Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

...........***.........

HÀ MỸ HẠNH

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN

NGUYỄN CÔNG HOAN TRƯỚC CÁCH MẠNG

THÁNG 8 NĂM 1945

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2009

1

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

...........***.........

HÀ MỸ HẠNH

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN

NGUYỄN CÔNG HOAN TRƯỚC CÁCH MẠNG

THÁNG 8 NĂM 1945

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số : 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn: PGS.TS Hà Văn Đức

HÀ NỘI - 2009

2

MỤC LỤC

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

MỞ ĐẦU………………………………………………………………… ..3

1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………. 3

2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………….. 5

3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu…………………………. 6

4. Phƣơng pháp nghiên cứu……………………………………………….11

5. Cấu trúc của luận văn…………………………………………………. 12

NỘI DUNG……………………………………………………………….. 13

Chƣơng 1. Ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

trƣớc Cách mạng …………………..…………………………………..... 13

1.1. Điểm nhìn tự sự ……………………………………………………14

1.1.1. Điểm nhìn khách quan……………………………………………..15

1.1.2. Điểm nhìn chủ quan………………………………………………..21

1.1.3. Di chuyển điểm nhìn……………………………………………….25

1.2. Vai trò ngƣời kể chuyện…………………………………………..27

1.2.1. Người kể chuyện trong sứ mệnh tạo ra mạch tự sự………………28

1.2.2. Người kể chuyện mang tiếng nói, quan điểm của tác giả

về cuộc sống, con người và nghệ thuật …………………………………..33

Chƣơng 2. Không gian - Thời gian tự sự trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan trƣớc Cách mạng ………………………………….36

2.1. Không gian tự sự…………………………………………………….37

2.1.1. Không gian sinh hoạt đời thường – Bối cảnh hoạt động

3

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

của nhân vật……………………………………………………………….38

2.1.2. Không gian hạn hẹp, chật chội, cố định……………………………41

2.1.3. Không gian tương đồng với cảnh ngộ của nhân vật ………………46

2.2. Thời gian tự sự………………………………………………………...52

2.2.1. Hiện tại – quá khứ trong thời gian tự sự……………………………53

2.2.2. Khoảng thời gian ngắn, hạn hẹp……………………………………64

2.2.3. Nhịp điệu trần thuật nhanh………………………………………....66

Chƣơng 3. Ngôn ngữ tự sự và giọng điệu tự sự trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan trƣớc Cách mạng ………………….……………….72

3.1. Ngôn ngữ tự sự………………………………………………………..73

3.1.1. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đánh dấu sự trưởng thành

và hoàn thiện của ngôn ngữ văn xuôi quốc ngữ………………………….73

3.1.2. Sự sinh động, phong phú, gần gũi với ngôn ngữ đời sống………...75

3.1.3. Ngôn ngữ nhân vật đặc trưng……………………………………….80

3.2. Giọng điệu tự sự……………………………………………………….85

3.2.1. Tính phức điệu hóa…………………………………………………..86

3.2.2. Các kiểu giọng điệu………………………………………………….89

KẾT LUẬN…………………………………………………………………95

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………99

PHỤLỤC…………………………………………………………………..105

4

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Chỉ trong khoảng mười lăm năm, dòng văn học hiện thực Việt Nam

1930 - 1945 đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn, bền vững. Trên hành

trình đưa văn chương nước nhà từ trung đại sang hiện đại vào nửa đầu thế kỉ

XX, dòng văn học hiện thực là một khâu đột phá, đã thực sự góp phần làm

vinh dự, làm vẻ vang không chỉ cho nền văn học dân tộc nói riêng mà cả cho

diện mạo văn hoá Việt Nam nói chung.

Song, nói đến văn học hiện thực Việt Nam 1930 - 1945, không thể

không nhắc tới Nguyễn Công Hoan, bởi ông chính là người đã đặt những viên

gạch đầu tiên xây đắp nền móng cho dòng văn học ấy. Như nhà nghiên cứu

Phan Cự Đệ nhận xét: “Nguyễn Công Hoan thuộc lớp nhà văn những năm 20

đầu thế kỉ, lớp người đang mò mẫm, tìm đường, khai phá. Công lao của ông

là giữa những con đường đan nhau ở các ngã ba, ngã tư, nơi mà những người

cầm bút còn đang phân vân, thậm chí có thể lạc lối giữa những nguồn ảnh

hưởng phức tạp, cũ mới tốt xấu lẫn lộn, ông đã chọn con đường đi về phía

truyền thống dân tộc, về phía quần chúng bị áp bức, con đường của chủ nghĩa

hiện thực phê phán Việt Nam” [26,175].

Là người xuất hiện sớm nhất và có ảnh hưởng to lớn trong dòng văn

học Việt Nam hiện đại, với những thành tựu xuất sắc đã đạt được trước Cách

mạng tháng 8 (hơn 200 truyện ngắn và hơn 20 truyện dài), Nguyễn Công

Hoan xứng đáng là một nhà văn lớn, tiêu biểu cho nền văn học hiện thực phê

phán Việt Nam.

Dẫu viết nhiều thể loại, Nguyễn Công Hoan vẫn chủ yếu thành công

nhất ở truyện ngắn. Và chính ở địa hạt của thể loại này, Nguyễn Công Hoan

đã có được một vị trí đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam, một phong

cách nghệ thuật độc đáo trong truyện ngắn trào phúng khó ai có thể vượt qua.

5

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Vì vậy, luận văn đặt vấn đề: nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan trước cách mạng từ góc độ tự sự học, nhằm lý giải sức

sống và sự hấp dẫn, mới mẻ của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, từ những

thành tố tạo nên cấu trúc nội tại của một truyện kể.

Tìm hiểu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, luận

văn góp phần nhận thức sâu sắc về khái niệm tự sự học và nghệ thuật tự sự

trong truyện ngắn – là một trong những hướng nghiên cứu quan trọng nhằm

giải mã cấu trúc nghệ thuật của truyện kể.

Tìm hiểu khái niệm tự sự học, vận dụng trong nghiên cứu truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng, những kết quả thu được từ luận văn

cũng góp phần hữu ích trong việc phê bình và giảng dạy văn học nói chung và

truyện ngắn Nguyễn Công Hoan nói riêng.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Giới thuyết khái niệm tự sự học

2.1.1. Quan niệm tự sự học

Tự sự học là một ngành nghiên cứu được định hình từ những năm 60 –

70 của thế kỉ XX ở Pháp, nhưng đã nhanh chóng vượt qua biên giới, trở thành

một trong những lĩnh vực học thuật được quan tâm phổ biến trên thế giới.

Bước sang thế kỉ XXI, thi pháp tự sự đã có những đổi thay đáng kinh

ngạc, có thể nói là tự sự học đã phục hưng, từ giai đoạn kinh điển của chủ

nghĩa cấu trúc bước sang giai đoạn hậu kinh điển. Tự sự học hậu kinh điển chỉ

coi tự sự học kinh điển như một khoảnh khắc quan trọng của mình, bởi vì nó

còn hấp thu nhiều phương pháp luận và giả thiết nghiên cứu mới, mở ra nhiều

cách nhìn mới về hình thức và chức năng tự sự. Hơn nữa, giai đoạn tự sự học

hậu kinh điển không chỉ phơi bày những hạn chế của mô hình tự sự học cấu

trúc chủ nghĩa cũ, mà còn lợi dụng các khả năng của chúng, đánh giá lại các

phạm vi ứng dụng của chúng.

6

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Như vậy, nhìn lại quá trình hình thành tự tự học đến nay có thể nhận

thấy những đổi thay hệ hình lí thuyết, các tầng bậc và phương pháp nghiên

cứu tự sự.

Hệ hình tự sự học kinh điển tập trung nghiên cứu cấu trúc của truyện,

mối quan hệ của các sự kiện tạo nên truyện. Tz. Todorov định nghĩa: “Tự sự

học là lí luận về cấu trúc của tự sự. Để phát hiện cấu trúc và miêu tả cấu trúc

ấy, người nghiên cứu tự sự đem hiện tượng tự sự chia thành các bộ phận hợp

thành, sau đó cố gắng xác định chức năng và mối quan hệ qua lại của chúng”

[71, 9]. Giai đoạn phát triển tiếp theo, tự sự học kinh điển chú ý nghiên cứu

diễn ngôn tự sự, tức là ngôn ngữ trần thuật và các yếu tố tạo nên nó: người kể,

hành động kể, ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu, thời gian…mà đại diện tiêu

biểu là Todorov (hậu kì), G. Genette, S. Chatman, G. Prince. Nhờ đó, lí thuyết

tự sự cấu trúc chủ nghĩa đã cung cấp một hệ thống các khái niệm công cụ rất

có hiệu quả để phân tích diễn ngôn tự sự và đó là một di sản vô giá để đọc

hiểu văn bản tự sự.

Song, tự sự học hậu kinh điển xuất hiện tiếp đó như một hướng nghiên

cứu mở, mở ra với người đọc, với ngữ cảnh và mở ra với các lĩnh vực tự sự

ngoài văn học.

Nhà nghiên cứu Hà Lan Mieke Bal đã kết hợp nghiên cứu cấu trúc

chuyện với văn bản và định nghĩa khác hẳn Todorov: “Tự sự học là lí luận về

trần thuật, văn bản trần thuật, hình tượng, hình ảnh sự vật, sự kiện cùng sản

phẩm văn hóa kể chuyện” [71, 12]. M. Bal chia tự sự làm ba tầng bậc: văn

bản trần thuật (narrative text), chuyện kể (story), chất liệu (fabula), mỗi tầng

lại có các khái niệm hạt nhân. Công trình của M. Bal đã cung cấp một hệ

thống khái niệm được định nghĩa khá chính xác, chặt chẽ và hệ thống, có thể

làm cơ sở cho các công trình nghiên cứu tự sự.

Tự sự học hậu kinh điển còn quan tâm đến mối quan hệ giữa tự sự và

tiếp nhận, các quy luật động trong tự sự, mở rộng phạm vi liên ngành của tự

7

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

sự học (như nghiên cứu tự sự học tâm lí, tự sự học lịch sử, tự sự học pháp

luật, tự sự học tu từ, tự sự học hậu hiện đại, …), phương tiện kể, hay các

khuynh hướng mới trong tự sự học khác như tự sự học so sánh, tự sự học văn

hóa học… Vì vậy, đến nay, tự sự học vẫn nhận được sự hưởng ứng rộng rãi

của giới nghiên cứu trên phạm vi toàn thế giới.

2.1.2. Tự sự học trong nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam

Tự sự học là câu chuyện đã qua cách đây gần nửa thế kỉ ở Pháp. Các

tác giả xuất sắc của trường phái này đã chuyển hướng nghiên cứu. Cụ thể,

Todorov đã chuyển sang nghiên cứu đạo đức và mĩ học. Song, không phải vì

“tính lịch sử” mà chúng ta phủ nhận tầm quan trọng của tự sự học trong tình

hình lí luận văn học hiện nay ở Việt Nam.

Lí thuyết tự sự học gắn liền với nhiều vấn đề quan trọng của bản chất

văn chương, vì vậy nó có khả năng thích ứng với mọi thời đại. Hơn nữa, mỗi

dân tộc có một đặc thù riêng trong tiến trình lịch sử văn học. Ở Việt Nam,

trong những năm gần đây, chúng ta đã chiếm lĩnh được những vấn đề cơ bản

của phân môn Tự sự học. Tự sự học đã trở thành một làn sóng, một khuynh

hướng nghiên cứu trong các trường đại học. Hội thảo Tự sự học năm 2001 tại

Đại học sư phạm Hà Nội và việc xuất bản tập công trình tuyển chọn Tự sự

học, một số vấn đề lí luận và lịch sử (Trần Đình Sử chủ biên) đã đánh dấu

một bước khởi đầu mới trong nghiên cứu tự sự học tại Việt Nam. Năm 2007,

tiếp tục hội thảo về Tự sự học, GS. Trần Đình Sử đã tuyển chọn và cho ra đời

công trình Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử - Phần 2, khẳng định vị

trí của Tự sự học. Nhiều công trình khoa học đã mang lại những kết quả bất

ngờ, nhờ vận dụng lí thuyết tự sự vào việc nghiên cứu các hiện tượng văn học

cụ thể.

Đồng thời, xuất hiện một số bài viết nghiên cứu, công trình dịch thuật

các công trình của các tác giả trên thế giới như Roland Barthes, Hayden

White, G. Genete, Mieke Bal... Trong đó, tuy chưa thật nhiều các công trình

8

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

trình bày có hệ thống hoặc cụ thể cặn kẽ các tư tưởng tự sự học nước ngoài,

song đó chính là những tư liệu tham khảo về cơ sở lí luận đáng quí đối với

người nghiên cứu.

Hơn nữa, để các khái niệm tự sự học không trở nên xơ cứng, các nhà

nghiên cứu đã kết hợp ba khuynh hướng nghiên cứu: Thi pháp học, Cấu trúc

học, và Tự sự học. Đối tượng của tự sự học ngày nay không chỉ là ngữ pháp

tự sự nói chung mà còn là thi pháp tự sự của các tác phẩm cụ thể, ngôn ngữ tự

sự của các thể loại tự sự, các loại hình tự sự, mô hình tự sự của các giai đoạn

phát triển văn học, sự tiếp nhận tự sự và cách tác động đến người đọc của tự

sự. Đó cũng là định hướng nghiên cứu linh hoạt, sáng tạo giúp chúng ta tìm

hiểu thêm về các bí ẩn của nghệ thuật tự sự trong các tác phẩm văn học của

dân tộc Việt Nam.

Quan niệm của GS. Trần Đình Sử đưa ra trong công trình Tự sự học,

một số vấn đề lí luận và lịch sử (2004) được coi là tương đối xác đáng về Tự

sự học: “Tự sự học vốn là một nhánh của thi pháp học hiện đại nghiên cứu

cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề có liên quan” [70, 11]. Tác giả phân

biệt “cấu trúc lời văn” và “cấu trúc sự kiện”, từ đó phân biệt giữa “kể cái gì”

và “kể như thế nào”, để làm nổi bật vai trò của chủ thể trần thuật. Như vậy,

bản chất của tự sự là hướng tới cách đọc của độc giả. Quan niệm tự sự vì thế

không tách rời ký hiệu học, lí thuyết giao tiếp và tiếp nhận.

Như vậy, trên cơ sở những lí luận về tự sự học, người viết triển khai luận

văn theo hướng chú trọng cả cấu trúc sự kiện (kể cái gì) và cấu trúc lời văn (kể

như thế nào) qua hình tượng người kể chuyện, không gian – thời gian, ngôn

ngữ - giọng điệu trong các truyện ngắn Nguyễn Công Hoan được khảo sát.

2.2. Về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

Kể từ ý kiến phê bình đầu tiên của Trúc Hà đăng trên báo Nam Phong

tháng 7 năm 1932 đến nay, lịch sử nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan và các

tác phẩm của ông đã qua những 80 năm. Trong suốt thời gian dài đó đã có

9

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

biết bao bài báo, trang sách viết về nhà văn, về từng tác phẩm, từng vấn đề...

Nhất là kể từ sau năm 1954 đến nay, hoạt động nghiên cứu đặc biệt trở nên

sôi nổi với nhiều con đường tiếp cận, nhiều phương pháp luận khác nhau

Cùng với vấn đề Nguyễn Công Hoan, có thể lược chia lịch sử nghiên

cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan qua các giai

đoạn:

2.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng

Đây là thời kì việc nghiên cứu, phê bình văn học diễn ra gần như song

hành với hoạt động sáng tạo của nhà văn; khi “độ lùi thời gian” của nghiên

cứu và phê bình so với tác giả và tác phẩm còn rất ngắn ngủi, do vậy những

đánh giá về nhà văn và tác phẩm có những hạn chế nhất định. Có những ý

kiến đánh giá khen - chê chưa được thống nhất.

Song, chính tính chất “đồng hành, đối thoại” trong sinh hoạt học thuật

và sáng tạo của giai đoạn này đã mang lại những kết quả đáng chú ý. Hầu hết

các nhà nghiên cứu đều nhận thấy ở Nguyễn Công Hoan một nhà văn tiêu

biểu của chủ nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam. Từ góc độ nghệ thuật, các

nhà nghiên cứu cũng nhận xét về một khía cạnh nào đó trong nghệ thuật tự sự

Nguyễn Công Hoan.

Chẳng hạn, ngay từ đầu những năm ba mươi của thế kỉ XX, các nhà

báo và nhà phê bình văn học đã sớm nhận ra “một ngọn bút mới” Nguyễn

Công Hoan. Trên tạp chí Nam Phong tháng 7 năm 1932, khi Lược khảo về sự

tiến hoá của quốc văn trong lối viết của tiểu thuyết, nghĩa là đặt văn chương

của Nguyễn Công Hoan trong quan hệ với văn học đương thời, Trúc Hà nhận

thấy văn xuôi Nguyễn Công Hoan “không réo rắt như một cung đàn, không

nhẹ nhàng như một bài thơ, không man mác như gió thổi mặt nước”giống các

nhà văn, nhà thơ lúc bấy giờ, mà “văn có cái hay, rõ ràng, sáng sủa, thiết thực,

hơi văn nhanh và gọn. Lời văn hàm một giọng trào phúng” [26, 47].

10

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Rồi tháng 6 năm 1935, ngay sau khi tập truyện ngắn Kép Tư Bền ra đời,

rất nhiều nhà phê bình đã lên tiếng khen ngợi nội dung tiến bộ và nghệ thuật

đặc sắc của tập truyện. Đặc biệt cuộc bút chiến giữa hai phái “nghệ thuật vị

nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân sinh” vừa dịu xuống lại nhân sự ra đời của

tập truyện này mà bùng lên. Và kết quả là tác giả tập truyện vẫn được hoan

nghênh nhất. Đối với nhà văn, những lời khen từ bạn bè, độc giả và các nhà

phê bình lúc này đã tiếp thêm nguồn lực giúp nhà văn say mê theo đuổi

nghiệp văn.

Trong cuốn Nhà văn hiện đại (1944), nhà phê bình văn học Vũ Ngọc

Phan nhận xét: “Nguyễn Công Hoan sở trường về truyện ngắn hơn truyện

dài… ở truyện ngắn, ông tỏ ra là một người kể chuyện rất có duyên. Phần

nhiều truyện ngắn của ông linh động lại có nhiều cái bất ngờ, làm cho người

đọc khoái trá vô cùng”. Vũ Ngọc Phan cũng ca ngợi: “Trong luôn mười năm

nay, ngòi bút tả chân của ông vẫn giữ nguyên tính chất tả chân và lối văn của

ông viết vẫn nguyên một lối văn bình dị” [26, 72].

Tuy nhiên, giai đoạn này, các nhà nghiên cứu chủ yếu hướng đến cách

tiếp cận xã hội học, đánh giá cao ý nghĩa xã hội của truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan, ít chú ý đến nghệ thuật tự sự.

2.2.2. Giai đoạn sau Cách mạng

Sau Cách mạng, công tác nghiên cứu phê bình văn học đã có một bước

phát triển mới. Không chỉ quan tâm đến hướng tiếp cận xã hội học, các nhà

nghiên cứu chú ý nhiều đến cách tiếp cận theo phong cách học, tiếp cận thi

pháp học.

Sự nghiệp văn học của Nguyễn Công Hoan từ đó, được đánh giá xác

đáng hơn. Ngày càng nhiều hơn những công trình nghiên cứu về tác giả

Nguyễn Công Hoan và tác phẩm của ông, nhất là về thể loại truyện ngắn. Các

nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm hiểu về Nguyễn Công Hoan như là một nhà

văn trào phúng hay một nhà văn tiêu biểu của chủ nghĩa hiện thực phê phán.

11

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

(Ví dụ: nghiên cứu của Trương Chính trong Lược thảo lịch sử văn học Việt

Nam, Hồng Chương trong Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật,

Nguyễn Đức Đàn trong Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam,

Như Phong trên báo Nhân dân 25 - 3 - 1973, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn

tiền chiến, Nguyễn Đăng Mạnh trong Nhà văn tư tưởng và phong cách, Phan

Cự Đệ trong Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975, Nguyễn Hoành Khung trong

Văn học Việt Nam 1930 - 1945, Phong Lê trong Tạp chí văn học số 6 - 1993.)

Trong những công trình ấy, dù nghiên cứu dưới nhiều góc độ, những

kết luận chủ yếu quan tâm đến những yếu tố của cốt truyện, chưa quan tâm

nhiều đến các yếu tố của truyện kể. Song, cũng có những đánh giá về một

khía cạnh nào đó trong nghệ thuật kể chuyện tài hoa của Nguyễn Công Hoan.

Chẳng hạn, tại Hội nghị văn học so sánh thế giới năm 1976, Jan Mucka

khi so sánh Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn của Sêkhốp

chỉ ra một vài đặc điểm nghệ thuật tự sự của Nguyễn Công Hoan, nhận thấy

“trong khi miêu tả, Nguyễn Công Hoan dựa trên tính năng động của đối thoại

và những tình cảm bên trong hơn là dựa vào môi trường xung quanh” [26,

159]. Về cách dẫn dắt mạch truyện là “bằng vai trò trung gian có điều kiện

của người kể chuyện (ngôi thứ ba), là hình thức tường thuật chủ quan hoàn

chỉnh bằng một sự đánh giá trực tiếp đối với biến cố” [26, 160]. Về mối quan

hệ tác phẩm - người đọc : “Nguyễn Công Hoan tính đến trực giác của người

đọc và xây dựng tác phẩm của mình sao cho giá trị thẩm mĩ khái quát được

thể hiện triệt để trong mối liên hệ với những mặt hết sức khác nhau của đời

sống tinh thần của người đọc” [26, 162]. Jan Mucka đi đến kết luận “Trong

những năm 30 ở thế kỉ này, Nguyễn Công Hoan đã đưa vào văn học Việt

Nam một cách không theo truyền thống một thể loại truyện ngắn mang tính

chất xã hội mạnh mẽ, truyện ngắn châm biếm” [26, 163].

Nhà nghiên cứu phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh trong bài Đọc

lại truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan, nhận xét: “Truyện ngắn

12

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Nguyễn Công Hoan thường chỉ rút về một bình diện ý nghĩa với một chủ đề

rõ ràng đơn giản... Tài hoa của ông chủ yếu dồn cho cốt truyện và cách kể

chuyện”, “ông có một cái duyên kể chuyện hết sức hấp dẫn”. Nhà nghiên cứu

đánh giá cao vai trò của Nguyễn Công Hoan như một người có công phá lối

mở đường trong việc xây dựng và phát triển thể tài truyện ngắn hiện đại ở

nước ta, và lí giải: “Thành công của Nguyễn Công Hoan do nhiều nguyên

nhân: phương thức kể chuyện biến hoá, tài vẽ hình, vẽ cảnh sinh động, khả

năng dựng đối thoại có kịch tính, giọng kể chuyện tự nhiên, hoạt bát, lối ví

von so sánh độc đáo, cách chơi chữ táo bạo, dí dỏm... Nhưng về đại thể, bí

quyết chủ yếu vẫn là nghệ thuật dẫn dắt tình tiết sao cho mâu thuẫn trào

phúng, tình thế hài hước bật ra ở cuối tác phẩm một cách đột ngột bất ngờ.”

[26, 172]

Trong cuốn Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975 xuất bản năm 1983, nhà

nghiên cứu Phan Cự Đệ cũng đánh giá cao nghệ thuật viết truyện ngắn khá

điêu luyện của Nguyễn Công Hoan: “Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan sinh

động hấp dẫn là vì tác giả luôn luôn thay đổi các thủ pháp nghệ thuật, thay đổi

màu sắc và cung bậc tình cảm... Nguyễn Công Hoan là người biết tổ chức cấu

trúc chặt chẽ và thay đổi cấu trúc hình thức rất linh hoạt ” [26, 177].

Nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh là người dành nhiều tâm huyết và

công phu hơn cả trong việc nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Công Hoan.

Trong cuốn Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Nguyễn Công Hoan

1903 - 1977, tác giả nghiên cứu ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật

để đi đến kết luận : Sáng tác của Nguyễn Công Hoan mang đậm yếu tố trào

phúng và hiện thực. Nhiều vấn đề của nghệ thuật tự sự cũng được đề cập, như

về người kể chuyện, về kĩ thuật viết truyện ngắn, kĩ thuật viết truyện dài,

ngôn ngữ trong tác phẩm Nguyễn Công Hoan.

Lê Thị Đức Hạnh cũng đã giới thiệu và tuyển chọn gần như đầy đủ nhất

những công trình nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan từ trước đến nay trong

13

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

cuốn Nguyễn Công Hoan, về tác gia và tác phẩm (26). Cuốn sách trở thành tài

liệu quý cho bất cứ ai muốn nghiên cứu, giảng dạy, học tập và thưởng thức

những sáng tác của Nguyễn Công Hoan.

Năm 1996, trong luận án Tiến sĩ Khoa học Từ quan niệm nghệ thuật

đến nghệ thuật ngôn từ trong truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan, từ

góc độ thi pháp học, Nguyễn Thanh Tú nghiên cứu tiếng cười của Nguyễn

Công Hoan như một chỉnh thể nghệ thuật, bắt đầu từ cái nhìn nghệ thuật, quan

niệm nghệ thuật về cuộc đời và con người, để từ đó nghiên cứu các hình thức

biểu hiện: cốt truyện, kết cấu, trần thuật, lời văn...

2.2.3. Nhận xét:

Qua những tư liệu nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, đặc

biệt là về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, người viết

nhận thấy còn một số tồn tại sau:

- Trước Cách mạng, việc nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan còn chủ

yếu nặng về phương diện ý nghĩa xã hội của tiếng cười, phương diện nghệ

thuật tự sự chưa được chú ý.

- Sau Cách mạng, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan còn được tìm hiểu

từ các lý thuyết nghiên cứu văn học trong lý luận phê bình phương Tây: Thi

pháp học, Cấu trúc học và đã có những kết luận liên quan đến nghệ thuật trần

thuật như về người kể chuyện, nghệ thuật cấu trúc tác phẩm, về không gian,

thời gian, hay ngôn từ, giọng điệu. Tuy nhiên, đó đều là những kết luận riêng

lẻ, hoặc chưa triệt để, hoặc là những kết luận không phải được đi tới từ góc độ

“tự sự học”.

- Chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về nghệ thuật

tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan từ quan điểm tự sự học - một nhân

tố quan trọng trong nghiên cứu cấu trúc văn bản văn xuôi nghệ thuật.

Vì vậy, luận văn nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan là một nỗ lực nhằm lấp những “khoảng trống” này.

14

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

- Luận văn tìm hiểu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công

Hoan nhằm rút ra phong cách tự sự độc đáo của Nguyễn Công Hoan, đồng

thời chỉ ra sự tiệm cận với nghệ thuật tự sự hiện đại của truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan.

- Cố gắng tìm cách tiếp cận mới, khai thác những bình diện mới trong

nghệ thuật tự sự ở truyện ngắn Nguyễn Công Hoan.

- Góp phần vào công việc giảng dạy tốt hơn nữa các tác phẩm của

Nguyễn Công Hoan trong nhà trường.

3.2. Đối tƣợng nghiên cứu

Luận văn đi sâu nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 ở các khía cạnh người tự sự,

không gian – thời gian tự sự và ngôn ngữ - giọng điệu.

3.3. Phạm vi nghiên cứu

Sáng tác Nguyễn Công Hoan khá phong phú về với nhiều thể loại

(truyện ngắn, truyện dài...) Với mục đích và khuôn khổ của đề tài, luận văn

chỉ khảo sát và nghiên cứu nghệ thuật tự sự biểu hiện trong một thể loại quan

trọng nhất, thể hiện rõ nhất đặc trưng phong cách Nguyễn Công Hoan là thể

loại truyện ngắn.

Phạm vi tư liệu nghiên cứu dùng cho luận văn này chủ yếu từ 103

truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng in trong tập Nguyễn

Công Hoan - Truyện ngắn chọn lọc (gồm 113 truyện ngắn), do Lê Minh sưu

tầm biên soạn, NXB Văn học, Hà Nội, 2004.

Ngoài ra có khảo sát thêm một số truyện ngắn khác do Lê Thị Đức

Hạnh sưu tầm và giới thiệu.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như:

15

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

- Phương pháp thống kê, phân loại.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu

- Phương pháp phân tích, tổng hợp

Nhằm khám phá cấu trúc tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

trước Cách mạng, luận văn sử dụng lí thuyết tự sự học, thi pháp học làm

phương pháp tiếp cận tác phẩm.

5. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tham khảo, Phụ lục, luận

văn gồm 3 chương:

Chương 1. Người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

trước Cách mạng.

Chương 2. Không gian - Thời gian tự sự trong truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan trước Cách mạng.

Chương 3. Ngôn ngữ và giọng điệu tự sự trong truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan trước Cách mạng.

16

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

NỘI DUNG

CHƢƠNG 1.

NGƢỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN CÔNG

HOAN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945.

Trong nghiên cứu văn học từ lí thuyết tự sự, không thể không nhắc đến

người kể chuyện. Tìm hiểu người kể chuyện giúp ta hiểu được phương diện chủ

thể của tác phẩm tự sự và hiểu được tác phẩm một cách sâu sắc trọn vẹn hơn.

Người kể chuyện là khái niệm trung tâm trong nghiên cứu tự sự, song

khái niệm này chưa được thống nhất bởi các nhà lí luận văn học.

Theo Pospelov thì người kể chuyện là “người môi giới giữa các hiện

tượng được miêu tả và người nghe, là người chứng kiến và cắt nghĩa các sự

việc xảy ra” [71, 196]. Người kể chuyện là một chủ thể ngôn ngữ, người kể

một câu chuyện, cũng là một nhân vật đặc biệt trong tác phẩm tự sự. Tzevan

Todorov trong khi viết về Thi pháp học đã làm nổi bật vai trò người kể

truyện: “Người kể chuyện là một nhân tố chủ động trong việc kiến tạo thế

giới hư cấu. Chính người kể chuyện là hiện thân của những khuynh hướng

mang tính xét đoán và đánh giá... Không có người kể chuyện thì không có

truyện kể.

Nhưng mức độ hiện diện của người kể chuyện trong văn bản có thể là -

và thực tế là - rất khác nhau” [7, 404]

Theo quan niệm của G. Genette, người kể chuyện có mối quan hệ chặt

chẽ với câu chuyện của mình và chính vị trí của người kể chuyện trong mối

quan hệ với câu chuyện xác lập nên điểm nhìn của truyện kể. Từ đó, nhà

nghiên cứu phân biệt hai kiểu người kể chuyện: người kể chuyện từ ngôi thứ

nhất và người kể chuyện từ ngôi thứ ba.

17

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Người kể chuyện từ ngôi thứ nhất là người kể chuyện hiện diện như

một nhân vật trong truyện, vừa đóng vai trò người kể chuyện vừa đóng vai trò

là một nhân vật trong cấp độ hành động.

Người kể chuyện từ ngôi thứ ba là người thứ ba, không phải là nhân vật

trong truyện. Trong kiểu trần thuật từ ngôi thứ ba này, có sự “khác nhau tự

nhiên” giữa thế giới người kể chuyện và thế giới hành động.

Tuy nhiên, trong khi Genette chỉ quan tâm đến giới hạn điểm

nhìn thì lí thuyết tự sự học ngày nay lại hướng đến đề xuất của M. Bal về tiêu

điểm trong sự phân biệt với điểm nhìn. Theo Bal, điểm nhìn thuộc văn bản,

còn tiêu điểm thuộc truyện kể. Mỗi truyện kể, người kể chuyện có thể sử dụng

một hay nhiều người quan sát, có thể là người quan sát bên ngoài (một người

kể chuyện), cũng có thể là người quan sát bên trong (một nhân vật), người

quan sát quy định tiêu điểm của trần thuật.

Như vậy, khái niệm người kể chuyện có liên quan mật thiết với

điểm nhìn tự sự và tiêu điểm trần thuật, cả ba cùng xác định nên trần thuật và

tạo nên vai trò to lớn của người kể chuyện đối với câu chuyện, với văn bản,

với người đọc...

Nói như Michel Butor: “Tiểu thuyết là một hình thức đặc biệt của trần

thuật. Tam giác tự sự ba chiều “tác giả - nhân vật - độc giả” dần được thay thế

bởi sự huyền diệu và phức tạp hơn của tứ giác tự sự với “tác giả - người tự sự -

nhân vật - độc giả” [68, 32]. Ý kiến đó đã bao quát được cả tầm quan trọng của

người kể chuyện với các tác phẩm tự sự nói chung và với truyện ngắn nói riêng.

Trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, người kể chuyện thực sự là một

sản phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật, là một công cụ do nhà văn hư cấu nên để

kể một câu chuyện. Việc tác giả lựa chọn kiểu người kể chuyện nào để kể hoàn

toàn không phải là một sự ngẫu nhiên mà nó mang tính quan niệm, nhằm mục

18

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

đích chuyển tải tư tưởng, nội dung một cách hiệu quả nhất. Hiện diện trong tác

phẩm của Nguyễn Công Hoan là nhiều hình thức người kể chuyện đa dạng:

người kể chuyện từ ngôi thứ nhất, người kể chuyện từ ngôi thứ ba, người kể

chuyện bên trong, người kể chuyện bên ngoài. Hơn nữa, một trong những yếu

tố tạo nên sức hút mãnh liệt của truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan

chính là từ vai trò, chức năng đặc biệt của người kể chuyện.

1.1. Điểm nhìn tự sự

Trong cuốn Giáo trình Dẫn luận thi pháp học, Trần Đình Sử đã dẫn lời

của Gucốpxki: “Người ta không thể miêu tả nếu không có nguời miêu tả và

không bắt đầu từ một điểm nhìn nào”. Điểm nhìn chính là sự lựa chọn cho

một cự li trần thuật nào đó để kể lại câu chuyện, mà có thể giảm thiểu hoặc

loại trừ khả năng can thiệp của tác giả vào các sự kiện miêu tả, làm cho tác

phẩm trở nên tự nhiên hơn, gần gũi với cuộc sống hơn. Tác giả là người đứng

sau tác phẩm, tác giả có mặt ở khắp nơi nhưng lại chẳng ở nơi nào cả, và là

người có sức mạnh toàn năng đối với từng chi tiết, hành động, nhân vật...

trong tác phẩm của mình.

Điểm nhìn của người kể chuyện trong nghệ thuật tự sự có thể hình

dung cũng như điểm nhìn, góc nhìn của nhiếp ảnh gia hay người họa sĩ trong

nghệ thuật nhiếp ảnh, hội họa. Mỗi người nghệ sĩ đều cần chọn cho mình một

chỗ đứng, một điểm nhìn tốt nhất để có thể cảm nhận không gian nghệ thuật

một cách tối ưu và sáng tạo nên những kiệt tác. Sự khác biệt cơ bản là ở chỗ,

nếu như trong nghệ thuật hội họa, nhiếp ảnh, điểm nhìn là của chính người

nghệ sĩ trong mối quan hệ với thế giới mà anh ta mô tả, thì trong nghệ thuật tự

sự của mỗi truyện kể, điểm nhìn tự sự là của một người kể chuyện - nhân vật

do tác giả hư cấu nên để kể lại câu chuyện - nhân vật thống nhất nhưng không

đồng nhất với tác giả.

19

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Điểm nhìn là một yếu tố quan trọng trong tác phẩm tự sự. Trong truyện

ngắn Nguyễn Công Hoan, việc xác định điểm nhìn dược thấy rõ qua dấu hiệu:

cách sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, có thể theo qui

tắc:

- Một văn bản truyện kể theo điểm nhìn chủ quan: nếu như trong những

câu kể lại hành động truyện có một số câu chứa đại từ nhân xưng ngôi thứ

nhất (tôi), và “tôi” đồng nhất với một nhân vật trong truyện.

- Một văn bản truyện kể theo điểm nhìn khách quan: nếu những câu kể

lại hành động truyện đều là những câu ở ngôi thứ ba (ông, bà, anh, chị, nó,

...); trường hợp đặc biệt, nếu xuất hiện ngôi thứ nhất “tôi, ta” với tư cách

người kể chuyện nhưng không phải là nhân vật nào trong truyện kể.

- Một văn bản truyện kể theo hình thức di chuyển điểm nhìn: nếu văn

bản được kể theo điểm nhìn di chuyển từ điểm nhìn khách quan sang điểm

nhìn chủ quan, từ điểm nhìn của tác giả sang điểm nhìn của nhân vật, hoặc từ

điểm nhìn của nhân vật này sang điểm nhìn của nhân vật khác.

Như vậy, khảo sát truyện ngắn Nguyễn Công Hoan từ khía cạnh điểm

nhìn, có ba tình huống trần thuật:

1.1.1. Trần thuật theo điểm nhìn khách quan

Truyện được kể từ ngôi ba, người kể chuyện vắng mặt, người kể

chuyện không qui chiếu vào một nhân vật nào trong truyện.

Đây là cái nhìn bên ngoài không được nhân vật hóa mà ẩn đằng sau là

hình bóng của tác giả. Chọn điểm nhìn trần thuật khách quan giúp Nguyễn

Công Hoan tạo ra được một khoảnh cách nhất định đối với nhân vật và sự

kiện được miêu tả. Nhà văn cố gắng tối đa trong việc giảm sự can thiệp của

mình vào tác phẩm, tạo cho độc giả độ tin cậy cao vào các sự kiện được kể

lại. Mọi nhìn nhận đánh giá gói trọn trong việc lựa chọn điểm nhìn, thông qua

20

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

những mối quan hệ của các nhân vật với nhau. Người kể chuyện chỉ có vai trò

dẫn truyện và là người sắp xếp, thông báo các tình tiết, sự kiện có thể xảy ra

hoặc sắp xảy ra.

Việc khảo sát về điểm nhìn khách quan và các dạng thức xuất hiện

được trình bày trong bảng 1.1 (phụ lục).

Theo đó, điểm nhìn khách quan được sử dụng với tần số lớn nhất trong

truyện ngắn Nguyễn Công Hoan: 76 truyện/ 103 truyện khảo sát, chiếm

73.8%. Số liệu đó đã khẳng định phần nào vai trò của điểm nhìn khách quan

trong truyện ngắn của tác giả này.

Tình huống trần thuật theo điểm nhìn khách quan có hai dạng tồn tại là

trần thuật theo điểm nhìn tác giả, và trần thuật theo điểm nhìn bên trong của

nhân vật trong truyện.

1.1.1.1. Trần thuật theo điểm nhìn tác giả

Đây là dạng truyện xuất hiện nhiều nhất trong các truyện trần thuật theo

điểm nhìn khách quan (64 truyện, chiếm 84% các truyện kể theo điểm nhìn

khách quan, 62% tổng số truyện). Có lẽ ưu thế của cách nhìn thế giới bao quát

của tác giả người kể chuyện (như “Trời nhìn”) đặc biệt phù hợp với việc phát

hiện mô tả sức mạnh tinh thần cũng như những khuyếm khyết của nhân vật.

Hình thức ấy dường như đã có một huyết mạch nối liền trong các truyện kể

truyền thống của văn học Việt Nam, kể từ các truyện cổ dân gian, truyện kể

trung đại đến truyện ngắn hiện đại sau này.

Việc nhận diện điểm nhìn tác giả trong truyện ngắn Nguyễn Công

Hoan có hai trường hợp:

Truyện hoàn toàn dùng ngôi thứ ba, hoặc có tên (Sinh, Nghĩa, Nguyệt,

Phong...) hoặc không tên (ông, bác, ngài, anh, chị, cô, chú...). Số lượng các

truyện này rất nhiều, có 52 truyện, tiêu biểu như Răng con chó nhà tư sản,

21

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Oẳn tà roằn, Hai thằng khốn nạn, Thật là phúc, Người ngựa và ngựa người.

Đây là cách để tác giả rất linh hoạt trong việc phơi bày toàn bộ thế giới của

câu chuyện.

Trong những trường hợp này, như Diệp Tú Sơn đã nói: “Tác giả có

quyền xuất hiện ở mọi nơi, hiểu biết về tất cả, có thể phơi bày ra toàn bộ các

khía cạnh của các sự việc và các nhân vật, cảm giác lập thể rất phong phú.

Tác giả ngự trị bên trên toàn bộ thế giới tiểu thuyết, từ trên cao nhìn xuống để

quan sát điều chỉnh tất cả. Bằng cặp mắt tinh tường của mình, tác giả quan sát

từ đầu đến cuối câu chuyện, quan sát nguyên nhân, kết quả, quan sát lời nói

cử chỉ, thế giới nội tâm của nhân vật. Tác giả tìm hiểu tất cả những gì về nhân

vật, kể cả những điều mà chính bản thân nhân vật cũng không hay biết hoặc

không ý thức được” [68, 34].

Chẳng hạn truyện Hai thằng khốn nạn kể về hai nhân vật: bác Lan và

ông nghị Trinh. Một người cha buộc phải bán con khi không còn cách nào

giải thoát khỏi cảnh chết đói của hai cha con, và một ông nghị Trinh giàu có

hiếm hoi muốn mua một đứa con nuôi. Tình huống ấy tưởng như rất bình

thường và dễ dàng giải quyết. Nhưng những nghịch cảnh trớ trêu dần lộ diện

qua điểm nhìn khách quan của tác giả.

Mở đầu tác giả đứng ngoài khách quan kể lại bối cảnh truyện: “Năm

1926, nước to, đê vỡ tứ tung, nhân dân bêu rếch, khổ sở. Nhất là khi nước đã

ra rồi, trông cảnh tượng mới lại càng đáng ngậm ngùi hơn nữa”. Tiếp đó, tác

giả có thể kể về cảnh ngộ nhân vật: “Bởi thế, bác Lan luôn mấy tháng, nào

nhà đổ, nào trâu chết, nào đất bán, nào ruộng cầm... Không những thế, vợ bác

lại mới chết về bệnh dịch, để lại cho bác một đứa con trai mới biết ngồi”. Tác

giả có thể bình luận về nhân vật “Bác Lan thực là một thằng khốn nạn vậy”.

