®¹i häc th¸i nguyªn Trêng ®¹i häc s ph¹m ----------------------
NguyÔn ThÞ Mai H¬ng
NghÖ thuËt x©y dùng nh©n vËt trong tiÓu thuyÕt Cña nhÊt linh qua '®«i b¹n" vµ "bím tr¾ng"
LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc ng÷ v¨n
Th¸i Nguyªn. 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
®¹i häc th¸i nguyªn Trêng ®¹i häc s ph¹m ----------------------
NguyÔn ThÞ Mai H¬ng
NghÖ thuËt x©y dùng nh©n vËt trong tiÓu thuyÕt Cña nhÊt linh qua '®«i b¹n" vµ "bím tr¾ng"
Chuyªn ngµnh: V¨n häc ViÖt Nam M· sè: 60.22.34
LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc ng÷ v¨n Người hướng dẫn khoa học TS.Ngô Văn Thư
Th¸i Nguyªn. 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Môc lôc
A. Më ®Çu .............................................................................................................................. 1 1. Lý do chän ®Ò tµi ................................................................................................................... 1
2. LÞch sö vÊn ®Ò ....................................................................................................................... 2
3. §èi tîng, ph¹m vi nghiªn cøu .......................................................................................... 11
4. Ph¬ng ph¸p nghiªn cøu ................................................................................................... 12
5. §ãng gãp cña luËn v¨n ...................................................................................................... 13
6. CÊu tróc luËn v¨n .............................................................................................................. 13
B. Néi dung ........................................................................................................................ 15
Ch¬ng I ............................................................................................................................. 15
Quan niÖm tiÓu thuyÕt, nh©n vËt tiÓu thuyÕt Hai kiÓu tiÓu thuyÕt cña NhÊt Linh 1.1 Quan niÖm tiÓu thuyÕt vµ nh©n vËt tiÓu thuyÕt ............................................................... 15
1.1.1. Quan niÖm tiÓu thuyÕt ............................................................................................ 15
1.1.2. Quan niÖm nh©n vËt tiÓu thuyÕt .............................................................................. 19
1.2. Quan niÖm cña NhÊt Linh vÒ tiÓu thuyÕt ...................................................................... 22
1.3. Hai kiÓu tiÓu thuyÕt cña NhÊt Linh ................................................................................ 26
1.3.1. TiÓu thuyÕt luËn ®Ò .................................................................................................. 26
1.3.2 TiÓu thuyÕt t©m lý .................................................................................................... 30
TiÓu kÕt ch¬ng I ................................................................................................................... 35
Ch¬ng II ........................................................................................................................... 37
Nh©n vËt vµ kÕt cÊu cèt truyÖn trong §«i b¹n vµ Bím tr¾ng 2.1. Quan niÖm cña NhÊt Linh vÒ con ngêi ....................................................................... .37
2.1.1. Quan niÖm vÒ con ngêi trong v¨n häc ................................................................. .37
2.1.2. Quan niÖm vÒ con ngêi trong s¸ng t¸c cña NhÊt Linh ....................................... .40
2.2. Quan hÖ gi÷a cèt truyÖn vµ sù thÓ hiÖn nh©n vËt trong tiÓu thuyÕt cña NhÊt Linh .... .46
2.2.1. VÊn ®Ò cèt truyÖn cña tiÓu thuyÕt .......................................................................... .46
2.2.2. TiÕn tr×nh cèt truyÖn: Trong tiÓu thuyÕt luËn ®Ò x· héi vµ tiÓu thuyÕt t©m lý ... ..48
2.3. Hµnh tr×nh sè phËn vµ hµnh tr×nh néi t©m trong §«i b¹n ......................................... ..53
2.3.1. §«i b¹n mét tiÓu thuyÕt luËn ®Ò x· héi víi nhiÒu yÕu tè t©m lý ........................ ..53
2.3.2. Con ngêi hµnh ®éng vµ con ngêi suy tëng ë §«i b¹n ................................. ..58
2.4. Hµnh tr×nh cña nh©n vËt trong Bím tr¾ng ................................................................ ..62
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2.4.1. Bím tr¾ng mét tiÓu thuyÕt t©m lý ..................................................................... ..62
2.4.2. Cèt truyÖn cña tiÓu thuyÕt Bím tr¾ng ............................................................... ..67
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2.4.3. Hµnh tr×nh t©m lý nh©n vËt chÝnh trong tiÓu thuyÕt Bím tr¾ng.68
TiÓu kÕt ch¬ng II ............................................................................................................... ..72
CH¦¥NG III: C¸c thñ ph¸p x©y dùng nh©n vËt trong §«i b¹n vµ Bím tr¾ng ................................................................................................................................................ .74 3.1. C¸c thñ ph¸p thÓ hiÖn thÕ giíi bªn trong cña nh©n vËt trong §«i b¹n vµ Bím tr¾ng
............................................................................................................................................... ..74
3.1.1. §èi tho¹i t©m lý .................................................................................................... ..74
3.1.1.1. §èi tho¹i mang tÝnh chÊt ¸m chØ ................................................................. ..75
3.1.1.2. §èi tho¹i qua hµnh vi vµ cö chØ ................................................................... ..80
3.1.2. §éc tho¹i néi t©m ................................................................................................ ..83
3.1.3. ThÓ hiÖn t©m lý nh©n vËt qua t¶ c¶nh thiªn nhiªn ........................................... ..90
3.2. M« t¶ h×nh thøc bªn ngoµi cña nh©n vËt trong mèi quan hÖ víi thÕ giíi néi t©m s©u kÝn ..93
TiÓu kÕt ch¬ng III ............................................................................................................... ..98
C. KÕt luËn ..................................................................................................................... ..99
Tµi liÖu tham kh¶o ................................................................................................... 103
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
A - MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 1941, trên báo Thanh Nghị , Đinh Gia Trinh đã kết thúc bài tiểu luận
bàn về tính cách văn chương thời kì Âu hoá như sau:
“ Văn chương Việt Nam xưa biểu hiện cho một tinh thần của một Á Đông
chưa đem đời sống của nó hoà nhịp với đời sống của Tây Phương và của hoàn
cầu. Trong khoảng non một thế kỉ này , trong sự sống chung với người Pháp ,
chúng ta đã hưởng thụ nhiều cái mới lạ của văn minh Âu Châu. Những thói cũ ở
văn nghệ , ở triết học đối với chúng ta không có một giá trị tu yệt đối như xưa
nữa. Chúng ta đã ra khỏi căn nhà nhỏ của ta để ý nhìn những miền trời xa rộng
và do những điều trông thấy, cảm thấy, chúng ta đã đổi một ít phương châm xét
đoán của giá trị tư tưởng và nghệ thuật của nước nhà. “ Sự cách mệnh tinh thần
ấy đã làm nảy nở ra một nền văn chương mới ở đầu thế kỉ thứ XX này [43, 32-
33].
Những nhận xét trên phần nào nói lên được một thực tế, đó là quá trình
hiện đại hoá của Văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Với quá trình ấy, thời trung
đại đi dần tới chung cục và ánh sáng của một thời đại mới - thời hiện đại - lan
toả dần vào văn học dân tộc; văn học Việt Nam bước ra khỏi quỹ đạo vùng
Đông Á để ra nhập quỹ đạo toàn thế giới và không bị lạc lõng trong quỹ đạo ấy.
Quá trình hiện đại hoá của văn học Việt Nam đã diễn r a một cách đặc
biệt, mau lẹ và phức tạp trên tất cả các phương diện, các tiêu chí định tính nền
văn học, trong đó có tiêu chí thể loại. Trên con đường hiện đại hoá, hệ thống văn
học thể loại truyền thống từng bị phá vỡ để dần dần hình thành nên một cấu trúc
thể loại của văn học hiện đại. Trong cấu trúc ấy “Tiểu thuyết xuất hiện và được
hiện đại hoá dưới ảnh hưởng của tiểu thuyết Phương Tây ” [21, 50], quan sát
những bước đi của thể loại ấy ta sẽ ít nhiều thấy được hành trình của cả nền văn
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
học.
Mặt khác, ngay trong quá trình sáng tác của một tác giả nhiều khi cũng
thể hiện phần nào đó sự vận động của nền văn học. Nhất Linh - Nguyễn Tường
Tam (1906-1963) là một tác gi ả như vậy . Ông bắt đầu sáng tác từ những năm
20, thành công hơn cả những năm 30 và kết thúc sự nghiệp cầm bút của mình
vào đầu những năm 60 của thế kỉ XX. Trong quá trình đó, các tác phẩm của ông
- chủ yếu ở thể loại tiểu thuyết "biến đổi rất mau” (Vũ Ngọc Phan) về nội dung
tư tưởng cũng như về hình thức nghệ thuật.
Đã có nhiêu bài viết, công trình nghiên cứu về những thành tựu nghệ thuật
của Nhất Linh. Nhưng dường như ít đi sâu vào mặt nghệ thuật xây dựng nhân
vật trong những tác phẩm cụ thể, đặc biệt là hai tiểu thuyết “Đôi Bạn ” và “
Bướm trắng”.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Nghệ thuật xây dựng
nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh qua “Đôi bạn ” và “Bướm trắng” làm
đối tượng nghiên cứu, với mon g muốn có thể góp một tiếng nói, một ý kiến
trong sự nghiên cứu chung và tìm hiểu rõ hơn nghệ thuật xây dựng nhân vật
trong sự vận động của một thể loại ở quá trình sáng tác của một tác giả. Từ “Đôi
bạn” đến “Bướm trắng”là hai tác phẩm tiêu biểu của Nhất Linh, là mốc chính
cho sự quan sát quá trình vận động thể loại tiểu thuyết luận đề sang tiểu thuyết
tâm lý, một bước tiến dài, là một thành tựu mới trong sự nghiệp văn chương của
Nhất Linh, một bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự đổi mới trong tư tưởng cũng
như về mặt nghệ thuật tiểu thuyết của ông. Nói như Phạm Thế Ngũ: đến “Bướm
trắng có thể coi như giai đoạn thành tựu của một văn tài đã chín” [ 30, 151]
2.Lịch sử vấn đề
Sự xuất hiện của Nhất Linh gắn liền với sự ra đời của một tổ chức văn học
có tên “Tự lực văn đoàn” dưới sự dẫn đạo của ông “đã làm mưa làm gió trên văn
đàn”, đã góp phần làm thay đổi diện mạo văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX.
Bởi vậy, số lượng bài viết và các công trình nghiên c ứu về tác giả này khá
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phong phú, đề cập đến nhiều phương diện về con người và văn nghiệp . Trong
khuôn khổ vấn đề nghiên cứu, chúng tôi chủ yếu dừng lại khảo sát các ý kiến
trực tiếp liên quan tới nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất
Linh nói chung và hai tiểu thuyết “Đôi bạn” và “Bướm trắng” nói riêng, sắp xếp
chúng theo trình tự thời gian nhằm tái hiện một cách khách q uan những quan
điểm đánh giá ấy.
2.1. Các ý kiến đánh giá về nghệ thuật tiểu thuyết và xây dựng nhân vật trong
tiểu thuyết của Nhất Linh
Ngay từ khi xuất hiện trên văn đàn, tiểu thuyết của Nhất Linh đã thu hút
được sự chú ý của bạn đọc và giới nghiên cứu, phê bình. Các nhà nghiên cứu
phê bình văn học cùng thời với Nhất Linh, đã có nhiều bài viết đánh giá sâu sắc,
phản ánh đúng vai trò đi tiên phong trong lĩnh vực đổi mới văn học, trong đó
cũng đề cập đến phương diện nghệ thuật xây dựng nhân vật tiểu thuyết . Tiêu
biểu là các tác phẩm và bài viết như: Bài viết về Đoạn tuyệt (đăng trên báo Loa
năm 1935); về Lạnh lùng (đăng trên báo Hữu Ích năm 1937) của Trương Tửu;
tác phẩm Dưới mắt tôi (1939) của Trương Chính ; Việt Nam văn học sử yếu
(1941) của Dương Quảng Hàm ; Nhà văn hiện đại (1942) của Vũ Ngọc
Phan…Khẳng định giá trị của Đoạn tuyệt trong tác phẩm Dưới mắt tôi (1939)
Trương Chính cũng đề cao nghệ thuật xây dựng nhân vật ở đây “Đoạn tuyệt là
một kiệt tác trong văn học Việt Nam hiện đại. Vì Đọan tuyệt không chỉ có giá trị
xã hội, nó còn có một giá tr ị tâm lí không ai chối cãi được. Ông Nhất Linh đã
dùng một cách quan sát rất tinh vi để tả những trạng thái phiền phức trong tâm
hồn riêng của nhân vật trong truyện để đi sâu vào đời riêng tư của họ” [6, 18].
Với Lạnh lùng, ông tiếp tục khẳng định: “Không thể lọt qua trí quan sát của ông,
những tư tưởng ta giấu kín tận đáy lòng như những con vật xấu xa. Người trong
truyện vì thế mà linh động ” [6, 27].
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cũng nêu lên những nhận định khái quát
về nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh như sau: “Nếu đọc Nhất Linh, từ Nho
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phong cho đến những t iểu thuyết gần đây nhất của ông, người ta thấy tiểu
thuyết của ông biến đổi rất mau. Ông viết từ tiểu thuyết ái tình, tiểu thuyết tình
cảm, qua tiểu thuyết luận đề, đến tiểu thuyết tâm lí; sự tiến hoá ấy chứng tỏ rằng
mỗi ngày ông càng muốn đi sâu vào tâm hồn con người ta ” [35, 234]. Nhìn
chung, các ý kiến đánh giá về nghệ thuật ti ểu thuyết của Nhất Linh thời kì này
chưa thật sự phong phú. Có ý kiến thì đề cao , có ý kiến thì nghiêm khắc nhìn
nhận, nhưng nhìn một cách bao quát , tất cả các nhà nghiên cứu đều thừa nhận
phương diện đổi mới trong nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh.
Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám, trong thời đại lịch sử mới, những ý
kiến đánh giá về nghệ thuật Tự lực văn đoàn nói chung và tiểu thuyết Nhất Linh
nói riêng có nhiều ảnh hưởng sâu sắc. Thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp
(1946-1954), trong xu thế khẳng định của nền văn học Cách mạng, Đoạn tuyệt
(1935) với những cái được coi là uỷ mị, sầu thảm cũng như ý thức đề cao cá
nhân của văn học lãng mạn , các nhà nghiên cứu hầu như không lưu tâm t ới
những tác phẩm của Nhất Linh, phải tới sau những năm 1954, chúng mới được
nghiên cứu trở lại . Nhưng do tình hình chính trị của đất nước mà việc nghiên
cứu về Nhất Linh cũng được chia thành hai bộ phận theo hai miền Nam - Bắc.
Trên thực tế, lối phê bình thời kì này chủ yếu dựa trên quan điểm xã hội học và
bị chi phối bởi tư tưởng chính trị. Mặt khác, tư tưởng chính trị của Nhất Linh có
thay đổi theo chiều hướng tiêu cực khi ông chuyển vào miền Nam t hành lập
chính phủ thân Nhật.
Vì thế mà nảy sinh một hiện tượng: Trên phương diện tư tưởng, tiểu thuyết của
Nhất Linh được đề cao ở miền Nam, bị phê phán ở miền Bắc , nhưng trên
phương diện nghệ thuật có điểm gặp gỡ giữa các nhà nghiên cứu hai miền.
Ở miền Nam, nghiên cứu về Nhất Linh, bên cạnh những bài báo đăng trên
những tạp trí Văn và Văn học, chúng ta phải kể đến các chuyên luận, các công
trình văn học sử viết dưới dạng giáo trình dùng trong các trường trung học, đại
học. Tiêu biểu là các công trình của Nguyễn Văn Xung ( Bình giảng về Tự lực
văn đoàn, 1958), Phạm Thế Ngũ (Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, 1960),
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lê Hữu Mụ c (Khảo luận về Đoạn tuyệt, tức luận về Nhất Linh,1960), Doãn
Quốc Sỹ (Tự lực văn đoàn, 1960), Thanh Lãng (Văn học thế hệ 1932, in trong:
Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ , 1967), Bùi Xuân Bào ( Le roman
Vietnamien contemporain, 1972), Vũ Hân ( Văn học Việt Nam thế kỷ XIX tiền
bán thế kỷ XX : 1800-1945, 1973), Thế Phong ( Nhà văn tiền chiến 1930 - 1940,
1974) …
Trong cuốn Bình giảng về Tự lực văn đoàn , Nguyễn Văn Xung , với cái
nhìn so sánh với Kh ái Hưng, cho rằng “Nhất Linh không phải tả cảnh như Khái
Hưng nhưng là để móc vào đấy những biến đổi uyển chuyển trong tình cảm của
nhân vật “ [ 47, 65]. Còn Lê Hữu Mục thì khẳng định: “Nhất Linh có những
nhận xét tâm lý rất tinh luyện (…) Nhân vật Nhất Linh sống với những cảm xúc
rất phức tạp” [29, 90], Thanh Lãng cho rằng trong việc xây dựng nhân vật của
Nhất Linh càng về sau “càng bỏ sự động đạt để đi vào con đường phân tích tỉ
mỉ, bình lặng, tình cảm ” [ 19, 747], Phạm Thế Ngũ thì nhận xét về nghệ thuật
xây dựng nhân vật Nhung trong tiểu thuyết Lạnh lùng là “tâm lí ái tình được ghi
nhận và diễn đạt một cách khá vi diệu (…) Người ta thấy ảnh hưởng của Prust
và Frend nữa trong cái bút pháp của tác giả mô tả ái tình, dục tình, trỗi dậy trong
lòng Nhung ” [30, 463] .
Ý kiến có thể là hơi quá đề cao, song qua đó, chúng tôi nhận thấy các nhà
nghiên cứu phê bình ở đây đã chỉ ra được những đổi mới về phương diện nghệ
thuật thể hiện nhân vật của Nhất Linh ở hai thể loại tiểu thuyết.
Ở miền Bắc, các công trình của nhóm Lê Quý Đôn (Lược thảo lịch sử văn
học Việt Nam, tập 3 - từ giữa thế kỉ XIX đến năm 1945, 1957), của Bạch Năng
Thi - Phan Cự Đệ ( Văn học Việt Nam 1930 -1945, tập 1 , 1961), bài viết của
Nguyễn Đức Đàn (Mấy ý kiến về Nhất Linh và Khái Hưng - Hai nhà văn tiêu
biểu trong Tự lực văn đoàn, 1958)… đã cho thấy một cách nhìn khá khách quan
về tiểu thuyết của Nhất Linh.
Nhóm Lê Quý Đôn nhận xét rằng với tiểu thuyết Tự lực văn đoàn “cả một
thế giới tâm tình trước kia hé mở một cách rụt rè, e lệ, bây giờ được phơi bầy
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mổ xẻ tinh vi” [9,296], “Nhất Linh thành công ở cách bố trí truyện , cách sử
dụng cảnh vật xung quanh để làm nổi bật tâm lí nhân vật” [9, 331]. Bạch Năng
Thi trong cuốn Văn học Vi ệt Nam 1930-1945 đã khẳng định : “Nhất Linh ngó
sâu vào mâu thuẫn trong tâm hồn; tấn bi kịch âm ỉ, đôi lúc bùng ra, luôn luôn có
sức hấp dẫn” [41, 107].
Do nhìn nhận tác phẩm văn h ọc theo quan điểm xã hội học nên nhìn
chung, các ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu cả hai miền Nam - Bắc phần
lớn rơi vào phán xét tiểu thuyết của Nhất Linh theo quan điểm đạo đức xã hội.
Nhưng một số ý kiến đã đề cập đến sự đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết Nhất Linh,
trong đó có nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Bước vào giai đoạn sau Đại hội Đảng VI (1986); trong xu thế đổi mới ,
một số hiện tượng văn học quá khứ được nhìn nhận, đánh giá lại và được đánh
giá toàn diện hơn , trong đó nổi bật lên là những tác phẩm của Nhất Linh. Các
công trình nghiên cứu của các tác giả như: Phan Cự Đệ ( Tự lực văn đoàn - con
người và văn chương), Hà Minh Đức ( Các bài giảng về Đoạn tuyệt , Đôi bạn
trong tác phẩm văn học 1930 -1945); Trương Chính (Vấn đề đánh giá Tự lực
văn đoàn; Tự lực văn đoàn; Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết
Tự lực văn đoàn ); Nguyễn Hoành Khung (Văn học Việt Nam 1930 -1945; Lời
giới thiệu bộ sách Văn xuôi lãng mạn trong văn học Việt Nam từ đầu những năm
1930 đến 1945), Trần Đình Hượu (Tự lực văn đoàn, nhìn từ góc độ tính liên tục
của lịch sử qua bước ngoặt hiện đại hoá trong lịch sử văn học Phương Đông);
Nguyễn Trác - Đái Xuân Linh (Về Tự lực văn đoàn), Lê Thị Đức Hạnh (Thêm
mấy ý kiến đánh giá về tự Tự lực văn đoàn ; Tự lực văn đoàn và Thơ mới ); Vu
Gia (Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hoá văn học), Lê Thị Dục Tú ( Quan
niệm về con người trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn), Trịnh Hồ Khoa
(Những đóng góp của Tự lực văn đoàn xây dựng cho một nền văn xuôi Việt Nam
hiện đại), Vũ Thị Khánh Dần ( Tiểu thuyết của Nhất Linh trước Cách mạng
tháng Tám), Dương Thị Hương ( Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong tiểu
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thuyết Tự lực văn đoàn)… đã thể hiện một sự đánh giá phong phú một cách nhìn
toàn diện, đúng đắn và đa chiều về tiểu thuyết Tự lực văn đoàn cũng như tiểu
thuyết Nhất Linh.
Chúng tôi có thể dẫn ra đây một số ý kiến tiêu biểu. Chẳng hạn, Dương
Thị Hương trong công trình nghiên cứu của m ình về Nghệ thuật miêu tả tâm lý
nhân vật trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã khẳng định tiểu thuyết luận đề của
Nhất Linh “thành công và chiếm được cảm tình của giới trẻ đương thời vì đã thể
hiện được những luận đề phù hợp với chân lý đời sống, đem lại những khám phá
chân thực về nhân vật, về tâm lý” [ 16, 51]. Nguyễn Hoành Khung thì nhận xét:
“Với Lạnh lùng, Nhất Linh không còn gò cốt truyện, dàn nhân vật nhằm minh
hoạ cho một luận đề nữa, mà đưa ngòi bút đi sâ u hơn vào việc phân tích tâm lý,
tình cảm, ở đây là tâm lý ái tình , và đạt tới một trình độ ti ểu thuyết già dặn,
thành thục” [18, 32]. Với Phan Cự Đệ đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật
của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, đã khẳng định: “Ngòi bút của Nhất Linh rất có
tài miêu tả những mối tình đầu trong sáng, đượm chút nhập ngừng, e thẹn, kín
đáo và ý nhị ” [11, 43].
Ngoài việc khẳng định những thành công, các nhà nghiên cứu cũng
nghiêm khắc chỉ ra những điểm hạn chế trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của
tiểu thuyết Nhất Linh. Chẳng hạn Vũ Thị Khánh Dần cho rằng: “Tiểu thuyết của
Nhất Linh còn một số hạn chế mang tính lịch sử, một số nhân vật thiếu sức sống
lâu bền, do tính cách chưa sắc cạnh, tâm lý nhân vật còn đơn giản” [8, 115]. Ngô
Văn Chương cho rằng ở Đoạn tuyệt có những chi tiết vô lý, không hợp quy luật
tình cảm “Loan đang nghĩ tới Dũng s ao lại âu yế m với Thân ngay được” [7 ,
173], còn Phạm Thế Ngũ nhận xét : “Đọc Đoạn tuyệt, ngày nay ai cũng nhận
thấy tính gò ép của câu chuyện, những chi tiết thâu nhập vội vàng để chứng
minh cho một ý định (…) Ngay n hân vật Loan cũng đầy mâu thuẫn, cứng nhắc
và giả dối nữa” [30, 150]. Dương Thị Hương cũng chỉ ra mặt hạn chế trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật của Nhất Linh trong tiểu thuyết tâm lý: “Nhân vật được
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
miêu tả trong thế giới cô lập, khép kín, vì vậy quá trình tâm lý hoặc các trạng
thái tâm lý của nó được nhìn nhận bởi cái nhìn chủ quan của tác giả và nhân vật
nhiều hơn bởi sự tác động của hoàn cảnh” [16, 148].
Như vậy , các ý kiến đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật của tiểu
thuyết Nhất Linh là rất phong phú, đa dạng. Bên cạnh chỉ ra những cách tân,
những đóng góp của nhà văn đối với tiến trình văn học, các nhà nghiên cứu cũng
chỉ rõ những mặt hạn chế, những điểm chưa hoàn thiện của nhà văn Nhất Linh.
Nguyên nhân của những hạn chế đó ở tiểu thuyết Nhất Linh, theo chúng tôi, một
phần nhà văn chịu ảnh hưởng của việc xử lý những vấn đề xã hội được đặt ra
trong tác phẩm; một phần bị qui định bởi đặc điểm thi pháp của chủ nghĩa lãng
mạn; phần khác có lẽ bởi nhà văn Nhất Linh đang ở giai đoạn tìm tòi một hướng
đi mới cho tiểu thuyết Việt Nam.
2.2. Các ý kiến đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết
“Đôi bạn” (1938) và “Bướm trắng” ( 1939) của Nhất Linh
Khi đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn,
Đặng Tiến, cuốn Hạnh phúc trong tác phẩm Nhất Linh, 1965, Văn nghệ số 37
viết về Đôi bạn: “Nhân vật Nhất Linh sống trong không gian không phải là hạ
giới mà trong không gian nội tâm; Dũng sống không phải trong mùa thu trước
mặt, mà là mùa thu của lòng chàng, một mùa thu đã đi qua , một mùa thu chưa
tới và một mùa thu có thể không bao giờ có trong trời đất ”.
Trong công cuộc đổ i mới về nhiều mặt của đất nước, nhất là từ sau Đại
hội Đảng VI (thời kì đổi mới) - một đời sống mới trên cơ sở đổi mới tư duy đã
giúp cho các nhà khoa học thẩm định lại những vấn đề trong quá khứ một cách
khách quan hơn. Nhất Linh trở về với độc giả qua hàng loạt các tiểu thuyết được
tái bản năm 1988. Các giá trị văn học được tiếp cận trên cơ sở lấy tiêu chí văn
học, nghệ thuật Nguyễn Hoành Khung trong cuốn Văn xuôi lãng mạn Việt Nam
(1930 - 1945) có nhận xét: “Đến Đôi bạn, Nhất Linh lại trở lại với những nhân
vật yêu dấu của mình(…) Tác phẩm đào sâu tâm t ư, khát vọng của một lớp
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thanh niên, không luận đề, không tuyên ngôn, nhưng Đôi bạn lại như tác phẩm
được ấp ủ, gửi gắm tâm sự, phô diễn tâm trạng nhiều nhất của nhà văn” [18,32].
Phan Cự Đệ trong Lời giới thiệu tiểu thuyết Đôi bạn (NXB Đại học và Giáo dục
chuyên nghiệp, 1988) đã viết: “Tiểu thuyết Đôi bạn là một bữa tiệc tâm lý sang
trọng đôi khi đến mức thừa thãi, hành động của nhân vật và cốt truyện có phần
ngưng trệ và không khí xã hội mờ nhạt hơn so với Đoạn tuyệt. Nhưng đứng về
phương diện nghệ thuật thì Đôi bạn thành công với những nhận xét tâm lý tinh
vi, với một thanh niên giầu cảm xúc và đầy thanh sắc, với một ngôn ngữ trong
sáng trang nhã, giầu chất thơ …Đặc biệt , Đôi bạn có những thành công trong
nghệ thuật xây dựng một cốt truyện tâm lý, trong việc kết hợp tiểu thuyết luận
đề và tiểu thuyết tâm lý ” [12, 375]. Vũ Thị Khánh Dần có nhận xét: “Các nhân
vật trong Đôi bạn là những con người cô đơn (…) Đôi bạn là tiểu thuyết hướng
nội” [8, 81]. Với Đỗ Đức Hiểu trong cuốn Đọc lại Bướm trắng của Nhất Linh
thì cho rằng: “Im lặng, sương mờ, trời lạnh…đó là âm điệu mạnh, xuyên suốt
của Đôi bạn . Như một bản nhạc, như một bài thơ, truyện có nhữ ng âm thanh
trùng điệp những cảnh đối xứng , và những tiếng vang từ chương này đến
chương khác” [14, 351].
Tiểu thuyết “Bướm trắng” ra đời ở giai đoạn sau trong sự nghiệp sáng tác
của Nhất Linh. Cã nhiÒu yÕu tè phi truyÒn thèng nªn cßn cha thu hút được
sự chú ý của giới nghiên cứu đương thời. Bùi Xuân Bào trong cuốn Tiểu thuyết
Việt Nam hiện đại, đã chỉ ra bước phát triển mới và những khám phá về nghệ
thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Bướm trắng: “Trong Bướm trắng, tâm
hồn một người bệnh bị một tình yêu vô vọng giày vò, được nghiên cứu thấu đáo
mà ta không tìm thấy được thí dụ nào trong các tác phẩm nào khác của Nhất
Linh, cũng như trong tác phẩm của các người đồng thời với ông. Nếu Bướm
trắng đánh dấu một chặng đường mới tr ong sự phát triển của Nhất Linh, thì
chính là vì tác giả đã từ bỏ dứt khoát ở đấy công thứ c của tiểu thuyết có luận đề
mà, cho tới bây giờ , vẫn luôn luôn là công thức của ông. Ở đây , sự hư cấu mơ
mộng không tìm cách chứng minh điều gì . Nó chỉ nhằm đi sâu vào tâm hồn của
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một chàng trai, sinh ra để hưởng niềm vui sống và khao khát hạnh phúc, nhưng
một căn bệnh hiểm nghèo ngăn anh ta không được hưởng những niềm hi vọng
chân chính nhất ” [2, 130].
Giống với luận điểm nêu trên của Bùi Xuân Bào, khi khẳng định một thế
giới mới trong sáng tác của Nhất Linh qua Bướm trắng - thế giới nội tâm bên
trong, Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3) cũng
khẳng định: “Qua Bướm trắng Nhất Linh cũng đã đưa ngòi bút phân tích tâm lý
vào địa hạt nhân bản muôn thủa với trường hợp b i đát con người bị giằng co
giữa tình yêu và cái chết ” [30, 160].
Những ý kiến đánh giá trên có thể coi là bước mở đường cho các nhà
nghiên cứu miền Bắc nhìn nhận và xem xét về tiểu thuyết Bướm trắng giai đoạn
sau này. Phan Cự Đệ, trong Lời giới thiệu cuốn Đoạn tuyệt ( NXB Đại học và
Giáo dục chuyên nghiệp, tái bản năm 1991), đã có ý kiến nhận định khái quát về
nghệ thuật Bướm trắng: “Xét về một phương diện nào đó thì nghệ thuật của Đôi
bạn và Bướm trắng già dặn hơn những nhận xét về tâm lý nhân vật sâu sắc và
tinh vi hơn” [11, 317]. Trong lời giới thiệu nhân tái bản cuốn Bướm trắng năm
1989 Trần Hữu Tá đã chỉ ra những khám phá mới cũng như những hạn chế như
sau: “Đến Bướm trắng Nhất Linh đã thể hiện một phẩm chất nghệ thuật mới:
Tuy có chỗ còn gượng gạo , thiếu tự nhiên nhưng tác giả đã khai thác tinh tế
những tầng những lớp, những ngó c ngách tâm lý éo le, khuất khúc của con
người ” [17, 379].
Trong bài viết Đọc lại Bướm trắng của Nhất Linh, đăng trên Tạp chí Văn
học, số 10-1996, Đỗ Đức Hiểu cũng viết: “Bướm trắng là tiểu thuyết hiện đại;
nó không phải “cái viết về những cuộc phiêu lưu ”(Như Don Quichote, Thuỷ hử,
Quả dưa đỏ, Tiêu sơn tráng sĩ…) mà “phiêu lưu của cái viết”. “Phiêu lưu” ở đây
là những hành trình qua các ngóc ngách của tình cảm, tư duy, cảm xúc, giấc mơ
đẹp, hoảng loạn, cái sống và cái chết…Bướm trắng, với cốt truyện đơn giản, là
“thế giới bên trong” con người vô cùng biến động cái ý thức và cái tiềm thức,
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cái vô lý và cái phi lý, giấc mơ, mê sảng, linh cảm…” [14, 382].
Điểm qua một số ý kiến nhận định tiêu biểu về nghệ thuật xây dựng nhân
vật của tiểu thuyết Nhất Linh cũng như trong hai tiểu thuyết “Đôi bạn ” và
“Bướm trắng”, chúng ta thấy:
1- Các ý kiến đánh giá phong phú, đa dạng, nhưng cũng rất phức tạp. Các
nhà nghiên cứu phần lớn đứng trên quan điểm lịch sử để đánh giá nhận định, cố
gắng tìm tòi những khám phá và đóng góp của Nhất Linh đối với tiến trình văn
học, nhng vÒ nghÖ thuËt tiÓu thuyÕt cßn cha ®i s©u.
2- Đối với hai tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng, giới nghiên cứu nhìn
chung kh¸ thống nhất ý kiến ở phương diện nghệ thuật thể hiện nhân vật và
những khám phá, tìm tòi, thể nghiệm của nhà văn Nhất Linh. Họ đều cho rằng
đây là một trong những nét đổi mới v ề tư duy nghệ thuật tiểu thuyết. Với phạm
vi nghiên cứu của đề tài , chúng tôi mạnh dạn nêu lên ý kiến: Đôi bạn vẫn còn
nhiều yếu tố của tiểu thuyết luận đề, song việc mô tả tâm lý đã được coi trọng
đặc biệt, nó đã q ui định kết cấu của tiểu thuyết . Đôi bạn là cầu nối giữa tiểu
thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lý. Còn Bướm trắng là một bước đột phá về
nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết, thoát ra khỏi lối xây dựng nhân
vật tiểu thuyết cổ điển cũng như tiểu thuyết luận đề và tâm lý trước đó . Với
Bướm trắng Nhất Linh đã đưa nghệ thuật tiểu thuyết nước ta phần nào tiếp cận
được với tiểu thuyết hiện đại trên thế giới. Nh vËy nghÖ thuËt tiÓu thuyÕt t©m
lý cña NhÊt Linh ®îc nghiªn cøu theo mét qu¸ tr×nh.
3. Đối tượng , phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát thế giới hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn
và Bướm trắng, đi sâu vào các thủ pháp xây dựng nhân vật của tiểu thuyết, đặc
biệt chú trọng đến các yếu tố thể hiện tâm lý. Tiểu thuyết là một đơn vị tổ chức
nghệ thuật phức tạp nhiều khía cạnh, nhiều tầng bậc. Nhân vật cũng là một
phương diện của tổ chức nghệ thuật. Do đó việc phân tích nhân vật không tách
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
rời nghiên cứu các yếu tố khác của tiểu thuyết như cốt truyện, kết cấu, tả
cảnh...đặc biệt là cốt truyện. Và tiểu thuyết phần nào cả thực chất là hành trình
của số phận nhân vật trong thời gian - trước là cốt truyện.
Về văn bản tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng, chúng tôi căn cứ trong
cuốn Văn chương Tự lực văn đoàn - Nhà xuất bản Giáo dục tái bản lần thứ nhất,
Hà Nội, năm 2001 làm tư liệu chính của mình trong quá trình làm việc.
4 - Phương pháp nghiên cứu
A. Einstein (1879-1955) mang đến cho loài người một nhận thức vĩ đại
không chỉ về vũ trụ mà còn về chính bản thân con người, đó là tính tương đối
của thế giới. Quan niệm của ông đưa đến một hệ quả là không có cái gì tuyệt đối
và hoàn hảo. Nhân vô thập toàn và tro ng nghiên cứu khoa học cũng vậy. Không
có một phương pháp nào là hoàn m ỹ, thoả mãn mọi mục đích của các nhà
nghiên cứu. Vì vậy, trong luận văn này, chúng tôi đã kết hợp một vài phương
pháp nghiên cứu phù hợp với mục đích nghiên cứu của mình. Đó là do vận dụng
tổng hợp các phương pháp mà các thao tác chính là:
4.1. Phương pháp thống kê phân loại:
Luận văn tiến hành thống kê, phân loại các phương pháp, phưong tiện thể hiện
nhân vật, tần số xuất hiện của chúng trong tác phẩm …từ đó đưa ra những nhận
xét khái quát trên cơ sở nhũng số liệu cụ thể.
4.2. Phương pháp phân tích tổng hợp:
Chúng tôi phân tích những đặc điểm của các thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân
vật trong tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng, từ đó tổng hợp để đi đến những
kết luận cụ thể.
4.3. Phương pháp so sánh đối chiếu:
Được vận dụng trong luận văn khi cần thiết để thấy được những điểm tương
đồng và dị biệt của hai tác phẩm trên với một số tác phẩm khác của Nhất Linh
cùng thể tài và ở giai đoạn trước, để chỉ ra được những bước đổi mới của ông
trong sáng tác. Trong những trường hợp cần thiết, luận văn cũng so sánh nghệ
thuật xây dựng nhân vật của Nhất Linh với các tác giả khác trên hai bình diện
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lịch đại và đồng đại.
4.4. Phương pháp lịch sử:
Tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng ra đời trong một hoàn cảnh xã hội văn hoá
cụ thể. Việc vận dụng phương pháp lịch sử để nghiên cứu nghệ thuật xây dựng
nhân vật của hai tiểu thuyết này giúp chúng tôi xác định một cách đúng đắn vị
trí, vai trò và những đóng góp của nó ở phương diện nghệ thuật tiểu thuyết.
5. Đóng góp của luận văn
Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn và
Bướm trắng , chúng tôi mong muốn góp mộ t phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu ,
nghiên cứu thế giới nghệ thuật của hai tiểu thuyết nêu trên, xem nó như một
thành phần quan trọng của toàn bộ hệ thống tác phẩm của nhà văn Nhất Linh.
Mục đích của luận văn là chỉ ra:
- Những thủ pháp xây dựng nhân vật , những đóng góp và những hạn chế
của nghệ thuật tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng.
- Những đóng góp của Nhất Linh đối với tiến trình hiện đại hoá nghệ
thuật tiểu thuyết Việt Nam ở giai đoạn đương thời; đồng thời cũng chỉ ra sự vận
động, chuyển hướng trên cả hai phương diện nội dung tư tưởng cũng như nghệ
thuật trong tiểu thuyết Nhất Linh.
Đây là công trình chuyên biệt đ ầu tiên tập trung nghiên cứu nhân vật của
tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng. Có thể nói với luận văn này, hai tiểu thuyết
Đôi bạn và Bướm trắng được nghiên cứu một cách tỉ mỉ và cụ thể về nghệ thuật
nhân vật . Từ đó, luận văn bước đầu đưa ra nhận định về nh ững đóng góp của
Nhất Linh với tiến trình hiện đại hoá nghệ thuật tiểu thuyết ở giai đoạn sau trong
sự nghiệp sáng tác của ông.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Quan niệm tiểu thuyết , nhân vật tiểu thuyết, hai kiểu tiểu
thuyết của Nhất Linh.
Chương 2 : Nhân vật và kết cấu cốt truyện trong Đôi bạn và Bướm
trắng.
Chương 3 : Các thủ pháp xây dựng nhân vật trong Đôi bạn và Bướm
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trắng.
B - NỘI DUNG
CHƯƠNG I
QUAN ĐIỂM VỀ TIỂU THUYẾT, NHÂN VẬT TIỂU THUYẾT HAI KIỂU TIỂU THUYẾT CỦA NHẤT LINH
1.1 . Quan niệm tiểu thuyết và nhân vật tiểu thuyết
1.1.1. Quan niệm tiểu thuyết
Tiểu thuyết là một trong những thể loại quan trọng nhất của văn chương,
nghệ thuật hiện đại. Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ thế kỉ XIX, tiểu thuyết
đã được coi là “hình thái chủ yếu của nghệ thuật ngôn từ". Từ đó cho đến nay,
tiểu thuyết vẫn đứng ở vị trí then chốt trong hệ thống thể loại văn học. Là một
hình thức tự sự cỡ lớn, tiểu thuyết có khả năng riêng trong việc tái hiện với một
quy mô lớn nhữ ng bức tranh hiện thực đời sống, trong đó chứa đựng nhiều vấn
đề sâu sắc của xã hội, của số phận con người, của lịch sử, của đạo đức, của
phong tục…Nghĩa là nó có năng lực phản ánh hiện thực một cách bao quát và
sinh động theo hướng tiếp cận trên cả bề rộng lẫn chiều sâu của nó.
So với các thể loại khác, tiểu thuyết xuất hiện muộn hơn. Không những
thế, nó “là một thể loại văn chương đang biến chuyển và còn chưa định hình”
(M.Bakhtin). Việc nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết là một yêu cầu chủ yếu ,
luôn có tính thời sự của lý luận văn học. Vì vậy, đi tìm quan niệm tiểu thuyết
cũng là vấn đề có ý nghĩa về mặt lí thuyết. Theo M. Bakhtin: “Tiểu thuyết không
đơn thuần chỉ là một thể loại trong nhiều thể loại. Đó là thể loại duy nhất nảy
sinh và được nuôi dưỡng bởi thời đại mới của lịch sử thế giới và vì thế mà thân
thuộc sâu sắc với thời đại ấy ”. [ 3, 21].
