bày quan điểm của mình về đời sống dưới
dạng thẩm mĩ.
Trong tác phẩm Nam Cao, ngôn ngữ và giọng điệu cũng là một phần
tạo nên sức hấp dẫn với bạn đọc, đồng thời ông tạo cho mình được một phong
thái ngôn ngữ - giọng điệu của riêng mình mà không trùng lặp với các nhà
văn tên tuổi cùng thời như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công
Hoan… Đọc truyện ngắn Nam Cao ta thường gặp một giọng điệu đa âm mà ở
đó khi thì là ngôn ngữ nhân vật, khi thì là ngôn ngữ trần thuật của người kể
chuyện, có khi là lời đan xen của tác giả tạo nên những trang sinh động. Nam
Cao kể bằng suy nghĩ nội tâm của chính mình hòa với ý thức của nhân vật và
luôn thay đổi điểm nhìn trong giọng kể. Ông có một giọng kể khi vào truyện
tự nhiên thật như chính cuộc sống vẫn diễn ra, điền nay khiến truyện ngắn
Nam Cao trở nên gần gũi với mọi người và thật “giản dị mà lạ lùng” như nhà
văn Vũ Bằng cảm nhận.
Tác giả vừa kể chuyện vừa suy ngẫm, người ta hay nói đến lời văn hai
giọng của ông, lời trần thuật của tác giả, lời độc thoại của nhân vật có khi hòa
nhập, xuyên thấm lẫn nhau tạo thành lời nửa trực tiếp. Đó là một thứ ngôn
ngữ giọng điệu đa thanh mang tính đối thoại rất hiện đại. Sắc thái giọng điệu
trong truyện ngắn Nam Cao cũng rất đa dạng và có sự đan xen giọng điệu:
giọng điệu triết lý, giọng điệu hài hước mỉa mai, giọng điệu giễu nhại, giọng
121
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
điệu bi quan chua chát… Đôi khi đọc truyện Nam Cao bạn đọc cũng thấy tác
giả bi quan trong khi nhìn nhận con người và thế sự, nhưng không vì thế mà
ông quên đi trách nhiệm của một nhà văn khi cầm bút viết về vấn đề con
người.
Ngôn ngữ trong văn Nam Cao không quá xa lạ với bạn bạn đọc. Ông
thường dùng những câu văn ngắn nhanh chóng giúp bạn đọc chiếm lĩnh, chỉ
dẫn bạn đọc, đồng thời lời văn cũng dễ hiểu, không quá trừu tượng, đôi khi
thô mộc nhưng vẫn tự nhiên và mượt mà. Ngôn ngữ trong tác phẩm của ông
thực sự đi sâu vào lòng người, thực sự là lời ăn tiếng nói của nhân dân. Khá
nhiều truyện ngắn của nhiều tác giả thành công đã vay mượn “tố chất” của
các thể loại khác nhưng nghệ thuật lời văn Nam Cao lại chính ở chỗ nó đã
tước đi mọi thứ trang sức, hay ở chính trong tính văn xuôi của nó.
Luận văn đã đề xuất việc nghiên cứu tác phẩm Nam Cao từ phương
pháp nghiên cứu tự sự học – một công cụ hữu ích cho việc vận dụng đối với
các sáng tác văn học cụ thể. Song giá trị văn chương Nam Cao để lại còn rất
nhiều điều ta chưa thể khám phá hết, mỗi thời đại khi tiếp nhận sáng tác Nam
Cao sẽ còn thấy được những điều được coi là muôn thuở, những vấn đề nan
giải của thời đại mình như vấn đề về con người, hạnh phúc, cái đói nghèo,
nhân phẩm ...Nhà làm phim Đoàn Lê khi nhắc lại kỷ niệm làm phim chuyển
thể từ các tác phẩm của Nam Cao cảm nhận về văn và đời nhà văn: “…dù làm
phim hay cầm bút, cái ma lực trong văn chương ông không ngừng cuốn hút
tôi. Cái ma lực ấy là sự chân thật sinh động đến kỳ lạ. Mỗi chữ đều tựa hồ từ
đáy lòng của ông không chút sai ngoa, tô vẽ. Bao năm qua, càng đọc văn ông
càng thấy mình bị chinh phục bởi sự chân thật ấy. Càng không thể phân biệt
được con người ông là cái toàn thể hay một phần nhỏ trong dòng đời mênh
mang kia, người đã dùng nguồn sáng khôn soi rọi vào chính mình, soi vào
cảnh ngộ chung của cộng đồng mình, để thấy ra một lẽ sống” [33, tr.542].
122
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1992), Nam Cao và cuộc cách tân văn học đầu thế
kỷ XX, Tạp chí văn học, số 1.
2. Vũ Khắc Chương (2000), Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm
Nam Cao, NXB Văn học.
3. Nguyễn Văn Dân (2004) Phương pháp luận nghiên cứu văn học,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
4. Đinh Trí Dũng (2005), Nhân vật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, NXB
Khoa học Xã hội, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.
5. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng, Nguyễn Trác, Hà Văn
Đức (1999), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
6. Hà Minh Đức (1961), Nam Cao, nhà văn hiện thực xuất sắc, NXB
Văn học, Hà Nội.
7. Hà Minh Đức (1999), Tuyển tập Nam Cao, Tập 1, NXB Văn học,
Hà Nội.
8. Hà Minh Đức (1999), Tuyển Tập Nam Cao, Tập 2, NXB Văn học,
Hà Nội.
9. Hà Minh Đức (1998), Nam Cao - đời văn và tác phẩm, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật
ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
11. Lê Thị Đức Hạnh (1991), Nguyễn Công Hoan (1903 - 1907), NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, NXB Văn học, Hà
Nội.
123
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
13. Trần Văn Hiếu (1997), Ba phong cách trào phúng trong văn học
Việt Nam thời kỳ 1930 – 1945: Nguyễn Công Hoan – Vũ Trọng
Phụng – Nam Cao, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
14. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, NXB Khoa học Xã
hội và NXB Cà Mau.
15. Nguyễn Công Hoan (1971), Đời viết văn của tôi, NXB Văn hóa, Hà
Nội.
16. Nguyễn Công Hoan (2006), Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ
Chí Minh, quyển 1, NXB Văn học Hà Nội.
17. Nguyễn Công Hoan (2006), Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ
Chí Minh, quyển 2, NXB Văn học Hà Nội.
18. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
19. Tô Hoài (1997), Những gương mặt: Chân dung văn học, NXB Hội
nhà văn, Hà Nội.
20. Vũ Ngọc Khánh (1974), Nhà thơ trào phúng Việt Nam – phần văn
học viết từ thế kỷ XIII đến 1945, NXB Văn học, Hà Nội.
21. Đinh Gia Khánh (2002) Văn học Việt Nam (Thế kỷ X - nửa đầu thế
kỷ XVIII) NXB Giáo dục, Hà Nội.
22. Nguyễn Hoành Khung (1978), Nam Cao – Giáo trình lịch sử văn
học Việt Nam 1930 – 1945, tập 5 – phần 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.
23. Đinh Trọng Lạc (2002), 99 phương tiện và biện pháp tu từ Tiếng
Việt (in lần thứ 6), NXB Giáo dục , Hà Nội.
24. Hoài Lam (1973), Tìm hiểu mỹ học Mác – Lênin, NXB Văn hóa , Hà
Nội.
25. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB
Đại học Sư phạm Hà Nội.
124
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
26. Phương Lựu (Chủ biên) (2003), Lý luận văn học, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
27. Phương Lựu (1995), Tìm hiểu lý luận văn học phương Tây hiện đại,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
28. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB
Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam.
29. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật
của nhà văn, (in lần thứ 2), NXB Giáo dục, Hà Nội.
30. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Những bài giảng về tác giả văn học
trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, tập 1, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
31. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Giáo trình văn học lịch sử Việt Nam
1930 – 1945, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
32. Tôn Thảo Miên (2004), “ “Lời giới thiệu”, Vũ Trọng Phụng toàn
tập”, tập 5, NXB Văn hóa, Hà Nội.
33. Nhiều tác giả (2001), Nam Cao – về tác giả và tác phẩm, (Bích Thu
biên soạn và tuyên chọn), NXB Giáo dục, Hà Nội.
34. Nhiều tác giả (1992), Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn.
35. Nhiều tác giả (2001), Nguyễn Công Hoan – về tác giả và tác phẩm,
(Lê Thị Đức Hạnh giới thiệu và tuyển chọn), NXB Giáo dục, Hà
Nội.
36. Hoàng Phê (1997), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng và Trung tâm
Từ điển học.
37. Vũ Trọng Phụng (2004), Vũ Trọng Phụng toàn tập, tập 5, NXB Văn
học, Hà Nội.
125
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao...
38. Nguyễn Mạnh Quỳnh (2008) Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng nhìn từ
lý thuyết thời gian tự sự của G.Genette, Luận án tiến sỹ khoa học
ngữ văn, Hà Nội
39. Diệp Tú Sơn (1991), Mỹ học tiểu thuyết, NXB Đông Dương (tái bản
lần 2 – 1997), Người dịch: Nguyễn Kim Sơn, Hà Nội, 2004.
40. Trần Đình Sử (2006), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
41. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt
Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
42. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2004), Tự sự học – một số vấn đề lý luận
và lịch sử, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
43. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2004), Tự sự học – một số vấn đề lý luận
và lịch sử, phần 2, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
44. Trần Đình Sử, Nguyễn Thanh Tú (2001), Thi pháp truyện ngắn trào
phúng Nguyễn Công Hoan, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
45. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn – những vấn đề lý thuyết và
thực tiễn thể loại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
46. Nguyễn An Tiêm (1993), Cái hài từ truyện cười dân gian đến văn
xuôi hiện đại, Văn hóa dân gian (4), Trang 24 – 28.
47. Nguyễn Quang Trung (2002), Tiếng cười Vũ Trọng Phụng, NXB
Văn hóa Thông Tin, Hà Nội.
48. Phùng Văn Tửu (1990), Tiểu thuyết Pháp hiện đại, những tìm tòi
đổi mới, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
126