Tác giả cũng dễ dàng thâm nhập vào nhân vật, nhìn bằng con mắt vừa

thèm muốn, vừa sợ hãi, lo lắng của người nông dân khốn khổ ấy: “Đi mãi

22

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

mấy làng, bác mới đến nhà ông nghị Trinh. Trời đã sắp xẩm tối. Đứng ở cổng,

trông vào trong nhà, bác thấy gạch tây đánh bóng lộn, sập gụ, tủ chè, gương

đứng, giường tây, thật có vẻ đỉnh chung sung sướng”; hay suy nghĩ cùng

những ước muốn những tính toan của nhân vật: “Bác Lan, vì cái đói khát nó

cấp bách quá, nên tưởng tượng ngay độ dăm phút nữa thì bụng sẽ được no

đầy... Bác Lan tuy trong bụng lép kẹp, nhưng thấy như no được một nửa vậy”.

Đôi khi tác giả có thể rời khỏi nhân vật để hướng tới độc giả đang theo

dõi câu chuyện để đối thoại, bàn luận: “Người bán không nói giá, người mua

không biết giá, thì làm thế nào? Độc giả các ngài đánh giá hộ đi? Một người

như chúng ta đấy, khéo nuôi khéo dạy, thì chưa biết chừng, vĩ nhân cũng nên

đấy. Một trăm nhé! Hai trăm nhé! Năm trăm nhé!” Nhưng không, ông nghị đã

đưa ra giá trị thằng bé con: ba hào! Thật không ngờ. Điều ấy khiến bác Lan

gãi tai, thở dài và vơ vẩn nghĩ ngợi mãi. Tác giả lại nhìn sâu trong suy nghĩ

của Bác: “Nửa giờ sau, Bác không thể nào nhịn nổi cái dạ dày rỗng tuếch từ

hôm trước. Thôi thì ba hào thì ba. Con mình được chỗ ấm no nương tựa, còn

hơn là bố con bêu rếch, xó chợ đầu đường”. Bác đã cố mà đồng ý, nhưng ba

hào cũng không được nữa, vì con bác có quá nhiều nốt ruồi sau lưng nên ông

nghị bắt phạt bớt hai xu. “Bác lạy van mãi. Nhưng bác nghĩ, nếu cố nằn nì hai

xu, thì chưa chắc đã được, mà không khéo bị trả tiền lại”. Còn ông nghị vẫn

không ngớt nhìn lưng thằng bé rồi còn như tiếc món tiền tiêu vô ích khi nãy,

ra ý hối hận muốn bớt hẳn năm xu, rồi còn quát thằng bếp tìm bác Lan trả tiền

mà lấy lại con ngay... Lần này, “bác Lan giật nảy mình, co cẳng, ù té chạy bán

sống bán chết”. Một người giàu có, tiêu bạc vạn lo nghị viên không tiếc, mà

lại tiếc mấy xu mua con; một người nghèo kiết không còn gì, bán con rẻ mạt

với hai hào tám, mà phải cố chạy trốn kẻo bị gọi lại trả tiền lấy con về. Câu

chuyện về Hai thằng khốn nạn ấy được kể lại vừa cảm động, vừa chua xót,

cay đắng qua điểm nhìn khách quan của tác giả.

23

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Song ở một số trường hợp khác, Nguyễn Công Hoan thể hiện sự tìm tòi

của mình khi đưa thêm ngôi thứ nhất xưng “tôi”, thường xuất hiện ở đầu câu

chuyện, hướng tới một đối tượng cụ thể là “độc giả” “các ngài” “bạn đọc”.

Như là một cách để gây lòng tin ở độc giả, hoặc nhằm đối thoại trực tiếp với

độc giả về những vấn đề dặt ra trong câu chuyện. Song thực chất câu chuyện

vẫn được kể từ điểm nhìn ngôi thứ ba – tác giả, vì cái “tôi” này không là nhân

vật nào trong truyện. Ông chủ báo chẳng bằng lòng, Mất cái ví, Một tấm

gương sáng, Ngậm cười, Đồng hào có ma... là những truyện tiêu biểu cho

truyện kể xuất hiện cả ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba.

Lấy ví dụ đoạn đầu truyện Mất cái ví: “Ông Tham nhà tôi hôm nay mất

cái ví trong đựng bốn mươi đồng bạc. Ngài làm dữ quá! Dữ đến nỗi nếu

không có ông cậu ruột ngài, là người có thế lực can thiệp vào mà phát gắt lên,

thì việc này quyết ra đến tận xăng-tan chứ chẳng chơi!... ”.

Ngôi nhân xưng thứ nhất “tôi” chỉ xuất hiện một lần duy nhất trong

truyện, như tạo độ tin cậy chắc chắn khi “tôi” có “cự li gần” với các nhân vật

trong truyện. Song kể từ đó đến hết, nhân vật tôi không xuất hiện lần nào,

giảm đến tối đa sự can thiệp của cái tôi - tác giả vào câu chuyện kể. “Tôi”

đứng ngoài và không là nhân vật của truyện kể; mọi suy nghĩ, tâm lí, bản chất

của các nhân vật được hiện lên qua hành động, ngôn ngữ, suy tính của ba

nhân vật ở ngôi thứ ba ông Tham, bà Tham, ông cụ.

Đôi khi, nhân vật “tôi” - người kể chuyện tạo độ xác tín cho người đọc

nhiều hơn nữa khi khẳng định: câu chuyện “tôi” sắp kể là chuyện thật. Một

tấm gương sáng mở đầu bằng đoạn thoại của tác giả và người kể chuyện:

“Điều tôi lấy làm bực mình nhất, là thế nào cũng có một độc giả đa

nghi, xem xong câu chuyện này, bảo một bạn rằng:

- Hắn bịa.

24

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Tôi hãy cái trước rằng:

- Thưa không bịa tí nào.

... Vậy thì chuyện này là chuyện thật, xẩy ra trong một xứ kia, chừng

mười mấy năm nay.”

Vậy là phần đầu, chuyện có vẻ được kể bởi “tôi” xác định - người kể

một câu chuyện “thật”, xác định “trong một xứ kia, mười mấy năm nay”.

Nhưng từ khi câu chuyện được bắt đầu kể đến hết, “tôi” không xuất hiện

thêm, truyện vẫn được kể từ ngôi thứ ba.

Mặc dù, so với cách kể chuyện truyền thống (hoàn toàn ngôi thứ ba),

truyện kể xen kẽ ngôi thứ nhất - ngôi thứ ba theo điểm nhìn tác giả ít hơn (12

truyện), song, sự linh động trong cách đưa cái “tôi” khách quan khác nhau

trong mỗi câu chuyện thể hiện sự tìm tòi đáng quí của nhà văn về cách kể.

1.1.1.2. Trần thuật theo điểm nhìn bên trong của nhân vật trong truyện.

Theo M. Jahn, đó là các “Truyện kể mà các sự kiện diễn ra trong truyện

được nhìn dưới con mắt của một người phản ánh bên trong ở ngôi thứ ba... Một

trong những hiệu quả chính của điểm nhìn bên trong là thu hút sự chú ý tới ý

nghĩ của nhân vật - người phản ánh và bỏ qua người kể chuyện và quá trình sắp

xếp trần thuật” [57, 17]. Ở những truyện này, người kể chuyện có vẻ như rút lui

hoặc ẩn sau nhân vật chính mà chúng ta gặp ngay từ mở đầu truyện.

Đúng theo quan niệm của M. Jahn, truyện kể theo điểm nhìn này đem

lại những cái nhìn sinh động của các nhân vật trong truyện. Chúng ta chú ý tới

góc nhìn trẻ thơ trong câu chuyện của thằng bé Dần (Nỗi vui sướng của thằng

bé khốn nạn), của “nó” - thằng ăn cắp (Thế cho nó chừa) của con đỏ (Quyền

chủ); hoặc góc nhìn của thân phận những anh kéo xe (Được chuyến khách),

anh phu tuần (Vợ), anh đĩ (Thằng điên), hoặc góc nhìn của những ông chủ, bà

chủ: ông nghị Xuân (Chính sách thân dân), bà chánh Tiền (Hé! Hé! Hé!), ông

25

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Bảo Sơn (Một tin buồn), của những cô gái mới (Cô Kếu, gái tân thời), của

người nghệ sĩ (Kiếp tài tình)...

Kể chuyện theo điểm nhìn bên trong của một nhân vật trong truyện là

cách để tác giả rút ngắn khoảng cách giữa độc giả và nhân vật, tạo cảm giác

không có sự can thiệp của tác giả - người kể chuyện. Độc giả có thể nhập

thân, hiểu, đồng cảm với nhân vật hơn theo mỗi lứa tuổi, giới tính, sở thích,

suy nghĩ, ước mơ... của nhân vật trong truyện.

Từ góc nhìn trẻ thơ, người đọc vừa thương yêu, vừa xót xa cho những

em bé mồ côi, hay những em bé nghèo khó phải tự kiếm sống bằng việc đi ở,

hay kẻ ăn cắp, ăn mày.

“Từ ngày đã lâu, thằng Dần không biết tại làm sao, cậu nó ngủ một giấc

mãi đến tận bây giờ chưa dậy. Trong lúc cậu nó ngủ, nó thấy người ta gói cậu

nó lại, cất vào cái hòm dài rồi túm lại, khênh đi, bỏ xuống cái hố sâu. Mợ nó

thì mặc như con cào cào trắng, và không biết phải đòn hay sao, mà bù lu bù

loa khóc rầm lên, rồi nhảy cả xuống hố, nằm ôm lấy cái hòm. Mấy người lôi

mãi mới lên. Rồi người ta lấp đất. Ấy thế là cậu nó không về nhà với nó nữa.

Ngày ấy nó lên ba, chả biết gì là thương cậu nó cả. Chỉ biết thương mợ

mà thôi. Vì mợ nó cứ đến tối đứng đâu, ngồi đâu, nằm đâu cũng ti tỉ. Mỗi khi

mợ nó khóc như thế thì y như nó cũng khóc theo. Nó nghĩ chắc rằng hễ nó ăn

no chóng lớn thì mợ nó nín luôn, vì nó thấy dần dần, mợ nó không hay khóc

nữa. Nhưng tức quá, nó cứ lên ba mãi, nóng cả ruột.” (Nỗi vui sướng của

thằng bé khốn nạn)

Đó là những suy nghĩ, cảm xúc ngây thơ, trong sáng của dứa trẻ lên ba

trước nỗi đau mất cha. Nhưng nó còn tiếp tục đối diện với một tình huống

khác của người lớn: một năm sau, mẹ nó và nó có bác Phán. Rất tinh tế, nhạy

cảm, Nguyễn Công Hoan đã giúp người đọc nhìn sâu tâm lí của các nhân vật,

26

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

từ sự ngây thơ, tình cảm của con trẻ đến những băn khoăn của người mẹ trong

hoàn cảnh éo le...

Là người đã “học trong cuốn sách thiên nhiên của xã hội Việt Nam,

trong đó có nhiều người, nhiều cảnh huống, nhiều tâm lý, nhiều ngữ ngôn

khác nhau”, Nguyễn Công Hoan cũng rất tinh tế, khéo léo khi lách ngòi bút

vào sâu tâm lí của nhiều nhân vật ở nhiều tầng lớp khác nhau, nhiều cảnh ngộ

khác nhau. Tâm trạng của một anh kéo xe bệnh nặng đến nỗi ho ra cả vũng

máu, đi không vững mà vẫn muốn tranh được chuyến khách ngày chợ phiên

trong Được chuyến khách; trong truyện ngắn Vợ là nỗi lo của một anh phu

tuần nghèo kiết đến mức lấy vợ rồi đến hạn không trả nợ cưới được cho bố

vợ, kết cục, vợ anh bị ép phải làm vợ lẽ thứ bảy ông Lý, để gán món nợ hai

chục bạc của bố vợ anh với ông từ lâu; hay tâm trạng buồn vui khác người

của ông chủ hiệu xe đòn đám ma, mừng khi thấy người già ốm sắp mất, tìm

đến tận gia đình họ để quảng cáo hiệu nhà, rồi thất vọng khi người bệnh khỏe

lại trong truyện ngắn Một tin buồn.

Ngay cả những biến động tinh tế trong tâm lí của con người trước sự

ngăn cách của địa vị, giai cấp cũng đã được Nguyễn Công Hoan thể hiện sinh

động, chân thực, ví như trong câu chuyện Hé! Hé! Hé! Truyện bắt đầu từ

tiếng cười khanh khách, giòn tan rất thân thiện, vồn vã của cụ lớn Tuần đối

với bà chánh Tiền. Sự cách biệt của giai cấp đối chọi với sự thân mật của cách

ứng xử. Nhưng bà chánh Tiền, với tính cách chân thật, mộc mạc, đã không

nhận ra những mưu tính sâu xa của cụ lớn đằng sau những cử chỉ vồn vã, ân

cần, thân thiết:

“Nói đoạn, cụ lớn gọi chiếc xe hàng, để nhường bà chánh Tiền ngồi xe

nhà. Cử chỉ không ngờ này lại khiến bà chánh cảm động. Lần này, bà ứa nước

mắt thật. Bà ngượng nghịu, run sợ thế nào ấy. Nhìn chiếc xe sơn giả đồi mồi,

gọng kền sáng loáng, vải nệm trắng tinh, bỗng bà ghê cả người. Bà tưởng như

27

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

mình không xứng đáng được dùng những thứ sang trọng quá quắt như vậy.

Và khi đặt tấm thân cục mịch lên trên chiếc nệm êm ái do cụ lớn nhường cho,

bà khoan khoái, nghĩ bụng không biết mấy mươi kiếp trước tu đã đầy đặn thế

nào, nên kiếp này mới được đền bù bằng một phút hạnh phúc này vậy.

Bà ngồi mớm trên xe, mà vẫn còn rùng mình. Bà ngẫm đến lời ngọt

ngào, tử tế của cụ lớn mà nở nang cả mày mặt. Sao lại có bà quan dễ dãi, phúc

hậu như bà phật này. Một đời người, dù khổ sở thế nào, mà được cụ lớn ban

chuyện cho một lát, một lát thôi, thì còn ai muốn chết nữa. Vợ một quan Tuần

phủ, vợ một cụ lớn đầu tỉnh, mà đối đãi với vợ một tên Chánh tổng quèn, ăn

nói thân mật như chị em, nào nắm tay vồn vã, nào bà chị, nào hơn tuổi, nào

vào chơi, nào trách móc, trời ơi, ai được thế mà chả thọ thêm đến mười năm!

Nghĩ đến đó, bà chánh Tiền dào dạt cả tâm hồn.”

Người kể chuyện Nguyễn Công Hoan thấu hiểu và như đọc được

những nét tâm lí của người phụ nữ ấy. Thế nên, chính tiếng cười “Hé! Hé!

Hé!”, với cách cư xử của cụ lớn, chẳng bao lâu sau, làm cho bà Chánh Tiền

nhanh chóng từ chủ thóc biến thành con nợ của cụ. Bà đã phải chịu khổ sở,

thiệt thòi, để có món tiền “lãi thóc của cụ lớn”, bà phải viết văn tự để vay. Bà

đã “hậm hực, tức bực và oán thán cụ lớn lắm”. Nhưng truyện chưa kết ở đó.

Gặp cụ lớn trả món nợ vô lý, chưa kịp nói gì, bà Chánh Tiền lại nghe tiếng

cười ấy, bà lại “quên hết mọi sự. Bà lại cảm động, rơm rớm nước mắt, và hởi

lòng hởi dạ như thường”. Thế mới biết, cách bóc lột của “cụ lớn” đã đạt đến

mức nào!

Vẫn là giọng văn trào phúng Nguyễn Công Hoan, những đoạn truyện

hướng tới tâm lí của các nhân vật khác nhau tạo cho người đọc sự đa dạng

cảm xúc: khi thì thương cảm, khi thì xót xa, lúc phê phán nhẹ nhàng, lúc thì

châm biếm... Và hình thức kể chuyện từ điểm nhìn nhân vật bên trong như

28

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

vậy, phải chăng cũng báo hiệu sự phát triển khách quan tất yếu của truyện

ngắn hiện thực tâm lí sau này.

Vậy là, với điểm nhìn ngôi thứ ba, “Tác giả có thể lúc thì bước vào thế

giới nội tâm của nhân vật này, lúc lại bước sang thế giới nội tâm của nhân vật

khác. Tác giả có thể liên tục ra vào thế giới tiểu thuyết, lúc thì ở trong câu

chuyện, lúc lại bước ra ngoài câu chuyện” [68, 34].

Tuy nhiên, bên cạnh điểm nhìn khách quan, truyện ngắn Nguyễn Công

Hoan còn có tình huống trần thuật theo điểm nhìn chủ quan.

1.1.2. Trần thuật theo điểm nhìn chủ quan.

Điểm nhìn chủ quan trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan xuất hiện ở

nhiều hình thức đa dạng, với 23 truyện ngắn, chiếm 22% tổng số truyện, khi

người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, hiện diện trong truyện, đồng nhất với một

nhân vật trong cốt truyện mà anh ta kể.

Theo M. Jahn, “Trong trần thuật ngôi thứ nhất, đại từ nhân xưng ngôi

thứ nhất chỉ cả người kể chuyện (cái tôi kể chuyện) và một nhân vật trong câu

chuyện (cái tôi trải nghiệm). Nếu người kể chuyện là một nhân vật chính của

câu chuyện thì anh/ cô ta là một cái tôi - vai chính, nếu anh/ cô ta là nhân vật

phụ thì anh/ cô ta là cái tôi - chứng nhân.” [57, 55]. Ta có thể khảo sát điểm

nhìn chủ quan trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng theo

hai dạng đó (bảng 1.1: phụ lục).

1.1.2.1. Cái tôi - vai chính.

Một số truyện ngắn xuất hiện điểm nhìn chủ quan ở ngôi thứ nhất dưới

dạng tự truyện, trong đó người kể chuyện là vai chính trong câu chuyện của

anh ta.

29

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Cách kể này phá vỡ khoảng cách người trần thuật với câu chuyện được

kể, làm tăng độ tin cậy của câu chuyện được kể lại. Phần lớn là những hồi ức

của nhân vật “tôi”, “chúng tôi” về quá khứ của chính mình.

Chẳng hạn, Nhân tình tôi là trải nghiệm “hú vía” về tình yêu hồi “tôi”

mười chín tuổi. “Tôi” là Trần Văn Căn, con cụ lớn Tuần, giả kí tên Minh

Châu nữ sĩ để được để nói chuyện với Kim Chi nữ sĩ trên mục văn nữ giới,

nhằm lợi dụng cơ hội đạt mục đích riêng. Sau khi viết bức thư dài thú thật với

nàng, rồi thư qua thư lại tình tứ, đến ngày gặp mặt, “tôi” mới nhận ra Kim Chi

nữ sĩ cũng cùng một loài với “Minh Châu nữ sĩ” mà thôi.

Hay năm “tôi” mười tám tuổi, với vẻ ngoài đạo mạo, nghiêm trang, lịch

sự đã xin đi nhờ xe ô tô, và vì cái sĩ diện muốn làm quan tham trong nửa giờ

đồng hồ trên chiếc xe ấy, “tôi” phải chịu thiệt mất hẳn “một đồng bạc” cho

anh tài (Quan tham nửa giờ).

Trong những câu chuyện này, mỗi nhân vật “tôi” lại sống một cuộc đời

riêng làm cho mỗi câu chuyện được kể một cách linh hoạt bằng nhiều giọng

điệu, nhiều tâm trạng, nhiều cảnh huống. Có khi là một người lính Nhật với

cảm nhận thực tế về sự tàn khốc của chiến tranh, không chỉ là trên chiến

trường, đối diện với kẻ thù trong bom đạn, mà ngay cả sau trận chiến, những

thương binh không còn khả năng chiến đấu vẫn phải đối diện với cái chết được

ban tặng bởi chính viên tướng của quân đội mình (Chiến tranh). Có khi là một

viên quan từng trải kể lại cho nhà văn nghe về một kinh nghiệm, một mánh

khóe trong cuộc đời làm quan của “tôi” để có thể thăng thưởng (Tôi tự tử).

Nguyễn Công Hoan từng nói về kinh nghiệm viết văn: khi nào thì tác

giả đóng vai kể chuyện người khác (điểm nhìn khách quan), khi nào tác giả

đóng vai kể chuyện mình (điểm nhìn chủ quan)? Theo Nguyễn Công Hoan,

khi một chuyện diễn ra từ đầu đến cuối bằng nhiều cảnh, nhiều việc, thì tác

giả nên đóng vai người ngoài nhìn thấy mà kể lại cho độc giả nghe. Nhưng

30

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

khi truyện chỉ dựa vào cảnh, vào việc để nói lên diễn biến của tâm lý, tư

tưởng thì nên dùng hình thức mình kể chuyện mình. Vì mình nói tâm lý mình

thì dễ được người nghe tin là thực và đúng. Hơn nữa hoặc lại có nhiều ý nghĩ

ngốc nghếch, dại dột, đáng cười, thì tác giả càng nên nhận vai ấy là mình.

Mình kể chuyện mình, xưng là tôi, thì dù ai cũng xấu, ngốc, dại như người

trong truyện, có bị chạm nọc, họ cũng không giận tác giả đã lật tẩy họ (Đời

viết văn của tôi).

Ta hiểu vì sao ở nhiều truyện, khi “tôi” vừa là một người tự kể chuyện,

vừa là một nhân vật trải nghiệm trong câu chuyện, thì nhân vật tôi thường đóng

vai một người ngốc nghếch, dại dột. Câu chuyện thường mang ý nghĩa châm

biếm phê phán, và mang sắc thái tiếng cười tinh quái theo kiểu nhân vật Trạng.

Chẳng hạn, chỉ vì sĩ diện, được tâng bốc làm quan tham nửa giờ mà tôi

phải mất số tiền ít ỏi còn lại trong túi (Quan tham nửa giờ). Cũng vì sĩ diện.

vì được tâng bốc làm ông chủ báo Đời nay, tôi đã bỏ hết gia tài để nuôi báo ấy

trong vài tháng rồi về “nhà bò” trắng tay (Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ

báo). Vì mưu đồ cưới vợ giàu mà tự mắc mưu chính mình (Cậu ấy may lắm

đấy), hay tôi đã bắn chết chó của người ta vì tưởng nhầm là hổ (Chuyện chó

chết cái thâm ý của anh chàng sợ vợ).

Hoặc tôi đóng vai một kẻ tàn nhẫn, độc ác, khốn nạn (Thằng ăn cướp,

Tôi tự tử, Con ngựa già). Sắc thái tiếng cười mang ý nghĩa châm biếm sâu cay

và thường ẩn chứa những vấn đề nhân sinh lớn lao.

Lột mặt nạ của những viên quan ăn cướp tiền của, ăn cướp danh vị, nhân

vật “tôi” kể lại những câu chuyện thật của chính mình. Thằng ăn cướp là

chuyện “tôi” kể cho “anh” nghe, về “tôi” - một thằng chuyên ăn cướp đêm đã

phải bỏ nghề vì gặp một ông quan huyện “ghê gớm quá”. Không phải quan

không dung túng “chúng tôi” như những quan trước và trị riết trộm cướp trong

huyện cho dân được an cư lạc nghiệp, mà vì quan bắt “tôi” lễ nhiều quá, đến

31

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

nỗi, “quan” trở thành một “thằng ăn cướp” lại của “thằng ăn cướp”, mà ăn

cướp một cách trắng trợn, và tinh vi, và vẫn ngồi mát trên ghế pháp luật, công

lí! Trong Tôi tự tử, “tôi” kể cho “ông” - nhà văn nghe về mánh gian xảo của

mình trong việc vờ tự tử với bức thư tuyệt mệnh, để vừa che dấu sự lười biếng,

vô trách nhiệm khiến cho lụt lội, để nào những nhà trôi, người chết, nào những

của cải tan tành; vừa thoát được sự triệt hồi; hơn nữa, lại còn trở thành đòn bẩy

cho những lần thăng thưởng trên đường công danh mãi mãi về sau!

Chuyện Con ngựa già chắc chắn không phải chỉ nêu vấn đề về một con

ngựa già hết thời phải nhận một cái chết khủng khiếp: bị chôn sống, bị chặt

chân cho vừa huyệt! Cái chết của nó trở thành trò vui cho người xem, cho lũ

trẻ trong đó có “tôi” thích thú trước cảnh con vật đau đớn khua bốn cái chân

cụt như muốn phi đi! Có lẽ câu chuyện còn đặt ra câu hỏi về giá trị cuộc sống,

về phần thưởng cuối cùng của cuộc đời. Đó là lời đối thoại gay gắt với quan

điểm “ở hiền gặp lành”, “tu nhân tích đức”, nó nói thật hơn về một hiện thực

nghiệt ngã, vụ lợi và phi nhân tính!

Mỗi truyện được kể rất linh hoạt, nhân vật “tôi” có thể tự do dẫn dắt

người đọc đến câu chuyện của “tôi” bằng tất cả những suy nghĩ của “tôi” lúc

này như thế nào (hiện tại), lúc ấy như thế nào (quá khứ). Cái “tôi” có điều

kiện được tự do bộc lộ cá nhân, biểu đạt tình cảm chủ quan. Bởi vậy, một mặt,

nó là cái tôi “khách quan”, mặt khác, cũng là cái “tôi” chủ quan, cái “tôi” nội

tâm, cái “tôi” tâm lí.

Vì vậy, người đọc không chỉ nhận được một câu chuyện khôi hài đem

kể lại, mà thông điệp còn nhiều hơn thế. Chẳng hạn, người đọc phải suy nghĩ

cùng những suy nghĩ của “tôi” trong Quan tham nửa giờ:

“Bây giờ tôi lớn lên, nhân nhớ lại câu chuyện cũ mà lại buồn cười. Té

ra là hai bên cùng lầm cả, cho nên mới thành câu chuyện. Anh tài lầm vì anh

32

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

chỉ biết trọng ông quan tham, mà anh không biết khinh thằng nói khoác, mà

tôi lầm là vì ai lại đi trả đắt cái sĩ diện với kẻ xét lầm mình.

... Ấy các ngài đừng dại như tôi, trước khi chui vào cái ô tô hòm mà

chễm chện, ta hãy bấm lưng xem có bao nhiêu vốn cái đã, mà anh tài có hỏi

cũng cứ sự thực mà nói, thì ở xã hội làm gì có những cảnh ba đào? Nhưng nếu

không thế, sao đã có câu chuyện tôi hiến các ngài đây?”

Vì vậy, nói truyện của Nguyễn Công Hoan kết thúc, nhưng thực sự nó

vẫn luôn để lại những dư ba không ngờ trong lòng độc giả.

Ngoài những truyện kể từ điểm nhìn của cái “tôi” - nhân vật chính, nhiều

truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là những truyện kể từ điểm nhìn của cái “tôi”

- chứng nhân, như một nhân vật phụ chứng kiến câu chuyện và kể lại.

1.1.2.2. Cái tôi - chứng nhân.

Có 9 truyện ngắn được kể từ điểm nhìn chủ quan của “cái tôi – chứng

nhân”, là nhân vật phụ, chứng kiến mọi sự kiện xảy ra trong chuyện.

Trong những truyện ngắn này, “tôi” vừa là nhân vật phụ, vừa là người

kể chuyện đã chứng kiến trung thực, khách quan mọi chi tiết, sự kiện diễn ra.

Chẳng hạn, khi tôi đóng vai thám tử và chứng kiến cảnh khốn nạn của hai vợ

chồng tìm từng hột vàng trong thùng phân (Gói đồ nữ trang), khi tôi thấy tình

cảnh bi hài của bạn (Bố anh ấy chết), khi “tôi” biết trò mánh của những anh

văn sĩ được coi là nhân tài (Nhân tài, Mánh khóe), hay khi “tôi” hiểu ra sự

thay đổi nhanh chóng của một con người do tác động của hoàn cảnh (Người

vợ lẽ bạn tôi).

Tất nhiên, khi đặt điểm nhìn từ cái “tôi” kể chuyện, câu chuyện chắc

chắn ít nhiều vẫn mang bản sắc, thái độ, đánh giá của “tôi” về sự kiện. Tính

chủ quan thể hiện ở việc người kể chuyện xen kể, tả và lời bình luận với

giọng chủ quan của mình, mọi hành động truyện cuối cùng vẫn là được lí giải,

33

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

soi sáng từ điểm nhìn chủ quan này. Trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan,

đây cũng là một người kể chuyện rất dí dỏm trong cách nhìn nhận về câu

chuyện kể.

Ví dụ, để kết luận về sự thay đổi của con người, người kể chuyện xưng

“tôi” bình luận:

“Tôi biết Quý không khi nào có thể đi chơi với tôi. Vì cả đến cái tự do

của anh cũng bị cô vợ lẽ chiếm nốt. Hẳn từ nay, tự nhiên hoàn toàn anh bị

tước quyền làm chủ nhân ông.

Thì ra ở đời, mỗi khi nước nọ xâm chiếm nước kia, cuộc chinh phục về

mặt kinh tế, về mặt chính trị, cũng đi dần dần từng bước nguy hiểm như vậy.

Tôi đã thấy bao nhiêu ca thế rồi.” (Người vợ lẽ bạn tôi)

Như vậy, thực chất, là nhân vật bên trong câu chuyện, dù “tôi” không

phải là nhân vật chính nhưng điểm nhìn của anh ta luôn là trung tâm định

hướng cho độc giả. Dù “tôi” không kể chuyện của mình, hoặc không trực tiếp

can dự vào câu chuyện, thì cũng không thể nói rằng câu chuyện được kể

không có chút gì liên quan đến tôi. Bởi lẽ, khi một câu chuyện được kể ra có

nghĩa là nó không tách rời ý thức của người kể. Đứng ở vị trí người kể

chuyện, “tôi” không bị các nhân vật khác nhìn, chỉ có các nhân vật khác bị

nhìn theo quan điểm của “tôi”. Vì vậy, điểm nhìn chủ quan cũng thể hiện rất

rõ nét.

1.1.3. Di chuyển điểm nhìn

Không chỉ sử dụng hình thức điểm nhìn khách quan như truyện truyền

thống, hay tìm đến điểm nhìn chủ quan, ở một số ít truyện ngắn, Nguyễn

Công Hoan vận dụng sáng tạo các hình thức di chuyển điểm nhìn.

34

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Một vài truyện kể có sự di chuyển từ điểm nhìn của nhân vật sang điểm nhìn

của tác giả hoặc ngược lại, hay truyện kể có sự dịch chuyển từ điểm nhìn của

nhân vật này sang nhân vật khác. (Bảng 1.1)

1.1.3.1. Di chuyển điểm nhìn từ nhân vật này sang nhân vật khác.

Là hình thức truyện kể có sự phối hợp nhiều điểm nhìn trần thuật, có sự

chuyển đổi điểm nhìn từ nhân vật này sang nhân vật khác, từ trong ra ngoài

hoặc từ ngoài vào trong, tùy thuộc sự phát triển của tình tiết.

Với những tác phẩm kể theo điểm nhìn đơn nhất, khi câu chuyện được

tổ chức xoay quanh một điểm nhìn duy nhất, nhà văn thường chỉ có thể trình

bày sự kiện, hành động, và đối chiếu tâm lí nhân vật đủ để phơi bày bản chất,

tính cách nhân vật ấy. Nhưng với sự chuyển dịch góc nhìn thường xuyên

trong tác phẩm, nhà văn có thể mở rộng tầm khái quát, giúp người đọc tiếp

cận sâu hơn hiện thực để nhận biết bản chất của nó toàn diện hơn.

Tính di động của điểm nhìn thể hiện ở sự thay đổi vị trí quan sát hoặc

vị trí được quan sát. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan có thể nghiệm sự dịch

chuyển của vị trí được quan sát. Thường, ban đầu, người kể chuyện hóa thân

vào nhân vật nào đó để nhìn và kể. Rồi lại có thể nhập thân vào nhân vật

khác. Như vậy điểm nhìn của truyện có thể di động theo điểm nhìn của nhiều

nhân vật. Truyện có thể vẫn được kể theo điểm nhìn bao quát của một người

kể giấu mình, song điểm nhìn không chỉ trượt trên nhiều nhân vật mà còn

được trao cho vài nhân vật trong đó. Những nhân vật ấy là người trực tiếp thể

hiện hành vi quan sát, cảm nhận, đánh giá. Hai cái bụng, Tấm giấy một trăm

là những truyện như vậy.

Hai cái bụng gồm hai cảnh huống, hai tâm trạng của hai con người.

Một người là “nó” với sự đói khát, kinh tởm, đã kết thành hình, nhất là với cái

bụng ép. Nó cảm nhận cái đói, suy nghĩ kiếm cái nhét vào dạ dày, ăn mày, ăn

35

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

xin, tự vét nhặt cơm thừa canh cặn... Nhưng “hôm nay thì nó lả đi rồi. Tai nó

ù, mắt nó lóa. Nó nằm vật ở lề đường. Miệng nó há hốc ra vì đói”. Người thứ

hai, là “bà ấy” với nỗi lo bệnh lạ. Một tháng trời, bà đã phải mời hết đốc-tờ

tây đến ông lang ta, rồi ông thầy khách, mất bao tiền của và thời gian mà

không khỏi bệnh. Lạ quá? Căn bệnh có căn nguyên từ sự sung sướng, sự giàu,

sự béo của bà: bà yếu dạ lắm. Mà cuối tháng trước, vì nể bạn, bà đi ăn cỗ

cưới, và “ngắc lên đến cổ” vì “những bóng, những mực, những long tu, những

vây cá, và đến trăm thứ khác nữa”. Để đến nay, “khổ thật! Thuốc thang chịu

uống đến thế mà bà ấy không đói cho!” Câu chuyện đặt ra sự đối nghịch bi -

hài khủng khiếp của giai cấp, của giàu - nghèo. “Nó chỉ thèm được ăn” - “Bà

ấy chỉ thèm ăn được”!

1.1.3.2. Di chuyển điểm nhìn của nhân vật sang điểm nhìn của tác giả

hoặc ngược lại.

Hình thức đặc biệt (xuất hiện ít nhất) là hình thức tự sự mà Nguyễn

Công Hoan sử dụng điểm nhìn dịch chuyển trên hai hay nhiều người kể

chuyện xưng “tôi”, “ta”. Những cái tôi này không phải là sự phân thân của

một cái tôi nào đó. Mỗi cái tôi được miêu tả như một ý thức.

Lập goòng có dạng kết cấu đặc biệt đó: Tác giả kể chuyện - “Tôi” là

nhân vật tự kể chuyện - Tác giả là “ta” kể lại và kể tiếp. Trong đó, người kể

chuyện ngôi thứ ba khách quan kể lại cuộc đối thoại của anh em trong trại cơ

và chú quyền Ván cách. Trong cuộc đối thoại đó, chú quyền Ván cách là nhân

vật xưng “tôi” kể lại câu chuyện của mình. Tiếp theo, người kể chuyện xưng

“ta” - nhà tiểu thuyết kể lại và rõ sự thật hơn về câu chuyện của chú Ván cách.

Như vậy, câu chuyện này được kể theo tiêu điểm hỗn hợp: kể lại hai lần

chuyện xảy ra một lần dưới những diểm nhìn khác nhau, với những ánh sáng

khác nhau. Lần một, câu chuyện kể theo hồi tưởng của nhân vật, lần hai, câu

chuyện kể lại theo lời của “nhà tiểu thuyết”. Tác giả đã tạo ra một bản lề giữa

36

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

hai câu chuyện của “tôi” - chú Ván cách, và “ta” - nhà tiểu thuyết, để chỉ rõ

yếu tố lồng ghép này:

“Nghe câu chuyện chú quyền Ván cách nói, ta cũng đã hiểu vì sao chú

phải phạt rồi. Vì lỗi, chú đi lâu quá, đến nỗi thầy quản đồn một mình không

giữ nổi cái con mẹ khôn ngoan, khỏe mạnh kia, để nó xổng mất. Nhưng tưởng

thầy quản đồn cũng lực lưỡng nhanh trí lắm đấy chứ. Tại sao lại để cho con

đàn bà nó đánh tháo được cả người lẫn tang vật?

Nhà tiểu thuyết chẳng muốn để chỗ thủng ấy vừa chỗ cho độc giả đánh

dấu hỏi. Vậy xin kể cái miếng võ nó rình đánh vào chỗ yếu của thày quản, và

mưu mẹo nó lừa ra sao.”

Như thế, nếu như câu chuyện của chú Ván cách kể về nỗi vất vả chạy

đi tìm dây lâu quá, thày quản không giữ được người đàn bà buôn thuốc lậu, và

chú bị phạt lập goòng, khiến độc giả ngạc nhiên, không hiểu. Thì câu chuyện

của nhà tiểu thuyết đã dần dần đưa câu chuyện thứ nhất ra ánh sáng, chúng ta

hồi hộp theo dõi và bị bất ngờ ở phần kết khi nguyên nhân được làm sáng tỏ:

thầy quản cố ý bắt chú Ván cách đi tìm dây ở rừng xa. Còn thầy, khám cẩn

thận hết các túi dưới, túi trên, túi trong, rồi thày khám, khám mãi, mãi... đến

khi “miệng thì ha hả, đầu thì gật gật, tay thì lôi kéo, bắt con mẹ vào trong túp

hàng nước, có lẽ để khám cho kĩ hơn”. Và đó chính là nguyên do con mẹ trốn

thoát để chú quyền Ván cách phải chịu phạt!

Kĩ thuật trần thuật lồng ghép như trên (kiểu truyện lồng trong truyện:

do một người kể chuyện trong truyện kể lại) đôi khi cũng được tác giả dùng

đan xen trong một số truyện ngắn. Cách kể này có chức năng lí giải (Lập

goòng), trình bày, cung cấp thông tin về những sự kiện nằm ngoài tuyến hành

động của trần thuật như các sự kiện trong quá khứ (Nhân tình tôi), hoặc làm

sao nhãng, cản trở diễn tiến, tạo sự hồi hộp (Sadmandji)... Những truyện trong

truyện này đều được kể từ “tôi” - một nhân vật trong truyện, và rõ ràng đã thể

37

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

hiện sự sáng tạo trong vận dụng linh hoạt các điểm nhìn trong một truyện

ngắn của Nguyễn Công Hoan.

1.2. Vai trò ngƣời kể chuyện.

Người kể chuyện là nhân vật trung gian nối liền giữa nhà văn, tác phẩm

và bạn đọc. Vì vậy, nghiên cứu vai trò của người kể chuyện cần được xem xét

trong ba mối quan hệ này. Trong mỗi tác phẩm tự sự, người kể chuyện thường

có các vai trò, chức năng sau :

Thứ nhất, người kể chuyện có vai trò tổ chức, kết cấu tác phẩm.

Thứ hai, người kể chuyện có vai trò dẫn dắt người đọc tiếp cận thế giới

nghệ thuật.

Thứ ba, người kể chuyện có vai trò là người mang tiếng nói, quan điểm

của tác giả về cuộc sống, con người và nghệ thuật.

Tìm hiểu vai trò người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Công

Hoan chúng tôi tập tung hai vấn đề :

1.2.1. Người kể chuyện trong sứ mệnh tạo ra mạch tự sự độc đáo hấp

dẫn

Vai trò tổ chức, kết cấu tác phẩm và vai trò dẫn dắt người đọc tiếp cận

thế giới nghệ thuật trong tác phẩm của người kể chuyện theo chúng tôi cũng

chính là sứ mệnh tạo ra một mạch tự sự độc đáo hấp dẫn của người kể

chuyện. Người kể chuyện ấy vừa tổ chức một câu chuyện kể vừa phải làm sao

để tạo nên sự hấp dẫn thu hút cho truyện, cuốn độc giả vào một mạch tự sự -

vòng xoáy của những gì đang diễn ra trong truyện kể.

Nguyễn Công Hoan ý thức rất rõ về điều này. Theo ông, truyện hay

không những phải thực mà còn phải được biết kể. Hai yêu cầu đó cần tồn tại

song song và không phủ định nhau trong bất kì tác phẩm nào. “Cùng một câu

chuyện, mà biết kể thì người nghe thích, không biết kể thì người nghe chán

phè” [41, 1072]. Do vậy, biết kể có lẽ là điều kiện cần có để dẫn người đọc

bước vào thế giới của truyện. Việc làm ấy, tuỳ thuộc vào tài người kể chuyện.

38

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Nguyễn Công Hoan từng kể: có người bạn văn “Tương Huyền thấy tôi

nghịch ngợm, nói chuyện có duyên, nên một lần đã bảo tôi:

- Mày biết lắm chuyện buồn cười, và hay nói chuyện buồn cười, thì

mày nên viết hài kịch” [41, 1062]. Nguyễn Công Hoan đã từ chối, nhưng thực

chất, ngay từ những truyện ngắn đầu tiên và nhất là trong những truyện ngắn

sau này, Nguyễn Công Hoan đã tự định hình một phong cách truyện ngắn trào

phúng hấp dẫn của riêng mình - sáng tạo nên thể loại truyện ngắn - kịch hiện

đại đầu tiên trong dòng văn học Việt Nam 1930 - 1945.

Từ trong quan niệm, Nguyễn Công Hoan coi cuộc đời “là một sân khấu

hài kịch”, “ là cả một thế giới làm trò, cái gì cũng giả dối, lừa bịp, đáng khôi

hài…” [37, 295]. Cách nhìn cuộc đời như vậy tất yếu tạo nên chất kịch rất

đậm nét trong truyện ngắn của ông. Người kể chuyện trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan đã khéo léo tạo nên chất kịch trong mỗi tác phẩm và thực

hiện chức năng dẫn dắt người đọc tiếp cận thế giới nghệ thuật độc đáo của tác

phẩm. Đây cũng chính là cái tài, cái duyên riêng của người kể chuyện trong

truyện ngắn Nguyễn Công Hoan.