Vì những lí do vừa nêu trên , việc đưa ra một khái niệm về thể loại tiểu
thuyết một cách hoàn chỉnh không phải là dễ. Bởi vì đã có khá nhiều quan niệm
khác nhau về tiểu thuyết.
Trước năm 1945, có công trình Bàn về tiểu thuyết của Phạm Quỳnh đăng
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trên tạp chí Nam Phong năm 1921. Sau đó là các công trình chuyên khảo về tiểu
thuyết : Theo dòng (1941) của Thạch Lam, Khảo về tiểu thuyết (1941) của Vũ
Bằng. Ngoài ra, còn có một số công trình cũng bàn về một số vấn đề của tiểu
thuyết như Phê bình và cảo luận (1938) của Thiếu Sơn, Nhà văn hiện đại (1942)
của Vũ Ngọc Phan … Tuy nhiên, điểm nhìn và ph ạm vi nghiên cứu của mỗi
công trình có khác nhau nhưng với sự có mặt của chúng, lịch sử nghiên cứu thể
loại tiểu thuyết đã bước đầu hình thành và đặt nền móng cho việc nghiên cứu thể
loại tiểu thuyết sau này.
Sau năm 1945, việc nghiên cứu thể loại tiểu thuyết được trải rộng ra cả ở hai
miền Bắc – Nam, nhưng tiêu biểu hơn là ở miền Nam. Ở miền Nam, có thể kể
như Nhân vật trong tiểu thuyết (Nhiều tác giả, sáng tạo, số 1/1960); Viết và đọc
tiểu thuyết (Nhất Linh, NXB, Đời nay, 1961); Hiện hữu của tiểu thuyết (Lê
Tuyên, Đại học số 4/1963) ; Tiểu thuyết Việt Nam thế hệ 1932 - 1945 (Thanh
Lãng, Đại học số 2 tháng 4/1961); Tiểu thuyết hiện đại (Tràng Thiên, NXB Thời
mới, 1963); Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết (Nguyễn Văn Trung, Nam Sơn xb,
1965); Sự hình thành của tiểu th uyết mới trong Việt Nam văn học sử giản ước
tân biên (Phạm Thế Ngũ , Quốc học Tùng thư xb, 1965); Chuyện phiếm về tiểu
thuyết của Triều Sơn, Văn số 34, ra ngày 15/5/1965; Văn học và tiểu th uyết
(Doãn Quốc Sỹ, sáng tạo xb, 1973). Ỏ miền Bắc, 150 thuật ngữ văn học của Lại
Nguyên Ân cũng c ó nói đến quan niệm tiểu thuyết ; Lí luận văn học (Phương
Lựu ,NXB Giáo dục - 2002) – Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (Phan Cự Đệ, năm
2000); Lí luận văn học (Hà Minh Đức (Chủ biên) NXB Giáo dục, năm 2002)…
Nếu ở những giai đoạn trước, cách hiểu tiểu thuyết còn mang tính khái
quát để chỉ chung cho tác phẩm văn xuôi, đó là truyện ngắn, truyện vừa, truyện
dài. Lí do là thành tựu sáng tác còn ít ỏi nên chưa có những hệ thống lý luận đầy
đặn về tiểu thuyết, việc đề ra qu an niệm về tiểu thuyết, một mặt xuất phát từ
thực tiễn sáng tác; mặt khác một số tác giả đã thâu thái các quan niệm tiểu
thuyết của phương Tây vào Việt Nam dựa trên hoàn cảnh thực tế của văn học
nước nhà. Một hướng khác nữa là do nguồn ảnh hưởng từ “Tân thư” của Trung
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Quốc, với n hững tư tưởng “cách mạng văn học” của Lương Khải Siêu ảnh
hưởng tới Việt Nam. Khi viết tiểu thuyết đã trở thành nhu cầu bức thiết của nhà
văn Việt Nam đầu thế kỉ 20 thì lý luận về tiể u thuyết càng trở nên cấp thiết .
Chúng tôi đưa ra một số quan niệm tiêu biểu: Trong “Bàn về tiểu thuyết” Phạm
Quỳnh định nghĩa như sau: “Tiểu thuyết là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra
để tả tình tự người ta, phong tục xã hội, hay là những sự lạ tích kỳ , đủ làm cho
người đọc có hứng thú …Tiểu thuyết bây giờ thời như trên kia đã là một truyện
đặt ra và là một truyện có hứng thú; thường thường thời viết bằng văn xuôi, theo
lối tự sự như lời nói thường, cũng có mộ t đôi khi viết băng lối vận văn, như
Truyện Kiều…Nói tóm lại, thời tiểu thuyết là một truyện bịa đặt mà có thú vị ”
[37,249]. Tiểu thuyết ở đây được quan niệm là một sản phẩm của hư cấu nghệ
thuật, biểu hiện bằng ngôn ngữ đa dạng. Có tác giả lại dựa vào dung lượng hiện
thực trong tác phẩm để chỉ ra những đặc trưng của thể loại tiểu thuyết. Trong lời
tựa cho tiểu thuyết “Cuộc tang thương” của nhà văn Đặng Trần Phất, Bùi Xuân
Học nêu nhận xét : “Quyển sách này thực là tả đủ các hạng người trong xã hội,
câu chuyện rất ly kỳ mà khi đọc đến có thể tưởng tượng như mình có trông thấy
vậy” [32, 268 - 269].
Ở giai đoạn sau này, khi sự phân định về mặ t thể loại ngày càng cụ thể
hơn, khái niệm về tiểu thuyết cũng được các nhà lý luận phê bình văn học, các
nhà văn hiểu một cách rõ ràng hơn, sát với đặc trưng thể loại. Trong chuyên luận
“Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết”, Nguyễn Văn Trung cho rằng: “Yếu tính của
tiểu thuyết là cái tưởng tuợng, không thể kiểm chứng được” [44]. Còn với Võ
Phiến “Tiểu thuyết là công trình giả tưởng. Mầu trời , sắc nắng, cây, lá, gió,
trăng, mọi hoạt động trong đó đều bịa đặt” [36]. Tuy cách diễn đạt có khác nhau,
song trong quan niệm của các tác giả trên đều thống nhất cho rằng yếu tính của
tiểu thuyết là tưởng tượng, hư cấu . Chúng ta nhận thấy rằng nhà văn dẫu có hư
cấu cũng phải trên cơ sở tôn trọng sự thật đời sống. Bởi vì “với sự có mặt của
mình trước cuộc đời, với sự hiện hữu của mình ở trong cuộc đời , tiểu thuyết là
một hình thái nghệ thuật, một lối diễn đạt của con người gần gũi cuộc đời nhất”
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
[46, 154]. Nguyễn Đình Toàn đưa ra nhận định: “Tiểu thuyết không phải là tấm
gương phản ánh đời sống mà là cái phần được che giấu của đời sống, cái phần
không thuộc về đời sống”. Quả thật, tiểu thuyết cho dù là tấm gương phản ánh
đời sống, cũng không bao giờ là bản sao cuộc sống. Bởi lẽ ngoài việc phản ánh
thực tại cuộc đời, tiểu thuyết còn phản ánh được thế giới thẳm sâu của tâm hồn
con người và “giá trị của một cuốn tiểu thuyết là đi sâu vào tâm hồn người đời”
[28, 73]. Vì thế chúng ta mãi băn khoăn tiểu thuyết phản ánh được bao nhiêu
phần trăm sự thực ở đời, lấy đó làm căn cứ thẩm định giá trị t ác phẩm tiểu
thuyết thì vô hình trung làm nghèo thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết và làm vơi
đi thế giới tưởng tượng của người tiếp nhận. Giá trị tiểu thuyết cần nhất là sự sâu
sắc và “sâu sắc chính là ở chỗ mình diễn tả được tất cả những cái mông lung bí
ẩn của tâm hồn” [28,72].
Càng về sau thì quan niệm của các nhà nghiên cứu khi đưa ra quan niệm
về tiểu thuyết càng có phần cụ thể hơn trước . Cuốn Từ điển văn học (tập II ,
NXB khoa học xã hội, 1 984) đã định nghĩa một cách khái quát: “Tiểu thuyết là
một loại hình tự sự, có ít nhiều hư cấu, thông qua nhân vậ t, sự việc và hoàn
cảnh, thường dùng văn xuôi, để phản ánh bức tranh xã hội” [33, 390]. Nhà
nghiên cứu Phương Lựu trong cuốn Lí luận văn học [NXB Giáo dục - 2002] đã
viết : “Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận đại
và hiện đại. Với những giới hạn rộng rãi trong hình thức trần thuật tiểu thuyết có
thể chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã
hội, miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp tái hiện nhiều tính cách đa
dạng” [13,387].
Như vậy , quan niệm về tiểu thuyết đã nêu trên chúng ta thấy những cái
nhìn đa diện, đa chiều. Tuy họ đều thống nhất cho rằng yếu tính của tiểu thuyết
là tưởng tượng, hư cấu , là loại hình tự sự, nhưng dù là tưởng tượ ng, hư cấu thì
tiểu thuyết cũng phải tái tạo cuộc sống, phải mang hình bóng của cuộc đời.
Thoát ly cuộc đời , tiểu thu yết sẽ không còn là tiểu thuyết, sẽ đánh mất giá trị
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhân bản; sẽ không thể sống trong lòng người đọc. Vì từ trong ý thức sáng tác ,
nhà tiể u thuyết bao giờ cũng muốn trìn h bày những con người sống thực . Mà
con người sống thực bao giờ cũng có liên hệ chặt chẽ với xã hội, với quá khứ.
1.1.2. Quan niệm nhân vật tiểu thuyết Một trong những thành phần quan trọng của tiểu thuyết là nhân vật. Nói
đến tiểu thuyết là nói đến việc xây dựng nhân vật. Vai trò, vị trí và phương thức
tồn tại của nhân vật trong tiểu thuyết như thế nào thì luôn là vấn đề lí thuyết mà
mọi nền lý luận văn học đều quan tâm lý giải.
Nhân vật trong tiểu thuyết khác với nhân vật trong các thể loại khác, nhân
vật của tiểu thuyết có những đặc điểm riêng mà nhân vật thuộc các thể loại khác
không có được. Truyện ngắn chỉ có thể nói về nhân vật trong quỹ thời gian ngắn
có những biến động lớn mà người đọc không thể hiểu rõ tiểu sử, sự phát triển cụ
thể của cuộc đời họ. Còn tiểu thuyết với khuôn khổ rộng lớn, vô tận về thời gian
và không gian, nhà văn có thể khai thác nhân vật , miêu tả nhân vật một cách tỉ
mỉ, toàn diện theo từng bước của cuộc đời. Nếu ký chỉ từ một con người thực,
một bối cảnh thực để xây dựng nên hình tượng điển hình thì tiểu thuyết lại có
khả năng cùng một lúc tạo dựng được hình tượng điển hình từ nhiều con người,
tính cách, bối cảnh khác nhau.
Theo nhà nghiên cứu Trần Thanh Hiệp , trong tiểu thuyết vấn đề quan
trọng “phải là vấn đề nhân vật. Người ta sẽ tìm thấy bộ mặt của con người trong
các nhân vật của ti ểu thuyết (…). Trong tiểu thuyết , ngoài nhân vật còn có gì
khác nữa, thời nhân vật cũng vừa là cá thể, vừa là linh hồn” [15, 93-94]. Nhân
vật là linh hồn, là yếu t ố không thể thiếu trong tiểu thuyết, ở nhân vật có thể là
chiếc cầu nối giữa “cuộc đời thực” và “cuộc đời có vẻ thực” trong tiểu thuyết.
Qua thế giới nhân vật, người đọc sẽ tìm thấy những vấn đề nhân sinh mà tác giả
muốn gửi gắm, muốn chia sẻ. Trong tiểu thuyết, con người là một chủ thể trải
nghiệm, được giao cho tính chủ động về tư tưởng và ngôn ngữ. Tính chủ động
này sẽ làm biến đổi tính chất và hình thái con người. Trong công trình Bàn về
19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tiểu thuyết, Phạm Quỳnh có cái nhìn bao quát về tiểu thuyết truyền thống. Nhân
vật trong tiểu thuyết theo tác giả “Không nhất thiết phải là người siêu bạt quần
chúng, lại thường thường là những người bình thường như mọi người” [37,
101]. Giữa nhân vật và hoàn cảnh luôn có một quan hệ tác động lẫn nhau. Nhân
vật chịu sự chi phối mạnh mẽ của hoàn cảnh, lệ thuộc vào hoàn cảnh. Đôi khi
nhân vật cũng có thể làm thay đổi ho àn cảnh trong phạm vi nhất định , nhưng
hoàn cảnh vẫn giữ một vai t rò quyết định trong tiểu thuyết . Hoàn cảnh ở đây
được nhận thức là “vận mệnh” tác động trực tiếp đến nhân vật, quyết định số
phận nhân vật.
Cũng giống như phương thức miêu tả của một số thể loại văn học khác,
nhân vật trong tiểu thuyết được nhà văn miêu tả qua những chi tiết, những xung
đột, tình tiết biến cố, những mâu th uẫn bên trong. Vì vậy n hân vật trong tiểu
thuyết phải tương tự với con người trong cuộc sống, nó phải là con người mang
bản chất xã hội một cách chân thực khách quan, song nó lại phải có cá tính, có
cuộc đời, số phận riêng, độc lập. Nhân vật trong t iểu thuyết hiện lên trọn vẹn,
đầy đủ từ góc độ ngoại hình đến nội tâm, từ tình cảm đến lý trí. Người viết có
thể khai thác nhân vật một cách toàn diện, tỉ mỉ, theo từng bước thăng trầm của
số phận. Nhân vật trong tiểu thuyết đa dạng, phong phú phát triển có quá trình ,
tham gia vào tình huống với nhiều hành động khác nhau nên có khả năng có sức
sống nội tại, tự nó tìm thấy con đường đi của nó trong tác phẩm.
Khi sáng tác, mỗi nhà văn thường chọn cho mình một thế giớ i nhân vật
phù hợp với sở thích, cá tính của mình để miêu tả, thể hiện. T rong tiểu thuyết,
nhân vật là nơi duy nhất để tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng
tác. Để khẳng định vấn đề này Nguyễn Đình Thi đã viết : “Vấn đề trung tâm của
nghệ thuật tiểu thuyết theo tôi, là miêu tả những con người và đường đi của họ
trong xã hội . Người viết tiểu thuyết nghĩ mọi vấn đề đều phải thông qua các
nhân vật, xuất phát từ nhân vật hơn là từ sự việc” [42, 645]. Một đặc điểm rất
quan trọng trong tiểu thuyết hiện đại là nhân vật dường như mang tính tự thân.
Nhiều lúc nó vượt ra khỏi sự kiểm soát, sự định hướng ban đầu của nhà văn để
20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đi theo qui luật của cuộc đời , số phận. Nói như Đỗ Đức Hiểu : “Nhân vật trong
tiểu thuyết hiện đại không có tính cách, nói cách khác có nhiều tí nh cách, tức là
nó luôn luôn biến động, mà bản thân nó không thể nhận biết. Nhân vật tự bộc lộ
mình, tự xây dựng mình trong quá trình viết của người kể chuyện. Và chính nhà
soạn văn cũng dần dần, lần mò tự khám phá ra bản thân mình qua từng trang
viết” [17, 383].
Nhà văn chỉ có thể xây dựng nhân vật tiểu thuyết bằng chính vốn sống và
sự hiểu biết về nhân vật. Và như thế, một vấn đề đặt ra trong phương thứ c xây
dựng nhân vật tiểu thuyết, là giải quyết như thế nào mối quan hệ giữa nhân vật
và tác giả . Có ý kiến cho rằng nhân vật trong t ác phẩm là hình ảnh của tác giả.
Nhưng cũng có ý kiến ngược lại. Vấn đề này theo chúng tôi cần phải hiểu một
cách linh động hơn. Là sản phẩm do nhà văn sáng tạo, nhân vật tiểu thuy ết tất
nhiên phải là hình tượng , là hiện thân tư tưởng của nhà văn, vì “bản chất tiểu
thuyết không có gì đố kỵ với tư tưởng, miễn là tư tưởng đừng thủ tiêu, đừng hút
máu tươi và da thịt của nhân vật để chỉ còn lại những bộ x ương khô” [36, 20].
Và “ở những tác phẩm lớn của nhân loại về tiểu thuyết, tư tưởng cao sâu đều có
cái duyên gặp được những nhân vật sốn g, có cá tính, mang ra phô diễn . Nhân
vật linh động là điều cần thiết, nhưng chưa đủ để là m ra tác phẩm vĩ đại” [36,
30]. Dù nhân vật có là cái loa phát ngôn cho tư tưởng của nh à văn, thì nhân vật
cũng không bao giờ là hình hài của tác giả, là đồng nhất với tác giả.
Ở tiểu thuyết, sáng tác về một nhân vật nào, tác giả đều dẫn dắt, giới thiệu
cho chúng ta nguồn gốc , xuất xứ của nhân vật ấy và trong suốt quá trình mô tả
cuộc đời nhân vật, nhà văn phải xây dựng ở nhân vật đó nhữ ng hành động, lời
nói, cử chỉ…thể hiện rõ nét đặc trưng trong cốt cách - tâm hồn của dân tộc sinh
nhân vật ấy.
Như vậy, có thể thấy thế giới nhân vật tr ong tiểu thuyết hết sức đa dạng,
phong phú và luôn hấp dẫn , mới mẻ có khả năng khái quát hiện thực, khái quát
21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quan điểm nghệ thuật của nhà văn.
1.2 .Quan niệm của Nhất Linh về tiểu thuyết
Nói đến văn học hiện đại Việt Nam đầu thế kỷ XX là nói đến “v ăn học phát
triển trong môi trường kinh tế tư bản chủ nghĩa, có sự hình thành giai cấp tư sản,
giai cấp vô sản, giai cấp tiểu tư sản và tầng lớp trí thức mới, độc lập thể hiện tư
tưởng dân chủ, tư tưởng duy lí trong khoa học, đề cao con người cụ thể, phong
phú, phức tạp, khuyến khích mọi tài năng sáng tạo” [21, 17]. Sự thay đổi trong
văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX không giống tình hình phát triển trong văn học
các nước phương Tây từ giai đoạn này hay giai đo ạn khác là sự thay đổi nội
dung, thể loại , sự xuất hiện một trào lưu văn học… Bước ngoặt hiện đại hoá
trong văn học Việt Nam: từ văn, thơ, phú, lục phương Đông sang thơ, kịch, tiểu
thuyết phương Tây biểu hiện s ự thay đổi về quan niệm văn học. Thi pháp văn
học trung đại được thay thế bằng thi pháp văn học hiện đại.
Có thể nói, bước sang những năm 30, nền văn học Việt Nam đã có những
thay đổi to lớn, thậm chí những bước nhảy vọt, trên đà hiện đại hoá. Làm nên
thành công cho cuộc cách tân văn học đó là một thế hệ trí thức Tây học không
còn bị vướng vào những qui phạm, công thức của văn chương cổ , đồng thời lại
được kế thừa những kinh nghiệm cách tân của các thế hệ trước. Nhất Linh là
một trong những gương mặ t tiêu biểu của lớp trí thức ấy . Trong suốt chặng
đường sáng tác, Nhất Linh đã không ngừng tìm tòi, bổ sung để tự hoàn thiện
mình, và “nhờ vào tài năng , vào sự tiếp thu văn hoá phương Tây có hệ thống
cùng bản lĩnh chuyển hoá” để làm giàu thêm văn sản trong nước (điều 1, tôn chỉ
của Tự lực văn đoàn). Ông đã mang đến cho văn học dân tộc nhiều tác phẩm
thực sự có giá trị và có ý nghĩa tiên phong trong công cuộc cách tân.
Trước năm 1932, Nhất Linh theo quan điểm của các nhà Nho : văn gắn
với đạo, với mệnh trời, “văn dĩ tải đạo”, “văn dĩ hướng đạo”. Ông noi gương các
nhà nho tiền bối Nguyễn Trãi, Nguyễn Du , Nguyễn Đình Chiểu,…với ông, con
thuyền văn trước tiên là để chở đạo. Văn học trước tiên có chức năng truyền đạt,
rồi mới đến việc phát triển khám phá. Đối tượng văn học không phải là cuộc
22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sống thực mà là khuôn mẫu của đạo đức truyền thống, của đạo Nho. Ông quan
niệm cái đẹp phải là sự hoàn hảo, toàn diện, tuyệt đối, thống nhất với cái có ích
, đề cao cái đẹp nội dung hơn hình thức. Cuộc sống được đánh giá qua con mắt
đạo lý, nhân vật được xây dựng theo chuẩn mực đạo đức : Thiện - ác, trung -
hiếu, tiết nghĩa - bất trung, bất nghĩa, thật thà, gian dối…Tiểu thuyết Nho phong
(1926) và tập truyện ngắn Người quay tơ (1927) thể h iện khá rõ những quan
niệm trên.
Sau khi du học ở Pháp về , Nhất Linh đ ã thay đổi quan niệm văn chương .
Nhất Linh từ giã quan niệm truyền thống để đi vào quan niệm mới về văn học.
Viết tiểu thuyết. ông chuyển hướng từ tư tưởng, cảm hứng nghệ thuật, đề tài đến
lối viết. Số phận con người cá nhân, quyền sống, quyền tự do dân chủ, quyền
được hưởng hạnh phúc, lòng khao khát lý tưởng được nhà văn quan tâm thể hiện
trong hàng loạt tiểu thuyết : Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng và hai
tiểu thuyết viết chung với Khái Hưng:Gánh hàng hoa, Đời mưa gió. Ông có
hoài bão dùng văn chương góp phần cải tạo xã hội, tư tưởng dân chủ tư sản. Ý
tưởng đó của Nhất Linh được thể hiện rất rõ trong Mười điều tôn chỉ của Tự lực
văn đoàn được công bố trên Phong hoá (số 101) như:
- “Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ”.
- “Trọng tự do cá nhân”.
- “Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho , một lố i văn thật có tính
cách An Nam”; “Không có tính cách trưởng giả quý phái”.
- “Làm cho người ta biết đạo Khổng không còn hợp thời nữa".
- “Đem phương pháp Thái Tây ứng dụng vào văn chương An Nam”…
Ngoài ra, Nhất Linh còn trực tiếp hay gián tiếp nói tới quan niệm về văn
chương nói chung và tiểu thuyết nói riêng ở một số tờ báo Phong Hoá, Ngày
nay. Đặc biệt là trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết Nhất Linh đã nói rõ về quan
niệm viết tiểu thuyết của mình. Đây là một trong ít trường hợp hiếm hoi mà một
nhà văn ở nước ta trức tiếp nói v ề cái thể loại mình đã vận dụng, đã theo đuổi
trong sự nghiệp văn chương. Cùng trong nhóm Tự lực văn đoàn có Thạch Lam
23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cũng có quan niệm về viết tiểu thuyết nhưng không có nhiều điểm tương đồng .
Chúng tôi cho rằng cuốn Viết và đọc tiểu thuyết được Nhất Linh nói tới ở cả hai
phương diện kinh nghiệm lẫn phương diện lý thuyết khi đưa ra q uan niệm về
tiểu thuyết. Tuy nó chưa thực sự hoàn chỉnh, có hệ thống , có đôi khi lủng củng
trùng lặp, mà tác giả rút ra cho mình hơn là cho mọi người . Nó không thật sắc
sảo, càng không uyên bác. Song những ý kiến mà Nhất Linh viết ra là sự chân
thành. Đưa ra quan niệ m về tiểu thuyết Nhất Linh viết: “Viết tiểu thuyết để nêu
lên một lý thuyết, để tán dương, tuyên truyền một cái gì tác giả cho là tốt đẹp, để
đả đảo một cái gì mà tác giả cho là xấu xa , viết tiểu thuyết để phụng sự , để
chứng tỏ một cái gì đó …” [ 28, 367]. Đồng thời ông cũng đưa ra ý kiến đánh
giá về một cuốn tiểu thuyết hay là “những cuốn đủ đúng sự thực cả bề trong lẫn
bề ngoài. Diễn tả được một cách linh động các trạng thái phức tạp của cuộc đời,
đi thật sâu vào sự sống với tất cả những chuyển biến mong manh tế nhị của tâm
hồn”; “Việc diễn tả tâm hồn và những uẩn khúc của tâm hồn đó, những ý nghĩ
thầm kín của các nhân vật là một việc khó nhất và cuốn sách có giá trị và có sâu
sắc hay không phần lớn là ở việc này” [28, 388].
Ở trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết Nhất Linh cũng đã đưa ra quan niệm
của mình về viết tiểu thuyết hết sức cụ thể. Cũng giống như bao người khác, ông
suy nghĩ trước hết một người viết một cuốn tiểu thuyết phải biết rõ mình định
viết về cái gì? quan trọng với ông là “phải thà nh thực là chính trong thâm tâm,
mình thấy thích viết đề đó, quả thật mình cảm động trước những cảnh về đề đó.
Hơn nữa mình đoán thấy trong đề đó có nhiều cái hay” [28, 392]. Sự thành thực
trong việc lựa chọn đề tài được Nhất Linh đưa lê n hàng đầu bởi trong nghiệp
văn, người viết có thể viết về những đề mà người đọc đương thời ưa thích nếu
như trong thâm tâm nhà văn thích. Điều nên tránh đó là theo thời, hám danh làm
mất đi lương tâm nghề nghiệp.
Xét đến cùng văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng đều là sự miêu tả
hữu hạn cái thế giới vô hạn là cuộc đời. Hình tượng văn học phải đư ợc bắt đầu
và kết thúc ở đâu đó, con người và cảnh vật cũng phả i được nhìn ở một góc độ
24
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nào đó. Nhà văn phải hiểu được cách thức mà nhân vật - con người trong tác
phẩm giao tiếp với nhau, với thế giới xung quanh và với chính bản thân họ, cách
họ sống suy nghĩ và hành động, điều họ quan tâm trong cuộc đời. Mối quan hệ
logic giữa tất cả những điều đó tạo nên cái mô hình nghệ thuật về thế giới và con
người bao quát mà tác giả xuất phát để khắc hoạ những hình tượng cụ thể cũng
như xây dựng kết cấu tác phẩm . Nhất Linh cho rằng “k hông nên xếp đặt câu
chuyện quá, việc xảy ra còn tuy theo tâm trạng của nhân vật . Bởi tiểu thuyết lại
là thứ sách để tả cuộc đời, mà đời người thì không xếp đặt được theo ý người”
[28, 393].
Trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết của Nhất Linh đề cập tới nhiều vấn đề
như: chọn đề tài, xây dựng cốt truyện, lựa chọn nhân vật, tìm chi tiết , văn trong
tiểu thuyết. Trong phạm vi của đề tài chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu quan niệm
của Nhất Linh cách xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết. Theo Nhất Linh xây
dựng nhân vật trong tác phẩm ta phải quan tâm đến bốn thứ: tính tình, cử chỉ, lời
nói, hình dáng. Việc diễn tả tâm hồn, uẩn khúc của tâm hồn đó , những ý nghĩ
thầm kín của các nhân vật là một việc khó nhất. Cho nên một cuốn sách có giá
trị hay không, có thực sự sâu sắc hay k hông một phần lớn là từ việc đó. Theo
Nhất Linh hình dáng nhân vật “không nên tả ngay một lúc”, nhà văn không nên
tự ý phê bình người và việc trong truyện như những nhà tiểu thuyết luận lý nước
ta ba mươi năm về trước , nhân vật thuộc hạng cũng nào đều có giá trị như nhau,
nhân vật chính hay phụ cũng phải để ý ngang nhau. Cũng như trong tác phẩm
Khái Hưng, nhân vật chính của Nhất Linh là thanh niên tư sản hoặc tiểu tư sản
lớp trên, con nhà quan, chủ đồn điền họ có điểm chung là cảm nghĩ băn khoăn,
suốt đời tìm cách giải quyết vấn đề hạnh phúc và lý tưởng cho cá nhân . Ở Nhất
Linh, nhân vật đăm chiêu, quằn quại, suy nghĩ lao lung để tìm lấy một lý tưởng,
một con đường; lý tưởng có tính cách đấu tranh và hành độ ng ; ngôn ngữ nhân
vật chặt chẽ, chính xác (Dũng, Doãn …). Cách xây dựng nhân vật, Nhất Linh
tuy rất chủ quan “coi nhân vật như những quân cờ để đánh một ván cờ” có dựa
vào sự phân tích của lý trí, có tham vọng xây dựng. Do vậy, nhân vật của Nhất
25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Linh luôn có sự đắn đo, muốn làm to , đạt kết quả lớ n, như Dũng trong Đoạn
tuyệt, Dũng trong Đôi bạn. Song, với Nhất Linh, tâm trạng nhân vật không khỏi
có lúc bi đát: cực lòng vì hoàn cảnh thấy đời trống rỗng, có lúc muốn quyên sinh
như: Dũng trong Đôi bạn hay Trương trong Bướm trắng.
Với tư cách một người sau lưng có nhiều tiểu thuyết đã xuất bản , Nhất
Linh chân thành kể lại đủ thứ quan niệm non nớt của mìn h hồi đang viết nhiều
viết khoẻ, đó là: thích viết câu văn cho kêu, cho văn vẻ; nào thích lồng vào tác
phẩm của mình những luận đề xa lạ, từ bên ngoài, mà không xuất phát từ tình
thế trong câu chuyện mà từ nhân vật; nào là có hồi chạy theo những cốt truyện
giật gân, cốt truyện quyến rũ người đọc…
Trong “Tự lực văn đoàn” , nghệ thuật của Nhất Linh có thể nói là vững
vàng nhất. Cách bố trí truyện, cách sáng tạo nhân vật , cách sử dụng cảnh vật
xung quanh để làm nổi bật tâm lí nhân vật, các nhà văn trong “Tự lực văn đoàn”
đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của ông cả. Có một điều khác là mặc dù, tiểu thuyết
của Nhất Linh cũng nói đến ái tình, nhưng trong vấn đề này Nhất Linh viết đó là
ái tình kín đáo, tế nh ị không diễn đạt bằng lời, mà bằng cử chỉ, dáng điệu nhiều
hơn. Ở đặc điểm này, Nhất Linh cũng đã có từ những tác phẩm đầu tiên và ông
gìn giữ được nguyên vẹn cho đến những tác phẩm cuối. Lê Nương (Nho phong)
cách xa Loan (Đôi bạn) và Thu (Bướm trắng) cả một thế hệ, nhưng ở Lê Nương,
ta đã thấy được ít nhiều tính chất của Loan và Thu sau này.
Hơn nữa, lối văn của Nhất Linh là lối văn rất thi vị, thi vị ở ý mà ít ở lời.
Nhất Linh không trau chuốt như Khái Hưng, nhưng tự nó, nó có nhịp điệu, tự nó
đã du dương . Chặng hạn như Nhặt lá bàng để đầu cuốn Đôi bạn là cả một bài
thơ. Cho nên đọc xong một tác phẩm của Nhất Linh, ít nhất thì trong lòng người
đọc còn giữ lại được một đôi lời, một đôi dáng điệu của nhân vật, không bao giờ
có thể quên.
1.3. Hai kiểu tiểu thuyết của Nhất Linh
26
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1.3.1. Tiểu thuyết luận đề
Như một làn gió mới thổi về , Tự lực văn đoàn đã mở tung cánh cửa xã
hội, phê phán lễ giáo phong kiến trì trệ hàng ngàn năm, mang lại những tư tưởng
nhân đạo tiến bộ, làm nên một diện mạo văn chương tươ i mới và khởi sắc đầu
thế kỉ XX. Trong giai đoạ n phát triển cực thịnh của mình , với mong muốn góp
phần vào công cuộc đổi mới xã hội, hàng loạt tiểu thuyết luận đề của “Tự lực
văn đoàn” đã ra đời . Chúng được coi như những tuyên ngôn nghệ thuật của các
nhà văn về vấn đề Cũ - Mới, một vấn đề nón g bóng trong xã hội lúc bấy giờ .
Tiểu thuyết luận đề của “Tự lực văn đoàn” dường như là sản phẩm của một thời
kì đổi mới tư duy từ hệ tư tưởng phong kiến chuyển sang hệ tư tưởng tư sản.
Trên chiến trường đấu tranh chống lại thành trì phong kiến nặng nề lạc hậu ấy ,
Nhất Linh đã trở nên một trong hai “chiến sỹ chỉ huy tác chiến” (Thanh Lãng)
với những tiểu thuyết luận đề được nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đánh giá là
“những tiểu thuyết chiếm vị trí cao hơn cả”.
Nói về loại tiểu thuyết này, Nhấ t Linh cũng đã đưa ra quan niệm : “Viết
luận đề tiểu thuyết nghĩa là viết tiểu thuyết để nêu lên một lý thuyết, để tán
dương, tuyên truyền một cái gì tác giả cho là tốt đẹp, để đả đảo một cái gì tác giả
cho là xấu xa, viết tiểu thuyết để phụng sự, để chứng tỏ một cái gì đó …” [27,
367]. Như vậy, có thể hiểu tiểu thuyết luận đề là những sản phẩm văn học được
viết ra để minh hoạ cho một chủ đề nào đó, một ý đồ tư tưởng nào đó mà tác giả
muốn gửi gắm.
Có ý kiến cho rằng tiểu thuyết nào mà chẳng có luận đề. Vì thế, chúng tôi
nhận thấy tiểu thuyết luận đề cần được phân biệt với luận đề của tiểu thuyết.
Luận đề của tiểu thuyết chính là chủ đề, là “vấn đề triết lý, xã hội, đạo đức và
các loại hình tư tưởng khác được đặt ra trong tác phẩm” [ 1, 46]. Chủ đề được
hình thành từ hiện thực đời sống thông qua sự khá i quát hoá của chủ quan nhà
văn, chủ đề toát ra từ ý nghĩa khách quan của tác phẩm. Còn ở tiểu thuyết luận
đề, luận đề là cái có trước , cốt truyện và nhân vật được tác giả tìm để chứng
27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
minh. Nếu cốt truyện và nhân vật phù hợp với luận đề thì tiểu thuyết luận đề
được coi là thành công. Còn nếu ngược lại, luận đề không có được cốt truyện và
nhân vật phù hợp thì tiểu thuyết luận đề sẽ không thành công.
Một đặc điểm của tiểu thuyết luận đề là tính định hướng trong khai thác
nhân vật và cốt truyện. Nếu như ở tiểu thuyết bình thường , nhân vật được phát
triển tự nhiên như trong cuộc sống thì với tiểu thuyết luận đề, sự can thiệp của
tác giả khá rõ. Để khẳng định và bảo vệ cho luận đề của mình, các tác giả luôn
xây dựng nhân vật c hính diện mang tư tưởng luận đề , nhân vật phản diện thì
chống lại. Mặt khác, nhân vật thường chỉ được khai thác ở nhữ ng bình diện có
lợi cho luận đề. Kết thúc tiểu thuyết, nhân vậ t chính diện bao giờ cũng thắng .
Kết thúc tiểu thuyết luận đề thường là kết thúc “có hậu” và vì thế , tiểu thuyết
luận đề thường mang mầu sắc duy lý.
Cách xây dựng nhân vật của tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh biểu trưng
cho hai lực lượng đối lập – cô gái mới và bà mẹ chồng hoặc bà dì ghẻ - con
chồng qua hai tiểu thuyết Đoạn tuyệt và Lạnh lùng. Các bà mẹ đại diện cho lề
thói gia đình cũ đang cố níu kéo, duy trì quyền lực làm mẹ và nền luân lý, phong
tục, tập quán, nếp nghĩ cũ, đặc biệt là quyền làm mẹ chồng hiện đang bị lung lay
trước những biến đổi tư tưởng xã hội. Còn đối với các cô gái mới , những nàng
dâu tân thời cũng quyết liệt không kém tìm cách chứng min h và khẳng định
quyền làm người, tự do cá nhân, quyền suy nghĩ và hành động của mình.
Sự phân biệt tư tưởng Cũ - Mới đó có thể gọi một bên là chính diện và
một bên là phản diện. Ở đây xung đột tư tưởng đã trở thành xung đột tâm lý và
ngược lại sự hoà hoãn không được chấp nhận. Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh
đã thành công và chiếm được cảm tình của giới trẻ đương thời vì đã thể hiện
được những luận đề phù hợp với chân lý đời sống, đem lại những khám phá
chân thực về nhân vật, về tâm lý. Có điều, bản thân hiện thực đời sống bao giờ
cũng phức tạp, đa dạng nhưng Nhất Linh đã r ửa sạch mọi tạp chất đời thường,
bỏ đi vẻ bề bộn, đơn giản hoá các qui luật đời sống và qui luật tâm l ý khi viết
tiểu thuyết của mình. Chính vì vậ y, mà nó chỉ còn cái tất yếu mà thiếu đi cái
28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngẫu nhiên , có khi tâm lý được miêu tả trong tiểu thuyết luận đề vừa đúng lại
vừa không đúng với quy luật thông thường , có khi được miêu tả tinh vi trong
một số tình huống nhưng nhìn tổng thể vẫn là đơn điệu, một chiều, thiếu sự phát
triển nội tại. Thế giới nội tâm nhân vật tiểu thuyết luận đề Nhất Linh có nhiều
nét lặp lại. Quá trình tâm lí còn sơ sài, đơn giản, ít biến cố. Đời sống tâm lý của
nhân vật ít biến chuyển, trạng thái tâm lý bộc lộ qua hành động, ngôn ngữ, qua
sự miêu tả của tác giả chứ chưa được biểu hiện bằng những hành động tâm lý
bên trong. Ở nhân vật chưa có sự nổi loạn về tâm lý tính cách, chưa khai thác hết
những mặt phong phú, đa dạng của t ính cách (việc Loan đẻ con trai , Loan dọn
nhà đi không mang theo bát hương, Nhung rút mấy nén hương trên bàn thờ
chồng ra vườn tình tự với Nghĩa) hoặc để cho nhân vật phát ngôn luận đề một
cách trực tiếp, chẳng hạn trong cuộc đối thoại giữa Huy và bà Án; giữa bà Án và
Mai trong Lạnh lùng, ví dụ “Cụ tức là biểu hiện, tức là người đại diện cho nền
luân lý cũ. Mà tâm lý chúng cháu đã chót nhiễm những tư tưởng mới. Hiểu nhau
khó lắm thưa cụ. Cụ với bọn hậu sinh chúng cháu như hai con sông cùng chảy
một nguồn, cùng chảy ra bể nhưng mỗi đằng chảy theo một phía dốc bên sườn
núi, gặp nhau sao được ” hay ở Đoạn tuyệt nhân vật Loan đã nói thẳng trước bà
mẹ chồng phong kiến: “Không ai có quyền chửi tôi, không ai có quyền đánh tôi.
Bà cũng là người, tôi cũng là người, không ai hơn kém ai…”. Tất cả mọi biểu
hiện tâm lý của nhân vật trong tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh đều nhằm bộc
lộ một nét bản chất về tính cách và dục vọng của nh ân vật. Trong bản thân mỗi
nhân vật được miêu tả thì cái gắn với xã hội , cái chung được chú trọng nhiều
hơn. Đó là điều mà Nhất Linh đã nghiêm khắc đánh giá về mình: “Tôi đã để cái
ý định dùng tiểu thuyết là một việc gì (viết luận đề tiểu thuyết) lên trên cái ý
định viết một cuốn tiểu thuyết hay xin nhớ rõ là tôi không nói tới sự lầm về viết
luận đề tiểu thuyết” [28, 17].
Theo chúng tôi, tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh miêu tả tâm lý nhân vật
đều có liên quan trực tiếp đến các vấn đề xã hội. Tác giả không sử dụng những
biện pháp nghệ thuật đặc thù, chỉ sử dụng những thành tựu mà tiểu thuyết hiện
29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đại Việt Nam đã đạt được cho đến thời điểm đó. Tức là , nó không có nét đặc
biệt so với các tiểu thuyết khác, mà nó chỉ đặc b iệt ở mục đích mà Nhất Linh
muốn hướng tới khi miêu tả. Vì vậy, cho dù có những hạn chế song tiểu thuyết
luận đề của Nhất Linh vẫn tiếp nối được thành tựu miêu tả tâm lý mà Tố Tâm –
Hoàng Ngọc Phách đã đạt được , đồng thời có những thành tựu mới, vượt xa
những gì còn non kém và hời hợt trước đây.
Đối với bản thân Nhất Linh trước đây, khi viết các tiểu thuyết luận đề
cũng gửi gắm bóng dáng mình trong đó. Chúng ta thấy thấp thoáng qua các nhân
vật như Dũng, Thái, Trúc (Đôi bạn) là hình ảnh của Nhất Linh. Nhận xét về tiểu
thuyết luận đề của Nhất Linh, GS Phan Cự Đệ viết : “Các nhân vật thường có
những vấn đề riêng, băn khoăn đau khổ riêng. Nhất Linh ký thác tâm sự của
mình vào nhân vật nêu trong tiểu thuyết luận đề của ông thường có một cái Tôi
chân thành, cảm động. Đời của Dũng, Thái, Trúc, Tạo, Cận …là một phần đời
của Nhất Linh, là tâm sự thầm kín của Nhất Linh (…) Nhờ sự gắn bó máu thịt
giữa hình tượng và luận đề, sự kết hợp khá nhuần nhị những phán đoán trí tuệ
với những rung cảm của tâm hồn nên tiểu thuyết Nhất Linh nâng cao được ý
nghĩa xã hội và sức khái quát của tác phẩm mà vẫn không rơi vào tình trạng
minh hoạ một cách khô khan công thức” [11, 379]. Như vậy , hình tượ ng nhân
vật làm nổi bật luận đề, làm cho luận đề có máu thịt với sự số ng. Một trong
những điều kiện tiên quyết để giúp cho tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh thành
công là bản thân luận đ ề mang ý nghĩa tiến bộ xã hội. Tâm lý nhân vật, vì thế,
luôn hướng tới mục đích chứng minh cho luận đề xã hội mà Nhất Linh đưa ra
nhân vật chỉ được chiếu rọi từ một góc nhìn, một hệ quy chiếu.tất cả mọi biểu
hiện tâm lý đều nhằm bộc lộ tình cảm và dục vọng tiêu biểu nhất của nhân vật.
1.3.2. Tiểu thuyết tâm lý
Nếu như trong tiểu thuyết luận đề, các nhân vật trực tiếp tham gia vào
cuộc đấu tranh Cũ - Mới, xông xáo, hăng hái với những hoạt động bề n ổi thì
30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong tiểu thuyết tâm lý, họ lại tìm đến sự sâu lắng của thế giới nội tâm. Nếu như
một bên là tâm lý của đời sống đấu tranh thì bên kia sẽ là tâm lý của đời sống
tình cảm.
Khái niệm tiểu thuyết luận đề, chúng tôi đề cập ở trên chỉ rõ rằng với tiểu
thuyết luận đề, tất cả các yếu tố làm nên tác phẩm đều được dùng để chứng minh
cho một vấn đề tư tưởng - xã hội đã được hình thành trong ý đồ sáng tác của tác
giả. Ở phần này, khi đề cập đến khái niệm tiểu thuyết tâm lý thì sẽ đưa ra được
logic tất yếu đó là : yếu tố tâm lý chính là đi ều mà tác giả quan tâm thể hiện,
miêu tả, xử lý trong tác phẩm ; tâm lý nhân vật có q uan hệ mật thiết với cốt
truyện, thể hiện xung đột, kiểu nhân vật, phong cách ngôn ngữ…Khái niệm tiểu
thuyết tâm lý hiện nay được sử dụng khá phổ biến trong các công trình nghiên
cứu về tiểu thuyết hiện đại, những việc xây dựng một nội hàm cho nó ở nước ta
hầu như ít được quan tâm. Trong hai cuốn Từ điển văn học và Từ điển thuật ngữ
văn học, khái niệm này chưa được đề cập đến. Chúng tôi xin đưa ra một số quan
niệm về tiểu thuyết tâm lý như sau:
Đỗ Hồng Đức, trong luận văn của mình đã giới thiệu khái niệm tiểu thuyết
tâm lý là: Khi nói đến tiểu thuyết tâm lý, dù nói theo cách này hay cách khác,
cũng phải hiểu: đối t ượng chính của ngòi bút tác giả, yếu tố dành được cảm
hứng chủ đạo của tác giả là tâm lý nhân vật [10, 14].
“Tâm lý nhân vật ở đây trở thành một cứu cánh, một lí do để tác phẩm tồn
tại và đứng vững. Sở dĩ như vậy vì đời sống tâm lý con người là một thế giới đặc
biệt cần được khám phá. Tiểu thuyết tâm lý hướng tới nội tâm con người cũng
như các chủng loại tiểu thuyết khác hướng tới các đối tượng khác” [10, 15].
Cách hiểu như Đỗ Hồng Đức về cơ bản thống nhất với cách hiểu sau đây:
“Tiểu thuyết tâm lý là tiểu thuyết tìm cách gợi lên thế giới nội tại chứ không theo
sự sắp đặt của thế giới bên ngoài (…) Nó đơn giản chỉ ra rằng những động cơ
điều khiển tổ chức của cốt truyện, trật tự của các hành động và của nhân vật về
cơ bản được qui về sự phân tích những phản ứng tâm lý của nhân vật (…). Tiểu
31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thuyết tâm lý có chức năng tư tưởng và miêu tả: tính độc lập của thế giới tâm lí
và diễn biến nội tâm của nhân vật cho thấy những xúc động thuần tuý lí trí và
luân lí của thế giới bên ngoài đối với nó …”[48, 140].
Hay trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ XX, GS Phan Cự Đệ đưa ra quan
niệm về tiểu thuyết tâm lý như sau : “Tiểu thuyết tâm lý tập trung cái nhìn hướng
nội vào hiện thực tâm lý, vào thế giới bên trong thầm kín của con người. Ở đây
cảm hứng chủ đạo của nhà văn là khám phá, phân tích tâm lý nhân vật ” [ 12,
231].
Thực ra, tuy sử dụng các thuật ngữ có khác nhau, nhưng các nhà nghiên
cứu trên đây đều có một quan điểm thống nhất chung mà chúng ta nhận thấy đó
là: yếu tố tâm lý được quan tâm nhiều trong cốt truyện; thể hiện cái nhìn hướng
nội vào hiện thực tâm lý, vào thế giới b ên trong thầm kín của con ngưòi . Đó
chính là đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết tâm lý. Tiểu thuyết Bướm trắng là một
trường hợp cụ thể và tiêu biểu trong tiểu thuyết tâm lý của Nhất Linh. Những
nhân vật trong tiểu thuyết tâm lý được tác giả Nhất Linh miêu tả thiên về tự đối
diện với những biểu hiện cái tôi cá nhân trong chính con người mình . Ở tiểu
thuyết tâm lý, ông đặt ra yêu cầu đi sâu khám phá tâm lý con người chú trọn g
miêu tả cảm giác của nhân vật , đây cũng là nét khu biệt và là thành tựu nghệ
thuật trong việc thể hiện nội tâm của văn học lãng mạn. Những hoạt động bên
ngoài không còn được giữ vai t rò quan trọng như trước đây nữa, nhân vật được
quan tâm trong mối quan hệ với đời sống nội tâm. Nhất Linh mở rộng diện quan
tâm tới các nhân vật với nét tâm lý khác nhau trong quá trình miêu tả . Thay cho
động cơ tâm lý nhất quán một chiều là những biểu hiện đa dạng hơn, có cả phần
mơ hồ của tiềm thức, vô thức , nhiều khi cá nhân hành động mà không t ự biết
mình. Đây là nét khác nhau cơ bản trong nét xây dựng tâm lý nhân vật ở tiểu
thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lý của Nhất Linh. Các quá trình tâm lý được
quan tâm, thay cho các trạng thái tâm lý trước đây, với những biểu hiện của sự
vận động, qua những mâu thuẫn nội tại phức tạp. Hành vi bên ngoài và suy nghĩ
32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bên trong của nhân vật không thống nhất đơn giản một chiều, nhân vật độc thoại
nhiều hơn, hiện tượng người trần thuật nhập vào ý nghĩ của nhân vật với cái
nhìn từ bên trong xuất hiện nhiều hơn.
Có thể nói, ở tiểu thuyết luận đề, nhân vật là nhân vật nhập thế , ở trạng
thái động còn ở tiểu thuyết tâm lý, nhân vật thu về đời sống nội tâm, ở trạng thái
tĩnh.
Con đường văn học của Nhất Linh trước cách mạng là đi từ tiểu thuyết
luận đề đến tiểu thuyết tâm lý. Đây cũng là con đường chung của nhiều nhà văn
đương thời và là đặc điểm khiến cho một số nhà phê bình coi Nhất Linh là nhà
văn có chủ trương , có thái dộ làm nghệ sỹ thuần tuý : “Với Nho phong, Người
quay tơ, Nhất Linh đã viết một thứ tiểu thuyết tình cảm. Nghệ thuật trong tiểu
thuyết ấy tuy có kém, nhưng là thái độ thuần văn nghệ. Từ 1932 đến 1938, Nhất
Linh hướng văn nghệ đi vào con đương tranh đấu : toàn là bênh vực với đả ph á.
Nhưng từ 1938 trở đi, Nhất Linh lại có chiều hướng thuần văn nghệ ” [20, 742-
743]. Hai tiểu thuyết dài Đôi bạn và Bướm trắng có thể coi như giai đoạn thành
tựu của một văn tài đã chín. Trong các truyện này , ta lại thấy ông trở về với cái
nhìn hướng nội , tiếp tục nét bút của Giấc mộng Từ Lâm và Nắng thu, mô tả
người thanh niên thế hệ ray rứt bởi nỗi băn khoăn, tâm hồn chia sẻ bởi giữa
những tình yêu, nghệ thuật và cách mạng . Trong suy nghĩ khi viết tiểu th uyết
ông luôn phê phán sự gò ép , giả tạo của tiểu thuyết luận đề, khi bày tỏ mong
muốn về một tác phẩm hay, hấp dẫn người đọc và nó có giá trị trong mọi thời
đại.
Ở đây, có một vấn đề đặt ra là: tại sao các nhà văn cùng thời với Nhất
Linh có chung một con đường sáng tác đó là đi từ tiểu thuyết luận đề đến tiểu
thuyết tâm lý. Sự lý giải này chúng tôi tập trung điểm đồng nhất giữa Nhất Linh
với một số nhà văn trong Tự lực văn đoàn như: Thạch Lam, Khái Hưng. Qua sự
trải nghiệm cùng năm tháng khi chúng ta nhìn lại thấy sự chuyển hướng này
không có một giới hạn rạch ròi , dứt khoát. Bởi vì, hai loại tiểu thuyết này cùng
33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
song song tồ n tại ngay từ 1932, nhưng nếu có thể gọi là trào lưu thì r õ ràng từ
năm 1938 trở về trước , tiểu thuyết luận đề đóng vai trò chủ đạo trong sáng tác
của các nhà văn, còn từ 1938 trở về sau thì tiểu thuyết tâm lý có phần phổ biến.
Ở tiểu thuyết luận đề biểu hiện rõ thái độ nhập thế, tiểu thuyết tâm lý ở
giai đoạn cuối biểu hiện rõ thái độ thoát ly của các nhà văn Tự lực văn đoàn.
Vẫn là các nhà văn lãng mạn ấy, nhưng tại sao lại có những th ái độ khác nhau
như vậy? Nếu đứng ở góc độ nguyên tắc sáng tác mà nói, thì có thể thấy rằng
chủ nghĩa lãng mạn tạo nhiều cơ hội cho việc miêu tả tâm lý, chú ý tới cái tôi
cảm xúc, đời sống nội tâm bên trong của con người. Chủ nghĩa lãng mạn tỏ sự
bất hoà với thực tại, vì vậy mở ra cho nhà văn một hướng tìm tòi mới: Khám phá
thế giới bên trong, coi nó là một đối tượn g ngày càng phong phú, hấp dẫn. Nếu
xét động cơ sáng tác của Nhất Linh hay Khái Hưng thì thấy rằng trong thời tiểu
thuyết luận đề của mình họ đã dùng tác phẩm văn chương để phụng sự lý tưởng
cải cách của mình và phá huỷ những hủ tục đồi phong , xây đắp một cuộc đời
hợp lẽ phải, mà bỏ đi những điều thành kiến, chỉ phục tùng bằng cách lấy lương
tri mà xét đoán tất cả mọi điều trong cuộc sống. Trong giai đoạn sáng tác nhất
định đó, trong động cơ ấy đã gặp được sự thuận lợi nên luận đề đấu tranh chống
lễ giáo phong kiến, cải cách xã hội của Nhất Linh và Khái Hưng nói riêng và Tự
lực văn đoàn nói chung được ủng hộ và đề cao. Họ tin tưởng vào một tương lai
tươi sáng hơn trên bước đường nghệ thuật. Nhưng, do thực tế lịch sử đã làm cho
hy vọng đó sáng lên nhưng không được lâu. Kể từ năm 1939 trở đi , mọi phong
trào cách mạng đều bị thực dân Pháp đàn áp, sách báo bị kiểm duyệt gắt gao, tư
tưởng làm cách mạng văn hoá trong khuôn khổ xã hội thực địa của các nhà văn
đứng trên bờ vực phá sản . Họ đành làm văn nghệ thuần tuý bằng việc viết tiểu
thuyết tâm lý. Ở đây sự đồng nhất trên cùng một đại lộ đó có các nhà văn của Tự
lực văn đoàn và các nhà thơ Mới. Chính thế mà Hoài Thanh đã đưa ra một câu :
“mất chiều rộng, ta đi vào chiều sâu, nhưng càng đi càng thấy lạnh”. Vì lẽ đó mà
ở tiểu thuyết tâm lý khác hẳn với tiểu thuyết luận đề, mối quan hệ giữa con
34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người và hoàn cảnh ít được chú ý, nhân vật bị rơi vào tình trạng ít vận động,
biến đổi, ít bị tác động bởi thế giới bên ngoài mặc dù thế giới nội tâm của nó rất
được quan tâm thể hiện.
Như vậy , nếu ở tiểu thuyết luận đề Nhất Linh hầu như những biểu hiện bên
ngoài của nhân vật thường trùng khít với nội tâm, cá tính của nó thì ở tiểu thuyết
tâm lý, hiện tượng ấy không còn phổ biến nữa. Sự không đồng nhất giữa cái bên
trong và bên ngoài trong mỗi cá nhân , cá thể là những tín hiệu ban đầu cho thấy
sự phong phú, đa dạng, phức tạp của thế giới nội tâm con người. Những tín hiệu
ấy ngày càng được bổ sung và hoàn thiện bởi một số yếu tố nghệ thuật miêu tả
tâm lý đặc sắc khác. Nhất Linh không còn tập trung làm nổi bật mâu thuẫn giữa
các nhân vật trong tác phẩm nữa mà hướng tới thế giới bên trong nhân vật nhằm
thể hiện đời sống nội tâm. Việc quan tâm tới con người nội tâm đã thay thế cho
việc quan tâm tới con người xã hội, từ suy nghĩ của nhân vật thay thế cho trú
trọng miêu tả hành động để rồi từ đó khắc hoạ hình tượng những con người suy
tư. Càng về giai đoạn sau 1937 các sáng tác của Nhất Linh việc di chuyển điểm
nhìn từ phía người trần thuật sang nhân vật càng xuất hiện với tần số cao . Tác
giả để cho nhân vật tự bộc lộ, tự đối diện với chính mình. Vũ Ngọc Phan nhận
xét về Nhất Linh : “Ông viết từ ti ểu thuyết ái tình, tiểu thuyết tình cảm, qua
những tiểu thuyết luận đề, đến tiểu thuyết tâm lý, sự tiến hoá ấy chứng tỏ rằng
mỗi ngày ông càng muốn đi sâu vào tâm hồn người ta". [35, 234].
Tiểu kết chương I
Lý thuyết về tiểu thuyết và nhân vật tiểu thuyết rất phong phú, đa dạng.
Khuôn khổ của một cuốn luận văn không cho phép chúng tôi đi nghiên cứu mở
rộng và quá tỉ mỉ về vấn đề nêu trên. Song việc nghiên cứu tìm hiểu một số đặc
trưng cơ bản nhất của lý thuyết về thể loại tiểu thuyết và nhân vật trong tiểu
thuyết sẽ cho chúng ta thấy những đặc trưng của thể loại và sự vận động phát
triển của nó trong tiến trình văn học, tạo nên cơ sở khách quan khoa học cho
35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
công việc nghiên cứu nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn và
Bướm trắng của Nhất Linh. Toàn bộ vấn đề vừa trình bầy có thể tóm lại bằng
một số luận điểm như sau:
1.Tiểu thuyết là một hình thức tự sự cỡ lớn, có khả năng phản ánh rộng ,
bao quát những vấn đề rộng lớn của hiện thực đời sống. Nó là thể loại ra đời
muộn và cũng là thể loại duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình.
Chính vì thế những đặc điểm của thể loại này vẫn còn được nghiên cứu, bổ
xung, phát hiện theo thời gian.
2. Nhân vật là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, nhân vật là tiêu
điểm để bộc lộ tư tưởng, chủ đề và đến lượt mình, nó lại được các yếu tố có tính
chất hình thức của tác phẩm tập trung khắc hoạ, làm nổi bật hơn lên. Ngay từ
giai đoạn đầu thế kỷ XX, vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết đã được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm. Xuất phát từ quan niệm coi hiện thực tiểu thuyết là thực
tại nên nhân vật cũng phải là những con người bình thường, nhân vật hiện đại
phải là những con người có cá tính riêng, có ngoại hình và nội tâm, mang bản
chất của con người trong xã hội một cách chân thực.
3. Nhất Linh từ giã quan niệm truyền thống để đi vào một quan niệm mới
về viết tiểu thuyết. Trong hai kiểu tiểu thuyết: tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết
tâm lý của Nhất Linh mỗi kiểu tiểu thuyết có một chức năng riêng, do đó có
cách xây dựng nhân vật khác nhau. Con đường văn học của Nhất Linh trước
cách mạng là đi từ tiểu thuyết luận đề đến tiểu thuyết tâm lý. Đây cũng là con
36
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đường chung của nhiều nhà văn đương thời.
CHƯƠNG II
NHÂN VẬT VÀ KẾT CẤU CỐT TRUYỆN TRONG ĐÔI BẠN VÀ BƯỚM TRẮNG
2.1. Quan niệm của Nhất Linh về con người
2.1.1. Quan niệm về con người trong văn học
Trong cuộc sống, con người là hạt nhân, là tâm điểm. Mục đích cuối cùng
của tất cả các ngành khoa học là làm cho cuộc sống của chúng ta càng trở nên
tốt đẹp hơn. Văn học cũng “lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm,
đó là cái đích để sáng tác văn học hướng tới. Đáp ứng nhu cầu hiểu biết của con
người, văn học thực sự trở thành “cuốn sách giáo khoa của đời sống” và con
người là “hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức nghệ thuật” . Vì vậy, quan niệm
nghệ thuật về con người đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật nói chung và
văn học nói riêng. Quan niệm nghệ thuật về con người, chính là thước đo chuẩn
mực thành công và đóng góp của văn học trong việc khám phá thế giới. Khi
đánh giá thành tựu của một nền văn học, một xu hướng, một tác giả hay một giai
đoạn… Không thể không đánh giá quan niệm nghệ thuật về con người.
Quan niệm con người cũng là một sản phẩm của lịch sử. Nó chịu sự chi
phối của cá tính sáng tạo của nhà văn, truyền thống văn hoá dân tộc và ảnh
hưởng của mối quan hệ giao lưu văn hoá quốc tế . Ở mỗi thời kỳ, mỗi nơi, mỗi
con người khi đưa ra quan niệm nghệ thuật về con người đều có sự khác nhau.
Chính sự khác nhau đó tạo nên bản sắc nghệ thuật phong phú, đa dạng cho văn
học và nghệ thuật. Nhưng dù có khác nhau thế nào thì đến cái đích cuối cùng
vẫn là “khám phá ngày càng sâu sắc con người như nó tự cảm thấy trong tự
nhiên, xã hội và lịch sử với tất cả sự phong phú và tinh tế” [40, 101]. Quan niệm
con người là cách hiểu , cách cắt nghĩa về con người. Quan niệm đó quyết định
chiều sâu của việc miêu tả cũng như việc giải quyết chủ đề , đề tài trong sáng
tác… Với tầm quan trọng đó , vấn đề con người đã trở thành một trong những
37
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trung tâm chú ý của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.
Đối với các nhà nghiên cứu phương Tây thì cho rằng con người chính là
phương tiện tất yếu và quan trọng nhất để thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Theo
Brech “các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những b ản
dập của những con người sống, mà là hình tượng được khắc hoạ phù hợp với ý
đồ tư tưởng của tác giả” [5, 213].
Về nhân vật và lập trường của tác giả đối với nhân vật trong sáng tác của
Đoxtôiepxki, Bakhtin có ý kiến : “Nhân vật làm cho Đox tôiepxki quan tâm chỉ
như một quan điểm đặc biệt đối với thế giới và đối với chính nó, như một lập
trường ý nghĩa và lập trường đánh giá của con người đối với bản thân và đối với
thế giới xung quanh nó” [4]. Đó chính là đặc điểm rất quan trọng và căn bản
trong việc cảm thụ nhân vật văn học. Bởi cái cần khám phá và khắc hoạ của tác
giả là một sự tổng kết mới nhất của ý thức và sự tự ý thức của nó. Suy đến cùng
là ý thức mới nhất của nhân vật về chính nó và thế giới của nó. Ở đây, ta thấy
nhân vật trở thành đối tượng của sự tự ý thức mà chức năng của sự tự ý thức đó
lại là đối tượng của cái nhìn và sự miêu tả của chính tác giả. Do vậy, toàn bộ
thực tại đều trở thành yếu tố tự ý thức của nhân vật chỉ có toàn bộ cái tự ý thức
thuần tuý đó mới là đối tượng của cái nhìn và sự miêu tả của tác giả, trong
trường nhìn, điểm nhìn tinh tế của tác giả.
Cũng cùng với quan niệm trên của Bakhtin thì Pospelov nói về điều này
có phần giản đơn hơn, ông cho rằng: “Các tác phẩm tự sự và kịch miêu tả con
người cá nhân với hành vi bề ngoài và cách hiểu thế giới của chúng (…) gọi là
nhân vật được miêu tả một cách nghệ thuật trong tác phẩm” [34, 18]. Như vậy ,
theo Pospelov ở đây nhân vật bộc lộ bản thân chủ yếu không phải trong việc
làm, trong hành động mà qua các su y nghĩ về những điều trông thấy, qua cảm
xúc đối với xung quanh.
Đối với các nhà nghiên cứu phê bình ở Việt Nam quan niệm nghệ thuật là
cơ sở chắc chắn nhất để nghiên cứu tính độc đáo của các sáng tác nghệ thuật. Sự
tiến bộ nghệ thuật được đề cập đến sau đây không nằm ngoài sự mở rộng , đào
38
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sâu các giới hạn trong việc cảm thụ hiện thực, đời sống của các nhà văn. Chúng
tôi xin giới thiệu một quan niệm tiêu biểu trong giới nghiên cứu phê bình ở nước
ta. Theo giáo sư Trần Đình Sử thì vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người
thực chất là vấn đề “tính năng động của nghệ thuật, là giới hạn , phạm vi chiếm
lĩnh đời sống của một hệ thống nghệ thuật, là khả năng thâm nhập của nó vào
các miền khác nhau của cuộc đời” [38, 90]. Khi nói đến quan niệm nghệ thuật là
nói đến tính sáng tạo về chất tr ong cảm thụ và miêu tả đời sống . “Chừng nào
chưa có đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người thì sự tái hiện các
hiện tượng đời sống khác nhau chỉ có ý nghĩa mở rộng lượng trên cùng một
chiều sâu ”[38, 91].
Trong “Một số vấn đề về thi pháp văn học hiện đại” (Trần Đình Sử - Thi
pháp học hiện đại, NXB Giáo dục đào tạo, 1993) tác giả cho biết: Từ trước tới
nay, người ta hay phân tích nhân vật văn học như là sự miêu tả một loại người
nào đó trong xã hội, từ đó người ta thường đối chiếu nhân vật với loại người mà
nó miêu tả xem có giống hay khô ng giố ng để xác định mức độ chân thật . Thi
pháp học có hướng tiếp cận khác: Xem toàn bộ sự miêu tả về n hân vật như là
một cái biểu đạt, như là sự biểu hiện trình độ cảm nhận về con người, từ đó phân
tích nhân vật, để tìm hiểu quan niệm của con người trong ý thức của tác giả.
Từ quan niệm nghệ thuật về con người dưới cách nhìn của các nhà nghiên
cứu ta có thể thấy rằng con người khi được đưa vào trong tác phẩm nó trở thành
đối tượng nhận thức các vấn đề của cuộc sống. Nhân vật được khắc hoạ qua cái
nhìn của tác giả và được các nhà văn thể hiện qua các hình thức nghệ thuật. Qua
nhân vật, người đọc có thể đánh giá được sự cảm nhận cũng như quan điểm, tư
tưởng của tác giả đối với cuộc sống và con người. Ở các nhà văn lớn, sự hình
thành quan niệm nghệ thuật của họ vừa có vai trò đặc biệt quyết định của cá tính
sáng tạo của thế giới quan và tư tưởng nghệ thuật của nhà văn, Với một nhà văn
có một quá trình sáng tác trải qua nhiều giai đoạn thì quan niệm nghệ thuật cũng
có nhiều biến đổi. Quá trình này có khi là sự nhảy vọt , nhưng cũng có khi từ từ
như một mạch nư ớc ngầm thấm dần trong tư tưởng, suy nghĩ và được thể
39
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nghiệm trên từng trang viết với tất cả sự tâm huyết với nghề.
2.1.2. Quan niệm về con người trong sáng tác của Nhất Linh
V.Sécbina trong cuốn Quan niệm con người trong văn học thế kỉ XX cho
rằng: “Quan niệm con người tạo thành cơ sở, thành nhân tố vận động của nghệ
thuật, thành bản chất nội tại của hình tượng nghệ thuật”. Quả là sự vận động của
thực tế làm nảy sinh con người mới và miêu tả những con người thực tế ấy sẽ
làm cho văn học đ ổi mới. Nhưng theo chúng tôi còn một khía cạnh khác nữa là
đổi mới cách giải thích và cảm nhận con người cũng làm cho văn học có sự đổi
thay căn bản.
Cho nên, người nghệ sỹ đích thực là người suy nghĩ về con người, cho
con người, nêu ra những tư tưởng mới để hiểu về con người. Họ lý giải, cắt
nghĩa nhìn nhận và đánh giá con người dưới góc độ triết học và mỹ học. Trong
tiểu thuyết như Đoạn tuyệt, Lạnh lung, Đôi bạn, Bướm trắng…Nhất Linh đã
phần nào làm được điều đó. Ông đã thể hiện một quan niệm về con người mới
làm nền tảng cho việc xây dựng cốt truyện và miêu tả nhân vật trong tác phẩm
của mình.
Con người cá nhân là một phạm trù tiêu biểu của văn học hiện đại. Con
người cá nhân cũng đã được xuất hiện trong văn học trước đó. Ở thế kỉ XVIII -
XIX với nhu cầu hưởng hạnh phúc lứa đôi với ước ao trong khuôn khổ xã hội
phong kiến như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm… đến Tản Đà đã có một cái tôi
“chơi vơi, man mác, vô định”, có nhu cầu tách khỏi xã hội cương thường nhưng
chưa có sức mạnh vị trí của mình. Ở Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, con người
cá nhân muốn có một ý thức độc lập về hạnh ph úc nhưng nó cũng rất mong
manh nên cũng bị thế lực phong kiến nghiền nát. Có thể nói chỉ đến Thơ mới và
Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nói chung và Nhất Linh nói riêng thì quan niệm “cá
nhân” mới được khẳng định đúng nghĩa, là đỉnh cao của hành trình tự ý thức của
con người cá nhân trong xã hội Việt Nam hiện đại .
Trong tiểu thuyết của Nhất Linh, quan niệm nghệ thuật về con người được
40
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
xây dựng theo mô hình con người cá nhân. Đó là con người đấu tranh thoát ly
nghĩa vụ con người xã hội để đến với khát vọng hạnh phúc riêng tư, con người
luôn luôn xung đột với gia đình truyền thống và với đạo đức luân lý của cả một
xã hội đang cố gò con người vào cái vòng cương toả của gia giáo và tiết hạnh.
Với tiểu thuyết tâm lý thì con người có khát vọng hành động tìm lối thoát li mọi
quan hệ xã hội để thoả mãn tự do bản năng đây cũng là cấp độ cao nhất của con
người cá nhân ý thức hướng tới một cuộc đời mới với một quan niệm sống mới,
là ý thức thường trực trong con người ở tiểu thuyết Nhất Linh. Loan luôn luôn
“ao ước được sống cái đời tự do rộn g rãi , không gì bó buộc” [23, 159] hay là
khi cha mẹ nói với Loan về việc nhân duyên của cô, cô thẳng thắn đáp lại (dù là
rất yêu quý bố mẹ) : “Thưa mẹ, sao mẹ hứa với người ta?...Việc của con mà thầy
mẹ cứ coi như con không có ở cái nhà này!” [23, 26]. Loan ý thức về quyền bảo
vệ nhân phẩm và danh dự : “Không có ai có quyền chửi tôi, không ai có quyền
đánh tôi…Loan vuốt tóc ngẩng lên nhìn thẳng vào mặt mẹ chồng :
- Bà là người ; tôi cũng là người, không ai hơn ai, kém ai ” [23, 99]
Còn đối với Nhung trong Lạnh lùng thì bất hạnh hơn. Nàng lấy chồng từ
thủa chưa biết nhớ biết yêu khi chồng mất nàng phải sống cuộc đời giả dối. Dối
mình để không lỗi đạo đức với nhà chồng, dối người để được tiếng khen ở đời.
Đã bao lần Nhun g ý thức về sự lừa dối của mình: “Nàng muốn quên hẳn người
cũ, nhưng một câu nói, một cử chỉ của nàng là một người đàn bà goá kính phục
vì không lúc nào không thương chồng” [24, 198]. Sống dối trá, nhưng nàng vẫn
không tránh khỏi nghĩ : “Một người đàn bà goá sao lại không được phép đi lấy
chồng như một người con gái ? Sao cứ phải ở vậy mới được tiếng thơm cho cha
mẹ và cho gia đình” [24, 260]. Nghĩ cũng chỉ vậy thôi . Những thủ tục lạc hậu
đã hằn trong nếp nghĩ xóm làng Việt Nam, nếu Nhung mà sống thực với lòng
mình, Nhung sẽ bị hàng xóm chê cười. Để yên th ân, nàng đành sống cam chịu
cho dù đã có lúc xao lòng trước Nghĩa.
Con người trong tiểu thuyết luận đề là vậy, còn con người trong Đôi bạn,
Bướm trắng thì lại đấu tranh để giải phóng bản năng của mình. Loan và Dũng
41
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong Đôi bạn mang tâm trạng lưỡng thế của thời đại. Đó là thời đại mà xã hội
phong kiến vẫn còn bám rễ và bao bọc xung quanh Loan và Dũng. Họ muốn
thoát ra khỏi cái xã hội ngột ngạt ấy n hưng họ thật lẻ loi và cô đơn. Dũng luôn
cảm thấy mình cô đơn, chơ vơ giữa gia đình phong kiến trưởng giả tàn ác, Loan
luôn cảm thấy mình trơ trọi giữa cuộc đời. Loan và Dũng là nhân vật lãng mạn,
luôn xa cách với hoàn cảnh thực tại và hướng về một thế giới ở phía trước. Nhân
vật Trương trong Bướm trắng là sự khẳng định một thứ tự do cá nhân tuyệt đối.
Hành động của Trương là hành động chạy theo bản năng xui khiến. Nhân vật tự
để nhân cách của mình tụt dốc một cách vô thức, thậm chí cả ý thức bởi những
hành động vô lý , ngẫu nhiên. Nhà văn Nhất Linh đã nói ra một loạt các hành
động “vô lý” mang tính chất bản năng của các nhân vật: “Vô lý” viết thư tỏ tình
với Thu dù biết đó là một tình yêu “trắc trở”; “v ô lý” đưa thư dù cho bao lần
lưỡng lự ; “vô lý” ăn chơi truỵ lạc, “vô lý” khi ở tù ra giơ cái đầu trọc trước cả
gia đình Thu ; “vô lý” mua dao dù biết rằng không bao giờ giết Thu…
Phải khẳng định rằng con người trong tiểu thuyết Nhất Linh luôn bức bối
ngột ngạt bởi chính thế giới tâm hồn nhạy cảm, đa dạng và phức tạp của mình.
Việc giải thoát sự căng thẳng trong thế giới tâm hồn là một cơ sở để nhà văn
Nhất Linh di chuyển sự chú ý của ngòi bút từ những xung đột xã hội sang những
sung đột nội tâm sâu kín. Những hành động của các nhân vật trong tiểu thuyết
Tự lực văn đoàn nói chung và của Nhất Linh nói riêng là những hành động
mang ít cá tính độc đáo.
Trong các tiểu thuyết : Đoạn tuyệt, Lạnh lùng , hay Đôi bạn Nhất Linh
quan niệm về nhân vật : Nhân vật đại diện cho chế độ và tập tục cũ như Bà Án
(Bướm trắng) - là nhân vật phản diện ; đồng thời có những nhân vật chính diện
mang lý tưởng, thể hiện quan điểm tư tưởng, đạo đức của tác giả, của thời đại
như: Loan (Đoạn tuyệt); Dũng (Đôi bạn ), Trâm (Nắng thu)… Riêng ở Bướm
trắng Nhất Linh còn thể hiện một quan niệm nghệ thuật mới về con người, nhân
vật Trương không thể xếp vào hai loại nhân vật trên. Đó là nhân vật đại diện cho
chính nhân vật đó, cho các h sống và suy nghĩ của chính họ. Trương lao vào ăn
42
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chơi sa đoạ nhưng có lúc hành động cao đẹp, tự ý thức về những việc làm xấu xa
của mình, chàng quyết định chia tay với Thu cũng chính vì muốn g iữ một tình
yêu trong sáng đối với nàng. Ở đây , phải chăng nhà văn Nhất Linh đã xoá nhoà
hai kiểu nhân vật, xoá nhoà ranh giới giữa thiện và ác, giữa tốt đẹp và xấu xa để
tạo nên một kiểu nhân vật phức hợp, hội tụ nhiều phẩm chất, nhiều con người
trong một chỉnh thể ?
Như vừa nói ở trên, con người trong tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh là
con người cá nhân - xã hội, còn con người trong tiểu thuyết tâm lý của ông là
con người cá nhân - tâm lý. Với quan điểm về nghệ thuật tiểu thuyết Nhất Linh
cho rằng: “Một cuốn tiểu thuyết cần nhất là sự sâu sắc. Thế nào gọi là sâu sắc?
Sâu sắc chính là ở chỗ mình diễn tả được tất cả những cái mông lung bí ẩn của
tâm hồn” . Nhất Linh đã mở đầu cách miêu tả thế giới nội tâm của con người,
đặc biệt chú ý trình bày thế giới cảm giác của con ngườ i đối với môi trường
xung quanh, đối với người khác và đối với chính mình, đưa toàn bộ cấu trúc tự
sự vào cấp độ đó.
Chẳng hạn, ở Đoạn tuyệt mở đầu cũng là một đoạn văn miêu tả cảm giác:
“Mỗi buổi trưa chủ nhật về mùa đông trong gian phòng ấm áp , bốn người ngồi
nói chuyện quây quần nói chuyện trước lò sưởi đỏ rực. Bên ngoài mưa bụi lặng
lẽ bay qua mờ mờ như hơi sương. Hai gốc hoàng lan cạnh cửa sổ đứng rũ rượi,
cành lá nặng nề ướt át” [23, 20]. Đoạn kết thúc cũng là đoạn văn miêu tả cảm
giác: “Hiện giờ có một người sung sướng. Người đương đi ngoài mưa gió, quên
cả mưa ướt, gió lạnh ” [23, 134]. Những dòng đầu trong tác phẩm Đôi bạn trong
lời tựa đề “Nhặt lá bàng” tác giả cũng đề tựa một đoạn tả về cảm giác nỗi lòng
của một nhà thơ và nhiều đoạn khác: “Đêm ấy trời cũng lạnh như đêm nay, cũng
về cuối thu. Tôi còn nghe thấy cả một chiếc lá bàng rơi chạm vào tườn g rồi mới
rơi xuống sâu” [ 26, 275] hoặc “trời đã rét, tôi lại ngồi như để đón một cơn gió
lạnh làm tôi giá buốt cả tâm can” [26, 276]. Ở tác phẩm: Bướm trắng cũng mở
đầu bằng cảm giác và kết thúc bằng cảm giác làm cho người đọc cùng thể
43
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nghiệm cảm giác cùng với nhân vật.
Con người trong tiểu thuyết của Nhất Linh có rất nhiều những cảm giác
tưởng tượng, cảm giác mơ mộng, “nhớ lại”, “hồi tưởng lại”, “nghĩ đến” càng
chứng tỏ thế giới nội tâm phong phú , lập thể . “Dũng thốt nhiên thấy quả tim
mình đập mạnh chàng nghĩ đến cái sung sướng một ngày kia, một ngày xa xôi
lắm và không chắc có còn không, lại được gặp mặt Loan, người của quê hương
cũ, người của tuổi thơ mà chàng biế t không bao giờ gặp lại” [26, 376] hoặc
“Trương nhớ đến cái thú thần tiên khi hai người nhìn nhau lần thứ nhất, một giọt
sương sáng long lanh nhưng rồi lại tắt đi ngay” [27, 437] .
Sự tập trung vào thế giới nội tâm đã làm thay đổi cấu trúc tự sự c ủa tác
phẩm. Cấu trúc nhân vật trong Đôi bạn , Bướm trắng , thế giới bên trong đã
chiếm ưu thế hơn so vớ i những biểu hiện hành động bên ngoài. Lời nói bên
trong (độc thoại, nội tâm, ngôn ngữ nửa trực tiếp) chân thật và sinh động hơn lời
đối thoại bên ngoài. Nhất Linh thường khắc hoạ nhân vật trong những tương
phản tâm lí với các nhân vật khác. Rõ ràng, Nhất Linh đã có quan niệm về cá
tính con người một cách rõ nét và cụ thể .
Trong quan niệm n ghệ thuật về con người của mình, nhà văn Nhất Linh
đặc biệt quan tâm đến việc khám phá “con người bên trong”, khám phá những
cảm xúc, cảm giác mong manh tinh tế cũng như mãnh liệt trong tâm hồn con
người nhưng không vì vậy tác giả coi nhẹ việc khắc hoạ, đặc tả “con người bên
ngoài”. Nhân vật của Nhất Linh vẫn hiện ra với những diện mạo và cá tính cụ
thể, đặc biệt là vẻ đẹp ngoại hình. Nhưng ở phương diện này, con người trong
tác phẩm của Nhất Linh đã mang một quan niệm mới so với văn học truyền
thống. Nếu như ở văn học dân gian, vẻ đẹp ngoại hình chỉ là thứ “phụ tùng” của
vẻ đẹp tinh thần và chỉ có giá trị khi nó gắn với vẻ đẹp tinh thần (như “Tốt gỗ
hơn tốt nước sơn”); ở văn học cổ điển, vẻ đẹp ngoại hình được thể hiện trong sự
tương phản sâu sắc với số mệnh (như “hồng nhan đa truân”, “hồng nhan bạc
mệnh”), vẻ đẹp con người luôn đặt vào mối quan hệ mật thiết với thiên nhiên, vũ
44
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trụ thì ở Đôi bạn , Bướm trắng, Nhất Linh đã tái hiện con người cá nhân với
những góc độ chân thật nhất. Vẻ đẹp ngoại hình như là một yếu tố để khám phá
con người, nó là một yếu tố mang giá trị cá nhân, một tiêu chuẩn để đánh giá
con người hoàn chỉnh của xã hội hiện đại.
Có thể nói, đến Nhất Linh, con người mới ý thức công khai được sắc đẹp
tự thân là một yếu tố của giá trị cá nhân. Chính vì thế các góc cạnh củ a sắc đẹp
được miêu tả chi tiết, từ nhiều góc độ. Nó không chỉ được miêu tả qua lời trần
thuật của tác giả mà còn được miêu tả qua sự cảm nhận của nhân vật khác và sự
cảm nhận của chính nhân vật. Vẻ đẹp của nhân vật của Nhất Linh vì thế còn là
vẻ đẹp mang tính chất lý tưởng, nhân vật không chỉ đẹp mà còn có mối quan hệ
mật thiết với trí tuệ bên trong. Nhưng một đặc điểm nổi bật ở đây là vẻ đẹp
ngoại hình của nhân vật là vẻ đẹp hiện đại, cái đẹp mang tính chất đô thị. Bên
cạnh miêu tả những đường nét cơ thể, tác giả còn quan tâm đến việc miêu tả
trang phục, trang điểm của nhân vật, cùng những khía cạnh khác của đời sống
hiện đại.
Tóm lại, vẻ đẹp ngoại hình của con người trong tiểu thuyết Đôi bạn,
Bướm trắng là phương diện tiêu biểu nhất của con người cá nhân đô thị. Nhưng
không chỉ có vậy, vẻ đẹp ngoại hình đã thể hiện một giá trị mới về con người,
một trình độ mới về cảm nhận con người - lần đầu tiên thể chất con người được
miêu tả một cách vật chất, cảm tính, gợi cảm trong tính chất cá nhân, cá thể, với
sác thái nhục cảm nhẹ nhàng, với đặc điểm giới tính, lứa tuổi. Đó chính là nét
làm nên hấp đẫn, trẻ trung, tươi mát của hai cuốn tiểu thuyết này.
Quan điểm nghệ thuật của Nhất Linh về con người trong tiểu thuyết Đôi
bạn và Bướm trắng cho thấy ông đã đổi mới hẳn quan niệm về con người và
cách miêu tả con người, tạo thành chất lượng mới t rong tác phẩm. Cách cảm
nhận chủ quan của nhà văn là một thái độ hàm chứa nhiều bình diện giá trị khác
nhau của đời sống, thể hiện đặc điểm của nhà văn lớn, đa dạng, khác hẳn cái
nhìn hạn hẹp một chiều, mang tính chất giáo huấn như những tiểu thuyết luận đề
45
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của ông ở giai đoạn trước.
2.2. Quan hệ giữa cốt truyện và sự thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết Nhất
Linh
2.2.1. Vấn đề cốt truyện của tiểu thuyết
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội ,
1999, đã định nghĩa : Cốt truyện “là hệ thống các sự kiện cụ thể được tổ chức
theo yêu cầu t ư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản ,
quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự
và kịch” [13, 88] .
Cùng quan điểm như vậy, Lại Nguyên Ân cũng quan niệm: Cốt truyện là
“sự phát triển hành động; tiến trình các sự việc, các biến cố trong tự sự và kịch,
đôi khi cả trong tác phẩm trữ tình” [01, 133] .