"Ở giai đoạn 1930 - 1945, nếu truyện Thạch Lam tiêu biểu cho khuynh

hướng “trữ tình hoá” thì truyện Nguyễn Công Hoan rất đặc trưng cho khuynh

hướng “kịch hoá”. Nếu tự sự kiểu Thạch Lam như một phương thức gợi ra

chủ đề, thì tự sự ở Nguyễn Công Hoan lại như là một phương thức để phơi

bày trạng thái trào phúng của thế giới, một phương thức để con người tự bộc

lộ tính cách, tăng cường mâu thuẫn, xung đột.” [26, 463]

Cùng với Nguyễn Công Hoan, những nhà văn hiện thực như Vũ Trọng

Phụng, Ngô Tất Tố, rồi Tô Hoài, Nam Cao... cũng đã tạo ra được những tác

phẩm có cốt truyện giàu chất kịch. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét về

những “tình huống đại hài kịch” trong sáng tác nhà văn họ Vũ làm cho nhân

vật trong phút chốc “tênh hênh cả ra một lũ” và “những trang viết như vậy

đều có thể chuyển thành những màn hài kịch rất đặc sắc” [52, 57]. Tuy vậy,

39

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

chất kịch trong sáng tác Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố không bộc lộ ở thể loại

truyện ngắn, và chất kịch trong sáng tác Nam Cao chẳng hạn, lại chủ yếu tồn

tại ở bề sâu tâm lý nhân vật, chứ chưa được “kịch hoá” thực sự như ở truyện

ngắn Nguyễn Công Hoan. Vì vậy truyện ngắn Nguyễn Công Hoan vẫn ghi

một dấu ấn riêng của người đã sáng tạo nên kiểu truyện ngắn hiện đại đầu

tiên: truyện ngắn - kịch.

Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, trước và sau, thường chỉ là

một tình huống đời sống, một hiện tượng đời sống bất chợt bắt gặp, đó là

những việc, những cảnh, những chi tiết xảy ra trước mắt nhà văn. Nhưng đó

là những tình huống chứa đựng kịch tính; được làm bật lên bởi bút pháp

cường điệu, phóng đại; mâu thuẫn được kiên trì dẫn dắt tới cao độ và được kết

thúc một cách bất ngờ, có thể lật ngược sự thật, biến vui thành buồn, biến

khóc thành cười.

Có thể hình dung mô hình ở phần lớn truyện ngắn Nguyễn Công Hoan:

độc giả được đưa vào tình huống A. Người kể chuyện cho truyện phát triển

khiến độc giả dự đoán, nếu xảy ra sự kiện A thì sẽ có sự kiện B là nguyên

nhân hoặc kết quả của A. Kết thúc, người kể chuyện lại cho sự kiện xảy ra là

C, thường B và C là hai sự kiện đối lập nhau. Kết thúc bất ngờ như vậy nhằm

tạo ra những biến cố ngược đời. Oẳn tà roằn, Thày cáu, Thế là mợ nó đi Tây

là những truyện tiêu biểu.

Xung đột kịch tính và kết cấu bất ngờ dường như luôn được người kể

chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan gia công sắp xếp một cách

khéo léo, tự nhiên từ mở đầu - phát triển - đỉmh điểm - kết thúc.

Trong phần Mở đầu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, người kể chuyện

thường dựng khung cảnh chung của truyện, hoặc giới thiệu nhân vật chính,

hoặc nêu khái quát chủ đề truyện.

40

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Ví dụ:

- “Mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt đến tận xương.”

(Báo hiếu: trả nghĩa cha - không gian, khung cảnh truyện)

- “Đến hai tháng nay tôi không gặp Samandji. Đó là một chú lính da

đen thuộc đạo quân thuộc địa thứ chín: Một con bò mộng nuôi chờ ngày mổ

thịt. Anh ta trông dữ tợn vì hai con mắt trắng dã trên màu da mun, song bản

tính thực hiền lành chất phát”

(Samandji - giới thiệu được mâu thuẫn giữa dáng vẻ bề ngoài và bản

tính của nhân vật)

- “Anh ba Cốc, từ ngày lấy được vợ, thì đâm lo. Lo ngày, lo đêm. Sao

cho chóng trả được món nợ cưới. Không thì rầy rà to chứ chẳng chơi! Đúng

vào những chỗ hóc búa, lắm lúc rát cả mặt.”

(Vợ - khái quát chủ đề truyện)

Những xung đột kịch tính ít khi xuất hiện ngay phần mở đầu, song ở đa

số truyện ngắn, phần mở đầu rất có hiệu quả kích thích trí tò mò ở độc giả

(như truyện ngắn Báo hiếu: trả nghĩa mẹ, cuộc đối thoại giữa người khách và

người nhà hé mở những xung đột diễn ra giữa mẹ chồng - nàng dâu trong

nhà.), gợi nên giọng điệu chủ đạo, vừa đối thoại, vừa trào lộng của người kể

chuyện (đoạn đầu trong Cụ Chánh Bá mất giày)

Song, kĩ thuật gợi mạch tự sự của người kể chuyện chủ yếu tập trung ở

phần Thắt nút - Phát triển - Đỉnh điểm trong mô hình cốt truyện nói chung.

Ở phần này, người kể chuyện đã thực sự tạo ra những màn kịch, lớp

kịch, với những xung đột căng thẳng, chủ yếu được dựng lên từ những đối

thoại của các nhân vật. Báo hiếu: trả nghĩa cha, Báo hiếu: trả nghĩa mẹ, Oẳn

41

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

tà roằn, Cái ví ấy của ai, Thằng điên, Thịt người chết... có cấu trúc truyện

như những màn kịch nói như vậy.

Truyện Báo hiếu: trả nghĩa cha diễn ra hai màn kịch.

Màn 1: Trong căn phòng ấm áp, sang trọng, diễn ra bữa tiệc thật linh

đình, lễ nghi, cung kính của ông chủ hiệu xe cao su kiêm chủ hãng ô tô Con

Cọp nhân ngày giỗ bố. Cuộc đối thoại chủ - khách. Chủ, khách vui vẻ, êm

đềm, chẳng ai nghĩ đến rét buốt thấu tận xương.

Màn 2: Ngoài đường phố, mưa phùn, rét buốt, ngay quãng trước cửa

nhà là một người đàn bà nhà quê xấu xí, rách mướp. Bà được đưa ra cửa sau

và vào nhà xe tối chờ ông chủ - con trai bà, mong được đưa đi lễ và đi nghỉ.

Cuộc đối thoại nghịch lí của mẹ - con.

Những màn kịch thể hiện sự đối lập của không gian, của cảnh vật, của

những con người tạo hiệu quả đặc biệt. Người đọc tò mò, hồi hộp theo dõi và

sốt ruột chờ đợi cùng bà lão nghèo, theo dõi bà và cách cư xử của người con

giàu có mà “họ đương khen là hiếu tử.”

Báo hiếu: trả nghĩa mẹ lại là một kịch bản ba màn.

Màn 1: Đối thoại người khách - bà cụ.

Màn 2: Đối thoại bà chủ - ông chủ.

Màn 3: Bà cụ sinh ra ông chủ mới tạ thế hồi đêm. Đám tang được cử

hành.

Hành động ít được miêu tả trong suốt hai màn, song hai cuộc đối thoại

(ở màn 1 và màn 2) chính là lời giải đáp bí mật cho nguyên nhân cái chết của

bà cụ (ở màn 3).

Cấu trúc truyện kiểu này tạo hiệu quả hấp dẫn và tăng kịch tính cho cốt

truyện. Người đọc như nín thở từng bước được người kể chuyện dẫn dắt tìm

42

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

hiểu thế giới ẩn khuất bên trong mỗi câu chuyện, một thế giới mà đôi khi rất

khó nhận ra trong cuộc sống. Đó thực sự là một cách lộn mặt trái đời để nhìn

sâu hơn hiện thực cõi đời.

Trong một số truyện ngắn khác, Nguyễn Công Hoan dựng cốt truyện

chủ yếu không bằng đối thoại, mà bằng lời dẫn của người kể chuyện, bằng lời

độc thoại của nhân vật (Vợ, Cô Kếu: gái tân thời, Tôi tự tử), thậm chí truyện

không có nhân vật, không có đối thoại, chỉ có lời dẫn của người kể chuyện

(Chiếc quan tài), hoặc chỉ dùng hình thức ghép những bức thư (Thế là mợ nó

đi Tây)... Song dù theo hình thức nào truyện cũng đạt mức độ tối đa yếu tố bất

ngờ, kịch tính.

Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan có mối liên hệ chặt chẽ giữa mở đầu

với phần phát triển - đỉnh điểm và phần kết thúc. Phần kết thường giải quyết

xung đột trong phần đỉnh điểm. Song nhiều phần kết có sự hô ứng với phần

mở đầu, tạo những dư ba bất ngờ.

Mở đầu truyện Báo hiếu: trả nghĩa cha:

“Mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt đến tận xương”.

Trong phần thân truyện kể về người mẹ cũng là cảnh:

“Mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt thấu tận xương”.

Và phần kết, sau khi người mẹ bị chính con trai đuổi ra đường, vẫn là

cảnh đó:

“Mưa để khóc, gió để rên. Rét để cắt đứt ruột mẹ người con, mà họ

đương khen là hiếu tử”. Nhưng không gian này đã nhuốm bao nỗi đau xót của

người mẹ và trái tim yêu thương của nhà văn.

Nguyễn Công Hoan đã viết: “Phần kết trong các truyện của tôi, cũng

giống như cái hom, nó bất ngờ đối với độc giả hệt như miệng hom nhỏ, kéo

được con cá vào”. Nhìn chung, phần cuối trong các truyện ngắn Nguyễn Công

Hoan đều là sự xoay chuyển đột ngột và kết thúc bất ngờ.

43

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Kết truyện Đồng hào có ma, quan huyện Hinh chờ con mẹ nuôi đi

khuất, ông mới đưa mắt xuống chân, dịch chiếc giày ra một tí, rồi “tự nhiên

như không, ông cúi xuống thò tay nhặt đồng hào đôi sáng loáng, thổi những

hạt cát nhỏ ở giày dính vào, rồi bỏ tọt vào túi”, đã tố cáo sâu sắc thói ăn cắp,

ăn bẩn thuộc về “bản tính tự nhiên” của một viên quan phụ mẫu đối với dân

đen của mình.

Tấm giấy một trăm kết thúc bằng nghịch cảnh do tình ngay lí gian của

anh xe L56, khi thám tử tìm thấy tờ giấy trăm gấp tám từ chiếc đệm rơi vào

hòm xe. Anh rú lên một tiếng kinh ngạc. Nhưng anh còn kinh ngạc hơn và

không được giải thích lời nào vì ngay lập tức anh bị kết tội ăn cắp, “bị xích

tay và giải đi”. Đó là thứ luật pháp của kẻ có tiền, có quyền - thứ luật pháp vô

lí, bừa bãi, bất công với người nghèo khổ!

Cũng về đề tài ấy, Thật là phúc kể về một tên quan đèn trời soi xét, coi

thú vui đánh bài hơn cả việc xử kiện. Hắn đã xử kiện vô lý đến mức bỗng

chốc biến bên nguyên thành bên bị, biến người vô tội thành kẻ có tội, khiến

cho anh Tam đi kiện không làm gì được chú Ván-cách đã ức hiếp vợ chồng

mình, mà chợt thấy “biết ơn” quan vì “suýt nữa bị ngồi tù. Thật là phúc!” Xã

hội thời ấy đã trở nên đảo điên, đầy bất trắc. Nhưng tìm đâu ra công lí cho

người nghèo!

Cốt truyện kịch tính gắn với cái nhìn nhị nguyên, bởi người kể bao giờ

cũng đặt sự vật, hiện tượng trong thế đối lập xấu - tốt, cao cả - thấp hèn, bóng

tối - ánh sáng, thiện - ác... Điều này cũng không phải đến Nguyễn Công Hoan

mới có. Cái nhìn nhị nguyên có lẽ đã xuất hiện từ trong những chuyện cổ tích

xưa, trong những cuộc đấu tranh của Thạch Sanh - Lí Thông, Tấm - Cám,

cuộc đấu tranh thiện - ác, tốt - xấu. Nhưng trong kết thúc của thế giới cổ tích,

cái tốt, cái thiện luôn luôn chiến thắng cái xấu, cái ác. Ngược lại, kết thúc của

thế giới hiện thực trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, cái xấu, cái ác, cái

thấp hèn, bóng tối dường như luôn chiếm ưu thế và lấn át.

44

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Trường hợp đặc biệt hiếm có trong sáng tác Nguyễn Công Hoan là

Sáng, chị phu mỏ. Một sáng tác trong giai đoạn 1936 - 1939, khi có ánh sáng

của Mặt trận dân chủ, người kể chuyện Nguyễn Công Hoan đã đi đến kết thúc

với chiến thắng của Sáng - chị chạy thoát ra khỏi căn phòng nơi con quỷ dâm

dục tưởng rằng tiền có thể mua được mọi thứ - kết thúc ấy dự báo một nguồn

sức mạnh mới dược mang đến cho con người, để tự giải thoát cho chính mình.

Sáng trở thành một người công nhân duy nhất có sức chiến đấu mãnh liệt nhất

trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, tiêu biểu cho người phụ nữ có sức

mạnh phản kháng tiềm tàng...

Hiện thực cuộc sống xã hội thực dân - phong kiến lí giải cho những kết

thúc bi đát đó. Quan niệm bi quan, nhìn về cái xấu, cái ác của tác giả lí giải

cho những kết thúc đó. Văn học chân chính phản ánh hiện thực, và nhà văn,

không gì khác, đã chạm đến hiện thực ấy, lột trần nó, nhìn sâu tận đáy của cái

Thực, thường bị che khuất bởi những cái tầm thường, bởi sự giả trá, và nhất là

bởi đồng tiền...

Tuy nhiên, song song với kết thúc bằng cái xấu, cái độc ác, cái tầm

thường, thấp hèn..., tiếng cười trào phúng Nguyễn Công Hoan bật lên ở kết

truyện đã tạo nên hiệu quả trái ngược hoàn toàn. Nếu không phải như vậy, tại

sao biết bao người đã say mê truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, chứng minh sức

mạnh thức tỉnh của nó đối với con người; và biết bao lần, nhà cầm quyền đã

phải lo lắng về những tác phẩm của ông - nhà văn trào phúng của nhân dân.

Nhiều truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan không chỉ nói lên vấn đề

của thời đại, mà còn có ý nghĩa muôn đời. Và bởi lẽ, “trong vương quốc của

cõi chết, tiếng cười bị cấm”, cho nên, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan với sự

linh hoạt, dí dỏm, trào lộng của người kể chuyện sẽ luôn là một sức hút lớn

hấp dẫn mọi thế hệ bạn đọc.

45

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

1.2.2. Người kể chuyện mang tiếng nói, quan điểm của tác giả về

cuộc sống, con người và nghệ thuật.

Mỗi nhà văn khi sáng tác đều mong muốn thể hiện một quan niệm,

một tư tưởng về cuộc sống, về con người. Tuy nhiên, khác với các nhà tư

tưởng, các nhà văn không trình bày tư tưởng của mình bằng những lời phát

biểu trực tiếp, mà trình bày một cách nghệ thuật thông qua các hình tượng do

mình hư cấu nên trong đó có hình tượng người kể chuyện.

Trong những truyện ngắn của mình, Nguyễn Công Hoan đã thông qua

nhân vật người kể chuyện để bày tỏ thái độ của mình trước cuộc sống, con

người, xã hội (khi trào lộng, khi phê phán, phẫn nộ, thương yêu...). Với vai trò

đại diện của tác giả, người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

đem đến cho độc giả những đề tài, mà phần nào đã từng diễn ra, từng ảnh

hưởng nhiều trong cuộc đời tác giả. Như chính tác giả từng tâm sự:

“Người viết văn chịu ảnh hưởng về mặt nào nhiều nhất, thì có khả

năng sáng tác về mặt ấy nhiều nhất.

Tôi sinh trưởng trong một gia đình phong kiến suy tàn vì chế độ đổi thay,

nên bị lép vế. Do đó, tôi đã chịu sự giáo dục hằn học với bọn quan lại ôm chân

đế quốc để mưu cầu phú quý trên lưng những người nghèo hèn.” [41, 1223]

Sự hằn học, day dứt, dồn nén trong tâm trạng của nhà văn đối với hiện

thực xã hội luôn đòi hỏi được giải thoát. Và đó cũng chính là động cơ quan

trọng thúc đẩy tác giả buộc phải cầm bút: “lòng muốn viết những cái gì mình

thấy cần viết...Viết được ra thì lòng nhẹ nhàng, thanh thoát, sung sướng, kiêu

hãnh. Bởi vì mình vừa trút được ra giấy trắng mực đen, để truyền tới độc giả,

cái tâm sự, cái tình cảm, cái ý kiến, cái thái độ của mình đối với một nhân

vật, một sự việc mà mình xúc động.” [41, 1209]

Vì thế, những tâm sự, tình cảm, ý kiến, thái độ của nhà văn đối với

hiện thực được bộc lộ trong tác phẩm qua hình tượng người kể chuyện. Trong

nhóm đề tài về quan lại, cường hào, địa chủ, tư sản vô lương tâm, giả đạo đức,

46

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

ông dã dựng lên cả một “thế giới lộn ngược” nhằm mục đích chế giễu, phê

phán xã hội thực dân phong kiến với quá nhiều nghịch cảnh, quá nhiều sự đảo

lộn trật tự và giá trị. Bên cạnh tiếng cười đả kích, châm biếm là giọt nước mắt

cảm thông cho những cảnh đời, những kiếp người thê thảm trong xã hội, từ

người nông dân cho đến người đi ở, người kéo xe, kép hát đến những kẻ ăn

cắp, người hát xẩm, thậm chí cả cô gái giang hồ... Trong đề tài về những

người thuộc tầng lớp trung lưu, chịu ảnh hưởng lối sống phương Tây, ông

cũng phê phán những lối sống hư hỏng, sự hiếu danh, những cách lừa bịp lẫn

nhau của họ. Bên cạnh đó, Nguyễn Công Hoan còn lên tiếng phản đối chiến

tranh, tố cáo những chính sách bịp bợm, xảo quyệt của thực dân trong nhóm

truyện viết về thực dân, phát xít.

Người kể chuyện trong truyện Nguyễn Công Hoan luôn hướng đến

những câu chuyện mang tính bi - hài, vì: người kể chuyện ấy mang trong nó

quan điểm của tác giả về cuộc sống:

“Tôi bi quan, tôi hoài nghi, tôi khinh ngạo tất cả. Bởi vì tôi sống dưới

một chế độ, một xã hội không làm cho tôi vui vẻ, tin tưởng và kính trọng một

mảy may... Cho nên có thể nói rằng khả năng của tôi là viết về mặt xấu của xã

hội cũ.” [41, 1212] Viết về mặt xấu trong xã hội không nhằm giễu cợt, chê

bai, không bằng thái độ bàng quan của người ngoài cuộc, Nguyễn Công Hoan

đã viết bằng cả tấm lòng, bằng những giọt nước mắt...

Bên cạnh quan niệm về cuộc sống, người kể chuyện còn cho ta thấy

quan niệm của nhà văn về văn chương, nghệ thuật:

Nguyễn Công Hoan quan niệm, truyện hay, “trước hết truyện phải

thực”. Nguyễn Công Hoan là một trong những nhà văn tiêu biểu đầu tiên của

giai đoạn đầu thế kỉ XX có công trong việc đưa văn học trở về cuộc sống đời

thường bằng cách phản ánh hiện thực thông qua ngôn ngữ bình dân, suồng sã.

Hơn nữa, Nguyễn Công Hoan “không nhìn đời bằng đôi mắt bình

thường những sự việc xảy ra một cách thẳng đuỗn, khô khan, mộc mạc, thật

47

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

thà, mà nhìn cả bằng óc, bằng tim, vào những khía cạnh đẹp xấu, hay dở, nó

nằm kín trong lòng sự việc. Tôi tưởng như nghe thấy cả tiếng nói, trông thấy

cả linh hồn của sự việc” [41, 1051]. Truyện ngắn của ông có khả năng đi đến

tận cùng sự thực, lộn trái nó, để hiện thực được hiện lên đúng với bản chất,

với linh hồn của nó.

Trong một số truyện ngắn, người kể chuyện thể hiện quan điểm về

người cầm bút, người nghệ sĩ, nhân tài, hoặc về văn học đương thời: Ông nhại

lối văn sướt mướt tình cảm kiểu Tự lực văn đoàn (Nghĩ người ăn gió nằm

mưa...), lối văn sắp xếp gay cấn kiểu truyện trinh thám (Cái lò gạch bí mật);

ông xót xa cho thân phận người nghệ sĩ trong sự đối lập nghiệt ngã giữa tài

năng và hiện thực (Hồng Sơn, Kép Tư Bền), ngược lại, phê phán những anh

“văn sĩ”, những “nhân tài rởm” nhờ “mánh khóe”, nhờ đồng tiền để được nổi

tiếng (Nhân tài)...

Nhà văn Nguyễn Khải từng nói: “Người sáng tạo phải mê say, phải

cuồng nhiệt, phải triệt để trong mọi niềm tin và mọi yêu ghét. Có vậy anh ta

mới tạo nên tác phẩm nghệ thuật có sức truyền cảm mãnh liệt” [50, 55]. Quả

thực, người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đã được truyền

vào những tư tưởng, tình cảm, bầu nhiệt huyết ấm nóng của người sáng tạo,

để sản sinh những tác phẩm có sức hút mãnh liệt đối với bạn đọc.

Thành công của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là sự hòa quyện của

nhiều yếu tố: người kể chuyện, không gian, thời gian, ngôn ngữ, giọng điệu,

cốt truyện, kết cấu… Đó là những nốt nhạc có linh hồn, dưới bàn tay tài hoa

của người nghệ sĩ, chúng tập hợp lại thành bản hòa nhạc đa thanh đa sắc,

không thể không để lại những âm vang, dư ba trong lòng người đọc.

Bên cạnh sự thành công của người kể chuyện thì thời gian và không

gian cũng là những yếu tố góp phần trong sự hoàn thiện của nghệ thuật tự sự

trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, chúng ta sẽ tìm hiểu rõ điều này

chương sau.

48

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

CHƢƠNG 2.

KHÔNG GIAN - THỜI GIAN TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN

NGUYỄN CÔNG HOAN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945.

Không gian là thuộc tính dài rộng trong sự tồn tại của vật chất, thời

gian là tính liên tục và thứ tự trong quá trình vận động của vật chất. Thời gian

và không gian có mối liên hệ qua lại với nhau và không có vật chất nào tồn tại

ngoài không gian và thời gian. Ăngghen nói: “Hình thức cơ bản của mọi tồn

tại là không gian và thời gian, những tồn tại ở ngoài thời gian, tồn tại ở ngoài

không gian đều là hoang đường” [68, 20]. Không gian và thời gian luôn chế

ước, bao hàm cuộc sống của chúng ta “Con người muốn có được sự tồn tại

của hiện thực khách quan, thì phải có thế giới xung quanh. Cũng giống như

mỗi tượng thần không thể không có một ngôi thờ miếu để trú ngụ” (Hêgel).

Miêu tả thế giới hiện thực khách quan của con người, tác phẩm tự sự

không thể không chú ý đến phương diện không gian - thời gian.

Hơn thế, không gian - thời gian trong tác phẩm tự sự không đơn thuần

chỉ là tồn tại khách quan, mà còn chịu sự chi phối bởi con mắt thẩm mĩ và ý

đồ nghệ thuật của tác giả, hình thành nên không gian - thời gian tự sự. Không

gian thời gian tự sự trở thành một trong những yếu tố có thể làm nên thành

công lớn lao của tác phẩm, bên cạnh những yếu tố khác như người kể chuyện,

nhân vật, ngôn ngữ tự sự ...

Chủ nghĩa cổ điển đồng nhất không gian – thời gian nghệ thuật với

không gian - thời gian khách quan. Nhưng trong các tác phẩm, không gian –

thời gian được coi là môi trường bất biến đối với nhân vật, đó là thứ không

gian – thời gian mang tính ước lệ, như một sân khấu lớn để nhân vật diễn xuất

trên đó mà thôi.

49

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Chủ nghĩa lãng mạn có sự phủ nhận thời gian khách quan, biến thời

gian khách quan thành thời gian lý tưởng. Rõ ràng thời gian và không gian là

sự lý tưởng hóa theo ý đồ chủ quan của người sáng tạo, đặt nhân vật trong sự

bất biến tính cách, không tuân theo quy luật khách quan nào của cuộc sống.

Các tác giả của chủ nghĩa hiện thực thì rất coi trọng vấn đề thời gian –

không gian trong tác phẩm. Họ nhấn mạnh rằng: không gian thời gian nghệ

thuật – chính là không gian thời gian của thếphải có khả năng tái hiện không

gian thời gian hiện thực. Nguyên tắc quan trọng của họ là tái hiện những tính

cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Họ còn đặc biệt nhấn mạnh sự ảnh

hưởng mang tính quyết định của thời gian không gian được kể lại đối với tính

cách và hành vi của nhân vật.

Như vậy, không gian - thời gian tự sự trong tác phẩm tự sự chính là

không gian - thời gian của thế giới được hư cấu, có ý nghĩa đối với việc thể

hiện hình thức cũng như nội dung của tác phẩm.

Nền văn học của thế kỉ XX, với sự biến động của rất nhiều trào lưu,

trường phái đã mang đến cho không gian – thời gian một diện mạo mới.

Trong các sáng tác của các nhà văn có sự xáo trộn bình diện thời gian, tăng

cường vai trò của thời gian hồi tưởng và thời gian tâm lý, mở rộng thời gian

lịch sử… Thời gian, không gian được mở rộng hoặc thu hẹp đến tối đa, tạo

những hiệu quả nghệ thuật cao hơn.

Và không gian, thời gian trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan vừa

phần nào chịu ảnh hưởng bởi quan niệm không gian - thời gian của chủ nghĩa

hiện thực, vừa góp phần bước đầu tạo nên sự mới mẻ cho không gian – thời

gian trong văn học hiện đại Việt Nam.

2.1. Không gian tự sự

Không gian tự sự là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật trong tác

phẩm tự sự. Nó là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người

và thể hiện quan niệm nhất định về cuộc sống.

50

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Theo M. Bal: Địa điểm (location), là nơi xảy ra các sự kiện, có thể cụ

thể, tường minh, cũng có thể người đọc phải tự suy ra. Địa điểm (location) là

yếu tố của cốt truyện. Không gian (space) là yếu tố thuộc truyện kể, là vị trí

nơi các sự kiện xảy ra đã được cấp cho những đặc điểm cá biệt, cụ thể. Không

gian này có mối liên hệ chặt chẽ với nhận thức, nói khác đi, không gian tự sự

chịu sự chi phối của điểm nhìn tự sự.

Dưới điểm nhìn chủ yếu là theo điểm nhìn khách quan, điểm nhìn tác

giả, không gian trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thường không phải là

không gian của những dằng xé nội tâm, những suy tư, trăn trở mà thường là

không gian sinh hoạt – nơi các nhân vật sống, hoạt động, diễn trò.

Từ “địa điểm” đến “không gian” trong văn bản tự sự được thực hiện

qua thao tác chuyển hóa “cụ thể hóa, gắn với nhận thức” [71, 84] - nhận thức

của người kể chuyện, của nhân vật, của tác giả.

Về điều này, Ronen cũng chỉ ra rằng: “bất cứ một sự miêu tả nào về

không gian đều viện đến cảm nhận về không gian: ngoài sự cảm nhận bằng

tưởng tượng của độc giả ra, đây còn là sự cảm nhận của người kể chuyện hoặc

của nhân vật; cả hai có thể hoặc là sự cảm nhận thực tế hoặc là sự cảm nhận

bằng tưởng tượng. Đó là bởi không gian hư cấu và điểm nhìn có liên quan

chặt chẽ với nhau” [57, 85].

Một trong những đặc điểm của nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan là sự chú trọng đến cốt truyện. Vì vậy tác phẩm của ông

ít có những trường đoạn miêu tả không gian. Đặc điểm của thể loại cũng

không cho phép điều đó. Song, nhìn toàn bộ truyện ngắn của ông, không gian

tự sự dù xuất hiện ít, nhưng vẫn chứa đựng những ngữ nghĩa nhất định, phù

hợp với ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Ở một số truyện, từ địa điểm, không

gian thực đến không gian tự sự có sự khác biệt cơ bản: sự sắp xếp lại, bài trí

không gian, cảnh vật, khoảnh cách theo một mục đích nghệ thuật nào đó.

51

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

2.1.1. Không gian sinh hoạt đời thường – Bối cảnh hoạt động của

nhân vật.

Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thường chú trọng đến cốt truyện,

nhân vật cũng là những nhân vật hành động, ít tâm lý. Vì vậy ông rất hiếm khi

miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên hầu như không có chỗ đứng trong truyện

ngắn của ông. Điều này cũng phù hợp với thể loại truyện trào phúng của

Nguyễn Công Hoan. Bởi truyện trào phúng gây cười do tình huống bất ngờ,

những cảnh ngộ ngẫu nhiên, éo le được sắp xếp hợp lí nên thiên nhiên dường

như vắng bóng. Thiên nhiên chỉ có tác dụng và gây ấn tượng khi được sử

dụng cho các dạng truyện khắc họa tâm lí nhân vật, thể hiện nội tâm nhân vật

trong các truyện ngắn, tiểu thuyết có chiều sâu và gợi cảm xúc. Ví dụ như

truyện ngắn của Thạch Lam, Nam Cao…

Vì vậy, không gian trong truyện Nguyễn Công Hoan không xuất hiện

không gian thiên nhiên, không gian tâm tưởng, mà là không gian sinh hoạt đời

thường, gắn với bối cảnh hoạt động của nhân vật.

2.1.1.1. Đó là không gian sinh hoạt đời thường.

Chẳng hạn, không gian trong căn nhà, căn phòng, căn buồng chiếm số

lượng nhiều nhất: 54 truyện (Phụ lục) như các truyện: Nhân tình tôi, Nỗi vui

sướng của thằng bé khốn nạn, Cô Kếu, gái tân thời, Mất cái ví….

Không gian của đường phố (22 truyện, ví dụ: Được chuyến khách,

Người ngựa ngựa người…)

Không gian của chốn công đường (10 truyện, ví dụ: Thật là phúc, Đồng

hào có ma, Ngượng mồm…)

Không gian của cái chợ (6 truyện, ví dụ: Bữa no…đòn, Thằng ăn

cắp…)

52

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Không gian sân khấu (3 truyện, ví dụ: Đào kép mới, Kép tư bền, Kiếp

tài tình)

Không gian của đám ma (4 truyện, ví dụ: Báo hiếu..trả nghĩa mẹ, Chiếc

quan tài, Công dung của cái miệng, Người thứ ba)

Mỗi không gian ấy đều là nơi diễn ra những hoạt động hàng ngày của

nhân vật.

Đây là không gian hoạt động của nhân vật “Thằng ăn cắp” – một góc

chợ, “giữa đám bán hàng rong”: “Nó vơ vẩn giữa đám hàng bán rong. Thấy

nó, bà bán hàng rau đứng dậy, quẩy gánh lên vai, đi chỗ khác. Bà hàng thịt sờ

lại ruột tượng. Bà hàng bún riêu nắn lại tiền. Bà hàng lê bấm cô hàng bánh

đúc. Chị bán bánh rán đưa mắt cho bác bán khoai”. Không gian thường được

dựng nên qua con mắt nhìn của nhân vật đối với thế giới: “Nó nhìn gánh bún

riêu. Nó nhìn mẹt bánh đúc. Nó nhìn rổ khoai lang”. (Thằng ăn cắp).

Đây lại là không gian của một túp nhà xiêu – không gian vẽ nên cảnh

nghèo đói, lặng lẽ, bấp bênh, vô định của cả người sống và người chết: “Chiếc

quan tài ấy đặt trên tấm phản, giữa một túp nhà xiêu. Một người đàn bà, quần

áo nâu bạc, ngồi phệt ở bên, úp mặt vào cánh tay khoanh cạnh ván thiên, thỉnh

thoảng hé vuông vải nhỏ mới, ghé ra ngoài xỉ mũi xuống nước. Gần đó, một

thằng bé con, chỉ mặc một manh áo rách, thò cái gậy tre vừa đẵn, nghịch với

những tăm bọt sủi trên mặt lượt bùn”. (Chiếc quan tài)

Không gian phố thường là không gian được hình dung bằng sự dịch

chuyển của bước chân nhân vật, với công việc hàng ngày của nhân vật: Anh

xe sau trận ốm đã gắng sức đi: từ nhà đến nhà xe, đến cửa Nam, Hàng Bông

đệm, rồi tới Bờ Hồ:

“Anh rảo bước, đến hiệu xe”.

“Đi một quãng, anh chóng mặt hơn. Anh đứng lại nghỉ dể thở…anh lại

thong thả tiến từng bước một”.

53

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

“Ở cửa Nam, các bạn anh đã đứng đông cả ở đó”.

“Đi độ hết phố Hàng Bông đệm, anh vẫn thấy choáng váng, rồi tối tăm

mặt mũi. Anh phải đứng lại để thở”.

“Bờ Hồ là cái biển người mà các phố như các ngả sông chảy dồn người

lại. Đến nơi ồn ào, tấp nập, anh Tiêu quên cả bệnh tật. Tự nhiên anh rảo cẳng

từ lúc nào mà anh không biết”. (Được chuyến khách)

Đôi khi không gian không chỉ gắn với hoạt động mà còn làm tô đậm

một nét tâm lý của nhân vật.

Từ sân công đường vào buồng quan, con mẹ Nuôi tiến đến trong nỗi sợ

sệt, lo lắng. Trong buồng quan, từ đầu đến cuối truyện chỉ có hai người: quan

và mẹ Nuôi. Chỉ có hai vật: chiếc bàn giấy và những đồng hào đôi. Hai đồ vật

ấy góp phần bộc lộ rõ bản chất đê tiện, tham lam đến bỉ ổi của quan (ăn cắp

một cách trắng trợn dù chỉ một đồng hào đôi của người dân lao động) đằng

sau cái vỏ ngoài bệ vệ, uy nghi (sau cái bàn giấy như là biểu tượng cho

khoảng cách lớn quan - dân).

Cũng không gian công đường, trong truyện Thật là phúc, xuất hiện

nhân vật quan xử kiện trong buồng tư. Nhưng trong buồng ấy cũng chỉ có hai

vật mà quan đang quan tâm nhất: những “quân bài” trên “chiếu”. Vì thế quan

cũng không thể nhìn thấy những “bê bết máu mê” trên mặt mũi anh Tam.

Còn anh Tam, người dân đi thưa kiện, nhưng đến công đường quan với

tâm trạng sợ sệt, khúm núm của một kẻ có tội. Đây thực sự là không gian của

uy quyền, của đồng tiền, của sự giả dối, vô trách nhiệm chứ đâu phải là không

gian của công lý như khái niệm “công đường”!

2.1.1.2. Không gian chính là bối cảnh hoạt động của nhân vật.

Trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, không gian chính là môi

trường hoạt động của nhân vật. Trong khi Thạch Lam rất chú trọng việc miêu

54

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

tả thiên nhiên, thiên nhiên trở thành một nhân vật đặc biệt, thì Nguyễn Công

Hoan chỉ tập trung vào hành động của nhân vật trong không gian hành động.

Trong bối cảnh của không gian công đường ở truyện ngắn Đồng hào có

ma, chỉ có hai nhân vật hoạt động: Con mẹ Nuôi cố lần tìm năm đồng hào đôi,

ông huyện hinh ngồi yên sau chiếc bàn giấy. Nhưng khi con mẹ Nuôi bỏ về vì

không tìm thấy đồng thứ năm, “Ông huyện Hinh cứ ngồi yên sau bàn giấy để

nhìn theo con mẹ khốn nạn. Rồi khi thấy nó đã đi khuất, ông mới đưa mắt

xuống chân, dịch chiếc giầy ra một tý. Và vẫn tự nhiên như không, ông cúi

xuống thò tay nhặt đồng hào đôi sáng loáng, thổi những hạt cát nhỏ ở giầy

dính vào, rồi bỏ tọt vào túi”. Trong đoạn văn, bối cảnh đồ vật trong công

đường quanh ông huyện không đa dạng, chỉ có bàn giấy, chiếc giầy và đồng

hào. Nhà văn không chú trọng miêu tả không gian, mà điều nhà văn chú trọng

hơn cả là những cử chỉ, hành động “ăn bẩn” của lão huyện, còn không gian

chỉ là môi trường hoạt động của nhân vật. Đó cũng là lí do vì sao ta nhận thấy

mật độ dày đặc của động từ trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Và không

gian được miêu tả luôn xen với những hoạt động của nhân vật.

2.1.1.3. Đôi khi, tác giả xây dựng không gian lặp lại gắn với chuỗi

hành động lặp lại, liên tiếp.

Đào kép mới đưa người đọc đến không gian của rạp tuồng An Lạc

trong hai thời điểm diễn khác nhau. Lần một, các kép hát diễn, người xem thất

vọng bỏ về hết. Lần hai, gánh hát đi khắp phố trương ra những dòng quảng

cáo rầm rộ về sự đổi mới của mình. Rạp đông hẳn bởi ai cũng tò mò trước cái

mới, lạ. Nhưng rồi người ta lắc đầu với nhau, người ta thất vọng, lại bỏ về vì

biết mình bị lừa. Trong không gian sân khấu, vẫn những con người ấy diễn,

chỉ khác họ bỏ râu ria và thay vị trí ngồi. Thế là, “Từ hôm sau trở đi, chiều

nào cũng vậy, cứ độ năm giờ, bọn đào kép ban An Lạc lại mũ mãng, phấn

55

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

sáp, râu ria, ngồi trơ tráo trên xe cao su, đi diễu qua các phố để phơi nắng cái

đời hát tuồng còn ngắc ngoải”.

Sự lặp lại đến đơn điệu, tẻ nhạt của gánh hát trong một không gian sân

khấu ở một địa điểm duy nhất, một cách kín đáo, đã chạm đến vấn đề cốt lõi

của hiện thực thời đại: chế giễu, phê phán, tố cáo triều đình Bảo Đại, lật mặt

hề của bọn vua quan phong kiến và thực dân.

Truyện Thế cho nó chừa là không gian Sở Cẩm và không gian chợ gắn

với tâm trạng nhân vật một thằng bé ăn cắp trước và sau thời gian nó đi tù.

Trước, bị bắt vì ăn cắp ở chợ, nó sợ hãi, “òa lên, khóc thảm thiết”, nó

van lạy, xin tha. Trước, khi mới bị bắt lên sở, nó xấu hổ, sợ hãi vô cùng: “Vừa

bước qua mấy bậc thềm, nó vào một gian đầy những ông quần áo tây vàng,

thắt lưng da ngang mình...Thấy nó vào, các ông nhìn. Từng ấy luồng con mắt

rừng rực như muốn thiêu nó ra than”. Với nó lúc ấy “Cổng Hỏa Lò mở rộng.

Con vật đen sì nuốt chửng thằng bé”.

Vậy mà giờ khi ở tù ra. Vẫn những hành động cũ, những không gian

cũ. Nhưng, nó đã có “con mắt trông đời khác”: “Nó lang thang qua Sở Cẩm,

thăm lại chỗ nó bị giam hôm đầu tiên. Nó thẹn đỏ mặt. Nó thấy rằng trước nó

hèn nhát vô cùng”.

Rồi “Rảo bước, nó đi thẳng ra chợ. Qua bà hàng bánh, nó nhận ra ngay

cái hồi hơn ba tháng trước, đã túm nó, giải nó lên bóp. Trong óc nó nảy ra

một ý: Nó phải thử nghề”. Lần này, nó đã thành công, không ai có thể bắt

được nó. Té ra, nhà tù thực dân phong kiến chẳng giúp nó chừa thói ăn cắp

như người ta mong đợi, ngược lại, đã đào tạo nó trở nên tay “bợm” hơn trước!

Không gian lặp lại với chuỗi hành động lặp lại chưa đến hồi kết chứng minh

sự bế tắc của con đường lương thiện đối với con người trong hoàn cảnh xã hội

đương thời.

56

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Thường xuyên đặt nhân vật trong bối cảnh không gian hoạt động, sinh

hoạt đời thường, miêu tả một không gian không kéo dài, Nguyễn Công Hoan

muốn chỉ ra giới hạn chế ước của không gian và sự bế tắc, tù túng, ngột ngạt

của không gian đối với số phận con người.

2.1.2. Không gian hẹp, chật chội, cố định.

2.1.2.1. Không gian hẹp, cố định, duy nhất, ít thay đổi.

Dường như tuân thủ tính kịch trong những nguyên tắc duy nhất (về

không gian, thời gian) như trong kịch cổ điển, truyện ngắn Nguyễn Công

Hoan ít có sự dịch chuyển không gian. Không gian trong một truyện ngắn

thường chỉ diễn ra trong một không gian nhất định, hạn hẹp, ít thay đổi. Mỗi

truyện chỉ xảy ra ở một địa điểm, một không gian hẹp. Nhân vật chỉ hoạt động

trong một bối cảnh sinh hoạt của chính nó, không thay đổi.

Không gian hẹp, chật chội xảy ra nhiều nhất trong các truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan là không gian căn phòng (54 truyện) như không gian một

phòng học trong Thầy cáu, không gian một căn nhà mang tính cản trở, làm

mất tự do của con người trong Người vợ lẽ bạn tôi, không gian của phòng

khách sang trọng mà đạo đức giả trong Báo hiếu: trả nghĩa cha.

Lại có những không gian hẹp hơn, chật chội hơn do tác giả tạo nên sự dồn

nén của những con người và hành động của họ, như không gian một góc chợ:

“Người ta chen nhau, đẩy nhau, cản nhau. Một tốp người đi. Một tốp người lại.

Tranh nhau đi lại, rồi mắc ngẵng ở lối hẹp. Ủn lại. Người ta đẩy nhau. Một bà

đương chổng mông, mặc cả bìa đậu, bị giúi ngã sấp xuống mẹt hàng”.

Hoặc không gian thu hẹp đến tối đa, đến một điểm duy nhất trong căn

phòng nơi con người hoạt động, chẳng hạn không gian chỉ xoay quanh “một

chiếc giường” trong truyện Nỗi lòng ai tỏ, Đàn bà là giống yếu.