Qua hai định nghĩa trên, chúng ta thấy cốt truy ện có những đặc điểm cơ
bản sau:
Cốt truyện thuộc lĩnh vực hình thức nghệ thuật, nó thuộc lớp biến cố của
hình thức tác phẩm . Chính hệ thống biến cố (tức cốt truyện) đã tạo ra sự vận
động của nội dung cuộc sống được mô tả trong tác phẩm.
Cốt truyện tạo ra một trường hành động cho nhân vật và cho phép tác giả
thể hiện và lý giải tính cách của chúng . M.Gorki coi cốt truyện là hệ thống c ác
quan hệ qua lại của nhân vật, là “lịch sử phát triển và sự tổ chức tính cách nào
đó”. Cái dệt nên cốt truyện là hành động của các nhân vật (hành động là sự thể
hiện các xúc cảm, ý nghĩ , ý định của con người vào các hành vi hoạt động, lời
nói, cử chỉ, nét mặt…của họ). Trong văn học có kiểu hành động được thể hiện ở
các vận động bên ngoài (nhân vật có hành động dứt khoát tại các thời điểm,
bước ngoặt trong cuộc đời họ); cũng có kiểu hành động được chỉ ra ở những vận
động bên trong (sự thay đổi trong tâm lí, nhận thức của nhân vật) .
Mặt khác, cốt truyện còn có chức năng quan trọng là bộc lộ các mâu thuẫn
của đời sống, tức là thể hiện xung đột. Cốt truyện vừa góp phần bộc lộ có hiệu
46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quả đặc điểm mỗi tính cách, tổ chức tốt hệ thống tính cách, lại vừa trình bày một
hệ thống sự kiện phản ánh chân thực xung đột xã hội , có sức mạnh lôi cuốn và
hấp dẫn người đọc.
Về phương diện kết cấu và quy mô nội dung, nhìn chung người ta nêu ra
kiểu cốt truyện “biên niên” và kiểu cốt truyện “đồng tâm” (hoặc cốt truyện “ly
tâm” và cốt truyện “hướng tâm” , hoặc cốt truyện “đơn tuyến” và cốt truyện “đa
tuyến”). Các cốt truyện mà trong đó các mối liên hệ thời gian giữa các sự kiện là
nét trội gọi là cốt truyện biên niên. Tính biên niên của cốt truyện khiến các sự
kiện và hành động có thể không thật gắn bó với nhau, đây là điểm mở ra khả
năng cho việc miêu tả thực tại trên nhiều bình diện, thích hợp cho việc xây dựng
các tác phẩm tự sự cỡ lớn. Các cốt truyện mà trong đó giữa các sự kiện, các mối
quan hệ nhân quả chiếm ưu thế gọi là cốt truyện có hành động thống nhất hoặc
cốt truyện đồng tâm. Tính đồng tâm của hành động tạo khả năng kiến trúc trọn
vẹn, nhất quán cho hình thức tác phẩm. Một số tác phẩm có sự tồn tại song yếu
tố đồng tâm và yếu tố hướng tâm trong cốt truyện.
Cốt truyện là sản phẩm sáng tạo chủ quan mỗi nhà văn. Dù đa dạng , mỗi
cốt truyện đều trải qua một tiến trình vận động, có hình thành phát triển và kết
thúc gồm: thắt nút, phát triển hành động (các sự kiện, cao trào), mở nút. Cũng có
cách nêu chi tiết hơn: trình bày , khai đoan (thắt nút), phát triển, đỉnh điểm (cao
trào), mở nút (kết thúc). Ngoài ra người ta còn nêu ra các thành phần khác của
cốt truyện như: tiền sử, hậu sử, mào đầu, vĩ thanh.
Cốt truyện được xây dựng bằng nhiều biện pháp kết cấu khác nhau. Trình
tự thông báo với người đọc về các sự kiện diễn ra, việc nhấn mạnh những liên hệ
bên trong mang ý nghĩa và cảm xúc giữa các sự kiện là phạm vi kết cấu cốt
truyện. Lối kết cấu bằng trình tự liên tiếp trước sau của các sự kiện, ở những tác
phẩm có giá trị nghệ thuật thực sự , khiến cho người đọc luôn thấy sự mới mẻ
qua từng tình tiết, và đoạn cuối thường l à yếu tố trụ cột của cốt truyện. Có khi
nhà văn giãi bầy độc giả, dùng lối kết cấu che giấu để đến lúc nào đó cho người
đọc nhận ra điều trái ngược hoặc điều bí mật. Một cách kết cấu quan trọng là
47
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đảo lộn trận tự thời gian của các sự kiện, nhằm chuyển chú ý của người đọc từ
sự việc sang nội tính bên trong nhân vật. Ở văn học thế kỉ XX, biện pháp ghép
dựng (montage) được sử dụng nhiều hơn, cho phép luân chuyển hành động trong
những thời gian khác nhau. Kiểu kết cấu hồi cố (rétrospective) trong tiểu thuyết
và kịch sử dụng các hồi ức của nhân vật, ngắt quãng tuyến hoạt động chính.
Ở Việt Nam, các nhà tiểu thuyết giai đoạn đầu thế kỉ XX đã rất thành
công trong việc từ bỏ lối viết chương hồi, kết thúc có hậu. Thay vào đó là sự lắp
ghép nhiều mẩu chuyện xung quanh nhân vật chính, cốt truyện cô đọng, kết thúc
bỏ ngỏ, tôn trọng sự thật. Người có công đầu trong những cách tân nghệ thuật
này phải nói tới Song An Hoàng Ngọc Phách và nhóm Tự lực văn đoàn . Trong
đó những đóng góp đáng ghi nhận nhất là nghệ thuật miêu tả tâm lý, tính cách
nhân vật. Tiểu thuyết hiện đại đã phá vỡ những quy phạm cũ, mở ra một hướng
mới để tiểu thuyết tự do phát triển. Đó là dấu hiệu ch ứng tỏ sự hiện đại của thể
loại.
Như vậy, mặc dù vấn đề khái niệm “cốt truyện” đang còn là một vấn đề
phức tạp nhưng trên cơ sở nhữn g khái niệm và những đặc điểm cơ bản vừa nêu
trong luận văn này, chúng tôi cũng xin mạnh dạn khẳng định: cốt truyện là hệ
thống các sự kiện, biến cố cụ thể được trình bày trong tác phẩm thuộc thể loại tự
sự và kịch với ý đồ nghệ thuật của tác giả như một tiến trình và thể hiện qua các
phương tiện nghệ thuật.
2.2.2. Tiến trình cốt truyện trong tiểu thuyết luận đề xã hội và tiểu thuyết tâm
lý
Quan niệm nghệ thuật về con người, cốt truyện, không gian nghệ thuật là
những phạm trù gắn bó chặt chẽ với nhân vật. Cốt truyện là mô hình nghệ thuật
về thế giới của nhà văn; là “con đường của số phận nhân vật”, trong đó chứa
đựng quan niệm của nhà văn về số phận con người. Nguyễn Đình Thi đã chỉ ra
mối quan hệ giữa nhân vật và cốt truyện trong tiểu thuyết như sau: “Nghiên cứu
48
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cho kĩ thì cái xuất hiện trước tiên phải là nhân vật, song hình tượng nhân vật
xuất hiện không thể không gắn liền với cốt truyện, vì thế chúng ta cứ cảm thấy
hai cái xuất hiện cùng một lúc”[42, 645].
Xét sự nghiệp sáng tác của Nhất Linh ở thể loại tiểu thuyết ta thấy có
những tác phẩm tiêu biểu sau: Nho phong, Người quay tơ, Lạnh Lùng, Đoạn
tuyệt, Đôi bạn, Bướm trắng. Ở giai đoạn đầu Nhất Linh chịu ảnh hưởng tư tưởng
của Nho giáo, thì ở giai đoạn sau tiểu thuyết của Nhất Linh chia ra thành hai bộ
phận khá rõ rệt là: tiểu thuyết luận đề (với sáng tác tiêu biểu là Đoạn tuyệt và
cuốn Lạnh Lùng) và tiểu thuyết tâm lý (tác phẩm Đôi bạn và Bướm trắng). Hai
giai đoạn sáng tác sau này cho chúng ta thấy sự vận động về tư tưởng cũng nh ư
nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh. Ở đây, có sự vận động, chuyển hóa giữa
tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lý. Từ chỗ đối tượng của ngòi bút Nhất
Linh là những vấn đề xã hội, tâm lý của xã hội cũ đến đối tượng là thế giới tâm
hồn, là thế giới bên trong của con người với sự hiện diện của tâm lý ý thức và cả
tâm lý vô thức. Trong tác phẩm, tâm lý nhân vật từ chỗ được miêu tả gián tiếp
như là một phương tiện để miêu tả tính cách đến tâm lý được miêu tả trực tiếp
và trở thành đối tượng bao trùm, duy nhất dưới ngòi bút nhà văn.
Cảm hứng chủ đạo ở tiểu thuyết luận đề là sự khẳng định con người - xã
hội, chứ chưa hẳn là con người - cá nhân. Nhà văn chủ y ếu chỉ trình bày những
nét tâm lý thể hiện tính cách, do áp lực luận đề quá lớn. Nhân vật với những tính
cách biết trước, dường như chỉ có động lực tâm lý duy nhất, chịu sự chi phối của
một nét tâm lý chủ đạo. Vì vậy nếu như luận đề tác phẩm phù hợp với hiện thực
thì tâm lý nhân vật trở nên sinh động, thuyết phục và hấp dẫn, tác phẩm đạt tới
sự chân thực; nếu chỗ nào luận đề không sát với hiện thực thì tâm lý nhân vật trở
nên khiên cưỡng. Ví như trường hợp của Loan trong Đoạn tuyệt, tác giả đã công
khai bênh vực cho nhân vật, bênh vực cho cái mới. Chính vì vậy nhân vật có lúc
trở thành cái loa phát ngôn cho tư tưởng của tác giả. Tâm lý của nhân vật mà sự
thể hiện ra là những tình cảm, tư duy đổi chỗ chỉ là sự áp đặt không thực tế. Còn
trường hợp của Nhung trong Lạnh Lùng thì đặc sắc hơn, đã vượt lên nhiều so
49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
với cuốn Đoạn tuyệt. Cái lối dàn dựng sự kiện như những con cờ để bao vây và
tranh thủ một đối tượng luận đề không còn nữa. Tác giả đã ngả sang tả chân tình
cảm. Tâm lý ái tình được ghi nhận và diễn tả một cách khá vi diệu: những lời
nói buột miệng, những cử chỉ vô ý, những ngẫu hợp giữa cảnh và tâm, những
cảm giác hoàn toàn chủ quan và phát sinh dưới góc cạnh con mắt của người
đang yêu. Người ta thấy ảnh hưởng của Proust và Freud nữa trong cái bút pháp
miêu tả ái tình, tình dục trỗi dậy trong lòng Nhung.
Vì hướng tới những vấn đề xã hội nên những đối thoại, độc thoại, phản xạ
hành vi… của nhân vật đều mang tính hướng ngoại, còn phiến diện tuy không
hẳn là giản đơn so với tiểu thuyết truyền thống. Con người vẫn được nhìn ở một
động cơ duy nhất khớp với những vai trò xã hội mà nó đảm nhận (mẹ chồng, gái
mới, kẻ nhu nhược bất lực…), dường như đời sống tâm lý của nhân vật ít vận
động biến chuyển, trạng thái tâm lý chủ yếu được bộc lộ qua hành động, ngôn
ngữ, qua sự miêu tả của tác giả chứ chưa được biểu hiện bằng những hành động
tâm lý bên trong. Quá trình tâm lý còn đơn giản, ít có những biến cố, ít đột biến,
không sát thự c , thiếu sự phát t riển nội tại. Khi miêu tả tâm lý nhân vật, tác giả
chủ yếu miêu tả từ ngoài vào, sự tự biểu hiện (trong t rường hợp các nhân vật
lưỡng lự, nước đôi, đầu hàng) tuy đã xuất hiện, kể cả đã có những trường hợp
nhân vật nổi loạn khi bị giằng xé bởi mong muốn cá nhân và những áp lực bên
ngoài, nhưng trong nhân vật chưa có sự nổi loạn của tâm lý, tính cách.
Ở tiểu thuyết tâm lý nhà văn Nhất Linh, ngày càng đi sâu khám phá tâm lý
con người, con người được nhìn nhận với tư cách cá nhân. Những hoạt động bên
ngoài không còn giữ được vai trò quan trọng như ở tiểu thuyết luận đề, nhân vật
được quan tâm thể hiện trong mối quan hệ với đời sống nội tâm. Tác giả đã mở
rộng diện quan tâm tới cá c đối tượng tâm lý khác nhau trong quá trình miêu tả .
Thay cho động cơ tâm lý nhất quán một chiều là những biểu hiện đa dạng hơn,
có cả phần mơ hồ của tiềm thức, vô thức, linh cảm lẫn bản năng. Các quá trình
tâm lí được quan tâm, thay cho trạng thái tâm lý trước đây, với sự biểu hiện của
sự vận động, qua những mâu thuẫn nội tại phức tạp. Hành vi bên ngoài và suy
50
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nghĩ bên trong của nhân vật không thống nhất đơn giản một chiều, nhân vật độc
thoại nhiều hơn, hiện tượng người trần thuật nhập vào ý nghĩ của nhân vật với
cái nhìn từ bên trong (lời nửa trực tiếp) xuất hiện nhiều hơn. Chúng tôi tiến hành
khảo sát tiến trình cốt truyện hai tác phẩm Đôi bạn và Bướm trắng như sau: Hai
cuốn tiểu thuyểt trên đều có kết cấu gồm ba phần.
Tiểu thuyết Đôi bạn bao gồm:
- Phần thứ nhất có 6 chương, 37 trang (từ trang 279 đến trang 316) trung
bình khoảng 6 trang/chương.
- Phần thứ hai có 7 chương, 59 trang (từ trang 316 đến trang 375) trung
bình khoảng 8, 9 trang/chương.
- Phần thứ ba có 5 chương, 30 trang (từ trang 357 đến trang 387), trung
bình khoảng 6 trang/chương.
Có một sự tương đồng kỳ lạ về nhịp điệu giữa các phần của Đôi bạn. Số
lượng các chương trong mỗi phần không quá chênh lệch nhau (6-7-5) làm cho
chúng gần như có cùng một nhịp độ sự lặp lại đều đặn đó đưa đến một cảm nhận
nhất quán khi đọc tác phẩm. Điều này còn được khẳng định thêm khi khảo sát sự
tương ứng giữa độ dài văn bản và thời gian của các sự kiện được kể lại trong
từng phần. Cụ thể là:
- Phần thứ nhất: Thời gian cốt truyện khoảng 5-6 tháng, được kể lại trong
37 trang văn bản.
- Phần thứ hai: Thời gian cốt truyện khoảng 5 tháng, được kể lại trong 59
trang văn bản.
- Phần thứ ba: Thời gian cốt truyện khoảng 5 tháng, được kể trong 30
trang văn bản.
Rõ ràng có một sự tương ứng kỳ lạ với kết qủa được khảo sát ở trên trong
một khoảng thời gian các sự kiện thực sự được kể lại gần như bằng nhau, chỉ có
độ dài văn bản trong từng phần là có sự chênh lệch. Sự chênh lệch này là không
đáng kể, bạn đọc ưa thích các cốt truyện nhiều sự kiện, biến cố sẽ khó có thể
thoả mãn với những tiểu thuyết của Nhất Linh.
51
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ở Bướm trắng cũng bắt đầu bằng kết cấu ba phần của nó:
- Phần thứ nhất có 7 chương, 36 trang (từ trang 390 đến trang 426), trung
bình khoảng 5 trang/chương.
- Phần thứ hai có 8 chương, 57 trang (từ trang 426 đến trang 483), trung
bình khoảng 7 trang/chương.
- Phần thứ ba có 6 chương, 34 trang (từ trang 483 đến trang 517), trung
bình khoảng 5, 6 trang/chương.
Mỗi phần trong tiểu thuyết của Bướm trắng có một nhịp điệu riêng, phần
thứ nhất có nhịp điệu nhanh hơn cả, hai phần sau chậm hơn và chậm nhất là
phần 3. Kết qủa khảo sát về độ dài của từng phần tương ứng với thời gian thực
sự mà sự kiện được kể lại cho thấy:
- Phần thứ nhất: Thời gian cốt truyện khoảng 5 tháng, được kể lại trong 36
trang văn bản.
- Phần thứ hai: Thời gian cốt truyện khoảng 4 tháng, được kể lại trong 57
trang văn bản.
- Phần thứ ba: Thời gian cốt truyện khoảng 2 tuần, được kể lại trong 34
trang văn bản.
Trong tiểu thuyết của Nhất Linh có rất ít sự kiện biến cố. Đôi bạn và
Bướm trắng thực sự không có cốt truyện theo nghĩa cổ điển của từ này, tức là
không có biến cố quan trọng, tác giả không tập trung vào các sự kiện biến cố mà
tập trung vào việc miêu tả tâm lý nhân vật với những suy tư, trăn trở, dằn vặt. Sự
hồi cố, liên tưởng làm ngưng đọng những khoảnh khắc mà ở đó tâm hồn nhân
vật có dịp bộc lộ, không chút giấu diếm. Tiến trình cốt truyện trong tiểu thuyết
luận đề là hành trình số phận cuộc đấu tranh xã hội của các nhân vật, đi sâu khai
thác sự đối lập giữa tính cách và hoàn cảnh, giữa những nhân vật mang tính lý
tuởng với xã hội phong kiến, giữa mới và cũ. Các tác phẩm này đấu trang cho
một cuộc sống mới, phê phán lễ giáo phong kiến kìm kẹp con người còn trong
tiểu thuyết tâm lý chính là hành trình của thế giới nội tâm của nhân vật, mâu
52
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thuẫn cơ bản của xã hội không được đề cập đến hoàn cảnh xã hội hầu như không
được phản ánh. Các sự kiện ít, mạch truyện chậm, hồi tưởng của nhân vật trôi
chảy, tự nhiên tạo nên sự phát triển tâm lý nhân vật.
Tiếng tích tắc đều đặn của đồng hồ, cái nhịp điệu 60 lần một phút ấy nhắc
nhở con người về thời gian chảy trôi của số phận ngắn ngủi. Nhịp đập 70 lần
một phút của trái tim duy trì sự sống. Hết ngày đến đêm, bốn mùa xuân, hạ, thu,
đông chuyển vần. Kế tiếp thế hệ chúng ta sẽ là con, cháu v.v…đó là nhịp điệu
thời gian, nhịp điệu cuộc sống. Nó nhắc nhở con người hàng ngày hàng giờ về
thân phận và sứ mệnh mà nó vừa phải chấp nhận vừa phải đấu tranh. Nếu có một
loại hình nghệ thuật nào đó nói được tất cả những điều trên thì chắc chắn đó là
tiểu thuyết.
2.3. Hành trình số phận và hành trình nội tâm trong Đôi bạn
2.3.1. Đôi bạn một tiểu thuyết luận đề xã hội với nhiều yếu tố tâm lý
Đôi bạn có kết cấu song tuyến , bao gồm hai mạch chuyện chính : “Bản
tình ca không lời” của “đôi bạn vẫn yêu nhau từ lâu” và hành khúc ra đi đầy trăn
chở của “đôi bạn lên đường”. Hai mạch ấy không tách rời mà đan quyện, xoắn
xuýt vào nhau khiến tác phẩm mang một âm hưởng vừa dịu ngọt, nồng nàn, mê
say, vừa tái tê, man mác: gặp gỡ và chia ly, yêu đương và xa cách…
Trong kết cấu của tác phẩm chứa đầy những vang hưởng của cả hai mạch
truyện: “mối tình xót xa Phương Tạo, mối tình im lặng Hà Trúc, tất cả đều ly
tán, tất cả đều im lặng , mang dấu ấn của định mệnh, xa vời, chập chờn, ẩn hiện”
như là “hình bóng hay âm vang” [26 , 234] của mối tình thầm lặng Loan Dũng.
Kết cục bi thảm của Thái, của Tạo… giống như một định mệnh nghiệt ngã của
các cuộc ra đi mà ở đó “các bạn chàng (Dũng) đối với nhau chỉ có mỗi một dây
liên lạc chung là tình bạn hữu, còn ngoài ra mỗi người đi theo một ngả đường ,
sống theo một cảnh đời riêng, yếu ớt, rời rạc . Thỉnh thoảng lại nghe tin một
người trong bọn chết đi hay bị tù tội, rồi ai nấy , trước số mệnh chỉ việc cúi đầu,
yên lặng, nơm nớp đợi đến lượt mình” [26, 323] khiến cho Dũng lúc ra đi không
53
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng trong tâm hồn như vẫn mong mỏi ; Dũng và
Trúc lên đường trong cảnh mờ sương , hiu hắ t buồn mà không có cái sôi động,
hùng tráng và hứa hẹn.
Nội dung chính của tác phẩm được chia thành ba phần, bao gồm mười
tám chương. Điểm nổi bật của mỗi chương là một trạng thái tâm lý, là một cung
bậc trong đời sống tình cảm, cảm giác của nhân vật. Chẳng hạn, ở phần thứ nhất,
chương I là nỗi xúc động của Dũng trong những phút giây hạn h phúc được ở
bên Loan dưới c ây khế với mùi hương thi êng liêng và trong hàng nước c hè;
chương II là những liên tưởng, mong ước bay bổng của Dũng giữa buổi lễ mừng
thọ cụ Bang; chương III là hoài niệm về buổi tham gia bãi khoá, rời trường học
và nỗi chán ngán về đời sống hiện tại của Dũng; chương IV là nỗi sung sướng
ngọt ngào và êm ái trong lòng Dũng khi Loan đến đúng lúc chàng đang mong
đợi v.v… Lôgic của truyện là lôgic của tâm trạng, tình cảm nhân vật. truyện ít
các sự kiện, hành động quan trọng, các mâu thuẫn, xung đột gay gắt; cốt truyện
không diễn ra theo trình tự: trình bày, thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút thông
thường mà chỉ là những giai đoạn khác nhau của tâm trạng được xâu chuỗi với
nhau. Tác phẩm không kể lại những diễn biến phức tạp của nh ững chuyện tình
éo le, dang dở, mà diễn tả lại tâm lý của các nhân vật trong tình yêu; không miêu
tả hiện thực cuộc sống tù túng, ngột ngạt trong nhà ông tuần mà biểu đạt những
nỗi chán chường, bực dọc, những trăn trở, khát khao, tính toán của Dũng trong
gia đình ấy. Nếu bị kể lại ở dạng tóm tắt những sự kiện chính tác phẩm sẽ mất đi
phần lớn sức sống và vẻ đẹp của nó.
Như vậy, Đôi bạn là tiểu thuyết có kết cấu tâm lý - lối kết cấu thường lấy
quá trình vận động bên trong của nhân vật, những phản ứng tâm lý của nhân vật
đối với sự kiện và những diễn biến tâm trạng của nhân vật trong mỗi quan hệt
với các nhân vật khác làm cơ sở để tổ chức tác phẩm. Lối kết cấu này bắt đầu
xuất hiện trong tiểu thuyết Việt Nam từ năm 1925 với Tố Tâm của Hoàng Ngọc
Phách - tiểu thuyết kể về mối tình đầy bi kịch giữa hai nhân vật Tố Tâm và Đạm
Thuỷ, bao gồm năm chương trong đó mỗi chương là một giai đoạn khác nhau
54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong tâm lý nhân vật: chương 1 là cảm giác man mác của một hoài niệm buồn;
chương 2 là sắc thái trong trẻo của một tình yêu còn bỡ ngỡ, e ngại; chương 3 là
những tình cảm mãnh liệt đi kèm với nỗi ám ảnh của một cảm quan ly biệt;
chương 4 là bi kịch về sự chia lìa, tan vỡ…
Nếu như Hoàng Ngọc Phách đã mang lại khúc dạo đầu cho tiểu thuyết
tâm lý hiện đại thì với Đôi bạn, Nhất Linh đã góp phần đánh dấu sự thành công,
sức mạnh nghệ thuật lớn lao của nó.
Thời gian của truyện không tuân theo trật tự tuyến tính của câu chuyện.
Tác phẩm mở ra khi tất cả đã bắt đầu: mối tình Loan - Dũng, sự chán nản về
hiện tại và khát vọng thoát ly của Dũng…và kết thúc khi tất cả đều chưa đi đến
chung cục. Nhân vật sống trong hiện tại nhưng thường xuyên trở về với những
kỷ niệm của quá khứ và hướng đến một tương lai khác: đứng trước cảnh chôn
cất Tạo, ”Chàng (Dũng) thốt nghĩ đến Loan và tự nhiên nhớ đến một hôm, đã
lâu lắm, nhìn Loan mặc áo trắng đi qua vườn, trong ánh nắng thu, lần đầu chàng
đã cảm thấy vui thấy mình sống. Chàng không dám nghĩ đến một đời ở xa Loan
nay đây mai đó như Tạo, rồi một ngày kia cũng như Tạo chết ở một nơi xa lạ
nào, nằm trong áo quan tối, trong khi Loan đứng bên mồ, dưới ánh nắng, tà áo
trắng của nàng phất phới trước gió” [26 , 350]. Vậy là cùng một lúc, trong tâm
hồn nhân vật diễn ra cả hiện tại quá khứ và tương lai.
Trong tác phẩm luôn có những sự ngưng kết: diễn biễn của mạch truyện
như ngừng lại để cho nhân vật suy tư, ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm, tưởng tượng;
xuất hiện rất nhiều các cụm từ: “Dũng tự nhiên nghĩ đến…[26, 293], “Lòng
chàng thốt nhiên êm ả lạ lùng”[26,301 ], “Dũng tự nhiên cảm thấy rằng…”[
26,323],”Dũng sực nghĩ…”[26, 335], “thốt nhiên nàng nghĩ đến Dũng” [26 ,
337], “Chàng thốt nghĩ đến Loan và tự nhiên nhớ đến một hôm…”[26, 350],
“Tự nhiên chàng thấy vui”[26, 355],”Bỗng Dũng lặng người đi”,lòng chàng thốt
nhiên êm ả hẳn lại” [26,365] “chàng sực nhớ ra rằng…[26, 366], “lòng chàng thốt
nhiên êm tĩnh lạ thường “[26 ,375], “Câu nói củ a Hà đột ngột nhắc đến
Loan…”[26, 381], “Dũng thốt nhiên thấy quả tim đập mạnh”[26, 386],…(những
55
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chữ in nghiêng do chúng tôi nhấn mạnh) khiến thời gian như ngừng trôi, các
hoạt động dừng lại nhường chỗ cho diễn biến tâm lý, cảm giác của nhân vật ,
giúp người đọc có những phút lắng đọng để cảm nhận dư ba của truyện lan toả
trong lòng mình.
Bên cạnh việc xáo trộn thời gian từng thời điểm của câu chuyện, toàn bộ
nội dung chính của truyện lại như một hồi ức của nhân vật người kể chuyện -
“tôi” trong Nhặt lá bàng (Thay mấy lời nói đầu) - khúc dạo đầu, một bộ phận
quan trọng cấu thành nên chỉnh thể của tác phẩm. Điều đó khiến cho toàn bộ câu
chuyện trở nên lung linh, bàng bạ c trong một màn sương hoài niệm, bâng
khuâng, man mác buồn . Kỹ thuật xử lý thời gian đã góp phần đắc lực làm nên
kết cấu tâm lý của tác phẩm.
Khi Trò chuyện về nghệ thuật kết cấu, M.Kundera cho rằng “cấu tạo một
cuốn tiểu thuyết là đặt cạnh nhau những không gian xúc cảm khác nhau và theo
tôi đấy là nghệ thuật tinh vi nhất c ủa một nhà tiểu thuyết”. Trong Đôi bạn có
nhiều loại không gian: bên cạnh không gian bối cảnh, không gian sự kiện còn có
không gian tâm lý - “không gian bên trong con người , những vùng sáng chói và
những cùng mờ tối, nhiều bí ẩn”. Dũng sống trong nhiều không gian bối cảnh
khác nhau : sự u ám, nặng nề, tù túng, ngột ngạt của gia đình; những con đường,
những khu vườn tình yêu đầy hoa bướm; bầu trời, bến đò, núi rừng lộng gió ,
khoáng đạt của cuộc gia đi…
Đôi bạn mang đến cho người đọc nhiều trang văn thật đẹp về những bức
tranh vùng quê, phố Hà Nội …giàu chất thơ và chât nhạc: vườn nhà Cận với
những cây khế có những chùm hoa tím thơm hết mùa này sang mùa khác; giậu
gang với cây bồ kết dại hoa vàng ; bầu trời tr ong, bãi cỏ rộng với cánh bướm
trắng vụt bay cao; “Rặng cây nhãn trên đê, c ạnh bến đò Gió, mờ rõ trong mưa
bụi và khói ở các mái nhà toả ra như mấy vết mực tàu đương lan trên tờ giấy
trắng ướt đẫm nước”; giàn đậu ván với những bông hoa tim tím và những ngón
tay thon của Loan lùa trong màu xanh của lá; phố đêm Hà Nội yên ắng với vằng
56
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trăng buồn bã như đang tưởng nhớ những quãng rộng, những con đường vắng ở
các vùng quê xa xôi, với những bóng cây lưa thưa , với bóng Loan nhẹ và thơm,
khi mờ khi tỏ; ấp Quỳnh Nê với những cành táo trĩu quả, với đồi thông lấp loáng
nắng, với những vạt cỏ may, mùi lúa chín thơm và ấm, những con cào cào cánh
xoè ra lấp lánh xanh đỏ bay l ẫn vào nhau trong nắng …Hoa khế, hoa đậu ván
tím, hoa cải , hoa bồ kết dại vàng , cánh bướm trắng , tà áo lụa trắng của Loan
phất phới bay trong nắng; hương thơm của hoa khế, hoa bưởi, hoa cau, mùi
thơm của lúa chín, mùi đất và mùi gỗ mục , hương thơm trên tóc Loan hay
hương thơm của buổi chiều…Những sắc màu tươi sáng, những hương thơm dịu
ngọt vừa là thiên nhiên êm đềm, vừa chiếm một không gian trong trái tim yêu
thương của “Đôi bạn” đang ngây ngất, đắm say trong hương vị của mối tình đầu
thầm lặng.
Trong tác phẩm , các không gian luôn luôn được chuyển hoá lẫn nhau và
mang đậm dấu ấn tâm lí của nhân vật. “Không gian của Loan Dũng yên lặng,
không gian của Dũng Trúc lạnh, gió thổi lộng biểu đạt cái tự do. Không gian mở
rộng này đối lập với không gian đóng kín nhà ông tuần, bố Dũng” - tất cả nhiễm
cái buồn, mờ, lạnh của những “buổi chiều mờ sương thu”, cái man mác, tê tái
của những biệt ly, xa cách …
Phần chính của truyện mở đầu bằng câu nói của Trúc: “ Trời muốn trở rét
…” [26, 279] và kết thúc vớ i hình ảnh “t rước mặt hai người, về phía bên kia
cánh đồng, ánh đèn nhà ai mới thắp, yếu ớt trong sương, như một nỗi nhớ xa xôi
đang mờ dần …” [26, 387]. Câu kết thúc hô ứng với câu mờ đầu v à “im lặng,
sương mờ, trời lạnh …” [26, 230] là âm điệu chủ đạo , như một nốt nhạc buồn
ngân vang xuyên suốt toàn bộ tác phẩm , đó là nốt nhạc thể hiện tâm trạng, tâm
lý con người.
Nhặt lá bàng - đoạn văn mở đầu, Thay mấy lời nói đầu của tác phẩm -
được giáo sư Đỗ Đức Hiểu đánh giá “là những trang văn xuôi thuộc loại hay
nhất của văn học hiện đại Việt Nam”. Nó vừa thâu tóm nội dung tư tưởng (lời
thúc dục con người hãy dấn thân vào hành động để tìm kiếm “sự bình tĩnh của
57
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tâm hồn” giữa một xã hội đang thay đổi, giữa cơn gió thời đại) và âm điệu chủ
đạo (lạnh, im lặng, gió thổi) của truyện, vừa dẫn dắt người đọc vào một câu
chuyện tưởng tượng nhưng lại tao cho họ cảm giác về tính chân thực của câu
chuyện ấy, khiến tác phẩm dường như có kết cấu “truyện lồng trong truyện” (gợi
liên tưởng đến kết cấu tiểu thuyết Bọn làm bạc giả của André Gide) - lôi cuốn,
hấp dẫn, để người đọc phải theo dõi, khám phá, mong chờ …
Kết thúc của truyện là một kết thúc mở. Thời gian vẫn tiếp tục vận động,
cuộc đời nhân vật đang tiếp diễn - tương lai của họ chưa định hình rõ ràng và
các dòng chảy tâm lý vẫn miên man. Bóng áo lụa trắng của Loan phất phơ trong
nắng vườn chập chờn trong tâm trí Dũng và âm vang của mối tình đầu thầm
lặng, dở dang khiến Dũng ra đi mà vẫn bồi hồi xao xuyến . Truyện đã không bị
áp lực của một kết thúc “có hậu” khiên cưỡng, nó nhằm vào việc diễn tả những
cảm giác.
Như vậy, trong Đôi bạn cách tổ chức tác phẩm, xử lý thời gian và không
gian đến cách mở đầu và kết thúc của tác phẩm đã có nhiều yếu tố của một tiểu
thuyết tâm lý hiện đại. Đến với tác phẩm này, người đọc sẽ không gặp một cốt
truyện éo le, ly kỳ, phức tạp với những xung đột gay gắt được giải quyết từng
bước để đi đến một kết thúc đúng như mong mỏi của người đọc, nhưng tác
phẩm vẫn hấp dẫn, vẫn sống trong lòng họ vì đối với những tiểu thuyết tâm lý
như Đôi bạn, cốt truyện hay và tác phẩm có giá trị. Đúng như sau này Nhất Linh
đã từng phát biểu.
2.3.2. Con người hành động và suy tưởng ở Đôi bạn
Nếu ở Nho Phong các nhân vật được định giá trong các mối quan hệ luân
thường, thông qua việc thực hiện những bổn phận nghĩa vụ trong các mối quan
hệ đó (con với cha, vợ với chồng…) thì Đôi bạn là tiếng nói khẳng định giá trị
của cái tôi cá nhân vượt ra ngoài những khuôn phép truyền thống. Trong lối mở
đầu tiểu thuyết Đôi bạn, Nhất Linh viết: “ Anh phải sống vượt ra ngoài xã hội
bình thường, vượt ra ngoài hoàn cảnh ra đình của anh” (Nhặt là bàng) [26, 276].
58
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nhân vật Loan, Dũng của tác phẩm sống trong ký ức người đọc không phải với
tư cách là người đại diện cho luâ n lý, là sự cụ thể hoá những đạo đức Nho giáo,
mà là những cô gái, một chàng trai cụ thể, có những tính cách và đời sống riêng
mang tính cá thể.
Những thanh niên ít nhiều chịu ảnh hưởng Tây học, mang tư tưởng t ân
tiến, như: Dũng, Trúc, Thái, Cận, Tạo, hay Loan, Hà, Phương đều có ý thức s âu
sắc về giá trị sống của mình và họ luôn làm chủ sự sống ấy. Họ sống tro ng
những mối quan hệ luân thường của xã hội, phong kiến, họ luôn luôn trăn trở,
thao thức để kiếm tìm một phương thức sống mới, một cuộc đời mới, luôn băn
khoăn tìm cách giải phóng mình khỏi hoàn cảnh đang sống.
Dũng là con quan, sống trong cảnh giầu sang và đứng trước một tương lai
cũng giầu sang trong một cuộc hôn nhân “môn đăng hộ đối”. Chàng lại muốn
được sống tự do, Dũng nói: “Tôi có tự do của tôi, tôi muốn sống thế nào thì mặc
xác tôi”[26, 361]. Bởi thế, Dũng luôn luôn trăn trở trong ý định đoạn tuyệt với
thực tại để ra đi, để hành động. Chàng nghĩ: “Giản dị như không…Muốn hành
động, muốn sống theo chí hướng chân thực của mình thì chỉ có một cách là thoát
khỏi hoàn cảnh này. Làm gì có hai con đường mà còn phải lôi thôi nghĩ
ngợi”[26, 365]. Dũng không nghĩ đến cách dời khỏi gia đình mà vẫn còn liên lạc
với gia đình. Đối với chàng phải cắt đứt các dây liên lạc, phải đoạn tuyệt hẳn gia
đình mới gọi là đi (chàng ra đi không phải vì tình yêu tan vỡ, chàng ra đi là để
thoát thân, thoát đời tù hãm), phải như thế chàng mới có các tư tưởng rõ nét về
sự đổi thay, về sự thoát thân.(…) Chàng muốn được như con bướm thoát khỏi
cái kén tối tăm, “bay lên nhẹ nhàng tron g ánh mặt trời, tự do đi tìm hoa trong
các vườn xa lạ; bay đi và không nghĩ đến cái kén kia, không còn biết cái kén
dính ở cành cây nào nữa”[26, 365]. Chàng luôn coi cảnh đời sau này khi đã bỏ
nhà đi - mới là cuộc sống đích thực của mình.
Ngoài ra, các bạ n của Dũng: Thái, Tạo, X uân…cũng đã ra đi. Th ái là
“người cách mạng” quen với kiểu ngang tang và gần gũi nhất với Dũng về tính
cách. Thái sau khi sang Tầu đã nhiều lần tù tội và đều trốn thoát. Thái hành
59
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
động như là một sự cần thiết, kể cả trong nguy hiểm anh không thoả mãn hoàn
toàn. Những khi nhớ đến bạn, Dũng nghĩ về cuộc đời chìm nổi của Thái, một
con người “không mong gì” ở cuộc sống, không tin ở công việc của mình,
nhưng luôn hành động để cố vượt ra khỏi sự buồn nản bao phủ dày đặc quạnh
mình,”[26, 348].
Người bạn khác của Dũng là Tạo, vì hoàn cảnh xô đẩy đi làm “cách
mạng”, đã bền b ỉ hoạt động trong cảnh cùng khổ, thản nhiên vui vẻ trước cái
chết . Những dòng thư Tạo viết cho Dũng: “Tôi chắc lần này khó thoát được .
Thôi thế cũng xong . Tôi không sợ chết đâu. Tôi không buồn gì cả, hình như lúc
này tôi thấy đất mát lạnh” [26, 345]. Hàng loạt các bạn của Dũng như Vương,
Xuân, Minh, Cận, Trúc, Hà …cũng đều không bằng lòng với xã hội đương thời;
không bằng lòng với cuộc sống tù túng, đơn điệu.
Qua số phận, hành động…của các nhân vật trên đã phản ánh “tâm trạng
của một lớp thanh niên đau đớn, chán chường sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái,
Lâm Thao thất bại” [17, 366] . Đó cũng là điều th ường thấy trong văn chương
lãng mạn. Đó là “thái độ không chấp nhận thực tại quy định nhiều nét tiêu biểu
của nhân vật lãng mạn. Đó là con người đơn độc và u buồn, hoặc mơ màng ẩn
dật, trốn chạy cuộc đời, hoặc không biết dùng sức mạnh vào việc gì trong cái xã
hội mà mình đã đoạn tuyệt nên loay hoay kiếm tìm một cách vô vọng, thành con
người thừa, hoặc nổi loạn chống lại xã hội. Con người trong Đôi bạn luôn có
tâm trạng cô đơn, nỗi đau khổ, băn khoăn hoặc có hoàn cảnh éo le”. Trúc không
có gia đình họ hàng , Thái nhà cách mạng chuyên nghiệp nhưng luôn sống trong
sự cô độc, Tạo cha mẹ đã mất chàng phiêu bạt khắp nơi . Loan người yêu của
Dũng lúc nào cũng có một “nỗi buồn xa xôi trong đôi mắt” và “một cảm giác trơ
trọi trước cuộc đời ”. Cuộc chia tay không lời của hai người dưới chân đồi Gió,
giữa nắng gió heo may, có tiếng thông reo , có hương lúa chín nhưng làm Loan
thấy sợ hãi với những ý nghĩ mơ hồ - Ngày mai Dũng đ i xa không biết bao giờ
trở lại. Cuộc chia li của họ hưu hắt một nỗi buồn trong sáng. Dũng sống trong
một gia đình giàu có, đông đúc nhưng chàng luôn cảm thấy bơ vơ , lạc lõng.
60
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Dũng không sao hoà hợp được với gia đình và xã hội xung quanh , chàng sống
trong sự buồn chán. Chính vì vậy mà có lần Loan đã nói với Dũng: “Lúc nào em
cũng thấy anh buồn”, cả khi họ đi bên nhau trong niềm vui nhưng Dũng cũng
phảng phất những lo lắng vẩn vơ, chẳng khác nào như những bông hoa phù
dung đang độ nở đẹp vào mùa thu mà cái chết đã ngấm ngầm ở bên trong. Nhận
xét về nhân vật Dũng, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử viết: “Ở đâu cũng đau khổ,
cái gì cũng làm cho chàng đau khổ, chàng là người không ưa băng bó vết thương
của lòng mình lại xấu hổ về gia đình mình, cái giầu sang đối với chàng chỉ là cái
nhục”[40, 163]. Gia đình Dũng và xã hội xung quanh là một sự khác biệt, một
bên là sự giầu có, sang trọng, hào nhoáng với hàng dãy ô tô đưa khách về dự lễ
mừng thọ vớ i những vẻ mặt béo tốt hồng hào , một bên là nghèo khó, tiều tuỵ
(gia đình nhà Nho lỡ vận như gia đình Loan, gia đình cụ Chánh M ạc đang phải
chật vật kiếm sống). Dũng luôn cảm thấy bức bối, lạc lõng trước lối sống trưởng
giả, tầm thường, vô vị v à giả dối của xã hội thượng lưu. Dũng sống trong hai
không gian, không gian của khát vọng tình yêu và không gian của lý tưởng hành
động. Trong tâm trạng cô đơn, nỗi băn khoăn, đau khổ trước cuộc sống thực tại,
suy nghĩ của Dũng thể hiện một nhận thức khá mới mẻ - hướng tới tự do, dân
chủ, trong lòng dấy lên hoài bão “hành động” ra đi.
Như vậy , Đôi bạn đã thể hiện những khát vọng hành động của một số
thanh niên đang bị nhấn chìm trong nỗi dằn vặt, đau nhói vì cuộc sống không có
lý tưởng, không lối thoát. Đôi bạn là những âm vang đầy trăn trở, suy tư trong
cuộc ra đi của đôi bạn Dũng - Trúc, là khúc hát trong ngần về “cái thủa ban đầu
lưu luyến ấy” của đôi bạn Loan - Dũng, nhưng ngay từ đầu đã tiềm ẩn một cuộc
chia ly. Tất cả, ngân lên trong một “buổi chiều mờ sương thu”, trong không khí
“trời muốn trở rét” [26, 279] đầy biến động của xã hội, của thời cuộc . Khẳng
định tự do cá nhân của những cái tôi đối lập với lễ giáo phong kiến, những cái
tôi “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, băn khoăn đi tìm kiếm hạnh phúc tr ong một
sự đổi thay của xã hội - đó chính là điều mà chúng ta đọc được trong Đôi bạn.
Tư tưởng ấy không phải là định đề có trước để cho câu chuyện minh hoạ, chứng
61
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
minh, đó là ý nghĩa khách quan của tác phẩm mà câu chuyện toát lên.
2.4. Hành trình của nhân vật trong Bướm trắng
2.4.1. Bướm trắng một tiểu thuyết tâm lý
Cốt truyện xét đến cùng chính là tiến trình hành động hay tâm lý của nhân
vật. Sự tiến triển của cốt truyện cho ta thấy sự vận động và phát triển của tính
cách. Sự vận dụng các thủ pháp kết cấu đối với cốt truyện của tác giả chỉ nhằm
nhấn mạnh và làm nổi bật một giai đoạn nào đó trong cuộc đời của nhân vật, từ
đó mà tư tưởn g của tác phẩm hiện lên rõ ràng. Chỉ ở phương diện kết cấu cốt
truyện, Bướm trắng đã có những hướng đi mới, thể hiện sự cách tân của mình.
Việc sử dụng hình thức kết cấu tâm lý đã làm phá vỡ kiểu kết cấu truyền thống.
Các sự kiện, biến cố không là mối quan tâm hàng đầu trong tác phẩm mà nhân
vật trở thành yếu tố hàng đầu, câu chuyện không cần kết thúc có hậu, mạch
truyện không cần phát triển theo trình tự thời gian tự nhiên mà theo sự diễn biến
của tâm lý. Tác giả có thể mở rộng thời gian nghệ thuật để trở về quá khứ hay
hướng tới tương lai do sử dụng những yếu tố tâm lý như kí ức, liên tưởng, tưởng
tượng…Điều này khiến cho tâm trạng nhân vật cũng biến đổi theo những mầu
sắc thẩm mỹ khác nhau.
Vì đối tượng của ngòi bút tác giả ở Bướm trắng là “thế giới bên trong”,
cho nên Nhất Linh đã quan tâm miêu tả đời sống nội tâm nhân vật hơn nhân vật
của nó. Mục đích của tác giả cơ bản được quy về sự phân tích những phản ứng
tâm lý nhân vật , nhằm biểu hiện và tái tạo những cách sống, những biến đổi và
những mâu thuẫn của đam mê tình cảm. Điều đó dẫn đến sự đơn giản cốt truyện.
Các yếu tố, sự kiện bên ngoài càng đơn giản bao nhiêu thì sự chú ý tới đời sống
bên trong của nhân vật càng gia tăng bấy nhiêu. Cốt truyện của Bướm trắng xét
đến cùng chỉ là sự thể hiện câu chuyện sống hay chết, yêu hay không yêu, cao
thượng hay ti tiện, trong sạch hay sa ngã…của Trương mà thôi.
Vậy điều gì làm nên sự tiến triển của cốt truyện cũng như số phận và tính
62
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cách nhân vật ở đ ây? Như đã trình bày , cốt truyện của tiểu thuyết tâm lý không
chứa đựng nhiều tình tiết và biến cố như cốt truyện của các tiểu thuyết hiện thực
khác, kể cả tiểu thuyết luận đề, nhưng ngay từ đầu của tác phẩm, các tình huống
tâm lý đã được cài đặt , là nguyên cớ cho nhân vật tự bộc lộ thế giới bên trong
của mình.
Tình huống là những yếu tố tác động đến nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ
tính cách. “Nó không phải là những sự kiện, biến cố đơn lẻ được trình bày trong
tác phẩm mà là chuỗi sự kiện, biến cố được trình bày theo ý đồ nghệ thuật của
tác giả nhằm nêu bật chủ đề tác phẩm”.
Nếu chúng ta xem xét chuỗi biến cố , sự kiện theo mối liêm hệ thời gian
nhân quả xoay quanh số phận nhân vật thì ở Bướm trắng có các biến cố, sự kiện
quan trọng là : Gặp Thu rồi yê u Thu ngay từ cái nhìn đầu tiên ; được bác sỹ
khẳng định sẽ chết vì bệnh ho lao ( hai biến cố này có thể được coi là thành phần
thắt nút của cốt truyện ); Trương đi theo tiếng gọi của bản năng xui khiến lao
vào con đường ăn chơi sa ngã (thành phần phát triển của cốt truyện) ; thụt két
phải vào tù bốn tháng (cao trào); từ bỏ ý định giết Thu rồi tự sát để về quê sống
với Nhan (mở nút). Rõ ràng việc xem xét cốt truyện theo hướng tr ên chưa cho
chúng ta thấy những sáng tạo của nhà văn trong việc khám phá con người bằng
phương tiện văn học so với văn học truyền thống. Điều mà Nhất Linh quan tâm
là những biến động , những mâu thuẫn trong đời sống tinh thần của nhân vật
được tạo nên bởi tình huống tâm lý qua những tâm trạng bi kịch, sự nhận thức
lại, sự tự ý thức của chính nhân vật.
Phải nói rằng nhân vật Trương trong Bướm trắng luôn luôn đắ m chìm
trong cảm giác và suy tư. Chưa khi nào nhân vật xuất hiện lại tác h rời cái thế
giới bên trong ấy. Xuất hiện lần đầu tiên trên trang sách không phải là một
gương mặt, một dáng vẻ, một hành động…mà là một tâm trạng ẩn chứa biết bao
mâu thuẫn . Nhà văn Nhất Linh cho người đọc thấy biết bao cái vô cớ, vụt đến
trong tâm hồn Trương : “Vô cớ” thấ y lòng vui đột ngột khác thường; nhìn thấy
cảnh tượng nghèo khổ trong một ngày mùa đông lại thấy thú vị ; nhìn cơn gió
63
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thổi bay chiếc lá khô và một ít bụi trắng “bất chợt” cảm thấy nỗi buồn hiu quạnh
của cuộc đời cô độc; “thốt” nhớ đến Liên, người yêu của mình đã chết vì bệnh
lao ba năm trước; nghĩ đến tâm trạng mình khi bị mắc bệnh lao; hi vọng khỏi, lại
náo nức muốn sống, yêu đời và vui vẻ; một ý nghĩ khác lại “vụt đến”: “Thế ngộ
nhỡ mình không khỏi bệnh?” [27, 403]
Chỉ bằng một đoạn văn ngắn mà thế giới tâm hồn con người đã bộc lộ một
cách đầy đủ với biết bao những sắc thái mà chúng ta khó tìm thấy lời giải đáp từ
thế giới bên ngoài. Đoạn văn trên như muốn dự báo về một sự bùng nổ dữ dội
của tâm hồn nhân vật trước biến cố của số phận con người.
Tâm trạng bi kịch của Trương được xây dựng trên một tình huống éo le bi
kịch . Nhân vật được nhà văn đặt vào tận cùng của nỗi đau: Phải chết giữa lúc
đang cần sống nhất. Tình huống này tất yếu đưa đến sự chọn lựa bắt buộc của
nhân vật. Nhưng sự chọn lựa nào cũng có mất mát. Hoặc tự tử để chấm dứt cảm
giác phải sống trong tiếc nuối; hoặc sống gấp để tận hưởng tình yêu và lạc thú
trên đời. Trương không đủ bản lĩnh để có thể tự tử (bởi theo Trương tự tử không
phải là hèn nhát mà hèn nhát mới không dám tự tử) nên Trương chọn cách thứ
hai. Nhưng trong sự chọn lựa này cũng đầy bi kịch. Trưong vốn là một người có
nhân cách cao thượng và trong sạch . Yêu Thu và tận hưởng những lạ c thú của
cuộc sống trước khi chết đồng nghĩa với sự lừa dối và sa ngã. Cái mà nhà văn
Nhất Linh cống hiến cho người đọc ở đây là những trạng thái tâm lý của nhân
vật trước những quyết định chọn lựa được tạo nên từ chính những tình huống
tâm lý ấy. Những tình huống được Nhất Linh xây dựng là sự kết hợp mật thiết
của những sự kiện bên ngoài với trạng thái tâm lý bên trong của nhân vật để tạo
nên những đột phá của số phận nhân vật. Dường như nhà văn không chỉ là người
dẫn dắt đường đi cho số phận nhân vật nữa mà đã cùng nhân vật tham gia vào
“trò chơi số phận” . Chính vì thế đã có nhà nghiên cứu cho tiểu thuyết Bướm
trắng là một dạng tiểu thuyết phiêu lưu.
Trạng thái bi kịch của nhân vật Trương trong Bướm trắng không chỉ là
những trạng thái tâm lý phải chọn lựa đường đi cho số phận của mình mà còn là
64
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những trạng thái ăn năn và sự tự nhận thức lại hành vi của mình. Đó chính là sự
chọn lựa không hoàn kết, không dứt khoát. Theo chúng tôi, đặc điểm này giống
với một số tác phẩm thuộc đề tài người trí thức tiểu tư sản của Nam Cao trước
Cách mạng. Cuộc đời nhân vật là một chuỗi những chọn lựa dở dang, luôn luôn
chung chiêng giữa những thái cực mâu thuẫn nhau mà không tìm ra được hồi
kết. Bởi vậy, nhân vật không có điểm dừng cuối cùng của số phận. Cái kết thúc
chỉ là một trạng thái hoặc một quá trình tâm lí chứ không phải là sự kết thúc của
tính cách. Điều này tạo nên kết thúc mở cho tác phẩm. Nghĩa là khi tác phẩm kết
thúc thì những mâ u thuẫn của nhân vật vẫn còn đó, nhân vật như t rở lại những
trạng thái ban đầu, nó đem lại cho người đọc cảm giác nhân vật vẫn đang sống,
vẫn đang tồn tại trong thế giới riêng của nó khi đã gấp trang sách lại.
Với Trương, chưa bao giờ nhân vật c ảm nhận được niềm vui cuộc sống.
Sa ngã cùng bạn bè, trong khi Quang, Vĩnh, Trực vui đến quên đời trong những
thú thần tiên chết chóc thì Trương vẫn loay hoay với những cảm giác ăn năn :
“Trương chợt nhận thấy mình là một người hấp hối cần suy nghĩ bao quát cả đời
sống của mình trước khi nhắm mắt” [27, 454]; “chàng mở to hai mắt , khắp
người rờn rợn sợ hãi vì lần đầu nhận rõ thấy căn bản của tâm hồn mình, một căn
bản vô luân khốn nạn, bấy lâu còn ẩn núp che đậy, giờ mới lộ rõ ra” [27 ,455].
Chỉ có những con người có nhân cách mới nhìn nhận lại những hành vi tội lỗi
của mình như Trương. Trương không thể vui đến quên sự sống như những
người bạn chơi bời của mình chính bởi nhân cách ấy. Vì thế mà nhân vật không
thể đón nhận cái chết nhẹ nhàng như Quang được.
Với tình yêu cũng thế, càng yêu Thu và có được Thu, Trương càng thấy
đau khổ vì những hành vi lừa dối của mình. Giả sử nhân vật dứt khoát lựa chọn
yêu Thu trong sự lừa dối , coi đó là cái mình đáng được hưởng hoặc rời bỏ Thu
trong sự cao thượng thì Trương sẽ bớt đi đau khổ rất nhiều. Nhưng đằng này ,
Trương vẫn quyết định yêu mà mặc cảm tội lỗi; quyết định xa Thu mà vẫn nhớ
nhung tha thiết và khao khát được gặp gỡ. Sự nước đôi ấy đã đưa đến sự sụp đổ
65
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoàn toàn của nhân vật ở hành động cuối cùng: Thụt két, vào tù.
Quyết định cuối cùng này của nhân vật xét đến cùng là để giải quyết tất cả
những mâu thuẫn của số phận. Một là chấm dứt quãng thời gian chơi bời truỵ
lạc, hưởng hết niềm vui của kẻ có tiền rồi chết. Hai là để thử thách tình yêu của
Thu : hoặc là có được tình yêu của Thu mà không phải day dứt, ăn năn; hoặc là
dứt bỏ được tình yêu của Thu mãi mãi. Có nghĩa là Trương muốn chấm dứt tất
cả những tâm trạng bi kịch bấy lâu vò xé tâm hồn mình, đưa nó về một trạn g
thái đơn nhất là sự bình thản. Nhưng mỉa mai thay cho số phận ! Trương không
chết trong tù như dự kiến. Trương khỏi bệnh hoàn toàn. Ra tù, Trương mất tất
cả. Tiền bạc, sự nghiệp, tình yêu bị tiêu tan. Trương lại rơi vào trạng thái bi
kịch. Nhân vật phải đối diện với cái đáng sợ nhất của cuộc đời mình. Đó là sự vô
nghĩa, sự “hư vô” của cuộc đời. Nhân vật lại bước vào cuộc phiêu lưu mới và
cuộc đấu tranh mới trong thế giới tâm hồn. Giây phút cuối cùng bên Nhan nơi
quê nhà, trên mảnh đất nhà mình là cách giải quyết của nhân vật như lúc ban
đầu. Nhưng nó chưa cho thấy sự an bài nào cả , bởi giây phút ấy Trương vẫn
nghĩ đến Thu: “Lòng tự ái của chàng, vẫn cho là Thu còn yêu chàng, và tình yêu
của một người như Thu, chàng thấy quí giá hơn là tình yêu dễ dãi và bình
thường của Nhan” [27, 516]. Số phận nhân vật thế nào: Sống với Nhan nơi quê
nhà hay sẽ lên Hà Nội tiếp tục theo đuổi tình yêu đầy ngang trái với Thu; chấp
nhận đời sống bình yên tẻ nhạt hay lại chạy theo lối sống phiêu lưu mạo hiểm,
điều ấy tuỳ thuộc vào sự cảm nhận của mỗi độc giả và chính tự thân của nhân
vật.
Như vậy, với cốt truyện tâm lý của mình, Nhất Linh đã phá vỡ lối kết cấu
truyền thống. Sự xuất hiện một cách phong phú của các yếu tố tâm lý như tiềm
thức, vô thức, hồi tưởng, liên tưởng, tưởng tượng đã làm cho bình diện thời gian
trần thuật không còn theo trình tự trước sau , kết thúc của nó bỏ ngỏ, nhà văn đã
tôn trọng hiện thực đời sống , không gò ép cốt truyện và nhân vật theo chuẩn
mực đạo đức xã hội như ở những tác phẩm luận đề của mình và tiểu thuyết giai
đoạn trước. Nhưng điều quan trọng hơn cả là trong cốt truyện của mình, nhà văn
66
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đã rút gọn tới mức tối đa những sự kiện và biến cố bên ngoài tác động tới nhân
vật thay vào đó là những trạng thái tâm lý. Những trạng thái tâm lí của nhân vật
có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển tính cách. Nếu như ở những
tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực, vai trò của hoàn cảnh có tác động quyết định
đến số phận nhân vật, các nhà văn thường ít quan tâm tới yếu tố chủ quan bên
trong thì ở đây , nhân tố chủ quan được nhà văn hết sức chú ý. Điều này khiến
cho tư tưởng trong tác phẩm của Nhất Linh phần nào nhuốm màu sắc duy tâm.
Nhưng đóng góp không thể phủ nhận của nhà văn Nhất Linh ở đây là nhà văn đã
tái hiện một cách hoàn chỉnh, toàn vẹn con người với tư cách là một thực thể, có
thể là sản phẩm của hoàn cảnh nhưng cũng có thể tham gia vào tạo ra hoàn cảnh.
Sự xuất hiện của những yếu tố vô thức, tiềm thức, linh cảm và những cơn mê
sảng…của quá trình tâm lý nhân vật đã chứng minh một thế giới mới trong sáng
tác của Nhất Linh trên tiến trình hiện đại hoá nền văn học dân tộc.
2.4.2. Cốt truyện của tiểu thuyết Bướm trắng
Góp phần vào sự đa dạng và hiện đại hoá nghệ thuật tiểu thuyết, cốt
truyện tâm lý của Nhất Linh thuộc cốt truyện đồng tâm. Hệ thống sự kiện được
tác giả kể lại đơn giản, gọn gàng, tập trung thể hiện quá trình phát triển của tính
cách trong một giai đoạn cuộc đời nhân vật. Tính đồng tâm của cốt truyện cho
phép nhà văn chăm chú nghiên cứu những mâu thuẫn, xung đột tâm lý trong tâm
hồn nhân vật của mình. Vai trò của cốt truyện không nhằm tái hiện những xung
đột của đời sống mà chỉ nhằm phơi bày đến tận ngóc ngách chiều sâu tâm lý con
người.
Tiểu thuyết Bướm trắng chỉ xoay quanh thế giới tâm trạng của Trương -
một sinh viên trường Luật, xin tạm nghỉ học vì tưởng mình bị ho lao , Trương
tình cờ gặp Thu và yêu một cách “mê man” từ cái nhìn đầu tiên. Đúng lúc ấy ,
bác sỹ đã xác nhận Trương sắp chết vì ho lao và suy tim. Tuyệt vọng, Trương
lao vào cuộc sống ăn chơi sa ngã: nhà chứa, gái nhảy, thuốc phiện, cá ngựa, thụt
két…và cuối cùng là nhà tù. Sau bốn tháng Trương ra tù có ý định giết Thu rồi
67
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tự tử nhưng sau đó lại trở về quê nhà sống với Nhan.
Sự đơn giản của cốt truyện cho ta thấy cái mới mẻ trong ngòi bút của
Nhất Linh. So với những tiểu thuyết luận đề, nghệ thuật tiểu thuyết đã có những
bước đổi mới cơ bản. Sự rút gọn các biến cố sự kiện trong cốt truyện đã giúp
nhà văn phiêu du vào chiều sâu thế giới bên tr ong của con người, phát hiện ra
những bến bờ xa lạ của bản năng, linh cảm, của tiềm thức và vô thức…
“Bướm trắng, với cốt truyện đơn giản, là: “thế giới bên trong” con người
vô cùng biến động đó là ý thức và tiềm thức, cái vô lý và cái phi lý, giấc mơ, mê
sảng, linh cảm…Đó là thế giới bên trong của Trương, một thanh niên trí thức ho
lao, đi tìm tình yêu (cá i đẹp) vô vọng trong tuyệt vọng. Tình yêu, cái chết, màu
trắng, máu, tự tử, vào tù, sám hối , truỵ lạc, tình thương, đám ma, đời sống thôn
dã…, đó là những “phiêu lưu” trong tâm hồn Trương được Nhất Linh miêu tả,
phân tích một cách tinh vi” [17, 381-382].
2.4.3. Hành trình tâm lý nhân vật chính trong tiểu thuyết Bướm trắng
Diễn biến của câu chuyện là cuộc hành trình của thế giới bên trong tâm
hồn nhân vật Trương, một thế giới tâm hồn của người bệnh khát khao cuộc
sống, bị cái chết ám ảnh và đau khổ vì tình yêu . Chàng bước vào cuộc vận lộn
âm thầm, dai dẳng, quyết liệt. Nhất Linh để cho nhân vật Trương tự hình thành,
tự khám phá mình qua các trang sách. Nhân vật luôn luôn suy xét , có ý thức
kiểm soát làm chủ hành vi của mình , nhưng hành động lại rất tự phát . Cái bản
năng, lắm khi dẫn dắt chàng vào những con đường quanh co làm chính chàng
cũng ngạc nhiên. Ngay từ đầu tác phẩm, câu chuyện đã mở ra thế giới bên trong
nhân vật sâu thẳm từng phần, từng lớp của nhân vật trước thử thách của bệnh tật
ác nghiệt, dẫn đến cái chết chắc chắn rất gần, cùng với tình yêu mạnh mẽ, bất
ngờ. Từ đó, nhân vật bước vào cuộc hành trìn h đầy những vấp váp, mâu thuẫn,
đối lập với nhau một cách phi lý. Tác giả trần thuật c uộc hành trình ấy ở ngôi
thứ ba. Trong 133 trang của tiểu thuyết Bướm trắng số lần nói đến cái chết là
135 lần, nói đến cuộc sống 105 lần. Mở đầu là suy nghĩ của Trương nhớ về
68
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người yêu của chàng “đã chết vì bệnh lao ba năm trước”[27, 391] Rồi dòng suy
nghĩ của chàng quay về với hiện tại, bệnh lao mới mắc phải, chàng không buồn
lắm “lúc nào chàng cũng hi vọng sẽ khỏi bệnh , chàng lại náo nức muốn sống
yêu đời và vui vẻ ” [27, 391]. Ta thấy chàng là con người ch ừng mực, suy nghĩ
rất đúng đắn, tích cực. Nhưng chàng đã yêu, chàng nhân thấy tì nh yêu sẽ được
đáp lại, chàng đi khám bệnh để biết rõ số phận mình, cái chết không còn là một
ám ảnh xa xôi nữa, nó hiện hình với thời gian định sẵn, sau lời phán quyết của
bác sỹ. Bắt đầu số phận đau khổ, tuyệt vọng. Trương luôn luôn nghĩ đến cái chết
“cái chết thì đã chắc chắn”, “gần đến ngày chết”, “chết mà không biết”, “thế nào
cũng phải chết”, “chết tức khắc”, “đợi cái chết đến”. Khi thấy mình ho ra máu
thì: “Mọi khi chàng chỉ cảm thấy mình sắp chết chứ chưa bao giờ như lần này
chàng nhìn thấy cái chết hiện rõ ràng ra trước mắt” [27, 427]. Khi đốc tờ c ho
biết chỉ còn sống được một năm, chàng lo sợ hoang mang “tái hẳn mặt lại”. Biết
là không hi vọng sống nữa, chán, như người mê đi , chàng đi như không biết
phương hướng, như người mộng du “mắt chàng nhoà hẳn đi không biết v ì nước
mắt hay nước mưa” [27, 404]. Suy nghĩ về cái chết và cuộc sống của Trương
biến đổi đầy mâu thuẫn và hành động của chàng đầy rẫy sự vô lý. Từ con người
chừng mực chàng trở thành kẻ liều lĩnh: “Sống cực điểm”, “sống theo ý mình”,
“sống cho chán chường” nhất là từ lúc ho ra máu, chàng càng lao vào ăn chơi,
cho chóng chết đến nỗi: “Tâm hồn chàng còn chán sống hơn cả thân thể chàng”.
Cuối cùng, chàng lại thấy “không thể sống gấp được”, nhưng chàng vẫn liều lĩnh
sống gấp, thụt két , vào tù, chàng nói với Mùi : “chưa chắc anh đã sống đến lúc
ra tù”, không sợ ngồi tù v ì “từ nay chàng không phải sống, không bận tâm đến
sống nữa”. Ra tù, khỏi bệnh, không bị cái chết đe doạ và có lẽ sống lâu như mọi
người khác, Trương lại nghĩ đến việc tự tử: “Trương dịu lòng lại , tha thiết cần
một thứ gì để an ủi mình, một thứ gì rất êm dịu …cái chết. Trương lim dim mắt
nhìn quãng đê vắng tanh như một con đường đưa người ta đến một nơi xa xôi
yên tĩnh lắm. Ngay lúc đó, Trương thấy không cần phải có can đảm mới tự tử
được” [27, 511]. Dường như sắp giết người và tự tử, chàng lại trở về với cuộc
69
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sống một cách giản dị tự nhiên. Khi chợt nhớ ra ngày giỗ mẹ, chàng có cớ trở về
quê thăm Nhan: “Đời sống đối với chàng hiện ra mới mẻ, nhiều hứa hẹn và như
thế ngay trong lúc gia sản chàng đã hết sạch và chàng đã chán chường mọi thứ”
[27, 514]. Trong 21 chương, không chương nào không nói đến cái chết . Không
chỉ nói và nghĩ đến cái chết của mình , Trương còn chứng kiến những cái chết
thực. Mở đầu tác phẩm là đám ma ông cậu của Hợp (bạn chàng), chết vì bệnh,
khổ sở hơn mười năm “cái chết là sự thoát nợ” . Kết thúc tác phẩm là một đám
ma (Quang, bạn học của Trương) chết vì ho lao. Trong câu hát của Thu cũng
hiện lên “người lái đò sớm chết”. Cuộc đi chơi lãng mạn của Trương và Thu ở
chùa Thầy, Kim bạn gái của Thu hôm đó nhắc đến cái chết của người bạn gái
khác: “Giờ thì chị ấy chết rồi, tội nghiệp chị ấy chết vì bệnh lao”. Càng bị cá i
chết ám ảnh bao nhiêu, Trương càng khát khao cuộc sống , ham sống bấy nhiêu.
Chỉ nghĩ đến không thể khỏi bệnh trái tim chàng đã thắt lại đau nhói.
Trương không chỉ bị dày vò đau đớn về cái chết, về cuộc sống, chàng còn
đau đớn, khốn khổ vì tình yêu, về những cảm xúc ham muốn một tình yêu “mê
man”. Trong ý nghĩ của Tr ương hình ảnh Thu - với tấm áo nhiễu trắng là hoa
ngọc lan trắng, là bướm trắng, là cái đẹp - chập chờn, mà chàng theo đuổi một
cách tuyệt vọng. Trương ngắm bàn tay người yêu qua khe vách và đau khổ biết
bao cho số phận mình : “Chàng không hiểu tại sao chàng mang máng thấy đời
người đẹp vô cùng trong sự sống có bao nhiêu cái đẹp mà chỉ riêng chàng bị hắt
hủi. Đối với đời, chàng như người chỉ được ngắm có cái bàn tay” [27, 414].
Đêm đó Trương đã khóc và bùi ngùi gọi thầm: “Em Thu, em Thu” . Chàng nhất
quyết viết thư tỏ tình cho dù không được yêu lại và làm bất cứ việc gì khác
thường để quên sự sống.Trong cuộc hành trình đến tình yê u của Trương cũng
đầy mâu thuẫn, vừa êm ả lại vừa dữ dội, vừa hy vọng lại vừa tuyệt vọng: Định
không viết thư rồi lại viết, đưa thư xong lại ân hận, “tình yêu không giúp được gì
cho chàng cả, chỉ xui chàng làm hại đời Thu một cách độc ác” [27, 419]. Cứ thế
chàng day dứt về tình yêu, về “yêu”, “không yêu”, “thôi yêu”, “thoát được tình
yêu của Thu”, ngóng chờ một nụ cười, một ánh mắt , một bóng d áng, một câu
70
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nói của người yêu.
Còn Thu yêu chàng bắt đầu từ việc nhận ra vẻ “đẹp não nùng” của hai con
mắt Trương. Thu đã lựa chọn tình yêu của Trương mà từ chối mọi lờ i cầu hôn
của những nơi giàu có, quyền quý. Thu cũng cố gắng để “mong cứu vớt Trương
ra khỏi vòng truỵ lạc” . Thu đến gặp Trương bày tỏ tấm tình, lo lắng cho
Trương…Thu nhận ra rõ ràng: “Nếu nàng không yêu Trương nữa hay tình yêu
của nàng kém bớt đi thì thế nào cũng có tai nạn lớn xáy ra” [27, 472]. Khi gặp
Trương xin chàng đừng l iều thân, lòng nàng “tràn ngập một tình thư ơng, một
người đã khổ sở vì quá yêu mình” [27, 474]. Nhân vật Thu được xây dựng rất
đẹp, một vẻ đẹp rực rỡ, trí tuệ minh mẫn, tâm hồn nàng trong sáng giàu lòng vị
tha đối với Trương. Cuộc hành trình đến với tình yêu của Trương đầy rẫy mâu
thuẫn cứ hy vọng rồi lại tuyệt vọng, thẳng thắn và quanh co, cao thượng và thấp
hèn. Chàng trăn trở về tình yêu còn nhiều hơn cả cái chết và cuộc sống. Khảo sát
Bướm trắng chúng tôi thống kê được 172 lần Trương suy nghĩ về tình yêu.
Trương mang sẵn nỗi cô đơn, nỗi buồn của con người cá nhân, thấy mình
trơ trọi, buồn khổ “Trương thấy một nỗi buồn lạnh lẽo thấm vào tâm hồn lạnh
lẽo”. Ngay đầu tác phẩm: “Trương cảm thấy nỗi hưu quạnh của cuộc đời cô
độc” [27, 391]; “chàng cảm thấy mình trơ tr ọi trước cuộc đời không bạn hữu,
không cha mẹ , anh em” [27, 427]. Nỗi buồn cô đơn của Trương cũng như nỗi
buồn của các nhân vật lãng mạn khác của Nhất Linh, họ cảm thấy sự bất tiện
trước hoàn cảnh xã hội, hay vì tình yêu không thành, bị mất phương hướng do
cuộc sống không có lý tưởng. Nhưng Loan, Nhung còn hy vọng ở tình yêu ,
Dũng còn có mơ ước “thoát ly” làm “cách mạng” còn Trương phải đối mặt với
cái chết, lại bị khát vọng tình yêu dày vò vì thế sự cô đơn , đau khổ của Tr ương
khốc liệt hơn. Bản chất người, lý trí, lương tâm, ý thức khiến Trương luôn tự tra
tấn, đấu tranh với bản năng ham muốn. Chàng không lấy Phiên vì nhà Phiên
giàu có, Trương hơi ngượng khi viết thư cho Thu vì chàng đã bịa quá ra, lấy làm
xấu hổ khi lợi dụng Nhan , thấy mình “khốn nạn” vì không dám nói thật t ình
trạng bệnh tật cho Thu biết, luôn “cảm thấy mình có tội với đời không thể đàng
71
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoàng nhìn mặt mọi người” [27, 457]. Khi ra tù, Trương tự thấy mình bệ rạc và
rơi xuống đáy vũng bùn. Trong cuộc hà nh trình của thế giới bên trong, Trương
phân thân thành hai, thành ba con người để đối thoại xét đoán mình, con người
của lý trí đạo đức, phản bác lên án hành vi của con người bản năng, con người
của tình cảm, tâm linh cũng lên tiếng với ước vọng thầm kín. Cứ như thế những
trạng thái ân hận, hổ thẹn, sợ hãi, bối rối, quả quyết, ngượng ngập, lo âu, dẫn dắt
Trương vào cuộc hành trình biến động và mâu thuẫn không theo một logic nào.
Từ xét đoán mọi điều “vô lý”, nhân vật Trương tự nhận ra mình, tự bộc
lộ, tự khám phá mình. Chính nhà văn và độc giả cũn g đi vào hành trình khám
phá đó. Nhà văn khẳng định cho Trương một tính cách rồi thể hiện tính cách ấy
bằng hành động, ngôn từ, tả cảnh, đối thoại, suy nghĩ…xung quanh cái tính cách
ấy. Nhân vật Trương đã xoá nhoà ranh giới chính diện, phản diện, tính cách của
chàng luôn luôn biến động, khi là con người mực thước, lúc lại bạo liệt liều lĩnh,
ích kỷ và nhân hậu, phóng đãng và tự trọng.
Tiểu kết chương II
Nếu coi tác phẩm văn học là một chỉnh thể mang nhiều cấp độ thì nghệ
thuật xây dựng và thể hiện nhân vật trong tác phẩm cũng có nhiều cấp độ thể
hiện.Trong đó, xây dựng nhân vật ở cấp độ kết cấu của tác phẩm là một cấp độ
lớn của nghệ thuật xây dựng nhân vật, nó cho chúng ta thấy được một cách bao
quát về số phận cuộc đời nhân vật cũng như những tư tưởng, tình cảm của nhà
văn muốn gửi gắm qua nó. Ở tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng chúng tôi nhận
thấy sự thể hiện nhân vật ở góc độ này có một số đặc điểm sau:
1. Khám phá nhân vật, chúng ta không chỉ chú ý tới phương diện nội dung
và tính khách thể của nó mà còn phải gắn với cái nhìn nghệ thuật, cách tư duy
cảm nhận chủ quan nhà văn về con người. Quan niệm nghệ thuật về con người
của Nhất Linh đã tác động, chi phối mạnh mẽ tới thế giới nhân vật trong tiểu
72
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thuyết Đôi bạn và Bướm trắng.
2. Cốt truyện là hình thức tổ chức cơ sở của truyện. Nó chính là con
đường đi của số phận nhân vật. Việc tổ chức sự kiện và trình tự thông báo trước
sau các sự kiện có tác dụng làm nổi bật tính cách nhân vật cũng như tư tưởng
của tác phẩm cốt truyện tâm lý của Đôi bạn và Bướm trắng được xây dựng
không phải chỉ dựa trên những biến cố sự kiện tác động từ bên ngoài, mà quan
trọng được tạo nên bởi những tình huống tâm lý bên trong. Điều này làm cho
nghệ thuật thể hiện nhân vật của Đôi bạn và Bướm trắng có những yếu tố mới
mẻ, mang mầu sắc hiện đại so với tiểu thuyết truyền thống.
3. Ở tiểu thuyết Đôi Bạn, tác giả thể hiện cuộc vận động trữ tình trong tâm
hồn của con người, hướng tới những khát vọng lãng mạng về tình yêu, về lý
tưởng. Nhất Linh đã gửi gắm tâm sự của những thanh niên, trí thức (và cũng có
thể của bản thân mình) trước một xã hội đang thay đổi. Con người cứ đi tìm
kiếm, tìm kiếm không ngừng lý tưởng cho lẽ sống và hành động. Tiểu thuyết
Bướm Trắng, Nhất Linh đi sâu vào bi kịch và số phận cá nhân. Ông để tự nhân
vật tự hình thành, khám phá, soi tỏ qua cuộc hành trình của tấn kịch lương tâm
của bản năng, ý thức, vô thức, tiềm thức, tâm linh trước quy luật muôn đời của
bệnh tật và cái chết với cuộc sống và tình yêu.Qua đó nhà văn có thể muốn gửi
gắm tâm tư, niềm tin về số phận con người trước hiểm hoạ khôn lường của
những căn bệnh đồng nghĩa với cái chết. Nhất Linh vẫn tin ở con người sẽ tìm ra
lối thoát để phục sinh, có lẽ đó là đóng góp mang ý nghĩa nhân văn của tiểu
73
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thuyết Bướm trắng còn lại cho đến ngày nay.
CHƯƠNG III
CÁC THỦ PHÁP XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG ĐÔI BẠN VÀ BƯỚM TRẮNG
3.1. Các thủ pháp thể hiện thế giới bên trong của nhân vật trong Đôi bạn và
Bướm trắng
Để khám phá Con người bên trong, tác giả Nhất Linh đã miêu tả tâm lý
nhân vật ở các mức độ biểu hiện khác nhau . Tâm lý nhân vật tự bộc lộ ra bên
ngoài qua những biểu hiện nhỏ nhặt , qua ngôn ngữ, hành động có tính b ột phát
bất chấp sự kiểm soát của lí trí và ý thức, mặt khác tâm lý nhân vật được miêu
tả, thể hiện trực tiếp hoặc cũng có thể được nhân thức qua quá trình phân tích
của chính bản thân nhân vật. Nhưng, trước tất cả các biện pháp ấy phải kể đến
vai trò của tình huống cốt truyện . Như ở phần trước đã chứng minh cốt truyện
của tiểu thuyết tâm lý không chứa đựng nhiều tình tiết và biến cố như cốt truyện
của các tiểu thuyết hiện thực. Nhưng các tình huống tâm lý cần tồi tại để thúc
đẩy tiến trình tâm lý. Ngay từ đầu tác phẩm, các tình huống tâm lý đã được cài
đặt. Nó là điểm tựa để nhà văn lựa chọn biện pháp cho thích hợp.
3.1.1. Đối thoại tâm lý
Ngôn ngữ đối thoại là sự giao tiếp qua lại (thường là giữa hai phía) trong
đó sự chủ động và sự thụ động được chuyển đổi luân phiên giữ a những phía
tham gia giao tiếp; mỗi phát ngôn đều được kích thích bởi phát ngôn có trước và
là sự phản xạ lại phát ngôn ấy. Thuận lợi nhất cho ngôn ngữ đối thoại là các kiểu
tiếp xúc không mang tính quan phương, tính công cộng; là kiểu trò chuyện giản
dị, xuề xoà, nói bằng khẩu ngữ, là không khí bình đẳng về tinh thần - đạo đức
giữa những người phát ngôn. Đặc trưng cho ngôn ngữ đối thoại là sự luân phiên
giữa các phát ngôn ngắn. của những người phát ngôn khác nhau. Nhưng yếu tố
đối thoại cũng đã có mặt ở lời nói của một người, được kích thích bởi nét mặt và
cử chỉ của người cùng trò chuyện. Đó là quan niệm của ngôn ngữ học . Ngôn
74
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngữ đối thoại trong văn học cũng mang một số đặc điểm trên, song cũng có một
số đặc trưng riêng biệt. Khi sử dụng khái niệm “đối thoại tâm lý” chúng tôi đã
có ý thức giới hạ n phạm vi khảo sát và phân tích. Ở đây chúng tôi không quan
tâm tới những mẩu đối thoại thông thường nhằm tiếp nối mạch trần thuật hoặc
chỉ đơn thuần miêu tả tính cách nhân vật mà chủ yếu dừng lại ở các đoạn đối
thoại có tác dụng miêu tả trực tiếp tâm lý (thật ra rất khó phân biệt thật rạch ròi
được điều đó, bởi mục đích của đối thoại bao giờ cũng là để làm rõ nhân vật và
tư tưởng, nhưng nói như vậy có nghĩa là chúng tôi đặc biệt quan tâm tới mức độ
miêu tả tâm lý của các màn đối thoại). Khảo sát những màn đối thoại tâm lý của
tiểu thuyết Đôi bạn, Bướm trắng, chúng tôi thấy có những dạng thức sau: Đối
thoại mang tính chất ám chỉ; đối thoại qua hành vi, cử chỉ và đối thoại mang tính
chất độc thoại. Do giới hạn của luận văn, chúng tôi chỉ đi xem xét đối thoại
mang tính chất ám chỉ và đối thoại qua hành vi, cử chỉ.
3.1.1.1. Đối thoại mang tính chất ám chỉ
Biện pháp nghệ thuật này đã được Nhất Linh sử dụng trong các tiểu thuyết
luận đề, nhưng đối thoại mang tính chất ám chỉ ở tiểu thuyết tâm lý có một biểu
hiện khác. Nếu như ở tiểu thuyết luận đề, các nhân vật của Nhất L inh mượn đối
thoại để khích bác, mỉa mai bóng gió một người thứ ba thì ở đây các nhân vật
dùng đối thoại để tìm hiểu, thăm dò lẫn nhau. Qua các đối thoại ấy, mỗi giao
cảm giữa Loan và Dũng trong Đôi bạn, Trương và Thu trong Bướm trắng được
thiết lập, hai cặp tình nhân đó họ có điều kiện hiểu nhau hơn để rồi xích lại gần
nhau.
Trong đối thoại mang tính chất ám chỉ thường song song tồn tại hai lớp
nghĩa: ngôn từ đối thoại diễn đạt ý tường minh nhưng còn một lớp nghĩa hàm ẩn
chìm dưới từng lời đối thoại. Vì vậy cũng có thể gọi đây là đối thoại ngầm.
Theo sự thống kê của chúng tôi, hình thức đối thoại mang tính chất ám chỉ
sử dụng trong Đôi bạn là : 9 lần [xem 26: 292, 315-316, 327, 332, 336-337, 344,
75
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
346, 369, 371] và ở Bướm trắng có số lần ít hơn Đôi bạn: 8 lần [xem 27: 397,
398, 399-400, 417, 421- 422, 501, 543, 558]. Do giới hạn của luận văn , chúng
tôi dẫn ra một số ví dụ tiêu biểu ở cả hai tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng:
Ở tiểu thuyết Đôi bạn, một đêm mưa Loan sang nhà Dũng chơi trong bầu không
khí ấm áp, thân mật của căn phòng nhỏ với ba người bạn Loan, Dũng và Trúc.
“Dũng khẽ nói với Loan:
- Mưa thế này thì cô về làm sao được?
Dũng lấy làm lạ là khi hỏi câu hỏi rất thường ấy, giọng chàng đổi khác hẳn đi.
Loan áp hai bàn tay vào má, hai ngón út khẽ đập trên thái dương, thẫn thờ nói :
- Thì cứ ngồi đây suốt đêm, mãi mãi.