57

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Nếu như truyện có nhiều địa điểm thì vẫn là những nhân vật ấy xuất

hiện và không có gì thay đổi.

Không gian trong Cái tết của những nhà đại văn hào dịch chuyển qua

mỗi phiến đoạn câu chuyện: từ Hà Nội – vào Hà Đông, qua bến ô tô, đến nhà

Nguyễn, nhưng các không gian ấy đều là nơi hoạt động của mấy anh văn sỹ

nghèo với những cách nói năng, cách suy nghĩ và sinh hoạt cố định, không

thay đổi.

Oằn tà roằn đưa ra nhiều khung cảnh khác nhau trong nhiều cuộc nói

chuyện của một cô gái với nhiều chàng trai như để nhận trách nhiệm của họ

đối với đứa bé mà cô đang mang trong bụng. Trong cuộc thoại nào, dù ở

không gian nào, cô cũng cố thuyết phục họ rằng mình là “con nhà trâm anh”,

vậy mà thực tế, chính cô cũng không biết tác giả thực của đứa bé là ai!

Như vậy, không gian thay đổi mà nhân vật không thay đổi. Nói khác đi,

chính sự dịch chuyển của không gian làm lộ tẩy bản chất thực sự của nhân

vật. Nhân vật thuộc tầng lớp nào mang bản chất của tầng lớp ấy, không thay

đổi. Đặc điểm này thể hiện rõ nhất trong truyện Mua lợn. Câu chuyện đưa ra

hai không gian hoạt động của anh cu Mấu – người bán lợn và người mua lợn:

từ chợ về nhà quan, qua đó cho thấy đặc điểm bản chất của hai loại người.

Người dân nghèo thì hiền lành, lép vế, chịu áp bức. Kẻ quyền thế, người giàu

có thì độc ác, tham lam, bóc lột người.

Chợ là một không gian tự do, nơi thuận bán, vừa mua đối với bất kì ai.

Gặp bà lớn hỏi mua, anh đã nói giá con lợn béo của mình sáu đồng và bà lớn

bảo anh khênh nó vào trong huyện. Thật may!Anh cu Máu nghĩ mình đã gặp

được một “bà khách sộp”! Anh hi vọng... và chờ đợi...

Nhưng, bà khách đã đưa anh đến một không gian khác - dinh thự sang

trọng của quan lớn - một không gian không thuộc về anh. Và như vậy, giá trị

58

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

con lợn của anh tại không gian này lại được đo bằng thước đo khác: thước đo

của kẻ bốc lột! Có thể nói, ở không gian mới, anh Cu Mấu bị bóc lột sức lao

động và tước mất tự do. Anh buộc phải ngậm đắng mà bán con lợn của mình

với giá mà người mua - quan ông đưa ra: chỉ ba đồng, một hào!

Rõ ràng là, sự dịch chuyển không gian, nếu có, đều nhằm thể hiện dụng

ý nghệ thuật của nhà văn, thường để tạo hiệu quả đồng ứng, cộng sinh, hoặc

tạo hiệu quả trái ngược, mâu thuẫn; qua đó, người đọc nhận ra bản chất tính

cách, dạo đức của nhân vật.

Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thường có một ý và dễ hiểu, vì vậy

không gian được miêu tả cũng là những không gian hạn hẹp, cố định. Nhất là

khi gặp những trường hợp cần có nhiều ý hoặc nhiều nhân vật, hay những

trường hợp tình huống phức tạp, nhà văn cắt ra làm hai ba truyện tiếp nhau,

nhưng vẫn có sự hoàn chỉnh riêng của từng truyện. Những truyện ngắn cùng

tên như vậy, thường có chung một không gian nghệ thuật: Samandji I,

Samandji II, Tôi cũng không hiểu tại làm sao I, Tôi cũng không hiểu tại làm

sao II, Thằng Quýt I, Thằng Quýt II.

Hay cắt thành một số truyện có tên khác nhau, nhưng vẫn là về một

nhân vật: Đàn bà là giống yếu và Một tấm gương sáng; Công dụng của cái

miệng và Người thứ ba. Những truyện ngắn này thường cũng có thể đưa ra

các bối cảnh khác nhau cho hoạt động của nhân vật. Đây là thủ pháp nghệ

thuật độc đáo giúp nhà văn chiếu ống kính soi rọi nhân vật ở nhiều góc độ

khác nhau, qua đó bản chất và tính cách nhân vật bộc lộ rõ nét.

2.1.2.2. Cảnh vật xuất hiện ít, không có những bối cảnh đa dạng.

Trong các trang viết của mình, Nguyễn Công Hoan ít miêu tả thiên

nhiên. Cảnh thiên nhiên rất hiếm khi xuất hiện trong truyện trào phúng

Nguyễn Công Hoan, có lẽ một phần do đặc trưng của truyện - những truyện

59

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

chủ yếu khai thác kịch tính trong những vấn đề của đời sống. Điều này rất

khác với những truyện ngắn phong tục của Tô Hoài, truyện ngắn trữ tình,

truyện ngắn tâm lý của Thạch Lam. Tô Hoài có những trang miêu tả thiên

nhiên rất sinh động, thú vị, cho thấy rõ sự am hiểu của nhà văn về sắc thái

thiên nhiên các vùng, miền. Với Thạch Lam thiên nhiên còn trở thành một

nhân vật đặc biệt trong tác phẩm.

Cảnh thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan ít xuất hiện

một phần cũng do Nguyễn Công Hoan chú trọng tính hướng ngoại, hoạt động

bên ngoài của nhân vật. Vì vậy, một đặc điểm dễ thấy là truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan sử dụng nhiều động từ, nhất là động từ chỉ hoạt động của nhân

vật, rất ít khi dùng tính từ trong miêu tả nhân vật và hoàn cảnh như trong các

truyện ngắn Thạch Lam. Ví dụ: chỉ một truyện ngắn Bữa no đòn có đến trên

152 động từ chỉ hoạt động.

Song ở một số truyện, cảnh thiên nhiên vẫn được sử dụng như một

phông cảnh nghệ thuật quan trọng tạo hiệu ứng cho tư tưởng của truyện.

Cùng với cái nhìn bi quan của nhà văn về con người và cuộc đời, thiên

nhiên nếu xuất hiện, cũng là những gam màu tối, buồn, xám xịt hoặc lạnh lẽo

thê lương.

Truyện ngắn ở giai đoạn đầu Sóng vũ môn xuất hiện nhiều cảnh vật của

không gian trường thi: “Hôm hăm nhăm tháng mười Mậu Thìn, trời mưa dầm,

rét lắm. Trước dinh quan thượng, gần chân cột cờ, đám rước bắt dầu đi. Lính

toàn mặc áo nẹp, một đội voi đứng dàn trước mặt, một người dịch loa, một

đôi lính kỵ, mươi ngọn cờ nheo, chiêng đồng, trống cái, ngũ lôi, bát âm, kế

đến bốn đôi quất, các quan trường ngồi trên võng điều che bốn lóng. Rồi một

đội cũng cờ, cũng trống, cũng loa, đôi voi đi hậu ủng, đám đi rất nghiêm trang

nghi vệ, rõ ra cảnh tượng thái bình.

60

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Hai bên từ Cửa Đông, Hàng Mành, qua Hàng Hài, Cửa Huyện Thọ,

Trường đúc tiền, đến cửa trường thi, người xem đông như kiến cỏ. Đám rước

đi tới đâu, thì ai đứng phải ngả nón, ai ngồi phải đứng dậy, nếu không tuân, sẽ

bị roi cậu lính đét lưng” (Sóng vũ môn). Trên đó, nổi lên bi kịch của Quý – bi

kịch do xung đột giữa tài năng và hiện thực.

Các truyện ngắn ở giai đoạn sau thường ít cảnh vật hơn, số trang truyện

cũng gọn lại rất nhiều. Nhưng đó là những ngoại cảnh gây ấn tượng mạnh,

chẳng hạn cảnh lạnh lẽo, thê lương trong Oẳn tà roằn: “Luồng nước cuồn cuộn

dưới sông, hàng cột ù ù trước gió, dây sắt cầu như giăng mắc mối tơ tình”.

Nguyễn Công Hoan cũng khá chú ý đến sự sắp xếp các đồ vật trong

không gian là phương tiện hiệu quả để châm biếm. Các đồ vật rất tương xứng

với chủ nhân hợm hĩnh, thích khoe của: “Buồng này bày biện đúng kiểu tân

thời, toàn đồ bằng gỗ lát đánh bóng nhoáng. Tường nhà quét vôi xanh, gạch

chỉ xanh, lại được ngọn đèn măng sông ánh sáng cũng xanh xanh. Cứ trông

buồng khách, cũng đủ đoán tất ông chủ nhà này là một nhà giàu, ăn chơi lịch

thiệp” (Răng con chó của nhà tư bản).

Trong truyện ngắn Báo hiếu: trả nghĩa mẹ, Nguyễn Công Hoan dành

hẳn hơn một trang giấy dụng công miêu tả bối cảnh không gian của một đám

tang linh đình, uy vệ mà người xem ai cũng phải khen người hiếu chủ khéo trả

nghĩa mẹ. Nhưng đằng sau vẻ ngoài hào nhoáng, giàu có, sang trọng, hiếu

nghĩa đó là hai kẻ sát nhân vô đạo đã giết chết người mẹ của chúng, để tổ

chức một đám ma to tát hơn tất cả, hòng diễn trò “hiếu tử” ra với thiên hạ!

Riêng truyện ngắn Chiếc quan tài có thể coi là một truyện ngắn được sắp

xếp dựng nên bởi không gian. Bối cảnh xuất hiện nhiều lần, nhưng từ đầu đến

cuối truyện vẫn là một không gian u ám, tối tăm, thê lương và đáng sợ. Làng bị

lụt. Sông nước mênh mông. Chị Cu cùng bốn người đóng khố rất khó khăn mới

có thể đưa anh Cu “ra đồng” tìm chỗ chưa ngập, để chôn chiếc quan tài. Họ lại

61

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

tìm đủ mọi cách xoay xở, chặn, lèn, chống lại sức nước để giữ chiếc quan tài

chịu nằm xuống đáy huyệt. Cuối cùng họ cũng thành công khi cố đắp đất cho

được thành nấm. “Ấy thế mà khi ngôi mả đắp vừa xong, nước đã láng khắp

vườn, không hở một chỗ nào nữa. Những con giun đất mầu đen to bằng ngón

tay út nổi lềnh bềnh, rập rềnh theo đà sóng, trôi với đám bọt rác”.

Từ đây là cuộc tự du ngoạn của chiếc quan tài khi được nước giải

phóng khỏi nấm mồ:

“Chiếc quan tài nổi theo mực nước lên cao dần. Sóng bập bềnh cứ vỗ

mãi vào thành nó như cố đẩy nó đi. Rồi sau, nó không bị vướng gì nữa. Nó

quay đầu, lừ lừ theo chiều gió và chiều nước, lênh đênh, lúc trôi ngang, lúc

trôi dọc.

Độ nửa ngày, chiếc quan tài đã tự đến góc vườn, cạnh bờ lạch. Đến

đây, nước phía ngoài chảy xiết, hút nó bạt ngang vào rặng tre. Nó mắc ở đó.

Rồi một bè ngổ bám cạnh nó. Rồi một cục bèo bám cạnh nó. Rồi cả một mảng

vừa ngổ, vừa dừa, vừa bèo. Cả tảng bị nước đẩy ra lạch, nhưng không nổi.

Chiều gió đổi làm nhích dần mọi vật, mỗi lúc một tí… Rồi một mình

chiếc quan tài cựa quậy, như cũng muốn tìm lối ra chỗ rộng. Nhưng nó nặng

nề, nên hết xoay dọc xoay ngang. Nó tiến rất chậm chạp, vì thỉnh thoảng có

giong tre cản lại.

Nắng gay gắt làm cho khô đất bết trên mặt cỗ ván và cong vênh một

phần nắp lên. Cả người nằm trong, trương phềnh ra, cũng hình như không

chịu được chỗ quá chật hẹp.

Chiếc quan tài như con thuyền không chủ, bập bềnh, lách theo lũy tre.

Lúc nó dừng lại. Lúc nó nhích đi. Lúc nó giúi nghiêng, lại bạt vào bụi. Rồi

sau hết, nó tới một chỗ có khe rộng. Tự nhiên, nó lao một cái, thích hai cạnh

62

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

vào hai bên, rồi đâm thẳng ra giữa lạch chẩy xiết. Đến đây, nó quay mấy

vòng, rồi lừ lừ, nó trôi dọc theo dòng nước…”

Như vậy, dù trong truyện có xuất hiện nhiều cảnh vật, song bối cảnh

vẫn là cố định, không có sự mở rộng, thay đổi, đa dạng hơn.

Thậm chí, cảnh xuất hiện có hiệu quả làm thu hẹp không gian:

“ Mặt trời lừng lững lên cao chói lọi, ánh nắng tung tóe mạnh mẽ, đã

làm khô những bãi quết trầu. Bóng râm rụt ngắn dần”. (Bữa no đòn).

Vai trò của cảnh vật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan do đó, đã

tạo nên hệ quả, là dựng nên một không gian hẹp, chật chội, tù túng, quẩn

quanh, bế tắc – một không gian không có khả năng mở rộng, vượt thoát. Đó

chính là không gian của hiện thực cuộc sống thực dân – phong kiến với sự

chiến thắng của bóng tối, của cái xấu xa, cái tàn ác, cái thấp hèn.

2.1.3. Không gian tương đồng với cảnh ngộ nhân vật.

Nguyễn Công Hoan đã từng kể: “Tôi xúc động nhất là những tấn bi kịch,

hài kịch diễn ra ở cửa quyền. Tôi rất thích chú ý những cảnh thối tha, nhơ

nhuốc, những thủ đoạn mưu mô làm tội ác trong giới những người có thế lực,

địa vị... Tôi cũng không thể nào yên tâm trước những thống khổ của người

nghèo, vì bọn nhà giàu dùng thế lực, địa vị mà áp bức bóc lột.” [26, 1211]

Chính vì vậy, nhà văn cũng rất chú ý phác họa không gian hoạt động

của hai loại nhân vật ấy: không gian của những người giàu có địa vị, có thế

lực, và không gian của những người nhân dân lao động nghèo.

Trong truyện ngắn của Nam Cao, thiên nhiên như tấm gương phản

chiếu, soi tỏ bản chất, nhân phẩm của nhân vật. Đó là ánh trăng chiếu rõ nhân

cách xộc xệch của Chí Phèo: “đen và méo mó trên đường trăng nhễ nhại? Nó

xệch xạc về bên phải, nó xệch xạc về bên trái, thu gọn vào rồi lại dài loang ra,

xé rách ra vài chỗ.” Hay ánh trăng soi tỏ tính chất mạnh mẽ, hoang dại khi

63

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

hắn gặp Thị Nở tại vườn chuối: “Những đêm trăng như đêm nay, cái vườn

phẳng ngổn ngang những bóng chuối đen đen…Và những tàn là chuối nằm

ngửa, uốn cong cong lên hứng lấy ánh trăng rười rượi như là ướt nước, thỉnh

thoảng bị gió lay lại giãy lên đành đạch như là hứng tình”.

Không gian của Nam Cao luôn đặt trong tầm nhìn nhân vật. Đó là thứ

không gian hướng nội, không gian do nhân vật tự cảm nó, nắm bắt nó, bộc lộ

mình trong nó. Không gian trong sáng tác của Nam Cao trở thành phương tiện

hữu hiệu soi tỏ mọi ngõ ngách tâm tư, mã hóa các cung bậc, cảm xúc của

nhân vật.

Trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, thiên nhiên không góp phần soi

tỏ tâm lí nhân vật. Đó là kiểu không gian hướng ngoại, gắn với hoạt động bên

ngoài của nhân vật, song cũng là không gian tương đồng với cảnh ngộ của

nhân vật. Chúng không chỉ tồn tại với tư cách là “thực thể rắn chắc của hiện

thực” mà còn hiện diện như những cặp phạm trù đối lập, để tô đậm thêm, soi

tỏ thêm, một lần nữa cái khổ, cái nhục, cái tù đọng, bế tắc của những con

người nhỏ bé trong thời kì đen tối trước cách mạng; cùng cái giả dối, bất nhân

của những người thộc tầng lớp trên trong xã hội.

Trong bất kì không gian gian nào, đều có sự đối lập giàu - nghèo, tốt -

xấu, chân thực - giả dối, bi - hài. Nói khác đi, trong không gian tự sự này,

cuộc sống đang diễn ra như nó vốn có.

2.1.3.1. Không gian của những người giàu, có địa vị, có thế lực.

Đó là không gian công đường, chốn quan trường, nơi bộc lộ hết vẻ uy

nghiêm đáng kính, đáng sợ đối với con người, đồng thời cũng phơi bày bộ

mặt thật của giới quan lại.

Đó cũng là không gian chật hẹp của công đường gắn với lòng tham

lam, ti tiện bỉ ổi của viên quan huyện (Đồng hào có ma). Hay gắn với sự thờ

ơ, vô trách nhiệm của một tên quan khác (Thật là phúc, Tôi tự tử).

64

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Một trong những đề tài thường trở đi trở lại trong truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan là đề tài ăn cắp, ăn cướp. Ai cũng có thể ăn cắp từ đứa trẻ bé đến

người lớn vì nghèo khổ, nhưng nghịch lý là ngay cả những bậc quan lớn giàu

bạc vạn cũng làm việc ấy…Trong hệ thống những truyện ngắn về đề tài này

(Thằng ăn cướp, Thằng ăn cắp, Thế cho nó chừa, Đồng hào có ma,…), dường

như Nguyễn Công Hoan đưa ra một sự phân biệt về con người và không gian:

trẻ con chỉ là ăn cắp, ăn cắp có lí do (đói quá!), còn quan lại là ăn cướp (ăn

cướp không lí do, thuộc về bản chất). Mà ăn cắp của trẻ con ở không gian

chợ, thì quan ăn cướp ngay tại công đường. Mà cách ăn cướp của quan thì

hoặc tinh vi, hoặc ăn cướp lớn, mà không bị bỏ tù, mà không bị đánh đập, mà

còn dược tiếng là quan thanh liêm. Quan ăn cướp giỏi đến nỗi chính những

“thằng ăn cướp” đêm muốn bỏ nghề!

Lại có những không gian “làm việc” khác của quan bên ngoài chốn

quan trường. Đó là không gian ở một làng trong Thịt người chết, khi anh Xích

đã không chọn đúng ngày để chết, nên mới để xảy ra câu chuyện: anh chết

đuối từ đêm thứ bảy, để qua một ngày nắng, thây ah bắt đầu đổi khác, xác

trương phềnh, dưới nước, lũ cá mương đua nhau đớp mồi ở những kẽ nách, lỗ

tai..., trên không vo ve đàn ruồi nhặng, rủ nhau đậu đen kịt vào mặt mũi, chân

tay, mải miết hút chất đồ ăn bổ.... Bởi, anh chưa được vớt lên đem chôn. Bởi,

quan chưa về khám.

Thời gian kéo ra quá dài trong sự chờ đợi. Đến chín giờ sáng hôm sau,

còi ô tô đằng xa làm lũ cá, lũ quạ hết vía, quan về. Màn bi hài kịch của hiện

thực giờ mới diễn ra. Trong khi đang quá đau đớn vì mất con, vì thương con

chết còn khổ, thì ông Cứu còn phải lo việc khác: mặc cả “lễ” tạ quan, và đành

cầm lòng với món nợ bảy mươi đồng khấn quan sau, để quan đồng ý cho phép

đem chôn!

Ai hay, thịt người chết cũng là món đồ ăn quý giá!

65

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

“Và một giờ sau, lũ ruồi, lũ nhặng, lũ cá, lũ quạ, tiếc ngẩn ngơ.

Chúng có biết đâu rằng quan huyện tư pháp đã tranh mất món mồi ngon

của chúng.” Câu chuyện đã tố cáo bản chất tham lam, tàn nhẫn, vô nhân đến

tận cùng của bọn quan lại trong xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời.

Không chỉ “làm ăn” bằng thi thể người chết, thậm chí, quan còn cố ý

giết người để... lập công trạng! Bí mật cái chết của “Sáu mạng người” chỉ có

quan và người đọc biết: Truyện xảy ra trong không gian rừng, trong đêm tối.

Đó là không gian của tội lỗi khủng khiếp được che đậy. Thầy trò quân châu đi

xem hội từ bản về châu lị, với đủ súng ống, đạn dược, bắt gặp sáu kẻ đáng

nghi. Không suy xét, quan ra lệnh bắn. Một người chết, ba người bị thương.

Lúc này, quan mới phát hiện họ chỉ là những lương dân đi kiếm thuốc lá để

sớm mai đem bán. Quan hối hận. Nhưng chỉ hối hận trong giây phút. Rồi, để

tránh tội với quan trên, quan đã nhanh trí nghĩ ra cách giải quyết. Thì quan

làm thế này: đến tận sáng, quan cố tình truy lùng và sinh phúc cho tất cả năm

người còn lại “mỗi người một phát, đạn để họ được thoát khổ, mà rủ nhau cả

một lượt về suối vàng”! Còn quan thì phi ngựa về châu làm tờ khẩn bẩm công

với quan trên về việc “đi tuần đêm, và ba thầy trò đã giết nổi một toán những

sáu đứa... giặc khách”! Và như thế, quan chỉ còn việc ngồi chờ sự thăng

thưởng! Tất cả đã thể hiện bản chất vị kỉ, vô nhân tính của một viên quan phụ

mẫu. Quan hiện nguyên hình như một con quỷ khát máu người, sẵn sàng lấy

máu nhân dân làm đòn bẩy cho con đường danh vọng.

Bản chất của những kẻ giàu có, của tầng lớp quan lại còn được Nguyễn

Công Hoan soi sáng trong không gian sống đời thường của họ: trong một căn

phòng. Điều đặc biệt là mỗi căn phòng ấy đều tương đồng với cảnh sống, với

bản chất đáng phê phán của chúng. Đó là căn phòng tối nơi ẩn dấu những âm

mưu, những thủ đoạn, những trò nhơ nhớp, bỉ ổi của hạng người giàu có hám

66

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

danh, hám lợi và háo sắc. (Nhân tình tôi, Bà chủ mất trộm, Đàn bà là giống

yếu, Một tấm gương sáng, mua lợn, Cụ Chánh Bá mất giày, Sáng chị phu mỏ.)

Đây là không gian buồng đêm nơi giấu bữa tiệc tình ái của bà chủ và

ông khách quen: “Ngọn đèn mờ tỏ, gió động bức màn tuyn… Chủ khách bấy

lâu khao khát gặp mặt, chẳng lẽ bỏ phí thì giờ. Mà cái dây kia cứ thít mãi, cứ

thít mãi. Thì chẳng mấy chốc, giữa cái lặng lẽ thiêng liêng của ban đêm, hai

tấm thân một già một trẻ, lẫn lộn với nhau như một… Rồi, khoảng đêm

trường như miếng vải đen, đậy kín lấy từng ấy phiến thịt…”. Không gian của

trò nhơ ấy, bỉ ổi hơn, lại cũng là không gian đã diễn ra màn bí mật che khuất

vụ án mất trộm: sáng hôm sau, khi bà choàng tỉnh dậy, ông khách đã biến mất

cùng với tất cả số tiền trong két của bà chủ.(Bà chủ mất trộm)

Hay không gian buồng đêm nơi bà lớn ngoại tình công khai, trơ trẽn

trước mặt chồng (Đàn bà giống yếu), nơi ông chủ mỏ dâm dục hàng ngày hại

những cô gái phu mỏ thuộc quyền ông (Sáng, chị phu mỏ), nơi cụ Chánh Bá

thực hiện âm mưu bỉ ổi, tham lam ti tiện của ông (Cụ Chánh Bá mất giày).

Những không gian ấy là minh chứng cho sự xuống cấp của đạo đức, sự

băng hoại các giá trị đạo đức trong bộ phận những kẻ quyền thế, giàu có trong

xã hội cũ.

Đối lập với những căn phòng tối, không gian của những kẻ giàu sang

còn là những sa-lông, những phòng khách sáng rực, sang trọng, uy nghi. Căn

phòng là sự mô hình hóa cuộc sống giàu có xa hoa, đồng thời lật tẩy bộ mặt

thật vừa hợm hĩnh, khoe khoang, vừa giả dối, bất nhân trong đạo đức của lũ

người giàu có. (Răng con chó của nhà tư bản, Hai thằng khốn nạn, Báo hiếu,

trả nghĩa cha, Cái ví ấy của ai.)

Một sa-lông sang trọng, nơi lý tưởng dành cho các bà, các cô nhảy

đầm, vui chơi “thanh lịch”: “ Tiếng đàn nổi lên, du dương thánh thót như rót

67

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

vào tai. Các bà, các cô, ngồi một lượt ở dãy ghế kê sát bên tường, nói cười,

nghiêng ngả, tươi tỉnh như luống hoa trăm hồng ngàn tía đú đởn trước ngọn

gió hiu hiu”.

Thật là một nơi đáng mơ ước cho các thú vui chơi. Thế nên, “chẳng bao

lâu, lũ ghế bầy cạnh tường đã được thảnh thơi ngồi yên mà xem bọn tân-nhân

vật họ dính sát sạt vào nhau họ nhảy. Loan vờn phượng múa, loan ôm

phượng, phượng bồng loan. Tiếng đàn trầm bổng, như đưa nhẹ linh hồn lên

cõi Bồng-Lai; cuộn giấy đằng xa ném tung lại, kéo dài ra, cuốn cặp nọ dính

cặp kia, như sợi tơ hồng giàng chặt tấm tình ân ái.” Để rồi cuối cùng, không

gian thanh lịch, Tây phương ấy hiện nguyên hình là một không gian dâm dục,

không gian của lối sống Tây hóa trụy lạc. “Đêm khuya. Đêm càng khuya,

cuộc vui càng nồng, vẻ tình càng thắm. Nhẩy hết điệu này sang điệu khác, nên

nhiều bà, nhiều cô, đến cả nhiều ông nữa, thoái thác rằng sức yếu, phải rủ

nhau chuồn vào những nơi kín đáo nói rằng để trốn! Nhưng chỗ đêm khuya

ấy mới lắm ngón tài tình…”(Cái ví ấy của ai). Màn hài kịch còn đẩy thêm

một nấc thang cuối: hóa ra, trong cái vỏ sang trọng hào hoa, chỉ là một lũ ăn

chơi sa đọa và ăn cắp!

Truyện “Răng con chó nhà tư sản” mở ra bằng một không gian xa lông

lộng lẫy: “Chủ mời khách vào xa lông. Buồng này bầy biện đúng kiểu tân

thời, toàn đồ bằng gỗ lát đánh bóng nhoáng. Tường nhà quét vôi xanh, gạch

chỉ xanh, lại được ngọn đèn măng sông ánh sáng cũng xanh xanh. Cứ trông

buồng khách, cũng đủ đoán tất ông chủ này là một nhà giàu, ăn chơi lịch

thiệp”. Kết thúc, là cảnh rượt đuổi của ông chủ “lịch thiệp” để kẹp chết tươi

kẻ ăn mày, chỉ vì hắn làm gãy răng con chó quý của ông. Ai hay, kẻ giàu có,

lịch thiệp, văn hóa ấy lại coi mạng người như cỏ rác, một mạng người mà

không bằng chiếc răng của con chó. “À, mày đánh gẫy răng chó ông, ông thì

kẹp cho mày chết tươi, ông đền mạng. Bất quá ba chục bạc là cùng!”. Suy

68

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

nghĩ và hành động ấy cho thấy sức mạnh của đồng tiền đối với sự tha hóa đạo

đức con người, sự mất giá của giá trị con người trong xã hội đương thời.

Chính không gian nhà ở, căn phòng tạo điều kiện cho tác giả khai thác

triệt để cái hàng ngày của đời sống. Đời sống thật của các nhân vật hiện lên cụ

thể, sinh động, chân thực trong cái không gian riêng tư, gia đình của chính

mình. Nhưng không gian gia đình, ngôi nhà không phải là tổ ấm bình yên,

không phải là nơi chở che, cân bằng mọi xô lệch của đời sống con người. Mà

nó lại là đỉnh cao của sự ngột ngạt, bế tắc, hoặc sự giả trá, thủ đoạn, những trò

bẩn thỉu…

Như vậy, những dạng không gian căn phòng cho thấy một vai trò khác

của không gian trong Nguyễn Công Hoan đó là: Không gian không chỉ tương

đồng với cảnh ngộ mà còn tương đồng với đạo đức, phẩm chất của con người.

2.1.3.2. Không gian của nhân dân lao động nghèo

Nếu như không gian phòng khách sang trọng là không gian gắn với sự

giả dối trong đạo đức lũ người giàu có, thì không gian ngoài góc đường, góc

phố, không gian góc chợ lại là nơi sinh sống, lao động của người nghèo gắn

với số phận nhỏ bé, bấp bênh của họ.

Báo hiếu: trả nghĩa cha là truyện ngắn đặc biệt đã dựng nên thế đối

chọi gay gắt giữa hai không gian của hai hạng người. Bên cạnh bối cảnh trong

nhà ông chủ – người con trai: “Củi lò sưởi nổ đôm đốp, át cả tiếng giọt mưa

phùn. Chuyện nói to làm lấp cả tiếng gió bấc thổi. Hơi rượu nồng nàn”. Là

bối cảnh bên ngoài nhà, ở một góc phố, người mẹ đang run lên vì rét.“Mưa

phùn, Gió bấc. Rét buốt thấu tận xương. Ngoài đường phố, ở quãng trước cửa

nhà có bữa tiệc này, có một người đàn bà, lưng khoác áo tơi lá, đàu đội chiếc

nón nghệ, dáng điệu bỡ ngỡ”. Và cuối cùng người mẹ sau khi được người con

trai nhận ra, đã được chính “hắn” đẩy ra “đường”- nơi phù hợp với cảnh ngộ

69

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

xót xa của bà cụ: “Mưa để khóc, gió để rên. Rét để cắt đứt ruột mẹ người con,

mà họ đương khen là hiếu tử”. (Báo hiếu: trả nghĩa cha). Đó là không gian

của bóng tối và sự lạnh lẽo, thiếu vắng tình người.

Đọc Thạch Lam, ta thường thấy không gian của một phố huyện nhỏ bé,

nơi đó, có những con người nhỏ bé sống một cuộc sống tối tăm. Tuy nhiên,

mỗi truyện ngắn Thạch Lam lại sáng lên tình yêu thương của con người đối

với con người. Những câu chuyện lạnh bởi không gian tối, mà ấm áp bởi tình

yêu. Bởi Thạch Lam không đi vào những dục vọng, những miền mờ tối của

con người mà luôn làm nổi bật những nét đẹp của tâm hồn, của suy nghĩ, của

hành động.

Còn trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, không gian chứa đủ mọi

hạng người, cuộc sống diễn ra hai mặt, có những nơi sáng và tối, có người

giàu và kẻ nghèo hèn, nhưng có một điều không: đó là không có tình yêu giữa

những con người! Khác với truyện Thạch Lam, những câu chuyện của

Nguyễn Công Hoan thường bao phủ bởi không gian lạnh giá và sự đau khổ

tột cùng. Đó cũng chính là hiện thực trong con mắt nhà văn.

Rất nhiều góc phố, góc đường, góc chợ là nơi tồn tại gắn với những

đói, rét, đau khổ và cô dơn tuyệt đối của người dân lao động nghèo. Một anh

xẩm mù đang lấy hết sức để hát, để gào, để không ai nghe trong một không

gian u tối, lạnh lẽo, thê lương: “Xung quanh anh, gió giật từng hồi, lá vàng

trút xuống mặt đường, lăn theo nhau rào rào.

Mưa như rây bột, như chăng lưới. Đường bóng nhoáng như mặt hồ lặng

sóng, chiếu lộn những vệt ánh đèn dài.

Đường vắng ngắt. Thỉnh thoảng những chiếc xe cao su kín mít như

bưng, lép nhép chạy uể oải. Lại thỉnh thoảng, một người đi lén dưới mái hiên,

run rẩy, vội vàng”. (Anh Xẩm)

70

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Những cảnh đời như thế vẫn đang tiếp diễn, không có lối thoát. Những

câu văn dựng bối cảnh không gian như cũng thể hiện niềm thương cảm đến

xót xa của người kể chuyện - tác giả dành cho những nhân vật nghèo khổ bất

hạnh của mình. Không gian nghệ thuật này chính là sự hiện diện của tâm

trạng con người, sự hữu hình hóa những số phận, những kiếp đời bế tắc.

Đó là không gian phố, còn ở làng, không gian của người nông dân cũng

không có gì thay đổi. Vẫn là đói, rét, ốm đau, bị áp bức, bóc lột cả thể xác,

tinh thần và đôi khi cả tính mạng. Cái nạn ô tô, Thằng điên, Ngậm cười, Đồng

hào có ma, Mua bánh, Tinh thần thể dục, Mua lợn, Công dụng của cái miệng,

Người thứ ba…

Trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan có sự di chuyển không gian. Sự

dịch chuyển không gian của người nghèo đôi khi là một dụng ý để thể hiện rõ

quan điểm của nhà văn về số phận nhân vật.

Đối với người nông dân, người nghèo khó, cuộc sống của họ luôn va

vào những không gian chế ước, mất tự do. Sự lên ngôi của đồng tiền khiến

cho không ở nơi nào họ có được quyền của con người dù đơn giản nhất nếu

chưa giả giá!

Cặp truyện Công dụng của cái miệng và Người thứ ba chứng minh cho

đặc tính đáng khinh bỉ này. Mẹ chồng chị cu Sứt vừa chết. Trong nhà, chị

muốn khóc mẹ thì vấp ngay phải sự cấm đoán vô lý của cụ thư ký, chỉ vì “mẹ

mày chết, mày đã trình báo gì tao chưa, mà đã giám khóc?”, rồi chị sắp bị kéo

ngay ra thềm nhà để bị “vả vỡ miệng ra” vì khóc mẹ chưa xin phép! Hóa ra,

cái miệng đã không còn “công dụng” truyền thống của nó nữa, nếu như chưa

có “công dụng” của hơi đồng!

Nhưng trong không gian trong nhà, chị cu Sứt vừa đổi lấy được tự do

ngôn luận bằng hai hào cho cụ thư ký. Thì khi vừa bước chân ra đường để đưa

71

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

mẹ ra đồng, chị đã phải đối diện với thầy quản lộ. Đến không gian mới này,

thầy quản lộ cũng không thể cho chị tự do rắc vàng bừa bãi trên đường làng

thầy đang trông nom, cũng như không cho phép hơi “tử khí xông lên”, “ngộ

người làng chết lây”. Lần này, chị cu Sứt đã hoàn toàn thông minh sáng láng

sau khi đối diện với cụ thư ký ở trong nhà. Vì vậy, nhanh chóng, chị lấy “20

trinh” ra đổi lấy sự tự do trong việc đưa tang mẹ! Đó chính là những phép tắc,

những luật lệ thậm vô lý nhằm bóc lột tận cùng người dân lao động. Số phận

của họ luôn bi đặt trong những không gian chế ước, mất tự do, hoặc những

không gian bế tắc, tù hãm, không có lối thoát.

Không gian Nguyễn Công Hoan là không gian một xã hội toàn sự giả

dối đê tiện, đểu giả. Hiện hữu trong xã hội đó là giới quan lại thích ăn bẩn,

quen lừa bịp, bất hiếu vô nhân, dâm dục, đểu giả,… và lay lắt trong xã hội là

những kiếp người nghèo khó, lầm lũi, bế tắc cùng cực. Thành phố hay nông

thôn, trong nhà hay ngoài đường phố, công đường hay góc chợ… không gian

nào trong truyện cũng đem lại những cảm xúc chân thực, nóng hổi tính thời

sự qua những cảnh, những người, những việc tập trung tiêu biểu cho thực tế

cuộc sống, chứ không phải là bản sao chép cuộc sống một cách tầm thường.

“Bản chất của hình thái không gian trong tiểu thuyết là sự xử lí thời

gian, thông qua miêu tả sự bài trí nhằm khắc phục tính tuần tự của kí hiệu

ngôn ngữ và quá trình sự kiện, tạo nên không gian ba chiều. Sự chuyển dịch

liên tục của không gian cũng thể hiện tiến trình thời gian” [74, 212]. Vì vậy,

thời gian tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan cũng có vai trò nhất

định trong việc khắc họa bối cảnh không gian - thời gian truyện, góp phần thể

hiện giá trị tư tưởng, nghệ thuật truyện.

2.2. Thời gian tự sự

Bất kì một truyện kể nào cũng không thể thiếu thời gian. Jean Ricardou

định nghĩa: “Truyện là văn bản qui chiếu về thời gian tái hiện” [74, 128]. Còn

72

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Chiristan Metz nói: “Truyện là một chuỗi thời gian, hai lần thời gian… Có

thời gian của cái được kể và thời gian của cái được biểu đạt. Tính nhị nguyên

đó về cơ bản đưa ta đến một nhận xét là: một trong những chức năng của

truyện kể là đổ khuôn thành một thời gian trong một thời gian khác.” [48,

109]. Như vậy, truyện ngắn chính là một loại hình nghệ thuật của thời gian.

Genette rất quan tâm đến thời gian trong truyện kể, và lí thuyết thời

gian của Genette cho đến nay vẫn là cơ sở lí luận rất quan trọng để nghiên

cứu tác phẩm tự sự. Genette coi thời gian là nhân tố trung chuyển từ cốt

truyện đến truyện kể qua hành vi kể chuyện. Ông chia cấu trúc thời gian của

tác phẩm thành ba trục: thời gian niên biểu, thời gian tự sự và thời gian phát

ngôn. Thời gian niên biểu là thời gian diễn tiến của các sự kiện, các nhân vật

theo đúng trật tự niên biểu của hiện thực cốt truyện. Thời gian tự sự là thời

gian của trật tự các sự kiện được sắp xếp lại theo chủ quan của người kể

chuyện. Đây là thời gian đã được hư cấu, cải tạo lại trong văn bản tự sự. Thời

gian phát ngôn là thời gian người kể chuyện thực hiện hành vi kể chuyện cho

độc giả hàm ẩn của mình, thời gian phát ngôn được xác định qua sự xuất hiện

của người kể chuyện (điểm nhìn, giọng).

Chúng tôi cho rằng tìm hiểu thời gian trong truyện kể, điều cốt yếu

không chỉ là trình bày tuần tự các lớp thời gian của sự kiện theo niên biểu, mà

cái chính là tìm hiểu thời gian tự sự, tức là sự tổ tổ chức, sắp xếp lại thời gian

của trật tự các sự kiện trong văn bản.

Người viết khảo sát thời gian tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công

Hoan theo quan niệm của G. Genette trên ba cấp độ: Trật tự, thời lưu và tần

xuất, từ đó rút ra bốn đặc điểm trong thời gian tự sự của Nguyễn Công Hoan

như sau:

2.2.1. Hiện tại – quá khứ trong thời gian tự sự

Về trật tự, theo G. Genette, nghiên cứu trật tự trong truyện kể là nghiên

cứu mối quan hệ giữa trật tự thời gian tiếp nối của các sự kiện trong câu

chuyện với trật tự giả - thời gian của việc sắp xếp chúng trong truyện kể.

73

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Nhìn chung, trong truyện kể cổ trung đại, trật tự thời gian trong văn bản

truyện kể thường theo thời gian hình tuyến, thống nhất với trật tự thời gian

tiếp nối sự kiện trong câu chuyện. Trong truyện kể hiện đại, trật tự thời gian

thường bị đảo lộn tạo nên sự sai trật niên biểu thông qua những thủ pháp thời

gian như “quay ngược” hay “đón trước”, nghĩa là thuật lại những sự việc đã

qua hoặc chưa đến. Ở đó, quá khứ - hiện tại - tương lai đều có thể lồng ghép,

đồng hiện, tạo nên một thời gian phi tuyến tính trong truyện kể.

Như vậy, cấu trúc thời gian phi tuyến tính trong truyện kể là sự sắp xếp

các sự kiện theo một chuỗi khác với trật tự niên đại. Việc xử lí trật tự chuỗi

không chỉ là một quy ước văn học, mà còn là một phương tiện để nhấn mạnh,

để hướng sự chú ý đến một nhân vật nào đó, tạo nên hiệu quả thẩm mĩ hoặc

tâm lí, để trình bày những cách giải thích khác nhau về một sự kiện.

Nguyễn Công Hoan có nhiều truyện ngắn viết theo hướng hiện đại.

Cách xử lý thời gian tự sự trong truyện kể Nguyễn Công Hoan tập

trung 2 cách:

Truyện kể theo trình tự biên niên: Truyện kể trong một khoảng thời

gian sử dụng các mốc thời gian. Phần lớn truyện viết theo trình tự kể này (Kép

Tư Bền, Báo hiếu:trả nghĩa mẹ, Cái ví áy của ai,..)

Tuy nhiên, ở một số truyện, Nguyễn Công Hoan kể theo trình tự biên

niên kết hợp đảo trật tự thời gian tạo nên cấu trúc sai trật niên biểu, như

truyện: Bà chủ mất trộm, Cô Kếu: gái tân thời, Vợ, Ông chủ báo chẳng bằng

lòng…

Trường hợp đặc biệt, truyện kể theo thủ pháp đồng hiện thời gian, như

truyện ngắn “Hai cái bụng”.

2.2.1.1. Trình tự biên niên:

Khá nhiều truyện ngắn Nguyễn Công Hoan được kể theo trình tự biên

niên. Bởi trình tự biên niên tỏ ra rất phù hợp với kiểu truyện kể phi tâm lý,

74

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

hay kiểu truyện sự kiện, truyện ngắn – kịch của Nguyễn Công Hoan. Các

truyện được triển khai theo logic tuyến tính, con người chủ yếu là con người

hành động, nó dường như nằm ngoài tâm lý. Đây chính là cấu trúc hướng

ngoại của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Và trật tự này tạo ra ấn tượng như

thật, đem lại cảm giác “người thật, việc thật”.