Một lát sau , nàng mỉm cười tiếp theo:
-Ngồi nghe mưa rơi ” [26, 315].
Câu hỏi của Dũng c ứ ngỡ là thường, thực ra chẳng thường chút nào cả ,
bởi nó được diễn đạt bằng giọng đổi khác, nó ngầm chứa được điều mong mỏi
rằng giá mà Loan ở lại. Bắt được mạch ngầm ấy, Loan tỏ thái độ thẫn thờ, bởi
biết rằng điều đó không thể có, trong khi đó cái mỉm cười của Loan vẫn đảm bảo
liên kết ý nghĩa tường minh của các câu trao đổi. Chính vì vậy ở phần cuối câu
chuyện, Dũng mới có thể hiểu câu nói: “Có lẽ mưa suốt đêm chắc” của Loan là
một lời reo vui và Loan cảm thấy sung sướng khi Dũng khen hai bông hoa nhài
nở về đêm đẹp quá - hai bông hoa ấy là đôi mắt của Loan.
Cuộc trò chuyện giữa bà Hai, Loan và Dũng, Dũng đã bóng gió bày tỏ
tình cảm của mình cho Loan biết qua lập luận : Không lấy vợ - Dũng sẽ lấy vợ
nếu gặp người vừa ý - không lấy vì sợ người ấy khổ. Bà Hai cho rằng:
“Anh nói có giời hiểu”, nhưng Loan khẳng định: “Trời không hiểu nhưng
người may hiểu chăng” [26, 344]. Lời nói ấy phản ánh đúng sự đứt đoạn và sự
nối tiếp trong mạch ngầm của lời đối thoại. Loan có thể hiểu được vì sao Dũng
không lấy vợ và có lấy vợ, nhất là thừa biết cái người vừa ý ấy là mình, nhưng
Loan không thể hiểu được tại sao lại sợ ngư ời ta khổ, bởi vì Loan không hình
76
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dung và đoán định được hết mộng ước phiêu lưu trong con người Dũng, đặc biệt
là quan niệm: “việc yêu Loan và sự cưới xin , chàng phân tách ra làm hai việc
không có liên lạc gì với nhau cả ” [26, 315].
Trong khi gia đình đang náo nức chuẩn bị cho l ễ cưới của Dũng và Khánh
thì Dũng lại nung nấu ý định bỏ nhà ra đi, trong đó có phần suy nghĩ “bỏ đi để
khỏi phụ Loan” [26, 367]. Bởi vì trong quan niệm của Dũng, gia đình Dũng sẽ
không bao giờ cho phép cưới Loan làm vợ, còn nếu hai người tự quyết định lấy,
thì cuộc sống đơn điệu, tẻ ngắt của đời sống trưởng giả sẽ giết chết tình yêu của
họ, chi bằng “xa hẳn Loan ra, vì xa tức là gần Loan, mãi mãi yêu Loan và không
bao giờ hết” [26, 366]. Còn Loan, nàng đoán Dũng chắc chắn phản đối đám cưới
và có lẽ sẽ rủ nàng trốn đi, trong thâm tâm nàng không hề sợ sự trốn tránh “nếu
lúc nào cũng có Dũng ở bên cạnh nàng” [26, 369]. Nhưng đó mói chỉ là những ý
định và đoán định. Họ cần phải tỏ cho nhau biết và họ đã ngầm trao đổi với
nhau:
“Dũng đáp liều:
- Tôi thấy mấy quả na kia ngon mà tiếc sẽ không được ăn. Chàng giật mình
vì biết đã nói lỡ lời. Loan sinh nghi hỏi:
- Tại sao thế?
Dũng đáp:
- Tại thế…
Không nói cho Loan biết hẳn mình sẽ đi nhưng Dũng vẫn muốn Loan nghi
ngờ để thử ý Loan.
Loan nói:
- Anh hay trả lời mập mờ, đến bực mình thôi.
Thật ra Loan sung sướng chẳng có nhiều chứng cớ về việc Dũng bỏ nhà đi.
Loan nhìn Dũng rồi đứng hẳn dậy nói:
- Nào đi….
Hiền nói:
- Đã hết việc đâu mà đi . Cô giúp tôi một tay cho xong một chỗ này đã.
77
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Loan mỉm cười lại ngồi xuống:
- Nào thì ở lại . Đi, ở lại, hai đường phân vân…
Dũng ngồi yên lặng một lúc lâu rồi nói như khuyên Loan:
- Cô nên ở lại…
Loan nhìn Dũng , đôi mắt luôn luôn chớp có vẻ một người đương tự hỏi để
tìm một câu trả lời quyết đ ịnh. Nàng yên lặng khẽ gật đầu, rồi hai người, mỗi
người nhìn một phía, cùng có dáng suy nghĩ ” [26, 370 - 371] .
Trong cuộc đối thoại này , Hiền tuy là người tham gia nhưng hoàn toàn
không hiểu mục đích của nó. Những câu nói thật thà của Hiền được sử dụng làm
phương tiện để kết nối mạch ngầm trao đổi giữa Loan, Dũng. Chính vì vậy, nhân
vật của Nhất Linh thường dùng đối thoại để chơi trò ú tìm với nhau nhằm khám
phá những dự cảm về nhau. Trong những cuộc chơi ấy, họ có thể hoàn toàn vui
vẻ, hạnh phúc khi biết chắc họ không thờ ơ với nhau, luôn nghĩ tới nhau và họ
hiểu nhau, nhưng cũng có thể đau xót nhận thấy kho ảng cách tâm hồn họ còn
quá lớn, để rồi lặng lẽ khép lòng mình lại. Lối đối thoại này, ngoài đóng vai trò
là chìa khóa để giải mã những bí ẩn tâm lí tình cảm giữa các nhân vật, còn cung
cấp cho người đọc cảm nhận sâu sắc về những con người đang được miêu tả( họ
mang trong mình những tâm hồn tinh tế, nhạy cảm , luôn khao khát tìm kiếm
những điệu hồn đồng điệu ).
Ở Bướm trắng, đôi bạn Trương - Thu cũng được Nhất Linh sử dụng biện
pháp đối thoại ám chỉ với mục đích để thể hịên những thăm dò tình cảm lẫn
nhau giữa đôi tình nhân này. Trong lần gặp gỡ đầu tiên, đối thoại ngầm vừa giúp
nhân vật hiểu được tình cảm của nhau, vừa “ không ai có thể nghi ngờ được”.
Chiều ba mươi tết, Trương đến thăm Thu (lần đầu tiên Trương đến một mình).
Dường như sự đồng cảm giữa hai con người mới quen được Trương phát hiện ra
qua lời nói của Thu:
“ Chiều ba mươi tết trời trông buồn lạ”[27, 397]. Câu nói ấy đã lặp lại ngữ
điệu câu nói của Trương trong lần hai người gặp gỡ đầu tiên: “ Sau mấy ngày u
ám, trông nắng mời ngon lạ” [ 27, 394]. Trương thấy hạnh phúc vô cùng vì cảm
78
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thấy rõ là Thu sẽ yêu mình, “cái cảm tưởng ấy không dựa vào một câu nói, một
cử chỉ rõ rệt nào của Thu cả, mà chính lại dựa vào những thứ không rõ rệt của
câu nói ” [27, 397].
Chiều mồng ba tết, Trương lại đến nhà Thu theo lời mời của Thu hôm ba
mươi tết (nhưng không hiểu vì lí do gì mà Trương lúc ấy lại cố tình tỏ ra không
nghe thấy lời mời). Trước tất cả mọi người Trương nói to lí do đến chơi: “ Tết
chỉ có cái thú đánh bạc. Nhưng tôi không biết đánh bạc với ai vì chỉ có mình ăn
tết với mình. Cứ mỗi năm tết đến tôi lại bắt đầu buồn, buồn ngay từ chiều ba
mươi”[27, 398]. Thực ra, câu nói ấy là hướng đến Thu. Trương muốn gợi cho
Thu nhớ tới cuộc gặp gỡ hôm trước. Thu cũng tỏ ra không vừa: ”Mà em nhận ra
rằng ở nhà này năm nào cũng vậy cứ mồng ba mới bắt đầu đánh bạc”[27, 398].
Câu nói ấy của Thu làm Trương giật mình vì lời mời của Thu lần trước rất rõ
ràng mà Trương cố tỏ ra không nghe thấy. Sau câu nói ấy “ Thu lánh mặt sau bà
cụ và mỉm cười, hai con mắt sáng lên có vẻ tinh nghịch. Không lúc nào như lúc
ấy, Trương nhận thấy bao nhiều cái đáng yêu trong vẻ mặt kiêu hãnh của
Thu”[27, 398].
Để tiếp tục dò ý tứ Thu, “dò ý trước mặt cả mọi người mà không để ai
nghi ngờ”. Trương nói: “ Ván này ăn được đồng hào mới…ngon lạ”[ 27, 399].
Trương cảm thấy vô cùng sung sướng, không phải vì thắng bạc mà là vì Thu
hiểu mình. Lời đáp lại của Trương cũng vì ý đó: “ Sống lúc nào cũng như phút
này thì cảnh nào cũng đẹp. Nắ ng cũng đẹp mà mưa cũng đẹp…”,“ Sung sướng
quá”[27, 399]. Thu cũng sung sướng không kém gì Trương: “ Đánh để thua mới
được. Người được thì vui mà người thua cũng th ích không kém gì…”[27, 399].
Câu nói này làm Trương sung sướng vì chàng hiểu được nội dung. Còn người
khác thì thấy khó hiểu vì ý nghĩa của nó chẳng ra làm sao. N ghe câu nói của
Thu, Hợp nói: “ Cái đó thì hơi nghi nghi”[27, 400].
Điều này lại tiếp tục xảy ra trong lần về trại ấp của gia đình Thu. Hợp giới
thiệu căn nhà mọi người sẽ ngủ là căn nhà của ông cậu đã mất, người mà hôm
Trương gặp Thu lần đầu tiên sau khi vừa đưa đám về, cả Thu và Trương đều
79
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhớ đến hôm đó nhưng lại trả lời với Hợp không nhớ để đối thoại ngầm với
nhau. Hai người tranh luận ngầm với nhau, giận dỗi nhau. Cả hai đều hiểu, riêng
Hợp thì ngơ ngác rồi tự trách mình gây ra cuộc tranh luận không đâu vào đâu ấy.
Vì đây là đối thoại ngầm nên có lúc gây ra những hiểu lầm giữa hai nhân
vật dẫn tới sự xa cách. Chẳng hạn khi Trương muốn dò hỏi ý tứ và tình cảm của
Thu ra sao sau khi nhận được lá thư của mình, Trương nói:
“- Lát nữa phải viết thư cho bà chủ nhà mới được”.
Thu trả lời:
“- Anh viết làm gì nữa. Viết một cái…”[27, 421].
Thu bỏ lửng câu vì không tìm được từ nào có ý nghĩa để Trương hiểu mà Hợp
không nghi ngờ. Ý của Thu muố n nói là viết một cá là Thu hiểu tâm trạng của
Trương. Nhưng Trương lại hiểu là ý Thu không cần Trương viết nữa, nghĩa là
không cần tình yêu của Trương. Điều đó làm Trương tức g iận trong lòng mà
buột miệng:
“- Nói đùa đấy, chứ bà ấy cần gì mà phải viết thư. Cái thư trước tôi cũng chẳng
định bụng gửi. Viết rồi chẳng lẽ lại không gửi…”[27, 422].
Chỉ vì sự hiểu nhầm ấy mà đôi trai gái xa nhau sáu tháng trời. Trong những lời
đối thoại tưởng như rất bình thường ấy ẩn giấu biết bao nhiêu nỗi giận dữ cũng
như thất vọng trong tâm hồn Trương.
3.1.1.2. Đối thoại qua hành vi và cử chỉ
Các nhân vật của Nhất Linh qua Đôi bạn và Bướm trắng, ngoài hình thức
giao tiếp bằng ngôn ngữ, họ còn giao tiếp với nhau bằng các hành vi phi ngôn
ngữ. Ánh mắt, nụ cười, cử chỉ…của h ọ đã tham gia vào cuộc đối thoại không
đơn giản chỉ để bổ xung cho ngôn từ bên ngoài mà là những tín hiệu thẩm mĩ
gợi ra một cuộc đối thoại khác. Kiểu đối thoại này có ý nghĩa biểu đạt trạng thái
tâm lý nhân vật rất sâu sắc. Chúng tôi gọi đó là đối thoại k hông lời. Loại đối
thoại này chính là một phương tiện hữu ích để trao đổi tình cảm giữa các nhân
vật Dũng-Loan, Trương-Thu. Nó cũng là một môtíp phổ biến,” yêu trong tâm
80
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hồn, yêu trong ý tưởng” của văn chương Tự lực văn đoàn.
Mối tình Loan-Dũng trong Đôi bạn không hề có một lời yêu thương nào,
chỉ có ánh mắt trao gửi như một lời tỏ tình, nếu có nói thì chỉ là những câu ý tứ -
chỉ hai người ngầm hiểu với nhau. Khi khen “cái núm đồn g tiền ở má rất xinh
”của Loan -“lần đầu tiên chàng nói thẳng khen Loan: chàng cố giữ vẻ tự nhiên
như nói một câu khen đùa chơi. Nhưng nói xong, Dũng lại ngượng với mình vì
câu khen ấy Dũng thấy nó tầm thường quá; Trương muốn cứ để Loan nhìn
chàng mà đoán ra được rằng chàng đương thầm khen Loan hơn là diễn ra bằng
một lời nói không bao giờ ý vị bằng sự yên lặng của hai con mắt” [26, 326].
“Giây phút thần tiên của đôi bạn vẫn yêu nhau từ lâu nhưng lần đầu dám tỏ ra
cho nhau biết ” là giây phút trên đồi thông ở ấp Quỳnh Nê, Dũn g “nhìn nàng
như nhìn một ng ười tình nhân mà không tỏ ý ngư ợng,Loan cũng sinh liều, âu
yếm nhìn lại Dũng ”. “Dũng toan mỉm cười nói với Loan vì trông vẻ mặt của
Loan chàng đoán Loan cũng sắp mỉm cười đáp lại chàng . Nhưng sợ lộ rõ quá,
Dũng với một lá cỏ mím môi nhấm ngọn lá” [26, 375]. Trong lúc Dũng đang
bâng khuâng nhớ về hình bóng yêu thương của mình th ì “Trúc quay mặt sang
phía Dũ ng; chàng không nhìn rõ mặt bạn, nhưng thấy l ông mi dài của Dũng
thong thả hạ xuống. B iết là bạn đương nhắm mắt cố gợi ra một hình ảnh yêu
quý, Trúc yên lặng để khỏi làm Dũng nhãng trí” [26, 386 - 387].
Chỉ bằng ánh mắt thôi, Dũng v à Loan cảm thấy tất cả tình yêu: “ thấy
Dũng bắt gặp mình đang nhìn trộm , Loan vội nhắm mắt lại làm như ngủ song
biết là Dũng đã trông thấy rồi, nàng lại vội mở mắt ra, rồi qua những ngọn lá cỏ
rung động trước gió, hai người yên lặng nhìn nhau (…). Giây phút thần tiên của
đôi bạn yêu nhau từ lâu nhưng lần đầu dám lặng lẽ tỏ cho nhau biết ” [26, 402].
Trong rất nhiều cách tỏ tình của những cặp tình nhân, Nhất Linh đã chọn cho họ
hay nói đúng hơn, họ đã lựa chọn lối tỏ tình bằng mắt với mối tình thanh sạch,
thầm kín, họ chỉ nhìn nhau âu yếm thôi, chỉ là mỉm cười nhưng cũng đã sợ lộ
quá!
Trương - Thu trong Bướm trắng cũng thường dùng ánh mắt để trao đổi
81
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tình cảm cho nhau. Trong một lần lấy cớ đến mượn tài liệu để gặp Mỹ và sau đó
là về nhà Thu chơi, Thu đã dùng ánh mắt của mình để nói riêng cho Trương hiểu
ý muốn của mình khi đang hát: “mắt Thu chàng thấy sang long lanh và mỗi lần
nhìn chàng. Chàng biết là Thu đương nghĩ :
- Em hát để cho một mình anh nghe .(…). Chàng lim dim mắt lại và trong
vùng ánh nhỏ lọt vào mắt chỉ còn in có hình khuôn mặt Thu với hai con mắt yêu
quý đương nhìn chàng” [27, 450].
Đoạn văn đặc sắc nhất, thể hiện được những thành công của Nhất Linh
với thủ pháp trên là đoạn văn miêu tả đôi trai gái hôm đi chơi chùa Thầy: “ Tình
cờ chàng được ngồi vào chỗ rất tốt vì nhìn vào chiếc gương con chàng thấy in rõ
hình khuôn mặt Thu (…). Xe đi khỏi Ô Cầu Giấy, Thu mới nhận biết là từ lúc
đó Thu không nói chuyện nữ a. Hai người yên lặng nhìn nhau. Trương không
thấy ngượng lắm như khi nhìn thẳng vào mắt Thu thỉnh thoảng chàng chớp mắt
luôn mấy cái rồi nhắm mắt lại một lúc lâu như để cố giữ lại cái hình ảnh đẹp của
hai con mắt Thu. Chàng hạ lông mi xuống một chút và tưởng như đó là một lời
nói Thu có thể hiểu:
- Anh yêu em lắm.
Chàng thấy Thu cũng bắt chước hạ lông mi làm hiệu như có ý trả lời:
- Em đã hiểu là anh định nói với em điều gì ” [27, 458].
Chỉ cần như thế hai nhân vật đã quá hiểu tâm hồn nhau. Chính qua hình thức đối
thoại này đã mở ra một bước đột phá trong tình yêu cuả Trương và Thu (khi đi
chơi chùa, Trương và Thu đã chính thức thể hiện tình yêu, đã hôn nhau một cách
say đắm).
Có lẽ vì vậy mà đôi mắt của Trương cũng trở thành một nỗi ám ảnh trong
Thu . Đó là một đôi mắt “ đẹp và có duyên” nhưng “nàng trông hơi là lạ , khác
thường, tuy hiền lành, mơ màng nhưng phảng phất có ẩn một vẻ hung tợn; hai
con mắt ấy Thu thấy là đẹp nhưng đẹp một cách não nùng khiến nàng sao xuyến
như cảm thấy một nỗi đau thương” [27, 394]. Thu thường nhìn vào đôi mắt ấy
để đoán định những hành động sắp tới của Trương. Tương tự như vậy, Trương
82
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cũng căn cứ vào ánh mắt của Thu mà đo tình cảm của nàng dành cho mình. Vì
thế, Trương đã từng một phen bực tức vô cùng khi trên chuyến tàu Hải Phòng -
Hà Nội, họ tình cờ gặp nhau đúng lúc Trương ra tù, trước mặt những người thân,
Thu đã coi như không nhìn th ấy Trương, luôn mang một vẻ mặt “lãnh đạm và
kiêu hãnh”. Nhưng khi xuống ga, Trương lại thấy yên lòng thậm trí vui trở lại
khi bắt gặp ánh mắt nhìn của Thu mà theo cảm giác của Trương là “Thu vẫn yêu
mình”.
Hình thức đối thoại mang tính chất ám chỉ và đối thoại không lời đã làm
rõ cảm giác về người khác trong nhân vật của Đôi bạn và Bướm trắng. Đó là
một thành tựu mà Nhất Linh cũng như Tự lực văn đoàn tiếp thu được từ Tố Tâm
của Hoàng Ngọc Phách và nâng lên một chất lượng mới. Cảm giác về nhau, hay
mối giao cảm giữa những cặp tình nhân này giống như những mắt lưới dệt nên
các cuộc tình trong tiểu thuyết Nhất Linh. Nhung trong các tác phẩm luận đề, sự
giao cảm giữa các căp. Tình nhân Loan - Dũng, Nhung-Nghĩa chỉ đóng vai trò
thứ yếu. Đôi khi chúng còn bị thể h iện khác đi cho phù hợp với bước phát triển
của luận đề, mà chuyện Loan -Dũng ở chương II của Đoạn Tuyêt, là một ví dụ
tiêu biểu, Loan cố ý thăm dò tình cảm của Dũng đối với mình để quyết định có
cưới Thân hay không nhưng lại không phát hiện ra, mặc dù qua cử chỉ của Dũng
đã có rất nhiều tín hiệu mà Loan muốn thấy. Ở tiểu thuyết tâm lý, mối giao cảm
giữa những nhân vật được nâng lên bình diên thứ nhất. Tình yêu của hai nhân
vật nhiều khi không cần được thể hiện ra bằng lời nói mà quan trọng là ở cách
nhân vật cảm nhận về nhau và cùng cảm nhận về thế giới. Chính quá trình khám
phá về nhau ấy là một nét mới Nhất Linh đem đến cho nghệ thuật và nhân vật
trong tiểu thuyết của mình. Nó khiến cho tiểu thuyết Nhất Linh có những yếu tố
gần gũi với đời sống con người cá nhân hơn so với tiểu thuyết thời trung đại.
3.1.2. Độc thoại nội tâm
Trong tiểu thuyết Nhất Linh nội tâm nhân vật không chỉ được khám phá
qua lời nói, cử chỉ, hành vi mà tác giả cò n khai thác thủ pháp độc thoại nội tâm
83
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giúp người đọc đi sâu hơn nữa vào tâm hồn nhân vật.
Độc thoại nội tâm là “lời phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể
hiện quá trình tâm lý nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc, suy nghĩ của con
người trong dòng chảy trực tiếp của nó ” [13, 108]. Hiện tượng này đã thấy xuất
hiện rất sớm trong văn học thế giới (kịch cổ đại, kich W.Shakespeare). Trong
tiểu thuyết cổ điển người ta hay nhắc đến kiểu độc thoại nội tâm trong tiểu
thuyết của L.Tolstoi. Ở đây sự diễn tả tâm lý của nhân vật không có sự can thiệp
của tác giả, đồng thời phản ánh được cả trạng thái vô thức và ý thức. Đặc biệt là
độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết dòng ý thức. “Khi mà các mối liên hệ khách
quan với môi trường thực tại khó bề khôi phục lai” [13, 93].
Nói cách khác, độc thoại nội tâm là một sự phân tâm của nhân vật. Nhân
vật vừa là người nói vừa là người nghe tiếng nói bên trong ấy. Những đoạn độc
thoại nội tâm là những khoảnh khắc nhân vật bộc lộ chân thực cảm xúc , suy
nghĩ của mình về bản thân, về thế giới xung quanh, d o đó góp phần thể hiệ n
phần sâu kín nhất của tâm hồn của tính cách con người. Và vì vậy, độc thoại nội
tâm có vai trò quan trọng, trong việc miêu tả nội tâm nhân vật.
Chúng tôi đã làm một thống kê nhỏ về tỉ lệ dòng văn bản độc thoại và độc
thoại nội tâm ở hai tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng: Kết quả cho thấy tỉ lệ
này có sự chênh lệch khá lớn. Ở Đôi bạn: 2,26% (111/4904 dòng văn bản) trong
khi đó Bướm trắng có tỉ lệ lớn hơn hẳn: 7,46%(385/5161 dòng văn bản). Như
vậy, ở tiểu thuyết Bướm trắng hình thức độc thoại nội tâm hoàn hảo hơn cả.
Nhất Linh không chỉ chú ý tới lĩnh vực ý thức mà còn khai thác hợp lý những
vấn đề tiềm thức trong tâm hồn nhân vật.
Xét trên cấp độ tác phẩm , độc thoại nội tâm bao giờ cũng tỉ lệ nghịch với hành
động của nhân vật. Điều này được thể hiện rõ trong hai nhân vật chính là Dũng
(Đôi bạn) và Trương (Bướm trắng). Ở hai nhân vật này tác giả không chú trọng
miêu tả hành động mà chủ yếu diễn tả trạng thái băn khoăn dự định đang hình
thành của nhân vật. Mục đích mà Nhất Linh huớng tới khi xây dựng nhân vật
không phải là hành động mà cuối cùng là trạng thái tâm lý (Đôi bạn ) đối với
84
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Dũng ( Đôi bạn ) vượt biên sang Tầu với những lần ngoái lại quê hương, hồi
tưởng kỷ niệm…; còn giây phút bên Nhan mà nghĩ đến Thu c ủa Trương (Bướm
trắng) chẳng bao giờ cho thấy sự an bài nào cả.
Với cách hiểu độc thoại nội tâm là dạng ngôn ngữ trực tiếp tự do. Chúng
tôi nhận thấy trong 117 trang của Đôi bạn đã xuất hiện tới 15 lần “Dũng ngẫm
nghĩ”, nhân vật Dũng luôn hiện ra với những trạng thái “nghĩ thầm”, “tự hỏi”,
“ngẫm nghĩ”, “nghĩ bụng”, “thầm như”, “nghĩ”… Trước đó có thể có một vài từ
ngữ thông báo trạng thái nhân vật lúc đó như “cảm động”, “buồn rầu”, “mỉm
cười”…Trường hợp không báo trực tiếp bằng các từ ngữ trên thì có thể là: “đưa
mắt”, “mỉm cười chua chát”, “mỉm cười sung sướng”, “cau mày”, “một ý tưởng
thoáng qua”…
Khảo sát trong Bướm trắng chúng tôi thấy độc thoại nội tâm chiếm gần ½
số trang sách( khoảng 66/133 trang). Quả là một mật độ dầy đặc. Đó có thể là
những từ ngữ chuyển tiếp của ngôn ngữ trần thuật, biểu đạt những biến động
trong lòng người nhiều khi bất chợt vụt đến, chuyển động không ngừng, mâu
thuẫn, đối lập nhau, không theo một logic nào hết như: “nhớ lại”, “nghĩ thêm”,
“nghĩ”, “tự nhủ”, “tưởng tượng”, “bất giác nghĩ rằng”, “theo đuổi suy nghĩ”,
“nhận thấy”… Có cả những dấu hiệu không báo trước, tiếng nói nội tâm vang
lên đột ngột giữa lời tường thuật đến dạng thức cao nhất mang mầu sắc hiện đại
là đối thoại nội tâm . Ví dụ, Nhất Linh đã sử dụng độc thoại nội tâm vào việc
biểu đạt những biến động mãnh liệt trong tâm hồn nhân vật. Chúng ta đã biết nỗi
ám ảnh của Dũng trong Đôi bạn là phải ra đi, “phải cắt đứt hết các dây liên lạc,
phải đoạn tuyệt hẳn ” [26, 365] Dũng “muốn được như con bướm thoát khỏi cái
kén tối tăm, bay lên nhẹ nhàng trong ánh mặt trời, tự do đi tìm hoa trong các
vườn xa lạ” [26,365]. Con người Dũng hiện lên qua quá trình băn khoăn về lý
tưởng và mơ ước lên đường hành động, để “mãi mãi đi tìm một sự bình tĩnh cho
tâm hồn” [26, 371]. Khi Dũng và Loan cùng đi xem gặt lúa , hai người đi xuống
chân đồi thông. Dũng “có cái ý muốn nói hẳn ra cho Loan biết là sẽ bỏ nhà đi”
[26, 367], nhưng sau hàng loạt ngập ngừng, xa xôi bóng gió, “chàng không dám
85
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cất tiếng vì chàng đã thấy trước câu chàng nói chắc không tự nhiên, có vẻ trơ
trẽn, giả dối, sẽ làm chàng tự thẹn với mình và ngượng với Loan mãi mãi. Khi
Dũng suy nghĩ:
- Nhưng cần gì phải nói với Loan?
Ý quyết định ấy vụt ra trong trí bất thần quá khiến Dũng cho ngay là có lý và
tuân theo ngay “[26, 378].
Tác giả chú trọng diễn tả dòng vận động trữ tình tuôn chảy miên man
trong tâm hồn nhân vật Dũng bằng những đoạn miêu t ả suy nghĩ, cảm xúc, liên
tưởng, làm nổi bật sự bất ổn. Hình ảnh Loan như viên đá nam châm quy tụ ý
nghĩ của Dũng. Chẳng hạn, sáng thức giấc Dũng nghĩ ngay đến Loan: “chắc lúc
này em tôi chưa dậy”. Những lúc đi thăm bạn bè, đồng chí, viếng bạn, ngay cả lễ
mừng thọ bà nội, dòng tâm tư của Dũng cũng luôn xoay quanh hình ảnh của
Loan. Mắt Dũng ngấn lệ khi viếng bạn nhưng không phải là sót thương bạn, mà
chính là sót thương mình, x ót thương Loan, bởi vì lúc ấy “chàng không dám
nghĩ đến một đời ở xa Loan, mai đây mai đó như Tạo, rồi một ngày kia cũng
như Tạo chết ở một nơi xa lạ nào, nằm trong áo quan tối, trong khi Loan đứng
bên mồ, duới ánh nắng, tà áo trắng của nàng phấp phới trước gió” [26, 350].
Trong quá trình băn khoăn lựa chọn giữa hai tình huống ra đi - ở lại, Dũng chỉ
có thể quyết định được khi gắn chúng với những dự định tình cảm của mình với
Loan. Chúng tối sơ đồ hoá quá trình đó như sau:
Ra đi (nhưng phải xa Loan không biết đến bao giờ có thể gặp) - ở lại (nếu
lấy Khánh theo quyết định của gia đình thì không hợp với tình cảm của mình và
phụ long Loan, nếu lấy Loan thì hợp tình cảm đấy nhưng gia đình lại không
đồng ý. Nhưng thực sự trong tâm tưởng, Dũng có ra đi không? Lời độc thoại nội
tâm của Dũng, trước giờ quyết định lên đường đã hé lộ một biến cố trong tâm lý
nhân vật. Về hành động, Dũng đã ra đi thật, đã đặt chân tới đất Lạng Sơn với
những dải núi chen nhau hỗn độn ở chân trời như không bao giờ hết, nhưng tâm
hồn và tình cảm Dũng đã gửi lại ở Hà Nội, ở ấp Quỳnh Nê, nơi ấy có bóng trắng
thướt tha của tà áo Loan bay trong gió. Dũng đã ở lại, kể từ khi tự đối thoại với
86
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chính mình:
“-Sao nay lại bỏ đi, bỏ hết cả. Loan đáng lẽ được sung sướng vì mình, rồi đây
có lẽ gặp bao nhiêu khổ sở. Mà như thế vì lẽ gì? ” [26, 379].
Ở Bướm trắng, Nhất Linh đã sử dụng độc thoại nội tâm vào việc biểu đạt
biến động mãnh liệt trong tâm hồn Trương. Trước cái cảnh (cảnh các cô phù dâu
trang điểm cho nhau trong lần Trương về ăn cưới Lan) Trương thấy nảy ra một ý
tưởng, chàng ngồi lặng người suy nghĩ: “Hay là ta hỏi Thu làm vợ? Bây giờ còn
có thể được lắm. Mình bảo Hợp là đã khỏi bệnh rồi chỉ việc lấy giấy đốc tờ đưa
cho Hợp xem mà lấy giấy ấy thì dễ như không phải đấy. Tội gì, sung suớng với
Thu một hai tháng rồi có chết thì chết ”[ 27, 416 ].
Trương nghĩ đến những ngày vui trước khi cưới, đến cái phút mình được
Thu về với mình hoàn toàn về riêng của mình trong một căn phòng thơm và đẹp
như một động tiên. Chàng nghĩ đến đôi môi của Thu hôm mới gặp nhau, lúc
nàng ở trên xe điện xuống, đôi môi kiêu hãnh đương hé mở ngậm một góc vải
mấn.
Giá ngay trong lúc đó ai để ý nhìn Trương chắc sẽ thấy h ai con mắt
Trương sang quắc, có vẻ đau khổ và dữ tợn. Trương nghĩ: Rồi được chết trong
tay Thu còn hơn…còn hơn là chết dần chết mòn không ai thuơng, chết một cách
khốn nạn như bây giờ. Nhưng ngay trong lúc nghĩ vậy, chàng vẫn b iết có một
tiếng ngầm bảo chàng:"-Làm như thế xấu lắm".
Bằng hình thức độc thoại nội tâm, Nhất Linh đã chạm đến những sự vận
động nằm ở phần tiềm thức của tâm hồn nhân vật, khiến nó trở thành một thế
giới khép kín. Tuy tham gia vào mọi cuộc giao ti ếp, nhưng dường như nhân vật
chỉ quan tâm đến những chuyển biến trong tâm trạng của nó mà thôi. Ở nhân vật
Trương, điều này thường xảy ra, đến mức gây ra cho người đọc cảm giác anh ta
không quan tâm tới điều gì khác bên ngoài, tự biến mình thành nhân vật phiêu
lưu. Những tính chất phi êu lưu của Trương mang một nét , khác hẳn với các
nhân vật của tiểu thuyết tự lực văn đoàn. Các nhân vật ấy đều hướng tới một
87
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mục đích sống, một hành động, một lý tưởng nào đó, hành trình ý thức, tâm lý
có một định hướng rõ rệt, nếu có dao động chăng nữa, cũng chỉ là việc lựa chọn
một trong hai vấn đề của cuộc sống mà thôi.
Ở nhân vật Trương, người ta thấy đây là một con người suy nghĩ và hành
động với vô số những cái vô lý, vô cớ của bản năng tự phát, ít có sự kiểm soát
của ý thức, mặc dù anh ta có vẻ rất chú ý đến hành vi của mình. Trong khi giao
tiếp với người khác, Trương dường như vẫn chỉ giao tiếp với chính mình, đắm
mình trong dòng suy tưởng, tự tranh luận, biện bác, sau đó đi đến một quyết
định hoàn toàn đột ngột, có thể xoay chuyển cả lối sống hoặc hoàn toàn cảnh
sống của mình. Lúc ấy, hiện diện của nhân vật khác trở thành một chất xúc tác
cho sự chuyển biến tâm lý và hành động của Trương: hoặc là làm theo, hoặc là
ngược lại. Chẳng hạn, cùng ngồi uống cà phê với Quang - một con người luôn
mong muốn nếm đủ hết mùi đời - trong khi Quang say sưa nói về cách pha cà
phê thì Trương vừa nhìn Quang vừa suy nghĩ:
“- Giá Quang bây giờ biết Quang một năm nữa sẽ chết - chắc chắn chết như
mình thì không hiểu Quang nghĩ sao ? Nhưng hiện giờ thì Quang sung sướng chỉ
vì Quang sống như không bao giờ phải chết.
(…)
-Hay là mình không cần nữa ?
(…)
- Phải, mình cần gì nữa. Chắc chắn là sẽ chết thì còn cần quái gì !
Chàng sẽ nếm đủ các khoái lạc ở đời, chàng sẽ sống đến cực điểm, sống
cho hết để không còn ao ước gì nữa, sống cho chán chường” [27, 405 - 406].
Sau thời khắc ấy, quả thực Trương đã thay đổi cách sống, những ham
muốn bấy lâu, nay bắt đầu được buông thả, từ chỗ là một cậu sinh viên mọt
sách, Trương đã trở thành một người phóng đãng, có thể bán hết đất đai cha ông
để lại và tiêu đến đồng tiền cuối cùng vào những chốn ăn chơi.
Một lần khác, khi đang nói chuyện cùng Nhân - người làm cùng hãng với
Trương ở Hải Phòng - tâm chí Trương chỉ tập trung vào một nỗi ám ảnh - Nếu
88
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lão Daniel hôm nay không đến thu ti ền két như mọi khi thì Trương sẽ lấy trộm
tiền rồi trở về Hà Nội. Thực ra, động cơ thụt két của Trương rất mơ hồ, đặt chi
tiết này trong toàn bộ bối cảnh thì có thể giải thích bằng nhiều lẽ. Lẽ thứ nhất:
Đã gần một tháng nay kể từ ngày nhận việc, Trương chưa về Hà Nội thăm Thu.
Lẽ thứ hai: Công việc mới quá nhàm chán, một tháng mà Trương thấy dài hơn
cả mười tháng trước, sống cạnh những người như Nhân (ngủ ở kho, ăn ở hiệu,
tắm ở sông, chết chôn ở nghĩa địa), Trương cảm thấy mình đang chết. Lẽ thứ ba:
Tạo một ấn tượng với Thu-“một là Thu vẫn yêu mình, nếu vậy không có gì thay
đổi cả. Hai là Thu không yêu mình nữa, mà m ình cũng mong chờ Thu chán
mình, nếu vậy Thu xoàng lắm. Mà nếu Thu xoàng thì mình hết yêu ngay (…)
Mình thụt két mà Thu còn yêu mới thực là yêu. Thu không yêu nữa càng hay.
Thử xem sao. Đằng nào cũng có lợi” [27, 464]. Lẽ thứ tư: Sống gấp vài tháng ở
Hà nội trước khi chết, báo thù những người bạn xấu chơi đã bỏ rơi mình. Trong
số bốn lý do ấy ,không thể khẳng định được đâu là cơ bản, nhưng qua những lời
độc thoại nội tâm chúng tôi vừa nêu ở lý do thứ ba, có thể thấy rõ việc tìm kiếm
những cuộc thử nghiệm tâm lý đóng vai trò không nhỏ trong chuỗi hành vi của
Trương. Nguy hiểm nhất là điều đó đuợc nhân vật xác định như một lẽ sống cho
bản thân. Trương nghĩ nếu phải chết tức khắc thì chàng chỉ tiếc rằng không kịp
đợi xem việc ấy xẩy ra như thế nào. Trương ở vào tình trạng một người không
cần gì nữa, chỉ mong xẩy ra đến cho mình một việc, bất cứ việc gì, miễn là khác
thường để cho mình quên được sống. Những biểu hiện vô lý, vô cớ, bất thường
ấy trong tâm lý của Trương có nguồn gốc sâu xa từ nỗi ám ảnh về cái chết.Bản
thân Truơng bị bác sĩ cảnh báo (m ỉa mai thay với động cơ an ủi): “Phổi ấy và
tim ấy và tim ấy cũng còn được một năm nữa là ít” [27, 403]. Xung quanh chàng
là những cái chết lởn vởn với cùng một că n nguyên với căn bệnh của chàn g:
Liên - người yêu cũ của Truơng; Chi bạn của Kim - bạn Thu; Quang-bạn
Truơng. Trong tác phẩm Bướm trắng có đến 135 lần cái chết đượ c nhắc đến .
Nhân vật Trương thường nghĩ về nó: “cái chết thì đã chắc chắn”, “gần đến ngày
chết”,” “chết mà không biết ”, “thế nào cũng chết”, “chết tức khắc”, “đợi cái
89
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chết đến”, “cái chết đã hiện rõ ràng ra truớc măt”, “bối rối như một người biết
mình sắp chết”, “hôm nay mình chết”, “chính mình nằm trong áo quan”… Điều
đó khiến người đọc liên tưởng đến nỗi ám ảnh của Thái, Tạo: Thái “không thiết
gì đến cả sống nữa” [26,348], “ Thái bắn ông Phủ hai phát không trúng nhưng
bắn mình một phát lại trúng ngay”; Tạo “không sợ chết (…) thấy đất mát lắm ”
[26, 350]. Tất cả đều biểu hiện rõ ràng tâm trạng bi quan, chán nản của một bộ
phận thanh niên không tìm thấy ý nghĩa sự sống, bi quan không tin vào mình và
vào tuơng lai. Đây cũng chính là sự phản chiếu tâm trạng hoang mang, mất niềm
tin của chính các tác giả.
3.1.3 . Thể hiện tâm lý nhân vật qua tả cảnh thiên nhiên
Trong truyện cổ, thiên nhiên rất ít có cơ hội xuất hiện và nếu có thì chỉ
đóng vai trò như cái nền của hành động, các sự kiện, biến cố mới là cái được tác
giả quan tâm. Đến cá c nhà văn trong Tự lực văn đoàn , thiên nhiên không chỉ
được miêu tả rất phong phú, đa dạng mà còn được đặt trong mối quan hệ hài hoà
với con người góp phần bộc lộ tâm lý, tính cách . Nhất Linh rất có khả năng
trong việc sử dụng thủ pháp này.
Qua việc miêu tả bức tranh thiên nhiên rộng lớn với nhiều góc độ, sắc
thái, môi trường hoạt động của nhân vật được mở rộng, cả không gian và thời
gian, điều đó giúp nhân vật bộc lộ tâm lý . Thiên nhiên được Nhất Linh thể hiện
qua thế giới cảm giác của nhân vật.
Ở Đôi bạn , thiên nhiên xuất hiện với tần số cao và có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc thể hiện nhân vật . Thiên nhiên không chỉ tạo nên không gian
bối cảnh cho nhân vật xuất hiện mà còn làm tôn thêm lên vẻ đẹp của nhân vật ,
gắn liền với biểu hiện rõ hơn các trạng thái tâm lý của họ - như một người bạn
biết cảm thông, chia sẻ. Mối tình thơ mộng của Loan và Dũng được bao bọc bởi
một thiên nhiên ngập tràn sắc màu và hương thơm. Đứng dưới gốc khế trong
vườn nhà Cận, “Loan không nói gì, víu một cành khế đầy hoa hồng và lấm tấm
những quả khế xanh non, ngước mắt nhìn ra vẻ tìm xe m đã có quả nào to ăn
90
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
được chưa. Mùi hoa khế đưa thoảng qua , thơm nhẹ quá nên Dũng tưởng như
không phải hương thơm của một thứ hoa nữa . Đó là một thứ hương lạ để đánh
dấu một thời khắc đã qua trong đời; Dũng thấy trước rằng độ mươi năm sau, thứ
hương đó sẽ gợi chàng nhớ đến bây giờ, nhớ đến cái phút chàng đương đứng với
Loan ở đây. Cái phút không có gì lạ ấy chàng thấy nó sẽ ghi mãi ở trong lòng
chàng như hương thơm hoa khế hết mùa này sang mùa khác thơm mãi trong
vườn cũ ” [26, 283]. Dũng s ang nhà Loan trong khung cảnh “ ánh sáng buổi
chiều đều đều và êm dịu; tiếng sáo diều ở đâu rất xa đưa lại, nhẹ như hơi gió.
Dũng cảm thấy có một sự hoà hợp nhịp nhàng giữa cảnh thiên nhiên và lòng
chàng lúc đó” [26, 324] .
Đôi bạn ở bên nhau dưới giàn đậu ván với những nhành hoa tím mong
manh và những xúc cảm , những ao ước thầm kín rung lên trong đáy hai tâm
hồn, hoà vào không gian “bóng chiều xẫm dần dần; không khí mỗi lúc một trong
hơn lên, trong như không có nữa , mong manh như sắp tan đi đến biến thành
bóng tối. Một mùi thơm nhẹ thoáng qua, thơm hương của tó c Loan hay hương
thơm của buổi chiều?” [26, 326].
Những sắc mầu tươi sáng, những hương thơm dịu nhẹ, thoang thoáng
trong không gian ấy giữ một vai trò đắc lực trong việc biểu hiện những giây phút
“không có gì lạ” , những xúc cảm không tên, khó cắt nghĩa , thoáng qua mong
manh trong tâm hồn nhân vật.
Những tính toán, trăn trở của “ đôi bạn ” Dũng - Trúc cũng gắn liền với
thiên nhiên - một thiên nhiên cao rộng, khoáng đạt như l à biểu tượng của cuộc
đời tự do, phiêu lãng. Cảnh bến đò Gió trong mưa đã được Nhất Linh miêu tả rất
tinh: “Trời lấm tấm mưa, nhưng nền trời ở phía xa lại sáng hẳn lên. Rặ ng cây
nhãn trên đê, cạnh bến đò Gió mờ rõ trong mưa bụi và khói ở các mái nhà toả ra
như mấy vết mực tàn đương lan trên tờ giấy trắng ướt đẫm nước” [26 , 309].
Giữa những nỗi bực dọc về gia đình , nghĩ đến cái chết của Thái như là
một sự thoát ly “Dũng ngẩng nhìn lên. Trời về chiều cao và yên tĩnh; mảng trăng
- thượng tuần sau rặng cây xoan như một cái diều trắng ai mới thả lên đầu làng”
91
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
[26, 323].
Thiên nhiên gắn với mối tình Loan - Dũng ngọt ngào, gần gụi, tươi sáng,
đầy hương sắc; thiên nhiên gắn với cuộc ra đi của Dũng - Trúc thoáng đãng,
hùng vĩ, được miêu tả với độ cao xa khiến nhân vật phải ngước nhìn, phải hình
dung, tưởng tượng , so sánh …Có thể nói rằng trong Đôi bạ n, nếu thiếu đi sự
diễn tả thiên nhiên thì nhân vật sẽ nghèo nàn , cằn cỗi và bớt hấp dẫn đi rất
nhiều. Thiên nhiên đã bao bọc câu chuyện một làn sương mờ ảo, thơ mộng và
trữ tình - một nét đặc trưng của văn học lãng mạn. Đây là một đoạn văn đẹp nhất
mà Nhất Linh đã dành tặng cho mối tình trong sáng của Loan và Dũng:
“Quãng trời giữa chàng và Loan hình như không còn mầu nữa, cao lên và
rộng mênh mông, chắc không bao giờ Dũng quên được hình dáng một đám mây
trắng ngay trong lúc đó, đương thong thả bay ngang qua, một sự biểu hiện sáng
đẹp, linh động trôi êm nhẹ trong sự yên tĩnh của bầu trời và lòng chàng” [26,
375]. Tâm tình ấy qua những lời văn chan chứa tình nhạc và thơ làm rung động
tâm hồn người đọc. Cảm giác , thời gian, không g ian kết hợp nhịp nhàng với
nhau, hoà điệu vào nhau để dệt nên “bản tình ca không lời” tuyệt diệu.
So với Đôi bạn, rất ít cảnh thiên nhiên được miêu tả trong “Bướm trắng”.
Quả thực cuốn tiểu thuyết này Nhất Linh rất khác biệt so với các tác phẩm khác
của ông cũng như của các nhà văn cùng nằm trong Tự lực văn đoàn. Bởi kết hợp
với một số thư pháp khác, Bướm trắng bước đến gần hơn với thư pháp tiểu
thuyết hiện đại . Thiên nhiên góp phần bộc lộ tâm lý nhân vật nhưng mức độ
xuất hiện không còn nhiều so với các tiểu thuyết trước.
Nhất Linh đã dùng nhiều cảnh thiên nhiên để diễn tả tâm lý, tâm trạng của
Trương khi gặp gỡ Thu, người con gái đẹp mà chàng biết là sẽ yêu. Lúc đó bầu
trời bừng sáng , cảnh vật xung quanh tươi vui : nắng to, ngói đỏ, phố rộn r àng,
“chàng thấy đất trời cũng nhiễm mộ t vẻ bất thường…nắng mới ngon lạ ” [27,
394] . Trương bên cạnh người yêu , chàng thấy cuộc sống trở nên rất đẹp, “nắng
cũng đẹp , mưa càng đẹp” [27, 421].
Quang cảnh nh ộn nhịp của cuộc sống con người với những đám cưới,
92
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đám mừng thọ được cảm nhận theo cảm giác chủ quan của Trương: “Cảnh trời
đất đẹp rực rỡ xán lạn, lá cây chàng thấy xanh hơn và màu các bông hoa trong
vườn tươi sáng ước mơ…gió và ánh sáng làm cho chàng chói mắt , say sưa bàng
hoàng như người say rượu” [27, 418].
Ngay cả khi ra tù , trong giấc mơ Trương mơ “bướm trắng” , “hoa cải
vàng” chàng nghĩ tới tương lai giấc mơ tình yêu, cuộc sống tốt đẹp. Hình ảnh
“bướm trắng”, “hoa cải vàng” đã bốn lần xuất hiện trong tác phẩm ở những thời
điểm quan trọng. Lần thứ nhất khi đến phòng khám Trương “tưởng đ ến một
ngày chủ nhật nắng , một ngày đã xa lắm chàng đứng nhìn những con bướm
trắng bay trên một luống cải lấm tấm hoa vàng” [27, 401]. Khi biết sẽ chết:
“Hình ảnh những con bướm trắng xa xôi một ngày chủ nhật lại hiện ra trước
mắt” [27, 467]. Khi Trương bày tỏ tình yêu với Thu ở quê: “Những búp bàng
màu xanh non phất phơ hồng trắng như một đàn bướm ở đâu bay về đậu yêu”
[27, 480]. Lúc ở vũng bùn truỵ lạc “hình ảnh tuổi thơ trong sáng…vườn rau mẹ
chàng…những luống đậu nở trắng hoa” [27, 483]. Thiên nhiên như sợi dây bảo
hiểm, khi con người ta chơi vơi, tuyệt vọng, nó giúp cho con người le lói một cái
gì đó, tìm về sự bình an của cuộc sống, niềm hy vọng và nhìn rõ mình hơn. Nó
là niềm an ủi tươi sáng, khát khao cháy bỏng về tình yêu , lòng ham sống một
cuộc sống tươi đẹp. Đó là bút pháp thành công của Nhất Linh.
3.2. Mô tả hình thức bên ngoài của nhân vật trong mối quan hệ với thế giới
nội tâm sâu kín
Miêu tả ngoại hình là một thủ pháp nghệ thuật không thể thiếu trong nghệ
thuật nói chung và trong tiểu thuyết nói riêng. Nhân vật tiểu thuyết không chỉ
được tập trung xây dựng tâm lý, tính cách mà còn được phân biệt bằng diện mạo
bên ngoài - các bức tranh chân dung.
Trong văn học Việt Nam, việc miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật đã
có từ văn học dân gian và được kế thừa và phát triển cao hơn thời kì văn học
trung đại. Tuy nhiên, nói chung chân dung của các nhân vật còn khá đơn giản,
93
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nó thường chỉ được miêu tả bằng một vài tính từ (như xinh đẹp tuyệt trần, xấu
xí, khôi ngô tuấn tú , khoẻ mạnh …) hoặc luôn đi kèm với sự so sánh như: tóc
đen như gỗ mun, da trắng như tuyết, môi đỏ như máu … Đến thời cận đại, diện
mạo của nhân vật vẫn chưa trở thành những chân dung sinh động, đậm tính cá
thể. Các tác giả thường dùng thủ pháp ư ớc lệ phác ra vài nét chấm phá. Tất cả
những đặc điểm trên là do quan niệm thẩm mỹ của thời đại quy định.
Đến thời đại Nhất Linh, quan niệm về cái đẹp đã khác trước. Vẻ đẹp thể
chất với Nhất Linh được xem là tiêu chuẩn để đánh giá con người hoàn toàn.
Đúng như TS Lê Thị Dục Tú nhận xét: “Việc thể hiện vẻ đẹp thể chất trong văn
xuôi Tự lực văn đoàn thể hiện một quan niệm thẩm mỹ mới có tính thời đại về
vẻ đẹp của con người, đặc biệt là con người đô thị . Quan niệm nà y chịu ảnh
hưởng của hai yếu tố mỹ học phương Đông và sự xâm nhập của mỹ học phương
Tây” [45, 113].
Có thể nói lần đầu tiên trong văn học, ở tiểu thuyết Nhất Linh cũng như
tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, con người có ý thức về sắc đẹp tự thân là một yếu
tố của giá trị cá nhân. Khác với con người của văn học truyền thống đánh giá cái
đạo đức cao hơn cái đẹ p: (cái nết đánh chết cái đẹp) , con người của tiểu thuyết
Nhất Linh công khai khẳng định vai trò của cái đẹp hình thức trong cuộc sống.
Không phải ngẫu nhiên mà các nhân vật nữ chính trong các cuốn tiểu thuyết của
Nhất Linh đều được miêu tả rất xinh đẹp. Người đọc tìm thấy rải rác trong tác
phẩm của ông những đoạn văn ngắn, những câu văn miêu tả ngoại hình của
nhân vật.
Trong Đôi bạn, vẻ đẹp của Loan làm cho Dũng xao xuyến. Loan “có cái
núm đồng tiền ở má rất xinh, mà khi cười trông mới thấy, mà càng cười càng
xinh hơn” [26 , 326]. Loan có mái tóc thơm như hương thơm của buổi chiều
mát, bàn tay có những ngón thon, tấm thân thanh đẹp , đôi môi mềm và thơm
như hai cánh hồng non khiến Dũng bao lần rạo rực thèm muốn. Đặc biệt sáng
ngời trên bức chân dung Loan là đôi mắt. Đôi mắt đen lánh , sáng long lanh của
Loan là đôi mắt biết nói hộ lời của một trái tim yêu . Khi Dũng cùng Trúc đi
94
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thăm Thái về , “hai con mắt nàng bỗng tươi hẳn lên dưới ánh đèn và hai hàng
lông mi nàng hơi rung động . Nhìn Loan , Dũng t hấy rõ cái ý nàng muốn bằng
thấy mặt chàng” [26, 311], trong đêm ấy mắt nàng đẹp và sáng như hai bông hoa
nhài nở về đêm. Trên đồi thông, “chàng thấp thoáng thấ y hai con mắt đen lánh
của Loan. Thấy Dũng bắt gặp mình đương nhìn trộm, Loan vội nhắm mắt lại vờ
như ngủ; song biết là Dũng đã trông thấy rồi, nàng lại mở mắt ra rồi qua những
ngọn lá cỏ rung động trước gió, hai người yên lặng nhìn nhau” [26 , 374-375].
Sắc đẹp của Thu trong Bướm trắng là yếu tố đầu tiên gây thiện cảm với
Trương. Trước đó, Trương đã từng suy nghĩ về nhan sắc của những người con
gái mình từng gặp gỡ (“Đã nhiều lần rồi chàng thấy thất vọng khi nhìn kỹ một
người con gái, mà thoạt trông chàng thấy đẹp hoàn toàn. Vẻ đẹp đánh lừa ấy là
nhờ ở phấn son hay nhờ ánh đèn từng lúc. Lại có một người chàng trông lâu mới
thấy đẹp dần lên, nhưng chàng vẫn khó chịu về cái cảm tưởng người ấy chắc
không đẹp lắm vì lần đầu tiên người ấy đã không đẹp”[27, 394]), nhưng lần này,
sự gặp gỡ với Thu hội tụ được cả hai yếu tố trên. Ngay cái chợt nhìn đầu tiên
Trương đã phát hiện ra Thu đẹp: “ -Hai con mắt to và đen, sáng long lanh như
còn ướt nước mắt và đôi gò má không phấn ráp, ửng hồng, ẩn trong khuôn vải
trắng. Vẻ buồn của trang phục làm lộ hẳn cái rực rỡ của một vẻ đẹp rất trẻ và rất
tươi. Nét mặt thiếu nữ, Trương thấy kiêu hãnh làm cho sắc đẹp thiếu nữ có ý vị
hẳn lên như chất chua của một quả mơ” [27,,392]. Và có thời gian nhìn kỹ,
ngắm lâu, Trương “ vẫn thấy Thu đẹp mà may quá người đẹp ấy là người mới
nhìn chàng đã biết rằng có thể yêu mê man” [27, 394].
Như chúng tôi đã khẳng định, việ c thể hiện “ con người bên ngoài” trong
Đôi bạn và Bướm trắng của Nhất Linh luôn gắn liền với thế giới nội tâm sâu
kín. Chính vì vậy vẻ đẹp ngoại hình của các nhân vật không được miêu tả trự c
tiếp bằng ngôn ngữ người kể chuyện là tác giả giống như các tiểu thuyết trung
đại mà được miêu tả gián tiếp thông qua sự cảm nhận của Dũng, Trương và
Loan, Thu. Điều này đưa đến bốn đặc điểm cơ bản trong cách thể hiện ngoại
95
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hình nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh:
Đặc điểm thứ nhất: vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật luôn luôn phụ thuộc
vào thế giới tình cảm của người đang cảm nhận về chúng. Chẳng hạn, trong thế
giới nhân vật của Bướm trắng, chỉ có Trương và Thu cảm nhận được vẻ đẹp của
nhau vì giữa hai nhân vật có một tình yêu tha thiết, và cũng chỉ có hai nhân vật
được khắc hoạ về ngoại hình. Suốt thiên truyện chỉ có Thu cảm nhận được
“Trương đẹp và có duyên. Hai còn mắt Trương trông hơi là lạ, khác thường, tuy
hiền lành, mơ màng nhưng phảng phất có ẩn một vẻ hung tợn, hai con mắt ấy
Thu thấy đẹp nhưng đẹp một cách não nùng khiến nàng xao xuyến như cảm thấy
một nỗi đau thương” [27, 394]. Còn ngoài ra không có một người bạn nào khác
cảm nhận về vẻ đẹp ngoại hình của Trương, kể cả Cúc, Phương, Mùi, Nhan.
Đặc điểm thứ hai: Vẻ đẹp của nhân vật không được Nhất Linh miêu tả
một cách tập trung như cách miêu tả thường thấy trong văn học cổ điển - nghĩa
là vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật hiện ra dần dần mang đến cho người đọc một
sự thưởng thức từ từ ở những đường nét ấn tượng và gợi cảm giác thưởng thức.
Có thể đây là một sự tiến bộ trong bút pháp nghệ thuật miêu tả nhân vật. Sở dĩ
có đặc điểm trên vì trong Đôi bạn và Bướm trắng là do vẻ đẹp ngoại hình của
nhân vật luôn gắn với những bước tiến mới trong tình cảm của bốn nhân vật
chính: Loan - Dũng, Trương - Thu.
Đặc điểm thứ ba: Ngoại hình của nhân vật không được miêu tả toàn diện
và các chi tiết cũng không chú ý miêu tả ngang bằng nhau. Tác giả Nhất Linh
chỉ tập trung miêu tả những chi tiết đường nét có liên quan đến việc bộc lộ thế
giới tình cảm ở bên trong. Chính vì thế, hình ảnh đôi mắt của nhân vật được tác
giả miêu tả nhiều nhất.
Đặc điểm thứ tư: Vẻ đẹp của nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm
trắng thường được đặt trong một trường liên tưởng, so sánh. Chẳng hạn, có
nhiều hình ảnh so sánh khi tác giả miêu tả vẻ đẹp ngoại hình nhân vật nữ chính:
- “ Đôi môi chàng ngây ngất thấy trước rằng sẽ mến và thơm như hai cánh
hoa hồng non” (Đôi bạn).
96
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- “ Tiếng cười của Loan nghe xa xôi như một giấc mơ” (Đôi bạn).
- “ Hai con mắt to và đen long lanh như còn ướt nước mắt” (Bướm trắng).
- “ Hai con mắt của Nhan đen như hai chấm nhung trong bóng rối mờ mờ ”
(Bướm trắng).
Nhất Linh đã chọn được những hình ảnh đẹp để thực hiện những phép so
sánh trong tiểu thuyết của mình. Nó không chỉ chứng tỏ một sự quan sát rất tinh
tế, một trí tưởng tượng phong phú mà còn cho thấy sự sinh động trong việc sử
dụng từ ngữ.
Bên cạnh những đặc điểm trên, vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật trong Đôi
bạn và Bướm trắng còn được thể hiện gắn liền với phẩm chất khác của nhân vật.
Thu dưới ngòi bút của Nhất Linh không chỉ xinh đẹp mà còn thông minh. Sự
thông minh của Thu được thể hiện qua tài ăn nói hài hước, có duyên và nhận
thức về cuộc sống . Thêm vào đó, tình yêu trong sáng của Loan làm cho mọi
người cảm phục. Nhân vật của Nhất Linh trong Đôi bạn, Bướm trắng còn mang
vẻ đẹp của trang phục, của sự điểm trang - dấu vết của lối sống đô thị, của tân
học . Ở Đôi bạn sắc đẹp lộng lẫy đượm mùi nước hoa và son phấn của Khánh -
con gái cụ thượng Đặng ở tỉnh về khiến Dũng “thốt nhiên cảm động” khi thoáng
thấy nàng . Trong suốt tác phẩm, hình bóng dịu dàng, mảnh mai tinh khiết của
Loan gắn liền với hình ảnh tà áo trắng: (“nàng mặc chiếc áo lụa trắng và gió mát
thơm những mùi cỏ đưa tà áo nàng , phơ phất chạm vào tay ch àng êm như
những cánh bướm” [26, 293]). Tấm áo lụa trắng như một biểu tượng về L oan
khiến mỗi lần hình dung lại, Dũng thấy lòng mình êm dịu lạ thường.
Như vậy, việc xây dựng ngoại hình nhân vật của Nhất Linh trong Đôi bạn
và Bướm trắng có những bước tiến mới so với văn học truyền thống. Nó không
còn là nhân tố giản đơn, tĩnh tại, bất biến mà có mối quan hệ mật thiết , hữu cơ
với mọi mặt của con người. Nó hiện dần theo sự cảm nhận của độc giả. Nó tham
gia vào bộc lộ thế giới nội tâm bên trong của nhân vật cũng như góp phần biểu
97
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đạt quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người.
Tiểu kết chương III
1. Tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng đã phản ánh cụ thể bước tiến triển
của tiểu thuyết Nhất Linh ở giai đoạn sau về phương diện nghệ thuật, đặc biệt là
nghệ thuật xây dựng nhân vật. Với sự di chuyển đối tượng phản ánh, và miêu tả
từ những vấn đề xã hội, sang thế giới nội tâm sâu kín của con người, nhà văn
Nhất Linh đã tạo ra trong tác phẩm của mình một thế giới nghệ thuật mới mẻ ,
đầy sức hấp dẫn, một thế giới mà văn học truyền thống cũng như đương thời còn
ít quan tâm thể hiện.
2. Trong tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng nhà văn đã quan tâm sâu sắc
đến việc tái hiện con người ở mức độ toàn vẹn và chân thật nhất (con người
được miêu tả cả ở diện mạo ngoại hình và đời sống nội tâm). Nhưng vì đối
tượng chính yếu của Nhất Linh là “con người bên trong” nên tất cả mọi thủ pháp
nghệ thuật hầu như đều quy về bộc lộ một cách cụ thể nhất, sắc nét nhất, thế giới
tâm lý phong phú của nhân vật. Sự chú ý tới thế giới nội tâm của con người đã
dẫn đến những thủ pháp mới mẻ trong việc thể hiện nhân vật. Đối thoại tâm lý,
độc thoại nội tâm thể hiện tâm lý nhân vật qua tả cảnh thiên nhiên , mô tả hình
thức bên ngoài của nhân vật là những thủ pháp nghệ thuật mà Nhất Linh ưa
98
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dùng, được nhà văn kế thừa từ truyền thống và hoàn thiện nó.
C-KẾT LUẬN
Đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam chuyển mình với những sức sống mới
trỗi dậy một cách mãnh liệt. Trong dòng chuyển lưu mạnh mẽ ấy, văn học Việt
Nam có điều kiện gặp gỡ, tiếp xúc với nền văn học mới ở phương Tây. Những
ảnh hưởng giao thoa đã đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam.
Lịch sử xã hội và những nhu cầu thời đại đã làm xuất hiện nhiều tổ chức văn
học, trong đó có Tự lực văn đoàn. Cùng với Tự lực văn đoàn không thể không
nhắc tới Nhất Linh “người cầm đầu, người điều hành…đồng thời cũng là một
cây bút tiểu thuyết trụ cột của nhóm ” [18, 30]. Nhất Linh làm báo, viết văn.
Cống hiến của ông đối với văn học không chỉ ở khối lượng tác phẩm ông để lại
cho đời mà còn ở những đóng góp về mặt cách tân nghệ thuật tiểu thuyết, hiện
đại hoá tiểu thuyết.
Trong suốt chặng đường sáng tác, Nhất Linh đã không ngừng tìm tòi bổ
sung để tự hoàn thiện mình. Trước năm 1932, Nhất Linh sáng tác theo quan
niệm của các nhà Nho nhưng sau khi du học ở Pháp về ông đã thay đổi quan
niệm văn chương. Viết tiểu thuyết, ông đã có sự chuyển hướng từ tư tưởng, cảm
hứng nghệ thuật, đề tài đến lối viết. Qua cuốn Viết và đọc tiểu thuyết Nhất Linh
đã đưa ra quan niệm viết tiểu thuyết của mình tuy không thật sắc sảo, càng
không uyên bác. Song những ý kiến mà Nhất Linh viết ra trong cuốn Viết và đọc
tiểu thuyết là sự chân thành.
Hai kiểu tiểu thuyết: Tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lý của Nhất
Linh mỗi kiểu tiểu thuyết có một chức năng riêng, do đó có cách xây dựng nhân
vật khác nhau. Ở tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh miêu tả tâm lý nhân vật đều
có liên quan trực tiếp đến các vấn đề xã hội, tác giả không sử dụng những biện
pháp nghệ thuật đặc thù, chỉ sử dụng những thành tựu mà tiểu thuyết hiện đại
Việt Nam đã đạt được cho tới thời điểm đó. Đến tiểu thuyết tâm lý, ông yêu cầu
đi sâu khám phá tâm lý con người chú trọng miêu tả cảm giác của nhân vật,
99
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những hoạt động bên ngoài không còn được giữ vai trò quan trọng như trước
đây nữa, nhân vật được quan tâm trong mối quan hệ với đời sống nội tâm. Thay
cho động cơ tâm lý nhất quán một chiều là những biểu hiện đa dạng hơn, có cả
phần mơ hồ của tiềm thức, vô thức, nhiều khi nhân vật hành động mà không tự
biết mình. Đây là nét khác nhau cơ bản trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ở
tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lý của Nhất Linh.
Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết của Nhất Linh được
xây dựng theo mô hình con người cá nhân. Với tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm
trắng, vấn đề cá nhân đã được ý thức ở cấp độ mới hẳn .Nó đã trở thành một
phương tiện hữu hiệu bênh vực quyền tự do cá nhân , truyền bá cho một nền văn
hoá mới tạo nên một sự chuyển biến rõ rệt trong nếp cảm, nếp nghĩ cũng như
trình độ thưởng thức văn học của độc giả Việt Nam .
Tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng cho chúng ta thấy sự cách tân văn
học của Nhất Linh không chỉ dừng lại ở một cuộc cách mạng về tư tưởng, văn
hóa mà sâu xa hơn, nó đã tác động đến phần nhạy cảm nhất trong mỗi nhà văn:
nghệ thuật viết tiểu thuyết. Với khuynh hướng tiểu thuyết tâm lý, nhà văn Nhất
Linh đã có tham vọng tìm hiểu khám phá đời sống tâm hồn tình cảm của con
người theo một con đường riêng, bằng một số yếu tố nghệ thuật đã phần nào đạt
tới giá trị hiện đại, giải toả một số bế tắc bất cập của tính chất ước lệ, công thức,
cũng như tính chất “nhất phiến ” trong việc thể hiện con người của văn học
truyền thống.
Để khám phá “con người bên trong”, tác giả Nhất Linh đã miêu tả tâm lý
nhân vật ở các mức độ biểu hiện khác nhau. Tâm lý nhân vật tự bộc lộ ra bên
ngoài qua những biểu hiện nhỏ nhặt, qua ngôn ngữ, hành động, cử chỉ có tính
bột phát bất chấp sự kiểm soát của lý trí và ý thức. Mặt khác, tâm lý nhân vật
được miêu tả thể hiện trực tiếp hoặc cũng có thể được nhận thức qua quá trình
phân tích của chính bản thân nhân vật. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nhất
Linh qua Đôi bạn và Bướm trắng đạt tới sự nhuần nhuyễn trong việc sủ dụng
các thủ pháp: Đối thoại tâm lý (đối thoại mang tính chất ám chỉ; đối thoại qua
100
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hành vi, cử chỉ), độc thoại nội tâm; sự thể hiện tâm lý nhân vật qua tả cảnh thiên
nhiên và mô tả hình thức bên ngoài của nhân vật trong mối quan hệ với thế giới
nội tâm sâu kín.
Trong các cuộc đối thoại mang tính chất ám chỉ, ở Đôi bạn các nhân vật
nhằm khám phá những dự cảm về nhau. Họ mang trong mình những tâm hồn
tinh tế, nhạy cảm, luôn khao khát tìm kiếm những điệu hồn đồng điệu. Ở Bướm
trắng, Nhất Linh sử dụng biện pháp đối thoại ám chỉ để thể hiện những thăm dò
tình cảm lẫn nhau giữa các nhân vật. Các nhân vật trong Đôi bạn và Bướm
trắng, ngoài hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ, họ còn giao tiếp với nhau bằng
hành vi phi ngôn ngữ. Đó là những tín hiệu thẩm mỹ gợi ra các cuộc đối thoại và
biểu đạt trạng thái tâm lý nhân vật rất sâu sắc. Tình yêu của các nhân vật trong
Đôi bạn và Bướm trắng nhiều khi không cần được thể hiện bằng lời nói mà quan
trọng là các nhân vật cảm nhận về nhau và cùng cảm nhận về thế giới. Chính
quá trình khám phá ấy là một nét mới Nhất Linh đem đến cho nghệ thuật và
nhân vật trong tiểu thuyết của mình.
Bằng hình thức độc thoại nội tâm, Nhất Linh đã chạm đến những vận
động nằm ở trong tiềm thức của tâm hồn nhân vật, khiến nó trở thành thế giới
khép kín. Tuy tham gia vào cuộc giao tiếp, nhưng dường như các nhân vật trong
Đôi bạn và Bướm trắng chỉ quan tâm đến những biến chuyển trong tâm trạng.
Ngoài ra, trong các thủ pháp xây dựng nhân vật Nhất Linh còn thể hiện tâm lý
nhân vật qua tả cảnh thiên nhiên. Thiên nhiên không chỉ tạo nên không gian bối
cảnh cho nhân vật xuất hiện mà còn làm tôn thêm vẻ đẹp cho nhân vật, gắn liền
với biểu hiện rõ hơn các trạng thái tâm lý của họ. Có thể nói, đến tiểu thuyết của
Nhất Linh con người có ý thức công khai về sắc đẹp tự thân là một yếu tố của
giá trị cá nhân. Những đặc điểm cơ bản trong cách thể hiện ngoại hình nhân vật
trong tiểu thuyết của Nhất Linh qua Đôi bạn và Bướm trắng: Đó là vẻ đẹp ngoại
hình của nhân vật luôn phụ thuộc và thế giới tình cảm của người đang cảm nhận
với chúng. Vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật được Nhất Linh miêu tả nêu ra dần
dần với những nét ấn tượng, gợi cảm giác thưởng thức. Có thể nói, đây là một
101
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tiến bộ trong bút pháp nghệ thuật miêu tả nhân vật so với văn học cổ điển. Tác
giả Nhất Linh tập trung miêu tả những chi tiết đường nét ngoại hình có liên quan
đến việc bộc lộ thế giới tình cảm ở bên trong. Chính vì thế, hình ảnh đôi mắt
trong hai tác phẩm Đôi bạn và Bướm trắng được tác giả miêu tả nhiều nhất. Là
vẻ đẹp của các nhân vật thường được đặt trong một trường liên tưởng so sánh và
gắn với phẩm chất khác của nhân vật. Như vậy, việc xây dựng ngoại hình nhân
vật trong Đôi bạn và Bướm trắng đã có những bước tiến bộ trong văn học truyền
thống nó không còn tĩnh tại, giản đơn, bất biến nữa mà có mối quan hệ mật thiết
hữu cơ với mọi mặt của con người.
Tuy nhiên, nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh
không tránh khỏi những hạn chế. Một số nhân vật của ông không có sức sống
lâu bền, do tính cách chưa sắc cạnh, tâm lý nhân vật còn đơn giản và ít biến cố.
Khi đi vào tâm lý nhân vật của Nhất Linh trở nên cô đơn trong cõi riêng của
mình, rơi vào trạng thái phi logic, đối lập với thực tại. Đôi khi thế giới nội tâm
nhân vật, ngôn ngữ mô tả còn có sự trùng lặp…
Với đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh
qua Đôi bạn và Bướm trắng. Chúng tôi xin góp một ý kiến nhỏ bé vào việc ghi
nhận những gì mà Nhất Linh đã đóng góp cho công cuộc hiện đại hoá văn học
Việt Nam. Trong luận văn này còn nhiều thiếu sót mà chúng tôi sẽ cố gắng hoàn
102
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thiện dần trên con đường học tập và nghiên cứu của mình.
Tài liệu tham khảo
1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học , NXB ĐHQG - Hà Nội.
2. Bùi Xuân Bào (1972), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
3. M.Bakhtin (1992) Lý luận và thi pháp tiểu thuyết ,Trường viết văn Nguyễn
Du - Hà Nội
4. M.Bakhtin, Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki, NXB Giáo dục – Hà Nội.
5. A.Brecht (1965), Sân khấu . Tập 5, phần II.
6. Trương Chính (1939), Dưới mắt tôi, NXB Thuỵ kí - Hà Nội.
7. Ngô Văn Chương (1974), Văn-Sử Việt Nam cận đại 1862-1945, Đại Học văn
khoa - Huế.
8. Vũ Thị Khánh Dần (1997), Tiểu thuyết của Nhất Linh trước CM Tháng8,
Luận án PTS,Viện văn học - Hà Nội
9. Nhóm Lê Quý Đôn (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, Tập 3 ,NXB
Xây dựng - Hà nội.
10. Đỗ Hồng Đức (1994), Bước đầu tìm hiểu về tiểu thuyết tâm lý qua Tố Tâm
(Hoàng Ngọc Phách) và Bướm trắng (Nhất linh), Luận án thạc sỹ , ĐH Sư phạm
Hà Nội.
11. Phan Cự Đệ (2000), Tự lực văn đoàn , con người và văn chương , Tuyển tập
Phan Cự Đệ , Tập 1 ,NXB Văn học - Hà Nội.
12. Phan Cự Đệ ( 2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX , NXB Giáo dục - Hà Nội.
13. Lê Bá Hán (chủ biên) (2000), Từ điển thuật ngữ văn học , NXB - ĐHQG -
Hà Nội.
14. Đỗ Đức Hiểu (1996), Đọc lại Bướm trắng của Nhất Linh, Tạp trí văn học số
10.
15. Trần Thanh Hiệp (1965), Nhân vật trong tiểu thuyết , NXB Sáng tạo - Sài
103
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Gòn.
16. Dương Thị Hương (2001), Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật trong tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn , Luận án TS, ĐH Sư phạm - Hà Nội.
17. Mai Hương (tuyển chọn) (2000), Nhất Linh cây bút trụ cột , NXB Văn hoá
thông tin - Hà Nội.
18. Nguyễn Hoành Khung (1989), Văn xuôi lãng mạn Việt Nam(1930 -1945),
Tập 1, NXB Khoa học xã hội - Hà Nội.
19. Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam , quyển hạ, NXB Trình
bày - Sài Gòn.
20. Thạch Lam (1941), Theo giòng, NXB Đời nay - Hà Nội.
21. Mã Giang Lân (chủ biên) (2000), Quá trình hiện đại hoá văn họcViệt Nam
1900-1945, NXB Văn hóa thông tin - Hà Nội.
22. Phương Lựu (2002), Lý luận văn học , NXB Giáo dục - Hà Nội.
23. Nhất Linh (2001), Đoạn tuyệt ,Văn chương Tự lực văn đoàn, Tập 1, NXB
Giáo dục - Hà Nội.
24. Nhất Linh (2001), Lạnh lùng, Văn chương Tự lực văn đoàn, Tập 1, NXB
Giáo dục - Hà Nội.
25. Nhất Linh (2001), Nắng thu, Văn chương Tự lực văn đoàn, Tập 1 , NXB
Giáo dục - Hà Nội.
26. Nhất Linh (2001), Đôi bạn , Văn chương Tự lực văn đoàn, Tập 1, NXB
Giáo dục - Hà Nội.
27. Nhất Linh (2001), Bướm trắng, Văn chương Tự lực văn đoàn , Tập 1 , NXB
Giáo dục - Hà Nội.
28. Nhất Linh (1972), Viết và đọc tiểu thuyết , NXB Đời nay - Sài Gòn.
29. Lê Hữu Mục (1960), Khảo luận về Đoạn Tuyệt (tức luận đề về Nhất linh),
Tập 1, NXB Khai trí - Sài Gòn.
30. Phạm Thế Ngũ (1965), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Tập 3, Quốc
học tùng thư xuất bản - Sài Gòn.
104
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
31. Vương Trí Nhàn (1966), khảo về tiểu thuyết, Tập 2, NXB Hội nhà văn.
32. Vương Trí Nhàn (sưu tầm) (2000), Những lời bàn về tiểu thuyết trong văn
học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945, NXB Hội nhà văn.
33. Nhiều tác giả (1984), Từ điển văn học, Tập 2, NXB khoa học xã hội.
34. G-N Pospelov (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học ,Tập 2, NXB
Giáo dục - Hà Nội.
35. Vũ Ngọc Phan (1994), Nhà văn hiện đại, Tập 1, NXB văn học - Hội nghiên
cứu giảng dạy văn học TP - HCM.
36. Võ Phiến (1969), Tạp bút, Thời mới xuất bản.
37. Phạm Quỳnh, Khảo về tiểu thuyết In Nam Phong - Sài Gòn.
38. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu , NXB Tác phẩm mới - Hội nhà
văn Việt Nam - Hà Nội.
39. Trần Đình Sử (1993), Thi pháp học hiện đại , NXB Giáo dục đào tạo - Hà
Nội.
40. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, NXB Giáo dục
đào tạo.
41. Bạch Năng Thi - Phan Cự Đệ( 1961), Văn học Việt Nam (1930 – 1945) Tập
1, 2. NXB Giáo dục - Hà Nội.
42. Nguyễn Đình Thi (1965), Công việc của người viết tiểu thuyết , NXBVăn
học - Hà Nội.
43. Đinh Gia Trinh (1995), Hoài vọng của lý trí, NXB Văn học - Hà Nội.
44. Nguyễn Văn Trung, 1965, Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết, NXB Nam Sơn
Hà Nội.
45. Lê Thị Dục Tú (1997), Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn, NXB Khoa học xã hội- Hà Nội.
46. Lê Tuyên (1961), Hiện hữu của tiểu thuyết, NXB Đại học.
47. Nguyễn Văn Xung (1985), Bình giảng về Tự lực văn đoàn, NXB Tân Việt -
Sài Gòn.
48. Trần Đăng Xuyền (1991), Chủ nghĩa tâm lý trong sáng tác của Nam Cao,
105
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tạp chí diễn đàn văn nghệ Việt Nam, Tập 2.
®¹i häc th¸i nguyªn Trêng ®¹i häc s ph¹m ----------------------
NguyÔn ThÞ Mai H¬ng
NghÖ thuËt x©y dùng nh©n vËt trong tiÓu thuyÕt Cña nhÊt linh qua '®«i b¹n" vµ "bím tr¾ng" Chuyªn ngµnh: V¨n häc ViÖt Nam M· sè: 60.22.34
Th¸i Nguyªn. 2008
106
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
TTããmm tt¾¾tt LLuuËËnn vv¨¨nn tthh¹¹cc ssÜÜ kkhhooaa hhääcc nngg÷÷ vv¨¨nn
A - MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhất Linh - Nguyễn Tường Tam (1906-1963) bắt đầu sáng tác từ những năm 20, thành công hơn cả những năm 30 và kết thúc sự nghiệp cầm bút c ủa mình vào đầu những năm 60 của thế kỉ XX. Đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về những thành tựu nghệ thuật của Nhất Linh. Nhưng dường như ít đi sâu vào mặt nghệ thuật xây dựng nhân vật trong những tác phẩm cụ thể, đặc biệt là hai tiểu thuyết “Đôi Bạn” và “ Bướm trắng”.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh qua “Đôi bạn ” và “Bướm trắng” làm đối tượng nghiên cứu, với mong muốn có thể góp một tiếng nói, một ý kiến trong sự nghiên cứu chung và tìm hiểu rõ hơn nghệ thuật xây dựng nhân vật trong sự vận động của một thể loại ở quá trình sáng tác của Nhất Linh. 2. Lịch sử vấn đề
Số lượng bài viết và các công trình nghiên cứu về tác giả Nhất Linh khá phong phú, đề cập đến nhiều phương diện về con người và văn nghiệp. Trong khuôn khổ vấn đề nghiên cứu, chúng tôi chủ yếu dừng lại khảo sát các ý kiến trực tiếp liên quan tới nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh nói chung và hai tiểu thuyết “Đôi bạn” và “Bướm trắng” nói riêng, sắp xếp chúng theo trình tự thời gian nhằm tái hiện một cách khách quan những quan điểm đánh giá ấy. 2.1. Các ý kiến đánh giá về nghệ thuật tiểu thuyết và xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh
Trước năm 1945, tiểu thuyết của Nhất Linh đã thu hút được sự chú ý của bạn đọc và giới nghiên cứu, phê bình. Tiêu biểu là các tác giả như: Trương Tửu; Trương Chính; Dương Quảng Hàm; Vũ Ngọc Phan…Nhìn chung, các ý kiến đánh giá về nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh thời kì này chưa thật sự phong phú. Có ý kiến thì đề cao, có ý kiến thì nghiêm khắc nhìn nhận, nhưng nhìn một cách bao quát, tất cả các nhà nghiên cứu đều thừa nhận phương diện đổi mới trong nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh.
Các nhà nghiên cứu hầu như không lưu tâm tới những tác phẩm của Nhất Linh, phải tới sau những năm 1954, chúng mới được nghiên cứu trở lại. Nhưng do tình hình chính trị của đất nước mà việc nghiên cứu về Nhất Linh cũng được chia thành hai bộ phận theo hai miền Nam - Bắc. Vì thế mà nảy sinh một hiện tượng: Trên phương diện tư tưởng, tiểu thuyết của Nhất Linh được đề cao ở miền Nam, bị phê phán ở miền Bắc, nhưng trên phương diện nghệ thuật có điểm gặp gỡ giữa các nhà nghiên cứu hai miền.