Hơn nữa, các truyện ngắn phần lớn có quan hệ trình tự thời gian gắn

kết, song hành theo trật tự tước sau cùng với quan hệ nguyên nhân (sự kiện là

nguyên nhân diễn ra trước, sự kiện là hệ quả diễn ra sau). Sự sắp xếp các sự

kiện theo trật tự trước sau đúng như trình tự thời gian của các sự kiện là phù

hợp. Do vậy, mạch lạc trong truyện càng được biểu hiện rõ. Người đọc dễ

dàng theo dõi, nắm bắt cốt truyện và tư tưởng chủ đề của tác phẩm.

Ám ảnh độc giả ở truyện ngắn “Kép Tư Bền” là hình ảnh một anh kép

hát vô tình bị người đời bắt diễn trò bông lơn giữa lúc cha anh đang hấp hối.

Thế là anh phải quên đi tấn bi kịch của đời mình, để diễn hài kịch trên sân

khấu, để mà bông, mà đùa, mà pha trò cho khán giả hét lên mà cười, cười đến

nỗi phải lăn ra cả đất. “Cái cảnh thương tâm của anh Tư Bền, đi đôi với cái

bông lơn, cứ diễn ra mãi, mà mỗi chốc lại càng thương tâm hơn.” Mà nguyên

nhân của tình thế bi hài ấy không gì khác chính là do đồng tiền - do cha anh

bệnh và món nợ với ông chủ rạp càng lớn lên - anh phải nhận lời diễn, thậm

chí phải kí giao kèo bán tự do của mình cho ông chủ rạp, vì ông sợ nếu hôm

diễn cha anh có mệnh hệ gì thì anh cũng không thể bỏ được!

Chúng tôi tạm chia cấu trúc truyện ngắn Kép Tư Bền thành ba lớp sự

kiện lớn:

- A: (Hơn một tháng nay) Tư Bền lâm vào tình cảnh nợ nần

- B: (Một ngày) Cuộc đàm thoại kí giao kèo nhận vai diễn hài, giữa Tư

Bền với chủ rạp Kịch trường

75

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

- C: (Một đêm) Đêm diễn vai hài trong bi kịch của Kép Tư Bền.

Cấu trúc sự kiện này thể hiện: quá trình dẫn đến tấn bi kịch của một kép

hát bội tài hoa – Tư Bền. Trình tự các lớp sự kiện A, B, C diễn ra theo trình tự

trước – sau nối tiếp trên một trục thời gian và cũng được tác giả kể theo trình

tự đó trong văn bản truyện.

Ta có sơ đồ:

A1 B2 C3

Các sự kiện này lập thành một mạng lưới quan hệ nguyên nhân thể hiện

chủ đề chính của tác phẩm là: Sức mạnh chi phối của đồng tiền đối với xã hội

sinh ra những bi kịch éo le cho con người. Xã hội mà đồng tiền tác quái, con

người đối xử với nhau một cách vô nhân đạo khiến cho người tài ba lương

thiện cũng phải chịu tấn bi kịch đau xót là họ buộc phải làm trái với lương

tâm, đạo lí của con người.

Hầu hết các truyện ngắn dạng này có quan hệ trình tự thời gian gắn kết,

song hành theo trật tự tước sau cùng với quan hệ nguyên nhân (sự kiện là

nguyên nhân diễn ra trước, sự kiện là hệ quả diễn ra sau). Sự sắp xếp các sự

kiện theo trật tự trước sau trong truyện kể đúng như trình tự thời gian của các

sự kiện trong câu chuyện là phù hợp. Do vậy, mạch lạc trong truyện càng

được biểu hiện rõ. Người đọc dễ dàng theo dõi, nắm bắt cốt truyện và tư

tưởng chủ đề của tác phẩm.

Một ví dụ khác, câu chuyện Xuất giá tòng phu nhại lại chính nhan đề

của nó. Một người vợ không nghe lời chồng. Ngài bắt bà đi. Bà từ chối, ngài

khuyên nhủ. Bà van xin, ngài thuyết phục. Rồi bà khóc, ngài to tiếng. Bà cự

tuyệt, ngài đánh. Đó là một cảnh dữ dội. Kết cục, bà phải chấp nhận. Thì hóa

ra, luân lí, đạo đức của người vợ phải “lấy chồng theo chồng” giờ đây là phải

76

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

nghe lời chồng, bán thân mình đi “lễ tết” cấp trên cho chồng! Xã hội đảo điên,

quả thực là “Luân lí để đâu? Đạo đức để đâu?”. Để dựng lại cảnh tượng dữ

dội, đầy kịch tính đó, nhà văn đã chọn cách tối ưu: gần như hoàn toàn dùng

đối thoại với trình tự tuyến tính, tăng cấp của các sự kiện ở thì hiện tại!

2.2.1.2. Trình tự biên niên kết hợp cấu trúc sai trật niên biểu.

Ngoài những truyện hoàn toàn theo trật tự biên niên như sự nối tiếp của

truyện kể truyền thống, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan tiệm cận với truyện

ngắn hiện đại bởi mở ra lối viết theo trình tự biên niên kết hợp cấu trúc sai trật

niên biểu. Sự kết hợp có được do các thủ pháp “quay ngược” hay “đón trước”.

Bà chủ mất trộm là kiểu truyện kể phi tuyến tính đan xen thời gian hiện

tại và thời gian quá khứ. Các lớp sự kiện của truyện gồm:

- A: (5h30 một buổi sáng mùa đông) Bà chủ bị mẻ trộm to

- B: (Buổi trưa) Cuộc bắt người của các chức vụ dành cho bọn đầy tớ

trong nhà, nhưng không thể biết đích thủ phạm.

- C: (Ba tháng sau) Màn bí mật vẫn đóng kín

- D: (Một tối ngay hôm trước buổi sáng mùa đông kia) Bà chủ đón một

ông khách rất long trọng. Khoảng vắng đêm trường che giấu bao bí mật.

- E: (5h sáng hôm sau) Bà chủ tỉnh giấc mơ màng, thấy chỉ còn một

mình trên đệm, và chiếc tủ két “há hốc mồm ra”. Bà đến sở mật thám.

Trình tự các lớp sự kiện A, B, C không được tác giả kể theo trình tự

trước – sau nối tiếp liên tiếp mà được kể theo thời gian phi tuyến tính, phù hợp

với kiểu truyện thám tử, “lột mặt nạ” bằng cách trở lại quá khứ. Ta có sơ đồ:

A3 B4 C5 D1 E2

Cách mở truyện bằng A3 chính là thủ pháp vào giữa vấn đề, nêu lên sự

kiện quan trọng nhất. Sau đó tác giả vẫn cho câu chuyện diễn tiến theo trật tự

biên niên (B4, C5). Tuy nhiên vấn đề ở B, C khiến người đọc tò mò. Vì thế,

77

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

D1 là quá khứ xa nhất so với C5 mà người kể chuyện quay trở lại để tìm câu

trả lời cho bức màn bí mật trên. E2 nối tiếp với D1 nhưng lại gần như trùng

với A3, thời điểm mở đầu truyện kể. Như vậy, trình tự thời gian đã tạo nên

một kết cấu theo vòng tròn tương ứng, xen quá khứ – hiện tại, khám phá bản

chất thật sự của nhân vật và sự việc.

Tuy nhiên đây vẫn là một trình tự biên niên có xen kẽ sai trật niên biểu

dễ xắp xếp. Có trường hợp như truyện ngắn Cô Kếu, gái tân thời thì người

đọc rất khó xác định trật tự thời gian, khó xác định sự kiện nào là quá khứ hay

là hiện tại so với sự kiện khác. Cốt truyện không li kì, gay cấn, truyện kể là

một chuỗi các sự việc riêng biệt, một nét tâm lí riêng và chúng ít có quan hệ

nhân – quả trực tiếp với nhau.

Có thể nói, truyện ngắn này không có các lớp sự kiện, mà chỉ là những

mảnh, những phiến đoạn thời gian bị cắt rời, với những nét tâm lí, những

hành động khác nhau của cô Kếu, nhưng chúng được gắn kết với nhau trong

một mạch chung là làm rõ khát vọng “tân thời” của cô gái!

- A: (Hiện tại, không xác định) Về cái tên Kếu của cô

- B: (Quanh năm) Cô phải mặc đồ thâm, vì bà mẹ cô không cho cô

mặc tân thời.

- C: (Một hôm) Mẹ ngủ, cô lấy hộp phấn ra đánh, rồi ngắm ngía, rồi đi

rửa mặt, mới đi ngủ.

- D: (Năm nọ) Cô giấu mẹ, may một cái áo lam.

- E: (Năm nào) Cô cũng lên hàng Ngang xem hàng mặc mới, để ước

ao. Cô đến nhà bạn mượn áo mặc.

- F: Cô nghĩ đến tương lai

- G: Giấu mẹ, cô đi sắm toàn những thứ tân thời, rồi gửi nhà bạn

- H: (Mỗi buổi chiều), cô đều đến nhà cô bạn, xúng xính tự ngắm mình

trong nửa giờ, rồi đi về.

78

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Ta có sơ đồ:

A0 B0 C1 D1 E1 F2 G1 H0

Theo trình tự kể chuyện, ta thấy trật tự thời gian đã bị đảo ngược, xáo

trộn một cách tự do, không xác định. A0, B0, H0 đều là những thời điểm

không xác định của hiện tại. C1, D1, E1, G1 là những thời điểm tuần tự

nhưng không xác định của quá khứ. Còn F2 cũng là một tương lai không xác

định. Kiểu truyện này tập trung làm sáng tỏ bản chất vấn đề thực tại, thực tại

được nhận thức, lí giải sáng tỏ hơn bởi nhiều góc nhìn, nhiều tọa độ thời gian

khác.

Chủ yếu chúng hiện dưới dạng những hồi tưởng tâm lý của nhân vật. ý

nghĩa các sự kiện tâm lý được tái hiện trong các hồi cố khi đặt trong hiện tại

sẽ ánh lên những tầng vỉa ý nghĩa mới. Nhờ đó, tính cách của nhân vật được

bộc lộ đầy đủ và sâu sắc hơn.

Đây chính là kiểu truyện có quan hệ thời gian không song song gắn kết

với quan hệ nguyên nhân (sự kiện diễn ra trước không phải là nguyên nhân

trực tiếp của sự kiện diễn ra sau), tác giả thường sắp xếp trật tự các sự kiện

trong văn bản rất linh hoạt và sắp xếp theo trật tự nào cũng là để thể hiện một

ý nghĩa nào đó thuộc mục đích, ý đồ của tác giả. Tuy nhiên, trật tự sắp xếp

các sự kiện đó vẫn biểu hiện rõ mạch lạc của truyện.

Như vậy, trong các truyện ngắn kể theo trình tự biên niên kết hợp cấu

trúc sai trật niên biểu, là do các thủ pháp “quay ngược” hay “đón trước”.

Thủ pháp “quay ngược” dùng khi người kể chuyện kể lại những sự kiện

“bắt đầu sớm hơn điểm thời gian khởi hành của câu chuyện”. Thủ pháp này

chủ yếu nhằm soi sáng quá khứ của nhân vật. Cách “quay ngược” về quá khứ

của nhân vật thường để đưa ra những nét phác thảo về nhân vật với những đặc

79

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

điểm về hoàn cảnh, tính cách nhân vật; đồng thời, cung cấp cho người đọc cái

nhìn ngược thời gian để khám phá nhân vật (vd: C1, D1, E1, G1 trong Cô

Kếu, gái tân thời).

Hoặc thủ pháp “quay ngược” hướng đến lấp đầy không gian kể, vừa

chia cắt vừa liên kết thuyết minh cho các sự kiện của truyện. Truyện Cụ

Chánh Bá mất giày mở đầu bằng sự kiện mất giày và bình luận, tiếp theo là

một đoạn phim quay chậm về quá khứ: trong vòng một tháng nay, tình trạng

đôi giày tã và tâm lí của cụ Chánh như thế nào. Như vậy, đoạn văn ấy đã lấy

quá khứ để lí giải cho hiện tại. Đây chính là một “sự xác minh có tính hồi

tưởng”. Hơn nữa, nó thường có tác dụng làm chậm lại diễn tiến của truyện

được kể, để sau đó, đột ngột đẩy nhanh đến kết thúc bất ngờ, thúc đẩy câu

truyện phát triển (D1 trong Bà chủ mất trộm).

Không chỉ kể “quay ngược” bằng lời người kể chuyện, thủ pháp này

đôi khi cũng được sử dụng khi nhân vật tự hồi tưởng lại quá khứ của chính

mình. Hồi tưởng của cô Hồi trong Giữ đồ nữ trang, hồi ức quá khứ của cô

Kếu, Gái tân thời…

Quá khứ được tái hiện và đặt cạnh cái “bây giờ”, tạo ra một sự ám ảnh,

day dứt, theo cách gọi: đã ba tháng nay, ba năm nay, đã hai năm nay… Chẳng

hạn, trong đêm diễn hoàn hảo cho vở kịch của chính mình, nhà soạn kịch tài

ba Hồng Sơn nghĩ về quá khứ và những ấp ủ của đời mình: “Một mình, chàng

đứng nấp dưới bóng tối, đưa mắt ngắm cái cảnh náo nhiệt đó, là kết quả của

hai năm hi sinh làm việc, hai năm nhịn nhục của chàng. Đã hai năm nay,

Hồng Sơn quyết đem hết tâm lực để soạn một vở kịch đầu tiên, mà chàng

quyết nó được hoàn toàn trong tất cả các phương diện”. Nhưng đêm diễn vui

vẻ ấy, những thành công ấy lại đối lập với thực tại của chàng, nó day dứt ngay

trong tâm trạng chàng: “Lúc đó, chàng lại vụt nom thấy túp lều tranh nghèo

khổ của chàng… Chàng đã hiểu cái thiên chức của nhà nghệ thuật và số kiếp

80

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

của họ” (Kiếp tài tình). Đó chính là bi kịch của người nghệ sĩ tài năng bị bóc

lột giá trị đến kiệt cùng trong xã hội.

Cấu trúc sai trật niên biểu còn được tạo nên do thủ pháp “đón trước”,

khi người kể chuyện hay nhà văn thuật kể những sự kiện chưa đến. Song thủ

pháp này ít có ở Nguyễn Công Hoan.

Cách “đón trước” tương lai thường là thuật lại những dự tính của nhân

vật trong tương lai (Người ngựa, ngựa người; Vợ), những ước mơ của nhân

vật (Cô Kếu, gái tân thời), những phán đoán (Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó

chủ báo)

Nhưng điều đáng nói trong những “dự báo” kiểu Nguyễn Công Hoan là

những “đón trước” ít khi thành hiện thực. (Như trong truyện Tôi chủ báo, anh

chủ báo, nó chủ báo: “Tôi đang tưởng tượng tôi là một tay tai mắt trong làng

thơ, mà cả nước không lạ gì tên và biệt hiệu”; “Tờ báo Đời Nay lại bãi chức

phó chủ nhiệm nhưng biết đâu sáu tháng nữa, cái chức ấy lại không lòi ra, vì

ở xã hội này, chém bảy ngày không chết hết những thằng có tiền mà ngốc”)

Phần lớn là những dự báo nhằm tạo ra sự đối lập với kết quả tương lai,

tạo hiệu quả gây bất ngờ, thể hiện tư tưởng chủ đề của truyện. Truyện ngắn

Vợ có hai lần “đón trước” không thành như vậy. Ý định của anh Ba Cốc về

cái món nợ với bố vợ ngày cưới: “Ý anh định sau này, khi đã là bố con, anh

có thể lấy cảm tình mà xí xóa món nợ”. Nhưng không được. Bác Khán giục

anh mãi, quyết anh chẳng yên được. Rồi “Anh đã tính chán cả rồi… Anh định

nếu rồi không cười trừ được, thì anh đành xin khất lại. Chẳng lẽ ông ấy lại chẻ

xác anh ra à? Nếu anh bị chẻ xác, thì con gái ông ấy góa chồng, còn thiệt bằng

mười”. Nhưng ở đời, tính một đường thường nó đi một nẻo! Thế nên mới dẫn

đến kết cục là khi anh đương thực hiện chương trình ì, thì “người bạn trăm

năm của anh, vì bố ép, nên chỉ trăm năm với anh có một năm, còn chín mươi

chín năm nữa, thì trăm năm với cụ lý Bá dưới cuối tổng, làm vợ lẽ thứ bẩy, để

81

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

gán món nợ hai chục bạc mà bác khán đã vay cụ năm trước!”. Trong xã hội

ấy, con người sống với nhau đâu bằng chữ “tình” như anh tính, đồng tiền có

sức mạnh làm tha hóa cả đạo đức, làm mất giá trị con người!

Thậm chí, không phải suy tính về hành động của người khác trong

tương lai, kể cả suy nghĩ của nhân vật về hành động tương lai của chính mình,

thì tương lai vẫn đi ngược lại dự báo: Thằng ăn cắp khi bị bắt thì “tưởng

tượng nếu người ta thả nó ra, thì suốt đời nó sẽ không quên những phút này.

Lấy lại được tự do, nó sẽ hiền lành hơn trước nhiều, và có lẽ quy thiện được

nhiều bạn nữa”. Nhưng kết cục của câu chuyện, thằng bé ra tù như một “tay

nhà nghề”. Đến nỗi người ta phải phàn nàn ca cẩm: “Tưởng nhà nước bỏ tù

nó, thì nó sợ, nó chừa. Chẳng hóa ra bây giờ nó bợm hơn trước, thầy ạ”

(Thằng ăn cắp).

2.2.1.3. Thời gian đồng hiện.

Một số truyện có quan hệ thời gian đồng hiện giữa các lớp sự kiện.

Chẳng hạn Hai cái bụng là hai tuyến sự kiện song hành cùng nhau, làm nổi

bật cảnh ngộ của mỗi người.

Các lớp sự kiện trong truyện kể về “nó”:

- A: Hôm nay, nó lả đi rồi

- B: Hôm qua, hôm kia, hôm kìa… nó đã đi lang thang hết chỗ này chỗ

nọ, mà chả kiếm được tí cháo lưng hồ

Nó đi ăn mày với bộ dạng là “sự đói khát, kinh tởm, kết thành hình”, ai

cũng xua đuổi nó.

Trong mấy hôm: nó phải làm lấy mà ăn, bằng cách nhặt nhạnh những

gì còn sót lại trên rác ở chợ, bằng cách van lạy những kẻ ăn xin khác bớt chút

canh cặn cơm thừa. Nó không bệnh tật gì, nhưng nó ngay ngô như người ốm.

82

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

- C: Hôm nay, nó lả đi rồi, nó nằm vật ở lề đường, miệng há hốc ra vì đói.

Nó chỉ thèm được ăn.

Các lớp sự kiện trong truyện kể về “bà ấy”:

- A: Một tháng nay, bà ấy cứ phải uống thuốc mãi.

- B: Đầu tiên, ông đốc-tờ Tây đến chữa cho bà không khỏi

Bà cân thuốc của ông lang ta. Bệnh vẫn không suy chuyển.

Bà mời đến ông thầy khách. Song cũng chả ăn thua gì.

Bà ấy có bệnh gì: Bà ấy có đủ điều kiện để sung sướng: Béo quá, và lại

giầu quá. Chỉ có điều: bà ấy yếu dạ lắm.

Cuối tháng trước, một bà bạn mời bà đến ăn cỗ cưới con gái, bà dằn

lòng đến và nhồi vào bụng đến trăm thứ của ngon vật lạ, đến ngắc lên.

- C: Từ hôm ấy đến nay, bà cứ thấy bình bịch cái bụng, lúc nào cũng

đầy đầy, không tiêu, khó chịu quá.

Bà ấy chỉ thèm ăn được.

Ta có sơ đồ:

“Nó”

A0 B1 C0

“Bà ấy

A0 B1 C0

Theo trình tự kể chuyện, ta thấy trật tự thời gian đồng hiện, song hành

của hai cảnh huống, ở hai nơi đối lập, ở hai con người đối lập: từ hiện tại (A0)

trở về quá khứ (B1) rồi trở lại hiện tại (C0). Hai con người với hai căn bệnh

83

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

dạ dày, hai cái bụng, làm nên thế đối nghịch khủng khiếp và trào phúng về hai

giai cấp giàu – nghèo trong xã hội.

Tuy nhiên, một số truyện khác thường có quan hệ đồng thời nhưng là

trong các sự kiện chi tiết, chứ không nằm trong các lớp sự kiện lớn. Ví dụ:

Truyện Kép Tư Bền, C là sự kiện chính, sự kiện trung tâm của tác phẩm (xem

phần 2.2.1.1.). Sự kiện C chứa đựng 9 sự kiện cụ thể, nhưng các sự kiện cụ

thể của nó lại bao gồm nhiều sự kiện chi tiết có quan hệ thời gian theo nhiều

dạng khác nhau. Trong sự kiện lớn C có một số sự kiện chi tiết có quan hệ

trình tự đồng thời – mối quan hệ đồng thời đó tạo ra thế đối lập giữa các sự

kiện chi tiết làm nổi rõ tấn bi kịch của nhân vật. Các sự kiện chi tiết trong sự

kiện lớn C trong văn bản:

C1: Khi cha dở chứng khò khè (C1a), Tư Bền đang phải hóa trang chuẩn

bị diễn (C1b) còn khán giả háo hức, nóng lòng muốn xem anh diễn (C1c).

C2: Khi cha “nguy hơn ban nãy. Đã cấm khẩu rồi” (C2a), thì anh đang

phải hò hét, cười ha hả để hoàn thành cảnh đầu và cảnh hai (C2b), còn khán

giả thì cười, reo hò và vô tay đôm đốp (C2c).

C3: Khi cha anh đã mê đặc, chân tay lạnh cả rồi (C3a), thì anh đã diễn

hét cảnh 2 (C3b), anh khóc nức nở và gọi cha (C3c), nhưng chủ rạp đã cố

khuyên giải và cấm không cho ai được báo tin cho anh nữa (C3d).

C4: Chủ rạp bắt anh đánh lại tí phấn (C4a), sửa áo mũ (C4b), bắt anh

im không được khóc cha (C4c), bắt anh chùi nước mắt (C4d), rồi đẩy anh ra

sân khấu bắt diễn tiếp (C4e).

C5: Cảnh thương tâm của Tư Bền (C5a) đi đôi với cái bông lơn cứ diễn

ra mãi (C5b).

C6: Diễn xong cảnh cuối (C6a), khán giả vỗ tay, kêu anh diễn lại (C6b).

C7: Chủ rạp cho kéo màn lên (C7a) Tư bền diễn lại lần nữa (C7b).

84

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

C8: Màn diễn kết thúc (C8a), khán giả tranh nhau lên gàn anh, tặng

hoa, bắt tay, véo mũi…(C8b).

C9: Thoát khỏi sự hoan nghênh của công chúng, anh vội vã vào buồng

trò, cởi mũ áo, rửa quàng mặt mũi (C9a), thì có người giục anh mau về vì cah

anh đã tắt thở từ trước đó rồi (C9b).

Ta có sơ đồ cho trình tự trục thời gian của sự kiện lớn C trong tác

phẩm:

C1 C2 C3 C4

C1a C2a C3a

C1b C2b C3b C3c C3d C3e C4a C4b C4c C4d C4e

C1c C2c

C5 C6 C7 C8 C9

C5a C6a C6b C7a C7b C8a C8b C9a C9b

C5b

Trong sơ đồ, ta thấy sự kiện C có 9 sự kiện cụ thể, trong mỗi sự kiện cụ

thể lại có từ hai đến 5 sự kiện chi tiết. Mối quan hệ thời gian các sự kiện chi

tiết trong mỗi sự kiện cụ thể rất đa dạng. Đó là quan hệ đồng thời (C1, C2);

nối tiếp liên tiếp (C4); vừa đồng thời vừa nối tiếp (c3). Sự kiện chi tiết C1a,

C2a, C3a thể hiện diễn biến giờ phút hấp hối của người cha, song hành với

các sự kiện C1b, C2b, C3b thể hiện tiến trình biểu diễn những trò bông lơn

chọc cho thiên hạ cười của người con trong tình thế bắt buộc. Mối quan hệ

đồng thời đó tạo ra thế đối lập giữa hai sự kiện đã góp phần làm rõ thêm tấn

bi kịch trong tâm trạng Tư Bền.

85

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Mối quan hệ các sự kiện chi tiết trong mỗi sự kiện cụ thể tuy đa dạng,

phức tạp nhưng vẫn theo một mạch chính là trước sau nối tiếp. Sự phong phú

phức tạp đó đã phát huy tác dụng khắc họa sâu thêm những tình huống bi kịch

của Tư Bền chứ không gây nên sự rắc rối khó hiểu. Đây chính là tài nghệ viết

truyện của nhà văn Nguyễn Công Hoan.

2.2.1.4. Nhận xét:

Khảo sát những cách kết cấu thời gian truyện ngắn Nguyễn Công

Hoan: trình tự biên niên, trình tự biên niên kết hợp sai trật niên biểu, thời gian

đồng hiện, ta thấy một đặc điểm của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là

truyện đi vào thời gian quá khứ – hiện tại là chủ yếu, không có thời gian

tương lai.

Câu chuyện Người ngựa, ngựa người bắt đầu bằng hình ảnh đang diễn

ra trong thì hiện tại: “Đố ai biết anh phu xe đứng lững thững dắt cái xe không

ở đằng ngã tư đầu phố kia, đi như thế từ bao giờ đấy?

Trông anh ấy có vẻ đói khách lắm… Hôm nay, anh ấy cố vay được cái

vốn để đi mua xe, kiếm bữa gạo ăn tết”. Rất nhiều truyện khác cũng kể từ

hiện tại như vậy: Bữa no…đòn, Cho tròn bổn phận, Thằng điên, Xuất giá tòng

phu, Được chuyến khách, Anh Xẩm, Tôi cũng không hiểu tại làm sao, Nạn

râu, Giá ai cho chau một hào, Gánh khoai lang, Danh lợi lưỡng toàn, Mua

lợn, Lại chuyện con mèo, Tấm giấy một trăm, Con ve…

Như tác giả từng nói: “Đề tài truyện ngắn của tôi là những việc, những

cảnh xảy ra ở trước mắt” (Đời viết văn của tôi). Viết về hiện thực như nó có

trong hiện tại, nhà văn đã thực hiện sứ mệnh cao cả của nhà hiện thực chủ

nghĩa: phơi bày thực tại xấu xa, đểu giả của xã hội thực dân phong kiến, phơi

ra đóng đinh nó lên để người đời nguyền rủa và tống khứ nó ra khỏi cuộc

sống này.

86

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Thường, người kể chuyện đứng ở hiện tại để kể về quá khứ. Để tô đậm

tính thời sự của sự kiện, nhân vật, vạch trần sự xấu xa của xã hội đương thời, tác

giả để người kể chuyện kể về một thời điểm không quá xa trong quá khứ, có khi

mới xảy ra trong vài giờ trước, hoặc vài ngày trước. Thường đánh dấu bằng các

từ chỉ thời gian như “sáng hôm ấy”, “ngày ấy” xác định hơn thì “vừa nãy”, “lúc

ấy là hai giờ sáng”, “chín giờ tối hôm thứ bảy ấy”, “đêm thứ bảy vừa rồi”, “đã

bốn hôm nay”, “hôm hai mươi tám tết năm ngoái”, “mấy năm về trước”…

Có khi, tuy kể về quá khứ, nhưng người kể chuyện lại dùng cách diễn

đạt của thời hiện tại để quan sát, cụ thể hóa đối tượng mô tả:

“Tưởng là việc cướp hay cháy ở đâu, chẳng hóa ra cô Hồi mất gói đồ

nữ trang! Mới độ năm giờ sáng, mà cả nhà trong nhà ngoài mất ngủ.

- Rõ ràng con gói nó lại, con để nó ở đây này, bây giờ con sờ thì không

thấy nữa, mà cả gầm giường con cũng soi rồi.

- Sao con không cất vào tủ hay đưa cho me, lại để đây?

- Thế này nhé, lúc me ngủ thì con cúng ngủ, nhưng cái vòng hột nặng trĩu

nó cứ đè lên cổ con, cả đôi vòng ở cổ tay, mấy đồng bạc ở trong túi, nó cứ kềnh

kệnh làm cho con khó ngủ quá. Con mới tháo tất cả ra, gói vào cái mùi xoa, để ở

đầu giường này cẩn thận, rồi con mới ngủ kia mà!” (Gói đồ nữ trang).

Người kể chuyện và nhân vật đều đứng ở thời hiện tại để kể, miêu tả về

quá khứ, những từ ngữ miêu tả này làm sinh động, cụ thể, làm rõ rệt sự kiện

diễn ra trong quá khứ. Nhận xét của người kể chuyện cùng với những hồi

tưởng của nhân vật chỉ rõ mối quan hệ giữa sự kiện quá khứ – sự kiện hiện tại

(nhà trong nhà ngoài mất ngủ). Rõ ràng sự kiện quá khứ đã ảnh hưởng tới

hiện tại, và làm cho hiện tại được nhận thức và nắm bắt dưới một ánh sáng

mới. Từ đây, nhân vật “tôi” sẽ bị thôi thúc để kiếm tìm nguyên nhân, và nghĩ

87

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

cách giải quyết cho hiện tại. Nhờ đó bộc lộ tính cách nhân vật một cách bất

ngờ mà chân thực hơn.

Nói như nhà văn Nga V. Raxpuchin: “Chân lý nằm trong kí ức. Ai

không có kí ức, người đó không có cuộc sống”. Đến Nguyễn Công Hoan, ký

ức đã xuất hiện như một yếu tố nghệ thuật trong thời gian tự sự. Ký ức làm

biến đổi cấu trúc thời gian tự sự, đưa thời gian quá khứ xen vào thời gian hiện

tại. Nhưng mục đích của ký ức, của hồi tưởng, khi đưa vào văn học, không

phải để tìm về quá khứ mà để lí giải hiện tại, phơi bày hiện tại.

Đôi khi, trong khi kể lại quá khứ, người kể chuyện kể lại cả những dự

đoán tương lai gần của một sự kiện, và lồng với thực tế tiếp tục xảy ra y như

dự đoán (quá khứ tiếp diễn). Như một đoạn văn trong Tôi chủ báo, anh chủ

báo, nó chủ báo: “Tôi đến chơi, hẳn ông ta cũng lấy làm hân hạnh như tôi,

sáu tháng về trước, thấy cách tiếp đãi ân cần tử tế, mà tôi xấu hổ về cái ngốc

trước của tôi, bởi vì trong khi trò chuyện tâng bốc ông ta, tôi thấy ông ta cũng

thấy vui sướng, y như tôi ngày nọ” (Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ báo).

Phân tích từ ngữ, ta thấy “hẳn” là dự báo tương lai, “sáu tháng về trước” là

quay ngược quá khứ, “trong khi” là cái tương lai được dự báo đã đang xảy ra,

“ngày nọ” lại quay ngược về quá khứ. Như vậy, chỉ trong một câu văn kể về

sự kiện trong quá khứ, tác giả đã xen kẽ cả thời gian quá khứ – tương lai –

hiện tại tiếp diễn của quá khứ. Sự xáo trộn phức tạp như vậy trong nghệ thuật

tự sự, có lẽ chưa từng có trước Nguyễn Công Hoan.

Chỉ chú ý nhất đến “bây giờ” và “trước kia”, không chú ý tương lai.

Đặc điểm này cũng là phù hợp với kiểu truyện hiện thực phê phán, “phơi bày

thực tại như nó có”, và nhất là phù hợp với lối kể chuyện đầy kịch tính, cầu sự

bất ngờ cho kết thúc, lối kể ấy không nên có một dự báo trước nào!

2.2.2. Khoảng thời gian ngắn, hạn hẹp

88

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Về thời lưu (hay khoảng thời gian) - tức độ lâu của các biến cố trong

câu chuyện so với độ dài văn bản. Mỗi biến cố có thể được kể dài hay ngắn

(tình theo độ dài của câu, chữ, trang) so với thời gian mà đáng lẽ biến cố đó

phải có (tính theo giờ, ngày, tháng, năm...). So với thời gian câu chuyện phải

có, thì thời gian thuật lại (thời gian văn bản) có khi gia tốc, có khi giảm tốc.

Gia tốc thường thực hiện ở các thủ pháp tỉnh lược, vắn tắt. Giảm tốc thì

thường ở những quãng ngưng, đặc tả hay miêu tả tỉ mỉ con người, tâm lí hay

cảnh vật.

Truyện ngắn có một đặc điểm chung là thời gian sự kiện rất ngắn.

Nhiều truyện được xây dựng trong một thời gian hạn hẹp ngày hoặc giờ. Có

khi ngắn hơn, chỉ là thời gian của một buổi gặp mặt, một cuộc đối thoại, một

quãng đường đi, một mẩu hồi ức... Còn thời gian văn bản thì mở rộng hoặc

thu hẹp tùy theo trạng thái tâm lí, tình cảm hoặc mục đích của tác giả. Truyện

ngắn Nguyễn Công Hoan cũng tuân theo những đặc điểm đó.

Tiếp xúc với những truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, có một đặc điểm

dễ nhận thấy: đó là những trang truyện rất ngắn, thường mỗi truyện chỉ từ 4

đến 5 trang, với số lượng nhân vật ít và đơn giản (Phụ lục). Đây có lẽ là một

đặc điểm mang tính đặc trưng của riêng ông, nó nằm trong ý đồ sáng tác của

nhà văn.

Nhà văn quan niệm: “Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn

đề được xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ với cách

đặt câu dùng tiếng có cân nhắc”, và còn nhấn mạnh: “Nên nhớ rằng ngắn (là

hình thức) và thanh giản (là tinh thần) đó là hai đức tính cơ bản của truyện

ngắn.” (Đời viết văn của tôi).

Vì vậy, trước hiện thực cuộc sống bề bộn, phức tạp và đa dạng, nhà văn

luôn làm chủ được ngòi bút của mình, biết chắt lọc, lựa chọn, cô đúc những

điều nhận thức từ cuộc sống tạo nên những thiên truyện ngắn độc đáo. Chỉ với

89

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

một số trang ít ỏi, khiêm tốn, nhưng từ đó nhà văn đặt ra nhiều vấn đề xã hội

sâu sắc. Người đọc được nhận thức rõ nét về bản chất của xã hội Việt Nam

thực dân nửa phong kiến, với những mâu thuẫn giữa tầng lớp thống trị và bị

trị, với những thói hư tật xấu, sự lừa đảo bịp bợm của cả một lũ người sống

trên mồ hôi, nước mắt của nhân dân lao động.

Do truyện viết ngắn, số trang ít nên Nguyễn Công Hoan không ôm đồm

nhiều sự kiện, nhiều ý mà ông biết gạn lọc, lựa chọn thích hợp để mỗi truyện

chỉ nêu một ý, một chủ đề: “Truyện ngắn của tôi chỉ có thể tóm tắt bằng một

câu, nêu lên một ý. Vì nó chỉ là sự chắp nhặt những chi tiết để mô tả một việc,

một cảnh ngộ, một nỗi lòng” (Đời viết văn của tôi). Với đề tài như vậy, truyện

thường được xây dựng trên bối cảnh không gian hạn hẹp, và gắn với đó là

thời gian cũng ngắn, hạn hẹp.

Thời hạn chung của hầu hết các truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là rất

ngắn Các sự kiện thường xảy ra dồn dập trong khoảng thời gian rất ngắn, có

khi không quá hai mươi bốn giờ, xa hơn, các sự kiện ấy được soi sáng bằng

quá khứ của chúng, nhưng đó cũng là quá khứ gần với hiện tại, chỉ trong vài

giờ, vài ngày hay vài tháng là cùng (Phụ lục). Đặc điểm này khiến cho mỗi

truyện mang tính thời sự nhiều hơn. Có truyện chỉ giống như một lát cắt

ngang của cuộc đời nhân vật hay của đời sống xã hội ở làng quê… nhưng vẫn

không kém phần hấp dẫn bởi chất kịch tính do chính sự dồn nén thời gian các

sự kiện tạo ra.

Ví dụ: Truyện ngắn Tinh thần thể dục chủ yếu viết dưới dạng các đối

thoại, nên các sự kiện nói năng đều có thời hạn rất ngắn. Còn thời hạn chung

của truyện là khoảng vài ba ngày trước hôm 29 tháng Giêng. Các đoạn đối

thoại ấy khiến người đọc có cảm giác trực tiếp về sự kiện, như chúng đang

diễn ra trước mắt, điều này vừa tăng tính thời sự, vừa gia tăng hiệu quả chân

thật, khách quan của sự kiện đáng phê phán.

90

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Truyện ngắn Kép Tư Bền có thời hạn chung của truyện là xấp xỉ hai

tháng. Như vậy, chỉ trong vòng hai tháng thôi mà Tư Bền, một nghệ sĩ tài

danh đã bị đẩy vào một bi kịch hết sức éo le (buộc phải diễn trò bông lơn khi

cha hấp hối) để rồi sẽ phải ân hận, dằn vặt suốt cuộc đời. Đó là một bằng

chứng cho thấy trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, cuộc

sống và số phận con người lao động thật bấp bênh, không có gì đảm bảo.

Có những truyện thời hạn diễn ra rất ngắn, chỉ trong vài phút (như

truyện ngắn Mất cái ví là những đối thoại và tâm lý nhân vật chỉ trong vài

phút buổi sáng sớm, Xuất giá tòng phu cũng là những đối thoại và hành động

trong chưa đầy một giờ, Xà lù: khoảng 10h đến 11h…).

Tốc độ kể chuyện giãn chậm (giảm tốc) thường được nhà văn sử dụng

với dạng truyện như Mất cái ví, Anh Xẩm - truyện có khoảng thời gian ngắn,

vài phút, vài giờ. Trong truyện, thời gian trần thuật (độ dài văn bản) gần như

đồng nhất với thời gian sự kiện. Truyện giãm chậm còn bởi những “quãng

ngưng” do độc thoại của nhân vật (suy nghĩ, phán đoán của ông cụ trong

truyện Mất cái ví), hoặc những quãng ngưng miêu tả (không gian lặp lại nhiều

lần trong Anh Xẩm, không gian chờ đợi kéo dài trong Thịt người chết).

Tốc độ kể chuyện dồn nhanh (gia tốc) thường được nhà văn sử dụng

với truyện có khoảng thời gian dài, nhiều sự kiện kịch tính, nối tiếp như Kép

Tư Bền (hai tháng), Vợ (một tháng), Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ báo

(sáu tháng)… Gia tốc của truyện thường biểu hiện ở những đoạn tóm tắt, tỉnh

lược, chẳng hạn chỉ một lời thông báo đã tỉnh lược cho mọi sự kiện trong

khoảng thời gian 3 tháng: “Ba tháng đã qua.” (Bà chủ mất trộm), “Hơn mười

năm cầm càng xe” (Được chuyến khách)…

Như vậy, khoảng thời gian ngắn, hạn hẹp là một đặc điểm độc đáo

trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho mỗi

tác phẩm.

91

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

2.2.3. Nhịp điệu trần thuật

Nhịp điệu trần thuật là hệ quả của thời lưu. Khảo sát khoảng cách giữa

hai loại thời gian sự kiện và thời gian văn bản, chúng ta luôn thấy sự không

đồng đều giữa các phân đoạn tình tiết khác nhau. Khảo sát những chỗ nhanh,

chậm này cho ta thấy nhịp điệu tự sự của văn bản.

Ví dụ khảo sát nhịp tự sự trong truyện ngắn Kép Tư Bền và Cụ

Chánh Bá mất giày. Bảng khảo sát mối quan hệ thời gian sự kiện và thời

gian văn bản:

Tác Kép Tư Bền Cụ Chánh Bá mất giày

phẩm

Trình A1 B2 C3 C4 E5 A3 B1 C2 D3

tự

Các Anh Cha Ông Học Đêm Cụ Đôi Mưu Cụ

sự Tư anh diễn Chán giày tính Chánh vở, chủ

kiện Bền ốm. của h Bá của của Bá tập rạp

chính nổi Anh diễn Tư mất cụ cụ với mất đến

tiếng nghỉ thuyế Bền giày: móm anh giày:

trong “Phải quá: đầy “Lúc về việc, t

hiểu “Độ tớ: chập tài phải phục khi

bông vay nợ anh cha rằng một “Cho tối…

lơn: chủ nhận anh … tháng nên đến 2

“Các rạp: vai hấp ngót nay chiều giờ

ngài “Nhưn diễn hối: ba … hôm sáng

… g đã mới: “Bà đồng oan ấy… …

đặc hơn “Một con ” gia” làm vừa

biệt” một hôm … ăn” lòng

tháng … anh lắm”

… ít giao quá”

nhiều” kèo”

92

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Thời 3 một một 15 một chập một chiều chập

gian năm tháng hôm ngày đêm tối -> tháng hôm tối ->

nay nay 2 giờ nay ấy 2 giờ sự

sáng sáng kiện

Thời 1/2 1/4 2 và 4 3 1/2 1/4 1 và 2 và

gian trang trang 1/2 dòng trang trang trang 1/4 1/4

trang trang trang văn

bản

Nhìn vào bảng khảo sát, ta thấy rõ ràng thời gian sự kiện và thời gian

văn bản rất khác nhau giữa các phân đoạn tình tiết. Chẳng hạn, trong truyện

ngắn Kép Tư Bền, nhịp thời gian rất nhanh khi kể về thời hạn “3 năm nay”

(chỉ 1/2 trang), “một tháng nay” (chỉ 1/4 trang), “15 ngày tập diễn” (chỉ nhắc

đến trong một câu nói đón trước của nhân vật: 0 trang); trong khi nhịp kể

chậm hơn nhiều khi kể về hôm ông chủ đến (2 trang rưỡi), chậm nhất là khi

kể về một đêm diễn của nhân vật (những 3 trang – thời gian văn bản dài hơn

cũng thể hiện cảm giác thời gian của nhân vật: từng cảnh diễn anh Tư Bền

đều thấy “sao mà lâu”, bởi anh đang ước nó chấm dứt thật nhanh để anh về

với cha, mà càng mong chờ thời gian nhanh, con người càng thấy thời gian

chậm. Thời gian văn bản ở đoạn này có tác dụng làm chậm lại thời gian, nhịp

thời gian diễn ra chậm hơn).

Truyện Cụ Chánh Bá mất giày cũng vậy. Sự kiện xảy ra với chiếc giầy

móm của cụ Chánh Bá trong một tháng nay chỉ được kể nhanh, lướt trong 1/4

trang, trong khi sự kiện âm mưu của cụ trong một buổi chiều được kể bằng

hơn 1 trang, và nhất là diễn tiến của đêm hôm cụ mất giày được kể bằng gần 3

trang (thời gian của A3+D3).

Rõ ràng, so với thời gian sự kiện phải có, tác giả sử dụng nhịp nhanh

khi kể về quá khứ, giới thiệu hoàn cảnh của sự kiện, nhân vật. Còn sử dụng

nhịp chậm hơn để miêu tả, dựng lại một cách chân thực, chi tiết, sống động về

93

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

sự kiện ở những phân đoạn kịch tính nhất, thể hiện rõ nhất tư tưởng chủ đề

của truyện (E5 trong Kép Tư Bền, A3D3 trong Cụ Chánh Bá mất giày).

Ngoài việc đối sánh thời gian sự kiện và thời gian văn bản, chúng ta

còn thấy nhịp tự sự của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan qua sự vận động,

phát triển của các sự kiện, tình tiết nối tiếp trong tác phẩm. Ở phương diện

này, ta thấy so với nhiều nhà văn khác cùng thời, nhịp tự sự trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan diễn ra nhanh hơn, gấp hơn. Đó cũng là một đặc điểm

khiến truyện ngắn Nguyễn Công Hoan rất cuốn hút người đọc. Nhịp tự sự

nhanh phản ánh đúng tốc độ của sự biến trong cuộc sống, xã hội đương thời;

hơn nữa, nó lại càng hấp dẫn hơn khi tiệm cận với cả nhịp sống thời hiện đại.

Nhịp điệu nhanh, mạnh, hối hả của tác phẩm là do cốt truyện đơn giản,

chỉ xoay quanh một tình huống kịch tính, do truyện được xây dựng như

những màn kịch ngắn, các nhân vật được bộc lộ qua hành động và ngôn ngữ

đối thoại; ít có những đoạn giới thiệu và miêu tả dài dòng, trừ những trường

hợp có dụng ý.

Nhịp điệu nhanh của tác phẩm còn thể hiện trong từng câu văn, do nhà

văn rất sở trường khi đặt những câu ngắn liên tiếp làm cho tiết tấu truyện

được đẩy nhanh hơn:

“Nó mở mắt ra nhìn. Họ lại uỵch. Họ lại thụi. Họ lại tát. Họ lại đá.

Không tiếc tay. Rồi lại hô:

- Đánh chết nó đi.

Nó cũng gần chết thực.

Những mũi giày, những ngọn gân bò, những quả đấm, những nhát gậy,

làm nó đau ê ẩm cả mình. Phen này có sống cũng thành tật.” (Thằng ăn cắp)

“Và bụi. Và tanh. Và ồn ào. Và hơi người. Và chen chúc…”

94

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

“Chửi. Kêu. Đấm. Đá. Thụi. Bịch. Cẳng chân. Cẳng tay. Như mưa vào

đầu. Như mưa vào lưng. Như mưa vào chân nó.” (Bữa no…đòn)

Đặc biệt hơn, những câu văn ngắn như trên của Nguyễn Công Hoan

thường chứa nhiều động từ (có cả động từ hóa danh từ: những mũi giày,

những ngọn gân bò, cẳng chân, cẳng tay…), vừa tạo kịch tính vừa nhằm đẩy

nhanh diễn biến của những màn kịch ngắn, tạo nên nhịp điệu nhanh ngay

trong mỗi câu văn.

Cách này khác hẳn với Nam Cao, mặc dù Nam Cao cũng sử dụng

những câu văn tương đối ngắn gọn. Nam Cao, sử dụng những câu tương đối

ngắn gọn, nhưng câu chuyện phát triển thường vừa mở rộng hướng, vừa đi

vào chiều sâu, do câu này được thay bằng câu khác tương tự hoặc láy lại để

nhấn mạnh, hơn là đưa ngay thêm cái gì mới vào tình tiết của truyện. Nhà văn

chú ý miêu tả nội tâm nhân vật với những nhận xét tinh tế, có tính chất khái

quát như một triết lí về một vấn đề nào đó thường gặp trong cuộc sống. Có lẽ

vì vậy, người đọc có cảm giác nhịp trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao

diễn tiến chậm chạp.

Những câu văn của Nguyễn Công Hoan thường ngắn gọn, đơn giản, dễ

hiểu. Mỗi câu lại đưa thêm vào tình tiết của truyện một cái gì mới, tạo cho câu

chuyện phát triển nhanh, mạnh. Nhà văn chú ý quan sát hành vi, cử chỉ của

nhân vật, hoặc cho nhân vật suy nghĩ, nói năng để qua đó thể hiện một cách

sâu đậm, cụ thể, sinh động bản chất của nhân vật. Những điều này khiến nhịp

trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan diễn ra nhanh. Hơn nữa,

trong nhiều truyện, nhịp điệu tự sự càng về cuối càng nhanh dần, đẩy đến kết

thúc bất ngờ ở kết truyện.

Ví dụ, truyện Thịt người chết, hai đoạn đầu (về sự việc chết đuối và cái

thây của anh trong đầm: từ đêm thứ bảy đến sáng sớm hôm sau- tám giờ –

trưa – buổi chiều) nhịp tự sự rất chậm, dềnh dàng cùng nhiều chi tiết miêu tả

95

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

không gian, thời gian, con người. Thời gian kéo dài ra trong sự chờ đợi của cả

làng, mong quan về khám để giải phóng cái thây ma đang ngày càng thối rữa,

trương phềnh lên. Đoạn cuối cùng nhịp tự sự diễn ra nhanh hơn, kịch tính hơn

kể từ khi quan về (9 giờ sáng hôm sau), liên tiếp các sự kiện, hành động mới

nối tiếp nhau xảy ra, đẩy nhanh diễn biến của câu chuyện, để khi cuộc trao đổi

“mặc cả” giữa ông Cứu và quan xong xuôi, cũng là lúc câu chuyện về thịt

người chết kết thúc thật bất ngờ với liên tưởng sâu xa, thú vị: “Và một giờ

sau, lũ ruồi, lũ nhặng, lũ cá, lũ quạ, tiếc ngẩn ngơ. Chúng có biết đâu rằng

quan huyện tư pháp đã tranh mất món mồi ngon của chúng.”

Nhịp trần thuật này gần giống như cách của nhà tiểu thuyết trào phúng

bậc thầy họ Vũ trong các tiểu thuyết Giông Tố, Số đỏ, nhịp điệu trần thuật nói

chung cũng là gấp gáp, nhanh chóng, miêu tả một xã hội đảo điên, thằng hóa

ông, ông hóa thằng, hàng loạt những nghịch lí, những đổi thay diễn ra liên

tiếp, đầy kịch tính. Tuy nhiên, xét theo khuôn khổ thể loại, truyện ngắn của

Nguyễn Công Hoan có nhịp trần thuật với tốc độ nhanh hơn.

Luận án cho rằng, nhịp điệu trần thuật trong tác phẩm căng hay chùng,

chậm chạp hay gấp gáp là phụ thuộc vào tương quan thời gian sự kiện trong

thời gian trần thuật.Qua phân tích tương quan này, chúng tôi đã kết luận: Nhịp

điệu chủ yếu trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Công Hoan là nhịp nhanh

chóng, gấp gáp với những xoay chuyển chóng mặt, đầy kịch tính của hiện

thực cõi đời.

2.2.4. Thủ pháp “xảy lặp”

G. Genette cho rằng: “Các nhà lí luận phê bình tiểu thuyết rất ít chú ý

đến vấn đề tần xuất của trần thuật, nhưng đây chính lại là một phương diện cơ

bản của tính thời gian trong tự sự” (73, 114)

96

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Theo G. Genette, tần xuất là mối quan hệ giữa khả năng lặp lại của câu

chuyện với khả năng lặp lại của truyện kể. Theo đó phân ra ba loại là: tự sự

đơn nhất, trần thuật trùng lặp, tự sự mang tính tổng hợp.

Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan chủ yếu kể dưới dạng đơn ứng (kể

một lần những sự kiện xảy ra một lần). Song, đôi khi có kể trùng ứng, và thủ

pháp “lặp” đôi lúc xuất hiện, đóng vai trò khá quan trọng trong tổ chức kết

cấu thời gian trong truyện kể cũng như thể hiện chủ đề của truyện.

Trong truyện ngắn Kép Tư Bền, có một số chi tiết lặp lại. Chẳng hạn,

trong lớp sự kiện lớn A: thời hạn “hơn một tháng nay” được nhắc đi nhắc lại

nhiều lần. Đó là thời hạn của sự kiện cha Tư Bền ốm nặng, cũng là thời hạn

Tư Bền nghỉ việc, thời hạn anh sắc thuốc cho cha, thời hạn anh tiêu hết tiền

dự trữ… Thời hạn này được nhắc lại với tần số cao như vậy đã gợi nên một

khoảng thời gian hết sức nặng nề, bí bách của Tư Bền. Thời hạn ấy so với “ba

năm” Tư Bền tích cóp tiền thì nó chả đáng kể gì. Thế mới thấy cuộc sống của

con người quả là bấp bênh, chỉ trong một thời gian ngắn với sự cố xảy đến

cũng đủ làm cho Tư Bền, một con người tự do trở thành một kẻ phụ thuộc, và

rồi trở thành nô lệ, một khi đã lâm vào cảnh nợ nần.

Trong lớp sự kiện B: có hai chi tiết được lặp lại: Chi tiết “Tư Bền nợ

chủ rạp Kịch trường” được chủ rạp nhắc tới 3 lần, 2 lần ở đầu cuộc thoại

nhằm mục đích nhắc nhở và đe dọa Tư Bền, lần 3 ở cuối cuộc thoại nhằm

mua chuộc Tư Bền. Lấy cớ này nửa vừa để đe dọa, vừa để gia ân với Tư Bền,

ông ta đạt được mục đích cuối cùng là sai khiến một nghệ sĩ tài năng và hót

tiền của thiên hạ.

Chi tiết “cha Tư Bền ốm nặng” cũng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần

trong cảnh này, hoặc do tác giả kể (“Cha anh ốm. Trong khi anh vắng nhà, ai

trông nom săn sóc thay anh”), hoặc do chính Tư Bền nhắc đến (“Cha tôi yếu.

Tôi phải ở nhà. Đa tạ ông, nhưng tôi không yên tâm”. “Nhưng nửa tháng trời!

97

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

ai trông nom cha tôi”. “Ông mệt lắm, con phải ở nhà”.) Những chi tiết lặp đó

góp phần thể hiện tấm lòng hiếu thảo của Tư Bền đối với cha.

Trong lớp sự kiện C, tác giả kể nhiều lần những tràng vỗ tay hưởng ứng

của khán giả, về việc cha anh sắp chết, về những diễn xuất gây cười của anh.

Cuối cùng là chi tiết C5 “cảnh thương tâm của Tư Bền đi đôi với cái bông lơn cứ

diễn ra mãi”. Chi tiết này khái quát được tất cả sự lặp đi lặp lại của hai sự kiện

đồng thời, phản ánh một cách sâu sắc bi kịch kéo dài, dai dẳng của nhân vật.

Nhiều truyện ngắn khác cũng sử dụng thủ pháp này để tạo hiệu quả

nghệ thuật nhất định. Trong truyện ngắn Cụ Chánh Bá mất giày, chi tiết “mất

giày cụ Chánh Bá” được lặp lại đến 7 lần, nhằm nhấn mạnh tính hài hước của

sự không chân thật trong bản chất của sự kiện. Trong Tôi chủ báo, anh chủ

báo, nó chủ báo lại là lặp cấu trúc sự kiện, những câu chuyện giống nhau xảy

ra với những người khác nhau nhằm châm biếm tất cả lũ người giàu có, ngu

ngốc mà háo danh. Trong truyện ngắn Anh xẩm là lặp không gian, không gian

ấy tập trung khắc tạc rõ nét bức chân dung thân phận anh hát xẩm mù cô đơn

trong đêm tối vắng lặng, rét mướt.

Thời gian là một phương diện quan trọng của nghệ thuật tự sự. Nghiên

cứu thời gian trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng từ ba

góc độ: trật tự, khoảng thời gian và tần xuất cho ta thấy một cái nhìn mới mẻ,

một cách tiếp cận độc đáo về thời gian tự sự của Nguyễn Công Hoan, đồng

thời cũng mở ra chiều sâu không cùng về ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm do

những ý nghĩa mà thời gian của truyện ngắn đã mang lại.

Như vậy, trong nghệ thuật tự sự, thời gian - không gian cũng là nhân tố

tích cực tham gia vào việc tạo nên truyện kể và đều chịu sự chi phối của điểm

nhìn người kể chuyện. Sự đa dạng của các điểm nhìn qua các không gian - thời

gian trên nền ngôn ngữ đã tạo nên kết cấu đa giọng điệu cho truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan. Vì vậy, ngôn ngữ, giọng điệu tự sự là một yếu tố không

thể không tìm hiểu trong nghệ thuật tự sự của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan.

98

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

CHƢƠNG 3.

NGÔN NGỮ TỰ SỰ VÀ GIỌNG ĐIỆU TỰ SỰ TRONG TRUYỆN

NGẮN NGUYỄN CÔNG HOAN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8

NĂM 1945.

Nằm trong tính toàn vẹn của cơ cấu nghệ thuật, tác phẩm văn học là

một cơ thể sinh động, có sự thống nhất của nhiều yếu tố mà ở đấy bao giờ

ngôn ngữ cũng là điểm khởi đầu, đồng thời là điểm tựa.

Ngôn ngữ trong văn học nghệ thuật cũng giống như màu sắc trong hội

họa, âm thanh trong âm nhạc, đường nét trong kiến trúc. Nó là chất liệu trực

tiếp và duy nhất, là yếu tố không thể thiếu được của văn chương. Đối với

người nghệ sĩ, quá trình sáng tạo văn học, xét về một phương diện nào đó, là

quá trình điều hành, tổ chức ngôn ngữ theo một cơ cấu riêng mang tính chủ

quan. ở đây ngôn ngữ vừa là một phương tiện vừa là một trong những vật liệu

cơ bản để “khách quan hóa” những hình tượng trong tư duy nghệ thuật của

người nghệ sĩ.

Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng nhất của tiểu thuyết. Trước đây ngôn

ngữ luôn được coi như một công cụ để truyền đạt tưởng và tình cảm của con

người. Do đó đối với tiêu chuẩn cao nhất, sự tìm tòi khả năng thể hiện của

ngôn ngữ là khả năng tái hiện thế giới hiện thực và thế giới nội tâm một cách

chuẩn xác, sống động mà quan trọng nhất chính là vấn đề cá tính hóa cho

ngôn ngữ của các nhân vật trong tiểu thuyết. Martin Heidegger nhận xét:

“Ngôn ngữ là ngôi nhà của tồn tại”, Ludwing Wittgenstein quan niệm: “Nghĩ

đến một ngôn ngữ có nghĩa là nghĩ đến một phương thức sống”, Wolfgang

Kayser lại cho: “Bên ngoài ngôn ngữ thì không có thế giới”.

Từ ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu lại chỉ ra rằng: Một chuyện kể có một

cốt truyện dựa trên một hành động mà nhân vật tạo ra và trải nghiệm, và có

99

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

một người kể chuyện kể về nó. Như vậy chắc chắn rằng, trong câu chuyện

không thể không có người kể chuyện. Với một người kể chuyện bằng xương

bằng thịt hiện diện trước mắt thì việc tiếp nhận quá dễ dàng. Nhưng liệu qua

những dòng chữ in trên văn bản, ta sẽ tiếp nhận một cách đầy đủ và thấu đáo?

Và người kể chuyện như vậy có thể có một giọng điệu rõ ràng để ta nắm bắt?

3.1. Ngôn ngữ tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan trƣớc

Cách mạng tháng 8 năm 1945.

3.1.1. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đánh dấu sự trưởng thành và

hoàn thiện của ngôn ngữ văn xuôi quốc ngữ

Có thể nói, về mặt ngôn ngữ văn học ngòi bút Nguyễn Công Hoan có

những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nền văn xuôi Việt Nam hiện

đại. Có mặt trên văn đàn từ khi văn xuôi chữ quốc ngữ còn chập chững non

trẻ, những tác phẩm văn học trong 50 năm sáng tác của ông là một bằng

chứng điển hình sinh động cho sự trưởng thành nhanh chóng kì diệu và ngày

càng hoàn thiện của ngôn ngữ văn xuôi quốc ngữ.

Thời kì trước đấy, dù đã cố gắng cải tiến, đổi mới, thì trong truyện ngắn

Nguyễn Bá Học và Phạm Duy Tốn, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, và ngay cả Tố

Tâm của Hoàng Ngọc Phách được coi là một sự kiện “làm đảo lộn bao nhiêu

quan niệm có tính chất cổ truyền về hai chữ “văn chương”” vẫn đầy rẫy câu

văn biền ngẫu, nhiều điển tích, điển cố, từ cổ Hán – Việt. Đến văn chương Tự

lực Văn đoàn – cùng song hành với Nguyễn Công Hoan – dù đã đề ra chủ

trương phải “dùng một lối nói giản dị, dễ hiểu, ít chữ Nho, một lối văn thật có

tính cách An Nam”, nhưng lại đi vào xu hướng gia công đẽo gọt để chuyên

chở lý tưởng về một cuộc sống sang trọng, nhiều mơ mộng lãng mạn. Và vì

thế, “chàng” và “nàng” là cách xưng hô “tối cao”, như được “độc tôn” trong

văn chương Tự lực Văn đoàn.

100

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Với truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, phải nói rằng ở một số truyện

thời kì 1920 – 1923 như Sóng vũ môn… có những đoạn văn còn dài dòng,

rườm rà và hơi cổ, như khi Nguyễn Công Hoan miêu tả cảnh thí sinh nhập

trường thi: “Các quan vào trường tế một tuần dùng lễ tam sinh. Nửa đêm hôm

30, mưa phùn lầy đường, trời tối như mực, gió thổi lạnh buốt. Xứ Quý ăn cơm

xong sắp sửa các đồ dự bị vào trường, xắn quần vén áo, ngọn đuốc cầm tay;

người nhà quảy lều, chiếu, yên, chõng theo sau, hai người lững thững bước ra

phố. Đi được nửa đường, Quý gặp cậu Tư con cụ lớn bố bèn rủ nhau cùng đi.

Ngoài phố nhấp nhô ngọn đuốc, chỗ xa chỗ gần cùng hướng trường thi thẳng

tới, như một đám đom đóm kéo quân” (Sóng vũ môn).

Nhưng từ những năm 1929, 1930 trở đi, ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan đã thể hiện rõ sự “lệch chuẩn”, sự độc đáo riêng biệt đối với ngôn

ngữ văn chương phổ biến cùng thời. Nguyễn Công Hoan đã có một ngôn ngữ

sống động, phong phú, gần với cuộc sống với những câu văn sáng sủa, ngắn

gọn và linh hoạt. Đó là một cách viết truyện ngắn “nôm na” có chủ định rõ

ràng: “Tôi chú ý nhất là làm cho câu văn giản dị, sáng sủa, dễ hiểu cho lỗ tai

bình thường của người Việt Nam. Nghĩa là làm thế nào đặt câu văn viết như

lời nói chuyện, và phải cố làm thế, dù đó là một khó khăn cho người cầm bút

mang cố tật ăn nói bằng văn chương” (Đời viết văn của tôi). Không một nhà

truyện ngắn nào những năm 30 mà ngôn từ mang được khả năng tượng hình,

biểu đạt hành động sống một cách sống động rắn rỏi, cứng cáp như Nguyễn

Công Hoan. Hãy xem cái cảnh lên “cơn nghiền” của một cô gái thèm chưng

diện: “Xong đâu đấy, cô lận đôi giầy mang cá, ôm cái ví đầm, đến trước tủ

gương mà đứng. Cô quay đằng trước. Cô quay đằng sau. Cô đi đi. Cô lại lại.

Cô uốn éo. Cô thướt tha. Rồi cô đứng yên. Cô ngắm. Cô bàn. Cô tán. Cô bình

phẩm… Cô khoái lắm! Rồi trong độ nửa giờ, ngắm chán, cô trút hết bộ cánh

ra, xin thau nước lau kĩ cái mặt, rồi mặc quần áo thâm đi về” (Cô Kếu, gái tân

101

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

thời). Đây là một “chớp mắt” ở chợ khi thằng bé “mới nứt mắt nai đã đi ăn

cắp” được Nguyễn Công Hoan chớp lấy: “Bà bán hàng rau đứng dậy, quảy

gánh lên vai, đi chỗ khác. Bà hàng thịt sờ lại ruột tượng. Bà hàng bún riêu nắn

lại túi tiền. Bà hàng lê bấm cô hàng bánh đúc. Chị bán bánh rán đưa mắt cho

bác bán khoai” (Thằng ăn cắp). Và đây nữa là cảnh thằng bé ăn cắp bị “đánh

hội đồng”: “Chửi. Kêu. Đấm. Đá. Thụi. Bịch. Cẳng chân. Cẳng tay. Như mưa

vào đầu. Như mưa vào lưng. Như mưa vào chân nó”. “Vẫn chửi. Vẫn kêu.

Vẫn đấm. Vẫn đá. Vẫn thụi. Vẫn bịch. Vẫn cẳng chân. Vẫn cẳng tay. Vẫn đòn

càn. Vẫn đòn gánh. Đáng kiếp!” (Bữa no đòn). Thật khó có cách nào miêu tả

hành động sống động hơn thế: ở đây có cả hình và tiếng, có âm thanh và ánh

sáng, có hành động và tâm trạng, có khách thể cuộc sống và chủ thể tác giả

đóng vai trò người kể chuyện. Tất cả hòa quyện lại trong một đoạn văn gọn

ghẽ, thành một bức tranh trước mắt người đọc, tưởng như có thể nhìn thấy,

nghe thấy và sờ thấy!

Thế nên, ngay từ năm 1932, Trúc Hà đã nhận ra ở truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan “một ngọn bút mới”, “Không réo rắt như một cung đàn, không

nhẹ nhàng như một bài thơ” [39, 47]. đối lập với những xu hướng văn chương

lãng mạn đương thời với lối văn lôi thôi, cầu kì hoa mỹ. Năm 1944, Vũ Ngọc

Phan cảm nhận được một “thứ văn rất vui”, “có nhiều cái bất ngờ của một

người kể chuyện rất có duyên” [39, 63].

Để có được những câu văn ngắn gọn, dễ hiểu, những trang viết sinh

động, linh hoạt, Nguyễn Công Hoan đã tự xác định cho mình một cách viết

riêng, như ông tâm sự trong cuốn hồi kí Đời viết văn của tôi: “Trong nghề

viết văn, cách đặt câu là việc khá quan trọng. Tôi thường cố gắng sao cho câu

văn của tôi được gọn, gẫy và rõ. Cho nên tôi thường chỉ đặt những câu ngắn.

Phải để một câu quá hai dòng là điều vạn bất đắc dĩ và là sự khổ tâm của

tôi…” Quả thực, những câu văn ngắn như trên không chỉ làm câu văn nhẹ,

102

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

người đọc dễ thở, được nghỉ ngơi, mà quan trọng hơn là chúng đã vẽ nên

những bức tranh rất thực, rất sống động.”

Lối viết văn mới mẻ này phần nào có lẽ còn do Nguyễn Công Hoan

chịu ảnh hưởng của văn học Pháp những năm học ở trường Nam sư phạm.

Trong số đó, Alêchxăng Đuyma là nhà văn ông đặc biệt yêu thích và đã có

ảnh hưởng ít nhiều tới phương pháp sáng tác của ông. Hơn nữa, ông chịu ảnh

hưởng lớn của văn Tản Đà, thơ Tú Xương, văn học dân gian, truyện tiếu lâm

và báo chí văn học đương thời. Nhưng điều quan trọng là ông biết tiếp thu

những điều hay tốt, biết gạn lọc những tinh tế nhuần nhuyễn vào ngòi bút của

mình, biến nó thành máu thịt của câu văn ông, chứ không phải là sự bắt

chước, rập khuôn thô thiển, sống sượng. Chính vì những ưu điểm đó, ông

được độc giả chấp nhận dễ dàng nhanh chóng chinh phục độc giả ngay từ

những truyện ngắn đầu tay in trên mục: Xã hội ba đào kí.

Chúng tôi cho rằng, yếu tố nổi trội, bao trùm có khả năng chi phối các

yếu tố mang tính đặc trưng của ngôn ngữ tự sự truyện ngắn Nguyễn Công

Hoan, biến văn ông trở thành một kiểu văn hiện thực trào phúng ngồn ngộn

chất sống, chính là lối văn nôm na gần với cuộc sống, cố tượng hình cuộc

sống mà chính Nguyễn Công Hoan đã tự xác định cho mình như một lối đi

riêng: “Truyện thế nào, cứ viết nôm na như thế”

3.1.2. Sự sinh động, phong phú, gần gũi với ngôn ngữ đời sống

Trong hồi kí Đời viết văn của tôi, Nguyễn Công Hoan có nhắc nhiều

đến thời kì làm nghề “godautre” – thời kì mà ông luôn bị bọn quan lại ghen

ghét thù oán, do bản tính cương trực, ngang ngạch và đặc biệt luôn chĩa ngòi

bút châm biếm, đả kích vào chế độ quan trường. Chính vì vậy mà người thầy

giáo thường cứ bị đổi đi rất nhiều nơi như Hải Dương, Nam Sách, Kinh Môn,

Trà Cổ, Lào Cai… Nhưng chúng không biết rằng chính những bôn ba cực

nhọc của nghề lại giúp ông có một vốn sống phong phú, một sự hiểu biết sâu

103

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

sắc về tâm lí, ngôn ngữ, lời ăn tiếng nói của nhiều loại người trong xã hội.

Ông từng tâm sự: “Nghề dạy học là nghề gần gũi vì người ta tin rằng nghề làn

thaayd không phải là nghề làm hại người. Bao nhiêu phụ huynh đến với tôi là

từng ấy người sẵn sàng cho tôi biết đời sống của họ… Thế là 20 năm trong

giáo giới, tôi lại được học thêm ở cuốn sách thiên nhiên những điều rất hay

trong những trang rộng lớn và vô tận. Tôi được biết thêm nhiều nhân vật từ

cách ăn mặc, cử chỉ đến các sinh hoạt thường và bất thường cho đến cách

nghĩ ngợi và ăn nói” (Đời viết văn của tôi).

Những vốn sống được thu lượm, tích lũy dần dần đó đã giúp ông thật

linh hoạt, tự nhiên trong việc sử dụng từ ngữ, khẩu ngữ, ngôn ngữ đời sống

sinh động, phong phú, để từ đó xây dựng ngôn ngữ nhân vật, xây dựng ngôn

ngữ và gọng điệu người kể chuyện trong những truyện ngắn của mình.

Ngôn ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là ngôn ngữ của đời

sống, ông đưa lời ăn tiếng nói của quần chúng lao động vào vào văn chương

một cách chọn lọc, khiến văn chương mất hết vẻ đài các xa vời như trước, mà

thành ngôn ngữ tự nhiên, thoải mái, gần gũi với đời sống. Chẳng hạn, khi ông

tả một tên tư sản khoe chó và tự mãn về con chó của mình: “Ông chủ đắc ý

cười ha hả, vuốt vẻ, vui thú như được cậu con hay chữ vậy” (Răng con chó

nhà tư sản). Điều này khiến truyện của ông mang một sắc thái sinh động rất

đặc biệt.

Ngôn ngữ đời sống trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan còn là ngôn

ngữ giàu kịch tính – tức là ngôn ngữ có tính hành động, tính khẩu ngữ và

được “tính cách hóa”.

Về tính hành động của ngôn ngữ, điều dễ nhận thấy là trong truyện

ngắn của ông, số lượng từ loại động từ hoạt động với tần số cao, tạo nên kịch

tính cao độ ngay trong câu văn:

104

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

“Nhưng nó vẫn nhai, vẫn nuốt. Rồi biết thế nguy, nó không nhai, trợn

mắt lên để nuốt chửng. Rồi lại hấp tấp ngốn luôn miếng nữa.”

Hay hiệu quả của cách dùng động từ để diễn tả không khí sôi động, náo

nhiệt, mất trật tự của buổi họp chợ, như bày ra trước mắt người đọc một bức

tranh hiện thực đời sống hết sức chân thực, sinh động:

“Người ta chen nhau, đẩy nhau, cản nhau. Một tốp người đi, một tốp

người lại. Tranh nhau đi lại rồi mắc nghẽn ở lối hẹp, ùn lại. Người ta đẩy

nhau. Một bà đương chổng mông, mặc cả bìa đậu, bị giúi ngã xấp xuống mẹt

hàng. Một chuỗi của chẳng ngon bày ra để hiến các ông bà ông vải. Nheo

nhéo.” (Bữa no đòn)

Về tính khẩu ngữ và “tính cách hóa”, ta có thể đọc trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan nhiều đoạn đối thoại đa giọng điệu, mang tính khẩu ngữ,

rất gần gũi với đời sống hàng ngày:

“Bác Phô gái, dịu dàng, đặt cành cau lên bàn, ngồi xổm ở xó cửa, gãi

tai, nói với ông lý:

- Lạy thầy, nhà con thì chưa cất cơn, mấy lại sợ thầy mắng chửi, nên

không dám đến kêu. Lạy thầy, quyền phép trong tay thầy, thầy tha cho nhà

con, đừng bắt nhà con đi xem đá bóng vội.

- Ồ, việc nhà quan không phải như chuyện đàn bà của các chị!

- Thì lạy thầy, thế này, làng ta thì đông, thầy cắt ai không được. Tại

nhà con ốm yếu, nên xin thầy hoãn cho đến lượt sau.

- Ốm gần chết cũng phải đi. Lệnh quan như thế. Ai cũng lấy cớ ốm

yếu mà không đi thì người ta đá bóng cho chó xem à?

- Thưa thầy, giá nhà con khỏe khoắn, thì nhà con chả dám kêu. Nhưng

thưa thầy, từ đây lên huyện, những chín cây-lô-mếch, sợ nhà con đi nắng thì

cảm, rồi phải lại thì oan gia.

105

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

- Đây không biết, mà đây cũng không nghe đâu. Vợ chồng thu xếp với

nhau thế nào, đây mặc kệ!

- Thưa, hay con nghỉ buổi chợ để đi thay nhà con có được không ạ?

- Không! Phải là đàn ông kia? chứ nữ nhân ngoại tộc, ai kể.

Người đàn bà thở dài:

- Thế thì con biết làm thế nào được!” (Tinh thần thể dục)

Chỉ trong một đoạn thoại ngắn, ta có thể hiểu được tính cách, hoàn

cảnh và tầng lớp của mỗi nhân vật. Bác Phô gái là cùng dinh, tình cảnh khó

khăn, chồng ốm đau, nhà nghèo, bác muốn xin di thay chồng xem bóng đá.

Do vậy, giọng Bác nhún nhường, van lơn, dùng nhiều từ đưa đẩy “thưa, thưa

thầy, lạy thầy” để láy lòng ông lý. Bác lại là người ít học, nên “ki lô mét”, bác

nói là “cây lô mếch”. Còn ông lý đầy quyền hành, lời ông là lời quát nạt, đe

dọa, có phần nhẫn tâm. Ông có chút chữ nghĩa nên dùng từ “nữ nhân ngoại

tộc”, nhưng lại tỏ ra thiếu văn hóa: “đi đá bóng cho chó nó xem à?”

3.1.2.1. Cách đặt tên, gọi tên nhân vật

Cách đặt tên nhân vật cũng rất giản dị như người ta gọi nhau trong đời

sống hàng ngày: tên riêng giản dị của những người dân lao động nghèo: Phô,

Cốc, Tiêu, Mấu, Mùi, Tam, Lan…, tên riêng của giới nghệ sĩ thì Lê Văn Tầm,

Tiếp Như, Hồng Sơn, Việt Sĩ, Lê, Nguyễn…, giới quan lại thì ít dùng tên

riêng: Hinh, Lê Thăng mà dùng nhiều đại từ gọi nhân vật như: “quan ông,

quan bà, bà ấy, ngài”…, tầng lớp dưới chủ yếu dùng đại từ “nó”.

Tên riêng đi với đại từ chỉ ngôi nhân xưng: Bác Phô gái, anh Ba Cốc,

anh cu Mấu, anh đĩ Mùi, chị Tam, bác Lan…chị Cu, con Đỏ, thằng Quýt…

Nhưng nhiều khi tên gọi ấy mang chứa ý nghĩa bất ngờ. Chẳng hạn,

Phong và Nguyệt là hai tên có vẻ “lãng mạn”, nhưng lại tố cáo chuyện “phong

106

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

tình”, “gió trăng” của hai người. Hay để mỉa mai kẻ dốt nát mà muốn có tên

văn chương, nhà văn đặt tên nhân vật để nói ngay cái tầm thường của y: Lê

Văn Tầm. Hoặc mỉa mai một kẻ đầy ảo tưởng, nhà văn lại đặt cho hắn một cái

tên rất kêu: Lê Hùng Dũng.

Những tên gọi giản dị, đời thường ấy không phải tác giả có được một

cách ngẫu nhiên, dễ dàng. Câu chuyện ông kể về cách đặt tên truyện ngắn

Kép Tư Bền cho ta thấy rõ được sự lựa chọn kỹ càng, sát sao của ông khi đặt

tên nhân vật: “Đến tên Kép Tư Bền, tôi phải nghĩ kĩ hơn mới tìm ra. Đây là

một anh kép hát người Sài Gòn. Tên Sài Gòn, thường đặt dưới thứ bậc như

hai, ba tư… Kép ở Quảng Lạc hồi ấy tôi đã thuộc những tên như Sáu Phủ,

Bảy Nhã, Tám Hương. Sáu, bảy, tám thì cố nhiên mang sắc thái Sài Gòn rồi,

nhưng Phủ, Nhã, Hương thì tên người Hà Nội cũng được, Huế cũng được. Tôi

nhớ Sài Gòn hay nói Phước, Thạch chứ không nói Phúc, Thịnh. Nhưng chưa

đặc biệt Sài Gòn bằng cái tên gì nó nôm na. Ngày ấy có ông hội đồng quản

hạt là Trương Văn Bền. Thấy tiếng Bền nó Sài Gòn quá, không thể lẫn với Hà

Nội, với Huế được, tôi mới đặt tên cho vai chính của truyện là Kép Tư Bền”

(Đời viết văn của tôi).

3.1.2.2. Cách so sánh táo bạo, chơi chữ độc đáo.

Ngôn ngữ Nguyễn Công Hoan thường sử dụng cách so sánh ví von,

giàu hình ảnh như cách nói, lối nói quen thuộc của dân tộc. Đôi khi ông sáng

tạo những lối so sánh táo bạo và ác liệt.

Những so sánh nho nhỏ mà rất độc đáo bất ngờ và thú vị, như ông so

sánh cái ngực của chị vợ anh lính da đen Samandji “đầy như cái ví của nhà tư

sản chứ không như cái óc của ông nghị ngay cả trước ngày họp hội đồng”

(Samandji). Hoặc khi nói đến cái áo dài của một cô đào thì thật đến căng lườn

đến độ “tức anh ách như một bài thơ thất luật” (Đào kép mới).

107

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

So sánh đôi khi còn để nói cạnh, nói móc một hiện tượng:

“Tôi tưởng tượng như bị nhốt trong một cái chuồng hổ, hay nguy hiểm

hơn, bị nhốt vào hội quán để bắt nghe diễn thuyết” (có lẽ nhằm vào những

cuộc diễn thuyết của Hội Khai trí tiến đức khoảng năm 1933).

Có khi so sánh để châm biếm sâu cay:

“Quan ngắm một lúc, hai con mắt sáng quắc như hai ngọn đèn giời”

(nhưng đây là con mắt sáng quắc vì thấy gái!)

Hay so sánh hóm hỉnh để gây cười:

“… và một cái áo dài sặc sỡ, chi chít những hoa là hoa, vẽ rắc rối như

thời cục nước tàu” (Cô Kếu, gái tân thời).

“Cái bụng Nguyệt vài tháng nữa thì tròn bằng cái thúng” (Oẳn tà roằn).

“Nhà hát Tây hôm ấy có cái vẻ ton nghiêm của một vị thượng quan

mặc lễ phục”

So sánh để chua chát, mỉa mai:

“Ban đêm trộm cắp như rươi”

“Cứ sáng tinh sương, lính cỏ đã chia nhau đứng các đường xua người ta

như xua vịt” (Cấm chợ).

“.. người ta ngờ, người ta canh, người ta giữ, coi nó như một con chó

đói” (Thằng ăn cắp).

“Chỉ vì số nó chẳng tốt như bà lão cụt, như thằng bé lòa” (Cái vốn để

sinh nhai).

So sánh là một biệp pháp tu từ rất thường được các nhà văn sử dụng.

Trong văn học hiện thực phê phán, Nam Cao ưa dùng những so sánh suy tư

triết lý đầy dằn vặt, Ngô Tất Tố hay dùng so sánh kết hợp cái thâm thúy của

108

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

một nhà nho tri thức với cái mộc mạc chính xác pha màu hài hước của văn học

dân gian, Vũ Trọng Phụng mang tâm trạng hờn uất mãnh liệt dồn vào những so

sánh châm biếm đả kích quyết liệt, để “lộn trái” những đối tượng vô nghĩa lí.

Đặc điểm riêng của Nguyễn Công Hoan là lối so sánh táo bạo và ác liệt. Ông

cũng hay dùng so sánh để trào phúng hay đá móc. Nhưng nếu như Vũ Trọng

Phụng thường tạo ra nét nhòe ngữ nghĩa, bắt người đọc phải liên tưởng để

ngẫm nghĩ về thâm ý của tác giả, thì sự gai góc của lối viết văn Nguyễn Công

Hoan thường lộ ra mạnh mẽ, táo bạo trực tiếp trên bề mặt văn bản.

Như vậy so sánh không chỉ là biện pháp tu từ mà còn là phong cách, là

tư tưởng của mỗi nhà văn.

Nguyễn Công Hoan cũng thường sử dụng ngôn ngữ đời sống một cách

sáng tạo. nâng cao, kết hợp với nghệ thuật chơi chữ. Nhưng điều đáng nói ở

đây là cách chơi chữ của ông có cái gì rất riêng. Cái riêng ấy chính là chất

hỏm hỉnh, láu lỉnh của ngôn ngữ người kể chuyện. Cách chơi chữ ở Nguyễn

Công Hoan có nhiều dạng khác nhau:

Ông đặt nghĩa đen, nghĩa bóng lấp lửng bên nhau, như nói về một ông

thích chơi đồ cổ thì trong nhà có “duy nhất một cô con gái có thể bị ngờ là

tân, còn thì tuốt tuồn tuột là cổ” (Bộ ấm chén cổ).

Có khi dùng từ trong truyện ông lại đảo ngược danh từ tạo sắc thái hóm

hỉnh, tinh nghịch như câu: “Quyển “Mịt mù” bị mù mịt ở xó tối” (Mánh

khóe).

Đặc biệt nhất là cách chơi chữ mà Nguyễn Công Hoan thường sử dụng

khi đặt tên truyện ngắn của mình, đó chính là cách để ông gây sự tò mò, thích

thú, để gây cười hoặc để gieo vào lòng người đọc một nỗi niềm day dứt.

Chẳng hạn, ông đảo ngược danh từ gợi nên một sự chua xót cho hai thân phận

của hai loại người dưới đáy xã hội trong truyện ngắn có tên Người ngựa ngựa

109

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

người. Hoặc ông đặt nghĩa tương phản như Cô Kếu, gái tân thời – rõ ràng,

“sự kiện tân thời đã bị cái tên người rất xấu là Kếu nó phá mất cái ý nghĩa đẹp

đẽ, mà nó gợi cái gì đáng cười ở bên trong” (Đời viết văn của tôi). Hoặc đặt

nghĩa đen nghĩa bóng lập lờ bên nhau trong một tên truyện Thế là mợ nó đi

Tây, Tinh thần thể dục, Báo hiểu: trả nghĩa cha, Báo hiểu: trả nghĩa mẹ. Có

khi tác giả theo lối chia động từ kiểu “Tây”: Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ

báo, để phê phán những ý nghĩ bẩn thỉu của bọn con cái nhà giàu vì danh hão

mà bị lừa và đi lừa lẫn nhau.

3.1.2.3. Sử dụng ca dao, tục ngữ

Ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan là ngôn ngữ của quần chúng được

chọn lọc, nâng cao. Nhưng có lẽ một điều mới mẻ và thú vị mà ông đem lại

cho độc giả là việc ông sử dụng rất tự nhiên vốn văn học dân tộc với những

câu tục ngữ, ca dao, thành ngữ…

Ngay từ khi còn thơ ấu, Nguyễn Công Hoan đã tiếp nhận và chịu ảnh

hưởng của văn học dân gian với những truyện thơ, những bài hát dân gian qua

lời ngâm nga kể chuyện của bà. Vốn văn học dân tộc ấy đã thấm dần trong

ông và trở thành một hành trang không thể thiếu trong sự nghiệp sáng tác của

nhà văn. Trong các truyện ngắn của ông ta đều thấy thấp thoáng bóng dáng

những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ… được vận dụng linh hoạt, hiệu quả.

“Nhưng anh Ba Cốc, một người cày sâu cuốc bẫm, quanh năm làm ăn

vất vả, vắt mũi không đủ đút miệng”

“Hai vợ chồng làm nai lưng cật sức”

“song già néo đứt dây”… “chị Ba Cốc thấy bố đẻ và chống cư xử với

nhau cạn tàu ráo máng”

“Anh Ba Cốc tin ở chữ tình nên bằng chân như vại” (Vợ).

110

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Thậm chí nhà văn còn sử dụng những câu ca dao, lối nói cổ để đặt tên

cho truyện ngắn: Nghĩ người ăn gió nằm sương - Dám xa xôi mặt mà thưa

thớt lòng, Xuất giá tòng phu, Sóng vũ môn, Danh lợi lưỡng toàn…

Trong Đời viết văn của tôi, ông viết: “Tôi nghiệm rằng khi văn chương

mà viết đũng như tiếng nói và lối nói của dân tộc, thì nó hay, nó đứng vững

mãi.” Nguyễn Công Hoan đã chứng minh lời ông nói qua hàng loạt truyện

ngắn trào phúng của mình và sự thật thì ngôn ngữ bình dân, ngôn ngữ đời

sống đã đi vào văn chương Nguyễn Công Hoan như nó đang tồn tại trong đời

sống thực. Quả thực, truyện Nguyễn Công Hoan đúng là “truyện An Nam của

người An Nam viết bằng văn An Nam cho người An Nam đọc” (Đời viết văn

của tôi)

3.1.3. Ngôn ngữ nhân vật mang sắc thái riêng

3.1.3.1. Tính đa dạng và sắc thái riêng của mỗi loại nhân vật

Mỗi nhà văn thường viết về một vài loại nhân vật ưa thích – Nam Cao:

người trí thức nghèo, người nông dân nghèo, VTPhung: con người trong xã

hội đô thị, không thể viết về nông dân. Trong truyện ngắn Nguyễn Công

Hoan, thế giới nhân vật đa dạng hơn, ngôn ngữ nhân vật đa sắc hơn…

Vì vậy, một trong những đặc điểm nổi bật trong việc xây dựng ngôn

ngữ của Nguyễn Công Hoan là việc thể hiện thành công sự đa dạng nhiều

màu sắc, nhiều sắc thái ngôn ngữ của nhân vật. Do đi được nhiều nơi, tiếp xúc

nhiều loại người, lại có sẵn một tâm hồn nhạy cảm, Nguyễn Công Hoan có

một sự hiểu biết sâu sắc về tâm lí của nhiều loại người trong xã hội, ông thuộc

từng lời ăn tiếng nói, nếp suy nghĩ của từng loại người. Vì vậy, ngôn ngữ

nhân vật trong truyện ngắn của ông đều mang sắc thái riêng, bộc lộ tâm lí xã

hội của nhân vật ấy, không trộn lẫn: từ quan lại đến lính tráng, tư sản, tiểu tư

sản đến me Tây, gái mới lãng mạn…

111

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ đối thoại trong tác phẩm Nguyễn Công

Hoan có khả năng cá thể hóa nhân vật, làm bộc lộ tính cách nhân vật và làm

phát triển cốt truyện.

Ông huyện trong Gánh khoai lang có một giọng trắng trợn, vô liêm sỉ,

đê tiện và bẩn thỉu đến quái gở:

“Ông huyện hình như đã nổi giận. Ông ngắm áo quần và người ngợm

ông lý bằng đôi mắt đầy mỉa mai, rồi trỏ tay vào lễ vật, dõng dạc hỏi:

- Thầy đem tết tôi? Thầy thử ngắm xem cái mả khoai lang của nhà

thầy bày ở giữa buồng giấy này, trông nó có đẹp không đã?”

“Rồi như tiếng sét, ông huyện gắt:

- Đồ xỏ lá! Đem về để vợ chồng con cái ăn với nhau! Nhà tao không

có lợn.

- Mày kêu mày túng? Mày túng thì ông cách cổ mày đi cho thằng khác

làm. Đồ ba que!

- Đem đi ngay! Đừng để bẩn công trường! Từ giờ đến trưa, mày không

tết được tao, thì tao bỏ tù. Tao báo trước cho mà biết”.

Sự đe dọa, sự ngang nhiên, trắng trợn mỗi lúc một tăng cấp trong ngôn

ngữ nhân vật. Ông huyện tỏ ra rất thành thạo trong việc bóp nặn thuộc hạ, ăn

của đút lót. Bản chất đê tiện ấy được đẩy lên một cấp độ nữa: vừa nhìn thấy

hai tờ bạc trên đĩa, “ông huyện đã vui vẻ. ngọt ngào nói ngay:

- Đấy các thầy chỉ được nghề nói dối quan là tài. Từ nay không

nên thế. Thôi được, có lòng thành, ta cảm ơn.”

Uống nước uống cả cặn, sau khi “quan phụ mẫu nhanh nhẹn gión món

bỏ túi. Rồi cũng chẳng ngượng miệng tí nào, và làm như động lòng thương

người thuộc hạ phải gồng gánh nặng nề, ngài dịu dàng dạy:

112

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

- Thế còn hai thúng khoai ban nãy đâu, đem vào đây nhé!” (Gánh

khoai lang)

Có một ấn tượng trong ngôn ngữ nhân vật của Nguyễn Công Hoan mà

người đọc dễ nhận thấy. Đó là nhân vật thuộc loại người nào trong xã hội thì

luôn có một giọng giống nhau, dù ở truyện này truyện khác. Các thủ đoạn bóc

lột có thể khác nhau, ở các thời điểm khác nhau, nhưng ông huyện ở Gánh

khoai lang cũng lại là ông huyện ở Ngượng mồm, Thịt người chết. Những loại

nhân vật khác cũng vậy.

Nhân vật lý trưởng trong Tinh thần thể dục có lối nói rất điển hình cho

tính hách dịch, cục cằn thô lỗ của đám chức dịch, cường hào ở nông thôn:

- “Ốm gần chết cũng phải đi. Lệnh quan như thế. Ai cũng lấy cớ ốm

yếu mà không đi thì người ta đá bóng cho chó xem à?

- Thiếu những mười tám thằng kia à? Tuần đâu, đến tận nhà chúng nó,

lôi cổ chúng nó ra đây. Chứ đã hẹn đi lại còn định chuồn phỏng!

- Hễ đứa nào láo, cứ đánh sặc tiết chúng nó ra, tội vạ ông chịu. Mẹ bố

chúng nó! Việc quan thế này có chết cha người ta không! Chúng bay gô cổ cả,

giải cho được ra đây cho ông!

- Chín mươi tư thằng ở đây, xếp hàng năm lại, đi cho đều bước. Tuần

chúng bay phải kèm chung quanh giúp tao. Đứa nào bỏ trốn về thì ông bảo.

- Mẹ bố chúng nó, cho đi xem đá bóng chứ ai giết chết mà phải trốn

như trốn giặc!”

Nguyễn Công Hoan cũng rất tài tình trong việc tái hiện ngôn ngữ lính

tráng: Lập gioòng, Thật là phúc…, ngôn ngữ thầy đồ: Thầy cáu, ngôn ngữ của

đám gái mới lãng mạn: Cô Kếu gái tân thời, Nỗi lòng ai tỏ… thậm chí cả

ngôn ngữ của những đám nhà văn nhà báo nửa con buôn: Mánh khóe, Nhân

tài, Ông chủ báo chẳng bằng lòng…

113

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Việc tái hiện được giọng điệu, ngôn ngữ của nhiều loại nhân vật có lẽ

là đặc sắc khá độc đáo, là sở trường của Nguyễn Công Hoan.

Loại nhân vật nào có ngôn ngữ của nhân vật ấy, mỗi loại đều mang sắc

thái riêng, bộc lộ bản chất giai cấp của nó, trộn không lẫn. Việc sử dụng ngôn

ngữ đời sống một cách thích hợp đã đem lại một sắc thái đặc biệt trong trong

truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, tạo nên một phong cách riêng ông. Có thể

nói về tài viết truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, như cách nói của Macxim

Gorki nói về tài viết truyện ngắn của Guyđơ Môpatxăng là “Không ai bắt

chước nổi”.

3.1.3.2. Ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại nội tâm của nhân vật

Trong ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ đối thoại cũng là điểm hết sức đặc

sắc của Nguyễn Công Hoan.

Các đoạn đối thoại hầu hết đều rất hay, rất tự nhiên, rất hóm hỉnh, đôi

khi pha chút tinh quái. Những truyện ngắn Người ngựa, ngựa người, Mất cái

ví, Thằng ăn cắp, Cái ví ấy của ai, Tinh thần thể dục, Thanh! Dạ… là những

truyện có đối thoại rất đạt.

Ngôn ngữ đối thoại có vai trò phơi bày và làm phát triển câu chuyện

như là đối thoại sân khấu. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét: “Những

đoạn đối thoại của Nguyễn Công Hoan có thể chuyển thành kịch bản sân

khấu. Đặc điểm này khiến cho đối thoại nói riêng và truyện ngắn nói chung

rất sing động, hấp dẫn, người đọc cũng bị cuốn hút bởi tiết tấu nhanh, mạnh

của nó.”

Ngôn ngữ đối thoại cũng thể hiện rõ nét đặc trưng của bút pháp nhà

văn. Nếu những đoạn đối thoại của Nam Cao chân thực đến xù xì, góc cạnh

như được đưa thẳng từ cuộc đời vào trang sách và cũng đậm đà ý vị triết lý thì

Nguyễn Công Hoan trên cái nền hiện thực ấy, cường điệu, phóng đại thành

114

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

những đoạn đối thoại như một phần của bức biếm họa, lật phăng cái mặt nạ

của “tấn trò đời”.

Qua đoạn đối thoại, tác giả đã vạch mặt chỉ tên Nguyệt, cô “gái mới”

lẳng lơ, trăng hoa, diễn trò “con nhà thi lễ”, “con nhà trâm anh” với cái bụng

mà chính cô ả cũng không rõ tác giả, vì có quá nhiều nhân tình:

- Anh Phong, thế anh định bỏ chết tôi đấy à? Không trách người ta bảo

đàn ông bạc tình, có oan tí nào đâu! Tôi vì nghe anh dỗ ngon dỗ ngọt, nào

những là lấy nhau, nào những là ăn đời ở kiếp cùng nhau… Hẳn anh cũng biết

tôi chỉ là quá dại dột mà nghe anh, nên mới mang vạ vào mình. Anh nghĩ sao

cho vuông tròn thì nghĩ…

- Thế có chắc Nguyệt chửa với tôi không?

Sau khi hết lời chứng minh với Phong đứa con trong bụng mình là con

của Phong, Nguyệt lại có một cuộc gặp gỡ với Bắc, người đàn ông đã có gia

đình và hơn 40 tuổi đầu. Nắm được thóp của nhân tình chưa có con, Nguyệt đã

hết sức làm mình làm mẩy để Bắc phải hết lời hứa hẹn lo cho Nguyệt chu toàn.

Hai đoạn đối thoại đã cho thấy phần nào bản chất, tính cách của nhân

vật. Hơn nữa, trong đối thoại của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thường có

sự tăng cấp. Đến những đoạn đối thoại tiếp theo, người đọc càng kinh ngạc

trước một sự thật được bóc trần. Đối thoại giữa cô ả và bà đỡ tố cáo bản chất

của cô: cô ả không phải chỉ một lần hoang thai mà đã có con dạ. Thậm chí

đứa con này không phải giống da vàng “con rồng cháu tiên”, nó có nước da

“đen như cái cột nhà cháy”, nó là giống “oẳn tà roằn không biết chống gậy”.

Không những các đoạn đối thoại sinh động, mỗi lúc lại hé ra một tình

tiết làm thúc đẩy diễn biến câu chuyện mà nó còn bộc lộ sự tinh tế và một

chút tinh quái của ngòi bút Nguyễn Công Hoan. Đó là cách tác giả để cho bà

đỡ – một người đầy kinh nghiệm trong việc sinh nở – lật mặt nạ giả dối, hư

115

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

hỏng của Nguyệt. Cô nàng cũng chỉ có thể hoàn toàn lừa gạt được Bắc, anh

chàng già mất nết đang ngụ mị vì khát có một đứa con trai nối dõi, chứ không

thể qua mặt hai tay công tử ăn chơi sành sỏi. Ngay cả anh chàng Phong cũng

chỉ coi Nguyệt như đối tượng trăng gió.

Có thể nói đến Nguyễn công Hoan, văn xuôi và truyện ngắn Việt Nam

phát triển đến một cấp độ mới. Những đoạn đối thoại rất ngắn gọn nhưng hiệu

quả bất ngờ đã khiến truyện ngắn Nguyễn Công Hoan hiện đại hơn, sinh động

và hấp dẫn hơn.

Về ngôn ngữ độc thoại nội tâm, đặc trưng của nghệ thuật trào phúng là

sự ngoại hiện hóa tính cách, ít quan tâm tới mạch chảy bên trong của tâm lí, vì

thế văn trào phúng không “sính” dùng độc thoại nội tâm. Nếu có, nó cũng rất

ít về lượng mà chỉ là những phiến, những đoạn, những mảnh vụn tâm lí.

Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan cũng vậy. Hơn nữa, truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan rất gần với kịch, do đó, đối thoại là trọng tâm. Nhưng chúng ta

vẫn thấy đâu đó, những đoạn ngôn ngữ mang tính chất độc thoại nội tâm của

nhân vật, mặc dù nó không thể trở thành quá trình tâm lí.

Nội tâm của nhân vật trong truyện Nguyễn Công Hoan thường đơn

giản, cố định, như suy nghĩ của nhân vật Phong trong Oẳn tà roằn đã nói lên

bản chất một kẻ ích kỉ, nhẫn tâm, vô trách nhiệm với “người tình”: “Ừ, suýt

nữa mình gieo cái vạ tầy đình, giết cả hai nhân mạng. Giá một mình con

Nguyệt nó tự tử, thì mặc quách nó, nhưng lại đèo cả đứa con ta ở trong bụng

nó!…Ừ, tính tháng tính ngày, quả nó có mang với ta… Vậy đợi lúc nó đẻ, ta

lấy con về nuôi, còn việc trăm năm với nó thế nào ta không nên nghĩ trước”.

Hay đây là suy nghĩ của anh xe nghèo kiết, đang ngập tràn hy vọng về

một chuyến khách: “Anh xe mới nghĩ: “ Mười lăm phút nữa, mình sẽ có sáu

hào. Sáu hào với hai hào là tám. Thế nào ta cũng nài thêm bà ấy mở hàng cho

một hào nữa là chín. Chín hào! Mở hàng ngay vào lúc năm mới vừa đến. Thật

116

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

là may! Mới năm mới đã phát tài! Thôi, sang năm tất là làm ăn bằng mười

bằng trăm năm nay”(Người ngựa, ngựa người).

Điểm dặc biệt là ngôn ngữ mang tính chất độc thoại nội tâm của nhân

vật thường có sự có mặt của tác giả. Dường như tác giả mượn suy nghĩ của

nhân vật để nhằm mục đích nào đó, như phơi bày bản chất, hoặc đẩy sự phát

triển của cốt truyện. Đây chính là kiểu “lời văn hai giọng” trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan: giọng tác giả và giọng nhân vật. Như giọng ông Nghị

Xuân trong Đi giày: “ừ thì gật, ừ thì câm, thì hám danh, thì hại nước, ông hãy

biết bây giờ ông ăn tiêu chỉ trong làng cái đã. Cái khoanh bí mọi làng đem

biếu ông bá văn thì từ nay ông được ăn. Thành ra danh lợi lưỡng toàn, sung

sướng quá…”. Thường đây là kiểu lời nhân vật mang quan điểm tác giả.

Barthes đã nói: “Không thể lược bỏ một chức năng cốt yếu nào mà

không làm ảnh hưởng đến cốt truyện, cũng tương tự như vậy, không thể lược

bỏ những đơn vị xúc tác nào mà không làm ảnh hưởng đến ngôn bản tự sự”.

Các yếu tố ngôn ngữ này không thể thiếu, bởi chúng làm nên hơi thở, không

khí, linh hồn, và sự sống cho chính tác phẩm.

Song, đối với người viết văn xuôi, “đối tượng là tụ điểm của những

tiếng nói khác nhau mà giữa chúng, anh ta phải cất lên tiếng nói của mình,

những tiếng nói ấy tạo thành cái bè đệm cần thiết cho tiếng nói của anh ta,

không có chúng thì những âm sắc nghệ thuật văn xuôi của anh ta không thể

nào được người ta cảm thấy, không có sức vang vọng” (M. Bakhtin).

Như vậy, chất liệu của văn học không chỉ là ngôn từ mà còn là giọng

điệu. Tìm hiểu nghệ thuật tự sự của Nguyễn Công Hoan càng không thể bỏ

qua yếu tố này.

3.2. Giọng điệu tự sự

Có thể nói đối với nhà văn, nếu không tạo ra được tiếng nói của mình,

không tạo được một nốt riêng độc đáo, tức là không tìm ra một giọng điệu

117

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

riêng, liệu tên tuổi của nhà văn có thể được nhắc đến? Vấn đề càng trở nên

cấp thiết hơn khi mà trong cuộc sống hiện đại, con người cá nhân ngày càng

trỗi dậy mạnh mẽ để phủ định con người chức năng, con người cộng đồng

thời trung đại.

Trong thế giới văn học nghệ thuật, mỗi nhà văn đều tự muốn khẳng

định phong cách cá nhân, nét riêng của mình. Giọng điệu góp phần quan trọng

làm nên nét khu biệt đó.

Từ điển thuật ngữ văn học quan niệm: “Giọng điệu là thái độ, tình cảm,

lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hình tượng được miêu tả thể

hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm,

cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm”

Còn M.Bakhtin, qua nhiều công trình nghiên cứu về thi pháp văn xuôi

tự sự, đưa ra khái niệm đa âm (đa thanh) như một sự cách tân giọng trong văn

học tự sự. Ông cho cũng cho rằng, giọng điệu bao giờ cũng thể hiện thái độ,

lập trường, tư tưởng của chủ thể đối với sự vật hiện tượng được miêu tả. Một

nhà văn tài năng bao giờ cũng tìm được cho mình một giọng điệu riêng biệt,

độc đáo bởi giọng điệu là một trong những yếu tố tạo nên phong cách và dấu

ấn sáng tạo của người nghệ sĩ.

Như vậy, giọng điệu là yếu tố quan trọng giúp độc giả nhận ra dấu ấn

và phong cách của chủ thể sáng tạo. Giọng điệu thuộc phạm trù thẩm mỹ của

tác phẩm văn học. Nhà văn không thể hoàn thành tác phẩm nếu thiếu một

giọng điệu nhất định. Có thể nói giọng điệu cũng chính là phần hồn của toàn

tác phẩm. Không có hồn, câu chuyện xem như nhạt nhẽo, vô vị, dù nó được

diễn tả dưới nhiều từ ngữ bóng bẩy đến đâu. Đối với nghệ thuật ngôn từ, giá

trị không nằm ở số lượng thông tin mà còn cần ở đằng sau câu chữ, phần hồn

của tác phẩm. vì vậy mà giọng điệu chính là cái mang lại thần thái cho mỗi

118

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

tác phẩm. Nó bao giờ cũng được tổ chức công phu và là kết quả của một quá

trình sáng tạo thực thụ.

Đứng trước một văn bản truyện kể, ta có thể đặt ra câu hỏi: “Ai nói?”,

“Ai kể chuyện?”, “Người kể chuyện thể hiện thái độ, giọng điệu như thế nào

về các vấn đề trong truyện kể?” Những câu hỏi đó rõ ràng có thể cho ta biết

về giọng điệu tự sự trong tác phẩm là của ai và như thế nào?

Tác phẩm văn học, xét đến cùng là một phát ngôn của con người về đời

sống, vì vậy giọng điệu cơ bản của một tác phẩm là sự bộc lộ các sắc điệu,

tình cảm của chủ thể phát ngôn nên không phải lúc nào trong tác phẩm cũng

chỉ có một giọng điệu thuần nhất, mà nó có thể bao gồm nhiều giọng điệu

khác, tùy thuộc vào mục đích phát ngôn của nhà văn.

Từ đó, ta có giọng điệu trong văn bản: là giọng điệu của người kể

chuyện, nhân vật trong truyện kể. Ta lại có giọng điệu ngoài văn bản với tư

cách như là giọng điệu của tác giả. Hai kiểu giọng điệu ấy có thể tồn tại trong

thế đối lập nhau, nhưng cũng có thể song hành cùng nhau. Sự đan xen, lồng

ghép giữa hai kiểu giọng điệu này cũng sẽ tạo nên tính chất đơn thanh hay đa

thanh, độc thoại hay đối thoại của tác phẩm.

Và đến lượt mình, tính chất này lại hết sức quan trọng, bởi đôi khi,

không sức mạnh nào nhanh hơn là từ trái tim đến trái tim bằng giọng nói. Tư

tưởng - linh hồn của tác phẩm - những tình cảm, suy nghĩ, nhận thức của tác

giả - sẽ được độc giả đọc lên khi nghe giọng diệu tự sự của những đứa con

tinh thần của người nghệ sĩ.

Khảo sát 103 truyện ngắn Nguyễn Công Hoan trước cách mạng, chúng

tôi thấy có sự kết hợp của nhiều giọng điệu đa dạng, tạo nên tính phức điệu

trong giọng điệu tự sự Nguyễn Công Hoan. Song, chúng cũng có một giọng

điệu chung, giọng điệu chủ yếu, tạo nên âm hưởng chung cho toàn bộ các tác

phẩm: đó là giọng điệu trào phúng của Nguyễn Công Hoan.

119

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

3.2.1. Tính phức điệu hóa

3.2.1.1. Tính đa âm, đa giọng.

Đọc truyện ngắn Nguyễn Công Hoan ta thường gặp một giọng điệu đa

thanh mà ở đó khi thì là ngôn ngữ nhân vật, khi thì là ngôn ngữ trần thuật của

người kể chuyện, có khi là lời bình đan xen của tác giả tạo nên những trang

viết sinh động và hấp dẫn.

Hãy xem một đoạn văn trong truyện ngắn Cụ chánh bá mất giày: “Phải

hiểu rằng cụ Chánh Bá có thương nhà này thế nào, cụ mới quá bộ đến xơi

rượu, chứ như nhà khác, dễ mà mời nổi cụ đấy hẳn? Cụ lại không mắng cho

vô số, chứ lại thèm đi à? Ấy thế mà mới chập tối, họ đã để ngay đứa nào xà

lọn mất đôi giày mới của cụ, có chết không! Ừ thì đông người thì đông chứ,

nhà có việc, nhà nào chả có nhiều kẻ ra vào! Nhưng cụ ngồi chơi tận trên nhà

thăm thẳm, thì cò kẻ gian nào giám lẻn vào đó? Vả riêng mình cụ ngồi ở sập

giữa thì còn ngờ ai đi lẫn được giày? Chẳng qua là lỗi tại chủ nhà không biết

trông nom cẩn thận người nhà người cửa, trong khi chúng hầu hạ mà thôi! Mà

đứa nào lấy đôi giày ấy cũng to gan thực! Hỗn của ai thì hỗn, chứ sao được

hỗn ngay của cụ chánh Bá! Thực là vuốt râu hùm!”. Đoạn văn có sự đan xen,

hòa quyện của ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ người kể chuyện và thỉnh thoảng

là lời bình luận của tác giả, tạo nên một thứ ngôn ngữ khá độc đáo.

Khi tác giả miêu tả nhân vật mà người đọc cảm thấy như nhân vật tự

bộc lộ mình: “Ai kia, chứ bà ấy thì thấy khổ lắm. Bà bứt rứt, khó chịu, nhiều

lúc muốn vứt quăng cả chân tay đi, tưởng chừng như thế thì đỡ vướng víu. Bà

rửa mặt, lau mình cả ngày, mà da vẫn nóng hầm hập. Bà bới tóc ngỏng lên tận

đỉnh đầu, ngồi ngửa bụng ra, chống hai tay lại đằng sau mà thở. Nhiều lúc,

ngó thấy trời xanh ngăn ngắt, bà chịu cả đôi môi dầy và ướt, cau có nói:

- Lạy bố, thế này thì đến chẩy mỡ ra mất!” (Phành phạch).

120

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Bằng cách này, tác giả giúp người đọc thâm nhập vào thế giới bên

trong của nhân vật, nhằm lí giải những hành động, lời nói của nhân vật, qua

đó bộc lộ tính cách và làm phát triển tiết tấu chuyện.

Có nhiều đoạn văn mà khi đọc, người đọc sẽ bối rối khó phân biệt được

đâu là nỗi lòng của nhân vật, đâu là suy tư của tác giả. Như đoạn văn viết về

người mẹ già khốn khổ chịu sự bạc đãi của thằng con giàu có mà bất hiếu

trong Báo hiếu: trả nghĩa cha: “Mưa để khóc, gió để rên. Rét để cắt ruột mẹ

người con mà họ đương khen là hiếu tử”.

Như vậy có thể nói đa âm, đa giọng là điểm độc đáo trong giọng điệu

tự sự của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng.

3.2.1.2. Tính đối thoại của giọng điệu

Điểm mới mẻ cần đánh giá cao trong nghệ thuật tự sự Nguyễn Công

Hoan về phương diện giọng điệu không chỉ là ở tính đa âm, đa giọng nói, mà

còn ở tính chất đối thoại giữa các giọng.

Trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, chúng tôi thấy có một hiện

tượng khá đặc biệt: người kể chuyện đối thoại với nhân vật. Đó là khi người

kể chuyện cũng là một nhân vật trong truyện, xưng “tôi”. Hàng loạt truyện

được kể theo cách này: Thằng Quýt, Thằng ăn cướp, Người vợ lẽ bạn tôi,

Nhân tài, Xin chữ cụ Nghè, Tôi tự tử… Trong đó, giọng điệu của nhân vật

người kể chuyện xuất hiện dưới dạng đối thoại trực tiếp với nhân vật, có thể

nhằm tạo cho truyện thêm “dí dỏm”, hoặc để “dẫn truyện” phát triển theo một

hướng nào đó, hoặc tạo niềm tin cho độc giả vào nội dung câu chuyện.

Tiêu biểu nhất phải kể đến truyện ngắn Tôi tự tử. Đây là một lời đối

thoại của nhân vật chính với người kể chuyện: “Một loạt truyện ngắn của ông

viết vừa rồi về quan trường, tôi có đọc hết. Tôi nhận thấy có truyện ông bịa

thêm nhiều, có truyện ông bịa thêm ít, nhưng cốt truyện đều có thực cả. Tôi

121

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

không oán trách gì ông, trái lại, nhân tiện hôm nay gặp ông đây, tôi xin hiến

ông thêm một tài liệu để ông viết”.

Sau lời thoại này là câu chuyện của tên quan nọ. Tự nhân vật trở thành

người kể chuyện, kể lại cách giả “tự tử” của mình để trốn tránh trách nhiệm

đã để cho đê vỡ. Như vậy, từ lời thoại trên (nhân vật chính - tôi đối thoại với

người kể chuyện – nhà văn) đến câu chuyện được kể, đã có sự chuyển hóa:

nhân vật “ông” là hình tượng tác giả, còn nhân vật “tôi” lại là người kể

chuyện. Toàn câu chuyện là sự việc về nhân vật – quan tự kể lại, đang đối

thoại với “ông”, được “ông” – người ghi chép lại, ghi lại một cách khách

quan. Như vậy, câu chuyện chính là đối thoại giữa giọng khách quan lạnh

lùng của “người ghi chép” với giọng chủ quan nhưng tự tố cáo mình của

“người kể chuyện – nhân vật tôi”.

Hiện tượng thứ hai cũng làm nên nét độc đáo khu biệt của Nguyễn

Công Hoan là: người kể chuyện đối thoại với độc giả. Thường đối thoại này

xuất hiện trong những lời bình luận của người kể chuyện. Nó tạo cho Nguyễn

Công Hoan một phong cách riêng, không trộn lẫn với bất kì nhà văn nào trong

giai đoạn 1930 – 1945 và thậm chỉ cả thời gian dài sau nữa.

Đối thoại này có nhiệm vụ dẫn truyện, dẫn độc giả vào một tình huống

nào đó, khơi gợi niềm tin của độc giả vào câu chuyện có thật. Hoặc đối thoại

thể hiện quan hệ thân tình, bỗ bã, suồng sã giữa người kể và người đọc, nhằm

tạo hiệu ứng tâm lí về tiếp nhận: “tôi” kể, nghĩa là thời điểm nội dung câu

chuyện kể không quá xa so với thời hiện tại - thời điểm kể, do vậy nội dung

chuyện mang tính thời sự. Những truyện ngắn tiêu biểu viết theo lối này: Lập

goòng, Cái thú tổ tôm, Đồng hào có ma, Một tấm gương sáng, Nhân tài…

Trong truyện, thường thì hình tượng hoặc sự vật tự nói lên điều mà tác

giả muốn nói. Nếu người viết cứ tự đứng ra nói thay cho nhân vật hoặc cứ

phải bình luận, giải thích thêm vào thì truyện sẽ dễ trở thành nhạt nhẽo, vô

122

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

duyên. Nhưng trong một số truyện của Nguyễn Công Hoan, người đọc lại rất

thú vị khi bắt gặp những câu bình luận của tác giả. Ông thường đưa những

đoạn bình luận trong ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ người kể chuyện một cách

hợp lí, tạo những suy nghĩ thú vị cho độc giả, như khi ông lập luận về một tên

tri huyện: “Tôi cực lực công kích sách vệ sinh đã dạy ta ăn uống phải sạch sẽ,

nếu ta muốn được khỏe mạnh, béo tốt. thuyết ấy sai. Trăm lần sai! Nghìn lần

sai! Vì tôi thấy sự thực, ở đời này, bao nhiêu những anh béo, khỏe, đều là

những anh thích ăn bẩn cả.”(Đồng hào có ma) Đoạn bình luận hóm hỉnh như

đùa cợt nhưng thực tế lại đánh trúng tim đen của tầng lớp quan lại đương thời

với bản chất chuyên bóp nặn dân đen và những kẻ yếu thế.

Nhiều đoạn bình luận như khách quan, lạnh lùng nhưng phía sau vỏ

ngoài ấy lại ẩn chứa một nỗi lòng đau đớn, như khi tác giả miêu tả một thằng

con trai bất hiếu và đứa con dâu hỗn hào đã tổ chức một đám tang linh đình

để trả nghĩa mẹ mà có lẽ trong bụng thì rất hạnh phúc khi mẹ chết: “Giá bà cụ

dưới suối vàng biết được người con trai, con dâu nó báo hiếu làm đám ma

long trọng dường này hẳn cũng phải ngậm cười” (Báo hiếu: trả nghĩa mẹ).

Cái “ngậm cười” này hẳn phải hiểu ngược lại, không phải là sự thanh thản khi

ra đi, mà chính là cái cười chua xót khi nhận ra tất cả sự giả dối, bất nhân bất

nghĩa của lũ con, và có lẽ cũng là cái cười mỉa mai sung sướng khi không còn

phải sống chung với lũ con đại bất hiếu?

Có những đối thoại với độc giả, vừa là đối thoại giữa các câu chuyện

kể, giúp người đọc nhìn rõ hơn muôn mặt cuộc sống như nó vốn có. Chẳng

hạn, trong Một tấm gương sáng hướng người đọc cùng suy ngẫm, đồng tình

hay phản đối với những chiêm nghiệm những suy nghĩ của nhân vật: “Lương

tâm là gì? Là cái bung xung của hạng hèn kém nêu lên để gỡ tiếng xấu hổ. Nó

chỉ là anh chàng quấy rối sự làm việc của mình, làm cản trở biết bao nhiêu thủ

123

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

đoạn kinh thiên động địa của những đấng hào kiệt”, thế nên: “bọn có chút địa

vị, đố ai làm nên mà còn nghĩ tới lương tâm”.

Đến Sáu mạng người, người kể chuyện lại khẳng định: “Lương tâm ai

chẳng có? Dù làm quan cũng vậy. Thỉnh thoảng, người ta có đôi phút vụt thấy

lương tâm hiện ra, mỗi khi biết mình làm bậy. Bởi vậy ông châu phiên hối

hận việc đã giết oan bốn mạng lương dân.”

“Nhưng biết làm thế nào bây giờ?” Chưa đợi người đọc suy nghĩ trả

lời. Ông quan nọ đã nhanh chóng trở lại bản chất của hắn, người kể chuyện

giúp người đọc tiếp cận với nhân vật, hiểu rõ những động cơ thầm kín trong

những hành động của nhân vật, khái quát về một lớp người: “Ông châu vón là

người có óc thực tế. Hạng người này ít thiên về tình cảm. Nên khi một việc lỡ

xảy ra, họ không xoa xuýt, than tiếc, mà phải cương quyết tính ngay cách đối

phó sau này. Vì vậy, trong giây phút, ông lanh trí, nghĩ ngay được cách làm

thế nào để tránh lỗi với quan trên”. Đó là cách mà ông đã nhanh gọn lùng bắn

chết nốt hai người còn lại, và làm tờ bẩm với quan đã giết được sáu … tên

giặc khách! Cuối cùng, lương tâm vẫn chỉ như một giây lóe lên trong ông rồi

vụt tắt mãi mãi!

Đôi khi, người kể chuyện cùng đối thoại, tranh luận với người đọc để

cùng nhau kiếm tìm, khám phá tính cách nhân vật và chân lý cuộc đời, như

cách kết thúc mở của truyện “Cái thú tổ tôm”: “Vậy độc giả đoán nét mặt ông

nghị Đào tôi lúc bấy giờ thế nào. Và ông có lên nhà xơi nước hay không?”

3.2.2. Các kiểu giọng điệu trào phúng

3.2.2.1. Giọng trung tính, khách quan

Giọng điệu kể chuyện của Nguyễn Công Hoan rất khách quan, trầm

tĩnh, mang tính chất trần thuật, ít khi thấy ông bộc lộ tình cảm yêu ghét rõ

ràng với nhân vật trong truyện. Ông không bao giờ áp đặt người đọc theo một

124

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

mục đích nào đó mà nhà văn đã định sẵn, thông thường tác giả dẫn dắt người

đọc một cách tự nhiên đi sâu khám phá bản chất nhân vật rồi người đọc tự

nhận thức, tự rút ra thái độ với nhân vật: xót xa, thương cảm, khinh bỉ hay

căm phẫn. Vd cụ chánh bá mất giày

Sở trường của Nguyễn Công Hoan là miêu tả những nhân vật xấu, đáng

ghét, đáng khinh, bởi ở đó ngòi bút ưa đả kích, châm biếm, hài hước có cơ hội

để diễn tả một cách thành công nhất, khách quan nhất. Song chính nguyên tắc

khách quan và sở trường này lại dẫn đến một hạn chế trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan. Đó là khi miêu tả những người nghèo, người đọc có cảm

giác như ông ít trân trọng, thậm chí có lúc sa đà chỉ phục vụ cho tính gây

cười, dị biệt, nhà văn đã bóp méo hình ảnh của họ (Thằng ăn cắp). Sự khách

quan, bình thản ấy trong nguyên tắc xây dựng hình tượng khiến người đọc có

cảm giác không nhận ra trực tiếp tình cảm của tác giả. Đặc điểm này có phần

khác biệt với các nhà văn hiện thực cùng thời với Nguyễn Công Hoan như

Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng. Với hai nhà văn này, nhiều khi nước mắt của nhà

văn như hòa chung dòng nước mắt của nhân vật. Cảnh chia lìa của mẹ con chị

Dậu thật là một cảnh quay xúc động, ngập tràn nước mắt:

“Chị Dậu lã chã hai hàng nước mắt:

- U van con, u lạy con, con có thương thầy thương u thì con cứ đi với u,

đừng khóc lóc nữa đau ruột u lắm. Công u nuôi con sáu bảy năm trời tốn kém

bao nhiêu tiền của! Bây giờ phải đem bán con u đã chết từng khúc ruột rồi

đấy con ạ…!

Cái Tí vẫn khóc rưng rức. Chị Dậu cũng vừa đội rổ chó con vừa khóc

nức nở nhưng vẫn cố kiếm lời thấm thía, xót xa để khuyên con” (Tắt đèn).

Không như Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng - Nguyễn Công Hoan kể chuyện

với tư cách một người chứng kiến, quan sát khách quan, và giọng điệu của

125

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

người kể chuyện cũng mang giọng trung tính, khách quan, ít bộc lộ cảm xúc,

thái độ của cái tôi nhà văn đối với số phận nhân vật. Song thực chất ẩn giấu

đằng sau những dòng chữ tưởng như lạnh lùng khách quan ấy là một tấm lòng

tha thiết yêu thương và giàu lòng nhân đạo. Giọng điệu này phần nào gần gũi

với giọng điệu của nhà văn Nam Cao ở một số tác phẩm, có thể ví như một

chiếc phích nước mà bên ngoài thì lạnh, nhưng bên trong lại luôn ấm nóng

tình người.

Nguyễn Công Hoan thường đặt các nhân vật trong những tình thế éo le,

hài hước đáng buồn cười, ít gây xúc động mạnh. Nhưng đằng sau tất cả,

người đọc lại thấy được tiếng cười chua xót cho những kiếp người, nhất là

kiếp sống quẩn quanh, cùng quẫn, bế tắc của những người thuộc tầng lớp dưới

đáy xã hội. Chẳng hạn, Người ngựa, ngựa người, Hai thằng khốn nạn, Vợ là

những truyện ngắn tiêu biểu được viết bằng giọng điệu đó.

3.2.2.2. Giọng điệu trào phúng

Tuy nhiên, cùng với giọng khách quan, lạnh lùng, dễ dàng nhận thấy

trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, giọng điệu trào phúng là giọng điệu

chủ đạo. Như nhà văn tự nhận xét về mình:

“Tôi coi thường tất cả, tất cả đối với tôi chỉ là trò cười. Vì vậy, tôi hay

pha trò cười. Tôi viết tiểu thuyết cũng mang cái giọng nói thường của tôi là

trào phúng và hài hước” (Đời viết văn của tôi).

3.2.2.2.1. Giọng hài hước

Thường, giọng hài hước được nhà văn sử dụng trong một số truyện mà

chủ đề chưa thật tiêu biểu, chưa mang ý nhĩa xã hội sâu sắc. (Giết nhau là một

truyện ngắn như vậy.

Những nét chân dung xấu xí của bọn có tiền có quyền, qua ngòi bút nhà

văn trào phúng, được phác họa khá đậm nét và đậm tính hài hước. Đó chính là

126

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

cách tác giả “vật hóa” “thô kệch hóa” chân dung nhân vật trong truyện ngắn

của mình.

Giọng kể của tác giả bật ra rất tự nhiên, ngộ nghĩnh như khi miêu tả cái

béo quá đỗi của một ông quan: “Chà! Chà! Béo ơi là béo! Béo đến nỗi giá có

thằng dân nào vô ý, buột mồm nói ra một câu sáo rằng: “Nhờ bóng quan lớn”,

là ông tưởng ngay nó nói xỏ ông. Tức thì, mặt bàn là một, mặt nó là hai, bị vả

đôm đốp” (Đồng hào có ma).

Hay lại một cái béo khác của một quan bà: “Nguyên bà béo quá - gớm!

Béo đâu mà béo lạ béo lùng đến thế. Béo đến nỗi hai má chảy ra. Béo đến nỗi

bụng xệ xuống. Béo đến nỗi trông phát ngấy lên.” (Hai cái bụng).

Trong một số truyện ngắn, nhà văn thường sử dụng giọng điệu kể

chuyện linh hoạt, vui nhộn bằng cách dùng lối nói của nhân vật với những từ

ngữ, tiếng lóng, tiếng bồi, vừa gián tiếp bộc lộ tính cách, vừa làm cho câu

chuyện thêm sống động, hóm hỉnh. Như truyện Thật là phúc kể về một gã

lính cơ ván cách định hiếp vợ một anh bánh giò, ông dùng một lối văn lính

tráng, xen lẫn những tiếng bồi rất ngộ nghĩnh: “ma phàm anh hàng giò”,

“măng đen”, “lập goòng”, “đề mi tua”, “a la văng”, “cẩm ma lách”, “tăng

xương”, “kèn la vầy”…

Chính Vũ Ngọc Phan – một bạn của nhà văn cũng nhận xét về lối viết

văn rất vui, rất hóm hỉnh của ông: “Những truyện ngắn của ông tiêu biểu cho

một thứ văn rất vui, thứ văn mà có lẽ ngay từ ngày nước Việt Nam có tiểu

thuyết viết theo lối mới người ta chỉ thấy ở ngòi bút của ông thôi”.

3.2.2.2.2. Giọng mỉa mai, giễu cợt

Trong nghệ thuật truyện ngắn của mình Nguyễn Công Hoan sử dụng

giọng điệu mỉa mai để bật lên tiếng cười trào phúng.

127

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Ngôn ngữ mỉa mai giễu cợt của Nguyễn Công Hoan tiêu biểu nhất ở

đoạn văn sau:

“Hình như trời đã đặt một cái khuôn riêng để đúc nặn các người làm bà

lớn. Nên chẳng mấy chốc, bà phủ đã được đúng kiểu mẫu. Chỉ riêng có bộ mặt

đã long trọng. Người ta tưởng chiếc bánh dầy đám cưới, ở giữa đặt một quả

chuối ngự, và ngay đầu quả chuối, nằm dài hai múi cà chua. Rồi khi hai múi cà

chua tách ra để theo nhịp với cặp mắt híp, đưa quan ông vào chốn nát – bàn, thì

ai cũng phải thấy một cái hô sâu thăm thẳm, sâu như bụng dạ đàn bà.”

Song quan ông lại có hình thể khác hẳn! “Vì ở người ngài cái gì cũng

cong, từ cái sống mũi đến cái lương tâm, từ cái lưng đến cách xử kiện…”

(Đàn bà là giống yếu). Ca dao Việt Nam vẫn thường dùng cỏ cây hoa lá diễn

tả vẻ đẹp của cô gái, Nguyễn Công Hoan dùng cỏ cây, nhưng lại là tả vẻ xấu

với “quả cà chua, quả chuối”. Nhất là ông lại mượn cái “cong” của “hình thể”

để nói tới cái “cong” của “lương tâm” thì quả là tinh quái.

Để mỉa mai một cô gái, tác giả cũng dúng cách này:

“Vì bà muốn cho cô An, lần đầu tiên ra bãi bể, khoe cùng mặt trời, sự

trẻ và sự đẹp của cô, nhân thể để cô có dịp phơi ra ngoài ánh sáng, bộ xương

mông, xương quai xanh và xương sườn cụt.” (Cho tròn bổn phận)

Sự trẻ và đẹp – đặt bên – bộ xương mông, xương quai xanh và xương

sườn cụt. Vậy còn đâu trẻ, đẹp nữa!

Hay để mỉa mai quan lại, nhà văn mượn lời nhân vật:

“Nếu tao có thể xử đê tiện đểu giả thế, thì bây giờ ít ra tao cũng làm

đến tuần phủ rồi, chứ lại chịu nghèo xơ thế này à?” (Nạn râu)

Như vậy, mỉa mai là phương thức biểu hiện cái hài trong văn học trao

phúng. Như nhà văn tự nhận xét: “Khi tôi viết, tôi cố ý đặt những câu bình

thường, tự nhiên, giản dị, như tôi vẫn quen nói với bạn tôi, cho giọng nói

128

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

đúng là của tôi, hay pha trò, hay ỡm ờ, hay chế giễu, hay chua chát” (Đời viết

văn của tôi).

3.2.2.2.3. Giọng châm biếm, gai góc

Giọng điệu này ở Nguyễn Công Hoan xuất phát từ niềm phẫn nộ của

tác giả đối với sự giả dối bất lương, vì vậy, đối tượng hài của ông có khi phải

gánh trên vai một tiếng cười lớn hơn nó, tiếng cười ra nước mắt.

Giọng châm biếm cay độc thường hướng đến đối tượng chủ yếu là xã

hội thực dân phong kiến và những sản phẩm của nó. Chúng là lũ người giả

dối, bất nhân, lố lăng và độc ác. (Trong các truyện như: Đồng hào có ma, Đàn

bà là giống yếu, Thịt người chết)

Đoạn bình luận mở đầu truyện ngắn Đồng hào có ma đã thể hiện ngay

giọng châm biếm tố cáo. Trong khi dẫn vào mạch truyện và miêu tả ngoại

hình nhân vật, tác giả đã tố cáo bản chất tham lam, ti tiện, hống hách, ngang

ngược của tên huyện Hinh:

“Tôi cực lực công kích sách vệ sinh đã dạy ta ăn uống phải sạch sẽ, nếu

ta muốn được khỏe mạnh, béo tốt. thuyết ấy sai. Trăm lần sai! Nghìn lần sai!

Vì tôi thấy sự thực, ở đời này, bao nhiêu những anh béo, khỏe, đều là những

anh thích ăn bẩn cả… Mà rồi thằng khốn nạn ấy, ông truy cho cùng, không

còn có thể làm ăn mở mày mở mặt ra được. Bởi vì ông có sẵn trong tay hàng

mớ pháp luật, thì ông ngại gì không khép thằng bảo quan béo vào tội “làm rối

cuộc trị an”. Thế là việc công việc tư ông đều được trọn vẹn.”

Với các truyện ngắn trào phúng thì giọng điệu Nguyễn Công Hoan khá

đắc dụng. Nó hỗ trợ cho các phương diện nghệ thuật khác để tạo nên hiệu quả

to lớn. Song có thể nói, cái hài hước, giễu nhại vừa là sở trường vừa là cái tật

của ngòi bút Nguyễn Công Hoan. Trong một vài trường hợp hoàn toàn không

có gì đáng cười hoặc khó gợi ra tiếng cười thì ngòi bút Nguyễn Công Hoan

129

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

vẫn sa vào những chi tiết gây cười hoặc cố gây cười trở thành thái quá. (Gói

đồ nữ trang, Thằng ăn cắp, Hai cái bụng, Hai thằng khốn nạn, Ngậm cười…).

Chính là ở những truyện ấy mà có nhà phê bình đã cho rằng đôi lúc cái cười

của Nguyễn Công Hoan là cái cười sặc sụa, hả hê của người ngoài cuộc. Tuy

nhiên, giọng điệu hóm hỉnh, tinh quái, giọng châm biếm sâu cay của Nguyễn

Công Hoan về cơ bản vẫn là “đắc địa”.

Nguyễn Công Hoan đã thực sự tạo nên một giọng điệu riêng trong sáng

tác. Đó cũng chính là một phương diện tài năng của nhà văn. Đúng như

Turghênhép đã nói: “Cái quan trọng trong tài năng văn học… và tôi nghĩ rằng

cũng có thể trong bất kì một tài năng nào là cái mà tôi muốn gọi là “Tiếng nói

của mình”. Đúng thế, cái quan trọng là tiếng nói của mình, cái quan trọng là

giọng riêng biệt của mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một

người nào khác. Đó chính là đặc điểm phân biệt chủ yếu của một tài năng

sống độc đáo.”

Ngôn ngữ và giọng điệu ấy góp phần quan trọng làm nên thành công

của nhà văn trên con đường nghệ thuật để tất cả mọi người đều ngưỡng mộ và

ca ngợi: “Văn châm biếm của Nguyễn Công Hoan là vũ khí của cái thiện.

Chính vì các cuốn sách của ông cất tiếng tố cáo dữ dội, chính vì lòng nhiệt

thành của ông phục vụ con người mà Nguyễn Công Hoan trở nên thân yêu đối

với bạn đọc” [39, 368].

130

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

KẾT LUẬN

Nguyễn Công Hoan từng nói: “Chưa bao giờ tôi dám tự nhận là nhà

văn... Theo tôi nghĩ, một người, nếu chuyên về việc viết văn, thì hãy chỉ nên

coi mình là người viết văn. Còn như có là nhà văn hay không, là do độc giả

công nhận... ” (Đời viết văn của tôi)

Thực sự, Nguyễn Công Hoan đã được biết đến như một nhà văn có một

“đời văn lực lưỡng”! Ông trước hết là một nhà văn tiêu biểu cho sức sáng tạo

bền bỉ, mãnh liệt. Là người vinh dự cắm cột mốc có thể nói là sớm nhất mà

không kém phần sâu đậm trên con đường hiện đại hóa nền văn học Việt Nam,

nói chung Nguyễn Công Hoan được cả độc giả và các nhà phê bình đánh giá

cao tài năng nghệ thuật và tinh thần sáng tạo của ông. Ông là một tài năng

lớn, độc đáo, đặc sắc, “chưa từng có tới hai lần”, và là một nhân cách đẹp,

trung thực, chân thành và dung dị. Nói đến Nguyễn Công Hoan là nói đến

một nhà văn yêu nước, một ngòi bút chiến đấu vì lẽ phải bằng tiếng cười

chính nghĩa và tài năng trong văn chương.

Bằng tài năng của mình, Nguyễn Công Hoan đã phản ánh hiện thực

trong sự đa dạng. Ngòi bút của ông không bỏ qua bất kì một sự ngang trái,

một điều phi lí nào, dù là vấn đề của số phận cá nhân bé nhỏ đến những vấn

đề nóng bỏng của thời đại. Cuộc sống của con người diễn ra như nó có trong

thực tế với cả hai mặt bi – hài của nó.

Khi kể lại một câu chuyện, Nguyễn Công Hoan bao giờ cũng đặt các

vấn đề của truyện trong mối liên hệ lôgic, có mở đầu và có kết thúc, có những

điểm nhấn kịch tính quan trọng trong tác phẩm. Ông không kể lại câu chuyện

với một cấu trúc nghệ thuật rối rắm, khó hiểu mà ngược lại, ông tập trung vào

một vấn đề nổi bật của xã hội, hay số phận của một nhân vật cụ thể, trong sự

liên hệ với môi trường xung quanh. Các vấn đề ông đặt ra, tưởng chừng như

rất đơn giản, phổ biến trong xã hội, nhưng với cách nhìn nhận, cách viết độc

131

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

đáo của mình, ông soi tỏ chúng dưới một ánh sáng mới, khiến người đọc phải

sửng sốt và suy nghĩ về những gì ông viết.

Vì vậy, nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thực sự

trở thành một “kĩ thuật” rất tự nhiên và có nhiều ý nghĩa trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan cũng như trong dòng mạch văn học hiện đại của dân tộc

ở những thời điểm khởi đầu. Trong truyện ngắn trước Cách mạng, Nguyễn

Công Hoan thực sự rất thành công với nghệ thuật kể chuyện vừa mang đậm

yếu tố truyền thống, vừa rất mới lạ.

Trước hết, nghệ thuật tự sự Nguyễn Công Hoan chú trọng đến hình

tượng người kể chuyện. Nghệ thuật xây dựng truyện ngắn của Nguyễn Công

Hoan từ hình tượng người kể chuyện rất phong phú, đa dạng, thể hiện tài năng

của nhà văn và cũng là một yếu tố hấp dẫn bạn đọc. Người kể chuyện có sự

linh động của các điểm nhìn ở mỗi tác phẩm: điểm nhìn từ ngôi thứ nhất và

ngôi thứ ba, người kể chuyện lúc thì mang một diện mạo cụ thể và xưng “tôi”,

lúc thì hàm ẩn dưới điểm nhìn nhân vật bên trong truyện. Nhân vật, sự kiện,

biến cố được soi rọi từ nhiều góc độ trở nên rõ ràng, sống động hơn.

Hình tượng người kể chuyện có vai trò rất lớn trong việc tổ chức kết

cấu tác phẩm, tạo ra mạch tự sự của tác phẩm. Như chính Timôphiép cũng

khẳng định: “Hình tượng này có tầm quan trọng rất to lớn trong việc xây dựng

tác phẩm, bởi các quan niệm, các biến cố xảy ra, cách đánh giá các nhân vật

và biến cố, đều xuất phát từ cá nhân người kể.” [74, 204] Với các cách kể

khác nhau, cách xuất hiện khác nhau của người kể chuyện, người kể chuyện

trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan với sự tài tình, khéo léo đã kết nối các

sự kiện, chi tiết thành một mạch tự sự thống nhất, hấp dẫn cho mỗi tác phẩm.

Hình tượng người kể chuyện (nhất là kể chuyện theo điểm nhìn bên trong của

nhân vật trong truyện) cũng chứng tỏ phần nào sự tiệm cận của truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan với kĩ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết và truyện

ngắn hiện đại thế kỉ XX.

132

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Cấu trúc không gian – thời gian tự sự là yếu tố tưởng như không được

chú trọng bằng cốt truyện, bằng hành động của kiểu truyện ngắn – kịch

Nguyễn Công Hoan. Song qua quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng

đây cũng là một yếu tố nghệ thuật rất quan trọng và hiệu quả trong nghệ thuật

tự sự của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

mở ra không gian đa dạng và thời gian đa chiều. Song trong mỗi truyện ngắn,

nhằm khai thác tính trực tiếp, tính thời sự, tính kịch của sự kiện, không gian –

thời gian thường được giới hạn trong độ hạn hẹp, tù túng, bức bối. Đó không

chỉ là không gian – thời gian hiện thực đời thường mà còn là không gian thời

gian gắn liền với cảnh ngộ, tâm trạng của con người. Không gian – thời gian

ấy chính là sự mô hình hóa không gian – thời gian của thế giới hiện thực

trong con mắt nhà nghệ sĩ. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thể nghiệm nhiều

sự tìm tòi sáng tạo mới mẻ về cấu trúc thời gian tự sự, đó không còn là cấu

trúc thời gian tuyến tính như trong truyện cổ điển mà đã có sự xáo trộn thời

gian, sắp xếp thời gian, tái hiện thời gian theo những mục đích nghệ thuật

nhất định. Thời gian dồn đúc, nhịp tự sự nhanh chóng, bất ngờ là đặc điểm

thường thấy trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Luận văn lần đầu tiên đi

vào tìm hiểu không gian – thời gian tự sự như một yếu tố cấu trúc nên văn bản

văn xuôi tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, mong muốn khẳng định

một phương diện quan trọng thể hiện tài năng độc đáo của nhà văn họ Nguyễn

mà trước nay ít ai nhắc tới.

Nét độc đáo nhất trong nghệ thuật tự sự Nguyễn Công Hoan có lẽ là

sáng tạo về mặt ngôn ngữ tự sự. Với một ý thức sáng tác nghiêm túc, một sức

sáng tạo dồi dào, Nguyễn Công Hoan luôn cố gắng giữ cho lời văn và ngôn

ngữ trong truyện của ông được trong sáng, chính xác mà vẫn đậm đà bản sắc

dân tộc. Ông thường tâm sự: “Người viết văn phải có nhiệm vụ là khai thác

được đúng cái tính chất vui vẻ của tiếng nói và lối nói của dân tộc, không nên

cho là nôm na mà phải mượn tiếng nói của nước ngoài lạ với lỗ tai thông

thường Việt Nam mới cho là văn vẻ” (Đời viết văn của tôi). Nhờ ý thức sáng

133

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

tác đó mà những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan được đông đảo quần

chúng tiếp nhận và yêu thích, nó có một chỗ đứng vững vàng trong lòng

người đọc Việt Nam và trong nền văn học Việt Nam, nó góp phần làm cho

tiếng nói dân tộc thêm phong phú và bảo lưu vốn văn hóa truyền thống lâu

đời của dân tộc.

Đọc truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, người đọc luôn cảm nhận được

một giọng điệu hết sức tự nhiên, linh hoạt và đa dạng. Dường như ta không

cảm thấy mình phụ thuộc vào cách thức kể chuyện chủ quan của nhà văn,

ngược lại đôi lúc ta còn như cảm nhận một giọng điệu khách quan, lạnh lùng

của “người ngoài cuộc”. Mỗi truyện là một khám phá bất ngờ và thú vị. Nhà

văn khám phá ra không chỉ những vấn đề thuộc bề nổi mà cả những chiều sâu

trong tâm hồn, trong bản chất đạo đức của nhân vật.

Với những hiện thực đa dạng được miêu tả trong các tác phẩm, Nguyễn

Công Hoan cũng thể hiện bằng nhiều giọng điệu phù hợp với từng trường hợp

và từng hoàn cảnh cụ thể. Mỗi truyện ngắn mang một giọng điệu riêng, làm

cho giọng điệu của Nguyễn Công Hoan rất đa dạng. Nhưng ta có thể cảm

nhận sự thống nhất của các tác phẩm trong một giọng điệu chủ đạo: giọng

điệu trào phúng, trong đó lại có nhiều sắc điệu khác nhau, tạo nên một bản

hợp tấu đa thanh, đa giọng trong tác phẩm. Giọng điệu chủ yếu này cũng đóng

vai trò quan trọng trong việc thể hiện ý đồ nghệ thuật và lí tưởng thẩm mỹ của

nhà văn. Giọng điệu không chỉ bộc lộ tình cảm chủ quan của nhà văn đối với

thế giới xung quanh mà còn bộc lộ chính tác giả. Vì thế cũng có thể nói rằng

giọng điệu chính là chiếc chìa khóa để mở ra tác phẩm và tìm hiểu tác giả.

Như vậy, sự thành công của từng yếu tố đã góp phần tạo nên sự thành công

của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Người kể chuyện, không gian – thời gian tự

sự, ngôn ngữ - giọng điệu tự sự luôn được đặt trong mối quan hệ mật thiết, hữu cơ

làm nên phong cách riêng của nhà văn trong lĩnh vực truyện ngắn hiện đại.

Thế nhưng, như J.O. Gasset nói: “ Trong khi tạo ra thế giới bên trong

riêng của mình, tiểu thuyết tất yếu hủy diệt thế giới bên ngoài” [15, 209] Mục

134

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

đích cuối cùng của nghệ thuật chính là đưa lại cái nhìn về sự vật và thế giới

đầy đủ và sâu sắc hơn. Đối với truyện ngắn cũng vậy! Và truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan với những kĩ thuật tự sự độc đáo, đã đưa lại cái nhìn như thế nào

về hiện thực?

Với sáng tác Nguyễn Công Hoan, có một điều dường như thành quy

luật: những truyện hay thường là phải giàu chất kịch. Chất kịch ấy không chỉ

là một yếu tố hình thức mà còn là một yếu tố mang sức chứa lớn về tư tưởng.

Phía sau mỗi tác phẩm Nguyễn Công Hoan, tiếng cười có ý nghĩa phê phán

hết sức sâu sắc. Truyện ngắn của ông đã bắt nguồn từ sự nhận thức với tinh

thần phân tích, phê phán bản chất thối nát phản động của các quan hệ xã hội

đương thời, nhen nhóm sự bất bình đối với thực tại đen tối và biểu thị lòng

thương cảm của nhà văn đối với số phận những người cùng khổ… Truyện

ngắn của ông gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh, nâng cao khả năng nhận

thức của con người trước cuộc sống thực tại, dùng tiếng cười như một “vũ khí

của người mạnh” để tống tiễn cái lạc hậu, cái xấu xa vào dĩ vãng...

Những “kĩ thuật” tự sự của Nguyễn Công Hoan đã có đóng góp lớn trên

con đường hiện đại hóa văn học từ những ngày đầu tiên. Nhưng “một sự cấu

thành thẩm mĩ mới tuyệt nhiên không bó hẹp trong khuôn khổ của một hoặc

thậm chí nhiều phương tiện miêu tả mà là một hệ thống các hình thức nghệ

thuật có tính chất mở, luôn luôn phát triển về mặt lịch sử” [30, 12]. Do vậy đây

chính là hướng nghiên cứu mở để chúng ta nhìn về sự phát triển của phương

pháp sáng tác hiện thực phê phán và hiện thực xã hội chủ nghĩa cho đến nay,

với những cách nhìn nhận như một kiểu nhận thức nghệ thuật hiện đại.

Luận văn đã đề xuất việc nghiên cứu một tác giả thuộc giai đoạn mở

đầu của văn học hiện đại từ phương pháp nghiên cứu tự sự học - một công cụ

hữu ích cho việc vận dụng đối với các tác phẩm cụ thể. Song, như PGS. Đặng

Anh Đào có lần nói: “Khuôn khổ của lí luận vốn định hình, còn tác phẩm là

một thế giới đa dạng” [74, 178]. Các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan và

những nhà văn thuộc giai đoạn 1930 - 1945 vẫn luôn là những thế giới muôn

màu của nghệ thuật tự sự cần được khám phá.

135

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

2. Nguyễn Hoa Bằng (2000), Thi pháp truyện ngắn Nam Cao, Luận án phó tiến sĩ Ngữ văn, Viện văn học, Hà Nội.

3. Nguyễn Thị Mai Chanh (2008), Nghệ thuật tự sự của Lỗ Tấn qua hai tập truyện ngắn “Gào thét” và “Bàng hoàng”, Luận án tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Hà Nội.

4. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

5. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

6. Nguyễn Đức Dân (1988), Tiếng cười thế giới, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

7. Trịnh Bá Dĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, NXB Văn học, Hà Nội.

8. Trần Ngọc Dung (2004), Ba phong cách truyện ngắn trong văn học Việt Nam những năm 1930 - 1945: Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, NXB Thanh niên, Hà Nội.

9. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

10. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

11. Trương Đăng Dung (2004), Trên đường đến với tư duy lý luận văn học hiện đại, Nghiên cứu văn học, Số 12, Hà Nội, tr. 47 - 64.

12. Nguyễn Đức Đàn (1968), Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

13. Nguyễn Văn Đấu (2000), Chất kịch trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Công Hoan - về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.

14. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2007), Truyện ngắn Việt Nam, lịch sử - thi pháp - chân dung, NXB Giáo dục.

15. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.

136

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

16. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX - những vấn đề lịch sử và lí luận, NXB Giáo dục, Hà Nội.

17. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức (1998), Văn học Việt Nam (1900 - 1945), NXB Giáo dục, Hà Nội.

18. Phan Cự Đệ (2001), Về một nền lý luận, phê bình mácxít trong thế kỉ XX, Nhà văn, số 6.

19. Phan Cự Đệ, Lê Thị Đức Hạnh... (1991), Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân: Những bài phê bình, bình luận văn học của các nhà văn và nhà nghiên cứu Việt Nam và thế giới, NXB Tổng hợp Khánh Hòa.

20. Hà Minh Đức (chủ biên) (1997), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

21. Hà Minh Đức (2004), Đề cương về văn hoá Việt Nam và bước phát triển mới của các nhà văn, Đề cương về văn hoá Việt Nam - chặng đường 60 năm, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học, Hà Nội.

23. Nguyễn Khoa Điềm (2004), Vươn tới những thành tựu lý luận mang tính khoa học và nhân văn, Nghiên cứu văn học, Số 12, tr. 4 - 9.

24. Lê Bá Hán (1999), Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

25. Lê Thị Đức Hạnh (1991), Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

26. Lê Thị Đức Hạnh giới thiệu và tuyển chọn (2000), Nguyễn Công Hoan - Về tác gia và tác phẩm NXB Giáo dục, Hà Nội.

27. Lê Thị Tuyết Hạnh (2003), Thời gian nghệ thuật như một nhân tố cấu trúc văn bản văn xuôi nghệ thuật (Qua các truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1995), NXB Đại học sư phạm, Hà Nội.

28. Nguyễn Thị Hải Hằng (2005), Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tagore, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

29. Cao Thị Thu Hiền (2006), Nguyễn Công Hoan - dấu nối giữa dòng văn học trào phúng và trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945, Luận văn thạc

137

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

sĩ văn học, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

30. Trần Văn Hiếu (1999), Ba phong cách trào phúng trong văn học Việt Nam 1930 - 1945: Nguyễn Công Hoan - Vũ Trọng Phụng - Nam Cao, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

31. Đào Duy Hiệp (2001), Thơ và Truyện và Cuộc đời, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

32. Đào Duy Hiệp (1998), Thời gian và tiểu thuyết, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, trang 66 – 69.

33. Đào Duy Hiệp (1999), Những qui tụ thời gian trong Dưới bóng những cô gái tuổi hoa của Marcel Proust, Tạp chí văn học, số 6, trang 57 – 66.

34. Đào Duy Hiệp (2005), Các cấp độ thời gian trong truyện ngắn Chí Phèo, Nghiên cứu văn học, số 7, trang 61 – 78.

35. Đào Duy Hiệp (2003), Thời gian trong “đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.

36. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

37. Nguyễn Công Hoan (1971), Đời viết văn của tôi, NXB Văn học, Hà Nội.

38. Nguyễn Công Hoan (1998), Nhớ gì ghi nấy, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

39. Nguyễn Công Hoan (2003), Toàn tập, 5 tập, NXB Văn học, Hà Nội.

40. Nguyễn Công Hoan (2006), Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ Chí Minh, quyển 1, NXB Văn học Hà Nội.

41. Nguyễn Công Hoan (2006), Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ Chí Minh, quyển 2, NXB Văn học Hà Nội.

42. Nguyễn Công Hoan (2004), Truyện ngắn chọn lọc, Lê Minh sưu tầm biên soạn, NXB Văn học, Hà Nội.

43. Nguyễn Công Hoan (2000), Những tác phẩm tiêu biểu trước 1945, Lê Thị Đức Hạnh sưu tầm, NXB Giáo dục, Hà Nội.

44. Nguyễn Thái Hoà (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB Giáo dục, Hà Nội.

45. Tô Hoài (1997), Những gương mặt: Chân dung văn học, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

138

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

46. Lê Thị Hường (1995), Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1995, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

47. Phạm Thị Thu Hương (1995), Ba phong cách truyện ngắn trữ tình trong văn học Việt Nam 1930 - 1945: Thạch Lam - Thanh Tịnh - Hồ Dzếch, Luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội.

48. Jose Ortega Y Gasset (1996), Những ý nghĩ về tiểu thuyết, Ngân Xuyên dịch, Tạp chí Văn học nước ngoài.

49. Nguyễn Hoành Khung, Bùi Hiển, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đức Nam (2008), Truyện ngắn Việt Nam 1930 - 1945, NXB Giáo dục, tái bản lần 2, Hà Nội.

50. Nguyễn Khải (2004), Nguyễn Khải - Tạp văn, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

51. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn - tư tưởng và phong cách, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.

52. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Lời giới thiệu Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, Tập 1, NXB Văn học, Hà Nội.

53. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.

54. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình (1997), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

55. Phương Lựu (1995), Tìm hiểu lý luận văn học phương Tây hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.

56. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.

57. Manfred Jahn (2005), Trần thuật học: Nhập môn lý thuyết trần thuật, Người dịch: Nguyễn Thị Như Trang, Hà Nội, http://ww.uni-koeln.

58. MB. Khrapchenko (1984), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

59. M. Bakhtin (1998), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, NXB Giáo dục, Hà Nội.

60. M. Bakhtin (1999), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

139

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

61. Milankundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nguyên Ngọc dịch, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.

62. Milankundera (1996), Di sản bị mất giá của Cervantes, Nguyên Ngọc dịch, Tạp chí Văn học nước ngoài.

63. Nhiều tác giả (1988), Một số vấn đề tiểu thuyết hiện đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

64. Phan Ngọc, Lê Thị Đức Hạnh, Hà Minh Đức (1999), Những người lao động sáng tạo của thế kỉ, NXB Lao động, Hà Nội.

65. Nguyên Ngọc (2000), Vương Trí Nhàn, Nguyễn Kiên, Nghệ thuật truyện ngắn và kí, Tạ Duy Anh chủ biên, NXB Thanh niên, Hà Nội.

66. Hoàng Thị Phương Ngọc (2006), Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết “Linh sơn” của Cao Hành Kiện, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

67. Nguyễn Mạnh Quỳnh (2008), Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng nhìn từ lí thuyết thời gian tự sự của G. Genette, Luận án tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Hà Nội.

68. Diệp Tú Sơn (1991), Mỹ học tiểu thuyết, NXB Đông Phương, 1991 (tái bản lần 2 năm 1997), Người dịch: Nguyễn Kim Sơn, Hà Nội,2004.

69. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

70. Trần Đình Sử (chủ biên) (2004), Tự sự học - một số vấn đề lý luận và lịch sử, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội.

71. Trần Đình Sử (chủ biên) (2008), Tự sự học - một số vấn đề lý luận và lịch sử, Phần 2, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội.

72. Trần Đình Sử, Nguyễn Thanh Tú (2001), Thi pháp truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.

73. Phạm Xuân Thạch (2008), Sự hình thành hệ thống thể loại tự sự nghệ thuật trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX, Luận án tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Hà Nội.

74. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

140

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

75. Đỗ Phương Thảo (2007), Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng (Qua một số tác phẩm tiêu biểu), Luận án tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Hà Nội.

76. Nguyễn Thanh Tú (2000), Kịch hóa trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Công Hoan - về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.

77. Nguyễn Thanh Tú (1996), Từ quan niệm nghệ thuật đến nghệ thuật ngôn từ trong truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, Trường Đại học sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

78. Phùng Văn Tửu (1990), Tiểu thuyết Pháp hiện đại, những tìm tòi đổi mới, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

79. Tsec-nư-sep-xki (1963), Quan hệ thẩm mĩ của nghệ thuật đối với hiện thực, Minh Việt dịch, NXB Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.

141

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

PHỤ LỤC

Bảng 1.1: Các dạng điểm nhìn trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan.

STT Tên truyện Điểm nhìn khách quan Điểm nhìn Di

chủ quan chuyển

điểm Trần thuật Trần thuật Cái Cái

nhìn theo điểm theo điểm tôi – tôi –

nhìn tác nhìn của vai chứng

giả nhân vật chính nhân

trong truyện

1 Sóng vũ môn x

x 2 Nhân tình tôi

3 Răng con chó của nhà x

tư bản

4 Oẳn tà roằn x

5 Hai thằng khốn nạn x

6 Thật là phúc x

7 Lập goòng

8 Ngựa người và người x

ngựa

9 Nỗi vui sướng của x

thằng bé khốn nạn

10 Bố anh ấy chết x

11 Quan tham nửa giờ x

12 Ông chủ báo chẳng x

bằng lòng

13 Chuyện chó chết x

14 Thế là mợ nó đi Tây x

142

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

15 Xin chữ cụ nghè x

16 Gói đồ nữ trang x

17 Thằng ăn cắp x

18 Kìa! Con.. x x

19 Samandji x

20 Giết nhau x

21 Báo hiếu: trả nghĩa cha x

22 Báo hiếu: trả nghĩa mẹ x

23 Vợ x

24 Xà lù! x

25 Cụ Chánh Bá mất giày x

26 Cô Kếu, gái tân thời x

27 Mất cái ví x

28 Kép Tư Bền x

29 Ái tình tiểu thuyết x

30 Cái ví ấy của ai x

31 Cái vốn để sinh nhai x

32 Cái nạn ô-tô x

33 Bà chủ mất trộm x

34 Đàn bà là giống yếu x

35 Tôi chủ báo, anh chủ x

báo, nó chủ báo.

36 Thày cáu x

37 Một tấm gương sáng x

38 Cái thú tổ tôm x

39 Bữa no...đòn x

40 Cho tròn bổn phận x

143

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

41 Godautre x

42 Samandji II x x

43 Thanh! Dạ! x

44 Thế cho nó chừa x

45 Thằng điên x

46 Ngậm cười x

47 Kiếp tài tình x

48 Mánh khóe x

49 Nỗi lòng ai tỏ x

50 Nhân tài x

51 Xuất giá tòng phu x

52 Một tin buồn x

53 Đào kép mới x

54 Cái lò gạch x

55 Nghĩ người ăn gió nằm x

mưa dám xa xôi mặt

mà thưa thớt lòng

56 Được chuyến khách x

57 Anh xẩm x

58 Thằng Quýt I x

59 Thằng Quýt II x

60 Tựa cửa chiều hôm x

61 Quyền chủ x

62 Phành phạch x

63 Tôi cũng không hiểu x

tại làm sao I

64 Tôi cũng không hiểu x

144

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

tại làm sao II

65 Chiến tuyến binh x

66 Chiếc quan tài x

67 Đồng hào có ma x

68 Chuyến tàu Nam x

69 Thằng ăn cướp x

70 Hé! Hé! Hé! x

71 Nạn râu x

72 Chiếc đèn pin x

73 Cấm chợ x

74 Mua bánh x

75 Trần thiệu, Lê Văn Hà x

76 Con ngựa già x x

77 Mưu làng bẹp x

78 Tinh thần thể dục x x

79 Thịt người chết x

80 Sáu mạng người x

81 Tôi tự tử x

82 Giá ai cho cháu một x

hào

83 Gánh khoai lang x

84 Danh lợi lưỡng toàn x

85 Phúc tinh x

86 Biểu tình x

87 Mua lợn x

88 Ngượng mồm x

89 Đi giày x

145

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

90 Chính sách thân dân x x

91 Sáng, chị phu mỏ x

x 92 Hai cái bụng

x 93 Cậu ấy may lắm đấy

x 94 Tấm giấy một trăm

x 95 Lại chuyện con mèo

x 96 Chiến tranh

97 Thụt két x

98 Thiếu Hoa x

x 99 Người vợ lẽ bạn tôi

100 Cái tết của những nhà x

đại văn hào

101 Công dụng của cái x

miệng

102 Người thứ ba x

103 Con ve x

65 11 14 11 5 Tổng (truyện)

146

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Bảng 2.1: Không gian trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan trƣớc Cách

mạng tháng Tám năm 1945.

Tên truyện Chợ Căn Đườn Đám Công Sân Khác: ST

phòng, g, phố ma đường khấu chiến T

ngôi trường

nhà , làng,

ô tô…

1 Sóng vũ môn x

2 Nhân tình tôi x

3 Răng con chó của nhà x

tư bản

4 Oẳn tà roằn x x

5 Hai thằng khốn nạn x

6 Thật là phúc x x

7 Lập goòng x

8 Ngựa người và người x

ngựa

9 Nỗi vui sướng của x

thằng bé khốn nạn

10 Bố anh ấy chết x

11 Quan tham nửa giờ x

12 Ông chủ báo chẳng x

bằng lòng

13 Chuyện chó chết cái x x

thâm ý của anh chàng

sợ vợ

14 Thế là mợ nó đi Tây x

147

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

15 Xin chữ cụ nghè x

16 Gói đồ nữ trang x

17 Thằng ăn cắp x

18 Kìa! Con.. x

19 Samandji x

20 Giết nhau x

21 Báo hiếu: trả nghĩa x x

cha

22 Báo hiếu: trả nghĩa x x x

mẹ

23 Vợ x

24 Xà lù! x

25 Cụ Chánh Bá mất x

giày

26 Cô Kếu, gái tân thời x

27 Mất cái ví x

28 Kép Tư Bền x

29 ái tình tiểu thuyết x

30 Cái ví ấy của ai x

31 Cái vốn để sinh nhai x

32 Cái nạn ô-tô x

33 Bà chủ mất trộm x

34 Đàn bà là giống yếu x

35 Tôi chủ báo, anh chủ x

báo, nó chủ báo.

36 Thày cáu x

37 Một tấm gương sáng x

148

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

38 Cái thú tổ tôm x

39 Bữa no...đòn x

40 Cho tròn bổn phận x

41 Godautre x

42 Samandji II x

43 Thanh! Dạ! x

44 Thế cho nó chừa x

45 Thằng điên x

46 Ngậm cười x

47 Kiếp tài tình x

48 Mánh khóe x

49 Nỗi lòng ai tỏ x

50 Nhân tài x

51 Xuất giá tòng phu x

52 Một tin buồn x

53 Đào kép mới x

54 Cái lò gạch x

55 Nghĩ người ăn gió x

nằm mưa dám xa xôi

mặt mà thưa thớt lòng

56 Được chuyến khách x

57 Anh xẩm x

58 Thằng Quýt I x

59 Thằng Quýt II x

60 Tựa cửa chiều hôm x

61 Quyền chủ x

62 Phành phạch x

149

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

63 Tôi cũng không hiểu x

tại làm sao I

64 Tôi cũng không hiểu x

tại làm sao II

65 Chiến tuyến binh x

66 Chiếc quan tài x

67 Đồng hào có ma x

68 Chuyến tàu Nam x

69 Thằng ăn cướp x

70 Hé! Hé! Hé! x

71 Nạn râu x

72 Chiếc đèn pin x

73 Cấm chợ x

74 Mua bánh x

75 Trần thiệu, Lê Văn x

76 Con ngựa già x

77 Mưu làng bẹp x

78 Tinh thần thể dục x

79 Thịt người chết x

80 Sáu mạng người x

81 Tôi tự tử x

x 82 Giá ai cho cháu một

hào

x 83 Gánh khoai lang

x 84 Danh lợi lưỡng toàn

x 85 Phúc tinh

150

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

x x 86 Biểu tình

x x 87 Mua lợn

x 88 Ngượng mồm

x 89 Đi giày

90 Chính sách thân dân x

91 Sáng, chị phu mỏ x

92 Hai cái bụng x

93 Cậu ấy may lắm đấy x

94 Tấm giấy một trăm x

95 Lại chuyện con mèo x

x 96 Chiến tranh

97 Thụt két x

98 Thiếu Hoa x

99 Người vợ lẽ bạn tôi x

100 Cái tết của những nhà x

đại văn hào

x 101 Công dụng của cái

miệng

x 102 Người thứ ba

103 Con ve x

4 6 54 22 10 3 10 Tổng (truyện)

151

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

Bảng 2.2: Trình tự kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Tên truyện Trình Trình tự biên Thời gian ST

niên kết hợp đồng hiện tự T

biên sai trật niên

niên biểu

x 1 Sóng vũ môn

2 Nhân tình tôi x

3 Răng con chó của nhà tư bản x

4 Oẳn tà roằn x

5 Hai thằng khốn nạn x

6 Thật là phúc x

7 Lập goòng x

8 Ngựa người và người ngựa x

9 Nỗi vui sướng của thằng bé khốn x

nạn

10 Bố anh ấy chết x

11 Quan tham nửa giờ x

12 Ông chủ báo chẳng bằng lòng x

13 Chuyện chó chết cái thâm ý của x

anh chàng sợ vợ

14 Thế là mợ nó đi Tây x

15 Xin chữ cụ nghè x

16 Gói đồ nữ trang x

17 Thằng ăn cắp x

18 Kìa! Con.. x

19 Samandji x

152

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

20 Giết nhau x

21 Báo hiếu: trả nghĩa cha x

22 Báo hiếu: trả nghĩa mẹ x

23 Vợ x

24 Xà lù! x

25 Cụ Chánh Bá mất giày x

26 Cô Kếu, gái tân thời x

27 Mất cái ví x

28 Kép Tư Bền x

29 Ái tình tiểu thuyết x

30 Cái ví ấy của ai x

31 Cái vốn để sinh nhai x

32 Cái nạn ô-tô x

33 Bà chủ mất trộm x

34 Đàn bà là giống yếu x

35 Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ x

báo.

36 Thày cáu x

37 Một tấm gương sáng x

38 Cái thú tổ tôm x

39 Bữa no...đòn x

40 Cho tròn bổn phận x

41 Godautre x

42 Samandji II x

43 Thanh! Dạ! x

44 Thế cho nó chừa x

45 Thằng điên x

153

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

46 Ngậm cười x

47 Kiếp tài tình x

48 Mánh khóe x

49 Nỗi lòng ai tỏ x

50 Nhân tài x

51 Xuất giá tòng phu x

52 Một tin buồn x

53 Đào kép mới x

54 Cái lò gạch x

55 Nghĩ người ăn gió nằm mưa dám x

xa xôi mặt mà thưa thớt lòng

56 Được chuyến khách x

57 Anh xẩm x

58 Thằng Quýt I x

59 Thằng Quýt II x

60 Tựa cửa chiều hôm x

61 Quyền chủ x

62 Phành phạch x

92 Hai cái bụng x

Bảng 2.3: Thời gian câu chuyện và thời gian văn bản trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Stt Tên truyện Thời gian Thời gian câu Thời gian sự

văn bản chuyện kiện chính

Sóng vũ môn 16,5 4 năm 1 năm 1

Nhân tình tôi 5 20 ngày 1 tối 2

Răng con chó của nhà tư 4,5 1 tiếng 1 tiếng 3

154

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

bản

4 Oẳn tà roằn vài tháng 2 ngày 7

5 Hai thằng khốn nạn mấy tháng 2 tiếng 3,5

6 Thật là phúc 1 tối vài giờ 4,5

7 Lập goòng 1 ngày 1 ngày 4

8 Ngựa người và người 6 tiếng 6 tiếng 8

ngựa

9 Nỗi vui sướng của thằng 7 1 năm 1 tiếng

bé khốn nạn

10 Bố anh ấy chết 1 tuần 1 tuần 6

11 Quan tham nửa giờ 1 ngày nửa giờ 4,5

12 Ông chủ báo chẳng bằng 11 3 ngày 1 buổi sáng

lòng

13 Chuyện chó chết cái 10 10 năm 1 ngày

thâm ý của anh chàng sợ

vợ

14 Thế là mợ nó đi Tây 3 năm 9 tháng 3 năm 9 tháng 9,5

15 Xin chữ cụ nghè 1 ngày vài phút 3,5

16 Gói đồ nữ trang 1 sáng: vài vài tiếng 5

tiếng

1 ngày hơn 10 phút 17 Thằng ăn cắp 6

1 ngày 1 ngày 18 Kìa! Con.. 5,5

2 tháng 19 Samandji 4,5

1 ngày 1 ngày 20 Giết nhau 6

21 Báo hiếu: trả nghĩa cha nhiều năm gần 1 tiếng 5,5

5 ngày 5 ngày 22 Báo hiếu: trả nghĩa mẹ 5,5

1 năm 1 tháng 23 Vợ 4

155

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

24 Xà lù! <1 tiếng <1 tiếng 5,5

25 Cụ Chánh Bá mất giày 1 tháng 1 tối 5

26 Cô Kếu, gái tân thời không xác không xác 4

định định

27 Mất cái ví một sáng một sáng 6,5

28 Kép Tư Bền 3 năm 1 đêm 7

29 ái tình tiểu thuyết không xác không xác 6,5

định định

30 Cái ví ấy của ai nửa ngày nửa ngày 7,5

31 Cái vốn để sinh nhai nửa tháng nửa ngày 4

32 Cái nạn ô-tô vài ngày vài ngày 4

33 Bà chủ mất trộm 1 tháng 1 ngày 4,5

34 Đàn bà là giống yếu 5 năm 1 đêm 6

35 Tôi chủ báo, anh chủ báo, 8 6 tháng 6 tháng

nó chủ báo.

36 Thày cáu 6,5 1chiều 1 chiều

37 Một tấm gương sáng mười mấy 1 ngày 5

năm nay

38 Cái thú tổ tôm 1 buổi chơi 1 buổi chơi 5

bài bài

vài giờ vài giờ 39 Bữa no...đòn 4,5

1 năm 3 ngày 40 Cho tròn bổn phận 4,5

không xác không xác 41 Godautre 13

định định

2 ngày 2 ngày 42 Samandji II 11

vài tiếng vài tiếng 43 Thanh! Dạ! 5,5

3 tháng 3 tháng 44 Thế cho nó chừa 6

156

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

45 Thằng điên 5,5 vài tháng 2 ngày

46 Ngậm cười 4,5 8 tháng

47 Kiếp tài tình 7 2 năm 1 ngày

48 Mánh khóe 7,5 2 ngày 2 ngày

49 Nỗi lòng ai tỏ 5,5 nửa ngày vìa tiếng

50 Nhân tài 5,5 vài ngày vài ngày

51 Xuất giá tòng phu 6,5 >1 tiếng >1 tiếng

52 Một tin buồn 7 13 ngày mấy ngày

53 Đào kép mới 7,5 mấy tháng một tối

54 Cái lò gạch 15 3 tháng nay 3 ngày

14 55 Nghĩ người ăn gió nằm >1 năm 1 ngày

mưa dám xa xôi mặt mà

thưa thớt lòng

5 56 Được chuyến khách >10 năm 1 ngày

57 Anh xẩm 3,5 một ngày một ngày

58 Thằng Quýt I 8,5 8 tháng 10 một tối

ngày

9,5 59 Thằng Quýt II >20 ngày mấy hôm nay

4,5 60 Tựa cửa chiều hôm 7 năm 7 năm

5,5 61 Quyền chủ vài tiếng vài tiếng

157