Các ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu cả hai miền Nam - Bắc phần lớn rơi vào phán xét tiểu thuyết của Nhất Linh theo quan điểm đạo đức xã hội. Nhưng một số ý kiến đã đề cập đến sự đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết Nhất Linh, trong đó có nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Bước vào giai đoạn sau Đại hội Đảng VI (1986); trong xu thế đổi mới, một số hiện tượng văn học quá khứ được nhìn nhận, đánh giá lại và được đánh giá toàn diện hơn, trong đó nổi bật lên là những tác phẩm của Nhất Linh. Các công trình nghiên cứu của các tác giả như: Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Trương Chính, Nguyễn Hoành Khung, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác - Đái Xuân Linh, Lê Thị Đức Hạnh, Vu Gia, Lê Thị Dục Tú, Trịnh Hồ Khoa, Vũ Thị Khánh Dần,
107
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Dương Thị Hương… đã thể hiện một sự đánh giá phong phú một cách nhìn toàn diện, đúng đắn và đa chiều về tiểu thuyết Tự lực văn đoàn cũng như tiểu thuyết Nhất Linh. 2.2. Các ý kiến đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết “Đôi bạn” (1938) và “Bướm trắng” ( 1939) của Nhất Linh
Trước thời kỳ đổi mới các bài viết đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Đôi bạn và Bướm trắng. Có thể kể đến một số bài viết của Đặng Tiến trong Hạnh phúc trong tác phẩm của Nhất Linh (1965), Nguyễn Hoành Khung trong cuốn Văn xuôi lãng mạn Việt Nam (1930- 1945), Phan Cự Đệ - Lời giới thiệu tiểu thuyết Đôi bạn (1988)...Hay ở trong các luận văn của Vũ Thị Khánh Dần và Đỗ Đức Tiểu cũng có những nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh. Với tiểu thuyết Bướm Trắng vì ra đời sau trong sự nghiệp sáng tác nên chưa thu hút đư ợc sự quan tâm của giới nghiên cứu đương thời. Ở Miền Nam có các bài viết của Bùi Xuân Đào trong Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn sử giản ước tân biên...ở Miền Bắc có các bài viết của Phan Cự Đệ trong Lời giới thiệu cuốn Đoạn tuyệt có nhận xét : “ Xét về một phương diện nào đó thì nghệ thuật của Đôi bạn và Bướm Trắng già dặn hơn, những nhận xét về tâm lý nhân vật sâu sắc và tinh vi hơn”, Đỗ Đức Hiểu cho rằng: “ Bướm Trắng là một tiểu thuyết hiện đại”. Nhìn chung các ý kiến đánh giá khá phong phú và đa dạng. C ác nhà nghiên cứu đứng trên quan điểm lịch sử để đánh giá nhận định, cố gắng tìm tòi những khám phá đóng góp của Nhất Linh đối với tiến trình văn học, nhưng nghệ thuật tiểu thuyết chưa đi sâu. 3. Đối tượng , phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát thế giới hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng, đi sâu vào các thủ pháp xây dựng nhân vật của tiểu thuyết, đặc biệt chú trọng đến các yếu tố thể hiện tâm lý. Tiểu thuyết là một đơn vị tổ chức nghệ thuật phức tạp nhiều khía cạnh, nhiều tầng bậc. Nhân vật cũng chỉ ra là một phương diện của tổ chức nghệ thuật mà thôi. Do đó việc phân tích nhân vật không tách rời nghiên cứu các yếu tố khác của tiểu thuyết như cốt truyện, kết cấu, tả cảnh...đặc biệt là cốt truyện. Và tiểu thuyết phần nào cả thực chất là hành trình của số phận nhân vật trong thời gian - trước là cốt truyện. 4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi đã kết hợp một vài phương pháp nghiên cứu phù hợp với mục đích nghiên cứu của mình. Đó là do vận dụng tổng hợp các phương pháp mà các thao tác chính là:
Phương pháp thống kê phân loại, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh
đối chiếu, phương pháp lịch sử: 5. Đóng góp của luận văn
Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng , chúng tôi mong muốn góp một phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu, nghiên cứu thế giới nghệ thuật của hai tiểu thuyết nêu trên, xem nó như một thành phần quan trọng của toàn bộ hệ thống tác phẩm của nhà văn Nhất Linh. Mục đích của luận văn là chỉ ra:
- Những thủ pháp xây dựng nhân vật, những đóng góp và những hạn chế của nghệ thuật
tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng.
108
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Những đóng góp của Nhất Linh đối với tiến trình hiện đại hoá nghệ thuật tiểu thuyết Việt Nam ở giai đoạn đương thời; đồng thời cũng chỉ ra sự vận động, chuyển hướng trên cả hai phương diện nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật trong tiểu thuyết Nhất Linh.
Đây là công trình chuyên biệt đầu tiên tập trung nghiên cứu nhân vật của tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng. Có thể nói với luận văn này, hai tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng được nghiên cứu một cách tỉ mỉ và cụ thể về nghệ thuật nhân vật . Từ đó, luận văn bước đầu đưa ra nhận định về những đóng góp của Nhất Linh với tiến trình hiện đại hoá nghệ thuật tiểu thuyết ở giai đoạn sau trong sự nghiệp sáng tác của ông. 6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Quan niệm tiểu thuyết, nhân vật tiểu thuyết, hai kiểu tiểu thuyết của Nhất
Linh.
Chương 2: Nhân v ật và kết cấu cốt truyện trong Đôi b ạn và Bướm trắng. Chương 3: Các th ủ pháp xây dựng nhân vật trong Đôi bạn và Bướm trắng.
B - NỘI DUNG CHƯƠNG I
QUAN NIỆM VỀ TIỂU THUYẾT, NHÂN VẬT TIỂU THUYẾT
HAI KIỂU TIỂU THUYẾT CỦA NHẤT LINH
1.1. Quan niệm tiểu thuyết và nhân vật tiểu thuyết 1.1.1. Quan niệm tiểu thuyết
Tiểu thuyết là một trong những thể loại quan trọng nhất của văn chương, nghệ thuật hiện đại. Theo M. Bakhtin cho rằng “Tiểu thuyết không đơn thuần chỉ là một thể loại trong nhiều thể loại. Đó là thể loại duy nhất nảy sinh và được nuôi dưỡng bởi thời đại mới của lịch sử thế giới và vì thế mà thân thuộc sâu sắc với thời đại ấy ”.Việc đưa ra một khái niệm về thể loại tiểu thuyết một cách hoàn chỉnh không phải là dễ. Bởi vì đã có khá nhiều quan niệm khác nhau về tiểu thuyết. Ở nước ta, trước năm 1945 khi viết tiểu thuyết đã trở thành nhưu cầu bức thiết của nhà văn Việt Nam đầu thế kỷ XX thì lý luận về tiểu thuyết càng trở nên bức thiết. Trước năm 1945 có các quan niệm về tiểu thuyết được đưa ra của các tác giả: Phạm Quỳnh, Thạch Lam, Vũ Bằng, Thiếu Sơn, Vũ Ngọc Phan ...Sau năm 1945, việc nghiên cứu thể loại tiểu thuyết được trải rộng ra cả ở hai miền Bắc - Nam. Khi sự phân định về mặt thể loại càng cụ thể hơn, thì quan niệm về tiểu thuyết sát với đặc trưng thể loại hơn, có thể đưa ra một định nghĩa khái quát của Phương Lựu trong cuốn Lý luận như sau: “Tiểu thuyết là một hình thức tự sự cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận đại và hiện đại. Với những giới hạn rộng rãi trong hình thức trần thuật tiểu thuyết có thể chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả cụ thể cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp tái hiện nhiều tính đa dạng”. 1.1.2. Quan niệm nhân vật tiểu thuyết
Nhân vật là linh hồn, là yếu tố không thể thiếu trong tiểu thuyết, ở nhân vật có thể là chiếc cầu nối giữa “cuộc đời thực” và “cuộc đời có vẻ thực” trong tiểu thuyết. Qua thế giới nhân vật, người đọc sẽ tìm thấy những vấn đề nhân sinh mà tác giả muốn gửi gắm, muốn chia sẻ.
109
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Khi sáng tác, mỗi nhà văn thường chọn cho mình một thế giới nhân vật phù hợp với sở thích, cá tính của mình để miêu tả, thể hiện. Nguyễn Đình Thi đã viết : “Vấn đề trung tâm của nghệ thuật tiểu thuyết theo tôi, là miêu tả những con người và đường đi của họ trong xã hội. Người viết tiểu thuyết nghĩ mọi vấn đề đều phải thông qua các nhân vật, xuất phát từ nhân vật hơn là từ sự việc”. Một đặc điểm rất quan trọng trong tiểu thuyết hiện đại là nhân vật dường như mang tính tự thân. Nhiều lúc nó vượt ra khỏi sự kiểm soát, sự định hướng ban đầu của nhà văn để đi theo qui luật của cuộc đời, số phận.
Nhà văn chỉ có thể xây dựng nhân vật tiểu thuyết bằng chính vốn sống và sự hiểu biết về nhân vật. Và như thế, một vấn đề đặt ra trong phương thức xây dựng nhân vật tiểu thuyết, là giải quyết như thế nào mối quan hệ giữa nhân vật và tác giả. Có ý kiến cho rằng nhân vật trong tác phẩm là hình ảnh của tác giả, nhưng cũng có ý kiến ngược lại. 1.2. Quan niệm của Nhất Linh về tiểu thuyết
Trước năm 1932, Nhất Linh theo quan điểm của các nhà Nho. Tiểu thuyết Nho phong
(1926) và tập truyện ngắn Người quay tơ (1927) thể hiện khá rõ những quan niệm trên.
Sau khi du học ở Pháp về, Nhất Linh đã thay đổi quan niệm văn chương.. Số phận con người cá nhân, quyền sống, quyền tự do dân chủ, quyền được hưởng hạnh phúc, lòng khao khát lý tưởng được nhà văn quan tâm thể hiện trong hàng loạt tiểu thuyết : Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng và hai tiểu thuyết viết chung với Khái Hưng: Gánh hang hoa, Đời mưa gió. Trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết Nhất Linh, đã nói rõ về quan niệm viết tiểu thuyết của mình. Ông cho rằng một cuốn tiểu thuyết hay là “tả đúng sự thực cả bề trong lẫn bề ngoài. Diễn tả linh động các trạng thái phức tạp của cuộc đời...”, “việc diễn tả tâm hồn và những uổn khúc của tâm hồn, những ý nghĩ thầm kín của các nhân vật là việc làm khó nhất”. Theo Nhất Linh hình dáng nhân vật “không nên tả ngay một lúc”.Với tư cách một người sau lưng có nhiều tiểu thuyết đã xuất bản ông chân thành kể ra những quan niệm non nớt của mình hồi đang viết nhiều viết khoẻ. Trong “Tự lực văn đoàn”, nghệ thuật của Nhất Linh có thể nói là vững vàng nhất. 1.3. Hai kiểu tiểu thuyết của Nhất Linh 1.3.1. Tiểu thuyết luận đề
Nói về loại tiểu thuyết này, Nhất Linh cũng đã đưa ra quan niệm: “Viết luận đề tiểu thuyết nghĩa là viết tiểu thuyết để nêu lên một lý thuyết, để tán dương, tuyên truyền một cái gì tác giả cho là tốt đẹp, để đả đảo một cái gì tác giả cho là xấu xa, viết tiểu thuyết để phụng sự, để chứng tỏ một cái gì đó…”. Ở tiểu thuyết luận đề, Nhất Linh đã có sự can thiệp khá rõ tới nhân vật. Để khẳng định và bảo vệ cho luận đề của mình, Nhất Linh luôn xây dựng nhân vật chính diện mang tư tưởng luân đề, nhân vật phản diện thì chống lại. Mặt khác, nhân vật thường được khai thác mặt có lợi cho luận đề. Kết thúc các tiểu thuyết luân đề thường là kết thúc có hậu vì thế nó thường mang màu sắc duy lý, vì tất cả mọi biểu hiện đều bộ lộ tình cảm và dục vọng của nhân vật. 1.3.2. Tiểu thuyết tâm lý
Ở tiểu thuyết tâm lý, ông đặt ra yêu cầu đi sâu khám phá tâm lý con người chú trọng miêu tả cảm giác của nhân vật, đây cũng là nét khu biệt và là thành tựu nghệ thuật trong việc thể hiện nội tâm của văn học lãng mạn. Những hoạt động bên ngoài không còn được giữ vai trò quan trọng như trước đây nữa, nhân vật được quan tâm trong mối quan hệ với đời sống nội
110
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tâm. Nhất Linh mở rộng diện quan tâm tới các nhân vật với nét tâm lý khác nhau trong quá trình miêu tả. Thay cho động cơ tâm lý nhất quán một chiều là những biểu hiện đa dạng hơn, có cả phần mơ hồ của tiềm thức, vô thức, nhiều khi cá nhân hành động mà không tự biết mình. Đây là nét khác nhau cơ bản trong nét xây dựng tâm lý nhân vật ở tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lý của Nhất Linh. Các quá trình tâm lý được quan tâm, thay cho các trạng thái tâm lý trước đây, với những biểu hiện của sự vận động, qua những mâu thuẫn nội tại phức tạp. Hành vi bên ngoài và suy nghĩ bên trong của nhân vật không thống nhất đơn giản một chiều, nhân vật độc thoại nhiều hơn, hiện tượng người trần thuật nhập vào ý nghĩ của nhân vật với cái nhìn từ bên trong xuất hiện nhiều hơn.
CHƯƠNG II NHÂN VẬT VÀ KẾT CẤU CỐT TRUYỆN TRONG ĐÔI BẠN VÀ BƯỚM TRẮNG
2.1. Quan niệm của Nhất Linh về con người 2.1.1. Quan niệm về con người trong văn học
Quan niệm con người cũng là một sản phẩm của lịch sử. Nó chịu sự chi phối của cá tính sáng tạo của nhà văn, truyền thống văn hoá dân tộc và ảnh hưởng của mối quan hệ giao lưu văn hoá quốc tế. Ở mỗi thời kỳ, mỗi nơi, mỗi con người khi đưa ra quan niệm nghệ thuật về con người đều có sự khác nhau. Đối với các nhà nghiên cứu phương Tây thì cho rằng con người chính là phương tiện tất yếu và quan trọng nhất để thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Theo Brech “các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống, mà là hình tượng được khắc hoạ phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả”.
Đối với các nhà nghiên cứu phê bình ở Việt Nam quan niệm nghệ thuật là cơ sở chắc chắn nhất để nghiên cứu tính độc đáo của các sáng tác nghệ thuật. Theo giáo sư Trần Đình Sử thì vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người thực chất là vấn đề “tính năng động của nghệ thuật, là giới hạn, phạm vi chiếm lĩnh đời sống của một hệ thống nghệ thuật, là khả năng thâm nhập của nó vào các miền khác nhau của cuộc đời”
Từ quan niệm nghệ thuật về con người dưới cách nhìn của các nhà nghiên cứu ta có thể thấy rằng con người khi được đưa vào trong tác phẩm nó trở thành đối tượng nhận thức các vấn đề của cuộc sống. Nhân vật được khắc hoạ qua cái nhìn của tác giả và được các nhà văn thể hiện qua các hình thức nghệ thuật. Ở các nhà văn lớn, sự hình thành quan niệm nghệ thuật của họ vừa có vai trò đặc biệt quyết định của cá tính sáng tạo của thế giới quan và tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. 2.1.2. Quan niệm về con người trong sáng tác của Nhất Linh
Trong tiểu thuyết như Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng… Ông đã thể hiện một quan niệm về con người mới làm nền tảng cho việc xây dựng cốt truyện và miêu tả nhân vật trong tác phẩm của mình. Trong tiểu thuyết của Nhất Linh, quan niệm nghệ thuật về con người được xây dựng theo mô hình con người cá nhân. Với tiểu thuyết tâm lý thì con người có khát vọng hành động tìm lối thoát li mọi quan hệ xã hội để thoả mãn tự do bản năng đây cũng là cấp độ cao nhất của con người cá nhân ý thức hướng tới một cuộc đời mới với một quan niệm sống mới, là ý thức thường trực trong con người ở tiểu thuyết Nhất Linh. Con người trong tiểu thuyết
111
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
luận đề là vậy, còn con người trong Đôi bạn, Bướm trắng thì lại đấu tranh để giải phóng bản năng của mình.
Trong các tiểu thuyết : Đoạn tuyệt, Lạnh lùng , hay Đôi bạn Nhất Linh quan niệm về nhân vật : Nhân vật đại diện cho chế độ và tập tục cũ như Bà Án (Bướm trắng) - là nhân vật phản diện; đồng thời có những nhân vật chính diện mang lý tưởng, thể hiện quan điểm tư tưởng, đạo đức của tác giả, của thời đại như: Loan (Đoạn tuyệt); Dũng (Đôi bạn), Trâm (Nắng thu)… Riêng ở Bướm trắng Nhất Linh còn thể hiện một quan niệm nghệ thuật mới về con người, nhân vật Trương không thể xếp vào hai loại nhân vật trên. Đó là nhân vật đại diện cho chính nhân vật đó, cho cách sống và suy nghĩ của chính họ. Ở đây, phải chăng nhà văn Nhất Linh đã xoá nhoà hai kiểu nhân vật, xoá nhoà ranh giới giữa thiện và ác, giữa tốt đẹp và xấu xa để tạo nên một kiểu nhân vật phức hợp, hội tụ nhiều phẩm chất, nhiều con người trong một chỉnh thể ?
Trong quan niệm nghệ thuật về con người của mình, nhà văn Nhất Linh đặc biệt quan tâm đến việc khám phá “con người bên trong”, khám phá những cảm xúc, cảm giác mong manh tinh tế cũng như mãnh liệt trong tâm hồn con người nhưng không vì vậy tác giả coi nhẹ việc khắc hoạ, đặc tả “con người bên ngoài”.
Quan điểm nghệ thuật của Nhất Linh về con người trong tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng cho thấy ông đã đổi mới hẳn quan niệm về con người và cách miêu tả con người, tạo thành chất lượng mới trong tác phẩm. 2.2. Quan hệ giữa cốt truyện và sự thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết Nhất Linh 2.2.1. Vấn đề cốt truyện của tiểu thuyết
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, đã định nghĩa: Cốt truyện “là hệ thống các sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch”.Cùng quan điểm như vậy, Lại Nguyên Ân cũng quan niệm: Cốt truyện là “sự phát triển hành động; tiến trình các sự việc, các biến cố trong tự sự và kịch, đôi khi cả trong tác phẩm trữ tình”.
Ở Việt Nam, các nhà tiểu thuyết giai đoạn đầu thế kỉ XX đã rất thành công trong việc từ bỏ lối viết chương hồi, kết thúc có hậu. Thay vào đó là sự lắp ghép nhiều mẩu chuyện xung quanh nhân vật chính, cốt truyện cô đọng, kết thúc bỏ ngỏ, tôn trọng sự thật. Người có công đầu trong những cách tân nghệ thuật này phải nói tới Song An Hoàng Ngọc Phách và nhóm Tự lực văn đoàn. Trong đó những đóng góp đáng ghi nhận nhất là nghệ thuật miêu tả tâm lý, tính cách nhân vật.
Như vậy, mặc dù vấn đề khái niệm “cốt truyện” đang còn là một vấn đề phức tạp nhưng trên cơ sở những khái niệm và những đặc điểm cơ bản vừa nêu trong luận văn này, chúng tôi cũng xin mạnh dạn khẳng định: cốt truyện là hệ thống các sự kiện, biến cố cụ thể được trình bày trong tác phẩm thuộc thể loại tự sự và kịch với ý đồ nghệ thuật của tác giả như một tiến trình và thể hiện qua các phương tiện nghệ thuật. 2.2.2. Tiến trình cốt truyện trong tiểu thuyết luận đề xã hội và tiểu thuyết tâm lý
Sự nghiệp sáng tác của Nhất Linh ở thể loại tiểu thuyết ta thấy có những tác phẩm tiêu biểu sau: Nho phong, Người quay tơ, Lạnh Lùng, Đoạn tuyệt, Đôi bạn, Bướm trắng. Ở đây, có sự vận động, chuyển hóa giữa tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lí.
112
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tiến trình cốt truyện trong tiểu thuyết luận đề là hành trình số phận cuộc đấu tranh xã hội của các nhân vật, đi sâu khai thác sự đối lập giữa tính cách và hoàn cảnh, giữa những nhân vật mang tính lý tuởng với xã hội phong kiến, giữa mới và cũ. Các tác phẩm này đấu trang cho một cuộc sống mới, phê phán lễ giáo phong kiến kìm kẹp con người còn trong tiểu thuyết tâm lý chính là hành trình của thế giới nội tâm của nhân vật, mâu thuẫn cơ bản của x ã hội không được đề cập đến hoàn cảnh xã hội hầu như không được phản ánh. Các sự kiện ít, mạch truyện chậm, hồi tưởng của nhân vật trôi chảy, tự nhiên tạo nên sự phát triển tâm lý nhân vật. 2.3. Hành trình số phận và hành trình nội tâm trong Đôi bạn 2.3.1. Đôi bạn một tiểu thuyết luận đề xã hội với nhiều yếu tố tâm lý
Đôi bạn có kết cấu song tuyến, bao gồm hai mạch chuyện chính: “Bản tình ca không lời” của “đôi bạn vẫn yêu nhau từ lâu” và hành khúc ra đi đầy trăn chở của “đôi bạn lên đường”. Đôi bạn là tiểu thuyết có kết cấu tâm lý - lối kết cấu thường lấy quá trình vận động bên trong của nhân vật, những phản ứng tâm lý của nhân vật đối với sự kiện và những diễn biến tâm trạng của nhân vật trong mỗi quan hệt với các nhân vật khác làm cơ sở để tổ chức tác phẩm. Thời gian của truyện không tuân theo trật tự tuyến tính của câu chuyện. Tác phẩm mở ra khi tất cả đã bắt đầu: mối tình Loan - Dũng, sự chán nản về hiện tại và khát vọng thoát ly của Dũng…và kết thúc khi tất cả đều chưa đi đến chung cục. Trong tác phẩm luôn có những sự ngưng kết: diễn biễn của mạch truyện như ngừng lại để cho nhân vật suy tư, ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm, tưởng tượng.
2.3.2. Con người hành động và suy tưởng ở Đôi bạn Nếu ở Nho Phong các nhân vật được định giá trong các mối quan hệ luân thường, thông qua việc thực hiện những bổn phận nghĩa vụ trong các mối quan hệ đó (con với cha, vợ với chồng…) thì Đôi bạn là tiếng nói khẳng định giá trị của cái tôi cá nhân vượt ra ngoài những khuôn phép truyền thống.
Những thanh niên ít nhiều chịu ảnh hưởng Tây học, mang tư tưởng tân tiến, như: Dũng, Trúc, Thái, Cận, Tạo, hay Loan, Hà, Phương đều có ý thức sâu sắc về giá trị sống của mình và họ luôn làm chủ sự sống ấy. Họ sống trong những mối quan hệ luân thường của xã hội, phong kiến, họ luôn luôn trăn trở, thao thức để kiếm tìm một phương thức sống mới, một cuộc đời mới, luôn băn khoăn tìm cách giải phóng mình khỏi hoàn cảnh đang sống. Dũng nói: “Tôi có tự do của tôi, tôi muốn sống thế nào thì mặc xác tôi”. Bởi thế, Dũng luôn luôn trăn trở trong ý định đoạn tuyệt với thực tại để ra đi, để hành động. Chàng luôn coi cảnh đời sau này khi đã bỏ nhà đi - mới là cuộc sống đích thực của mình.
Qua số phận, hành động…của các nhân vật trên đã phản ánh “tâm trạng của một lớp thanh niên đau đớn, chán chường sau kh i cuộc khởi nghĩa Yên Bái, Lâm Thao thất bại”. Con người trong Đôi bạn luôn có tâm trạng cô đơn, nỗi đau khổ, băn khoăn hoặc có hoàn cảnh éo le”. Như vậy, Đôi bạn đã thể hiện những khát vọng hành động của một số thanh niên đang bị nhấn chìm trong nỗi dằn vặt, đau nhói vì cuộc sống không có lý tưởng, không lối thoát. 2.4. Hành trình của nhân vật trong Bướm trắng 2.4.1. Bướm trắng một tiểu thuyết tâm lý
Bướm trắng đã có những hướng đi mới, thể hiện sự cách tân của tiểu thuyết. Việc sử dụng hình thức kết cấu tâm lý đã làm phá vỡ kiểu kết cấu truyền thống. Các sự kiện, biến cố không là mối quan tâm hàng đầu trong tác phẩm mà nhân vật trở thành yếu tố hàng đầu, câu
113
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chuyện không cần kết thúc có hậu, mạch truyện không cần phát triển theo trình tự thời gian tự nhiên mà theo sự diễn biến của tâm lý. 2.4.2. Cốt truyện của tiểu thuyết Bướm trắng
Góp phần vào sự đa dạng và hiện đại hoá nghệ thuật tiểu thuyết, cốt truyện tâm lý của Nhất Linh thuộc cốt truyện đồng tâm. Hệ thống sự kiện được tác giả kể lại đơn giản, gọn gàng, tập trung thể hiện quá trình phát triển của tính cách trong một giai đoạn cuộc đời nhân vật. Tiểu thuyết Bướm trắng chỉ xoay quanh thế giới tâm trạng của Trương - một sinh viên trường Luật. “Bướm trắng, với cốt truyện đơn giản, là: “thế giới bên t rong” con người vô cùng biến động đó là ý thức và tiềm thức, cái vô lý và cái phi lý, giấc mơ, mê sảng, linh cảm…Đó là thế giới bên trong của Trương, một thanh niên trí thức ho lao, đi tìm tình yêu (cái đẹp) vô vọng trong tuyệt vọng. Tình yêu, cái chết, màu trắng, máu, tự tử, vào tù, sám hối, truỵ lạc, tình thương, đám ma, đời sống thôn dã…, đó là những “phiêu lưu” trong tâm hồn Trương được Nhất Linh miêu tả, phân tích một cách tinh vi”. 2.4.3. Hành trình tâm lý nhân vật chính trong tiểu thuyết Bướm trắng
Hành trình tâm lý nhân vật Trương được thể hiện rõ nét nhất là từ khi chàng đi khám
bệnh để biết rõ số phận mình, cái chết không còn là một ám ảnh xa xôi nữa, nó hiện hình với thời gian định sẵn, sau lời phán quyết của bác sỹ. Bắt đầu số phận đau khổ, tuyệt vọng. Trương luôn luôn nghĩ đến cái chết. Trong 133 trang của tiểu thuyết Bướm trắng số lần nói đến cái chết là 135 lần, nói đến cuộc sống là 105 lần. Trương không chỉ bị dày vò đau đớn về cái chết, về cuộc sống, chàng còn đau đớn, khốn khổ vì tình yêu. Từ xét đoán mọi điều “vô lí”, nhân vật Trương tự nhận ra mình, tự bộc lộ, tự khám phá mình. Chính nhà văn và độc giả cũng đi vào hành trình khám phá đó. Nhà văn khẳng định cho Trương một tính cách rồi thể hiện tính cách ấy bằng hành động, ngôn từ, tả cảnh, đối thoại…
CHƯƠNG III CÁC THỦ PHÁP XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG ĐÔI BẠN VÀ BƯỚM TRẮNG
3.1. Các thủ pháp thể hiện thế giới bên trong của nhân vật trong Đôi bạn và Bướm trắng 3.1.1. Đối thoại tâm lý 3.1.1.1. Đối thoại mang tính chất ám chỉ
Theo sự thống kê của chúng tôi, hình thức đối thoại mang tính chất ám chỉ sử dụng trong Đôi bạn là : 9 lần [xem 26: 292, 315-316, 327, 332, 336-337, 344, 346, 369, 371] và ở Bướm trắng có số lần ít hơn Đôi bạn: 8 lần [xem 27: 397, 398, 399 -400, 417, 421- 422, 501, 543, 558]. Một ví dụ tiêu biểu ở tiểu thuyết Đôi bạn: Cuộc trò chuyện giữa bà Hai, Loan và Dũng, Dũng đã bóng gió bày tỏ tình cảm của mình cho Loan biết qua lập luận: Không lấy vợ - Dũng sẽ lấy vợ nếu gặp người vừa ý - không lấy vì sợ người ấy khổ. Bà Hai cho rằng: “Anh nói có giời hiểu”, nhưng Loan khẳng định: “Trời không hiểu nhưng người may hiểu chăng”. Lời nói ấy phản ánh đúng sự đứt đoạn và sự nối tiếp trong mạch ngầm của lời đối thoại. Loan có thể hiểu được vì sao Dũng không lấy vợ và có lấy vợ, nhất là thừa biết cái người vừa ý ấy là mình, nhưng Loan không thể hiểu được tại sao lại sợ người ta khổ, bởi vì Loan không hình dung và đoán định được hết mộng ước phiêu lưu trong con người Dũng, đặc biệt là quan niệm: “việc yêu Loan và sự cưới xin, chàng phân tách ra làm hai việc không có liên lạc gì với nhau cả ”.
114
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3.1.1.2. Đối thoại qua hành vi và cử chỉ
Các nhân vật của Nhất Linh qua Đôi bạn và Bướm trắng, ngoài hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ, họ còn giao tiếp với nhau bằng các hành vi phi ngôn ngữ. Ánh mắt, nụ cười, cử chỉ…của họ đã tham gia vào cuộc đối thoại không đơn giản chỉ để bổ xung cho ngôn từ bên ngoài mà là những tín hiệu thẩm mĩ gợi ra một cuộc đối thoại khác. Kiểu đối thoại này có ý nghĩa biểu đạt trạng thái tâm lý nhân vật rất sâu sắc. Chúng tôi gọi đó là đối thoại không lời. Loại đối thoại này chính là một phương tiện hữu ích để trao đổi tình cảm giữa các nhân vật Dũng-Loan, Trương-Thu. Nó cũng là một môtíp phổ biến,” yêu trong tâm hồn, yêu trong ý tưởng” của văn chương Tự lực văn đoàn.
Mối tình Loan-Dũng trong Đôi bạn không hề có một lời yêu thương nào, chỉ có ánh mắt trao gửi như một lời tỏ tình, nếu có nói thì chỉ là những câu ý tứ - chỉ hai người ngầm hiểu với nhau. Trương - Thu trong Bướm trắng cũng thường dùng ánh mắt để trao đổi tình cảm cho nhau. Đoạn văn đặc sắc nhất, thể hiện được những thành công của Nhất Linh với thủ pháp trên là đoạn văn miêu tả đôi trai gái hôm đi chơi chùa Thầy: “Tình cờ chàng được ngồi vào chỗ rất tốt vì nhìn vào chiếc gương con chàng thấy in rõ hình khuôn mặt Thu (…). Xe đi khỏi Ô Cầu Giấy, Thu mới nhận biết là từ lúc đó Thu không nói chuyện nữa. Hai người yên lặng nhìn nhau. Trương không thấy ngượng lắm như khi nhìn thẳng vào mắt Thu thỉnh thoảng chàng chớp mắt luôn mấy cái rồi nhắm mắt lại một lúc lâu như để cố giữ lại cái hình ảnh đẹp của hai con mắt Thu. Chàng hạ lông mi xuống một chút và tưởng như đó là một lời nói Thu có thể hiểu:- Anh yêu em lắm. Chàng thấy Thu cũng bắt chước hạ lông mi làm hiệu như có ý trả lời:- Em đã hiểu là anh định nói với em điều gì ”. Chỉ cần như thế hai nhân vật đã quá hiểu tâm hồn nhau. Hình thức đối thoại mang tính chất ám chỉ và đối thoại không lời đã làm rõ cảm giác về người khác trong nhân vật của Đôi bạn và Bướm trắng. Đó là một thành tựu mà Nhất Linh cũng như Tự lực văn đoàn tiếp t hu được từ Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách và nâng lên một chất lượng mới. Cảm giác về nhau, hay mối giao cảm giữa những cặp tình nhân này giống như những mắt lưới dệt nên các cuộc tình trong tiểu thuyết Nhất Linh. 3.1.2. Độc thoại nội tâm
Trong tiểu thuyết Nhất Linh nội tâm nhân vật không chỉ được khám phá qua lời nói, cử chỉ, hành vi mà tác giả còn khai thác thủ pháp độc thoại nội tâm giúp người đọc đi sâu hơn nữa vào tâm hồn nhân vật.
Chúng tôi đã làm một thống kê nhỏ về tỉ lệ dòng văn bản độc thoại và độc thoại nội tâm ở hai tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng: Kết quả cho thấy tỉ lệ này có sự chênh lệch khá lớn. Ở Đôi bạn : 2,26% (111/4904 dòng văn bản) trong khi đó Bướm trắng có tỉ lệ lớn hơn hẳn: 7,46%(385/5161 dòng văn bản). Như vậy, ở tiểu thuyết Bướm trắng hình thức độc thoại nội tâm hoàn hảo hơn cả. Nhất Linh không chỉ chú ý tới lĩnh vực ý thức mà còn khai thác hợp lý những vấn đề tiềm thức trong tâm hồn nhân vật.
Bằng hình thức độc thoại nội tâm, Nhất Linh đã chạm đến những sự vận động nằm ở phần tiềm thức của tâm hồn nhân vật, khiến nó trở thành một thế giới khép kín. Tuy tham gia vào mọi cuộc giao tiếp, nhưng dường như nhân vật chỉ quan tâm đến những chuyển biến trong tâm trạng của nó mà thôi. 3.1.3 . Thể hiện tâm lí nhân vật qua tả cảnh thiên nhiên
115
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Ở Đôi bạn, thiên nhiên xuất hiện với tần số cao và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thể hiện nhân vật. Thiên nhiên không chỉ tạo nên không gian bối cảnh cho nhân vật xuất hiện mà còn làm tôn thêm lên vẻ đẹp của nhân vật, gắn liền với biểu hiện rõ hơn các trạng thái tâm lý của họ. Thiên nhiên gắn với mối tình Loan - Dũng ngọt ngào, gần gụi, tươi sáng, đầy hương sắc; thiên nhiên gắn với cuộc ra đi của Dũng - Trúc thoáng đãng, hùng vĩ, được miêu tả với độ cao xa khiến nhân vật phải ngước nhìn, phải hình dung, tưởng tượng, so sánh …Có thể nói rằng trong Đôi bạn, nếu thiếu đi sự diễn tả thiên nhiên thì nhân vật sẽ nghèo nàn, cằn cỗi và bớt hấp dẫn đi rất nhiều.
So với Đôi bạn, rất ít cảnh thiên nhiên được miêu tả trong “Bướm trắng”. Quả thực cuốn tiểu thuyết này Nhất Linh rất khác biệt so với các tác phẩm khác của ông cũng như của các nhà văn cùng nằm trong Tự lực văn đoàn. Bởi kết hợp với một số thư pháp khác, Bướm trắng bước đến gần hơn với thư pháp tiểu thuyết hiện đại . Thiên nhiên góp phần bộc lộ tâm lý nhân vật nhưng mức độ xuất hiện không còn nhiều so với các tiểu thuyết trước. Nhất Linh đã dùng nhiều cảnh thiên nhiên để diễn tả tâm lý, tâm trạng của Trương khi gặp gỡ Thu, người con gái đẹp mà chàng biết là sẽ yêu. Thiên nhiên như sợi dây bảo hiểm, khi con người ta chơi vơi, tuyệt vọng, nó giúp cho con người le lói một cái gì đó, tìm về sự bình an của cuộc sống, niềm hy vọng và nhìn rõ mình hơn. Nó là niềm an ủi tươi sáng, khát khao cháy bỏng về tình yêu, lòng ham sống một cuộc sống tươi đẹp. Đó là bút pháp thành công của Nhất Linh. 3.2. Mô tả hình thức bên ngoài của nhân vật trong mối quan hệ với thế giới nội tâm sâu kín
- Ở tiểu thuyết Nhất Linh cũng như tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, con người có ý thức về sắc đẹp tự thân là một yếu tố của giá trị cá nhân. Đặc điểm cơ bản trong cách thể hiện ngoại hình nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng của Nhất Linh: Vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật luôn luôn phụ thuộc vào thế giới tình cảm của người đang cảm nhận về chúng. Vẻ đẹp của nhân vật không được Nhất Linh miêu tả một cách tập trung như cách miêu tả thường thấy trong văn học cổ điển - nghĩa là vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật hiện ra dần dần mang đến cho người đọc một sự thưởng thức từ từ ở những đường nét ấn tượng và gợi cảm giác thưởng thức. Có thể đây là một sự tiến bộ trong bút pháp nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nhất Linh.
C - KẾT LUẬN Đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam chuyển mình với những sức sống mới trỗi dậy một cách mãnh liệt. Trong dòng chuyển lưu mạnh mẽ ấy, văn học Việt Nam có điều kiện gặp gỡ, tiếp xúc với nền văn học mới ở phương Tây. Những ảnh hưởng giao thoa đã đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam. Lịch sử xã hội và những nhu cầu thời đại đã làm xuất hiện nhiều tổ chức văn học, trong đó có Tự lực văn đoàn. Cùng với Tự lực văn đoàn không thể không nhắc tới Nhất Linh “người cầm đầu, người điều hành…đồng thời cũng là một cây bút tiểu thuyết trụ cột của nhóm ”. Nhất Linh làm báo, viết văn. Cống hiến của ông đối với văn học không chỉ ở khối lượng tác phẩm ông để lại cho đời mà còn ở những đóng góp về mặt cách tân nghệ thuật tiểu thuyết, hiện đại hoá tiểu thuyết.
Trước năm 1932, Nhất Linh sáng tác theo quan niệm của các nhà Nho nhưng sau khi du học ở Pháp về ông đã thay đổi quan niệm văn chương. Qua cuốn Viết và đọc tiểu thuyết Nhất Linh đã đưa ra quan niệm viết tiểu thuyết của mình tuy không thật sắc sảo, càng không uyên
116
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bác. Song những ý kiến mà Nhất Linh viết ra trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết là sự chân thành.
Hai kiểu tiểu thuyết: Tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lý của Nhất Linh mỗi kiểu tiểu thuyết có một chức năng riêng, do đó có cách xây dựng nhân vật khác nhau. Ở tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh miêu tả tâm lý nhân vật đều có liên quan trực tiếp đến các vấn đề xã hội. Đến tiểu thuyết tâm lý, ông yêu cầu đi sâu khám phá tâm lý con người chú trọng miêu tả cảm giác của nhân vật, những hoạt động bên ngoài không còn được giữ vai trò quan trọng như trước đây nữa, nhân vật được quan tâm trong mối quan hệ với đời sống nội tâm. Đây là nét khác nhau cơ bản trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ở tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lý của Nhất Linh.
Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết của Nhất Linh được xây dựng theo mô hình con người cá nhân. Với tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng, vấn đề cá nhân đã được ý thức ở cấp độ mới hẳn. Tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng cho chúng ta thấy sự cách tân văn học của Nhất Linh không chỉ dừng lại ở một cuộc cách mạng về tư tưởng, văn hóa mà sâu xa hơn, nó đã tác động đến phần nhạy cảm nhất trong mỗi nhà văn: nghệ thuật viết tiể u thuyết.
Để khám phá “con người bên trong”, tác giả Nhất Linh đã miêu tả tâm lý nhân vật ở các mức độ biểu hiện khác nhau. Tâm lý nhân vật tự bộc lộ ra bên ngoài qua những biểu hiện nhỏ nhặt, qua ngôn ngữ, hành động, cử chỉ có tính bột phát bất chấp sự kiểm soát của lý trí và ý thức. Mặt khác, tâm lý nhân vật được miêu tả thể hiện trực tiếp hoặc cũng có thể được nhận thức qua quá trình phân tích của chính bản thân nhân vật. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nhất Linh qua Đôi bạn và Bướm trắng đạt tới sự nhuần nhuyễn trong việc sủ dụng các thủ pháp: Đối thoại tâm lý (đối thoại mang tính chất ám chỉ; đối thoại qua hành vi, cử chỉ), độc thoại nội tâm; sự thể hiện tâm lý nhân vật qua tả cảnh thiên nhiên và mô tả hình thức bên ngoài của nhân vật trong mối quan hệ với thế giới nội tâm sâu kín.
Trong các cuộc đối thoại mang tính chất ám chỉ, ở Đôi bạn các nhân vật nhằm khám phá những dự cảm về nhau. Họ mang trong mình những tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, luôn khao khát tìm kiếm những điệu hồn đồng điệu. Ở Bướm trắng, Nhất Linh sử dụng biện pháp đối thoại ám chỉ để thể hiện những thăm dò tình cảm lẫn nhau giữa các nhân vật. Các nhân vật trong Đôi bạn và Bướm trắng, ngoài hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ, họ còn giao tiếp với nhau bằng hành vi phi ngôn ngữ. Đó là những tín hiệu thẩm mỹ gợi ra các cuộc đối thoại và biểu đạt trạng thái tâm lý nhân vật rất sâu sắc. Bằng hình thức độc thoại nội tâm, Nhất Linh đã chạm đến những vận động nằm ở trong tiềm thức của tâm hồn nhân vật, khiến nó trở thành thế giới khép kín. Tuy tham gia vào cuộc giao tiếp, nhưng dường như các nhân vật trong Đôi bạn và Bướm trắng chỉ quan tâm đến những biến chuyển trong tâm trạng. Ngoài ra, trong các thủ pháp xây dựng nhân vật Nhất Linh còn thể hiện tâm lý nhân vật qua tả cảnh thiên nhiên. Thiên nhiên không chỉ tạo nên không gian bối cảnh cho nhân vật xuất hiện mà còn làm tôn thêm vẻ đẹp cho nhân vật, gắn liền với biểu hiện rõ hơn các trạng thái tâm lý của họ. Có thể nói, đến tiểu thuyết của Nhất Linh con người có ý thức công khai về sắc đẹp tự thân là một yếu tố của giá trị cá nhân. Việc xây dựng ngoại hình nhân vật trong Đôi bạn và Bướm trắng đã có những bước tiến bộ trong văn học truyền thống nó không còn tĩnh tại, giản đơn, bất biến nữa mà có mối quan hệ mật thiết hữu cơ với mọi mặt của con người.
117
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tuy nhiên, nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh không tránh khỏi những hạn chế. Một số nhân vật của ông không có sức sống lâu bền, do tính cách chưa sắc cạnh, tâm lý nhân vật còn đơn giản và ít biến cố. Khi đi vào tâm lý nhân vật của Nhất Linh trở nên cô đơn trong cõi riêng của mình, rơi vào trạng thái phi logic, đối lập với thực tại. Đôi khi thế giới nội tâm nhân vật, ngôn ngữ mô tả còn có sự trùng lặp…
Với đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh qua Đôi bạn và Bướm trắng. Chúng tôi xin góp một ý kiến nhỏ bé vào việc ghi nhận những gì mà Nhất Linh đã đóng góp cho công cuộc hiện đại hoá văn học Việt Nam. Trong luận văn này còn nhiều thiếu sót mà chúng tôi sẽ cố gắng hoàn thiện dần trên con đường học tập và nghiên cứu của mình.
118
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn