®¹i häc th¸i nguyªn Tr­êng ®¹i häc s­ ph¹m ----------------------

NguyÔn ThÞ Mai H­¬ng

NghÖ thuËt x©y dùng nh©n vËt trong tiÓu thuyÕt Cña nhÊt linh qua '®«i b¹n" vµ "b­ím tr¾ng"

LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc ng÷ v¨n

Th¸i Nguyªn. 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

®¹i häc th¸i nguyªn Tr­êng ®¹i häc s­ ph¹m ----------------------

NguyÔn ThÞ Mai H­¬ng

NghÖ thuËt x©y dùng nh©n vËt trong tiÓu thuyÕt Cña nhÊt linh qua '®«i b¹n" vµ "b­ím tr¾ng"

Chuyªn ngµnh: V¨n häc ViÖt Nam M· sè: 60.22.34

LuËn v¨n th¹c sÜ khoa häc ng÷ v¨n Người hướng dẫn khoa học TS.Ngô Văn Thư

Th¸i Nguyªn. 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Môc lôc

A. Më ®Çu .............................................................................................................................. 1 1. Lý do chän ®Ò tµi ................................................................................................................... 1

2. LÞch sö vÊn ®Ò ....................................................................................................................... 2

3. §èi t­îng, ph¹m vi nghiªn cøu .......................................................................................... 11

4. Ph­¬ng ph¸p nghiªn cøu ................................................................................................... 12

5. §ãng gãp cña luËn v¨n ...................................................................................................... 13

6. CÊu tróc luËn v¨n .............................................................................................................. 13

B. Néi dung ........................................................................................................................ 15

Ch­¬ng I ............................................................................................................................. 15

Quan niÖm tiÓu thuyÕt, nh©n vËt tiÓu thuyÕt Hai kiÓu tiÓu thuyÕt cña NhÊt Linh 1.1 Quan niÖm tiÓu thuyÕt vµ nh©n vËt tiÓu thuyÕt ............................................................... 15

1.1.1. Quan niÖm tiÓu thuyÕt ............................................................................................ 15

1.1.2. Quan niÖm nh©n vËt tiÓu thuyÕt .............................................................................. 19

1.2. Quan niÖm cña NhÊt Linh vÒ tiÓu thuyÕt ...................................................................... 22

1.3. Hai kiÓu tiÓu thuyÕt cña NhÊt Linh ................................................................................ 26

1.3.1. TiÓu thuyÕt luËn ®Ò .................................................................................................. 26

1.3.2 TiÓu thuyÕt t©m lý .................................................................................................... 30

TiÓu kÕt ch­¬ng I ................................................................................................................... 35

Ch­¬ng II ........................................................................................................................... 37

Nh©n vËt vµ kÕt cÊu cèt truyÖn trong §«i b¹n vµ B­ím tr¾ng 2.1. Quan niÖm cña NhÊt Linh vÒ con ng­êi ....................................................................... .37

2.1.1. Quan niÖm vÒ con ng­êi trong v¨n häc ................................................................. .37

2.1.2. Quan niÖm vÒ con ng­êi trong s¸ng t¸c cña NhÊt Linh ....................................... .40

2.2. Quan hÖ gi÷a cèt truyÖn vµ sù thÓ hiÖn nh©n vËt trong tiÓu thuyÕt cña NhÊt Linh .... .46

2.2.1. VÊn ®Ò cèt truyÖn cña tiÓu thuyÕt .......................................................................... .46

2.2.2. TiÕn tr×nh cèt truyÖn: Trong tiÓu thuyÕt luËn ®Ò x· héi vµ tiÓu thuyÕt t©m lý ... ..48

2.3. Hµnh tr×nh sè phËn vµ hµnh tr×nh néi t©m trong §«i b¹n ......................................... ..53

2.3.1. §«i b¹n mét tiÓu thuyÕt luËn ®Ò x· héi víi nhiÒu yÕu tè t©m lý ........................ ..53

2.3.2. Con ng­êi hµnh ®éng vµ con ng­êi suy t­ëng ë §«i b¹n ................................. ..58

2.4. Hµnh tr×nh cña nh©n vËt trong B­ím tr¾ng ................................................................ ..62

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2.4.1. B­ím tr¾ng mét tiÓu thuyÕt t©m lý ..................................................................... ..62

2.4.2. Cèt truyÖn cña tiÓu thuyÕt B­ím tr¾ng ............................................................... ..67

1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2.4.3. Hµnh tr×nh t©m lý nh©n vËt chÝnh trong tiÓu thuyÕt B­ím tr¾ng.68

TiÓu kÕt ch­¬ng II ............................................................................................................... ..72

CH¦¥NG III: C¸c thñ ph¸p x©y dùng nh©n vËt trong §«i b¹n vµ B­ím tr¾ng ................................................................................................................................................ .74 3.1. C¸c thñ ph¸p thÓ hiÖn thÕ giíi bªn trong cña nh©n vËt trong §«i b¹n vµ B­ím tr¾ng

............................................................................................................................................... ..74

3.1.1. §èi tho¹i t©m lý .................................................................................................... ..74

3.1.1.1. §èi tho¹i mang tÝnh chÊt ¸m chØ ................................................................. ..75

3.1.1.2. §èi tho¹i qua hµnh vi vµ cö chØ ................................................................... ..80

3.1.2. §éc tho¹i néi t©m ................................................................................................ ..83

3.1.3. ThÓ hiÖn t©m lý nh©n vËt qua t¶ c¶nh thiªn nhiªn ........................................... ..90

3.2. M« t¶ h×nh thøc bªn ngoµi cña nh©n vËt trong mèi quan hÖ víi thÕ giíi néi t©m s©u kÝn ..93

TiÓu kÕt ch­¬ng III ............................................................................................................... ..98

C. KÕt luËn ..................................................................................................................... ..99

Tµi liÖu tham kh¶o ................................................................................................... 103

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

A - MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Năm 1941, trên báo Thanh Nghị , Đinh Gia Trinh đã kết thúc bài tiểu luận

bàn về tính cách văn chương thời kì Âu hoá như sau:

“ Văn chương Việt Nam xưa biểu hiện cho một tinh thần của một Á Đông

chưa đem đời sống của nó hoà nhịp với đời sống của Tây Phương và của hoàn

cầu. Trong khoảng non một thế kỉ này , trong sự sống chung với người Pháp ,

chúng ta đã hưởng thụ nhiều cái mới lạ của văn minh Âu Châu. Những thói cũ ở

văn nghệ , ở triết học đối với chúng ta không có một giá trị tu yệt đối như xưa

nữa. Chúng ta đã ra khỏi căn nhà nhỏ của ta để ý nhìn những miền trời xa rộng

và do những điều trông thấy, cảm thấy, chúng ta đã đổi một ít phương châm xét

đoán của giá trị tư tưởng và nghệ thuật của nước nhà. “ Sự cách mệnh tinh thần

ấy đã làm nảy nở ra một nền văn chương mới ở đầu thế kỉ thứ XX này [43, 32-

33].

Những nhận xét trên phần nào nói lên được một thực tế, đó là quá trình

hiện đại hoá của Văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX. Với quá trình ấy, thời trung

đại đi dần tới chung cục và ánh sáng của một thời đại mới - thời hiện đại - lan

toả dần vào văn học dân tộc; văn học Việt Nam bước ra khỏi quỹ đạo vùng

Đông Á để ra nhập quỹ đạo toàn thế giới và không bị lạc lõng trong quỹ đạo ấy.

Quá trình hiện đại hoá của văn học Việt Nam đã diễn r a một cách đặc

biệt, mau lẹ và phức tạp trên tất cả các phương diện, các tiêu chí định tính nền

văn học, trong đó có tiêu chí thể loại. Trên con đường hiện đại hoá, hệ thống văn

học thể loại truyền thống từng bị phá vỡ để dần dần hình thành nên một cấu trúc

thể loại của văn học hiện đại. Trong cấu trúc ấy “Tiểu thuyết xuất hiện và được

hiện đại hoá dưới ảnh hưởng của tiểu thuyết Phương Tây ” [21, 50], quan sát

những bước đi của thể loại ấy ta sẽ ít nhiều thấy được hành trình của cả nền văn

1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

học.

Mặt khác, ngay trong quá trình sáng tác của một tác giả nhiều khi cũng

thể hiện phần nào đó sự vận động của nền văn học. Nhất Linh - Nguyễn Tường

Tam (1906-1963) là một tác gi ả như vậy . Ông bắt đầu sáng tác từ những năm

20, thành công hơn cả những năm 30 và kết thúc sự nghiệp cầm bút của mình

vào đầu những năm 60 của thế kỉ XX. Trong quá trình đó, các tác phẩm của ông

- chủ yếu ở thể loại tiểu thuyết "biến đổi rất mau” (Vũ Ngọc Phan) về nội dung

tư tưởng cũng như về hình thức nghệ thuật.

Đã có nhiêu bài viết, công trình nghiên cứu về những thành tựu nghệ thuật

của Nhất Linh. Nhưng dường như ít đi sâu vào mặt nghệ thuật xây dựng nhân

vật trong những tác phẩm cụ thể, đặc biệt là hai tiểu thuyết “Đôi Bạn ” và “

Bướm trắng”.

Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Nghệ thuật xây dựng

nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh qua “Đôi bạn ” và “Bướm trắng” làm

đối tượng nghiên cứu, với mon g muốn có thể góp một tiếng nói, một ý kiến

trong sự nghiên cứu chung và tìm hiểu rõ hơn nghệ thuật xây dựng nhân vật

trong sự vận động của một thể loại ở quá trình sáng tác của một tác giả. Từ “Đôi

bạn” đến “Bướm trắng”là hai tác phẩm tiêu biểu của Nhất Linh, là mốc chính

cho sự quan sát quá trình vận động thể loại tiểu thuyết luận đề sang tiểu thuyết

tâm lý, một bước tiến dài, là một thành tựu mới trong sự nghiệp văn chương của

Nhất Linh, một bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự đổi mới trong tư tưởng cũng

như về mặt nghệ thuật tiểu thuyết của ông. Nói như Phạm Thế Ngũ: đến “Bướm

trắng có thể coi như giai đoạn thành tựu của một văn tài đã chín” [ 30, 151]

2.Lịch sử vấn đề

Sự xuất hiện của Nhất Linh gắn liền với sự ra đời của một tổ chức văn học

có tên “Tự lực văn đoàn” dưới sự dẫn đạo của ông “đã làm mưa làm gió trên văn

đàn”, đã góp phần làm thay đổi diện mạo văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX.

Bởi vậy, số lượng bài viết và các công trình nghiên c ứu về tác giả này khá

2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phong phú, đề cập đến nhiều phương diện về con người và văn nghiệp . Trong

khuôn khổ vấn đề nghiên cứu, chúng tôi chủ yếu dừng lại khảo sát các ý kiến

trực tiếp liên quan tới nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất

Linh nói chung và hai tiểu thuyết “Đôi bạn” và “Bướm trắng” nói riêng, sắp xếp

chúng theo trình tự thời gian nhằm tái hiện một cách khách q uan những quan

điểm đánh giá ấy.

2.1. Các ý kiến đánh giá về nghệ thuật tiểu thuyết và xây dựng nhân vật trong

tiểu thuyết của Nhất Linh

Ngay từ khi xuất hiện trên văn đàn, tiểu thuyết của Nhất Linh đã thu hút

được sự chú ý của bạn đọc và giới nghiên cứu, phê bình. Các nhà nghiên cứu

phê bình văn học cùng thời với Nhất Linh, đã có nhiều bài viết đánh giá sâu sắc,

phản ánh đúng vai trò đi tiên phong trong lĩnh vực đổi mới văn học, trong đó

cũng đề cập đến phương diện nghệ thuật xây dựng nhân vật tiểu thuyết . Tiêu

biểu là các tác phẩm và bài viết như: Bài viết về Đoạn tuyệt (đăng trên báo Loa

năm 1935); về Lạnh lùng (đăng trên báo Hữu Ích năm 1937) của Trương Tửu;

tác phẩm Dưới mắt tôi (1939) của Trương Chính ; Việt Nam văn học sử yếu

(1941) của Dương Quảng Hàm ; Nhà văn hiện đại (1942) của Vũ Ngọc

Phan…Khẳng định giá trị của Đoạn tuyệt trong tác phẩm Dưới mắt tôi (1939)

Trương Chính cũng đề cao nghệ thuật xây dựng nhân vật ở đây “Đoạn tuyệt là

một kiệt tác trong văn học Việt Nam hiện đại. Vì Đọan tuyệt không chỉ có giá trị

xã hội, nó còn có một giá tr ị tâm lí không ai chối cãi được. Ông Nhất Linh đã

dùng một cách quan sát rất tinh vi để tả những trạng thái phiền phức trong tâm

hồn riêng của nhân vật trong truyện để đi sâu vào đời riêng tư của họ” [6, 18].

Với Lạnh lùng, ông tiếp tục khẳng định: “Không thể lọt qua trí quan sát của ông,

những tư tưởng ta giấu kín tận đáy lòng như những con vật xấu xa. Người trong

truyện vì thế mà linh động ” [6, 27].

Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cũng nêu lên những nhận định khái quát

về nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh như sau: “Nếu đọc Nhất Linh, từ Nho

3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phong cho đến những t iểu thuyết gần đây nhất của ông, người ta thấy tiểu

thuyết của ông biến đổi rất mau. Ông viết từ tiểu thuyết ái tình, tiểu thuyết tình

cảm, qua tiểu thuyết luận đề, đến tiểu thuyết tâm lí; sự tiến hoá ấy chứng tỏ rằng

mỗi ngày ông càng muốn đi sâu vào tâm hồn con người ta ” [35, 234]. Nhìn

chung, các ý kiến đánh giá về nghệ thuật ti ểu thuyết của Nhất Linh thời kì này

chưa thật sự phong phú. Có ý kiến thì đề cao , có ý kiến thì nghiêm khắc nhìn

nhận, nhưng nhìn một cách bao quát , tất cả các nhà nghiên cứu đều thừa nhận

phương diện đổi mới trong nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh.

Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám, trong thời đại lịch sử mới, những ý

kiến đánh giá về nghệ thuật Tự lực văn đoàn nói chung và tiểu thuyết Nhất Linh

nói riêng có nhiều ảnh hưởng sâu sắc. Thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp

(1946-1954), trong xu thế khẳng định của nền văn học Cách mạng, Đoạn tuyệt

(1935) với những cái được coi là uỷ mị, sầu thảm cũng như ý thức đề cao cá

nhân của văn học lãng mạn , các nhà nghiên cứu hầu như không lưu tâm t ới

những tác phẩm của Nhất Linh, phải tới sau những năm 1954, chúng mới được

nghiên cứu trở lại . Nhưng do tình hình chính trị của đất nước mà việc nghiên

cứu về Nhất Linh cũng được chia thành hai bộ phận theo hai miền Nam - Bắc.

Trên thực tế, lối phê bình thời kì này chủ yếu dựa trên quan điểm xã hội học và

bị chi phối bởi tư tưởng chính trị. Mặt khác, tư tưởng chính trị của Nhất Linh có

thay đổi theo chiều hướng tiêu cực khi ông chuyển vào miền Nam t hành lập

chính phủ thân Nhật.

Vì thế mà nảy sinh một hiện tượng: Trên phương diện tư tưởng, tiểu thuyết của

Nhất Linh được đề cao ở miền Nam, bị phê phán ở miền Bắc , nhưng trên

phương diện nghệ thuật có điểm gặp gỡ giữa các nhà nghiên cứu hai miền.

Ở miền Nam, nghiên cứu về Nhất Linh, bên cạnh những bài báo đăng trên

những tạp trí Văn và Văn học, chúng ta phải kể đến các chuyên luận, các công

trình văn học sử viết dưới dạng giáo trình dùng trong các trường trung học, đại

học. Tiêu biểu là các công trình của Nguyễn Văn Xung ( Bình giảng về Tự lực

văn đoàn, 1958), Phạm Thế Ngũ (Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, 1960),

4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Lê Hữu Mụ c (Khảo luận về Đoạn tuyệt, tức luận về Nhất Linh,1960), Doãn

Quốc Sỹ (Tự lực văn đoàn, 1960), Thanh Lãng (Văn học thế hệ 1932, in trong:

Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ , 1967), Bùi Xuân Bào ( Le roman

Vietnamien contemporain, 1972), Vũ Hân ( Văn học Việt Nam thế kỷ XIX tiền

bán thế kỷ XX : 1800-1945, 1973), Thế Phong ( Nhà văn tiền chiến 1930 - 1940,

1974) …

Trong cuốn Bình giảng về Tự lực văn đoàn , Nguyễn Văn Xung , với cái

nhìn so sánh với Kh ái Hưng, cho rằng “Nhất Linh không phải tả cảnh như Khái

Hưng nhưng là để móc vào đấy những biến đổi uyển chuyển trong tình cảm của

nhân vật “ [ 47, 65]. Còn Lê Hữu Mục thì khẳng định: “Nhất Linh có những

nhận xét tâm lý rất tinh luyện (…) Nhân vật Nhất Linh sống với những cảm xúc

rất phức tạp” [29, 90], Thanh Lãng cho rằng trong việc xây dựng nhân vật của

Nhất Linh càng về sau “càng bỏ sự động đạt để đi vào con đường phân tích tỉ

mỉ, bình lặng, tình cảm ” [ 19, 747], Phạm Thế Ngũ thì nhận xét về nghệ thuật

xây dựng nhân vật Nhung trong tiểu thuyết Lạnh lùng là “tâm lí ái tình được ghi

nhận và diễn đạt một cách khá vi diệu (…) Người ta thấy ảnh hưởng của Prust

và Frend nữa trong cái bút pháp của tác giả mô tả ái tình, dục tình, trỗi dậy trong

lòng Nhung ” [30, 463] .

Ý kiến có thể là hơi quá đề cao, song qua đó, chúng tôi nhận thấy các nhà

nghiên cứu phê bình ở đây đã chỉ ra được những đổi mới về phương diện nghệ

thuật thể hiện nhân vật của Nhất Linh ở hai thể loại tiểu thuyết.

Ở miền Bắc, các công trình của nhóm Lê Quý Đôn (Lược thảo lịch sử văn

học Việt Nam, tập 3 - từ giữa thế kỉ XIX đến năm 1945, 1957), của Bạch Năng

Thi - Phan Cự Đệ ( Văn học Việt Nam 1930 -1945, tập 1 , 1961), bài viết của

Nguyễn Đức Đàn (Mấy ý kiến về Nhất Linh và Khái Hưng - Hai nhà văn tiêu

biểu trong Tự lực văn đoàn, 1958)… đã cho thấy một cách nhìn khá khách quan

về tiểu thuyết của Nhất Linh.

Nhóm Lê Quý Đôn nhận xét rằng với tiểu thuyết Tự lực văn đoàn “cả một

thế giới tâm tình trước kia hé mở một cách rụt rè, e lệ, bây giờ được phơi bầy

5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mổ xẻ tinh vi” [9,296], “Nhất Linh thành công ở cách bố trí truyện , cách sử

dụng cảnh vật xung quanh để làm nổi bật tâm lí nhân vật” [9, 331]. Bạch Năng

Thi trong cuốn Văn học Vi ệt Nam 1930-1945 đã khẳng định : “Nhất Linh ngó

sâu vào mâu thuẫn trong tâm hồn; tấn bi kịch âm ỉ, đôi lúc bùng ra, luôn luôn có

sức hấp dẫn” [41, 107].

Do nhìn nhận tác phẩm văn h ọc theo quan điểm xã hội học nên nhìn

chung, các ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu cả hai miền Nam - Bắc phần

lớn rơi vào phán xét tiểu thuyết của Nhất Linh theo quan điểm đạo đức xã hội.

Nhưng một số ý kiến đã đề cập đến sự đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết Nhất Linh,

trong đó có nghệ thuật xây dựng nhân vật.

Bước vào giai đoạn sau Đại hội Đảng VI (1986); trong xu thế đổi mới ,

một số hiện tượng văn học quá khứ được nhìn nhận, đánh giá lại và được đánh

giá toàn diện hơn , trong đó nổi bật lên là những tác phẩm của Nhất Linh. Các

công trình nghiên cứu của các tác giả như: Phan Cự Đệ ( Tự lực văn đoàn - con

người và văn chương), Hà Minh Đức ( Các bài giảng về Đoạn tuyệt , Đôi bạn

trong tác phẩm văn học 1930 -1945); Trương Chính (Vấn đề đánh giá Tự lực

văn đoàn; Tự lực văn đoàn; Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết

Tự lực văn đoàn ); Nguyễn Hoành Khung (Văn học Việt Nam 1930 -1945; Lời

giới thiệu bộ sách Văn xuôi lãng mạn trong văn học Việt Nam từ đầu những năm

1930 đến 1945), Trần Đình Hượu (Tự lực văn đoàn, nhìn từ góc độ tính liên tục

của lịch sử qua bước ngoặt hiện đại hoá trong lịch sử văn học Phương Đông);

Nguyễn Trác - Đái Xuân Linh (Về Tự lực văn đoàn), Lê Thị Đức Hạnh (Thêm

mấy ý kiến đánh giá về tự Tự lực văn đoàn ; Tự lực văn đoàn và Thơ mới ); Vu

Gia (Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hoá văn học), Lê Thị Dục Tú ( Quan

niệm về con người trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn), Trịnh Hồ Khoa

(Những đóng góp của Tự lực văn đoàn xây dựng cho một nền văn xuôi Việt Nam

hiện đại), Vũ Thị Khánh Dần ( Tiểu thuyết của Nhất Linh trước Cách mạng

tháng Tám), Dương Thị Hương ( Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong tiểu

6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thuyết Tự lực văn đoàn)… đã thể hiện một sự đánh giá phong phú một cách nhìn

toàn diện, đúng đắn và đa chiều về tiểu thuyết Tự lực văn đoàn cũng như tiểu

thuyết Nhất Linh.

Chúng tôi có thể dẫn ra đây một số ý kiến tiêu biểu. Chẳng hạn, Dương

Thị Hương trong công trình nghiên cứu của m ình về Nghệ thuật miêu tả tâm lý

nhân vật trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã khẳng định tiểu thuyết luận đề của

Nhất Linh “thành công và chiếm được cảm tình của giới trẻ đương thời vì đã thể

hiện được những luận đề phù hợp với chân lý đời sống, đem lại những khám phá

chân thực về nhân vật, về tâm lý” [ 16, 51]. Nguyễn Hoành Khung thì nhận xét:

“Với Lạnh lùng, Nhất Linh không còn gò cốt truyện, dàn nhân vật nhằm minh

hoạ cho một luận đề nữa, mà đưa ngòi bút đi sâ u hơn vào việc phân tích tâm lý,

tình cảm, ở đây là tâm lý ái tình , và đạt tới một trình độ ti ểu thuyết già dặn,

thành thục” [18, 32]. Với Phan Cự Đệ đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật

của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, đã khẳng định: “Ngòi bút của Nhất Linh rất có

tài miêu tả những mối tình đầu trong sáng, đượm chút nhập ngừng, e thẹn, kín

đáo và ý nhị ” [11, 43].

Ngoài việc khẳng định những thành công, các nhà nghiên cứu cũng

nghiêm khắc chỉ ra những điểm hạn chế trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của

tiểu thuyết Nhất Linh. Chẳng hạn Vũ Thị Khánh Dần cho rằng: “Tiểu thuyết của

Nhất Linh còn một số hạn chế mang tính lịch sử, một số nhân vật thiếu sức sống

lâu bền, do tính cách chưa sắc cạnh, tâm lý nhân vật còn đơn giản” [8, 115]. Ngô

Văn Chương cho rằng ở Đoạn tuyệt có những chi tiết vô lý, không hợp quy luật

tình cảm “Loan đang nghĩ tới Dũng s ao lại âu yế m với Thân ngay được” [7 ,

173], còn Phạm Thế Ngũ nhận xét : “Đọc Đoạn tuyệt, ngày nay ai cũng nhận

thấy tính gò ép của câu chuyện, những chi tiết thâu nhập vội vàng để chứng

minh cho một ý định (…) Ngay n hân vật Loan cũng đầy mâu thuẫn, cứng nhắc

và giả dối nữa” [30, 150]. Dương Thị Hương cũng chỉ ra mặt hạn chế trong nghệ

thuật xây dựng nhân vật của Nhất Linh trong tiểu thuyết tâm lý: “Nhân vật được

7

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

miêu tả trong thế giới cô lập, khép kín, vì vậy quá trình tâm lý hoặc các trạng

thái tâm lý của nó được nhìn nhận bởi cái nhìn chủ quan của tác giả và nhân vật

nhiều hơn bởi sự tác động của hoàn cảnh” [16, 148].

Như vậy , các ý kiến đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật của tiểu

thuyết Nhất Linh là rất phong phú, đa dạng. Bên cạnh chỉ ra những cách tân,

những đóng góp của nhà văn đối với tiến trình văn học, các nhà nghiên cứu cũng

chỉ rõ những mặt hạn chế, những điểm chưa hoàn thiện của nhà văn Nhất Linh.

Nguyên nhân của những hạn chế đó ở tiểu thuyết Nhất Linh, theo chúng tôi, một

phần nhà văn chịu ảnh hưởng của việc xử lý những vấn đề xã hội được đặt ra

trong tác phẩm; một phần bị qui định bởi đặc điểm thi pháp của chủ nghĩa lãng

mạn; phần khác có lẽ bởi nhà văn Nhất Linh đang ở giai đoạn tìm tòi một hướng

đi mới cho tiểu thuyết Việt Nam.

2.2. Các ý kiến đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết

“Đôi bạn” (1938) và “Bướm trắng” ( 1939) của Nhất Linh

Khi đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn,

Đặng Tiến, cuốn Hạnh phúc trong tác phẩm Nhất Linh, 1965, Văn nghệ số 37

viết về Đôi bạn: “Nhân vật Nhất Linh sống trong không gian không phải là hạ

giới mà trong không gian nội tâm; Dũng sống không phải trong mùa thu trước

mặt, mà là mùa thu của lòng chàng, một mùa thu đã đi qua , một mùa thu chưa

tới và một mùa thu có thể không bao giờ có trong trời đất ”.

Trong công cuộc đổ i mới về nhiều mặt của đất nước, nhất là từ sau Đại

hội Đảng VI (thời kì đổi mới) - một đời sống mới trên cơ sở đổi mới tư duy đã

giúp cho các nhà khoa học thẩm định lại những vấn đề trong quá khứ một cách

khách quan hơn. Nhất Linh trở về với độc giả qua hàng loạt các tiểu thuyết được

tái bản năm 1988. Các giá trị văn học được tiếp cận trên cơ sở lấy tiêu chí văn

học, nghệ thuật Nguyễn Hoành Khung trong cuốn Văn xuôi lãng mạn Việt Nam

(1930 - 1945) có nhận xét: “Đến Đôi bạn, Nhất Linh lại trở lại với những nhân

vật yêu dấu của mình(…) Tác phẩm đào sâu tâm t ư, khát vọng của một lớp

8

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thanh niên, không luận đề, không tuyên ngôn, nhưng Đôi bạn lại như tác phẩm

được ấp ủ, gửi gắm tâm sự, phô diễn tâm trạng nhiều nhất của nhà văn” [18,32].

Phan Cự Đệ trong Lời giới thiệu tiểu thuyết Đôi bạn (NXB Đại học và Giáo dục

chuyên nghiệp, 1988) đã viết: “Tiểu thuyết Đôi bạn là một bữa tiệc tâm lý sang

trọng đôi khi đến mức thừa thãi, hành động của nhân vật và cốt truyện có phần

ngưng trệ và không khí xã hội mờ nhạt hơn so với Đoạn tuyệt. Nhưng đứng về

phương diện nghệ thuật thì Đôi bạn thành công với những nhận xét tâm lý tinh

vi, với một thanh niên giầu cảm xúc và đầy thanh sắc, với một ngôn ngữ trong

sáng trang nhã, giầu chất thơ …Đặc biệt , Đôi bạn có những thành công trong

nghệ thuật xây dựng một cốt truyện tâm lý, trong việc kết hợp tiểu thuyết luận

đề và tiểu thuyết tâm lý ” [12, 375]. Vũ Thị Khánh Dần có nhận xét: “Các nhân

vật trong Đôi bạn là những con người cô đơn (…) Đôi bạn là tiểu thuyết hướng

nội” [8, 81]. Với Đỗ Đức Hiểu trong cuốn Đọc lại Bướm trắng của Nhất Linh

thì cho rằng: “Im lặng, sương mờ, trời lạnh…đó là âm điệu mạnh, xuyên suốt

của Đôi bạn . Như một bản nhạc, như một bài thơ, truyện có nhữ ng âm thanh

trùng điệp những cảnh đối xứng , và những tiếng vang từ chương này đến

chương khác” [14, 351].

Tiểu thuyết “Bướm trắng” ra đời ở giai đoạn sau trong sự nghiệp sáng tác

của Nhất Linh. Cã nhiÒu yÕu tè phi truyÒn thèng nªn cßn ch­a thu hút được

sự chú ý của giới nghiên cứu đương thời. Bùi Xuân Bào trong cuốn Tiểu thuyết

Việt Nam hiện đại, đã chỉ ra bước phát triển mới và những khám phá về nghệ

thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Bướm trắng: “Trong Bướm trắng, tâm

hồn một người bệnh bị một tình yêu vô vọng giày vò, được nghiên cứu thấu đáo

mà ta không tìm thấy được thí dụ nào trong các tác phẩm nào khác của Nhất

Linh, cũng như trong tác phẩm của các người đồng thời với ông. Nếu Bướm

trắng đánh dấu một chặng đường mới tr ong sự phát triển của Nhất Linh, thì

chính là vì tác giả đã từ bỏ dứt khoát ở đấy công thứ c của tiểu thuyết có luận đề

mà, cho tới bây giờ , vẫn luôn luôn là công thức của ông. Ở đây , sự hư cấu mơ

mộng không tìm cách chứng minh điều gì . Nó chỉ nhằm đi sâu vào tâm hồn của

9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

một chàng trai, sinh ra để hưởng niềm vui sống và khao khát hạnh phúc, nhưng

một căn bệnh hiểm nghèo ngăn anh ta không được hưởng những niềm hi vọng

chân chính nhất ” [2, 130].

Giống với luận điểm nêu trên của Bùi Xuân Bào, khi khẳng định một thế

giới mới trong sáng tác của Nhất Linh qua Bướm trắng - thế giới nội tâm bên

trong, Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3) cũng

khẳng định: “Qua Bướm trắng Nhất Linh cũng đã đưa ngòi bút phân tích tâm lý

vào địa hạt nhân bản muôn thủa với trường hợp b i đát con người bị giằng co

giữa tình yêu và cái chết ” [30, 160].

Những ý kiến đánh giá trên có thể coi là bước mở đường cho các nhà

nghiên cứu miền Bắc nhìn nhận và xem xét về tiểu thuyết Bướm trắng giai đoạn

sau này. Phan Cự Đệ, trong Lời giới thiệu cuốn Đoạn tuyệt ( NXB Đại học và

Giáo dục chuyên nghiệp, tái bản năm 1991), đã có ý kiến nhận định khái quát về

nghệ thuật Bướm trắng: “Xét về một phương diện nào đó thì nghệ thuật của Đôi

bạn và Bướm trắng già dặn hơn những nhận xét về tâm lý nhân vật sâu sắc và

tinh vi hơn” [11, 317]. Trong lời giới thiệu nhân tái bản cuốn Bướm trắng năm

1989 Trần Hữu Tá đã chỉ ra những khám phá mới cũng như những hạn chế như

sau: “Đến Bướm trắng Nhất Linh đã thể hiện một phẩm chất nghệ thuật mới:

Tuy có chỗ còn gượng gạo , thiếu tự nhiên nhưng tác giả đã khai thác tinh tế

những tầng những lớp, những ngó c ngách tâm lý éo le, khuất khúc của con

người ” [17, 379].

Trong bài viết Đọc lại Bướm trắng của Nhất Linh, đăng trên Tạp chí Văn

học, số 10-1996, Đỗ Đức Hiểu cũng viết: “Bướm trắng là tiểu thuyết hiện đại;

nó không phải “cái viết về những cuộc phiêu lưu ”(Như Don Quichote, Thuỷ hử,

Quả dưa đỏ, Tiêu sơn tráng sĩ…) mà “phiêu lưu của cái viết”. “Phiêu lưu” ở đây

là những hành trình qua các ngóc ngách của tình cảm, tư duy, cảm xúc, giấc mơ

đẹp, hoảng loạn, cái sống và cái chết…Bướm trắng, với cốt truyện đơn giản, là

“thế giới bên trong” con người vô cùng biến động cái ý thức và cái tiềm thức,

10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cái vô lý và cái phi lý, giấc mơ, mê sảng, linh cảm…” [14, 382].

Điểm qua một số ý kiến nhận định tiêu biểu về nghệ thuật xây dựng nhân

vật của tiểu thuyết Nhất Linh cũng như trong hai tiểu thuyết “Đôi bạn ” và

“Bướm trắng”, chúng ta thấy:

1- Các ý kiến đánh giá phong phú, đa dạng, nhưng cũng rất phức tạp. Các

nhà nghiên cứu phần lớn đứng trên quan điểm lịch sử để đánh giá nhận định, cố

gắng tìm tòi những khám phá và đóng góp của Nhất Linh đối với tiến trình văn

học, nh­ng vÒ nghÖ thuËt tiÓu thuyÕt cßn ch­a ®i s©u.

2- Đối với hai tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng, giới nghiên cứu nhìn

chung kh¸ thống nhất ý kiến ở phương diện nghệ thuật thể hiện nhân vật và

những khám phá, tìm tòi, thể nghiệm của nhà văn Nhất Linh. Họ đều cho rằng

đây là một trong những nét đổi mới v ề tư duy nghệ thuật tiểu thuyết. Với phạm

vi nghiên cứu của đề tài , chúng tôi mạnh dạn nêu lên ý kiến: Đôi bạn vẫn còn

nhiều yếu tố của tiểu thuyết luận đề, song việc mô tả tâm lý đã được coi trọng

đặc biệt, nó đã q ui định kết cấu của tiểu thuyết . Đôi bạn là cầu nối giữa tiểu

thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lý. Còn Bướm trắng là một bước đột phá về

nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết, thoát ra khỏi lối xây dựng nhân

vật tiểu thuyết cổ điển cũng như tiểu thuyết luận đề và tâm lý trước đó . Với

Bướm trắng Nhất Linh đã đưa nghệ thuật tiểu thuyết nước ta phần nào tiếp cận

được với tiểu thuyết hiện đại trên thế giới. Nh­ vËy nghÖ thuËt tiÓu thuyÕt t©m

lý cña NhÊt Linh ®­îc nghiªn cøu theo mét qu¸ tr×nh.

3. Đối tượng , phạm vi nghiên cứu

Luận văn khảo sát thế giới hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn

và Bướm trắng, đi sâu vào các thủ pháp xây dựng nhân vật của tiểu thuyết, đặc

biệt chú trọng đến các yếu tố thể hiện tâm lý. Tiểu thuyết là một đơn vị tổ chức

nghệ thuật phức tạp nhiều khía cạnh, nhiều tầng bậc. Nhân vật cũng là một

phương diện của tổ chức nghệ thuật. Do đó việc phân tích nhân vật không tách

11

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

rời nghiên cứu các yếu tố khác của tiểu thuyết như cốt truyện, kết cấu, tả

cảnh...đặc biệt là cốt truyện. Và tiểu thuyết phần nào cả thực chất là hành trình

của số phận nhân vật trong thời gian - trước là cốt truyện.

Về văn bản tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng, chúng tôi căn cứ trong

cuốn Văn chương Tự lực văn đoàn - Nhà xuất bản Giáo dục tái bản lần thứ nhất,

Hà Nội, năm 2001 làm tư liệu chính của mình trong quá trình làm việc.

4 - Phương pháp nghiên cứu

A. Einstein (1879-1955) mang đến cho loài người một nhận thức vĩ đại

không chỉ về vũ trụ mà còn về chính bản thân con người, đó là tính tương đối

của thế giới. Quan niệm của ông đưa đến một hệ quả là không có cái gì tuyệt đối

và hoàn hảo. Nhân vô thập toàn và tro ng nghiên cứu khoa học cũng vậy. Không

có một phương pháp nào là hoàn m ỹ, thoả mãn mọi mục đích của các nhà

nghiên cứu. Vì vậy, trong luận văn này, chúng tôi đã kết hợp một vài phương

pháp nghiên cứu phù hợp với mục đích nghiên cứu của mình. Đó là do vận dụng

tổng hợp các phương pháp mà các thao tác chính là:

4.1. Phương pháp thống kê phân loại:

Luận văn tiến hành thống kê, phân loại các phương pháp, phưong tiện thể hiện

nhân vật, tần số xuất hiện của chúng trong tác phẩm …từ đó đưa ra những nhận

xét khái quát trên cơ sở nhũng số liệu cụ thể.

4.2. Phương pháp phân tích tổng hợp:

Chúng tôi phân tích những đặc điểm của các thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân

vật trong tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng, từ đó tổng hợp để đi đến những

kết luận cụ thể.

4.3. Phương pháp so sánh đối chiếu:

Được vận dụng trong luận văn khi cần thiết để thấy được những điểm tương

đồng và dị biệt của hai tác phẩm trên với một số tác phẩm khác của Nhất Linh

cùng thể tài và ở giai đoạn trước, để chỉ ra được những bước đổi mới của ông

trong sáng tác. Trong những trường hợp cần thiết, luận văn cũng so sánh nghệ

thuật xây dựng nhân vật của Nhất Linh với các tác giả khác trên hai bình diện

12

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lịch đại và đồng đại.

4.4. Phương pháp lịch sử:

Tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng ra đời trong một hoàn cảnh xã hội văn hoá

cụ thể. Việc vận dụng phương pháp lịch sử để nghiên cứu nghệ thuật xây dựng

nhân vật của hai tiểu thuyết này giúp chúng tôi xác định một cách đúng đắn vị

trí, vai trò và những đóng góp của nó ở phương diện nghệ thuật tiểu thuyết.

5. Đóng góp của luận văn

Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn và

Bướm trắng , chúng tôi mong muốn góp mộ t phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu ,

nghiên cứu thế giới nghệ thuật của hai tiểu thuyết nêu trên, xem nó như một

thành phần quan trọng của toàn bộ hệ thống tác phẩm của nhà văn Nhất Linh.

Mục đích của luận văn là chỉ ra:

- Những thủ pháp xây dựng nhân vật , những đóng góp và những hạn chế

của nghệ thuật tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng.

- Những đóng góp của Nhất Linh đối với tiến trình hiện đại hoá nghệ

thuật tiểu thuyết Việt Nam ở giai đoạn đương thời; đồng thời cũng chỉ ra sự vận

động, chuyển hướng trên cả hai phương diện nội dung tư tưởng cũng như nghệ

thuật trong tiểu thuyết Nhất Linh.

Đây là công trình chuyên biệt đ ầu tiên tập trung nghiên cứu nhân vật của

tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng. Có thể nói với luận văn này, hai tiểu thuyết

Đôi bạn và Bướm trắng được nghiên cứu một cách tỉ mỉ và cụ thể về nghệ thuật

nhân vật . Từ đó, luận văn bước đầu đưa ra nhận định về nh ững đóng góp của

Nhất Linh với tiến trình hiện đại hoá nghệ thuật tiểu thuyết ở giai đoạn sau trong

sự nghiệp sáng tác của ông.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, nội dung chính

13

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Quan niệm tiểu thuyết , nhân vật tiểu thuyết, hai kiểu tiểu

thuyết của Nhất Linh.

Chương 2 : Nhân vật và kết cấu cốt truyện trong Đôi bạn và Bướm

trắng.

Chương 3 : Các thủ pháp xây dựng nhân vật trong Đôi bạn và Bướm

14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trắng.

B - NỘI DUNG

CHƯƠNG I

QUAN ĐIỂM VỀ TIỂU THUYẾT, NHÂN VẬT TIỂU THUYẾT HAI KIỂU TIỂU THUYẾT CỦA NHẤT LINH

1.1 . Quan niệm tiểu thuyết và nhân vật tiểu thuyết

1.1.1. Quan niệm tiểu thuyết

Tiểu thuyết là một trong những thể loại quan trọng nhất của văn chương,

nghệ thuật hiện đại. Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ thế kỉ XIX, tiểu thuyết

đã được coi là “hình thái chủ yếu của nghệ thuật ngôn từ". Từ đó cho đến nay,

tiểu thuyết vẫn đứng ở vị trí then chốt trong hệ thống thể loại văn học. Là một

hình thức tự sự cỡ lớn, tiểu thuyết có khả năng riêng trong việc tái hiện với một

quy mô lớn nhữ ng bức tranh hiện thực đời sống, trong đó chứa đựng nhiều vấn

đề sâu sắc của xã hội, của số phận con người, của lịch sử, của đạo đức, của

phong tục…Nghĩa là nó có năng lực phản ánh hiện thực một cách bao quát và

sinh động theo hướng tiếp cận trên cả bề rộng lẫn chiều sâu của nó.

So với các thể loại khác, tiểu thuyết xuất hiện muộn hơn. Không những

thế, nó “là một thể loại văn chương đang biến chuyển và còn chưa định hình”

(M.Bakhtin). Việc nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết là một yêu cầu chủ yếu ,

luôn có tính thời sự của lý luận văn học. Vì vậy, đi tìm quan niệm tiểu thuyết

cũng là vấn đề có ý nghĩa về mặt lí thuyết. Theo M. Bakhtin: “Tiểu thuyết không

đơn thuần chỉ là một thể loại trong nhiều thể loại. Đó là thể loại duy nhất nảy

sinh và được nuôi dưỡng bởi thời đại mới của lịch sử thế giới và vì thế mà thân

thuộc sâu sắc với thời đại ấy ”. [ 3, 21].

Vì những lí do vừa nêu trên , việc đưa ra một khái niệm về thể loại tiểu

thuyết một cách hoàn chỉnh không phải là dễ. Bởi vì đã có khá nhiều quan niệm

khác nhau về tiểu thuyết.

Trước năm 1945, có công trình Bàn về tiểu thuyết của Phạm Quỳnh đăng

15

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trên tạp chí Nam Phong năm 1921. Sau đó là các công trình chuyên khảo về tiểu

thuyết : Theo dòng (1941) của Thạch Lam, Khảo về tiểu thuyết (1941) của Vũ

Bằng. Ngoài ra, còn có một số công trình cũng bàn về một số vấn đề của tiểu

thuyết như Phê bình và cảo luận (1938) của Thiếu Sơn, Nhà văn hiện đại (1942)

của Vũ Ngọc Phan … Tuy nhiên, điểm nhìn và ph ạm vi nghiên cứu của mỗi

công trình có khác nhau nhưng với sự có mặt của chúng, lịch sử nghiên cứu thể

loại tiểu thuyết đã bước đầu hình thành và đặt nền móng cho việc nghiên cứu thể

loại tiểu thuyết sau này.

Sau năm 1945, việc nghiên cứu thể loại tiểu thuyết được trải rộng ra cả ở hai

miền Bắc – Nam, nhưng tiêu biểu hơn là ở miền Nam. Ở miền Nam, có thể kể

như Nhân vật trong tiểu thuyết (Nhiều tác giả, sáng tạo, số 1/1960); Viết và đọc

tiểu thuyết (Nhất Linh, NXB, Đời nay, 1961); Hiện hữu của tiểu thuyết (Lê

Tuyên, Đại học số 4/1963) ; Tiểu thuyết Việt Nam thế hệ 1932 - 1945 (Thanh

Lãng, Đại học số 2 tháng 4/1961); Tiểu thuyết hiện đại (Tràng Thiên, NXB Thời

mới, 1963); Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết (Nguyễn Văn Trung, Nam Sơn xb,

1965); Sự hình thành của tiểu th uyết mới trong Việt Nam văn học sử giản ước

tân biên (Phạm Thế Ngũ , Quốc học Tùng thư xb, 1965); Chuyện phiếm về tiểu

thuyết của Triều Sơn, Văn số 34, ra ngày 15/5/1965; Văn học và tiểu th uyết

(Doãn Quốc Sỹ, sáng tạo xb, 1973). Ỏ miền Bắc, 150 thuật ngữ văn học của Lại

Nguyên Ân cũng c ó nói đến quan niệm tiểu thuyết ; Lí luận văn học (Phương

Lựu ,NXB Giáo dục - 2002) – Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (Phan Cự Đệ, năm

2000); Lí luận văn học (Hà Minh Đức (Chủ biên) NXB Giáo dục, năm 2002)…

Nếu ở những giai đoạn trước, cách hiểu tiểu thuyết còn mang tính khái

quát để chỉ chung cho tác phẩm văn xuôi, đó là truyện ngắn, truyện vừa, truyện

dài. Lí do là thành tựu sáng tác còn ít ỏi nên chưa có những hệ thống lý luận đầy

đặn về tiểu thuyết, việc đề ra qu an niệm về tiểu thuyết, một mặt xuất phát từ

thực tiễn sáng tác; mặt khác một số tác giả đã thâu thái các quan niệm tiểu

thuyết của phương Tây vào Việt Nam dựa trên hoàn cảnh thực tế của văn học

nước nhà. Một hướng khác nữa là do nguồn ảnh hưởng từ “Tân thư” của Trung

16

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Quốc, với n hững tư tưởng “cách mạng văn học” của Lương Khải Siêu ảnh

hưởng tới Việt Nam. Khi viết tiểu thuyết đã trở thành nhu cầu bức thiết của nhà

văn Việt Nam đầu thế kỉ 20 thì lý luận về tiể u thuyết càng trở nên cấp thiết .

Chúng tôi đưa ra một số quan niệm tiêu biểu: Trong “Bàn về tiểu thuyết” Phạm

Quỳnh định nghĩa như sau: “Tiểu thuyết là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra

để tả tình tự người ta, phong tục xã hội, hay là những sự lạ tích kỳ , đủ làm cho

người đọc có hứng thú …Tiểu thuyết bây giờ thời như trên kia đã là một truyện

đặt ra và là một truyện có hứng thú; thường thường thời viết bằng văn xuôi, theo

lối tự sự như lời nói thường, cũng có mộ t đôi khi viết băng lối vận văn, như

Truyện Kiều…Nói tóm lại, thời tiểu thuyết là một truyện bịa đặt mà có thú vị ”

[37,249]. Tiểu thuyết ở đây được quan niệm là một sản phẩm của hư cấu nghệ

thuật, biểu hiện bằng ngôn ngữ đa dạng. Có tác giả lại dựa vào dung lượng hiện

thực trong tác phẩm để chỉ ra những đặc trưng của thể loại tiểu thuyết. Trong lời

tựa cho tiểu thuyết “Cuộc tang thương” của nhà văn Đặng Trần Phất, Bùi Xuân

Học nêu nhận xét : “Quyển sách này thực là tả đủ các hạng người trong xã hội,

câu chuyện rất ly kỳ mà khi đọc đến có thể tưởng tượng như mình có trông thấy

vậy” [32, 268 - 269].

Ở giai đoạn sau này, khi sự phân định về mặ t thể loại ngày càng cụ thể

hơn, khái niệm về tiểu thuyết cũng được các nhà lý luận phê bình văn học, các

nhà văn hiểu một cách rõ ràng hơn, sát với đặc trưng thể loại. Trong chuyên luận

“Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết”, Nguyễn Văn Trung cho rằng: “Yếu tính của

tiểu thuyết là cái tưởng tuợng, không thể kiểm chứng được” [44]. Còn với Võ

Phiến “Tiểu thuyết là công trình giả tưởng. Mầu trời , sắc nắng, cây, lá, gió,

trăng, mọi hoạt động trong đó đều bịa đặt” [36]. Tuy cách diễn đạt có khác nhau,

song trong quan niệm của các tác giả trên đều thống nhất cho rằng yếu tính của

tiểu thuyết là tưởng tượng, hư cấu . Chúng ta nhận thấy rằng nhà văn dẫu có hư

cấu cũng phải trên cơ sở tôn trọng sự thật đời sống. Bởi vì “với sự có mặt của

mình trước cuộc đời, với sự hiện hữu của mình ở trong cuộc đời , tiểu thuyết là

một hình thái nghệ thuật, một lối diễn đạt của con người gần gũi cuộc đời nhất”

17

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

[46, 154]. Nguyễn Đình Toàn đưa ra nhận định: “Tiểu thuyết không phải là tấm

gương phản ánh đời sống mà là cái phần được che giấu của đời sống, cái phần

không thuộc về đời sống”. Quả thật, tiểu thuyết cho dù là tấm gương phản ánh

đời sống, cũng không bao giờ là bản sao cuộc sống. Bởi lẽ ngoài việc phản ánh

thực tại cuộc đời, tiểu thuyết còn phản ánh được thế giới thẳm sâu của tâm hồn

con người và “giá trị của một cuốn tiểu thuyết là đi sâu vào tâm hồn người đời”

[28, 73]. Vì thế chúng ta mãi băn khoăn tiểu thuyết phản ánh được bao nhiêu

phần trăm sự thực ở đời, lấy đó làm căn cứ thẩm định giá trị t ác phẩm tiểu

thuyết thì vô hình trung làm nghèo thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết và làm vơi

đi thế giới tưởng tượng của người tiếp nhận. Giá trị tiểu thuyết cần nhất là sự sâu

sắc và “sâu sắc chính là ở chỗ mình diễn tả được tất cả những cái mông lung bí

ẩn của tâm hồn” [28,72].

Càng về sau thì quan niệm của các nhà nghiên cứu khi đưa ra quan niệm

về tiểu thuyết càng có phần cụ thể hơn trước . Cuốn Từ điển văn học (tập II ,

NXB khoa học xã hội, 1 984) đã định nghĩa một cách khái quát: “Tiểu thuyết là

một loại hình tự sự, có ít nhiều hư cấu, thông qua nhân vậ t, sự việc và hoàn

cảnh, thường dùng văn xuôi, để phản ánh bức tranh xã hội” [33, 390]. Nhà

nghiên cứu Phương Lựu trong cuốn Lí luận văn học [NXB Giáo dục - 2002] đã

viết : “Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận đại

và hiện đại. Với những giới hạn rộng rãi trong hình thức trần thuật tiểu thuyết có

thể chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã

hội, miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp tái hiện nhiều tính cách đa

dạng” [13,387].

Như vậy , quan niệm về tiểu thuyết đã nêu trên chúng ta thấy những cái

nhìn đa diện, đa chiều. Tuy họ đều thống nhất cho rằng yếu tính của tiểu thuyết

là tưởng tượng, hư cấu , là loại hình tự sự, nhưng dù là tưởng tượ ng, hư cấu thì

tiểu thuyết cũng phải tái tạo cuộc sống, phải mang hình bóng của cuộc đời.

Thoát ly cuộc đời , tiểu thu yết sẽ không còn là tiểu thuyết, sẽ đánh mất giá trị

18

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhân bản; sẽ không thể sống trong lòng người đọc. Vì từ trong ý thức sáng tác ,

nhà tiể u thuyết bao giờ cũng muốn trìn h bày những con người sống thực . Mà

con người sống thực bao giờ cũng có liên hệ chặt chẽ với xã hội, với quá khứ.

1.1.2. Quan niệm nhân vật tiểu thuyết Một trong những thành phần quan trọng của tiểu thuyết là nhân vật. Nói

đến tiểu thuyết là nói đến việc xây dựng nhân vật. Vai trò, vị trí và phương thức

tồn tại của nhân vật trong tiểu thuyết như thế nào thì luôn là vấn đề lí thuyết mà

mọi nền lý luận văn học đều quan tâm lý giải.

Nhân vật trong tiểu thuyết khác với nhân vật trong các thể loại khác, nhân

vật của tiểu thuyết có những đặc điểm riêng mà nhân vật thuộc các thể loại khác

không có được. Truyện ngắn chỉ có thể nói về nhân vật trong quỹ thời gian ngắn

có những biến động lớn mà người đọc không thể hiểu rõ tiểu sử, sự phát triển cụ

thể của cuộc đời họ. Còn tiểu thuyết với khuôn khổ rộng lớn, vô tận về thời gian

và không gian, nhà văn có thể khai thác nhân vật , miêu tả nhân vật một cách tỉ

mỉ, toàn diện theo từng bước của cuộc đời. Nếu ký chỉ từ một con người thực,

một bối cảnh thực để xây dựng nên hình tượng điển hình thì tiểu thuyết lại có

khả năng cùng một lúc tạo dựng được hình tượng điển hình từ nhiều con người,

tính cách, bối cảnh khác nhau.

Theo nhà nghiên cứu Trần Thanh Hiệp , trong tiểu thuyết vấn đề quan

trọng “phải là vấn đề nhân vật. Người ta sẽ tìm thấy bộ mặt của con người trong

các nhân vật của ti ểu thuyết (…). Trong tiểu thuyết , ngoài nhân vật còn có gì

khác nữa, thời nhân vật cũng vừa là cá thể, vừa là linh hồn” [15, 93-94]. Nhân

vật là linh hồn, là yếu t ố không thể thiếu trong tiểu thuyết, ở nhân vật có thể là

chiếc cầu nối giữa “cuộc đời thực” và “cuộc đời có vẻ thực” trong tiểu thuyết.

Qua thế giới nhân vật, người đọc sẽ tìm thấy những vấn đề nhân sinh mà tác giả

muốn gửi gắm, muốn chia sẻ. Trong tiểu thuyết, con người là một chủ thể trải

nghiệm, được giao cho tính chủ động về tư tưởng và ngôn ngữ. Tính chủ động

này sẽ làm biến đổi tính chất và hình thái con người. Trong công trình Bàn về

19

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tiểu thuyết, Phạm Quỳnh có cái nhìn bao quát về tiểu thuyết truyền thống. Nhân

vật trong tiểu thuyết theo tác giả “Không nhất thiết phải là người siêu bạt quần

chúng, lại thường thường là những người bình thường như mọi người” [37,

101]. Giữa nhân vật và hoàn cảnh luôn có một quan hệ tác động lẫn nhau. Nhân

vật chịu sự chi phối mạnh mẽ của hoàn cảnh, lệ thuộc vào hoàn cảnh. Đôi khi

nhân vật cũng có thể làm thay đổi ho àn cảnh trong phạm vi nhất định , nhưng

hoàn cảnh vẫn giữ một vai t rò quyết định trong tiểu thuyết . Hoàn cảnh ở đây

được nhận thức là “vận mệnh” tác động trực tiếp đến nhân vật, quyết định số

phận nhân vật.

Cũng giống như phương thức miêu tả của một số thể loại văn học khác,

nhân vật trong tiểu thuyết được nhà văn miêu tả qua những chi tiết, những xung

đột, tình tiết biến cố, những mâu th uẫn bên trong. Vì vậy n hân vật trong tiểu

thuyết phải tương tự với con người trong cuộc sống, nó phải là con người mang

bản chất xã hội một cách chân thực khách quan, song nó lại phải có cá tính, có

cuộc đời, số phận riêng, độc lập. Nhân vật trong t iểu thuyết hiện lên trọn vẹn,

đầy đủ từ góc độ ngoại hình đến nội tâm, từ tình cảm đến lý trí. Người viết có

thể khai thác nhân vật một cách toàn diện, tỉ mỉ, theo từng bước thăng trầm của

số phận. Nhân vật trong tiểu thuyết đa dạng, phong phú phát triển có quá trình ,

tham gia vào tình huống với nhiều hành động khác nhau nên có khả năng có sức

sống nội tại, tự nó tìm thấy con đường đi của nó trong tác phẩm.

Khi sáng tác, mỗi nhà văn thường chọn cho mình một thế giớ i nhân vật

phù hợp với sở thích, cá tính của mình để miêu tả, thể hiện. T rong tiểu thuyết,

nhân vật là nơi duy nhất để tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng

tác. Để khẳng định vấn đề này Nguyễn Đình Thi đã viết : “Vấn đề trung tâm của

nghệ thuật tiểu thuyết theo tôi, là miêu tả những con người và đường đi của họ

trong xã hội . Người viết tiểu thuyết nghĩ mọi vấn đề đều phải thông qua các

nhân vật, xuất phát từ nhân vật hơn là từ sự việc” [42, 645]. Một đặc điểm rất

quan trọng trong tiểu thuyết hiện đại là nhân vật dường như mang tính tự thân.

Nhiều lúc nó vượt ra khỏi sự kiểm soát, sự định hướng ban đầu của nhà văn để

20

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đi theo qui luật của cuộc đời , số phận. Nói như Đỗ Đức Hiểu : “Nhân vật trong

tiểu thuyết hiện đại không có tính cách, nói cách khác có nhiều tí nh cách, tức là

nó luôn luôn biến động, mà bản thân nó không thể nhận biết. Nhân vật tự bộc lộ

mình, tự xây dựng mình trong quá trình viết của người kể chuyện. Và chính nhà

soạn văn cũng dần dần, lần mò tự khám phá ra bản thân mình qua từng trang

viết” [17, 383].

Nhà văn chỉ có thể xây dựng nhân vật tiểu thuyết bằng chính vốn sống và

sự hiểu biết về nhân vật. Và như thế, một vấn đề đặt ra trong phương thứ c xây

dựng nhân vật tiểu thuyết, là giải quyết như thế nào mối quan hệ giữa nhân vật

và tác giả . Có ý kiến cho rằng nhân vật trong t ác phẩm là hình ảnh của tác giả.

Nhưng cũng có ý kiến ngược lại. Vấn đề này theo chúng tôi cần phải hiểu một

cách linh động hơn. Là sản phẩm do nhà văn sáng tạo, nhân vật tiểu thuy ết tất

nhiên phải là hình tượng , là hiện thân tư tưởng của nhà văn, vì “bản chất tiểu

thuyết không có gì đố kỵ với tư tưởng, miễn là tư tưởng đừng thủ tiêu, đừng hút

máu tươi và da thịt của nhân vật để chỉ còn lại những bộ x ương khô” [36, 20].

Và “ở những tác phẩm lớn của nhân loại về tiểu thuyết, tư tưởng cao sâu đều có

cái duyên gặp được những nhân vật sốn g, có cá tính, mang ra phô diễn . Nhân

vật linh động là điều cần thiết, nhưng chưa đủ để là m ra tác phẩm vĩ đại” [36,

30]. Dù nhân vật có là cái loa phát ngôn cho tư tưởng của nh à văn, thì nhân vật

cũng không bao giờ là hình hài của tác giả, là đồng nhất với tác giả.

Ở tiểu thuyết, sáng tác về một nhân vật nào, tác giả đều dẫn dắt, giới thiệu

cho chúng ta nguồn gốc , xuất xứ của nhân vật ấy và trong suốt quá trình mô tả

cuộc đời nhân vật, nhà văn phải xây dựng ở nhân vật đó nhữ ng hành động, lời

nói, cử chỉ…thể hiện rõ nét đặc trưng trong cốt cách - tâm hồn của dân tộc sinh

nhân vật ấy.

Như vậy, có thể thấy thế giới nhân vật tr ong tiểu thuyết hết sức đa dạng,

phong phú và luôn hấp dẫn , mới mẻ có khả năng khái quát hiện thực, khái quát

21

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

quan điểm nghệ thuật của nhà văn.

1.2 .Quan niệm của Nhất Linh về tiểu thuyết

Nói đến văn học hiện đại Việt Nam đầu thế kỷ XX là nói đến “v ăn học phát

triển trong môi trường kinh tế tư bản chủ nghĩa, có sự hình thành giai cấp tư sản,

giai cấp vô sản, giai cấp tiểu tư sản và tầng lớp trí thức mới, độc lập thể hiện tư

tưởng dân chủ, tư tưởng duy lí trong khoa học, đề cao con người cụ thể, phong

phú, phức tạp, khuyến khích mọi tài năng sáng tạo” [21, 17]. Sự thay đổi trong

văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX không giống tình hình phát triển trong văn học

các nước phương Tây từ giai đoạn này hay giai đo ạn khác là sự thay đổi nội

dung, thể loại , sự xuất hiện một trào lưu văn học… Bước ngoặt hiện đại hoá

trong văn học Việt Nam: từ văn, thơ, phú, lục phương Đông sang thơ, kịch, tiểu

thuyết phương Tây biểu hiện s ự thay đổi về quan niệm văn học. Thi pháp văn

học trung đại được thay thế bằng thi pháp văn học hiện đại.

Có thể nói, bước sang những năm 30, nền văn học Việt Nam đã có những

thay đổi to lớn, thậm chí những bước nhảy vọt, trên đà hiện đại hoá. Làm nên

thành công cho cuộc cách tân văn học đó là một thế hệ trí thức Tây học không

còn bị vướng vào những qui phạm, công thức của văn chương cổ , đồng thời lại

được kế thừa những kinh nghiệm cách tân của các thế hệ trước. Nhất Linh là

một trong những gương mặ t tiêu biểu của lớp trí thức ấy . Trong suốt chặng

đường sáng tác, Nhất Linh đã không ngừng tìm tòi, bổ sung để tự hoàn thiện

mình, và “nhờ vào tài năng , vào sự tiếp thu văn hoá phương Tây có hệ thống

cùng bản lĩnh chuyển hoá” để làm giàu thêm văn sản trong nước (điều 1, tôn chỉ

của Tự lực văn đoàn). Ông đã mang đến cho văn học dân tộc nhiều tác phẩm

thực sự có giá trị và có ý nghĩa tiên phong trong công cuộc cách tân.

Trước năm 1932, Nhất Linh theo quan điểm của các nhà Nho : văn gắn

với đạo, với mệnh trời, “văn dĩ tải đạo”, “văn dĩ hướng đạo”. Ông noi gương các

nhà nho tiền bối Nguyễn Trãi, Nguyễn Du , Nguyễn Đình Chiểu,…với ông, con

thuyền văn trước tiên là để chở đạo. Văn học trước tiên có chức năng truyền đạt,

rồi mới đến việc phát triển khám phá. Đối tượng văn học không phải là cuộc

22

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sống thực mà là khuôn mẫu của đạo đức truyền thống, của đạo Nho. Ông quan

niệm cái đẹp phải là sự hoàn hảo, toàn diện, tuyệt đối, thống nhất với cái có ích

, đề cao cái đẹp nội dung hơn hình thức. Cuộc sống được đánh giá qua con mắt

đạo lý, nhân vật được xây dựng theo chuẩn mực đạo đức : Thiện - ác, trung -

hiếu, tiết nghĩa - bất trung, bất nghĩa, thật thà, gian dối…Tiểu thuyết Nho phong

(1926) và tập truyện ngắn Người quay tơ (1927) thể h iện khá rõ những quan

niệm trên.

Sau khi du học ở Pháp về , Nhất Linh đ ã thay đổi quan niệm văn chương .

Nhất Linh từ giã quan niệm truyền thống để đi vào quan niệm mới về văn học.

Viết tiểu thuyết. ông chuyển hướng từ tư tưởng, cảm hứng nghệ thuật, đề tài đến

lối viết. Số phận con người cá nhân, quyền sống, quyền tự do dân chủ, quyền

được hưởng hạnh phúc, lòng khao khát lý tưởng được nhà văn quan tâm thể hiện

trong hàng loạt tiểu thuyết : Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng và hai

tiểu thuyết viết chung với Khái Hưng:Gánh hàng hoa, Đời mưa gió. Ông có

hoài bão dùng văn chương góp phần cải tạo xã hội, tư tưởng dân chủ tư sản. Ý

tưởng đó của Nhất Linh được thể hiện rất rõ trong Mười điều tôn chỉ của Tự lực

văn đoàn được công bố trên Phong hoá (số 101) như:

- “Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ”.

- “Trọng tự do cá nhân”.

- “Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho , một lố i văn thật có tính

cách An Nam”; “Không có tính cách trưởng giả quý phái”.

- “Làm cho người ta biết đạo Khổng không còn hợp thời nữa".

- “Đem phương pháp Thái Tây ứng dụng vào văn chương An Nam”…

Ngoài ra, Nhất Linh còn trực tiếp hay gián tiếp nói tới quan niệm về văn

chương nói chung và tiểu thuyết nói riêng ở một số tờ báo Phong Hoá, Ngày

nay. Đặc biệt là trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết Nhất Linh đã nói rõ về quan

niệm viết tiểu thuyết của mình. Đây là một trong ít trường hợp hiếm hoi mà một

nhà văn ở nước ta trức tiếp nói v ề cái thể loại mình đã vận dụng, đã theo đuổi

trong sự nghiệp văn chương. Cùng trong nhóm Tự lực văn đoàn có Thạch Lam

23

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cũng có quan niệm về viết tiểu thuyết nhưng không có nhiều điểm tương đồng .

Chúng tôi cho rằng cuốn Viết và đọc tiểu thuyết được Nhất Linh nói tới ở cả hai

phương diện kinh nghiệm lẫn phương diện lý thuyết khi đưa ra q uan niệm về

tiểu thuyết. Tuy nó chưa thực sự hoàn chỉnh, có hệ thống , có đôi khi lủng củng

trùng lặp, mà tác giả rút ra cho mình hơn là cho mọi người . Nó không thật sắc

sảo, càng không uyên bác. Song những ý kiến mà Nhất Linh viết ra là sự chân

thành. Đưa ra quan niệ m về tiểu thuyết Nhất Linh viết: “Viết tiểu thuyết để nêu

lên một lý thuyết, để tán dương, tuyên truyền một cái gì tác giả cho là tốt đẹp, để

đả đảo một cái gì mà tác giả cho là xấu xa , viết tiểu thuyết để phụng sự , để

chứng tỏ một cái gì đó …” [ 28, 367]. Đồng thời ông cũng đưa ra ý kiến đánh

giá về một cuốn tiểu thuyết hay là “những cuốn đủ đúng sự thực cả bề trong lẫn

bề ngoài. Diễn tả được một cách linh động các trạng thái phức tạp của cuộc đời,

đi thật sâu vào sự sống với tất cả những chuyển biến mong manh tế nhị của tâm

hồn”; “Việc diễn tả tâm hồn và những uẩn khúc của tâm hồn đó, những ý nghĩ

thầm kín của các nhân vật là một việc khó nhất và cuốn sách có giá trị và có sâu

sắc hay không phần lớn là ở việc này” [28, 388].

Ở trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết Nhất Linh cũng đã đưa ra quan niệm

của mình về viết tiểu thuyết hết sức cụ thể. Cũng giống như bao người khác, ông

suy nghĩ trước hết một người viết một cuốn tiểu thuyết phải biết rõ mình định

viết về cái gì? quan trọng với ông là “phải thà nh thực là chính trong thâm tâm,

mình thấy thích viết đề đó, quả thật mình cảm động trước những cảnh về đề đó.

Hơn nữa mình đoán thấy trong đề đó có nhiều cái hay” [28, 392]. Sự thành thực

trong việc lựa chọn đề tài được Nhất Linh đưa lê n hàng đầu bởi trong nghiệp

văn, người viết có thể viết về những đề mà người đọc đương thời ưa thích nếu

như trong thâm tâm nhà văn thích. Điều nên tránh đó là theo thời, hám danh làm

mất đi lương tâm nghề nghiệp.

Xét đến cùng văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng đều là sự miêu tả

hữu hạn cái thế giới vô hạn là cuộc đời. Hình tượng văn học phải đư ợc bắt đầu

và kết thúc ở đâu đó, con người và cảnh vật cũng phả i được nhìn ở một góc độ

24

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nào đó. Nhà văn phải hiểu được cách thức mà nhân vật - con người trong tác

phẩm giao tiếp với nhau, với thế giới xung quanh và với chính bản thân họ, cách

họ sống suy nghĩ và hành động, điều họ quan tâm trong cuộc đời. Mối quan hệ

logic giữa tất cả những điều đó tạo nên cái mô hình nghệ thuật về thế giới và con

người bao quát mà tác giả xuất phát để khắc hoạ những hình tượng cụ thể cũng

như xây dựng kết cấu tác phẩm . Nhất Linh cho rằng “k hông nên xếp đặt câu

chuyện quá, việc xảy ra còn tuy theo tâm trạng của nhân vật . Bởi tiểu thuyết lại

là thứ sách để tả cuộc đời, mà đời người thì không xếp đặt được theo ý người”

[28, 393].

Trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết của Nhất Linh đề cập tới nhiều vấn đề

như: chọn đề tài, xây dựng cốt truyện, lựa chọn nhân vật, tìm chi tiết , văn trong

tiểu thuyết. Trong phạm vi của đề tài chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu quan niệm

của Nhất Linh cách xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết. Theo Nhất Linh xây

dựng nhân vật trong tác phẩm ta phải quan tâm đến bốn thứ: tính tình, cử chỉ, lời

nói, hình dáng. Việc diễn tả tâm hồn, uẩn khúc của tâm hồn đó , những ý nghĩ

thầm kín của các nhân vật là một việc khó nhất. Cho nên một cuốn sách có giá

trị hay không, có thực sự sâu sắc hay k hông một phần lớn là từ việc đó. Theo

Nhất Linh hình dáng nhân vật “không nên tả ngay một lúc”, nhà văn không nên

tự ý phê bình người và việc trong truyện như những nhà tiểu thuyết luận lý nước

ta ba mươi năm về trước , nhân vật thuộc hạng cũng nào đều có giá trị như nhau,

nhân vật chính hay phụ cũng phải để ý ngang nhau. Cũng như trong tác phẩm

Khái Hưng, nhân vật chính của Nhất Linh là thanh niên tư sản hoặc tiểu tư sản

lớp trên, con nhà quan, chủ đồn điền họ có điểm chung là cảm nghĩ băn khoăn,

suốt đời tìm cách giải quyết vấn đề hạnh phúc và lý tưởng cho cá nhân . Ở Nhất

Linh, nhân vật đăm chiêu, quằn quại, suy nghĩ lao lung để tìm lấy một lý tưởng,

một con đường; lý tưởng có tính cách đấu tranh và hành độ ng ; ngôn ngữ nhân

vật chặt chẽ, chính xác (Dũng, Doãn …). Cách xây dựng nhân vật, Nhất Linh

tuy rất chủ quan “coi nhân vật như những quân cờ để đánh một ván cờ” có dựa

vào sự phân tích của lý trí, có tham vọng xây dựng. Do vậy, nhân vật của Nhất

25

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Linh luôn có sự đắn đo, muốn làm to , đạt kết quả lớ n, như Dũng trong Đoạn

tuyệt, Dũng trong Đôi bạn. Song, với Nhất Linh, tâm trạng nhân vật không khỏi

có lúc bi đát: cực lòng vì hoàn cảnh thấy đời trống rỗng, có lúc muốn quyên sinh

như: Dũng trong Đôi bạn hay Trương trong Bướm trắng.

Với tư cách một người sau lưng có nhiều tiểu thuyết đã xuất bản , Nhất

Linh chân thành kể lại đủ thứ quan niệm non nớt của mìn h hồi đang viết nhiều

viết khoẻ, đó là: thích viết câu văn cho kêu, cho văn vẻ; nào thích lồng vào tác

phẩm của mình những luận đề xa lạ, từ bên ngoài, mà không xuất phát từ tình

thế trong câu chuyện mà từ nhân vật; nào là có hồi chạy theo những cốt truyện

giật gân, cốt truyện quyến rũ người đọc…

Trong “Tự lực văn đoàn” , nghệ thuật của Nhất Linh có thể nói là vững

vàng nhất. Cách bố trí truyện, cách sáng tạo nhân vật , cách sử dụng cảnh vật

xung quanh để làm nổi bật tâm lí nhân vật, các nhà văn trong “Tự lực văn đoàn”

đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của ông cả. Có một điều khác là mặc dù, tiểu thuyết

của Nhất Linh cũng nói đến ái tình, nhưng trong vấn đề này Nhất Linh viết đó là

ái tình kín đáo, tế nh ị không diễn đạt bằng lời, mà bằng cử chỉ, dáng điệu nhiều

hơn. Ở đặc điểm này, Nhất Linh cũng đã có từ những tác phẩm đầu tiên và ông

gìn giữ được nguyên vẹn cho đến những tác phẩm cuối. Lê Nương (Nho phong)

cách xa Loan (Đôi bạn) và Thu (Bướm trắng) cả một thế hệ, nhưng ở Lê Nương,

ta đã thấy được ít nhiều tính chất của Loan và Thu sau này.

Hơn nữa, lối văn của Nhất Linh là lối văn rất thi vị, thi vị ở ý mà ít ở lời.

Nhất Linh không trau chuốt như Khái Hưng, nhưng tự nó, nó có nhịp điệu, tự nó

đã du dương . Chặng hạn như Nhặt lá bàng để đầu cuốn Đôi bạn là cả một bài

thơ. Cho nên đọc xong một tác phẩm của Nhất Linh, ít nhất thì trong lòng người

đọc còn giữ lại được một đôi lời, một đôi dáng điệu của nhân vật, không bao giờ

có thể quên.

1.3. Hai kiểu tiểu thuyết của Nhất Linh

26

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1.3.1. Tiểu thuyết luận đề

Như một làn gió mới thổi về , Tự lực văn đoàn đã mở tung cánh cửa xã

hội, phê phán lễ giáo phong kiến trì trệ hàng ngàn năm, mang lại những tư tưởng

nhân đạo tiến bộ, làm nên một diện mạo văn chương tươ i mới và khởi sắc đầu

thế kỉ XX. Trong giai đoạ n phát triển cực thịnh của mình , với mong muốn góp

phần vào công cuộc đổi mới xã hội, hàng loạt tiểu thuyết luận đề của “Tự lực

văn đoàn” đã ra đời . Chúng được coi như những tuyên ngôn nghệ thuật của các

nhà văn về vấn đề Cũ - Mới, một vấn đề nón g bóng trong xã hội lúc bấy giờ .

Tiểu thuyết luận đề của “Tự lực văn đoàn” dường như là sản phẩm của một thời

kì đổi mới tư duy từ hệ tư tưởng phong kiến chuyển sang hệ tư tưởng tư sản.

Trên chiến trường đấu tranh chống lại thành trì phong kiến nặng nề lạc hậu ấy ,

Nhất Linh đã trở nên một trong hai “chiến sỹ chỉ huy tác chiến” (Thanh Lãng)

với những tiểu thuyết luận đề được nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đánh giá là

“những tiểu thuyết chiếm vị trí cao hơn cả”.

Nói về loại tiểu thuyết này, Nhấ t Linh cũng đã đưa ra quan niệm : “Viết

luận đề tiểu thuyết nghĩa là viết tiểu thuyết để nêu lên một lý thuyết, để tán

dương, tuyên truyền một cái gì tác giả cho là tốt đẹp, để đả đảo một cái gì tác giả

cho là xấu xa, viết tiểu thuyết để phụng sự, để chứng tỏ một cái gì đó …” [27,

367]. Như vậy, có thể hiểu tiểu thuyết luận đề là những sản phẩm văn học được

viết ra để minh hoạ cho một chủ đề nào đó, một ý đồ tư tưởng nào đó mà tác giả

muốn gửi gắm.

Có ý kiến cho rằng tiểu thuyết nào mà chẳng có luận đề. Vì thế, chúng tôi

nhận thấy tiểu thuyết luận đề cần được phân biệt với luận đề của tiểu thuyết.

Luận đề của tiểu thuyết chính là chủ đề, là “vấn đề triết lý, xã hội, đạo đức và

các loại hình tư tưởng khác được đặt ra trong tác phẩm” [ 1, 46]. Chủ đề được

hình thành từ hiện thực đời sống thông qua sự khá i quát hoá của chủ quan nhà

văn, chủ đề toát ra từ ý nghĩa khách quan của tác phẩm. Còn ở tiểu thuyết luận

đề, luận đề là cái có trước , cốt truyện và nhân vật được tác giả tìm để chứng

27

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

minh. Nếu cốt truyện và nhân vật phù hợp với luận đề thì tiểu thuyết luận đề

được coi là thành công. Còn nếu ngược lại, luận đề không có được cốt truyện và

nhân vật phù hợp thì tiểu thuyết luận đề sẽ không thành công.

Một đặc điểm của tiểu thuyết luận đề là tính định hướng trong khai thác

nhân vật và cốt truyện. Nếu như ở tiểu thuyết bình thường , nhân vật được phát

triển tự nhiên như trong cuộc sống thì với tiểu thuyết luận đề, sự can thiệp của

tác giả khá rõ. Để khẳng định và bảo vệ cho luận đề của mình, các tác giả luôn

xây dựng nhân vật c hính diện mang tư tưởng luận đề , nhân vật phản diện thì

chống lại. Mặt khác, nhân vật thường chỉ được khai thác ở nhữ ng bình diện có

lợi cho luận đề. Kết thúc tiểu thuyết, nhân vậ t chính diện bao giờ cũng thắng .

Kết thúc tiểu thuyết luận đề thường là kết thúc “có hậu” và vì thế , tiểu thuyết

luận đề thường mang mầu sắc duy lý.

Cách xây dựng nhân vật của tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh biểu trưng

cho hai lực lượng đối lập – cô gái mới và bà mẹ chồng hoặc bà dì ghẻ - con

chồng qua hai tiểu thuyết Đoạn tuyệt và Lạnh lùng. Các bà mẹ đại diện cho lề

thói gia đình cũ đang cố níu kéo, duy trì quyền lực làm mẹ và nền luân lý, phong

tục, tập quán, nếp nghĩ cũ, đặc biệt là quyền làm mẹ chồng hiện đang bị lung lay

trước những biến đổi tư tưởng xã hội. Còn đối với các cô gái mới , những nàng

dâu tân thời cũng quyết liệt không kém tìm cách chứng min h và khẳng định

quyền làm người, tự do cá nhân, quyền suy nghĩ và hành động của mình.

Sự phân biệt tư tưởng Cũ - Mới đó có thể gọi một bên là chính diện và

một bên là phản diện. Ở đây xung đột tư tưởng đã trở thành xung đột tâm lý và

ngược lại sự hoà hoãn không được chấp nhận. Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh

đã thành công và chiếm được cảm tình của giới trẻ đương thời vì đã thể hiện

được những luận đề phù hợp với chân lý đời sống, đem lại những khám phá

chân thực về nhân vật, về tâm lý. Có điều, bản thân hiện thực đời sống bao giờ

cũng phức tạp, đa dạng nhưng Nhất Linh đã r ửa sạch mọi tạp chất đời thường,

bỏ đi vẻ bề bộn, đơn giản hoá các qui luật đời sống và qui luật tâm l ý khi viết

tiểu thuyết của mình. Chính vì vậ y, mà nó chỉ còn cái tất yếu mà thiếu đi cái

28

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngẫu nhiên , có khi tâm lý được miêu tả trong tiểu thuyết luận đề vừa đúng lại

vừa không đúng với quy luật thông thường , có khi được miêu tả tinh vi trong

một số tình huống nhưng nhìn tổng thể vẫn là đơn điệu, một chiều, thiếu sự phát

triển nội tại. Thế giới nội tâm nhân vật tiểu thuyết luận đề Nhất Linh có nhiều

nét lặp lại. Quá trình tâm lí còn sơ sài, đơn giản, ít biến cố. Đời sống tâm lý của

nhân vật ít biến chuyển, trạng thái tâm lý bộc lộ qua hành động, ngôn ngữ, qua

sự miêu tả của tác giả chứ chưa được biểu hiện bằng những hành động tâm lý

bên trong. Ở nhân vật chưa có sự nổi loạn về tâm lý tính cách, chưa khai thác hết

những mặt phong phú, đa dạng của t ính cách (việc Loan đẻ con trai , Loan dọn

nhà đi không mang theo bát hương, Nhung rút mấy nén hương trên bàn thờ

chồng ra vườn tình tự với Nghĩa) hoặc để cho nhân vật phát ngôn luận đề một

cách trực tiếp, chẳng hạn trong cuộc đối thoại giữa Huy và bà Án; giữa bà Án và

Mai trong Lạnh lùng, ví dụ “Cụ tức là biểu hiện, tức là người đại diện cho nền

luân lý cũ. Mà tâm lý chúng cháu đã chót nhiễm những tư tưởng mới. Hiểu nhau

khó lắm thưa cụ. Cụ với bọn hậu sinh chúng cháu như hai con sông cùng chảy

một nguồn, cùng chảy ra bể nhưng mỗi đằng chảy theo một phía dốc bên sườn

núi, gặp nhau sao được ” hay ở Đoạn tuyệt nhân vật Loan đã nói thẳng trước bà

mẹ chồng phong kiến: “Không ai có quyền chửi tôi, không ai có quyền đánh tôi.

Bà cũng là người, tôi cũng là người, không ai hơn kém ai…”. Tất cả mọi biểu

hiện tâm lý của nhân vật trong tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh đều nhằm bộc

lộ một nét bản chất về tính cách và dục vọng của nh ân vật. Trong bản thân mỗi

nhân vật được miêu tả thì cái gắn với xã hội , cái chung được chú trọng nhiều

hơn. Đó là điều mà Nhất Linh đã nghiêm khắc đánh giá về mình: “Tôi đã để cái

ý định dùng tiểu thuyết là một việc gì (viết luận đề tiểu thuyết) lên trên cái ý

định viết một cuốn tiểu thuyết hay xin nhớ rõ là tôi không nói tới sự lầm về viết

luận đề tiểu thuyết” [28, 17].

Theo chúng tôi, tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh miêu tả tâm lý nhân vật

đều có liên quan trực tiếp đến các vấn đề xã hội. Tác giả không sử dụng những

biện pháp nghệ thuật đặc thù, chỉ sử dụng những thành tựu mà tiểu thuyết hiện

29

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đại Việt Nam đã đạt được cho đến thời điểm đó. Tức là , nó không có nét đặc

biệt so với các tiểu thuyết khác, mà nó chỉ đặc b iệt ở mục đích mà Nhất Linh

muốn hướng tới khi miêu tả. Vì vậy, cho dù có những hạn chế song tiểu thuyết

luận đề của Nhất Linh vẫn tiếp nối được thành tựu miêu tả tâm lý mà Tố Tâm –

Hoàng Ngọc Phách đã đạt được , đồng thời có những thành tựu mới, vượt xa

những gì còn non kém và hời hợt trước đây.

Đối với bản thân Nhất Linh trước đây, khi viết các tiểu thuyết luận đề

cũng gửi gắm bóng dáng mình trong đó. Chúng ta thấy thấp thoáng qua các nhân

vật như Dũng, Thái, Trúc (Đôi bạn) là hình ảnh của Nhất Linh. Nhận xét về tiểu

thuyết luận đề của Nhất Linh, GS Phan Cự Đệ viết : “Các nhân vật thường có

những vấn đề riêng, băn khoăn đau khổ riêng. Nhất Linh ký thác tâm sự của

mình vào nhân vật nêu trong tiểu thuyết luận đề của ông thường có một cái Tôi

chân thành, cảm động. Đời của Dũng, Thái, Trúc, Tạo, Cận …là một phần đời

của Nhất Linh, là tâm sự thầm kín của Nhất Linh (…) Nhờ sự gắn bó máu thịt

giữa hình tượng và luận đề, sự kết hợp khá nhuần nhị những phán đoán trí tuệ

với những rung cảm của tâm hồn nên tiểu thuyết Nhất Linh nâng cao được ý

nghĩa xã hội và sức khái quát của tác phẩm mà vẫn không rơi vào tình trạng

minh hoạ một cách khô khan công thức” [11, 379]. Như vậy , hình tượ ng nhân

vật làm nổi bật luận đề, làm cho luận đề có máu thịt với sự số ng. Một trong

những điều kiện tiên quyết để giúp cho tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh thành

công là bản thân luận đ ề mang ý nghĩa tiến bộ xã hội. Tâm lý nhân vật, vì thế,

luôn hướng tới mục đích chứng minh cho luận đề xã hội mà Nhất Linh đưa ra

nhân vật chỉ được chiếu rọi từ một góc nhìn, một hệ quy chiếu.tất cả mọi biểu

hiện tâm lý đều nhằm bộc lộ tình cảm và dục vọng tiêu biểu nhất của nhân vật.

1.3.2. Tiểu thuyết tâm lý

Nếu như trong tiểu thuyết luận đề, các nhân vật trực tiếp tham gia vào

cuộc đấu tranh Cũ - Mới, xông xáo, hăng hái với những hoạt động bề n ổi thì

30

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong tiểu thuyết tâm lý, họ lại tìm đến sự sâu lắng của thế giới nội tâm. Nếu như

một bên là tâm lý của đời sống đấu tranh thì bên kia sẽ là tâm lý của đời sống

tình cảm.

Khái niệm tiểu thuyết luận đề, chúng tôi đề cập ở trên chỉ rõ rằng với tiểu

thuyết luận đề, tất cả các yếu tố làm nên tác phẩm đều được dùng để chứng minh

cho một vấn đề tư tưởng - xã hội đã được hình thành trong ý đồ sáng tác của tác

giả. Ở phần này, khi đề cập đến khái niệm tiểu thuyết tâm lý thì sẽ đưa ra được

logic tất yếu đó là : yếu tố tâm lý chính là đi ều mà tác giả quan tâm thể hiện,

miêu tả, xử lý trong tác phẩm ; tâm lý nhân vật có q uan hệ mật thiết với cốt

truyện, thể hiện xung đột, kiểu nhân vật, phong cách ngôn ngữ…Khái niệm tiểu

thuyết tâm lý hiện nay được sử dụng khá phổ biến trong các công trình nghiên

cứu về tiểu thuyết hiện đại, những việc xây dựng một nội hàm cho nó ở nước ta

hầu như ít được quan tâm. Trong hai cuốn Từ điển văn học và Từ điển thuật ngữ

văn học, khái niệm này chưa được đề cập đến. Chúng tôi xin đưa ra một số quan

niệm về tiểu thuyết tâm lý như sau:

Đỗ Hồng Đức, trong luận văn của mình đã giới thiệu khái niệm tiểu thuyết

tâm lý là: Khi nói đến tiểu thuyết tâm lý, dù nói theo cách này hay cách khác,

cũng phải hiểu: đối t ượng chính của ngòi bút tác giả, yếu tố dành được cảm

hứng chủ đạo của tác giả là tâm lý nhân vật [10, 14].

“Tâm lý nhân vật ở đây trở thành một cứu cánh, một lí do để tác phẩm tồn

tại và đứng vững. Sở dĩ như vậy vì đời sống tâm lý con người là một thế giới đặc

biệt cần được khám phá. Tiểu thuyết tâm lý hướng tới nội tâm con người cũng

như các chủng loại tiểu thuyết khác hướng tới các đối tượng khác” [10, 15].

Cách hiểu như Đỗ Hồng Đức về cơ bản thống nhất với cách hiểu sau đây:

“Tiểu thuyết tâm lý là tiểu thuyết tìm cách gợi lên thế giới nội tại chứ không theo

sự sắp đặt của thế giới bên ngoài (…) Nó đơn giản chỉ ra rằng những động cơ

điều khiển tổ chức của cốt truyện, trật tự của các hành động và của nhân vật về

cơ bản được qui về sự phân tích những phản ứng tâm lý của nhân vật (…). Tiểu

31

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thuyết tâm lý có chức năng tư tưởng và miêu tả: tính độc lập của thế giới tâm lí

và diễn biến nội tâm của nhân vật cho thấy những xúc động thuần tuý lí trí và

luân lí của thế giới bên ngoài đối với nó …”[48, 140].

Hay trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ XX, GS Phan Cự Đệ đưa ra quan

niệm về tiểu thuyết tâm lý như sau : “Tiểu thuyết tâm lý tập trung cái nhìn hướng

nội vào hiện thực tâm lý, vào thế giới bên trong thầm kín của con người. Ở đây

cảm hứng chủ đạo của nhà văn là khám phá, phân tích tâm lý nhân vật ” [ 12,

231].

Thực ra, tuy sử dụng các thuật ngữ có khác nhau, nhưng các nhà nghiên

cứu trên đây đều có một quan điểm thống nhất chung mà chúng ta nhận thấy đó

là: yếu tố tâm lý được quan tâm nhiều trong cốt truyện; thể hiện cái nhìn hướng

nội vào hiện thực tâm lý, vào thế giới b ên trong thầm kín của con ngưòi . Đó

chính là đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết tâm lý. Tiểu thuyết Bướm trắng là một

trường hợp cụ thể và tiêu biểu trong tiểu thuyết tâm lý của Nhất Linh. Những

nhân vật trong tiểu thuyết tâm lý được tác giả Nhất Linh miêu tả thiên về tự đối

diện với những biểu hiện cái tôi cá nhân trong chính con người mình . Ở tiểu

thuyết tâm lý, ông đặt ra yêu cầu đi sâu khám phá tâm lý con người chú trọn g

miêu tả cảm giác của nhân vật , đây cũng là nét khu biệt và là thành tựu nghệ

thuật trong việc thể hiện nội tâm của văn học lãng mạn. Những hoạt động bên

ngoài không còn được giữ vai t rò quan trọng như trước đây nữa, nhân vật được

quan tâm trong mối quan hệ với đời sống nội tâm. Nhất Linh mở rộng diện quan

tâm tới các nhân vật với nét tâm lý khác nhau trong quá trình miêu tả . Thay cho

động cơ tâm lý nhất quán một chiều là những biểu hiện đa dạng hơn, có cả phần

mơ hồ của tiềm thức, vô thức , nhiều khi cá nhân hành động mà không t ự biết

mình. Đây là nét khác nhau cơ bản trong nét xây dựng tâm lý nhân vật ở tiểu

thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lý của Nhất Linh. Các quá trình tâm lý được

quan tâm, thay cho các trạng thái tâm lý trước đây, với những biểu hiện của sự

vận động, qua những mâu thuẫn nội tại phức tạp. Hành vi bên ngoài và suy nghĩ

32

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bên trong của nhân vật không thống nhất đơn giản một chiều, nhân vật độc thoại

nhiều hơn, hiện tượng người trần thuật nhập vào ý nghĩ của nhân vật với cái

nhìn từ bên trong xuất hiện nhiều hơn.

Có thể nói, ở tiểu thuyết luận đề, nhân vật là nhân vật nhập thế , ở trạng

thái động còn ở tiểu thuyết tâm lý, nhân vật thu về đời sống nội tâm, ở trạng thái

tĩnh.

Con đường văn học của Nhất Linh trước cách mạng là đi từ tiểu thuyết

luận đề đến tiểu thuyết tâm lý. Đây cũng là con đường chung của nhiều nhà văn

đương thời và là đặc điểm khiến cho một số nhà phê bình coi Nhất Linh là nhà

văn có chủ trương , có thái dộ làm nghệ sỹ thuần tuý : “Với Nho phong, Người

quay tơ, Nhất Linh đã viết một thứ tiểu thuyết tình cảm. Nghệ thuật trong tiểu

thuyết ấy tuy có kém, nhưng là thái độ thuần văn nghệ. Từ 1932 đến 1938, Nhất

Linh hướng văn nghệ đi vào con đương tranh đấu : toàn là bênh vực với đả ph á.

Nhưng từ 1938 trở đi, Nhất Linh lại có chiều hướng thuần văn nghệ ” [20, 742-

743]. Hai tiểu thuyết dài Đôi bạn và Bướm trắng có thể coi như giai đoạn thành

tựu của một văn tài đã chín. Trong các truyện này , ta lại thấy ông trở về với cái

nhìn hướng nội , tiếp tục nét bút của Giấc mộng Từ Lâm và Nắng thu, mô tả

người thanh niên thế hệ ray rứt bởi nỗi băn khoăn, tâm hồn chia sẻ bởi giữa

những tình yêu, nghệ thuật và cách mạng . Trong suy nghĩ khi viết tiểu th uyết

ông luôn phê phán sự gò ép , giả tạo của tiểu thuyết luận đề, khi bày tỏ mong

muốn về một tác phẩm hay, hấp dẫn người đọc và nó có giá trị trong mọi thời

đại.

Ở đây, có một vấn đề đặt ra là: tại sao các nhà văn cùng thời với Nhất

Linh có chung một con đường sáng tác đó là đi từ tiểu thuyết luận đề đến tiểu

thuyết tâm lý. Sự lý giải này chúng tôi tập trung điểm đồng nhất giữa Nhất Linh

với một số nhà văn trong Tự lực văn đoàn như: Thạch Lam, Khái Hưng. Qua sự

trải nghiệm cùng năm tháng khi chúng ta nhìn lại thấy sự chuyển hướng này

không có một giới hạn rạch ròi , dứt khoát. Bởi vì, hai loại tiểu thuyết này cùng

33

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

song song tồ n tại ngay từ 1932, nhưng nếu có thể gọi là trào lưu thì r õ ràng từ

năm 1938 trở về trước , tiểu thuyết luận đề đóng vai trò chủ đạo trong sáng tác

của các nhà văn, còn từ 1938 trở về sau thì tiểu thuyết tâm lý có phần phổ biến.

Ở tiểu thuyết luận đề biểu hiện rõ thái độ nhập thế, tiểu thuyết tâm lý ở

giai đoạn cuối biểu hiện rõ thái độ thoát ly của các nhà văn Tự lực văn đoàn.

Vẫn là các nhà văn lãng mạn ấy, nhưng tại sao lại có những th ái độ khác nhau

như vậy? Nếu đứng ở góc độ nguyên tắc sáng tác mà nói, thì có thể thấy rằng

chủ nghĩa lãng mạn tạo nhiều cơ hội cho việc miêu tả tâm lý, chú ý tới cái tôi

cảm xúc, đời sống nội tâm bên trong của con người. Chủ nghĩa lãng mạn tỏ sự

bất hoà với thực tại, vì vậy mở ra cho nhà văn một hướng tìm tòi mới: Khám phá

thế giới bên trong, coi nó là một đối tượn g ngày càng phong phú, hấp dẫn. Nếu

xét động cơ sáng tác của Nhất Linh hay Khái Hưng thì thấy rằng trong thời tiểu

thuyết luận đề của mình họ đã dùng tác phẩm văn chương để phụng sự lý tưởng

cải cách của mình và phá huỷ những hủ tục đồi phong , xây đắp một cuộc đời

hợp lẽ phải, mà bỏ đi những điều thành kiến, chỉ phục tùng bằng cách lấy lương

tri mà xét đoán tất cả mọi điều trong cuộc sống. Trong giai đoạn sáng tác nhất

định đó, trong động cơ ấy đã gặp được sự thuận lợi nên luận đề đấu tranh chống

lễ giáo phong kiến, cải cách xã hội của Nhất Linh và Khái Hưng nói riêng và Tự

lực văn đoàn nói chung được ủng hộ và đề cao. Họ tin tưởng vào một tương lai

tươi sáng hơn trên bước đường nghệ thuật. Nhưng, do thực tế lịch sử đã làm cho

hy vọng đó sáng lên nhưng không được lâu. Kể từ năm 1939 trở đi , mọi phong

trào cách mạng đều bị thực dân Pháp đàn áp, sách báo bị kiểm duyệt gắt gao, tư

tưởng làm cách mạng văn hoá trong khuôn khổ xã hội thực địa của các nhà văn

đứng trên bờ vực phá sản . Họ đành làm văn nghệ thuần tuý bằng việc viết tiểu

thuyết tâm lý. Ở đây sự đồng nhất trên cùng một đại lộ đó có các nhà văn của Tự

lực văn đoàn và các nhà thơ Mới. Chính thế mà Hoài Thanh đã đưa ra một câu :

“mất chiều rộng, ta đi vào chiều sâu, nhưng càng đi càng thấy lạnh”. Vì lẽ đó mà

ở tiểu thuyết tâm lý khác hẳn với tiểu thuyết luận đề, mối quan hệ giữa con

34

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

người và hoàn cảnh ít được chú ý, nhân vật bị rơi vào tình trạng ít vận động,

biến đổi, ít bị tác động bởi thế giới bên ngoài mặc dù thế giới nội tâm của nó rất

được quan tâm thể hiện.

Như vậy , nếu ở tiểu thuyết luận đề Nhất Linh hầu như những biểu hiện bên

ngoài của nhân vật thường trùng khít với nội tâm, cá tính của nó thì ở tiểu thuyết

tâm lý, hiện tượng ấy không còn phổ biến nữa. Sự không đồng nhất giữa cái bên

trong và bên ngoài trong mỗi cá nhân , cá thể là những tín hiệu ban đầu cho thấy

sự phong phú, đa dạng, phức tạp của thế giới nội tâm con người. Những tín hiệu

ấy ngày càng được bổ sung và hoàn thiện bởi một số yếu tố nghệ thuật miêu tả

tâm lý đặc sắc khác. Nhất Linh không còn tập trung làm nổi bật mâu thuẫn giữa

các nhân vật trong tác phẩm nữa mà hướng tới thế giới bên trong nhân vật nhằm

thể hiện đời sống nội tâm. Việc quan tâm tới con người nội tâm đã thay thế cho

việc quan tâm tới con người xã hội, từ suy nghĩ của nhân vật thay thế cho trú

trọng miêu tả hành động để rồi từ đó khắc hoạ hình tượng những con người suy

tư. Càng về giai đoạn sau 1937 các sáng tác của Nhất Linh việc di chuyển điểm

nhìn từ phía người trần thuật sang nhân vật càng xuất hiện với tần số cao . Tác

giả để cho nhân vật tự bộc lộ, tự đối diện với chính mình. Vũ Ngọc Phan nhận

xét về Nhất Linh : “Ông viết từ ti ểu thuyết ái tình, tiểu thuyết tình cảm, qua

những tiểu thuyết luận đề, đến tiểu thuyết tâm lý, sự tiến hoá ấy chứng tỏ rằng

mỗi ngày ông càng muốn đi sâu vào tâm hồn người ta". [35, 234].

Tiểu kết chương I

Lý thuyết về tiểu thuyết và nhân vật tiểu thuyết rất phong phú, đa dạng.

Khuôn khổ của một cuốn luận văn không cho phép chúng tôi đi nghiên cứu mở

rộng và quá tỉ mỉ về vấn đề nêu trên. Song việc nghiên cứu tìm hiểu một số đặc

trưng cơ bản nhất của lý thuyết về thể loại tiểu thuyết và nhân vật trong tiểu

thuyết sẽ cho chúng ta thấy những đặc trưng của thể loại và sự vận động phát

triển của nó trong tiến trình văn học, tạo nên cơ sở khách quan khoa học cho

35

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

công việc nghiên cứu nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn và

Bướm trắng của Nhất Linh. Toàn bộ vấn đề vừa trình bầy có thể tóm lại bằng

một số luận điểm như sau:

1.Tiểu thuyết là một hình thức tự sự cỡ lớn, có khả năng phản ánh rộng ,

bao quát những vấn đề rộng lớn của hiện thực đời sống. Nó là thể loại ra đời

muộn và cũng là thể loại duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình.

Chính vì thế những đặc điểm của thể loại này vẫn còn được nghiên cứu, bổ

xung, phát hiện theo thời gian.

2. Nhân vật là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, nhân vật là tiêu

điểm để bộc lộ tư tưởng, chủ đề và đến lượt mình, nó lại được các yếu tố có tính

chất hình thức của tác phẩm tập trung khắc hoạ, làm nổi bật hơn lên. Ngay từ

giai đoạn đầu thế kỷ XX, vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết đã được nhiều nhà

nghiên cứu quan tâm. Xuất phát từ quan niệm coi hiện thực tiểu thuyết là thực

tại nên nhân vật cũng phải là những con người bình thường, nhân vật hiện đại

phải là những con người có cá tính riêng, có ngoại hình và nội tâm, mang bản

chất của con người trong xã hội một cách chân thực.

3. Nhất Linh từ giã quan niệm truyền thống để đi vào một quan niệm mới

về viết tiểu thuyết. Trong hai kiểu tiểu thuyết: tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết

tâm lý của Nhất Linh mỗi kiểu tiểu thuyết có một chức năng riêng, do đó có

cách xây dựng nhân vật khác nhau. Con đường văn học của Nhất Linh trước

cách mạng là đi từ tiểu thuyết luận đề đến tiểu thuyết tâm lý. Đây cũng là con

36

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đường chung của nhiều nhà văn đương thời.

CHƯƠNG II

NHÂN VẬT VÀ KẾT CẤU CỐT TRUYỆN TRONG ĐÔI BẠN VÀ BƯỚM TRẮNG

2.1. Quan niệm của Nhất Linh về con người

2.1.1. Quan niệm về con người trong văn học

Trong cuộc sống, con người là hạt nhân, là tâm điểm. Mục đích cuối cùng

của tất cả các ngành khoa học là làm cho cuộc sống của chúng ta càng trở nên

tốt đẹp hơn. Văn học cũng “lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm,

đó là cái đích để sáng tác văn học hướng tới. Đáp ứng nhu cầu hiểu biết của con

người, văn học thực sự trở thành “cuốn sách giáo khoa của đời sống” và con

người là “hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức nghệ thuật” . Vì vậy, quan niệm

nghệ thuật về con người đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật nói chung và

văn học nói riêng. Quan niệm nghệ thuật về con người, chính là thước đo chuẩn

mực thành công và đóng góp của văn học trong việc khám phá thế giới. Khi

đánh giá thành tựu của một nền văn học, một xu hướng, một tác giả hay một giai

đoạn… Không thể không đánh giá quan niệm nghệ thuật về con người.

Quan niệm con người cũng là một sản phẩm của lịch sử. Nó chịu sự chi

phối của cá tính sáng tạo của nhà văn, truyền thống văn hoá dân tộc và ảnh

hưởng của mối quan hệ giao lưu văn hoá quốc tế . Ở mỗi thời kỳ, mỗi nơi, mỗi

con người khi đưa ra quan niệm nghệ thuật về con người đều có sự khác nhau.

Chính sự khác nhau đó tạo nên bản sắc nghệ thuật phong phú, đa dạng cho văn

học và nghệ thuật. Nhưng dù có khác nhau thế nào thì đến cái đích cuối cùng

vẫn là “khám phá ngày càng sâu sắc con người như nó tự cảm thấy trong tự

nhiên, xã hội và lịch sử với tất cả sự phong phú và tinh tế” [40, 101]. Quan niệm

con người là cách hiểu , cách cắt nghĩa về con người. Quan niệm đó quyết định

chiều sâu của việc miêu tả cũng như việc giải quyết chủ đề , đề tài trong sáng

tác… Với tầm quan trọng đó , vấn đề con người đã trở thành một trong những

37

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trung tâm chú ý của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.

Đối với các nhà nghiên cứu phương Tây thì cho rằng con người chính là

phương tiện tất yếu và quan trọng nhất để thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Theo

Brech “các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những b ản

dập của những con người sống, mà là hình tượng được khắc hoạ phù hợp với ý

đồ tư tưởng của tác giả” [5, 213].

Về nhân vật và lập trường của tác giả đối với nhân vật trong sáng tác của

Đoxtôiepxki, Bakhtin có ý kiến : “Nhân vật làm cho Đox tôiepxki quan tâm chỉ

như một quan điểm đặc biệt đối với thế giới và đối với chính nó, như một lập

trường ý nghĩa và lập trường đánh giá của con người đối với bản thân và đối với

thế giới xung quanh nó” [4]. Đó chính là đặc điểm rất quan trọng và căn bản

trong việc cảm thụ nhân vật văn học. Bởi cái cần khám phá và khắc hoạ của tác

giả là một sự tổng kết mới nhất của ý thức và sự tự ý thức của nó. Suy đến cùng

là ý thức mới nhất của nhân vật về chính nó và thế giới của nó. Ở đây, ta thấy

nhân vật trở thành đối tượng của sự tự ý thức mà chức năng của sự tự ý thức đó

lại là đối tượng của cái nhìn và sự miêu tả của chính tác giả. Do vậy, toàn bộ

thực tại đều trở thành yếu tố tự ý thức của nhân vật chỉ có toàn bộ cái tự ý thức

thuần tuý đó mới là đối tượng của cái nhìn và sự miêu tả của tác giả, trong

trường nhìn, điểm nhìn tinh tế của tác giả.

Cũng cùng với quan niệm trên của Bakhtin thì Pospelov nói về điều này

có phần giản đơn hơn, ông cho rằng: “Các tác phẩm tự sự và kịch miêu tả con

người cá nhân với hành vi bề ngoài và cách hiểu thế giới của chúng (…) gọi là

nhân vật được miêu tả một cách nghệ thuật trong tác phẩm” [34, 18]. Như vậy ,

theo Pospelov ở đây nhân vật bộc lộ bản thân chủ yếu không phải trong việc

làm, trong hành động mà qua các su y nghĩ về những điều trông thấy, qua cảm

xúc đối với xung quanh.

Đối với các nhà nghiên cứu phê bình ở Việt Nam quan niệm nghệ thuật là

cơ sở chắc chắn nhất để nghiên cứu tính độc đáo của các sáng tác nghệ thuật. Sự

tiến bộ nghệ thuật được đề cập đến sau đây không nằm ngoài sự mở rộng , đào

38

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sâu các giới hạn trong việc cảm thụ hiện thực, đời sống của các nhà văn. Chúng

tôi xin giới thiệu một quan niệm tiêu biểu trong giới nghiên cứu phê bình ở nước

ta. Theo giáo sư Trần Đình Sử thì vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người

thực chất là vấn đề “tính năng động của nghệ thuật, là giới hạn , phạm vi chiếm

lĩnh đời sống của một hệ thống nghệ thuật, là khả năng thâm nhập của nó vào

các miền khác nhau của cuộc đời” [38, 90]. Khi nói đến quan niệm nghệ thuật là

nói đến tính sáng tạo về chất tr ong cảm thụ và miêu tả đời sống . “Chừng nào

chưa có đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người thì sự tái hiện các

hiện tượng đời sống khác nhau chỉ có ý nghĩa mở rộng lượng trên cùng một

chiều sâu ”[38, 91].

Trong “Một số vấn đề về thi pháp văn học hiện đại” (Trần Đình Sử - Thi

pháp học hiện đại, NXB Giáo dục đào tạo, 1993) tác giả cho biết: Từ trước tới

nay, người ta hay phân tích nhân vật văn học như là sự miêu tả một loại người

nào đó trong xã hội, từ đó người ta thường đối chiếu nhân vật với loại người mà

nó miêu tả xem có giống hay khô ng giố ng để xác định mức độ chân thật . Thi

pháp học có hướng tiếp cận khác: Xem toàn bộ sự miêu tả về n hân vật như là

một cái biểu đạt, như là sự biểu hiện trình độ cảm nhận về con người, từ đó phân

tích nhân vật, để tìm hiểu quan niệm của con người trong ý thức của tác giả.

Từ quan niệm nghệ thuật về con người dưới cách nhìn của các nhà nghiên

cứu ta có thể thấy rằng con người khi được đưa vào trong tác phẩm nó trở thành

đối tượng nhận thức các vấn đề của cuộc sống. Nhân vật được khắc hoạ qua cái

nhìn của tác giả và được các nhà văn thể hiện qua các hình thức nghệ thuật. Qua

nhân vật, người đọc có thể đánh giá được sự cảm nhận cũng như quan điểm, tư

tưởng của tác giả đối với cuộc sống và con người. Ở các nhà văn lớn, sự hình

thành quan niệm nghệ thuật của họ vừa có vai trò đặc biệt quyết định của cá tính

sáng tạo của thế giới quan và tư tưởng nghệ thuật của nhà văn, Với một nhà văn

có một quá trình sáng tác trải qua nhiều giai đoạn thì quan niệm nghệ thuật cũng

có nhiều biến đổi. Quá trình này có khi là sự nhảy vọt , nhưng cũng có khi từ từ

như một mạch nư ớc ngầm thấm dần trong tư tưởng, suy nghĩ và được thể

39

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nghiệm trên từng trang viết với tất cả sự tâm huyết với nghề.

2.1.2. Quan niệm về con người trong sáng tác của Nhất Linh

V.Sécbina trong cuốn Quan niệm con người trong văn học thế kỉ XX cho

rằng: “Quan niệm con người tạo thành cơ sở, thành nhân tố vận động của nghệ

thuật, thành bản chất nội tại của hình tượng nghệ thuật”. Quả là sự vận động của

thực tế làm nảy sinh con người mới và miêu tả những con người thực tế ấy sẽ

làm cho văn học đ ổi mới. Nhưng theo chúng tôi còn một khía cạnh khác nữa là

đổi mới cách giải thích và cảm nhận con người cũng làm cho văn học có sự đổi

thay căn bản.

Cho nên, người nghệ sỹ đích thực là người suy nghĩ về con người, cho

con người, nêu ra những tư tưởng mới để hiểu về con người. Họ lý giải, cắt

nghĩa nhìn nhận và đánh giá con người dưới góc độ triết học và mỹ học. Trong

tiểu thuyết như Đoạn tuyệt, Lạnh lung, Đôi bạn, Bướm trắng…Nhất Linh đã

phần nào làm được điều đó. Ông đã thể hiện một quan niệm về con người mới

làm nền tảng cho việc xây dựng cốt truyện và miêu tả nhân vật trong tác phẩm

của mình.

Con người cá nhân là một phạm trù tiêu biểu của văn học hiện đại. Con

người cá nhân cũng đã được xuất hiện trong văn học trước đó. Ở thế kỉ XVIII -

XIX với nhu cầu hưởng hạnh phúc lứa đôi với ước ao trong khuôn khổ xã hội

phong kiến như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm… đến Tản Đà đã có một cái tôi

“chơi vơi, man mác, vô định”, có nhu cầu tách khỏi xã hội cương thường nhưng

chưa có sức mạnh vị trí của mình. Ở Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, con người

cá nhân muốn có một ý thức độc lập về hạnh ph úc nhưng nó cũng rất mong

manh nên cũng bị thế lực phong kiến nghiền nát. Có thể nói chỉ đến Thơ mới và

Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nói chung và Nhất Linh nói riêng thì quan niệm “cá

nhân” mới được khẳng định đúng nghĩa, là đỉnh cao của hành trình tự ý thức của

con người cá nhân trong xã hội Việt Nam hiện đại .

Trong tiểu thuyết của Nhất Linh, quan niệm nghệ thuật về con người được

40

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

xây dựng theo mô hình con người cá nhân. Đó là con người đấu tranh thoát ly

nghĩa vụ con người xã hội để đến với khát vọng hạnh phúc riêng tư, con người

luôn luôn xung đột với gia đình truyền thống và với đạo đức luân lý của cả một

xã hội đang cố gò con người vào cái vòng cương toả của gia giáo và tiết hạnh.

Với tiểu thuyết tâm lý thì con người có khát vọng hành động tìm lối thoát li mọi

quan hệ xã hội để thoả mãn tự do bản năng đây cũng là cấp độ cao nhất của con

người cá nhân ý thức hướng tới một cuộc đời mới với một quan niệm sống mới,

là ý thức thường trực trong con người ở tiểu thuyết Nhất Linh. Loan luôn luôn

“ao ước được sống cái đời tự do rộn g rãi , không gì bó buộc” [23, 159] hay là

khi cha mẹ nói với Loan về việc nhân duyên của cô, cô thẳng thắn đáp lại (dù là

rất yêu quý bố mẹ) : “Thưa mẹ, sao mẹ hứa với người ta?...Việc của con mà thầy

mẹ cứ coi như con không có ở cái nhà này!” [23, 26]. Loan ý thức về quyền bảo

vệ nhân phẩm và danh dự : “Không có ai có quyền chửi tôi, không ai có quyền

đánh tôi…Loan vuốt tóc ngẩng lên nhìn thẳng vào mặt mẹ chồng :

- Bà là người ; tôi cũng là người, không ai hơn ai, kém ai ” [23, 99]

Còn đối với Nhung trong Lạnh lùng thì bất hạnh hơn. Nàng lấy chồng từ

thủa chưa biết nhớ biết yêu khi chồng mất nàng phải sống cuộc đời giả dối. Dối

mình để không lỗi đạo đức với nhà chồng, dối người để được tiếng khen ở đời.

Đã bao lần Nhun g ý thức về sự lừa dối của mình: “Nàng muốn quên hẳn người

cũ, nhưng một câu nói, một cử chỉ của nàng là một người đàn bà goá kính phục

vì không lúc nào không thương chồng” [24, 198]. Sống dối trá, nhưng nàng vẫn

không tránh khỏi nghĩ : “Một người đàn bà goá sao lại không được phép đi lấy

chồng như một người con gái ? Sao cứ phải ở vậy mới được tiếng thơm cho cha

mẹ và cho gia đình” [24, 260]. Nghĩ cũng chỉ vậy thôi . Những thủ tục lạc hậu

đã hằn trong nếp nghĩ xóm làng Việt Nam, nếu Nhung mà sống thực với lòng

mình, Nhung sẽ bị hàng xóm chê cười. Để yên th ân, nàng đành sống cam chịu

cho dù đã có lúc xao lòng trước Nghĩa.

Con người trong tiểu thuyết luận đề là vậy, còn con người trong Đôi bạn,

Bướm trắng thì lại đấu tranh để giải phóng bản năng của mình. Loan và Dũng

41

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong Đôi bạn mang tâm trạng lưỡng thế của thời đại. Đó là thời đại mà xã hội

phong kiến vẫn còn bám rễ và bao bọc xung quanh Loan và Dũng. Họ muốn

thoát ra khỏi cái xã hội ngột ngạt ấy n hưng họ thật lẻ loi và cô đơn. Dũng luôn

cảm thấy mình cô đơn, chơ vơ giữa gia đình phong kiến trưởng giả tàn ác, Loan

luôn cảm thấy mình trơ trọi giữa cuộc đời. Loan và Dũng là nhân vật lãng mạn,

luôn xa cách với hoàn cảnh thực tại và hướng về một thế giới ở phía trước. Nhân

vật Trương trong Bướm trắng là sự khẳng định một thứ tự do cá nhân tuyệt đối.

Hành động của Trương là hành động chạy theo bản năng xui khiến. Nhân vật tự

để nhân cách của mình tụt dốc một cách vô thức, thậm chí cả ý thức bởi những

hành động vô lý , ngẫu nhiên. Nhà văn Nhất Linh đã nói ra một loạt các hành

động “vô lý” mang tính chất bản năng của các nhân vật: “Vô lý” viết thư tỏ tình

với Thu dù biết đó là một tình yêu “trắc trở”; “v ô lý” đưa thư dù cho bao lần

lưỡng lự ; “vô lý” ăn chơi truỵ lạc, “vô lý” khi ở tù ra giơ cái đầu trọc trước cả

gia đình Thu ; “vô lý” mua dao dù biết rằng không bao giờ giết Thu…

Phải khẳng định rằng con người trong tiểu thuyết Nhất Linh luôn bức bối

ngột ngạt bởi chính thế giới tâm hồn nhạy cảm, đa dạng và phức tạp của mình.

Việc giải thoát sự căng thẳng trong thế giới tâm hồn là một cơ sở để nhà văn

Nhất Linh di chuyển sự chú ý của ngòi bút từ những xung đột xã hội sang những

sung đột nội tâm sâu kín. Những hành động của các nhân vật trong tiểu thuyết

Tự lực văn đoàn nói chung và của Nhất Linh nói riêng là những hành động

mang ít cá tính độc đáo.

Trong các tiểu thuyết : Đoạn tuyệt, Lạnh lùng , hay Đôi bạn Nhất Linh

quan niệm về nhân vật : Nhân vật đại diện cho chế độ và tập tục cũ như Bà Án

(Bướm trắng) - là nhân vật phản diện ; đồng thời có những nhân vật chính diện

mang lý tưởng, thể hiện quan điểm tư tưởng, đạo đức của tác giả, của thời đại

như: Loan (Đoạn tuyệt); Dũng (Đôi bạn ), Trâm (Nắng thu)… Riêng ở Bướm

trắng Nhất Linh còn thể hiện một quan niệm nghệ thuật mới về con người, nhân

vật Trương không thể xếp vào hai loại nhân vật trên. Đó là nhân vật đại diện cho

chính nhân vật đó, cho các h sống và suy nghĩ của chính họ. Trương lao vào ăn

42

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chơi sa đoạ nhưng có lúc hành động cao đẹp, tự ý thức về những việc làm xấu xa

của mình, chàng quyết định chia tay với Thu cũng chính vì muốn g iữ một tình

yêu trong sáng đối với nàng. Ở đây , phải chăng nhà văn Nhất Linh đã xoá nhoà

hai kiểu nhân vật, xoá nhoà ranh giới giữa thiện và ác, giữa tốt đẹp và xấu xa để

tạo nên một kiểu nhân vật phức hợp, hội tụ nhiều phẩm chất, nhiều con người

trong một chỉnh thể ?

Như vừa nói ở trên, con người trong tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh là

con người cá nhân - xã hội, còn con người trong tiểu thuyết tâm lý của ông là

con người cá nhân - tâm lý. Với quan điểm về nghệ thuật tiểu thuyết Nhất Linh

cho rằng: “Một cuốn tiểu thuyết cần nhất là sự sâu sắc. Thế nào gọi là sâu sắc?

Sâu sắc chính là ở chỗ mình diễn tả được tất cả những cái mông lung bí ẩn của

tâm hồn” . Nhất Linh đã mở đầu cách miêu tả thế giới nội tâm của con người,

đặc biệt chú ý trình bày thế giới cảm giác của con ngườ i đối với môi trường

xung quanh, đối với người khác và đối với chính mình, đưa toàn bộ cấu trúc tự

sự vào cấp độ đó.

Chẳng hạn, ở Đoạn tuyệt mở đầu cũng là một đoạn văn miêu tả cảm giác:

“Mỗi buổi trưa chủ nhật về mùa đông trong gian phòng ấm áp , bốn người ngồi

nói chuyện quây quần nói chuyện trước lò sưởi đỏ rực. Bên ngoài mưa bụi lặng

lẽ bay qua mờ mờ như hơi sương. Hai gốc hoàng lan cạnh cửa sổ đứng rũ rượi,

cành lá nặng nề ướt át” [23, 20]. Đoạn kết thúc cũng là đoạn văn miêu tả cảm

giác: “Hiện giờ có một người sung sướng. Người đương đi ngoài mưa gió, quên

cả mưa ướt, gió lạnh ” [23, 134]. Những dòng đầu trong tác phẩm Đôi bạn trong

lời tựa đề “Nhặt lá bàng” tác giả cũng đề tựa một đoạn tả về cảm giác nỗi lòng

của một nhà thơ và nhiều đoạn khác: “Đêm ấy trời cũng lạnh như đêm nay, cũng

về cuối thu. Tôi còn nghe thấy cả một chiếc lá bàng rơi chạm vào tườn g rồi mới

rơi xuống sâu” [ 26, 275] hoặc “trời đã rét, tôi lại ngồi như để đón một cơn gió

lạnh làm tôi giá buốt cả tâm can” [26, 276]. Ở tác phẩm: Bướm trắng cũng mở

đầu bằng cảm giác và kết thúc bằng cảm giác làm cho người đọc cùng thể

43

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nghiệm cảm giác cùng với nhân vật.

Con người trong tiểu thuyết của Nhất Linh có rất nhiều những cảm giác

tưởng tượng, cảm giác mơ mộng, “nhớ lại”, “hồi tưởng lại”, “nghĩ đến” càng

chứng tỏ thế giới nội tâm phong phú , lập thể . “Dũng thốt nhiên thấy quả tim

mình đập mạnh chàng nghĩ đến cái sung sướng một ngày kia, một ngày xa xôi

lắm và không chắc có còn không, lại được gặp mặt Loan, người của quê hương

cũ, người của tuổi thơ mà chàng biế t không bao giờ gặp lại” [26, 376] hoặc

“Trương nhớ đến cái thú thần tiên khi hai người nhìn nhau lần thứ nhất, một giọt

sương sáng long lanh nhưng rồi lại tắt đi ngay” [27, 437] .

Sự tập trung vào thế giới nội tâm đã làm thay đổi cấu trúc tự sự c ủa tác

phẩm. Cấu trúc nhân vật trong Đôi bạn , Bướm trắng , thế giới bên trong đã

chiếm ưu thế hơn so vớ i những biểu hiện hành động bên ngoài. Lời nói bên

trong (độc thoại, nội tâm, ngôn ngữ nửa trực tiếp) chân thật và sinh động hơn lời

đối thoại bên ngoài. Nhất Linh thường khắc hoạ nhân vật trong những tương

phản tâm lí với các nhân vật khác. Rõ ràng, Nhất Linh đã có quan niệm về cá

tính con người một cách rõ nét và cụ thể .

Trong quan niệm n ghệ thuật về con người của mình, nhà văn Nhất Linh

đặc biệt quan tâm đến việc khám phá “con người bên trong”, khám phá những

cảm xúc, cảm giác mong manh tinh tế cũng như mãnh liệt trong tâm hồn con

người nhưng không vì vậy tác giả coi nhẹ việc khắc hoạ, đặc tả “con người bên

ngoài”. Nhân vật của Nhất Linh vẫn hiện ra với những diện mạo và cá tính cụ

thể, đặc biệt là vẻ đẹp ngoại hình. Nhưng ở phương diện này, con người trong

tác phẩm của Nhất Linh đã mang một quan niệm mới so với văn học truyền

thống. Nếu như ở văn học dân gian, vẻ đẹp ngoại hình chỉ là thứ “phụ tùng” của

vẻ đẹp tinh thần và chỉ có giá trị khi nó gắn với vẻ đẹp tinh thần (như “Tốt gỗ

hơn tốt nước sơn”); ở văn học cổ điển, vẻ đẹp ngoại hình được thể hiện trong sự

tương phản sâu sắc với số mệnh (như “hồng nhan đa truân”, “hồng nhan bạc

mệnh”), vẻ đẹp con người luôn đặt vào mối quan hệ mật thiết với thiên nhiên, vũ

44

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trụ thì ở Đôi bạn , Bướm trắng, Nhất Linh đã tái hiện con người cá nhân với

những góc độ chân thật nhất. Vẻ đẹp ngoại hình như là một yếu tố để khám phá

con người, nó là một yếu tố mang giá trị cá nhân, một tiêu chuẩn để đánh giá

con người hoàn chỉnh của xã hội hiện đại.

Có thể nói, đến Nhất Linh, con người mới ý thức công khai được sắc đẹp

tự thân là một yếu tố của giá trị cá nhân. Chính vì thế các góc cạnh củ a sắc đẹp

được miêu tả chi tiết, từ nhiều góc độ. Nó không chỉ được miêu tả qua lời trần

thuật của tác giả mà còn được miêu tả qua sự cảm nhận của nhân vật khác và sự

cảm nhận của chính nhân vật. Vẻ đẹp của nhân vật của Nhất Linh vì thế còn là

vẻ đẹp mang tính chất lý tưởng, nhân vật không chỉ đẹp mà còn có mối quan hệ

mật thiết với trí tuệ bên trong. Nhưng một đặc điểm nổi bật ở đây là vẻ đẹp

ngoại hình của nhân vật là vẻ đẹp hiện đại, cái đẹp mang tính chất đô thị. Bên

cạnh miêu tả những đường nét cơ thể, tác giả còn quan tâm đến việc miêu tả

trang phục, trang điểm của nhân vật, cùng những khía cạnh khác của đời sống

hiện đại.

Tóm lại, vẻ đẹp ngoại hình của con người trong tiểu thuyết Đôi bạn,

Bướm trắng là phương diện tiêu biểu nhất của con người cá nhân đô thị. Nhưng

không chỉ có vậy, vẻ đẹp ngoại hình đã thể hiện một giá trị mới về con người,

một trình độ mới về cảm nhận con người - lần đầu tiên thể chất con người được

miêu tả một cách vật chất, cảm tính, gợi cảm trong tính chất cá nhân, cá thể, với

sác thái nhục cảm nhẹ nhàng, với đặc điểm giới tính, lứa tuổi. Đó chính là nét

làm nên hấp đẫn, trẻ trung, tươi mát của hai cuốn tiểu thuyết này.

Quan điểm nghệ thuật của Nhất Linh về con người trong tiểu thuyết Đôi

bạn và Bướm trắng cho thấy ông đã đổi mới hẳn quan niệm về con người và

cách miêu tả con người, tạo thành chất lượng mới t rong tác phẩm. Cách cảm

nhận chủ quan của nhà văn là một thái độ hàm chứa nhiều bình diện giá trị khác

nhau của đời sống, thể hiện đặc điểm của nhà văn lớn, đa dạng, khác hẳn cái

nhìn hạn hẹp một chiều, mang tính chất giáo huấn như những tiểu thuyết luận đề

45

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của ông ở giai đoạn trước.

2.2. Quan hệ giữa cốt truyện và sự thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết Nhất

Linh

2.2.1. Vấn đề cốt truyện của tiểu thuyết

Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội ,

1999, đã định nghĩa : Cốt truyện “là hệ thống các sự kiện cụ thể được tổ chức

theo yêu cầu t ư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản ,

quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự

và kịch” [13, 88] .

Cùng quan điểm như vậy, Lại Nguyên Ân cũng quan niệm: Cốt truyện là

“sự phát triển hành động; tiến trình các sự việc, các biến cố trong tự sự và kịch,

đôi khi cả trong tác phẩm trữ tình” [01, 133] .

Qua hai định nghĩa trên, chúng ta thấy cốt truy ện có những đặc điểm cơ

bản sau:

Cốt truyện thuộc lĩnh vực hình thức nghệ thuật, nó thuộc lớp biến cố của

hình thức tác phẩm . Chính hệ thống biến cố (tức cốt truyện) đã tạo ra sự vận

động của nội dung cuộc sống được mô tả trong tác phẩm.

Cốt truyện tạo ra một trường hành động cho nhân vật và cho phép tác giả

thể hiện và lý giải tính cách của chúng . M.Gorki coi cốt truyện là hệ thống c ác

quan hệ qua lại của nhân vật, là “lịch sử phát triển và sự tổ chức tính cách nào

đó”. Cái dệt nên cốt truyện là hành động của các nhân vật (hành động là sự thể

hiện các xúc cảm, ý nghĩ , ý định của con người vào các hành vi hoạt động, lời

nói, cử chỉ, nét mặt…của họ). Trong văn học có kiểu hành động được thể hiện ở

các vận động bên ngoài (nhân vật có hành động dứt khoát tại các thời điểm,

bước ngoặt trong cuộc đời họ); cũng có kiểu hành động được chỉ ra ở những vận

động bên trong (sự thay đổi trong tâm lí, nhận thức của nhân vật) .

Mặt khác, cốt truyện còn có chức năng quan trọng là bộc lộ các mâu thuẫn

của đời sống, tức là thể hiện xung đột. Cốt truyện vừa góp phần bộc lộ có hiệu

46

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

quả đặc điểm mỗi tính cách, tổ chức tốt hệ thống tính cách, lại vừa trình bày một

hệ thống sự kiện phản ánh chân thực xung đột xã hội , có sức mạnh lôi cuốn và

hấp dẫn người đọc.

Về phương diện kết cấu và quy mô nội dung, nhìn chung người ta nêu ra

kiểu cốt truyện “biên niên” và kiểu cốt truyện “đồng tâm” (hoặc cốt truyện “ly

tâm” và cốt truyện “hướng tâm” , hoặc cốt truyện “đơn tuyến” và cốt truyện “đa

tuyến”). Các cốt truyện mà trong đó các mối liên hệ thời gian giữa các sự kiện là

nét trội gọi là cốt truyện biên niên. Tính biên niên của cốt truyện khiến các sự

kiện và hành động có thể không thật gắn bó với nhau, đây là điểm mở ra khả

năng cho việc miêu tả thực tại trên nhiều bình diện, thích hợp cho việc xây dựng

các tác phẩm tự sự cỡ lớn. Các cốt truyện mà trong đó giữa các sự kiện, các mối

quan hệ nhân quả chiếm ưu thế gọi là cốt truyện có hành động thống nhất hoặc

cốt truyện đồng tâm. Tính đồng tâm của hành động tạo khả năng kiến trúc trọn

vẹn, nhất quán cho hình thức tác phẩm. Một số tác phẩm có sự tồn tại song yếu

tố đồng tâm và yếu tố hướng tâm trong cốt truyện.

Cốt truyện là sản phẩm sáng tạo chủ quan mỗi nhà văn. Dù đa dạng , mỗi

cốt truyện đều trải qua một tiến trình vận động, có hình thành phát triển và kết

thúc gồm: thắt nút, phát triển hành động (các sự kiện, cao trào), mở nút. Cũng có

cách nêu chi tiết hơn: trình bày , khai đoan (thắt nút), phát triển, đỉnh điểm (cao

trào), mở nút (kết thúc). Ngoài ra người ta còn nêu ra các thành phần khác của

cốt truyện như: tiền sử, hậu sử, mào đầu, vĩ thanh.

Cốt truyện được xây dựng bằng nhiều biện pháp kết cấu khác nhau. Trình

tự thông báo với người đọc về các sự kiện diễn ra, việc nhấn mạnh những liên hệ

bên trong mang ý nghĩa và cảm xúc giữa các sự kiện là phạm vi kết cấu cốt

truyện. Lối kết cấu bằng trình tự liên tiếp trước sau của các sự kiện, ở những tác

phẩm có giá trị nghệ thuật thực sự , khiến cho người đọc luôn thấy sự mới mẻ

qua từng tình tiết, và đoạn cuối thường l à yếu tố trụ cột của cốt truyện. Có khi

nhà văn giãi bầy độc giả, dùng lối kết cấu che giấu để đến lúc nào đó cho người

đọc nhận ra điều trái ngược hoặc điều bí mật. Một cách kết cấu quan trọng là

47

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đảo lộn trận tự thời gian của các sự kiện, nhằm chuyển chú ý của người đọc từ

sự việc sang nội tính bên trong nhân vật. Ở văn học thế kỉ XX, biện pháp ghép

dựng (montage) được sử dụng nhiều hơn, cho phép luân chuyển hành động trong

những thời gian khác nhau. Kiểu kết cấu hồi cố (rétrospective) trong tiểu thuyết

và kịch sử dụng các hồi ức của nhân vật, ngắt quãng tuyến hoạt động chính.

Ở Việt Nam, các nhà tiểu thuyết giai đoạn đầu thế kỉ XX đã rất thành

công trong việc từ bỏ lối viết chương hồi, kết thúc có hậu. Thay vào đó là sự lắp

ghép nhiều mẩu chuyện xung quanh nhân vật chính, cốt truyện cô đọng, kết thúc

bỏ ngỏ, tôn trọng sự thật. Người có công đầu trong những cách tân nghệ thuật

này phải nói tới Song An Hoàng Ngọc Phách và nhóm Tự lực văn đoàn . Trong

đó những đóng góp đáng ghi nhận nhất là nghệ thuật miêu tả tâm lý, tính cách

nhân vật. Tiểu thuyết hiện đại đã phá vỡ những quy phạm cũ, mở ra một hướng

mới để tiểu thuyết tự do phát triển. Đó là dấu hiệu ch ứng tỏ sự hiện đại của thể

loại.

Như vậy, mặc dù vấn đề khái niệm “cốt truyện” đang còn là một vấn đề

phức tạp nhưng trên cơ sở nhữn g khái niệm và những đặc điểm cơ bản vừa nêu

trong luận văn này, chúng tôi cũng xin mạnh dạn khẳng định: cốt truyện là hệ

thống các sự kiện, biến cố cụ thể được trình bày trong tác phẩm thuộc thể loại tự

sự và kịch với ý đồ nghệ thuật của tác giả như một tiến trình và thể hiện qua các

phương tiện nghệ thuật.

2.2.2. Tiến trình cốt truyện trong tiểu thuyết luận đề xã hội và tiểu thuyết tâm

Quan niệm nghệ thuật về con người, cốt truyện, không gian nghệ thuật là

những phạm trù gắn bó chặt chẽ với nhân vật. Cốt truyện là mô hình nghệ thuật

về thế giới của nhà văn; là “con đường của số phận nhân vật”, trong đó chứa

đựng quan niệm của nhà văn về số phận con người. Nguyễn Đình Thi đã chỉ ra

mối quan hệ giữa nhân vật và cốt truyện trong tiểu thuyết như sau: “Nghiên cứu

48

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cho kĩ thì cái xuất hiện trước tiên phải là nhân vật, song hình tượng nhân vật

xuất hiện không thể không gắn liền với cốt truyện, vì thế chúng ta cứ cảm thấy

hai cái xuất hiện cùng một lúc”[42, 645].

Xét sự nghiệp sáng tác của Nhất Linh ở thể loại tiểu thuyết ta thấy có

những tác phẩm tiêu biểu sau: Nho phong, Người quay tơ, Lạnh Lùng, Đoạn

tuyệt, Đôi bạn, Bướm trắng. Ở giai đoạn đầu Nhất Linh chịu ảnh hưởng tư tưởng

của Nho giáo, thì ở giai đoạn sau tiểu thuyết của Nhất Linh chia ra thành hai bộ

phận khá rõ rệt là: tiểu thuyết luận đề (với sáng tác tiêu biểu là Đoạn tuyệt và

cuốn Lạnh Lùng) và tiểu thuyết tâm lý (tác phẩm Đôi bạn và Bướm trắng). Hai

giai đoạn sáng tác sau này cho chúng ta thấy sự vận động về tư tưởng cũng nh ư

nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh. Ở đây, có sự vận động, chuyển hóa giữa

tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lý. Từ chỗ đối tượng của ngòi bút Nhất

Linh là những vấn đề xã hội, tâm lý của xã hội cũ đến đối tượng là thế giới tâm

hồn, là thế giới bên trong của con người với sự hiện diện của tâm lý ý thức và cả

tâm lý vô thức. Trong tác phẩm, tâm lý nhân vật từ chỗ được miêu tả gián tiếp

như là một phương tiện để miêu tả tính cách đến tâm lý được miêu tả trực tiếp

và trở thành đối tượng bao trùm, duy nhất dưới ngòi bút nhà văn.

Cảm hứng chủ đạo ở tiểu thuyết luận đề là sự khẳng định con người - xã

hội, chứ chưa hẳn là con người - cá nhân. Nhà văn chủ y ếu chỉ trình bày những

nét tâm lý thể hiện tính cách, do áp lực luận đề quá lớn. Nhân vật với những tính

cách biết trước, dường như chỉ có động lực tâm lý duy nhất, chịu sự chi phối của

một nét tâm lý chủ đạo. Vì vậy nếu như luận đề tác phẩm phù hợp với hiện thực

thì tâm lý nhân vật trở nên sinh động, thuyết phục và hấp dẫn, tác phẩm đạt tới

sự chân thực; nếu chỗ nào luận đề không sát với hiện thực thì tâm lý nhân vật trở

nên khiên cưỡng. Ví như trường hợp của Loan trong Đoạn tuyệt, tác giả đã công

khai bênh vực cho nhân vật, bênh vực cho cái mới. Chính vì vậy nhân vật có lúc

trở thành cái loa phát ngôn cho tư tưởng của tác giả. Tâm lý của nhân vật mà sự

thể hiện ra là những tình cảm, tư duy đổi chỗ chỉ là sự áp đặt không thực tế. Còn

trường hợp của Nhung trong Lạnh Lùng thì đặc sắc hơn, đã vượt lên nhiều so

49

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

với cuốn Đoạn tuyệt. Cái lối dàn dựng sự kiện như những con cờ để bao vây và

tranh thủ một đối tượng luận đề không còn nữa. Tác giả đã ngả sang tả chân tình

cảm. Tâm lý ái tình được ghi nhận và diễn tả một cách khá vi diệu: những lời

nói buột miệng, những cử chỉ vô ý, những ngẫu hợp giữa cảnh và tâm, những

cảm giác hoàn toàn chủ quan và phát sinh dưới góc cạnh con mắt của người

đang yêu. Người ta thấy ảnh hưởng của Proust và Freud nữa trong cái bút pháp

miêu tả ái tình, tình dục trỗi dậy trong lòng Nhung.

Vì hướng tới những vấn đề xã hội nên những đối thoại, độc thoại, phản xạ

hành vi… của nhân vật đều mang tính hướng ngoại, còn phiến diện tuy không

hẳn là giản đơn so với tiểu thuyết truyền thống. Con người vẫn được nhìn ở một

động cơ duy nhất khớp với những vai trò xã hội mà nó đảm nhận (mẹ chồng, gái

mới, kẻ nhu nhược bất lực…), dường như đời sống tâm lý của nhân vật ít vận

động biến chuyển, trạng thái tâm lý chủ yếu được bộc lộ qua hành động, ngôn

ngữ, qua sự miêu tả của tác giả chứ chưa được biểu hiện bằng những hành động

tâm lý bên trong. Quá trình tâm lý còn đơn giản, ít có những biến cố, ít đột biến,

không sát thự c , thiếu sự phát t riển nội tại. Khi miêu tả tâm lý nhân vật, tác giả

chủ yếu miêu tả từ ngoài vào, sự tự biểu hiện (trong t rường hợp các nhân vật

lưỡng lự, nước đôi, đầu hàng) tuy đã xuất hiện, kể cả đã có những trường hợp

nhân vật nổi loạn khi bị giằng xé bởi mong muốn cá nhân và những áp lực bên

ngoài, nhưng trong nhân vật chưa có sự nổi loạn của tâm lý, tính cách.

Ở tiểu thuyết tâm lý nhà văn Nhất Linh, ngày càng đi sâu khám phá tâm lý

con người, con người được nhìn nhận với tư cách cá nhân. Những hoạt động bên

ngoài không còn giữ được vai trò quan trọng như ở tiểu thuyết luận đề, nhân vật

được quan tâm thể hiện trong mối quan hệ với đời sống nội tâm. Tác giả đã mở

rộng diện quan tâm tới cá c đối tượng tâm lý khác nhau trong quá trình miêu tả .

Thay cho động cơ tâm lý nhất quán một chiều là những biểu hiện đa dạng hơn,

có cả phần mơ hồ của tiềm thức, vô thức, linh cảm lẫn bản năng. Các quá trình

tâm lí được quan tâm, thay cho trạng thái tâm lý trước đây, với sự biểu hiện của

sự vận động, qua những mâu thuẫn nội tại phức tạp. Hành vi bên ngoài và suy

50

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nghĩ bên trong của nhân vật không thống nhất đơn giản một chiều, nhân vật độc

thoại nhiều hơn, hiện tượng người trần thuật nhập vào ý nghĩ của nhân vật với

cái nhìn từ bên trong (lời nửa trực tiếp) xuất hiện nhiều hơn. Chúng tôi tiến hành

khảo sát tiến trình cốt truyện hai tác phẩm Đôi bạn và Bướm trắng như sau: Hai

cuốn tiểu thuyểt trên đều có kết cấu gồm ba phần.

Tiểu thuyết Đôi bạn bao gồm:

- Phần thứ nhất có 6 chương, 37 trang (từ trang 279 đến trang 316) trung

bình khoảng 6 trang/chương.

- Phần thứ hai có 7 chương, 59 trang (từ trang 316 đến trang 375) trung

bình khoảng 8, 9 trang/chương.

- Phần thứ ba có 5 chương, 30 trang (từ trang 357 đến trang 387), trung

bình khoảng 6 trang/chương.

Có một sự tương đồng kỳ lạ về nhịp điệu giữa các phần của Đôi bạn. Số

lượng các chương trong mỗi phần không quá chênh lệch nhau (6-7-5) làm cho

chúng gần như có cùng một nhịp độ sự lặp lại đều đặn đó đưa đến một cảm nhận

nhất quán khi đọc tác phẩm. Điều này còn được khẳng định thêm khi khảo sát sự

tương ứng giữa độ dài văn bản và thời gian của các sự kiện được kể lại trong

từng phần. Cụ thể là:

- Phần thứ nhất: Thời gian cốt truyện khoảng 5-6 tháng, được kể lại trong

37 trang văn bản.

- Phần thứ hai: Thời gian cốt truyện khoảng 5 tháng, được kể lại trong 59

trang văn bản.

- Phần thứ ba: Thời gian cốt truyện khoảng 5 tháng, được kể trong 30

trang văn bản.

Rõ ràng có một sự tương ứng kỳ lạ với kết qủa được khảo sát ở trên trong

một khoảng thời gian các sự kiện thực sự được kể lại gần như bằng nhau, chỉ có

độ dài văn bản trong từng phần là có sự chênh lệch. Sự chênh lệch này là không

đáng kể, bạn đọc ưa thích các cốt truyện nhiều sự kiện, biến cố sẽ khó có thể

thoả mãn với những tiểu thuyết của Nhất Linh.

51

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ở Bướm trắng cũng bắt đầu bằng kết cấu ba phần của nó:

- Phần thứ nhất có 7 chương, 36 trang (từ trang 390 đến trang 426), trung

bình khoảng 5 trang/chương.

- Phần thứ hai có 8 chương, 57 trang (từ trang 426 đến trang 483), trung

bình khoảng 7 trang/chương.

- Phần thứ ba có 6 chương, 34 trang (từ trang 483 đến trang 517), trung

bình khoảng 5, 6 trang/chương.

Mỗi phần trong tiểu thuyết của Bướm trắng có một nhịp điệu riêng, phần

thứ nhất có nhịp điệu nhanh hơn cả, hai phần sau chậm hơn và chậm nhất là

phần 3. Kết qủa khảo sát về độ dài của từng phần tương ứng với thời gian thực

sự mà sự kiện được kể lại cho thấy:

- Phần thứ nhất: Thời gian cốt truyện khoảng 5 tháng, được kể lại trong 36

trang văn bản.

- Phần thứ hai: Thời gian cốt truyện khoảng 4 tháng, được kể lại trong 57

trang văn bản.

- Phần thứ ba: Thời gian cốt truyện khoảng 2 tuần, được kể lại trong 34

trang văn bản.

Trong tiểu thuyết của Nhất Linh có rất ít sự kiện biến cố. Đôi bạn và

Bướm trắng thực sự không có cốt truyện theo nghĩa cổ điển của từ này, tức là

không có biến cố quan trọng, tác giả không tập trung vào các sự kiện biến cố mà

tập trung vào việc miêu tả tâm lý nhân vật với những suy tư, trăn trở, dằn vặt. Sự

hồi cố, liên tưởng làm ngưng đọng những khoảnh khắc mà ở đó tâm hồn nhân

vật có dịp bộc lộ, không chút giấu diếm. Tiến trình cốt truyện trong tiểu thuyết

luận đề là hành trình số phận cuộc đấu tranh xã hội của các nhân vật, đi sâu khai

thác sự đối lập giữa tính cách và hoàn cảnh, giữa những nhân vật mang tính lý

tuởng với xã hội phong kiến, giữa mới và cũ. Các tác phẩm này đấu trang cho

một cuộc sống mới, phê phán lễ giáo phong kiến kìm kẹp con người còn trong

tiểu thuyết tâm lý chính là hành trình của thế giới nội tâm của nhân vật, mâu

52

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thuẫn cơ bản của xã hội không được đề cập đến hoàn cảnh xã hội hầu như không

được phản ánh. Các sự kiện ít, mạch truyện chậm, hồi tưởng của nhân vật trôi

chảy, tự nhiên tạo nên sự phát triển tâm lý nhân vật.

Tiếng tích tắc đều đặn của đồng hồ, cái nhịp điệu 60 lần một phút ấy nhắc

nhở con người về thời gian chảy trôi của số phận ngắn ngủi. Nhịp đập 70 lần

một phút của trái tim duy trì sự sống. Hết ngày đến đêm, bốn mùa xuân, hạ, thu,

đông chuyển vần. Kế tiếp thế hệ chúng ta sẽ là con, cháu v.v…đó là nhịp điệu

thời gian, nhịp điệu cuộc sống. Nó nhắc nhở con người hàng ngày hàng giờ về

thân phận và sứ mệnh mà nó vừa phải chấp nhận vừa phải đấu tranh. Nếu có một

loại hình nghệ thuật nào đó nói được tất cả những điều trên thì chắc chắn đó là

tiểu thuyết.

2.3. Hành trình số phận và hành trình nội tâm trong Đôi bạn

2.3.1. Đôi bạn một tiểu thuyết luận đề xã hội với nhiều yếu tố tâm lý

Đôi bạn có kết cấu song tuyến , bao gồm hai mạch chuyện chính : “Bản

tình ca không lời” của “đôi bạn vẫn yêu nhau từ lâu” và hành khúc ra đi đầy trăn

chở của “đôi bạn lên đường”. Hai mạch ấy không tách rời mà đan quyện, xoắn

xuýt vào nhau khiến tác phẩm mang một âm hưởng vừa dịu ngọt, nồng nàn, mê

say, vừa tái tê, man mác: gặp gỡ và chia ly, yêu đương và xa cách…

Trong kết cấu của tác phẩm chứa đầy những vang hưởng của cả hai mạch

truyện: “mối tình xót xa Phương Tạo, mối tình im lặng Hà Trúc, tất cả đều ly

tán, tất cả đều im lặng , mang dấu ấn của định mệnh, xa vời, chập chờn, ẩn hiện”

như là “hình bóng hay âm vang” [26 , 234] của mối tình thầm lặng Loan Dũng.

Kết cục bi thảm của Thái, của Tạo… giống như một định mệnh nghiệt ngã của

các cuộc ra đi mà ở đó “các bạn chàng (Dũng) đối với nhau chỉ có mỗi một dây

liên lạc chung là tình bạn hữu, còn ngoài ra mỗi người đi theo một ngả đường ,

sống theo một cảnh đời riêng, yếu ớt, rời rạc . Thỉnh thoảng lại nghe tin một

người trong bọn chết đi hay bị tù tội, rồi ai nấy , trước số mệnh chỉ việc cúi đầu,

yên lặng, nơm nớp đợi đến lượt mình” [26, 323] khiến cho Dũng lúc ra đi không

53

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng trong tâm hồn như vẫn mong mỏi ; Dũng và

Trúc lên đường trong cảnh mờ sương , hiu hắ t buồn mà không có cái sôi động,

hùng tráng và hứa hẹn.

Nội dung chính của tác phẩm được chia thành ba phần, bao gồm mười

tám chương. Điểm nổi bật của mỗi chương là một trạng thái tâm lý, là một cung

bậc trong đời sống tình cảm, cảm giác của nhân vật. Chẳng hạn, ở phần thứ nhất,

chương I là nỗi xúc động của Dũng trong những phút giây hạn h phúc được ở

bên Loan dưới c ây khế với mùi hương thi êng liêng và trong hàng nước c hè;

chương II là những liên tưởng, mong ước bay bổng của Dũng giữa buổi lễ mừng

thọ cụ Bang; chương III là hoài niệm về buổi tham gia bãi khoá, rời trường học

và nỗi chán ngán về đời sống hiện tại của Dũng; chương IV là nỗi sung sướng

ngọt ngào và êm ái trong lòng Dũng khi Loan đến đúng lúc chàng đang mong

đợi v.v… Lôgic của truyện là lôgic của tâm trạng, tình cảm nhân vật. truyện ít

các sự kiện, hành động quan trọng, các mâu thuẫn, xung đột gay gắt; cốt truyện

không diễn ra theo trình tự: trình bày, thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút thông

thường mà chỉ là những giai đoạn khác nhau của tâm trạng được xâu chuỗi với

nhau. Tác phẩm không kể lại những diễn biến phức tạp của nh ững chuyện tình

éo le, dang dở, mà diễn tả lại tâm lý của các nhân vật trong tình yêu; không miêu

tả hiện thực cuộc sống tù túng, ngột ngạt trong nhà ông tuần mà biểu đạt những

nỗi chán chường, bực dọc, những trăn trở, khát khao, tính toán của Dũng trong

gia đình ấy. Nếu bị kể lại ở dạng tóm tắt những sự kiện chính tác phẩm sẽ mất đi

phần lớn sức sống và vẻ đẹp của nó.

Như vậy, Đôi bạn là tiểu thuyết có kết cấu tâm lý - lối kết cấu thường lấy

quá trình vận động bên trong của nhân vật, những phản ứng tâm lý của nhân vật

đối với sự kiện và những diễn biến tâm trạng của nhân vật trong mỗi quan hệt

với các nhân vật khác làm cơ sở để tổ chức tác phẩm. Lối kết cấu này bắt đầu

xuất hiện trong tiểu thuyết Việt Nam từ năm 1925 với Tố Tâm của Hoàng Ngọc

Phách - tiểu thuyết kể về mối tình đầy bi kịch giữa hai nhân vật Tố Tâm và Đạm

Thuỷ, bao gồm năm chương trong đó mỗi chương là một giai đoạn khác nhau

54

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong tâm lý nhân vật: chương 1 là cảm giác man mác của một hoài niệm buồn;

chương 2 là sắc thái trong trẻo của một tình yêu còn bỡ ngỡ, e ngại; chương 3 là

những tình cảm mãnh liệt đi kèm với nỗi ám ảnh của một cảm quan ly biệt;

chương 4 là bi kịch về sự chia lìa, tan vỡ…

Nếu như Hoàng Ngọc Phách đã mang lại khúc dạo đầu cho tiểu thuyết

tâm lý hiện đại thì với Đôi bạn, Nhất Linh đã góp phần đánh dấu sự thành công,

sức mạnh nghệ thuật lớn lao của nó.

Thời gian của truyện không tuân theo trật tự tuyến tính của câu chuyện.

Tác phẩm mở ra khi tất cả đã bắt đầu: mối tình Loan - Dũng, sự chán nản về

hiện tại và khát vọng thoát ly của Dũng…và kết thúc khi tất cả đều chưa đi đến

chung cục. Nhân vật sống trong hiện tại nhưng thường xuyên trở về với những

kỷ niệm của quá khứ và hướng đến một tương lai khác: đứng trước cảnh chôn

cất Tạo, ”Chàng (Dũng) thốt nghĩ đến Loan và tự nhiên nhớ đến một hôm, đã

lâu lắm, nhìn Loan mặc áo trắng đi qua vườn, trong ánh nắng thu, lần đầu chàng

đã cảm thấy vui thấy mình sống. Chàng không dám nghĩ đến một đời ở xa Loan

nay đây mai đó như Tạo, rồi một ngày kia cũng như Tạo chết ở một nơi xa lạ

nào, nằm trong áo quan tối, trong khi Loan đứng bên mồ, dưới ánh nắng, tà áo

trắng của nàng phất phới trước gió” [26 , 350]. Vậy là cùng một lúc, trong tâm

hồn nhân vật diễn ra cả hiện tại quá khứ và tương lai.

Trong tác phẩm luôn có những sự ngưng kết: diễn biễn của mạch truyện

như ngừng lại để cho nhân vật suy tư, ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm, tưởng tượng;

xuất hiện rất nhiều các cụm từ: “Dũng tự nhiên nghĩ đến…[26, 293], “Lòng

chàng thốt nhiên êm ả lạ lùng”[26,301 ], “Dũng tự nhiên cảm thấy rằng…”[

26,323],”Dũng sực nghĩ…”[26, 335], “thốt nhiên nàng nghĩ đến Dũng” [26 ,

337], “Chàng thốt nghĩ đến Loan và tự nhiên nhớ đến một hôm…”[26, 350],

“Tự nhiên chàng thấy vui”[26, 355],”Bỗng Dũng lặng người đi”,lòng chàng thốt

nhiên êm ả hẳn lại” [26,365] “chàng sực nhớ ra rằng…[26, 366], “lòng chàng thốt

nhiên êm tĩnh lạ thường “[26 ,375], “Câu nói củ a Hà đột ngột nhắc đến

Loan…”[26, 381], “Dũng thốt nhiên thấy quả tim đập mạnh”[26, 386],…(những

55

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chữ in nghiêng do chúng tôi nhấn mạnh) khiến thời gian như ngừng trôi, các

hoạt động dừng lại nhường chỗ cho diễn biến tâm lý, cảm giác của nhân vật ,

giúp người đọc có những phút lắng đọng để cảm nhận dư ba của truyện lan toả

trong lòng mình.

Bên cạnh việc xáo trộn thời gian từng thời điểm của câu chuyện, toàn bộ

nội dung chính của truyện lại như một hồi ức của nhân vật người kể chuyện -

“tôi” trong Nhặt lá bàng (Thay mấy lời nói đầu) - khúc dạo đầu, một bộ phận

quan trọng cấu thành nên chỉnh thể của tác phẩm. Điều đó khiến cho toàn bộ câu

chuyện trở nên lung linh, bàng bạ c trong một màn sương hoài niệm, bâng

khuâng, man mác buồn . Kỹ thuật xử lý thời gian đã góp phần đắc lực làm nên

kết cấu tâm lý của tác phẩm.

Khi Trò chuyện về nghệ thuật kết cấu, M.Kundera cho rằng “cấu tạo một

cuốn tiểu thuyết là đặt cạnh nhau những không gian xúc cảm khác nhau và theo

tôi đấy là nghệ thuật tinh vi nhất c ủa một nhà tiểu thuyết”. Trong Đôi bạn có

nhiều loại không gian: bên cạnh không gian bối cảnh, không gian sự kiện còn có

không gian tâm lý - “không gian bên trong con người , những vùng sáng chói và

những cùng mờ tối, nhiều bí ẩn”. Dũng sống trong nhiều không gian bối cảnh

khác nhau : sự u ám, nặng nề, tù túng, ngột ngạt của gia đình; những con đường,

những khu vườn tình yêu đầy hoa bướm; bầu trời, bến đò, núi rừng lộng gió ,

khoáng đạt của cuộc gia đi…

Đôi bạn mang đến cho người đọc nhiều trang văn thật đẹp về những bức

tranh vùng quê, phố Hà Nội …giàu chất thơ và chât nhạc: vườn nhà Cận với

những cây khế có những chùm hoa tím thơm hết mùa này sang mùa khác; giậu

gang với cây bồ kết dại hoa vàng ; bầu trời tr ong, bãi cỏ rộng với cánh bướm

trắng vụt bay cao; “Rặng cây nhãn trên đê, c ạnh bến đò Gió, mờ rõ trong mưa

bụi và khói ở các mái nhà toả ra như mấy vết mực tàu đương lan trên tờ giấy

trắng ướt đẫm nước”; giàn đậu ván với những bông hoa tim tím và những ngón

tay thon của Loan lùa trong màu xanh của lá; phố đêm Hà Nội yên ắng với vằng

56

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trăng buồn bã như đang tưởng nhớ những quãng rộng, những con đường vắng ở

các vùng quê xa xôi, với những bóng cây lưa thưa , với bóng Loan nhẹ và thơm,

khi mờ khi tỏ; ấp Quỳnh Nê với những cành táo trĩu quả, với đồi thông lấp loáng

nắng, với những vạt cỏ may, mùi lúa chín thơm và ấm, những con cào cào cánh

xoè ra lấp lánh xanh đỏ bay l ẫn vào nhau trong nắng …Hoa khế, hoa đậu ván

tím, hoa cải , hoa bồ kết dại vàng , cánh bướm trắng , tà áo lụa trắng của Loan

phất phới bay trong nắng; hương thơm của hoa khế, hoa bưởi, hoa cau, mùi

thơm của lúa chín, mùi đất và mùi gỗ mục , hương thơm trên tóc Loan hay

hương thơm của buổi chiều…Những sắc màu tươi sáng, những hương thơm dịu

ngọt vừa là thiên nhiên êm đềm, vừa chiếm một không gian trong trái tim yêu

thương của “Đôi bạn” đang ngây ngất, đắm say trong hương vị của mối tình đầu

thầm lặng.

Trong tác phẩm , các không gian luôn luôn được chuyển hoá lẫn nhau và

mang đậm dấu ấn tâm lí của nhân vật. “Không gian của Loan Dũng yên lặng,

không gian của Dũng Trúc lạnh, gió thổi lộng biểu đạt cái tự do. Không gian mở

rộng này đối lập với không gian đóng kín nhà ông tuần, bố Dũng” - tất cả nhiễm

cái buồn, mờ, lạnh của những “buổi chiều mờ sương thu”, cái man mác, tê tái

của những biệt ly, xa cách …

Phần chính của truyện mở đầu bằng câu nói của Trúc: “ Trời muốn trở rét

…” [26, 279] và kết thúc vớ i hình ảnh “t rước mặt hai người, về phía bên kia

cánh đồng, ánh đèn nhà ai mới thắp, yếu ớt trong sương, như một nỗi nhớ xa xôi

đang mờ dần …” [26, 387]. Câu kết thúc hô ứng với câu mờ đầu v à “im lặng,

sương mờ, trời lạnh …” [26, 230] là âm điệu chủ đạo , như một nốt nhạc buồn

ngân vang xuyên suốt toàn bộ tác phẩm , đó là nốt nhạc thể hiện tâm trạng, tâm

lý con người.

Nhặt lá bàng - đoạn văn mở đầu, Thay mấy lời nói đầu của tác phẩm -

được giáo sư Đỗ Đức Hiểu đánh giá “là những trang văn xuôi thuộc loại hay

nhất của văn học hiện đại Việt Nam”. Nó vừa thâu tóm nội dung tư tưởng (lời

thúc dục con người hãy dấn thân vào hành động để tìm kiếm “sự bình tĩnh của

57

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tâm hồn” giữa một xã hội đang thay đổi, giữa cơn gió thời đại) và âm điệu chủ

đạo (lạnh, im lặng, gió thổi) của truyện, vừa dẫn dắt người đọc vào một câu

chuyện tưởng tượng nhưng lại tao cho họ cảm giác về tính chân thực của câu

chuyện ấy, khiến tác phẩm dường như có kết cấu “truyện lồng trong truyện” (gợi

liên tưởng đến kết cấu tiểu thuyết Bọn làm bạc giả của André Gide) - lôi cuốn,

hấp dẫn, để người đọc phải theo dõi, khám phá, mong chờ …

Kết thúc của truyện là một kết thúc mở. Thời gian vẫn tiếp tục vận động,

cuộc đời nhân vật đang tiếp diễn - tương lai của họ chưa định hình rõ ràng và

các dòng chảy tâm lý vẫn miên man. Bóng áo lụa trắng của Loan phất phơ trong

nắng vườn chập chờn trong tâm trí Dũng và âm vang của mối tình đầu thầm

lặng, dở dang khiến Dũng ra đi mà vẫn bồi hồi xao xuyến . Truyện đã không bị

áp lực của một kết thúc “có hậu” khiên cưỡng, nó nhằm vào việc diễn tả những

cảm giác.

Như vậy, trong Đôi bạn cách tổ chức tác phẩm, xử lý thời gian và không

gian đến cách mở đầu và kết thúc của tác phẩm đã có nhiều yếu tố của một tiểu

thuyết tâm lý hiện đại. Đến với tác phẩm này, người đọc sẽ không gặp một cốt

truyện éo le, ly kỳ, phức tạp với những xung đột gay gắt được giải quyết từng

bước để đi đến một kết thúc đúng như mong mỏi của người đọc, nhưng tác

phẩm vẫn hấp dẫn, vẫn sống trong lòng họ vì đối với những tiểu thuyết tâm lý

như Đôi bạn, cốt truyện hay và tác phẩm có giá trị. Đúng như sau này Nhất Linh

đã từng phát biểu.

2.3.2. Con người hành động và suy tưởng ở Đôi bạn

Nếu ở Nho Phong các nhân vật được định giá trong các mối quan hệ luân

thường, thông qua việc thực hiện những bổn phận nghĩa vụ trong các mối quan

hệ đó (con với cha, vợ với chồng…) thì Đôi bạn là tiếng nói khẳng định giá trị

của cái tôi cá nhân vượt ra ngoài những khuôn phép truyền thống. Trong lối mở

đầu tiểu thuyết Đôi bạn, Nhất Linh viết: “ Anh phải sống vượt ra ngoài xã hội

bình thường, vượt ra ngoài hoàn cảnh ra đình của anh” (Nhặt là bàng) [26, 276].

58

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nhân vật Loan, Dũng của tác phẩm sống trong ký ức người đọc không phải với

tư cách là người đại diện cho luâ n lý, là sự cụ thể hoá những đạo đức Nho giáo,

mà là những cô gái, một chàng trai cụ thể, có những tính cách và đời sống riêng

mang tính cá thể.

Những thanh niên ít nhiều chịu ảnh hưởng Tây học, mang tư tưởng t ân

tiến, như: Dũng, Trúc, Thái, Cận, Tạo, hay Loan, Hà, Phương đều có ý thức s âu

sắc về giá trị sống của mình và họ luôn làm chủ sự sống ấy. Họ sống tro ng

những mối quan hệ luân thường của xã hội, phong kiến, họ luôn luôn trăn trở,

thao thức để kiếm tìm một phương thức sống mới, một cuộc đời mới, luôn băn

khoăn tìm cách giải phóng mình khỏi hoàn cảnh đang sống.

Dũng là con quan, sống trong cảnh giầu sang và đứng trước một tương lai

cũng giầu sang trong một cuộc hôn nhân “môn đăng hộ đối”. Chàng lại muốn

được sống tự do, Dũng nói: “Tôi có tự do của tôi, tôi muốn sống thế nào thì mặc

xác tôi”[26, 361]. Bởi thế, Dũng luôn luôn trăn trở trong ý định đoạn tuyệt với

thực tại để ra đi, để hành động. Chàng nghĩ: “Giản dị như không…Muốn hành

động, muốn sống theo chí hướng chân thực của mình thì chỉ có một cách là thoát

khỏi hoàn cảnh này. Làm gì có hai con đường mà còn phải lôi thôi nghĩ

ngợi”[26, 365]. Dũng không nghĩ đến cách dời khỏi gia đình mà vẫn còn liên lạc

với gia đình. Đối với chàng phải cắt đứt các dây liên lạc, phải đoạn tuyệt hẳn gia

đình mới gọi là đi (chàng ra đi không phải vì tình yêu tan vỡ, chàng ra đi là để

thoát thân, thoát đời tù hãm), phải như thế chàng mới có các tư tưởng rõ nét về

sự đổi thay, về sự thoát thân.(…) Chàng muốn được như con bướm thoát khỏi

cái kén tối tăm, “bay lên nhẹ nhàng tron g ánh mặt trời, tự do đi tìm hoa trong

các vườn xa lạ; bay đi và không nghĩ đến cái kén kia, không còn biết cái kén

dính ở cành cây nào nữa”[26, 365]. Chàng luôn coi cảnh đời sau này khi đã bỏ

nhà đi - mới là cuộc sống đích thực của mình.

Ngoài ra, các bạ n của Dũng: Thái, Tạo, X uân…cũng đã ra đi. Th ái là

“người cách mạng” quen với kiểu ngang tang và gần gũi nhất với Dũng về tính

cách. Thái sau khi sang Tầu đã nhiều lần tù tội và đều trốn thoát. Thái hành

59

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

động như là một sự cần thiết, kể cả trong nguy hiểm anh không thoả mãn hoàn

toàn. Những khi nhớ đến bạn, Dũng nghĩ về cuộc đời chìm nổi của Thái, một

con người “không mong gì” ở cuộc sống, không tin ở công việc của mình,

nhưng luôn hành động để cố vượt ra khỏi sự buồn nản bao phủ dày đặc quạnh

mình,”[26, 348].

Người bạn khác của Dũng là Tạo, vì hoàn cảnh xô đẩy đi làm “cách

mạng”, đã bền b ỉ hoạt động trong cảnh cùng khổ, thản nhiên vui vẻ trước cái

chết . Những dòng thư Tạo viết cho Dũng: “Tôi chắc lần này khó thoát được .

Thôi thế cũng xong . Tôi không sợ chết đâu. Tôi không buồn gì cả, hình như lúc

này tôi thấy đất mát lạnh” [26, 345]. Hàng loạt các bạn của Dũng như Vương,

Xuân, Minh, Cận, Trúc, Hà …cũng đều không bằng lòng với xã hội đương thời;

không bằng lòng với cuộc sống tù túng, đơn điệu.

Qua số phận, hành động…của các nhân vật trên đã phản ánh “tâm trạng

của một lớp thanh niên đau đớn, chán chường sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái,

Lâm Thao thất bại” [17, 366] . Đó cũng là điều th ường thấy trong văn chương

lãng mạn. Đó là “thái độ không chấp nhận thực tại quy định nhiều nét tiêu biểu

của nhân vật lãng mạn. Đó là con người đơn độc và u buồn, hoặc mơ màng ẩn

dật, trốn chạy cuộc đời, hoặc không biết dùng sức mạnh vào việc gì trong cái xã

hội mà mình đã đoạn tuyệt nên loay hoay kiếm tìm một cách vô vọng, thành con

người thừa, hoặc nổi loạn chống lại xã hội. Con người trong Đôi bạn luôn có

tâm trạng cô đơn, nỗi đau khổ, băn khoăn hoặc có hoàn cảnh éo le”. Trúc không

có gia đình họ hàng , Thái nhà cách mạng chuyên nghiệp nhưng luôn sống trong

sự cô độc, Tạo cha mẹ đã mất chàng phiêu bạt khắp nơi . Loan người yêu của

Dũng lúc nào cũng có một “nỗi buồn xa xôi trong đôi mắt” và “một cảm giác trơ

trọi trước cuộc đời ”. Cuộc chia tay không lời của hai người dưới chân đồi Gió,

giữa nắng gió heo may, có tiếng thông reo , có hương lúa chín nhưng làm Loan

thấy sợ hãi với những ý nghĩ mơ hồ - Ngày mai Dũng đ i xa không biết bao giờ

trở lại. Cuộc chia li của họ hưu hắt một nỗi buồn trong sáng. Dũng sống trong

một gia đình giàu có, đông đúc nhưng chàng luôn cảm thấy bơ vơ , lạc lõng.

60

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Dũng không sao hoà hợp được với gia đình và xã hội xung quanh , chàng sống

trong sự buồn chán. Chính vì vậy mà có lần Loan đã nói với Dũng: “Lúc nào em

cũng thấy anh buồn”, cả khi họ đi bên nhau trong niềm vui nhưng Dũng cũng

phảng phất những lo lắng vẩn vơ, chẳng khác nào như những bông hoa phù

dung đang độ nở đẹp vào mùa thu mà cái chết đã ngấm ngầm ở bên trong. Nhận

xét về nhân vật Dũng, nhà nghiên cứu Trần Đình Sử viết: “Ở đâu cũng đau khổ,

cái gì cũng làm cho chàng đau khổ, chàng là người không ưa băng bó vết thương

của lòng mình lại xấu hổ về gia đình mình, cái giầu sang đối với chàng chỉ là cái

nhục”[40, 163]. Gia đình Dũng và xã hội xung quanh là một sự khác biệt, một

bên là sự giầu có, sang trọng, hào nhoáng với hàng dãy ô tô đưa khách về dự lễ

mừng thọ vớ i những vẻ mặt béo tốt hồng hào , một bên là nghèo khó, tiều tuỵ

(gia đình nhà Nho lỡ vận như gia đình Loan, gia đình cụ Chánh M ạc đang phải

chật vật kiếm sống). Dũng luôn cảm thấy bức bối, lạc lõng trước lối sống trưởng

giả, tầm thường, vô vị v à giả dối của xã hội thượng lưu. Dũng sống trong hai

không gian, không gian của khát vọng tình yêu và không gian của lý tưởng hành

động. Trong tâm trạng cô đơn, nỗi băn khoăn, đau khổ trước cuộc sống thực tại,

suy nghĩ của Dũng thể hiện một nhận thức khá mới mẻ - hướng tới tự do, dân

chủ, trong lòng dấy lên hoài bão “hành động” ra đi.

Như vậy , Đôi bạn đã thể hiện những khát vọng hành động của một số

thanh niên đang bị nhấn chìm trong nỗi dằn vặt, đau nhói vì cuộc sống không có

lý tưởng, không lối thoát. Đôi bạn là những âm vang đầy trăn trở, suy tư trong

cuộc ra đi của đôi bạn Dũng - Trúc, là khúc hát trong ngần về “cái thủa ban đầu

lưu luyến ấy” của đôi bạn Loan - Dũng, nhưng ngay từ đầu đã tiềm ẩn một cuộc

chia ly. Tất cả, ngân lên trong một “buổi chiều mờ sương thu”, trong không khí

“trời muốn trở rét” [26, 279] đầy biến động của xã hội, của thời cuộc . Khẳng

định tự do cá nhân của những cái tôi đối lập với lễ giáo phong kiến, những cái

tôi “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, băn khoăn đi tìm kiếm hạnh phúc tr ong một

sự đổi thay của xã hội - đó chính là điều mà chúng ta đọc được trong Đôi bạn.

Tư tưởng ấy không phải là định đề có trước để cho câu chuyện minh hoạ, chứng

61

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

minh, đó là ý nghĩa khách quan của tác phẩm mà câu chuyện toát lên.

2.4. Hành trình của nhân vật trong Bướm trắng

2.4.1. Bướm trắng một tiểu thuyết tâm lý

Cốt truyện xét đến cùng chính là tiến trình hành động hay tâm lý của nhân

vật. Sự tiến triển của cốt truyện cho ta thấy sự vận động và phát triển của tính

cách. Sự vận dụng các thủ pháp kết cấu đối với cốt truyện của tác giả chỉ nhằm

nhấn mạnh và làm nổi bật một giai đoạn nào đó trong cuộc đời của nhân vật, từ

đó mà tư tưởn g của tác phẩm hiện lên rõ ràng. Chỉ ở phương diện kết cấu cốt

truyện, Bướm trắng đã có những hướng đi mới, thể hiện sự cách tân của mình.

Việc sử dụng hình thức kết cấu tâm lý đã làm phá vỡ kiểu kết cấu truyền thống.

Các sự kiện, biến cố không là mối quan tâm hàng đầu trong tác phẩm mà nhân

vật trở thành yếu tố hàng đầu, câu chuyện không cần kết thúc có hậu, mạch

truyện không cần phát triển theo trình tự thời gian tự nhiên mà theo sự diễn biến

của tâm lý. Tác giả có thể mở rộng thời gian nghệ thuật để trở về quá khứ hay

hướng tới tương lai do sử dụng những yếu tố tâm lý như kí ức, liên tưởng, tưởng

tượng…Điều này khiến cho tâm trạng nhân vật cũng biến đổi theo những mầu

sắc thẩm mỹ khác nhau.

Vì đối tượng của ngòi bút tác giả ở Bướm trắng là “thế giới bên trong”,

cho nên Nhất Linh đã quan tâm miêu tả đời sống nội tâm nhân vật hơn nhân vật

của nó. Mục đích của tác giả cơ bản được quy về sự phân tích những phản ứng

tâm lý nhân vật , nhằm biểu hiện và tái tạo những cách sống, những biến đổi và

những mâu thuẫn của đam mê tình cảm. Điều đó dẫn đến sự đơn giản cốt truyện.

Các yếu tố, sự kiện bên ngoài càng đơn giản bao nhiêu thì sự chú ý tới đời sống

bên trong của nhân vật càng gia tăng bấy nhiêu. Cốt truyện của Bướm trắng xét

đến cùng chỉ là sự thể hiện câu chuyện sống hay chết, yêu hay không yêu, cao

thượng hay ti tiện, trong sạch hay sa ngã…của Trương mà thôi.

Vậy điều gì làm nên sự tiến triển của cốt truyện cũng như số phận và tính

62

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cách nhân vật ở đ ây? Như đã trình bày , cốt truyện của tiểu thuyết tâm lý không

chứa đựng nhiều tình tiết và biến cố như cốt truyện của các tiểu thuyết hiện thực

khác, kể cả tiểu thuyết luận đề, nhưng ngay từ đầu của tác phẩm, các tình huống

tâm lý đã được cài đặt , là nguyên cớ cho nhân vật tự bộc lộ thế giới bên trong

của mình.

Tình huống là những yếu tố tác động đến nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ

tính cách. “Nó không phải là những sự kiện, biến cố đơn lẻ được trình bày trong

tác phẩm mà là chuỗi sự kiện, biến cố được trình bày theo ý đồ nghệ thuật của

tác giả nhằm nêu bật chủ đề tác phẩm”.

Nếu chúng ta xem xét chuỗi biến cố , sự kiện theo mối liêm hệ thời gian

nhân quả xoay quanh số phận nhân vật thì ở Bướm trắng có các biến cố, sự kiện

quan trọng là : Gặp Thu rồi yê u Thu ngay từ cái nhìn đầu tiên ; được bác sỹ

khẳng định sẽ chết vì bệnh ho lao ( hai biến cố này có thể được coi là thành phần

thắt nút của cốt truyện ); Trương đi theo tiếng gọi của bản năng xui khiến lao

vào con đường ăn chơi sa ngã (thành phần phát triển của cốt truyện) ; thụt két

phải vào tù bốn tháng (cao trào); từ bỏ ý định giết Thu rồi tự sát để về quê sống

với Nhan (mở nút). Rõ ràng việc xem xét cốt truyện theo hướng tr ên chưa cho

chúng ta thấy những sáng tạo của nhà văn trong việc khám phá con người bằng

phương tiện văn học so với văn học truyền thống. Điều mà Nhất Linh quan tâm

là những biến động , những mâu thuẫn trong đời sống tinh thần của nhân vật

được tạo nên bởi tình huống tâm lý qua những tâm trạng bi kịch, sự nhận thức

lại, sự tự ý thức của chính nhân vật.

Phải nói rằng nhân vật Trương trong Bướm trắng luôn luôn đắ m chìm

trong cảm giác và suy tư. Chưa khi nào nhân vật xuất hiện lại tác h rời cái thế

giới bên trong ấy. Xuất hiện lần đầu tiên trên trang sách không phải là một

gương mặt, một dáng vẻ, một hành động…mà là một tâm trạng ẩn chứa biết bao

mâu thuẫn . Nhà văn Nhất Linh cho người đọc thấy biết bao cái vô cớ, vụt đến

trong tâm hồn Trương : “Vô cớ” thấ y lòng vui đột ngột khác thường; nhìn thấy

cảnh tượng nghèo khổ trong một ngày mùa đông lại thấy thú vị ; nhìn cơn gió

63

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thổi bay chiếc lá khô và một ít bụi trắng “bất chợt” cảm thấy nỗi buồn hiu quạnh

của cuộc đời cô độc; “thốt” nhớ đến Liên, người yêu của mình đã chết vì bệnh

lao ba năm trước; nghĩ đến tâm trạng mình khi bị mắc bệnh lao; hi vọng khỏi, lại

náo nức muốn sống, yêu đời và vui vẻ; một ý nghĩ khác lại “vụt đến”: “Thế ngộ

nhỡ mình không khỏi bệnh?” [27, 403]

Chỉ bằng một đoạn văn ngắn mà thế giới tâm hồn con người đã bộc lộ một

cách đầy đủ với biết bao những sắc thái mà chúng ta khó tìm thấy lời giải đáp từ

thế giới bên ngoài. Đoạn văn trên như muốn dự báo về một sự bùng nổ dữ dội

của tâm hồn nhân vật trước biến cố của số phận con người.

Tâm trạng bi kịch của Trương được xây dựng trên một tình huống éo le bi

kịch . Nhân vật được nhà văn đặt vào tận cùng của nỗi đau: Phải chết giữa lúc

đang cần sống nhất. Tình huống này tất yếu đưa đến sự chọn lựa bắt buộc của

nhân vật. Nhưng sự chọn lựa nào cũng có mất mát. Hoặc tự tử để chấm dứt cảm

giác phải sống trong tiếc nuối; hoặc sống gấp để tận hưởng tình yêu và lạc thú

trên đời. Trương không đủ bản lĩnh để có thể tự tử (bởi theo Trương tự tử không

phải là hèn nhát mà hèn nhát mới không dám tự tử) nên Trương chọn cách thứ

hai. Nhưng trong sự chọn lựa này cũng đầy bi kịch. Trưong vốn là một người có

nhân cách cao thượng và trong sạch . Yêu Thu và tận hưởng những lạ c thú của

cuộc sống trước khi chết đồng nghĩa với sự lừa dối và sa ngã. Cái mà nhà văn

Nhất Linh cống hiến cho người đọc ở đây là những trạng thái tâm lý của nhân

vật trước những quyết định chọn lựa được tạo nên từ chính những tình huống

tâm lý ấy. Những tình huống được Nhất Linh xây dựng là sự kết hợp mật thiết

của những sự kiện bên ngoài với trạng thái tâm lý bên trong của nhân vật để tạo

nên những đột phá của số phận nhân vật. Dường như nhà văn không chỉ là người

dẫn dắt đường đi cho số phận nhân vật nữa mà đã cùng nhân vật tham gia vào

“trò chơi số phận” . Chính vì thế đã có nhà nghiên cứu cho tiểu thuyết Bướm

trắng là một dạng tiểu thuyết phiêu lưu.

Trạng thái bi kịch của nhân vật Trương trong Bướm trắng không chỉ là

những trạng thái tâm lý phải chọn lựa đường đi cho số phận của mình mà còn là

64

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những trạng thái ăn năn và sự tự nhận thức lại hành vi của mình. Đó chính là sự

chọn lựa không hoàn kết, không dứt khoát. Theo chúng tôi, đặc điểm này giống

với một số tác phẩm thuộc đề tài người trí thức tiểu tư sản của Nam Cao trước

Cách mạng. Cuộc đời nhân vật là một chuỗi những chọn lựa dở dang, luôn luôn

chung chiêng giữa những thái cực mâu thuẫn nhau mà không tìm ra được hồi

kết. Bởi vậy, nhân vật không có điểm dừng cuối cùng của số phận. Cái kết thúc

chỉ là một trạng thái hoặc một quá trình tâm lí chứ không phải là sự kết thúc của

tính cách. Điều này tạo nên kết thúc mở cho tác phẩm. Nghĩa là khi tác phẩm kết

thúc thì những mâ u thuẫn của nhân vật vẫn còn đó, nhân vật như t rở lại những

trạng thái ban đầu, nó đem lại cho người đọc cảm giác nhân vật vẫn đang sống,

vẫn đang tồn tại trong thế giới riêng của nó khi đã gấp trang sách lại.

Với Trương, chưa bao giờ nhân vật c ảm nhận được niềm vui cuộc sống.

Sa ngã cùng bạn bè, trong khi Quang, Vĩnh, Trực vui đến quên đời trong những

thú thần tiên chết chóc thì Trương vẫn loay hoay với những cảm giác ăn năn :

“Trương chợt nhận thấy mình là một người hấp hối cần suy nghĩ bao quát cả đời

sống của mình trước khi nhắm mắt” [27, 454]; “chàng mở to hai mắt , khắp

người rờn rợn sợ hãi vì lần đầu nhận rõ thấy căn bản của tâm hồn mình, một căn

bản vô luân khốn nạn, bấy lâu còn ẩn núp che đậy, giờ mới lộ rõ ra” [27 ,455].

Chỉ có những con người có nhân cách mới nhìn nhận lại những hành vi tội lỗi

của mình như Trương. Trương không thể vui đến quên sự sống như những

người bạn chơi bời của mình chính bởi nhân cách ấy. Vì thế mà nhân vật không

thể đón nhận cái chết nhẹ nhàng như Quang được.

Với tình yêu cũng thế, càng yêu Thu và có được Thu, Trương càng thấy

đau khổ vì những hành vi lừa dối của mình. Giả sử nhân vật dứt khoát lựa chọn

yêu Thu trong sự lừa dối , coi đó là cái mình đáng được hưởng hoặc rời bỏ Thu

trong sự cao thượng thì Trương sẽ bớt đi đau khổ rất nhiều. Nhưng đằng này ,

Trương vẫn quyết định yêu mà mặc cảm tội lỗi; quyết định xa Thu mà vẫn nhớ

nhung tha thiết và khao khát được gặp gỡ. Sự nước đôi ấy đã đưa đến sự sụp đổ

65

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hoàn toàn của nhân vật ở hành động cuối cùng: Thụt két, vào tù.

Quyết định cuối cùng này của nhân vật xét đến cùng là để giải quyết tất cả

những mâu thuẫn của số phận. Một là chấm dứt quãng thời gian chơi bời truỵ

lạc, hưởng hết niềm vui của kẻ có tiền rồi chết. Hai là để thử thách tình yêu của

Thu : hoặc là có được tình yêu của Thu mà không phải day dứt, ăn năn; hoặc là

dứt bỏ được tình yêu của Thu mãi mãi. Có nghĩa là Trương muốn chấm dứt tất

cả những tâm trạng bi kịch bấy lâu vò xé tâm hồn mình, đưa nó về một trạn g

thái đơn nhất là sự bình thản. Nhưng mỉa mai thay cho số phận ! Trương không

chết trong tù như dự kiến. Trương khỏi bệnh hoàn toàn. Ra tù, Trương mất tất

cả. Tiền bạc, sự nghiệp, tình yêu bị tiêu tan. Trương lại rơi vào trạng thái bi

kịch. Nhân vật phải đối diện với cái đáng sợ nhất của cuộc đời mình. Đó là sự vô

nghĩa, sự “hư vô” của cuộc đời. Nhân vật lại bước vào cuộc phiêu lưu mới và

cuộc đấu tranh mới trong thế giới tâm hồn. Giây phút cuối cùng bên Nhan nơi

quê nhà, trên mảnh đất nhà mình là cách giải quyết của nhân vật như lúc ban

đầu. Nhưng nó chưa cho thấy sự an bài nào cả , bởi giây phút ấy Trương vẫn

nghĩ đến Thu: “Lòng tự ái của chàng, vẫn cho là Thu còn yêu chàng, và tình yêu

của một người như Thu, chàng thấy quí giá hơn là tình yêu dễ dãi và bình

thường của Nhan” [27, 516]. Số phận nhân vật thế nào: Sống với Nhan nơi quê

nhà hay sẽ lên Hà Nội tiếp tục theo đuổi tình yêu đầy ngang trái với Thu; chấp

nhận đời sống bình yên tẻ nhạt hay lại chạy theo lối sống phiêu lưu mạo hiểm,

điều ấy tuỳ thuộc vào sự cảm nhận của mỗi độc giả và chính tự thân của nhân

vật.

Như vậy, với cốt truyện tâm lý của mình, Nhất Linh đã phá vỡ lối kết cấu

truyền thống. Sự xuất hiện một cách phong phú của các yếu tố tâm lý như tiềm

thức, vô thức, hồi tưởng, liên tưởng, tưởng tượng đã làm cho bình diện thời gian

trần thuật không còn theo trình tự trước sau , kết thúc của nó bỏ ngỏ, nhà văn đã

tôn trọng hiện thực đời sống , không gò ép cốt truyện và nhân vật theo chuẩn

mực đạo đức xã hội như ở những tác phẩm luận đề của mình và tiểu thuyết giai

đoạn trước. Nhưng điều quan trọng hơn cả là trong cốt truyện của mình, nhà văn

66

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đã rút gọn tới mức tối đa những sự kiện và biến cố bên ngoài tác động tới nhân

vật thay vào đó là những trạng thái tâm lý. Những trạng thái tâm lí của nhân vật

có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển tính cách. Nếu như ở những

tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực, vai trò của hoàn cảnh có tác động quyết định

đến số phận nhân vật, các nhà văn thường ít quan tâm tới yếu tố chủ quan bên

trong thì ở đây , nhân tố chủ quan được nhà văn hết sức chú ý. Điều này khiến

cho tư tưởng trong tác phẩm của Nhất Linh phần nào nhuốm màu sắc duy tâm.

Nhưng đóng góp không thể phủ nhận của nhà văn Nhất Linh ở đây là nhà văn đã

tái hiện một cách hoàn chỉnh, toàn vẹn con người với tư cách là một thực thể, có

thể là sản phẩm của hoàn cảnh nhưng cũng có thể tham gia vào tạo ra hoàn cảnh.

Sự xuất hiện của những yếu tố vô thức, tiềm thức, linh cảm và những cơn mê

sảng…của quá trình tâm lý nhân vật đã chứng minh một thế giới mới trong sáng

tác của Nhất Linh trên tiến trình hiện đại hoá nền văn học dân tộc.

2.4.2. Cốt truyện của tiểu thuyết Bướm trắng

Góp phần vào sự đa dạng và hiện đại hoá nghệ thuật tiểu thuyết, cốt

truyện tâm lý của Nhất Linh thuộc cốt truyện đồng tâm. Hệ thống sự kiện được

tác giả kể lại đơn giản, gọn gàng, tập trung thể hiện quá trình phát triển của tính

cách trong một giai đoạn cuộc đời nhân vật. Tính đồng tâm của cốt truyện cho

phép nhà văn chăm chú nghiên cứu những mâu thuẫn, xung đột tâm lý trong tâm

hồn nhân vật của mình. Vai trò của cốt truyện không nhằm tái hiện những xung

đột của đời sống mà chỉ nhằm phơi bày đến tận ngóc ngách chiều sâu tâm lý con

người.

Tiểu thuyết Bướm trắng chỉ xoay quanh thế giới tâm trạng của Trương -

một sinh viên trường Luật, xin tạm nghỉ học vì tưởng mình bị ho lao , Trương

tình cờ gặp Thu và yêu một cách “mê man” từ cái nhìn đầu tiên. Đúng lúc ấy ,

bác sỹ đã xác nhận Trương sắp chết vì ho lao và suy tim. Tuyệt vọng, Trương

lao vào cuộc sống ăn chơi sa ngã: nhà chứa, gái nhảy, thuốc phiện, cá ngựa, thụt

két…và cuối cùng là nhà tù. Sau bốn tháng Trương ra tù có ý định giết Thu rồi

67

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tự tử nhưng sau đó lại trở về quê nhà sống với Nhan.

Sự đơn giản của cốt truyện cho ta thấy cái mới mẻ trong ngòi bút của

Nhất Linh. So với những tiểu thuyết luận đề, nghệ thuật tiểu thuyết đã có những

bước đổi mới cơ bản. Sự rút gọn các biến cố sự kiện trong cốt truyện đã giúp

nhà văn phiêu du vào chiều sâu thế giới bên tr ong của con người, phát hiện ra

những bến bờ xa lạ của bản năng, linh cảm, của tiềm thức và vô thức…

“Bướm trắng, với cốt truyện đơn giản, là: “thế giới bên trong” con người

vô cùng biến động đó là ý thức và tiềm thức, cái vô lý và cái phi lý, giấc mơ, mê

sảng, linh cảm…Đó là thế giới bên trong của Trương, một thanh niên trí thức ho

lao, đi tìm tình yêu (cá i đẹp) vô vọng trong tuyệt vọng. Tình yêu, cái chết, màu

trắng, máu, tự tử, vào tù, sám hối , truỵ lạc, tình thương, đám ma, đời sống thôn

dã…, đó là những “phiêu lưu” trong tâm hồn Trương được Nhất Linh miêu tả,

phân tích một cách tinh vi” [17, 381-382].

2.4.3. Hành trình tâm lý nhân vật chính trong tiểu thuyết Bướm trắng

Diễn biến của câu chuyện là cuộc hành trình của thế giới bên trong tâm

hồn nhân vật Trương, một thế giới tâm hồn của người bệnh khát khao cuộc

sống, bị cái chết ám ảnh và đau khổ vì tình yêu . Chàng bước vào cuộc vận lộn

âm thầm, dai dẳng, quyết liệt. Nhất Linh để cho nhân vật Trương tự hình thành,

tự khám phá mình qua các trang sách. Nhân vật luôn luôn suy xét , có ý thức

kiểm soát làm chủ hành vi của mình , nhưng hành động lại rất tự phát . Cái bản

năng, lắm khi dẫn dắt chàng vào những con đường quanh co làm chính chàng

cũng ngạc nhiên. Ngay từ đầu tác phẩm, câu chuyện đã mở ra thế giới bên trong

nhân vật sâu thẳm từng phần, từng lớp của nhân vật trước thử thách của bệnh tật

ác nghiệt, dẫn đến cái chết chắc chắn rất gần, cùng với tình yêu mạnh mẽ, bất

ngờ. Từ đó, nhân vật bước vào cuộc hành trìn h đầy những vấp váp, mâu thuẫn,

đối lập với nhau một cách phi lý. Tác giả trần thuật c uộc hành trình ấy ở ngôi

thứ ba. Trong 133 trang của tiểu thuyết Bướm trắng số lần nói đến cái chết là

135 lần, nói đến cuộc sống 105 lần. Mở đầu là suy nghĩ của Trương nhớ về

68

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

người yêu của chàng “đã chết vì bệnh lao ba năm trước”[27, 391] Rồi dòng suy

nghĩ của chàng quay về với hiện tại, bệnh lao mới mắc phải, chàng không buồn

lắm “lúc nào chàng cũng hi vọng sẽ khỏi bệnh , chàng lại náo nức muốn sống

yêu đời và vui vẻ ” [27, 391]. Ta thấy chàng là con người ch ừng mực, suy nghĩ

rất đúng đắn, tích cực. Nhưng chàng đã yêu, chàng nhân thấy tì nh yêu sẽ được

đáp lại, chàng đi khám bệnh để biết rõ số phận mình, cái chết không còn là một

ám ảnh xa xôi nữa, nó hiện hình với thời gian định sẵn, sau lời phán quyết của

bác sỹ. Bắt đầu số phận đau khổ, tuyệt vọng. Trương luôn luôn nghĩ đến cái chết

“cái chết thì đã chắc chắn”, “gần đến ngày chết”, “chết mà không biết”, “thế nào

cũng phải chết”, “chết tức khắc”, “đợi cái chết đến”. Khi thấy mình ho ra máu

thì: “Mọi khi chàng chỉ cảm thấy mình sắp chết chứ chưa bao giờ như lần này

chàng nhìn thấy cái chết hiện rõ ràng ra trước mắt” [27, 427]. Khi đốc tờ c ho

biết chỉ còn sống được một năm, chàng lo sợ hoang mang “tái hẳn mặt lại”. Biết

là không hi vọng sống nữa, chán, như người mê đi , chàng đi như không biết

phương hướng, như người mộng du “mắt chàng nhoà hẳn đi không biết v ì nước

mắt hay nước mưa” [27, 404]. Suy nghĩ về cái chết và cuộc sống của Trương

biến đổi đầy mâu thuẫn và hành động của chàng đầy rẫy sự vô lý. Từ con người

chừng mực chàng trở thành kẻ liều lĩnh: “Sống cực điểm”, “sống theo ý mình”,

“sống cho chán chường” nhất là từ lúc ho ra máu, chàng càng lao vào ăn chơi,

cho chóng chết đến nỗi: “Tâm hồn chàng còn chán sống hơn cả thân thể chàng”.

Cuối cùng, chàng lại thấy “không thể sống gấp được”, nhưng chàng vẫn liều lĩnh

sống gấp, thụt két , vào tù, chàng nói với Mùi : “chưa chắc anh đã sống đến lúc

ra tù”, không sợ ngồi tù v ì “từ nay chàng không phải sống, không bận tâm đến

sống nữa”. Ra tù, khỏi bệnh, không bị cái chết đe doạ và có lẽ sống lâu như mọi

người khác, Trương lại nghĩ đến việc tự tử: “Trương dịu lòng lại , tha thiết cần

một thứ gì để an ủi mình, một thứ gì rất êm dịu …cái chết. Trương lim dim mắt

nhìn quãng đê vắng tanh như một con đường đưa người ta đến một nơi xa xôi

yên tĩnh lắm. Ngay lúc đó, Trương thấy không cần phải có can đảm mới tự tử

được” [27, 511]. Dường như sắp giết người và tự tử, chàng lại trở về với cuộc

69

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sống một cách giản dị tự nhiên. Khi chợt nhớ ra ngày giỗ mẹ, chàng có cớ trở về

quê thăm Nhan: “Đời sống đối với chàng hiện ra mới mẻ, nhiều hứa hẹn và như

thế ngay trong lúc gia sản chàng đã hết sạch và chàng đã chán chường mọi thứ”

[27, 514]. Trong 21 chương, không chương nào không nói đến cái chết . Không

chỉ nói và nghĩ đến cái chết của mình , Trương còn chứng kiến những cái chết

thực. Mở đầu tác phẩm là đám ma ông cậu của Hợp (bạn chàng), chết vì bệnh,

khổ sở hơn mười năm “cái chết là sự thoát nợ” . Kết thúc tác phẩm là một đám

ma (Quang, bạn học của Trương) chết vì ho lao. Trong câu hát của Thu cũng

hiện lên “người lái đò sớm chết”. Cuộc đi chơi lãng mạn của Trương và Thu ở

chùa Thầy, Kim bạn gái của Thu hôm đó nhắc đến cái chết của người bạn gái

khác: “Giờ thì chị ấy chết rồi, tội nghiệp chị ấy chết vì bệnh lao”. Càng bị cá i

chết ám ảnh bao nhiêu, Trương càng khát khao cuộc sống , ham sống bấy nhiêu.

Chỉ nghĩ đến không thể khỏi bệnh trái tim chàng đã thắt lại đau nhói.

Trương không chỉ bị dày vò đau đớn về cái chết, về cuộc sống, chàng còn

đau đớn, khốn khổ vì tình yêu, về những cảm xúc ham muốn một tình yêu “mê

man”. Trong ý nghĩ của Tr ương hình ảnh Thu - với tấm áo nhiễu trắng là hoa

ngọc lan trắng, là bướm trắng, là cái đẹp - chập chờn, mà chàng theo đuổi một

cách tuyệt vọng. Trương ngắm bàn tay người yêu qua khe vách và đau khổ biết

bao cho số phận mình : “Chàng không hiểu tại sao chàng mang máng thấy đời

người đẹp vô cùng trong sự sống có bao nhiêu cái đẹp mà chỉ riêng chàng bị hắt

hủi. Đối với đời, chàng như người chỉ được ngắm có cái bàn tay” [27, 414].

Đêm đó Trương đã khóc và bùi ngùi gọi thầm: “Em Thu, em Thu” . Chàng nhất

quyết viết thư tỏ tình cho dù không được yêu lại và làm bất cứ việc gì khác

thường để quên sự sống.Trong cuộc hành trình đến tình yê u của Trương cũng

đầy mâu thuẫn, vừa êm ả lại vừa dữ dội, vừa hy vọng lại vừa tuyệt vọng: Định

không viết thư rồi lại viết, đưa thư xong lại ân hận, “tình yêu không giúp được gì

cho chàng cả, chỉ xui chàng làm hại đời Thu một cách độc ác” [27, 419]. Cứ thế

chàng day dứt về tình yêu, về “yêu”, “không yêu”, “thôi yêu”, “thoát được tình

yêu của Thu”, ngóng chờ một nụ cười, một ánh mắt , một bóng d áng, một câu

70

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nói của người yêu.

Còn Thu yêu chàng bắt đầu từ việc nhận ra vẻ “đẹp não nùng” của hai con

mắt Trương. Thu đã lựa chọn tình yêu của Trương mà từ chối mọi lờ i cầu hôn

của những nơi giàu có, quyền quý. Thu cũng cố gắng để “mong cứu vớt Trương

ra khỏi vòng truỵ lạc” . Thu đến gặp Trương bày tỏ tấm tình, lo lắng cho

Trương…Thu nhận ra rõ ràng: “Nếu nàng không yêu Trương nữa hay tình yêu

của nàng kém bớt đi thì thế nào cũng có tai nạn lớn xáy ra” [27, 472]. Khi gặp

Trương xin chàng đừng l iều thân, lòng nàng “tràn ngập một tình thư ơng, một

người đã khổ sở vì quá yêu mình” [27, 474]. Nhân vật Thu được xây dựng rất

đẹp, một vẻ đẹp rực rỡ, trí tuệ minh mẫn, tâm hồn nàng trong sáng giàu lòng vị

tha đối với Trương. Cuộc hành trình đến với tình yêu của Trương đầy rẫy mâu

thuẫn cứ hy vọng rồi lại tuyệt vọng, thẳng thắn và quanh co, cao thượng và thấp

hèn. Chàng trăn trở về tình yêu còn nhiều hơn cả cái chết và cuộc sống. Khảo sát

Bướm trắng chúng tôi thống kê được 172 lần Trương suy nghĩ về tình yêu.

Trương mang sẵn nỗi cô đơn, nỗi buồn của con người cá nhân, thấy mình

trơ trọi, buồn khổ “Trương thấy một nỗi buồn lạnh lẽo thấm vào tâm hồn lạnh

lẽo”. Ngay đầu tác phẩm: “Trương cảm thấy nỗi hưu quạnh của cuộc đời cô

độc” [27, 391]; “chàng cảm thấy mình trơ tr ọi trước cuộc đời không bạn hữu,

không cha mẹ , anh em” [27, 427]. Nỗi buồn cô đơn của Trương cũng như nỗi

buồn của các nhân vật lãng mạn khác của Nhất Linh, họ cảm thấy sự bất tiện

trước hoàn cảnh xã hội, hay vì tình yêu không thành, bị mất phương hướng do

cuộc sống không có lý tưởng. Nhưng Loan, Nhung còn hy vọng ở tình yêu ,

Dũng còn có mơ ước “thoát ly” làm “cách mạng” còn Trương phải đối mặt với

cái chết, lại bị khát vọng tình yêu dày vò vì thế sự cô đơn , đau khổ của Tr ương

khốc liệt hơn. Bản chất người, lý trí, lương tâm, ý thức khiến Trương luôn tự tra

tấn, đấu tranh với bản năng ham muốn. Chàng không lấy Phiên vì nhà Phiên

giàu có, Trương hơi ngượng khi viết thư cho Thu vì chàng đã bịa quá ra, lấy làm

xấu hổ khi lợi dụng Nhan , thấy mình “khốn nạn” vì không dám nói thật t ình

trạng bệnh tật cho Thu biết, luôn “cảm thấy mình có tội với đời không thể đàng

71

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hoàng nhìn mặt mọi người” [27, 457]. Khi ra tù, Trương tự thấy mình bệ rạc và

rơi xuống đáy vũng bùn. Trong cuộc hà nh trình của thế giới bên trong, Trương

phân thân thành hai, thành ba con người để đối thoại xét đoán mình, con người

của lý trí đạo đức, phản bác lên án hành vi của con người bản năng, con người

của tình cảm, tâm linh cũng lên tiếng với ước vọng thầm kín. Cứ như thế những

trạng thái ân hận, hổ thẹn, sợ hãi, bối rối, quả quyết, ngượng ngập, lo âu, dẫn dắt

Trương vào cuộc hành trình biến động và mâu thuẫn không theo một logic nào.

Từ xét đoán mọi điều “vô lý”, nhân vật Trương tự nhận ra mình, tự bộc

lộ, tự khám phá mình. Chính nhà văn và độc giả cũn g đi vào hành trình khám

phá đó. Nhà văn khẳng định cho Trương một tính cách rồi thể hiện tính cách ấy

bằng hành động, ngôn từ, tả cảnh, đối thoại, suy nghĩ…xung quanh cái tính cách

ấy. Nhân vật Trương đã xoá nhoà ranh giới chính diện, phản diện, tính cách của

chàng luôn luôn biến động, khi là con người mực thước, lúc lại bạo liệt liều lĩnh,

ích kỷ và nhân hậu, phóng đãng và tự trọng.

Tiểu kết chương II

Nếu coi tác phẩm văn học là một chỉnh thể mang nhiều cấp độ thì nghệ

thuật xây dựng và thể hiện nhân vật trong tác phẩm cũng có nhiều cấp độ thể

hiện.Trong đó, xây dựng nhân vật ở cấp độ kết cấu của tác phẩm là một cấp độ

lớn của nghệ thuật xây dựng nhân vật, nó cho chúng ta thấy được một cách bao

quát về số phận cuộc đời nhân vật cũng như những tư tưởng, tình cảm của nhà

văn muốn gửi gắm qua nó. Ở tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng chúng tôi nhận

thấy sự thể hiện nhân vật ở góc độ này có một số đặc điểm sau:

1. Khám phá nhân vật, chúng ta không chỉ chú ý tới phương diện nội dung

và tính khách thể của nó mà còn phải gắn với cái nhìn nghệ thuật, cách tư duy

cảm nhận chủ quan nhà văn về con người. Quan niệm nghệ thuật về con người

của Nhất Linh đã tác động, chi phối mạnh mẽ tới thế giới nhân vật trong tiểu

72

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thuyết Đôi bạn và Bướm trắng.

2. Cốt truyện là hình thức tổ chức cơ sở của truyện. Nó chính là con

đường đi của số phận nhân vật. Việc tổ chức sự kiện và trình tự thông báo trước

sau các sự kiện có tác dụng làm nổi bật tính cách nhân vật cũng như tư tưởng

của tác phẩm cốt truyện tâm lý của Đôi bạn và Bướm trắng được xây dựng

không phải chỉ dựa trên những biến cố sự kiện tác động từ bên ngoài, mà quan

trọng được tạo nên bởi những tình huống tâm lý bên trong. Điều này làm cho

nghệ thuật thể hiện nhân vật của Đôi bạn và Bướm trắng có những yếu tố mới

mẻ, mang mầu sắc hiện đại so với tiểu thuyết truyền thống.

3. Ở tiểu thuyết Đôi Bạn, tác giả thể hiện cuộc vận động trữ tình trong tâm

hồn của con người, hướng tới những khát vọng lãng mạng về tình yêu, về lý

tưởng. Nhất Linh đã gửi gắm tâm sự của những thanh niên, trí thức (và cũng có

thể của bản thân mình) trước một xã hội đang thay đổi. Con người cứ đi tìm

kiếm, tìm kiếm không ngừng lý tưởng cho lẽ sống và hành động. Tiểu thuyết

Bướm Trắng, Nhất Linh đi sâu vào bi kịch và số phận cá nhân. Ông để tự nhân

vật tự hình thành, khám phá, soi tỏ qua cuộc hành trình của tấn kịch lương tâm

của bản năng, ý thức, vô thức, tiềm thức, tâm linh trước quy luật muôn đời của

bệnh tật và cái chết với cuộc sống và tình yêu.Qua đó nhà văn có thể muốn gửi

gắm tâm tư, niềm tin về số phận con người trước hiểm hoạ khôn lường của

những căn bệnh đồng nghĩa với cái chết. Nhất Linh vẫn tin ở con người sẽ tìm ra

lối thoát để phục sinh, có lẽ đó là đóng góp mang ý nghĩa nhân văn của tiểu

73

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thuyết Bướm trắng còn lại cho đến ngày nay.

CHƯƠNG III

CÁC THỦ PHÁP XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG ĐÔI BẠN VÀ BƯỚM TRẮNG

3.1. Các thủ pháp thể hiện thế giới bên trong của nhân vật trong Đôi bạn và

Bướm trắng

Để khám phá Con người bên trong, tác giả Nhất Linh đã miêu tả tâm lý

nhân vật ở các mức độ biểu hiện khác nhau . Tâm lý nhân vật tự bộc lộ ra bên

ngoài qua những biểu hiện nhỏ nhặt , qua ngôn ngữ, hành động có tính b ột phát

bất chấp sự kiểm soát của lí trí và ý thức, mặt khác tâm lý nhân vật được miêu

tả, thể hiện trực tiếp hoặc cũng có thể được nhân thức qua quá trình phân tích

của chính bản thân nhân vật. Nhưng, trước tất cả các biện pháp ấy phải kể đến

vai trò của tình huống cốt truyện . Như ở phần trước đã chứng minh cốt truyện

của tiểu thuyết tâm lý không chứa đựng nhiều tình tiết và biến cố như cốt truyện

của các tiểu thuyết hiện thực. Nhưng các tình huống tâm lý cần tồi tại để thúc

đẩy tiến trình tâm lý. Ngay từ đầu tác phẩm, các tình huống tâm lý đã được cài

đặt. Nó là điểm tựa để nhà văn lựa chọn biện pháp cho thích hợp.

3.1.1. Đối thoại tâm lý

Ngôn ngữ đối thoại là sự giao tiếp qua lại (thường là giữa hai phía) trong

đó sự chủ động và sự thụ động được chuyển đổi luân phiên giữ a những phía

tham gia giao tiếp; mỗi phát ngôn đều được kích thích bởi phát ngôn có trước và

là sự phản xạ lại phát ngôn ấy. Thuận lợi nhất cho ngôn ngữ đối thoại là các kiểu

tiếp xúc không mang tính quan phương, tính công cộng; là kiểu trò chuyện giản

dị, xuề xoà, nói bằng khẩu ngữ, là không khí bình đẳng về tinh thần - đạo đức

giữa những người phát ngôn. Đặc trưng cho ngôn ngữ đối thoại là sự luân phiên

giữa các phát ngôn ngắn. của những người phát ngôn khác nhau. Nhưng yếu tố

đối thoại cũng đã có mặt ở lời nói của một người, được kích thích bởi nét mặt và

cử chỉ của người cùng trò chuyện. Đó là quan niệm của ngôn ngữ học . Ngôn

74

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngữ đối thoại trong văn học cũng mang một số đặc điểm trên, song cũng có một

số đặc trưng riêng biệt. Khi sử dụng khái niệm “đối thoại tâm lý” chúng tôi đã

có ý thức giới hạ n phạm vi khảo sát và phân tích. Ở đây chúng tôi không quan

tâm tới những mẩu đối thoại thông thường nhằm tiếp nối mạch trần thuật hoặc

chỉ đơn thuần miêu tả tính cách nhân vật mà chủ yếu dừng lại ở các đoạn đối

thoại có tác dụng miêu tả trực tiếp tâm lý (thật ra rất khó phân biệt thật rạch ròi

được điều đó, bởi mục đích của đối thoại bao giờ cũng là để làm rõ nhân vật và

tư tưởng, nhưng nói như vậy có nghĩa là chúng tôi đặc biệt quan tâm tới mức độ

miêu tả tâm lý của các màn đối thoại). Khảo sát những màn đối thoại tâm lý của

tiểu thuyết Đôi bạn, Bướm trắng, chúng tôi thấy có những dạng thức sau: Đối

thoại mang tính chất ám chỉ; đối thoại qua hành vi, cử chỉ và đối thoại mang tính

chất độc thoại. Do giới hạn của luận văn, chúng tôi chỉ đi xem xét đối thoại

mang tính chất ám chỉ và đối thoại qua hành vi, cử chỉ.

3.1.1.1. Đối thoại mang tính chất ám chỉ

Biện pháp nghệ thuật này đã được Nhất Linh sử dụng trong các tiểu thuyết

luận đề, nhưng đối thoại mang tính chất ám chỉ ở tiểu thuyết tâm lý có một biểu

hiện khác. Nếu như ở tiểu thuyết luận đề, các nhân vật của Nhất L inh mượn đối

thoại để khích bác, mỉa mai bóng gió một người thứ ba thì ở đây các nhân vật

dùng đối thoại để tìm hiểu, thăm dò lẫn nhau. Qua các đối thoại ấy, mỗi giao

cảm giữa Loan và Dũng trong Đôi bạn, Trương và Thu trong Bướm trắng được

thiết lập, hai cặp tình nhân đó họ có điều kiện hiểu nhau hơn để rồi xích lại gần

nhau.

Trong đối thoại mang tính chất ám chỉ thường song song tồn tại hai lớp

nghĩa: ngôn từ đối thoại diễn đạt ý tường minh nhưng còn một lớp nghĩa hàm ẩn

chìm dưới từng lời đối thoại. Vì vậy cũng có thể gọi đây là đối thoại ngầm.

Theo sự thống kê của chúng tôi, hình thức đối thoại mang tính chất ám chỉ

sử dụng trong Đôi bạn là : 9 lần [xem 26: 292, 315-316, 327, 332, 336-337, 344,

75

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

346, 369, 371] và ở Bướm trắng có số lần ít hơn Đôi bạn: 8 lần [xem 27: 397,

398, 399-400, 417, 421- 422, 501, 543, 558]. Do giới hạn của luận văn , chúng

tôi dẫn ra một số ví dụ tiêu biểu ở cả hai tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng:

Ở tiểu thuyết Đôi bạn, một đêm mưa Loan sang nhà Dũng chơi trong bầu không

khí ấm áp, thân mật của căn phòng nhỏ với ba người bạn Loan, Dũng và Trúc.

“Dũng khẽ nói với Loan:

- Mưa thế này thì cô về làm sao được?

Dũng lấy làm lạ là khi hỏi câu hỏi rất thường ấy, giọng chàng đổi khác hẳn đi.

Loan áp hai bàn tay vào má, hai ngón út khẽ đập trên thái dương, thẫn thờ nói :

- Thì cứ ngồi đây suốt đêm, mãi mãi.

Một lát sau , nàng mỉm cười tiếp theo:

-Ngồi nghe mưa rơi ” [26, 315].

Câu hỏi của Dũng c ứ ngỡ là thường, thực ra chẳng thường chút nào cả ,

bởi nó được diễn đạt bằng giọng đổi khác, nó ngầm chứa được điều mong mỏi

rằng giá mà Loan ở lại. Bắt được mạch ngầm ấy, Loan tỏ thái độ thẫn thờ, bởi

biết rằng điều đó không thể có, trong khi đó cái mỉm cười của Loan vẫn đảm bảo

liên kết ý nghĩa tường minh của các câu trao đổi. Chính vì vậy ở phần cuối câu

chuyện, Dũng mới có thể hiểu câu nói: “Có lẽ mưa suốt đêm chắc” của Loan là

một lời reo vui và Loan cảm thấy sung sướng khi Dũng khen hai bông hoa nhài

nở về đêm đẹp quá - hai bông hoa ấy là đôi mắt của Loan.

Cuộc trò chuyện giữa bà Hai, Loan và Dũng, Dũng đã bóng gió bày tỏ

tình cảm của mình cho Loan biết qua lập luận : Không lấy vợ - Dũng sẽ lấy vợ

nếu gặp người vừa ý - không lấy vì sợ người ấy khổ. Bà Hai cho rằng:

“Anh nói có giời hiểu”, nhưng Loan khẳng định: “Trời không hiểu nhưng

người may hiểu chăng” [26, 344]. Lời nói ấy phản ánh đúng sự đứt đoạn và sự

nối tiếp trong mạch ngầm của lời đối thoại. Loan có thể hiểu được vì sao Dũng

không lấy vợ và có lấy vợ, nhất là thừa biết cái người vừa ý ấy là mình, nhưng

Loan không thể hiểu được tại sao lại sợ ngư ời ta khổ, bởi vì Loan không hình

76

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dung và đoán định được hết mộng ước phiêu lưu trong con người Dũng, đặc biệt

là quan niệm: “việc yêu Loan và sự cưới xin , chàng phân tách ra làm hai việc

không có liên lạc gì với nhau cả ” [26, 315].

Trong khi gia đình đang náo nức chuẩn bị cho l ễ cưới của Dũng và Khánh

thì Dũng lại nung nấu ý định bỏ nhà ra đi, trong đó có phần suy nghĩ “bỏ đi để

khỏi phụ Loan” [26, 367]. Bởi vì trong quan niệm của Dũng, gia đình Dũng sẽ

không bao giờ cho phép cưới Loan làm vợ, còn nếu hai người tự quyết định lấy,

thì cuộc sống đơn điệu, tẻ ngắt của đời sống trưởng giả sẽ giết chết tình yêu của

họ, chi bằng “xa hẳn Loan ra, vì xa tức là gần Loan, mãi mãi yêu Loan và không

bao giờ hết” [26, 366]. Còn Loan, nàng đoán Dũng chắc chắn phản đối đám cưới

và có lẽ sẽ rủ nàng trốn đi, trong thâm tâm nàng không hề sợ sự trốn tránh “nếu

lúc nào cũng có Dũng ở bên cạnh nàng” [26, 369]. Nhưng đó mói chỉ là những ý

định và đoán định. Họ cần phải tỏ cho nhau biết và họ đã ngầm trao đổi với

nhau:

“Dũng đáp liều:

- Tôi thấy mấy quả na kia ngon mà tiếc sẽ không được ăn. Chàng giật mình

vì biết đã nói lỡ lời. Loan sinh nghi hỏi:

- Tại sao thế?

Dũng đáp:

- Tại thế…

Không nói cho Loan biết hẳn mình sẽ đi nhưng Dũng vẫn muốn Loan nghi

ngờ để thử ý Loan.

Loan nói:

- Anh hay trả lời mập mờ, đến bực mình thôi.

Thật ra Loan sung sướng chẳng có nhiều chứng cớ về việc Dũng bỏ nhà đi.

Loan nhìn Dũng rồi đứng hẳn dậy nói:

- Nào đi….

Hiền nói:

- Đã hết việc đâu mà đi . Cô giúp tôi một tay cho xong một chỗ này đã.

77

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Loan mỉm cười lại ngồi xuống:

- Nào thì ở lại . Đi, ở lại, hai đường phân vân…

Dũng ngồi yên lặng một lúc lâu rồi nói như khuyên Loan:

- Cô nên ở lại…

Loan nhìn Dũng , đôi mắt luôn luôn chớp có vẻ một người đương tự hỏi để

tìm một câu trả lời quyết đ ịnh. Nàng yên lặng khẽ gật đầu, rồi hai người, mỗi

người nhìn một phía, cùng có dáng suy nghĩ ” [26, 370 - 371] .

Trong cuộc đối thoại này , Hiền tuy là người tham gia nhưng hoàn toàn

không hiểu mục đích của nó. Những câu nói thật thà của Hiền được sử dụng làm

phương tiện để kết nối mạch ngầm trao đổi giữa Loan, Dũng. Chính vì vậy, nhân

vật của Nhất Linh thường dùng đối thoại để chơi trò ú tìm với nhau nhằm khám

phá những dự cảm về nhau. Trong những cuộc chơi ấy, họ có thể hoàn toàn vui

vẻ, hạnh phúc khi biết chắc họ không thờ ơ với nhau, luôn nghĩ tới nhau và họ

hiểu nhau, nhưng cũng có thể đau xót nhận thấy kho ảng cách tâm hồn họ còn

quá lớn, để rồi lặng lẽ khép lòng mình lại. Lối đối thoại này, ngoài đóng vai trò

là chìa khóa để giải mã những bí ẩn tâm lí tình cảm giữa các nhân vật, còn cung

cấp cho người đọc cảm nhận sâu sắc về những con người đang được miêu tả( họ

mang trong mình những tâm hồn tinh tế, nhạy cảm , luôn khao khát tìm kiếm

những điệu hồn đồng điệu ).

Ở Bướm trắng, đôi bạn Trương - Thu cũng được Nhất Linh sử dụng biện

pháp đối thoại ám chỉ với mục đích để thể hịên những thăm dò tình cảm lẫn

nhau giữa đôi tình nhân này. Trong lần gặp gỡ đầu tiên, đối thoại ngầm vừa giúp

nhân vật hiểu được tình cảm của nhau, vừa “ không ai có thể nghi ngờ được”.

Chiều ba mươi tết, Trương đến thăm Thu (lần đầu tiên Trương đến một mình).

Dường như sự đồng cảm giữa hai con người mới quen được Trương phát hiện ra

qua lời nói của Thu:

“ Chiều ba mươi tết trời trông buồn lạ”[27, 397]. Câu nói ấy đã lặp lại ngữ

điệu câu nói của Trương trong lần hai người gặp gỡ đầu tiên: “ Sau mấy ngày u

ám, trông nắng mời ngon lạ” [ 27, 394]. Trương thấy hạnh phúc vô cùng vì cảm

78

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thấy rõ là Thu sẽ yêu mình, “cái cảm tưởng ấy không dựa vào một câu nói, một

cử chỉ rõ rệt nào của Thu cả, mà chính lại dựa vào những thứ không rõ rệt của

câu nói ” [27, 397].

Chiều mồng ba tết, Trương lại đến nhà Thu theo lời mời của Thu hôm ba

mươi tết (nhưng không hiểu vì lí do gì mà Trương lúc ấy lại cố tình tỏ ra không

nghe thấy lời mời). Trước tất cả mọi người Trương nói to lí do đến chơi: “ Tết

chỉ có cái thú đánh bạc. Nhưng tôi không biết đánh bạc với ai vì chỉ có mình ăn

tết với mình. Cứ mỗi năm tết đến tôi lại bắt đầu buồn, buồn ngay từ chiều ba

mươi”[27, 398]. Thực ra, câu nói ấy là hướng đến Thu. Trương muốn gợi cho

Thu nhớ tới cuộc gặp gỡ hôm trước. Thu cũng tỏ ra không vừa: ”Mà em nhận ra

rằng ở nhà này năm nào cũng vậy cứ mồng ba mới bắt đầu đánh bạc”[27, 398].

Câu nói ấy của Thu làm Trương giật mình vì lời mời của Thu lần trước rất rõ

ràng mà Trương cố tỏ ra không nghe thấy. Sau câu nói ấy “ Thu lánh mặt sau bà

cụ và mỉm cười, hai con mắt sáng lên có vẻ tinh nghịch. Không lúc nào như lúc

ấy, Trương nhận thấy bao nhiều cái đáng yêu trong vẻ mặt kiêu hãnh của

Thu”[27, 398].

Để tiếp tục dò ý tứ Thu, “dò ý trước mặt cả mọi người mà không để ai

nghi ngờ”. Trương nói: “ Ván này ăn được đồng hào mới…ngon lạ”[ 27, 399].

Trương cảm thấy vô cùng sung sướng, không phải vì thắng bạc mà là vì Thu

hiểu mình. Lời đáp lại của Trương cũng vì ý đó: “ Sống lúc nào cũng như phút

này thì cảnh nào cũng đẹp. Nắ ng cũng đẹp mà mưa cũng đẹp…”,“ Sung sướng

quá”[27, 399]. Thu cũng sung sướng không kém gì Trương: “ Đánh để thua mới

được. Người được thì vui mà người thua cũng th ích không kém gì…”[27, 399].

Câu nói này làm Trương sung sướng vì chàng hiểu được nội dung. Còn người

khác thì thấy khó hiểu vì ý nghĩa của nó chẳng ra làm sao. N ghe câu nói của

Thu, Hợp nói: “ Cái đó thì hơi nghi nghi”[27, 400].

Điều này lại tiếp tục xảy ra trong lần về trại ấp của gia đình Thu. Hợp giới

thiệu căn nhà mọi người sẽ ngủ là căn nhà của ông cậu đã mất, người mà hôm

Trương gặp Thu lần đầu tiên sau khi vừa đưa đám về, cả Thu và Trương đều

79

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhớ đến hôm đó nhưng lại trả lời với Hợp không nhớ để đối thoại ngầm với

nhau. Hai người tranh luận ngầm với nhau, giận dỗi nhau. Cả hai đều hiểu, riêng

Hợp thì ngơ ngác rồi tự trách mình gây ra cuộc tranh luận không đâu vào đâu ấy.

Vì đây là đối thoại ngầm nên có lúc gây ra những hiểu lầm giữa hai nhân

vật dẫn tới sự xa cách. Chẳng hạn khi Trương muốn dò hỏi ý tứ và tình cảm của

Thu ra sao sau khi nhận được lá thư của mình, Trương nói:

“- Lát nữa phải viết thư cho bà chủ nhà mới được”.

Thu trả lời:

“- Anh viết làm gì nữa. Viết một cái…”[27, 421].

Thu bỏ lửng câu vì không tìm được từ nào có ý nghĩa để Trương hiểu mà Hợp

không nghi ngờ. Ý của Thu muố n nói là viết một cá là Thu hiểu tâm trạng của

Trương. Nhưng Trương lại hiểu là ý Thu không cần Trương viết nữa, nghĩa là

không cần tình yêu của Trương. Điều đó làm Trương tức g iận trong lòng mà

buột miệng:

“- Nói đùa đấy, chứ bà ấy cần gì mà phải viết thư. Cái thư trước tôi cũng chẳng

định bụng gửi. Viết rồi chẳng lẽ lại không gửi…”[27, 422].

Chỉ vì sự hiểu nhầm ấy mà đôi trai gái xa nhau sáu tháng trời. Trong những lời

đối thoại tưởng như rất bình thường ấy ẩn giấu biết bao nhiêu nỗi giận dữ cũng

như thất vọng trong tâm hồn Trương.

3.1.1.2. Đối thoại qua hành vi và cử chỉ

Các nhân vật của Nhất Linh qua Đôi bạn và Bướm trắng, ngoài hình thức

giao tiếp bằng ngôn ngữ, họ còn giao tiếp với nhau bằng các hành vi phi ngôn

ngữ. Ánh mắt, nụ cười, cử chỉ…của h ọ đã tham gia vào cuộc đối thoại không

đơn giản chỉ để bổ xung cho ngôn từ bên ngoài mà là những tín hiệu thẩm mĩ

gợi ra một cuộc đối thoại khác. Kiểu đối thoại này có ý nghĩa biểu đạt trạng thái

tâm lý nhân vật rất sâu sắc. Chúng tôi gọi đó là đối thoại k hông lời. Loại đối

thoại này chính là một phương tiện hữu ích để trao đổi tình cảm giữa các nhân

vật Dũng-Loan, Trương-Thu. Nó cũng là một môtíp phổ biến,” yêu trong tâm

80

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hồn, yêu trong ý tưởng” của văn chương Tự lực văn đoàn.

Mối tình Loan-Dũng trong Đôi bạn không hề có một lời yêu thương nào,

chỉ có ánh mắt trao gửi như một lời tỏ tình, nếu có nói thì chỉ là những câu ý tứ -

chỉ hai người ngầm hiểu với nhau. Khi khen “cái núm đồn g tiền ở má rất xinh

”của Loan -“lần đầu tiên chàng nói thẳng khen Loan: chàng cố giữ vẻ tự nhiên

như nói một câu khen đùa chơi. Nhưng nói xong, Dũng lại ngượng với mình vì

câu khen ấy Dũng thấy nó tầm thường quá; Trương muốn cứ để Loan nhìn

chàng mà đoán ra được rằng chàng đương thầm khen Loan hơn là diễn ra bằng

một lời nói không bao giờ ý vị bằng sự yên lặng của hai con mắt” [26, 326].

“Giây phút thần tiên của đôi bạn vẫn yêu nhau từ lâu nhưng lần đầu dám tỏ ra

cho nhau biết ” là giây phút trên đồi thông ở ấp Quỳnh Nê, Dũn g “nhìn nàng

như nhìn một ng ười tình nhân mà không tỏ ý ngư ợng,Loan cũng sinh liều, âu

yếm nhìn lại Dũng ”. “Dũng toan mỉm cười nói với Loan vì trông vẻ mặt của

Loan chàng đoán Loan cũng sắp mỉm cười đáp lại chàng . Nhưng sợ lộ rõ quá,

Dũng với một lá cỏ mím môi nhấm ngọn lá” [26, 375]. Trong lúc Dũng đang

bâng khuâng nhớ về hình bóng yêu thương của mình th ì “Trúc quay mặt sang

phía Dũ ng; chàng không nhìn rõ mặt bạn, nhưng thấy l ông mi dài của Dũng

thong thả hạ xuống. B iết là bạn đương nhắm mắt cố gợi ra một hình ảnh yêu

quý, Trúc yên lặng để khỏi làm Dũng nhãng trí” [26, 386 - 387].

Chỉ bằng ánh mắt thôi, Dũng v à Loan cảm thấy tất cả tình yêu: “ thấy

Dũng bắt gặp mình đang nhìn trộm , Loan vội nhắm mắt lại làm như ngủ song

biết là Dũng đã trông thấy rồi, nàng lại vội mở mắt ra, rồi qua những ngọn lá cỏ

rung động trước gió, hai người yên lặng nhìn nhau (…). Giây phút thần tiên của

đôi bạn yêu nhau từ lâu nhưng lần đầu dám lặng lẽ tỏ cho nhau biết ” [26, 402].

Trong rất nhiều cách tỏ tình của những cặp tình nhân, Nhất Linh đã chọn cho họ

hay nói đúng hơn, họ đã lựa chọn lối tỏ tình bằng mắt với mối tình thanh sạch,

thầm kín, họ chỉ nhìn nhau âu yếm thôi, chỉ là mỉm cười nhưng cũng đã sợ lộ

quá!

Trương - Thu trong Bướm trắng cũng thường dùng ánh mắt để trao đổi

81

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tình cảm cho nhau. Trong một lần lấy cớ đến mượn tài liệu để gặp Mỹ và sau đó

là về nhà Thu chơi, Thu đã dùng ánh mắt của mình để nói riêng cho Trương hiểu

ý muốn của mình khi đang hát: “mắt Thu chàng thấy sang long lanh và mỗi lần

nhìn chàng. Chàng biết là Thu đương nghĩ :

- Em hát để cho một mình anh nghe .(…). Chàng lim dim mắt lại và trong

vùng ánh nhỏ lọt vào mắt chỉ còn in có hình khuôn mặt Thu với hai con mắt yêu

quý đương nhìn chàng” [27, 450].

Đoạn văn đặc sắc nhất, thể hiện được những thành công của Nhất Linh

với thủ pháp trên là đoạn văn miêu tả đôi trai gái hôm đi chơi chùa Thầy: “ Tình

cờ chàng được ngồi vào chỗ rất tốt vì nhìn vào chiếc gương con chàng thấy in rõ

hình khuôn mặt Thu (…). Xe đi khỏi Ô Cầu Giấy, Thu mới nhận biết là từ lúc

đó Thu không nói chuyện nữ a. Hai người yên lặng nhìn nhau. Trương không

thấy ngượng lắm như khi nhìn thẳng vào mắt Thu thỉnh thoảng chàng chớp mắt

luôn mấy cái rồi nhắm mắt lại một lúc lâu như để cố giữ lại cái hình ảnh đẹp của

hai con mắt Thu. Chàng hạ lông mi xuống một chút và tưởng như đó là một lời

nói Thu có thể hiểu:

- Anh yêu em lắm.

Chàng thấy Thu cũng bắt chước hạ lông mi làm hiệu như có ý trả lời:

- Em đã hiểu là anh định nói với em điều gì ” [27, 458].

Chỉ cần như thế hai nhân vật đã quá hiểu tâm hồn nhau. Chính qua hình thức đối

thoại này đã mở ra một bước đột phá trong tình yêu cuả Trương và Thu (khi đi

chơi chùa, Trương và Thu đã chính thức thể hiện tình yêu, đã hôn nhau một cách

say đắm).

Có lẽ vì vậy mà đôi mắt của Trương cũng trở thành một nỗi ám ảnh trong

Thu . Đó là một đôi mắt “ đẹp và có duyên” nhưng “nàng trông hơi là lạ , khác

thường, tuy hiền lành, mơ màng nhưng phảng phất có ẩn một vẻ hung tợn; hai

con mắt ấy Thu thấy là đẹp nhưng đẹp một cách não nùng khiến nàng sao xuyến

như cảm thấy một nỗi đau thương” [27, 394]. Thu thường nhìn vào đôi mắt ấy

để đoán định những hành động sắp tới của Trương. Tương tự như vậy, Trương

82

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cũng căn cứ vào ánh mắt của Thu mà đo tình cảm của nàng dành cho mình. Vì

thế, Trương đã từng một phen bực tức vô cùng khi trên chuyến tàu Hải Phòng -

Hà Nội, họ tình cờ gặp nhau đúng lúc Trương ra tù, trước mặt những người thân,

Thu đã coi như không nhìn th ấy Trương, luôn mang một vẻ mặt “lãnh đạm và

kiêu hãnh”. Nhưng khi xuống ga, Trương lại thấy yên lòng thậm trí vui trở lại

khi bắt gặp ánh mắt nhìn của Thu mà theo cảm giác của Trương là “Thu vẫn yêu

mình”.

Hình thức đối thoại mang tính chất ám chỉ và đối thoại không lời đã làm

rõ cảm giác về người khác trong nhân vật của Đôi bạn và Bướm trắng. Đó là

một thành tựu mà Nhất Linh cũng như Tự lực văn đoàn tiếp thu được từ Tố Tâm

của Hoàng Ngọc Phách và nâng lên một chất lượng mới. Cảm giác về nhau, hay

mối giao cảm giữa những cặp tình nhân này giống như những mắt lưới dệt nên

các cuộc tình trong tiểu thuyết Nhất Linh. Nhung trong các tác phẩm luận đề, sự

giao cảm giữa các căp. Tình nhân Loan - Dũng, Nhung-Nghĩa chỉ đóng vai trò

thứ yếu. Đôi khi chúng còn bị thể h iện khác đi cho phù hợp với bước phát triển

của luận đề, mà chuyện Loan -Dũng ở chương II của Đoạn Tuyêt, là một ví dụ

tiêu biểu, Loan cố ý thăm dò tình cảm của Dũng đối với mình để quyết định có

cưới Thân hay không nhưng lại không phát hiện ra, mặc dù qua cử chỉ của Dũng

đã có rất nhiều tín hiệu mà Loan muốn thấy. Ở tiểu thuyết tâm lý, mối giao cảm

giữa những nhân vật được nâng lên bình diên thứ nhất. Tình yêu của hai nhân

vật nhiều khi không cần được thể hiện ra bằng lời nói mà quan trọng là ở cách

nhân vật cảm nhận về nhau và cùng cảm nhận về thế giới. Chính quá trình khám

phá về nhau ấy là một nét mới Nhất Linh đem đến cho nghệ thuật và nhân vật

trong tiểu thuyết của mình. Nó khiến cho tiểu thuyết Nhất Linh có những yếu tố

gần gũi với đời sống con người cá nhân hơn so với tiểu thuyết thời trung đại.

3.1.2. Độc thoại nội tâm

Trong tiểu thuyết Nhất Linh nội tâm nhân vật không chỉ được khám phá

qua lời nói, cử chỉ, hành vi mà tác giả cò n khai thác thủ pháp độc thoại nội tâm

83

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

giúp người đọc đi sâu hơn nữa vào tâm hồn nhân vật.

Độc thoại nội tâm là “lời phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể

hiện quá trình tâm lý nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc, suy nghĩ của con

người trong dòng chảy trực tiếp của nó ” [13, 108]. Hiện tượng này đã thấy xuất

hiện rất sớm trong văn học thế giới (kịch cổ đại, kich W.Shakespeare). Trong

tiểu thuyết cổ điển người ta hay nhắc đến kiểu độc thoại nội tâm trong tiểu

thuyết của L.Tolstoi. Ở đây sự diễn tả tâm lý của nhân vật không có sự can thiệp

của tác giả, đồng thời phản ánh được cả trạng thái vô thức và ý thức. Đặc biệt là

độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết dòng ý thức. “Khi mà các mối liên hệ khách

quan với môi trường thực tại khó bề khôi phục lai” [13, 93].

Nói cách khác, độc thoại nội tâm là một sự phân tâm của nhân vật. Nhân

vật vừa là người nói vừa là người nghe tiếng nói bên trong ấy. Những đoạn độc

thoại nội tâm là những khoảnh khắc nhân vật bộc lộ chân thực cảm xúc , suy

nghĩ của mình về bản thân, về thế giới xung quanh, d o đó góp phần thể hiệ n

phần sâu kín nhất của tâm hồn của tính cách con người. Và vì vậy, độc thoại nội

tâm có vai trò quan trọng, trong việc miêu tả nội tâm nhân vật.

Chúng tôi đã làm một thống kê nhỏ về tỉ lệ dòng văn bản độc thoại và độc

thoại nội tâm ở hai tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng: Kết quả cho thấy tỉ lệ

này có sự chênh lệch khá lớn. Ở Đôi bạn: 2,26% (111/4904 dòng văn bản) trong

khi đó Bướm trắng có tỉ lệ lớn hơn hẳn: 7,46%(385/5161 dòng văn bản). Như

vậy, ở tiểu thuyết Bướm trắng hình thức độc thoại nội tâm hoàn hảo hơn cả.

Nhất Linh không chỉ chú ý tới lĩnh vực ý thức mà còn khai thác hợp lý những

vấn đề tiềm thức trong tâm hồn nhân vật.

Xét trên cấp độ tác phẩm , độc thoại nội tâm bao giờ cũng tỉ lệ nghịch với hành

động của nhân vật. Điều này được thể hiện rõ trong hai nhân vật chính là Dũng

(Đôi bạn) và Trương (Bướm trắng). Ở hai nhân vật này tác giả không chú trọng

miêu tả hành động mà chủ yếu diễn tả trạng thái băn khoăn dự định đang hình

thành của nhân vật. Mục đích mà Nhất Linh huớng tới khi xây dựng nhân vật

không phải là hành động mà cuối cùng là trạng thái tâm lý (Đôi bạn ) đối với

84

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Dũng ( Đôi bạn ) vượt biên sang Tầu với những lần ngoái lại quê hương, hồi

tưởng kỷ niệm…; còn giây phút bên Nhan mà nghĩ đến Thu c ủa Trương (Bướm

trắng) chẳng bao giờ cho thấy sự an bài nào cả.

Với cách hiểu độc thoại nội tâm là dạng ngôn ngữ trực tiếp tự do. Chúng

tôi nhận thấy trong 117 trang của Đôi bạn đã xuất hiện tới 15 lần “Dũng ngẫm

nghĩ”, nhân vật Dũng luôn hiện ra với những trạng thái “nghĩ thầm”, “tự hỏi”,

“ngẫm nghĩ”, “nghĩ bụng”, “thầm như”, “nghĩ”… Trước đó có thể có một vài từ

ngữ thông báo trạng thái nhân vật lúc đó như “cảm động”, “buồn rầu”, “mỉm

cười”…Trường hợp không báo trực tiếp bằng các từ ngữ trên thì có thể là: “đưa

mắt”, “mỉm cười chua chát”, “mỉm cười sung sướng”, “cau mày”, “một ý tưởng

thoáng qua”…

Khảo sát trong Bướm trắng chúng tôi thấy độc thoại nội tâm chiếm gần ½

số trang sách( khoảng 66/133 trang). Quả là một mật độ dầy đặc. Đó có thể là

những từ ngữ chuyển tiếp của ngôn ngữ trần thuật, biểu đạt những biến động

trong lòng người nhiều khi bất chợt vụt đến, chuyển động không ngừng, mâu

thuẫn, đối lập nhau, không theo một logic nào hết như: “nhớ lại”, “nghĩ thêm”,

“nghĩ”, “tự nhủ”, “tưởng tượng”, “bất giác nghĩ rằng”, “theo đuổi suy nghĩ”,

“nhận thấy”… Có cả những dấu hiệu không báo trước, tiếng nói nội tâm vang

lên đột ngột giữa lời tường thuật đến dạng thức cao nhất mang mầu sắc hiện đại

là đối thoại nội tâm . Ví dụ, Nhất Linh đã sử dụng độc thoại nội tâm vào việc

biểu đạt những biến động mãnh liệt trong tâm hồn nhân vật. Chúng ta đã biết nỗi

ám ảnh của Dũng trong Đôi bạn là phải ra đi, “phải cắt đứt hết các dây liên lạc,

phải đoạn tuyệt hẳn ” [26, 365] Dũng “muốn được như con bướm thoát khỏi cái

kén tối tăm, bay lên nhẹ nhàng trong ánh mặt trời, tự do đi tìm hoa trong các

vườn xa lạ” [26,365]. Con người Dũng hiện lên qua quá trình băn khoăn về lý

tưởng và mơ ước lên đường hành động, để “mãi mãi đi tìm một sự bình tĩnh cho

tâm hồn” [26, 371]. Khi Dũng và Loan cùng đi xem gặt lúa , hai người đi xuống

chân đồi thông. Dũng “có cái ý muốn nói hẳn ra cho Loan biết là sẽ bỏ nhà đi”

[26, 367], nhưng sau hàng loạt ngập ngừng, xa xôi bóng gió, “chàng không dám

85

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cất tiếng vì chàng đã thấy trước câu chàng nói chắc không tự nhiên, có vẻ trơ

trẽn, giả dối, sẽ làm chàng tự thẹn với mình và ngượng với Loan mãi mãi. Khi

Dũng suy nghĩ:

- Nhưng cần gì phải nói với Loan?

Ý quyết định ấy vụt ra trong trí bất thần quá khiến Dũng cho ngay là có lý và

tuân theo ngay “[26, 378].

Tác giả chú trọng diễn tả dòng vận động trữ tình tuôn chảy miên man

trong tâm hồn nhân vật Dũng bằng những đoạn miêu t ả suy nghĩ, cảm xúc, liên

tưởng, làm nổi bật sự bất ổn. Hình ảnh Loan như viên đá nam châm quy tụ ý

nghĩ của Dũng. Chẳng hạn, sáng thức giấc Dũng nghĩ ngay đến Loan: “chắc lúc

này em tôi chưa dậy”. Những lúc đi thăm bạn bè, đồng chí, viếng bạn, ngay cả lễ

mừng thọ bà nội, dòng tâm tư của Dũng cũng luôn xoay quanh hình ảnh của

Loan. Mắt Dũng ngấn lệ khi viếng bạn nhưng không phải là sót thương bạn, mà

chính là sót thương mình, x ót thương Loan, bởi vì lúc ấy “chàng không dám

nghĩ đến một đời ở xa Loan, mai đây mai đó như Tạo, rồi một ngày kia cũng

như Tạo chết ở một nơi xa lạ nào, nằm trong áo quan tối, trong khi Loan đứng

bên mồ, duới ánh nắng, tà áo trắng của nàng phấp phới trước gió” [26, 350].

Trong quá trình băn khoăn lựa chọn giữa hai tình huống ra đi - ở lại, Dũng chỉ

có thể quyết định được khi gắn chúng với những dự định tình cảm của mình với

Loan. Chúng tối sơ đồ hoá quá trình đó như sau:

Ra đi (nhưng phải xa Loan không biết đến bao giờ có thể gặp) - ở lại (nếu

lấy Khánh theo quyết định của gia đình thì không hợp với tình cảm của mình và

phụ long Loan, nếu lấy Loan thì hợp tình cảm đấy nhưng gia đình lại không

đồng ý. Nhưng thực sự trong tâm tưởng, Dũng có ra đi không? Lời độc thoại nội

tâm của Dũng, trước giờ quyết định lên đường đã hé lộ một biến cố trong tâm lý

nhân vật. Về hành động, Dũng đã ra đi thật, đã đặt chân tới đất Lạng Sơn với

những dải núi chen nhau hỗn độn ở chân trời như không bao giờ hết, nhưng tâm

hồn và tình cảm Dũng đã gửi lại ở Hà Nội, ở ấp Quỳnh Nê, nơi ấy có bóng trắng

thướt tha của tà áo Loan bay trong gió. Dũng đã ở lại, kể từ khi tự đối thoại với

86

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chính mình:

“-Sao nay lại bỏ đi, bỏ hết cả. Loan đáng lẽ được sung sướng vì mình, rồi đây

có lẽ gặp bao nhiêu khổ sở. Mà như thế vì lẽ gì? ” [26, 379].

Ở Bướm trắng, Nhất Linh đã sử dụng độc thoại nội tâm vào việc biểu đạt

biến động mãnh liệt trong tâm hồn Trương. Trước cái cảnh (cảnh các cô phù dâu

trang điểm cho nhau trong lần Trương về ăn cưới Lan) Trương thấy nảy ra một ý

tưởng, chàng ngồi lặng người suy nghĩ: “Hay là ta hỏi Thu làm vợ? Bây giờ còn

có thể được lắm. Mình bảo Hợp là đã khỏi bệnh rồi chỉ việc lấy giấy đốc tờ đưa

cho Hợp xem mà lấy giấy ấy thì dễ như không phải đấy. Tội gì, sung suớng với

Thu một hai tháng rồi có chết thì chết ”[ 27, 416 ].

Trương nghĩ đến những ngày vui trước khi cưới, đến cái phút mình được

Thu về với mình hoàn toàn về riêng của mình trong một căn phòng thơm và đẹp

như một động tiên. Chàng nghĩ đến đôi môi của Thu hôm mới gặp nhau, lúc

nàng ở trên xe điện xuống, đôi môi kiêu hãnh đương hé mở ngậm một góc vải

mấn.

Giá ngay trong lúc đó ai để ý nhìn Trương chắc sẽ thấy h ai con mắt

Trương sang quắc, có vẻ đau khổ và dữ tợn. Trương nghĩ: Rồi được chết trong

tay Thu còn hơn…còn hơn là chết dần chết mòn không ai thuơng, chết một cách

khốn nạn như bây giờ. Nhưng ngay trong lúc nghĩ vậy, chàng vẫn b iết có một

tiếng ngầm bảo chàng:"-Làm như thế xấu lắm".

Bằng hình thức độc thoại nội tâm, Nhất Linh đã chạm đến những sự vận

động nằm ở phần tiềm thức của tâm hồn nhân vật, khiến nó trở thành một thế

giới khép kín. Tuy tham gia vào mọi cuộc giao ti ếp, nhưng dường như nhân vật

chỉ quan tâm đến những chuyển biến trong tâm trạng của nó mà thôi. Ở nhân vật

Trương, điều này thường xảy ra, đến mức gây ra cho người đọc cảm giác anh ta

không quan tâm tới điều gì khác bên ngoài, tự biến mình thành nhân vật phiêu

lưu. Những tính chất phi êu lưu của Trương mang một nét , khác hẳn với các

nhân vật của tiểu thuyết tự lực văn đoàn. Các nhân vật ấy đều hướng tới một

87

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mục đích sống, một hành động, một lý tưởng nào đó, hành trình ý thức, tâm lý

có một định hướng rõ rệt, nếu có dao động chăng nữa, cũng chỉ là việc lựa chọn

một trong hai vấn đề của cuộc sống mà thôi.

Ở nhân vật Trương, người ta thấy đây là một con người suy nghĩ và hành

động với vô số những cái vô lý, vô cớ của bản năng tự phát, ít có sự kiểm soát

của ý thức, mặc dù anh ta có vẻ rất chú ý đến hành vi của mình. Trong khi giao

tiếp với người khác, Trương dường như vẫn chỉ giao tiếp với chính mình, đắm

mình trong dòng suy tưởng, tự tranh luận, biện bác, sau đó đi đến một quyết

định hoàn toàn đột ngột, có thể xoay chuyển cả lối sống hoặc hoàn toàn cảnh

sống của mình. Lúc ấy, hiện diện của nhân vật khác trở thành một chất xúc tác

cho sự chuyển biến tâm lý và hành động của Trương: hoặc là làm theo, hoặc là

ngược lại. Chẳng hạn, cùng ngồi uống cà phê với Quang - một con người luôn

mong muốn nếm đủ hết mùi đời - trong khi Quang say sưa nói về cách pha cà

phê thì Trương vừa nhìn Quang vừa suy nghĩ:

“- Giá Quang bây giờ biết Quang một năm nữa sẽ chết - chắc chắn chết như

mình thì không hiểu Quang nghĩ sao ? Nhưng hiện giờ thì Quang sung sướng chỉ

vì Quang sống như không bao giờ phải chết.

(…)

-Hay là mình không cần nữa ?

(…)

- Phải, mình cần gì nữa. Chắc chắn là sẽ chết thì còn cần quái gì !

Chàng sẽ nếm đủ các khoái lạc ở đời, chàng sẽ sống đến cực điểm, sống

cho hết để không còn ao ước gì nữa, sống cho chán chường” [27, 405 - 406].

Sau thời khắc ấy, quả thực Trương đã thay đổi cách sống, những ham

muốn bấy lâu, nay bắt đầu được buông thả, từ chỗ là một cậu sinh viên mọt

sách, Trương đã trở thành một người phóng đãng, có thể bán hết đất đai cha ông

để lại và tiêu đến đồng tiền cuối cùng vào những chốn ăn chơi.

Một lần khác, khi đang nói chuyện cùng Nhân - người làm cùng hãng với

Trương ở Hải Phòng - tâm chí Trương chỉ tập trung vào một nỗi ám ảnh - Nếu

88

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lão Daniel hôm nay không đến thu ti ền két như mọi khi thì Trương sẽ lấy trộm

tiền rồi trở về Hà Nội. Thực ra, động cơ thụt két của Trương rất mơ hồ, đặt chi

tiết này trong toàn bộ bối cảnh thì có thể giải thích bằng nhiều lẽ. Lẽ thứ nhất:

Đã gần một tháng nay kể từ ngày nhận việc, Trương chưa về Hà Nội thăm Thu.

Lẽ thứ hai: Công việc mới quá nhàm chán, một tháng mà Trương thấy dài hơn

cả mười tháng trước, sống cạnh những người như Nhân (ngủ ở kho, ăn ở hiệu,

tắm ở sông, chết chôn ở nghĩa địa), Trương cảm thấy mình đang chết. Lẽ thứ ba:

Tạo một ấn tượng với Thu-“một là Thu vẫn yêu mình, nếu vậy không có gì thay

đổi cả. Hai là Thu không yêu mình nữa, mà m ình cũng mong chờ Thu chán

mình, nếu vậy Thu xoàng lắm. Mà nếu Thu xoàng thì mình hết yêu ngay (…)

Mình thụt két mà Thu còn yêu mới thực là yêu. Thu không yêu nữa càng hay.

Thử xem sao. Đằng nào cũng có lợi” [27, 464]. Lẽ thứ tư: Sống gấp vài tháng ở

Hà nội trước khi chết, báo thù những người bạn xấu chơi đã bỏ rơi mình. Trong

số bốn lý do ấy ,không thể khẳng định được đâu là cơ bản, nhưng qua những lời

độc thoại nội tâm chúng tôi vừa nêu ở lý do thứ ba, có thể thấy rõ việc tìm kiếm

những cuộc thử nghiệm tâm lý đóng vai trò không nhỏ trong chuỗi hành vi của

Trương. Nguy hiểm nhất là điều đó đuợc nhân vật xác định như một lẽ sống cho

bản thân. Trương nghĩ nếu phải chết tức khắc thì chàng chỉ tiếc rằng không kịp

đợi xem việc ấy xẩy ra như thế nào. Trương ở vào tình trạng một người không

cần gì nữa, chỉ mong xẩy ra đến cho mình một việc, bất cứ việc gì, miễn là khác

thường để cho mình quên được sống. Những biểu hiện vô lý, vô cớ, bất thường

ấy trong tâm lý của Trương có nguồn gốc sâu xa từ nỗi ám ảnh về cái chết.Bản

thân Truơng bị bác sĩ cảnh báo (m ỉa mai thay với động cơ an ủi): “Phổi ấy và

tim ấy và tim ấy cũng còn được một năm nữa là ít” [27, 403]. Xung quanh chàng

là những cái chết lởn vởn với cùng một că n nguyên với căn bệnh của chàn g:

Liên - người yêu cũ của Truơng; Chi bạn của Kim - bạn Thu; Quang-bạn

Truơng. Trong tác phẩm Bướm trắng có đến 135 lần cái chết đượ c nhắc đến .

Nhân vật Trương thường nghĩ về nó: “cái chết thì đã chắc chắn”, “gần đến ngày

chết”,” “chết mà không biết ”, “thế nào cũng chết”, “chết tức khắc”, “đợi cái

89

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chết đến”, “cái chết đã hiện rõ ràng ra truớc măt”, “bối rối như một người biết

mình sắp chết”, “hôm nay mình chết”, “chính mình nằm trong áo quan”… Điều

đó khiến người đọc liên tưởng đến nỗi ám ảnh của Thái, Tạo: Thái “không thiết

gì đến cả sống nữa” [26,348], “ Thái bắn ông Phủ hai phát không trúng nhưng

bắn mình một phát lại trúng ngay”; Tạo “không sợ chết (…) thấy đất mát lắm ”

[26, 350]. Tất cả đều biểu hiện rõ ràng tâm trạng bi quan, chán nản của một bộ

phận thanh niên không tìm thấy ý nghĩa sự sống, bi quan không tin vào mình và

vào tuơng lai. Đây cũng chính là sự phản chiếu tâm trạng hoang mang, mất niềm

tin của chính các tác giả.

3.1.3 . Thể hiện tâm lý nhân vật qua tả cảnh thiên nhiên

Trong truyện cổ, thiên nhiên rất ít có cơ hội xuất hiện và nếu có thì chỉ

đóng vai trò như cái nền của hành động, các sự kiện, biến cố mới là cái được tác

giả quan tâm. Đến cá c nhà văn trong Tự lực văn đoàn , thiên nhiên không chỉ

được miêu tả rất phong phú, đa dạng mà còn được đặt trong mối quan hệ hài hoà

với con người góp phần bộc lộ tâm lý, tính cách . Nhất Linh rất có khả năng

trong việc sử dụng thủ pháp này.

Qua việc miêu tả bức tranh thiên nhiên rộng lớn với nhiều góc độ, sắc

thái, môi trường hoạt động của nhân vật được mở rộng, cả không gian và thời

gian, điều đó giúp nhân vật bộc lộ tâm lý . Thiên nhiên được Nhất Linh thể hiện

qua thế giới cảm giác của nhân vật.

Ở Đôi bạn , thiên nhiên xuất hiện với tần số cao và có ý nghĩa rất quan

trọng trong việc thể hiện nhân vật . Thiên nhiên không chỉ tạo nên không gian

bối cảnh cho nhân vật xuất hiện mà còn làm tôn thêm lên vẻ đẹp của nhân vật ,

gắn liền với biểu hiện rõ hơn các trạng thái tâm lý của họ - như một người bạn

biết cảm thông, chia sẻ. Mối tình thơ mộng của Loan và Dũng được bao bọc bởi

một thiên nhiên ngập tràn sắc màu và hương thơm. Đứng dưới gốc khế trong

vườn nhà Cận, “Loan không nói gì, víu một cành khế đầy hoa hồng và lấm tấm

những quả khế xanh non, ngước mắt nhìn ra vẻ tìm xe m đã có quả nào to ăn

90

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

được chưa. Mùi hoa khế đưa thoảng qua , thơm nhẹ quá nên Dũng tưởng như

không phải hương thơm của một thứ hoa nữa . Đó là một thứ hương lạ để đánh

dấu một thời khắc đã qua trong đời; Dũng thấy trước rằng độ mươi năm sau, thứ

hương đó sẽ gợi chàng nhớ đến bây giờ, nhớ đến cái phút chàng đương đứng với

Loan ở đây. Cái phút không có gì lạ ấy chàng thấy nó sẽ ghi mãi ở trong lòng

chàng như hương thơm hoa khế hết mùa này sang mùa khác thơm mãi trong

vườn cũ ” [26, 283]. Dũng s ang nhà Loan trong khung cảnh “ ánh sáng buổi

chiều đều đều và êm dịu; tiếng sáo diều ở đâu rất xa đưa lại, nhẹ như hơi gió.

Dũng cảm thấy có một sự hoà hợp nhịp nhàng giữa cảnh thiên nhiên và lòng

chàng lúc đó” [26, 324] .

Đôi bạn ở bên nhau dưới giàn đậu ván với những nhành hoa tím mong

manh và những xúc cảm , những ao ước thầm kín rung lên trong đáy hai tâm

hồn, hoà vào không gian “bóng chiều xẫm dần dần; không khí mỗi lúc một trong

hơn lên, trong như không có nữa , mong manh như sắp tan đi đến biến thành

bóng tối. Một mùi thơm nhẹ thoáng qua, thơm hương của tó c Loan hay hương

thơm của buổi chiều?” [26, 326].

Những sắc mầu tươi sáng, những hương thơm dịu nhẹ, thoang thoáng

trong không gian ấy giữ một vai trò đắc lực trong việc biểu hiện những giây phút

“không có gì lạ” , những xúc cảm không tên, khó cắt nghĩa , thoáng qua mong

manh trong tâm hồn nhân vật.

Những tính toán, trăn trở của “ đôi bạn ” Dũng - Trúc cũng gắn liền với

thiên nhiên - một thiên nhiên cao rộng, khoáng đạt như l à biểu tượng của cuộc

đời tự do, phiêu lãng. Cảnh bến đò Gió trong mưa đã được Nhất Linh miêu tả rất

tinh: “Trời lấm tấm mưa, nhưng nền trời ở phía xa lại sáng hẳn lên. Rặ ng cây

nhãn trên đê, cạnh bến đò Gió mờ rõ trong mưa bụi và khói ở các mái nhà toả ra

như mấy vết mực tàn đương lan trên tờ giấy trắng ướt đẫm nước” [26 , 309].

Giữa những nỗi bực dọc về gia đình , nghĩ đến cái chết của Thái như là

một sự thoát ly “Dũng ngẩng nhìn lên. Trời về chiều cao và yên tĩnh; mảng trăng

- thượng tuần sau rặng cây xoan như một cái diều trắng ai mới thả lên đầu làng”

91

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

[26, 323].

Thiên nhiên gắn với mối tình Loan - Dũng ngọt ngào, gần gụi, tươi sáng,

đầy hương sắc; thiên nhiên gắn với cuộc ra đi của Dũng - Trúc thoáng đãng,

hùng vĩ, được miêu tả với độ cao xa khiến nhân vật phải ngước nhìn, phải hình

dung, tưởng tượng , so sánh …Có thể nói rằng trong Đôi bạ n, nếu thiếu đi sự

diễn tả thiên nhiên thì nhân vật sẽ nghèo nàn , cằn cỗi và bớt hấp dẫn đi rất

nhiều. Thiên nhiên đã bao bọc câu chuyện một làn sương mờ ảo, thơ mộng và

trữ tình - một nét đặc trưng của văn học lãng mạn. Đây là một đoạn văn đẹp nhất

mà Nhất Linh đã dành tặng cho mối tình trong sáng của Loan và Dũng:

“Quãng trời giữa chàng và Loan hình như không còn mầu nữa, cao lên và

rộng mênh mông, chắc không bao giờ Dũng quên được hình dáng một đám mây

trắng ngay trong lúc đó, đương thong thả bay ngang qua, một sự biểu hiện sáng

đẹp, linh động trôi êm nhẹ trong sự yên tĩnh của bầu trời và lòng chàng” [26,

375]. Tâm tình ấy qua những lời văn chan chứa tình nhạc và thơ làm rung động

tâm hồn người đọc. Cảm giác , thời gian, không g ian kết hợp nhịp nhàng với

nhau, hoà điệu vào nhau để dệt nên “bản tình ca không lời” tuyệt diệu.

So với Đôi bạn, rất ít cảnh thiên nhiên được miêu tả trong “Bướm trắng”.

Quả thực cuốn tiểu thuyết này Nhất Linh rất khác biệt so với các tác phẩm khác

của ông cũng như của các nhà văn cùng nằm trong Tự lực văn đoàn. Bởi kết hợp

với một số thư pháp khác, Bướm trắng bước đến gần hơn với thư pháp tiểu

thuyết hiện đại . Thiên nhiên góp phần bộc lộ tâm lý nhân vật nhưng mức độ

xuất hiện không còn nhiều so với các tiểu thuyết trước.

Nhất Linh đã dùng nhiều cảnh thiên nhiên để diễn tả tâm lý, tâm trạng của

Trương khi gặp gỡ Thu, người con gái đẹp mà chàng biết là sẽ yêu. Lúc đó bầu

trời bừng sáng , cảnh vật xung quanh tươi vui : nắng to, ngói đỏ, phố rộn r àng,

“chàng thấy đất trời cũng nhiễm mộ t vẻ bất thường…nắng mới ngon lạ ” [27,

394] . Trương bên cạnh người yêu , chàng thấy cuộc sống trở nên rất đẹp, “nắng

cũng đẹp , mưa càng đẹp” [27, 421].

Quang cảnh nh ộn nhịp của cuộc sống con người với những đám cưới,

92

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đám mừng thọ được cảm nhận theo cảm giác chủ quan của Trương: “Cảnh trời

đất đẹp rực rỡ xán lạn, lá cây chàng thấy xanh hơn và màu các bông hoa trong

vườn tươi sáng ước mơ…gió và ánh sáng làm cho chàng chói mắt , say sưa bàng

hoàng như người say rượu” [27, 418].

Ngay cả khi ra tù , trong giấc mơ Trương mơ “bướm trắng” , “hoa cải

vàng” chàng nghĩ tới tương lai giấc mơ tình yêu, cuộc sống tốt đẹp. Hình ảnh

“bướm trắng”, “hoa cải vàng” đã bốn lần xuất hiện trong tác phẩm ở những thời

điểm quan trọng. Lần thứ nhất khi đến phòng khám Trương “tưởng đ ến một

ngày chủ nhật nắng , một ngày đã xa lắm chàng đứng nhìn những con bướm

trắng bay trên một luống cải lấm tấm hoa vàng” [27, 401]. Khi biết sẽ chết:

“Hình ảnh những con bướm trắng xa xôi một ngày chủ nhật lại hiện ra trước

mắt” [27, 467]. Khi Trương bày tỏ tình yêu với Thu ở quê: “Những búp bàng

màu xanh non phất phơ hồng trắng như một đàn bướm ở đâu bay về đậu yêu”

[27, 480]. Lúc ở vũng bùn truỵ lạc “hình ảnh tuổi thơ trong sáng…vườn rau mẹ

chàng…những luống đậu nở trắng hoa” [27, 483]. Thiên nhiên như sợi dây bảo

hiểm, khi con người ta chơi vơi, tuyệt vọng, nó giúp cho con người le lói một cái

gì đó, tìm về sự bình an của cuộc sống, niềm hy vọng và nhìn rõ mình hơn. Nó

là niềm an ủi tươi sáng, khát khao cháy bỏng về tình yêu , lòng ham sống một

cuộc sống tươi đẹp. Đó là bút pháp thành công của Nhất Linh.

3.2. Mô tả hình thức bên ngoài của nhân vật trong mối quan hệ với thế giới

nội tâm sâu kín

Miêu tả ngoại hình là một thủ pháp nghệ thuật không thể thiếu trong nghệ

thuật nói chung và trong tiểu thuyết nói riêng. Nhân vật tiểu thuyết không chỉ

được tập trung xây dựng tâm lý, tính cách mà còn được phân biệt bằng diện mạo

bên ngoài - các bức tranh chân dung.

Trong văn học Việt Nam, việc miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật đã

có từ văn học dân gian và được kế thừa và phát triển cao hơn thời kì văn học

trung đại. Tuy nhiên, nói chung chân dung của các nhân vật còn khá đơn giản,

93

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nó thường chỉ được miêu tả bằng một vài tính từ (như xinh đẹp tuyệt trần, xấu

xí, khôi ngô tuấn tú , khoẻ mạnh …) hoặc luôn đi kèm với sự so sánh như: tóc

đen như gỗ mun, da trắng như tuyết, môi đỏ như máu … Đến thời cận đại, diện

mạo của nhân vật vẫn chưa trở thành những chân dung sinh động, đậm tính cá

thể. Các tác giả thường dùng thủ pháp ư ớc lệ phác ra vài nét chấm phá. Tất cả

những đặc điểm trên là do quan niệm thẩm mỹ của thời đại quy định.

Đến thời đại Nhất Linh, quan niệm về cái đẹp đã khác trước. Vẻ đẹp thể

chất với Nhất Linh được xem là tiêu chuẩn để đánh giá con người hoàn toàn.

Đúng như TS Lê Thị Dục Tú nhận xét: “Việc thể hiện vẻ đẹp thể chất trong văn

xuôi Tự lực văn đoàn thể hiện một quan niệm thẩm mỹ mới có tính thời đại về

vẻ đẹp của con người, đặc biệt là con người đô thị . Quan niệm nà y chịu ảnh

hưởng của hai yếu tố mỹ học phương Đông và sự xâm nhập của mỹ học phương

Tây” [45, 113].

Có thể nói lần đầu tiên trong văn học, ở tiểu thuyết Nhất Linh cũng như

tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, con người có ý thức về sắc đẹp tự thân là một yếu

tố của giá trị cá nhân. Khác với con người của văn học truyền thống đánh giá cái

đạo đức cao hơn cái đẹ p: (cái nết đánh chết cái đẹp) , con người của tiểu thuyết

Nhất Linh công khai khẳng định vai trò của cái đẹp hình thức trong cuộc sống.

Không phải ngẫu nhiên mà các nhân vật nữ chính trong các cuốn tiểu thuyết của

Nhất Linh đều được miêu tả rất xinh đẹp. Người đọc tìm thấy rải rác trong tác

phẩm của ông những đoạn văn ngắn, những câu văn miêu tả ngoại hình của

nhân vật.

Trong Đôi bạn, vẻ đẹp của Loan làm cho Dũng xao xuyến. Loan “có cái

núm đồng tiền ở má rất xinh, mà khi cười trông mới thấy, mà càng cười càng

xinh hơn” [26 , 326]. Loan có mái tóc thơm như hương thơm của buổi chiều

mát, bàn tay có những ngón thon, tấm thân thanh đẹp , đôi môi mềm và thơm

như hai cánh hồng non khiến Dũng bao lần rạo rực thèm muốn. Đặc biệt sáng

ngời trên bức chân dung Loan là đôi mắt. Đôi mắt đen lánh , sáng long lanh của

Loan là đôi mắt biết nói hộ lời của một trái tim yêu . Khi Dũng cùng Trúc đi

94

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thăm Thái về , “hai con mắt nàng bỗng tươi hẳn lên dưới ánh đèn và hai hàng

lông mi nàng hơi rung động . Nhìn Loan , Dũng t hấy rõ cái ý nàng muốn bằng

thấy mặt chàng” [26, 311], trong đêm ấy mắt nàng đẹp và sáng như hai bông hoa

nhài nở về đêm. Trên đồi thông, “chàng thấp thoáng thấ y hai con mắt đen lánh

của Loan. Thấy Dũng bắt gặp mình đương nhìn trộm, Loan vội nhắm mắt lại vờ

như ngủ; song biết là Dũng đã trông thấy rồi, nàng lại mở mắt ra rồi qua những

ngọn lá cỏ rung động trước gió, hai người yên lặng nhìn nhau” [26 , 374-375].

Sắc đẹp của Thu trong Bướm trắng là yếu tố đầu tiên gây thiện cảm với

Trương. Trước đó, Trương đã từng suy nghĩ về nhan sắc của những người con

gái mình từng gặp gỡ (“Đã nhiều lần rồi chàng thấy thất vọng khi nhìn kỹ một

người con gái, mà thoạt trông chàng thấy đẹp hoàn toàn. Vẻ đẹp đánh lừa ấy là

nhờ ở phấn son hay nhờ ánh đèn từng lúc. Lại có một người chàng trông lâu mới

thấy đẹp dần lên, nhưng chàng vẫn khó chịu về cái cảm tưởng người ấy chắc

không đẹp lắm vì lần đầu tiên người ấy đã không đẹp”[27, 394]), nhưng lần này,

sự gặp gỡ với Thu hội tụ được cả hai yếu tố trên. Ngay cái chợt nhìn đầu tiên

Trương đã phát hiện ra Thu đẹp: “ -Hai con mắt to và đen, sáng long lanh như

còn ướt nước mắt và đôi gò má không phấn ráp, ửng hồng, ẩn trong khuôn vải

trắng. Vẻ buồn của trang phục làm lộ hẳn cái rực rỡ của một vẻ đẹp rất trẻ và rất

tươi. Nét mặt thiếu nữ, Trương thấy kiêu hãnh làm cho sắc đẹp thiếu nữ có ý vị

hẳn lên như chất chua của một quả mơ” [27,,392]. Và có thời gian nhìn kỹ,

ngắm lâu, Trương “ vẫn thấy Thu đẹp mà may quá người đẹp ấy là người mới

nhìn chàng đã biết rằng có thể yêu mê man” [27, 394].

Như chúng tôi đã khẳng định, việ c thể hiện “ con người bên ngoài” trong

Đôi bạn và Bướm trắng của Nhất Linh luôn gắn liền với thế giới nội tâm sâu

kín. Chính vì vậy vẻ đẹp ngoại hình của các nhân vật không được miêu tả trự c

tiếp bằng ngôn ngữ người kể chuyện là tác giả giống như các tiểu thuyết trung

đại mà được miêu tả gián tiếp thông qua sự cảm nhận của Dũng, Trương và

Loan, Thu. Điều này đưa đến bốn đặc điểm cơ bản trong cách thể hiện ngoại

95

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hình nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh:

Đặc điểm thứ nhất: vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật luôn luôn phụ thuộc

vào thế giới tình cảm của người đang cảm nhận về chúng. Chẳng hạn, trong thế

giới nhân vật của Bướm trắng, chỉ có Trương và Thu cảm nhận được vẻ đẹp của

nhau vì giữa hai nhân vật có một tình yêu tha thiết, và cũng chỉ có hai nhân vật

được khắc hoạ về ngoại hình. Suốt thiên truyện chỉ có Thu cảm nhận được

“Trương đẹp và có duyên. Hai còn mắt Trương trông hơi là lạ, khác thường, tuy

hiền lành, mơ màng nhưng phảng phất có ẩn một vẻ hung tợn, hai con mắt ấy

Thu thấy đẹp nhưng đẹp một cách não nùng khiến nàng xao xuyến như cảm thấy

một nỗi đau thương” [27, 394]. Còn ngoài ra không có một người bạn nào khác

cảm nhận về vẻ đẹp ngoại hình của Trương, kể cả Cúc, Phương, Mùi, Nhan.

Đặc điểm thứ hai: Vẻ đẹp của nhân vật không được Nhất Linh miêu tả

một cách tập trung như cách miêu tả thường thấy trong văn học cổ điển - nghĩa

là vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật hiện ra dần dần mang đến cho người đọc một

sự thưởng thức từ từ ở những đường nét ấn tượng và gợi cảm giác thưởng thức.

Có thể đây là một sự tiến bộ trong bút pháp nghệ thuật miêu tả nhân vật. Sở dĩ

có đặc điểm trên vì trong Đôi bạn và Bướm trắng là do vẻ đẹp ngoại hình của

nhân vật luôn gắn với những bước tiến mới trong tình cảm của bốn nhân vật

chính: Loan - Dũng, Trương - Thu.

Đặc điểm thứ ba: Ngoại hình của nhân vật không được miêu tả toàn diện

và các chi tiết cũng không chú ý miêu tả ngang bằng nhau. Tác giả Nhất Linh

chỉ tập trung miêu tả những chi tiết đường nét có liên quan đến việc bộc lộ thế

giới tình cảm ở bên trong. Chính vì thế, hình ảnh đôi mắt của nhân vật được tác

giả miêu tả nhiều nhất.

Đặc điểm thứ tư: Vẻ đẹp của nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm

trắng thường được đặt trong một trường liên tưởng, so sánh. Chẳng hạn, có

nhiều hình ảnh so sánh khi tác giả miêu tả vẻ đẹp ngoại hình nhân vật nữ chính:

- “ Đôi môi chàng ngây ngất thấy trước rằng sẽ mến và thơm như hai cánh

hoa hồng non” (Đôi bạn).

96

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- “ Tiếng cười của Loan nghe xa xôi như một giấc mơ” (Đôi bạn).

- “ Hai con mắt to và đen long lanh như còn ướt nước mắt” (Bướm trắng).

- “ Hai con mắt của Nhan đen như hai chấm nhung trong bóng rối mờ mờ ”

(Bướm trắng).

Nhất Linh đã chọn được những hình ảnh đẹp để thực hiện những phép so

sánh trong tiểu thuyết của mình. Nó không chỉ chứng tỏ một sự quan sát rất tinh

tế, một trí tưởng tượng phong phú mà còn cho thấy sự sinh động trong việc sử

dụng từ ngữ.

Bên cạnh những đặc điểm trên, vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật trong Đôi

bạn và Bướm trắng còn được thể hiện gắn liền với phẩm chất khác của nhân vật.

Thu dưới ngòi bút của Nhất Linh không chỉ xinh đẹp mà còn thông minh. Sự

thông minh của Thu được thể hiện qua tài ăn nói hài hước, có duyên và nhận

thức về cuộc sống . Thêm vào đó, tình yêu trong sáng của Loan làm cho mọi

người cảm phục. Nhân vật của Nhất Linh trong Đôi bạn, Bướm trắng còn mang

vẻ đẹp của trang phục, của sự điểm trang - dấu vết của lối sống đô thị, của tân

học . Ở Đôi bạn sắc đẹp lộng lẫy đượm mùi nước hoa và son phấn của Khánh -

con gái cụ thượng Đặng ở tỉnh về khiến Dũng “thốt nhiên cảm động” khi thoáng

thấy nàng . Trong suốt tác phẩm, hình bóng dịu dàng, mảnh mai tinh khiết của

Loan gắn liền với hình ảnh tà áo trắng: (“nàng mặc chiếc áo lụa trắng và gió mát

thơm những mùi cỏ đưa tà áo nàng , phơ phất chạm vào tay ch àng êm như

những cánh bướm” [26, 293]). Tấm áo lụa trắng như một biểu tượng về L oan

khiến mỗi lần hình dung lại, Dũng thấy lòng mình êm dịu lạ thường.

Như vậy, việc xây dựng ngoại hình nhân vật của Nhất Linh trong Đôi bạn

và Bướm trắng có những bước tiến mới so với văn học truyền thống. Nó không

còn là nhân tố giản đơn, tĩnh tại, bất biến mà có mối quan hệ mật thiết , hữu cơ

với mọi mặt của con người. Nó hiện dần theo sự cảm nhận của độc giả. Nó tham

gia vào bộc lộ thế giới nội tâm bên trong của nhân vật cũng như góp phần biểu

97

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đạt quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người.

Tiểu kết chương III

1. Tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng đã phản ánh cụ thể bước tiến triển

của tiểu thuyết Nhất Linh ở giai đoạn sau về phương diện nghệ thuật, đặc biệt là

nghệ thuật xây dựng nhân vật. Với sự di chuyển đối tượng phản ánh, và miêu tả

từ những vấn đề xã hội, sang thế giới nội tâm sâu kín của con người, nhà văn

Nhất Linh đã tạo ra trong tác phẩm của mình một thế giới nghệ thuật mới mẻ ,

đầy sức hấp dẫn, một thế giới mà văn học truyền thống cũng như đương thời còn

ít quan tâm thể hiện.

2. Trong tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng nhà văn đã quan tâm sâu sắc

đến việc tái hiện con người ở mức độ toàn vẹn và chân thật nhất (con người

được miêu tả cả ở diện mạo ngoại hình và đời sống nội tâm). Nhưng vì đối

tượng chính yếu của Nhất Linh là “con người bên trong” nên tất cả mọi thủ pháp

nghệ thuật hầu như đều quy về bộc lộ một cách cụ thể nhất, sắc nét nhất, thế giới

tâm lý phong phú của nhân vật. Sự chú ý tới thế giới nội tâm của con người đã

dẫn đến những thủ pháp mới mẻ trong việc thể hiện nhân vật. Đối thoại tâm lý,

độc thoại nội tâm thể hiện tâm lý nhân vật qua tả cảnh thiên nhiên , mô tả hình

thức bên ngoài của nhân vật là những thủ pháp nghệ thuật mà Nhất Linh ưa

98

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dùng, được nhà văn kế thừa từ truyền thống và hoàn thiện nó.

C-KẾT LUẬN

Đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam chuyển mình với những sức sống mới

trỗi dậy một cách mãnh liệt. Trong dòng chuyển lưu mạnh mẽ ấy, văn học Việt

Nam có điều kiện gặp gỡ, tiếp xúc với nền văn học mới ở phương Tây. Những

ảnh hưởng giao thoa đã đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam.

Lịch sử xã hội và những nhu cầu thời đại đã làm xuất hiện nhiều tổ chức văn

học, trong đó có Tự lực văn đoàn. Cùng với Tự lực văn đoàn không thể không

nhắc tới Nhất Linh “người cầm đầu, người điều hành…đồng thời cũng là một

cây bút tiểu thuyết trụ cột của nhóm ” [18, 30]. Nhất Linh làm báo, viết văn.

Cống hiến của ông đối với văn học không chỉ ở khối lượng tác phẩm ông để lại

cho đời mà còn ở những đóng góp về mặt cách tân nghệ thuật tiểu thuyết, hiện

đại hoá tiểu thuyết.

Trong suốt chặng đường sáng tác, Nhất Linh đã không ngừng tìm tòi bổ

sung để tự hoàn thiện mình. Trước năm 1932, Nhất Linh sáng tác theo quan

niệm của các nhà Nho nhưng sau khi du học ở Pháp về ông đã thay đổi quan

niệm văn chương. Viết tiểu thuyết, ông đã có sự chuyển hướng từ tư tưởng, cảm

hứng nghệ thuật, đề tài đến lối viết. Qua cuốn Viết và đọc tiểu thuyết Nhất Linh

đã đưa ra quan niệm viết tiểu thuyết của mình tuy không thật sắc sảo, càng

không uyên bác. Song những ý kiến mà Nhất Linh viết ra trong cuốn Viết và đọc

tiểu thuyết là sự chân thành.

Hai kiểu tiểu thuyết: Tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lý của Nhất

Linh mỗi kiểu tiểu thuyết có một chức năng riêng, do đó có cách xây dựng nhân

vật khác nhau. Ở tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh miêu tả tâm lý nhân vật đều

có liên quan trực tiếp đến các vấn đề xã hội, tác giả không sử dụng những biện

pháp nghệ thuật đặc thù, chỉ sử dụng những thành tựu mà tiểu thuyết hiện đại

Việt Nam đã đạt được cho tới thời điểm đó. Đến tiểu thuyết tâm lý, ông yêu cầu

đi sâu khám phá tâm lý con người chú trọng miêu tả cảm giác của nhân vật,

99

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những hoạt động bên ngoài không còn được giữ vai trò quan trọng như trước

đây nữa, nhân vật được quan tâm trong mối quan hệ với đời sống nội tâm. Thay

cho động cơ tâm lý nhất quán một chiều là những biểu hiện đa dạng hơn, có cả

phần mơ hồ của tiềm thức, vô thức, nhiều khi nhân vật hành động mà không tự

biết mình. Đây là nét khác nhau cơ bản trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ở

tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lý của Nhất Linh.

Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết của Nhất Linh được

xây dựng theo mô hình con người cá nhân. Với tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm

trắng, vấn đề cá nhân đã được ý thức ở cấp độ mới hẳn .Nó đã trở thành một

phương tiện hữu hiệu bênh vực quyền tự do cá nhân , truyền bá cho một nền văn

hoá mới tạo nên một sự chuyển biến rõ rệt trong nếp cảm, nếp nghĩ cũng như

trình độ thưởng thức văn học của độc giả Việt Nam .

Tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng cho chúng ta thấy sự cách tân văn

học của Nhất Linh không chỉ dừng lại ở một cuộc cách mạng về tư tưởng, văn

hóa mà sâu xa hơn, nó đã tác động đến phần nhạy cảm nhất trong mỗi nhà văn:

nghệ thuật viết tiểu thuyết. Với khuynh hướng tiểu thuyết tâm lý, nhà văn Nhất

Linh đã có tham vọng tìm hiểu khám phá đời sống tâm hồn tình cảm của con

người theo một con đường riêng, bằng một số yếu tố nghệ thuật đã phần nào đạt

tới giá trị hiện đại, giải toả một số bế tắc bất cập của tính chất ước lệ, công thức,

cũng như tính chất “nhất phiến ” trong việc thể hiện con người của văn học

truyền thống.

Để khám phá “con người bên trong”, tác giả Nhất Linh đã miêu tả tâm lý

nhân vật ở các mức độ biểu hiện khác nhau. Tâm lý nhân vật tự bộc lộ ra bên

ngoài qua những biểu hiện nhỏ nhặt, qua ngôn ngữ, hành động, cử chỉ có tính

bột phát bất chấp sự kiểm soát của lý trí và ý thức. Mặt khác, tâm lý nhân vật

được miêu tả thể hiện trực tiếp hoặc cũng có thể được nhận thức qua quá trình

phân tích của chính bản thân nhân vật. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nhất

Linh qua Đôi bạn và Bướm trắng đạt tới sự nhuần nhuyễn trong việc sủ dụng

các thủ pháp: Đối thoại tâm lý (đối thoại mang tính chất ám chỉ; đối thoại qua

100

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hành vi, cử chỉ), độc thoại nội tâm; sự thể hiện tâm lý nhân vật qua tả cảnh thiên

nhiên và mô tả hình thức bên ngoài của nhân vật trong mối quan hệ với thế giới

nội tâm sâu kín.

Trong các cuộc đối thoại mang tính chất ám chỉ, ở Đôi bạn các nhân vật

nhằm khám phá những dự cảm về nhau. Họ mang trong mình những tâm hồn

tinh tế, nhạy cảm, luôn khao khát tìm kiếm những điệu hồn đồng điệu. Ở Bướm

trắng, Nhất Linh sử dụng biện pháp đối thoại ám chỉ để thể hiện những thăm dò

tình cảm lẫn nhau giữa các nhân vật. Các nhân vật trong Đôi bạn và Bướm

trắng, ngoài hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ, họ còn giao tiếp với nhau bằng

hành vi phi ngôn ngữ. Đó là những tín hiệu thẩm mỹ gợi ra các cuộc đối thoại và

biểu đạt trạng thái tâm lý nhân vật rất sâu sắc. Tình yêu của các nhân vật trong

Đôi bạn và Bướm trắng nhiều khi không cần được thể hiện bằng lời nói mà quan

trọng là các nhân vật cảm nhận về nhau và cùng cảm nhận về thế giới. Chính

quá trình khám phá ấy là một nét mới Nhất Linh đem đến cho nghệ thuật và

nhân vật trong tiểu thuyết của mình.

Bằng hình thức độc thoại nội tâm, Nhất Linh đã chạm đến những vận

động nằm ở trong tiềm thức của tâm hồn nhân vật, khiến nó trở thành thế giới

khép kín. Tuy tham gia vào cuộc giao tiếp, nhưng dường như các nhân vật trong

Đôi bạn và Bướm trắng chỉ quan tâm đến những biến chuyển trong tâm trạng.

Ngoài ra, trong các thủ pháp xây dựng nhân vật Nhất Linh còn thể hiện tâm lý

nhân vật qua tả cảnh thiên nhiên. Thiên nhiên không chỉ tạo nên không gian bối

cảnh cho nhân vật xuất hiện mà còn làm tôn thêm vẻ đẹp cho nhân vật, gắn liền

với biểu hiện rõ hơn các trạng thái tâm lý của họ. Có thể nói, đến tiểu thuyết của

Nhất Linh con người có ý thức công khai về sắc đẹp tự thân là một yếu tố của

giá trị cá nhân. Những đặc điểm cơ bản trong cách thể hiện ngoại hình nhân vật

trong tiểu thuyết của Nhất Linh qua Đôi bạn và Bướm trắng: Đó là vẻ đẹp ngoại

hình của nhân vật luôn phụ thuộc và thế giới tình cảm của người đang cảm nhận

với chúng. Vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật được Nhất Linh miêu tả nêu ra dần

dần với những nét ấn tượng, gợi cảm giác thưởng thức. Có thể nói, đây là một

101

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tiến bộ trong bút pháp nghệ thuật miêu tả nhân vật so với văn học cổ điển. Tác

giả Nhất Linh tập trung miêu tả những chi tiết đường nét ngoại hình có liên quan

đến việc bộc lộ thế giới tình cảm ở bên trong. Chính vì thế, hình ảnh đôi mắt

trong hai tác phẩm Đôi bạn và Bướm trắng được tác giả miêu tả nhiều nhất. Là

vẻ đẹp của các nhân vật thường được đặt trong một trường liên tưởng so sánh và

gắn với phẩm chất khác của nhân vật. Như vậy, việc xây dựng ngoại hình nhân

vật trong Đôi bạn và Bướm trắng đã có những bước tiến bộ trong văn học truyền

thống nó không còn tĩnh tại, giản đơn, bất biến nữa mà có mối quan hệ mật thiết

hữu cơ với mọi mặt của con người.

Tuy nhiên, nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh

không tránh khỏi những hạn chế. Một số nhân vật của ông không có sức sống

lâu bền, do tính cách chưa sắc cạnh, tâm lý nhân vật còn đơn giản và ít biến cố.

Khi đi vào tâm lý nhân vật của Nhất Linh trở nên cô đơn trong cõi riêng của

mình, rơi vào trạng thái phi logic, đối lập với thực tại. Đôi khi thế giới nội tâm

nhân vật, ngôn ngữ mô tả còn có sự trùng lặp…

Với đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh

qua Đôi bạn và Bướm trắng. Chúng tôi xin góp một ý kiến nhỏ bé vào việc ghi

nhận những gì mà Nhất Linh đã đóng góp cho công cuộc hiện đại hoá văn học

Việt Nam. Trong luận văn này còn nhiều thiếu sót mà chúng tôi sẽ cố gắng hoàn

102

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thiện dần trên con đường học tập và nghiên cứu của mình.

Tài liệu tham khảo

1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học , NXB ĐHQG - Hà Nội.

2. Bùi Xuân Bào (1972), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại

3. M.Bakhtin (1992) Lý luận và thi pháp tiểu thuyết ,Trường viết văn Nguyễn

Du - Hà Nội

4. M.Bakhtin, Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki, NXB Giáo dục – Hà Nội.

5. A.Brecht (1965), Sân khấu . Tập 5, phần II.

6. Trương Chính (1939), Dưới mắt tôi, NXB Thuỵ kí - Hà Nội.

7. Ngô Văn Chương (1974), Văn-Sử Việt Nam cận đại 1862-1945, Đại Học văn

khoa - Huế.

8. Vũ Thị Khánh Dần (1997), Tiểu thuyết của Nhất Linh trước CM Tháng8,

Luận án PTS,Viện văn học - Hà Nội

9. Nhóm Lê Quý Đôn (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, Tập 3 ,NXB

Xây dựng - Hà nội.

10. Đỗ Hồng Đức (1994), Bước đầu tìm hiểu về tiểu thuyết tâm lý qua Tố Tâm

(Hoàng Ngọc Phách) và Bướm trắng (Nhất linh), Luận án thạc sỹ , ĐH Sư phạm

Hà Nội.

11. Phan Cự Đệ (2000), Tự lực văn đoàn , con người và văn chương , Tuyển tập

Phan Cự Đệ , Tập 1 ,NXB Văn học - Hà Nội.

12. Phan Cự Đệ ( 2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX , NXB Giáo dục - Hà Nội.

13. Lê Bá Hán (chủ biên) (2000), Từ điển thuật ngữ văn học , NXB - ĐHQG -

Hà Nội.

14. Đỗ Đức Hiểu (1996), Đọc lại Bướm trắng của Nhất Linh, Tạp trí văn học số

10.

15. Trần Thanh Hiệp (1965), Nhân vật trong tiểu thuyết , NXB Sáng tạo - Sài

103

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Gòn.

16. Dương Thị Hương (2001), Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật trong tiểu

thuyết Tự lực văn đoàn , Luận án TS, ĐH Sư phạm - Hà Nội.

17. Mai Hương (tuyển chọn) (2000), Nhất Linh cây bút trụ cột , NXB Văn hoá

thông tin - Hà Nội.

18. Nguyễn Hoành Khung (1989), Văn xuôi lãng mạn Việt Nam(1930 -1945),

Tập 1, NXB Khoa học xã hội - Hà Nội.

19. Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam , quyển hạ, NXB Trình

bày - Sài Gòn.

20. Thạch Lam (1941), Theo giòng, NXB Đời nay - Hà Nội.

21. Mã Giang Lân (chủ biên) (2000), Quá trình hiện đại hoá văn họcViệt Nam

1900-1945, NXB Văn hóa thông tin - Hà Nội.

22. Phương Lựu (2002), Lý luận văn học , NXB Giáo dục - Hà Nội.

23. Nhất Linh (2001), Đoạn tuyệt ,Văn chương Tự lực văn đoàn, Tập 1, NXB

Giáo dục - Hà Nội.

24. Nhất Linh (2001), Lạnh lùng, Văn chương Tự lực văn đoàn, Tập 1, NXB

Giáo dục - Hà Nội.

25. Nhất Linh (2001), Nắng thu, Văn chương Tự lực văn đoàn, Tập 1 , NXB

Giáo dục - Hà Nội.

26. Nhất Linh (2001), Đôi bạn , Văn chương Tự lực văn đoàn, Tập 1, NXB

Giáo dục - Hà Nội.

27. Nhất Linh (2001), Bướm trắng, Văn chương Tự lực văn đoàn , Tập 1 , NXB

Giáo dục - Hà Nội.

28. Nhất Linh (1972), Viết và đọc tiểu thuyết , NXB Đời nay - Sài Gòn.

29. Lê Hữu Mục (1960), Khảo luận về Đoạn Tuyệt (tức luận đề về Nhất linh),

Tập 1, NXB Khai trí - Sài Gòn.

30. Phạm Thế Ngũ (1965), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Tập 3, Quốc

học tùng thư xuất bản - Sài Gòn.

104

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

31. Vương Trí Nhàn (1966), khảo về tiểu thuyết, Tập 2, NXB Hội nhà văn.

32. Vương Trí Nhàn (sưu tầm) (2000), Những lời bàn về tiểu thuyết trong văn

học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945, NXB Hội nhà văn.

33. Nhiều tác giả (1984), Từ điển văn học, Tập 2, NXB khoa học xã hội.

34. G-N Pospelov (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học ,Tập 2, NXB

Giáo dục - Hà Nội.

35. Vũ Ngọc Phan (1994), Nhà văn hiện đại, Tập 1, NXB văn học - Hội nghiên

cứu giảng dạy văn học TP - HCM.

36. Võ Phiến (1969), Tạp bút, Thời mới xuất bản.

37. Phạm Quỳnh, Khảo về tiểu thuyết In Nam Phong - Sài Gòn.

38. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu , NXB Tác phẩm mới - Hội nhà

văn Việt Nam - Hà Nội.

39. Trần Đình Sử (1993), Thi pháp học hiện đại , NXB Giáo dục đào tạo - Hà

Nội.

40. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, NXB Giáo dục

đào tạo.

41. Bạch Năng Thi - Phan Cự Đệ( 1961), Văn học Việt Nam (1930 – 1945) Tập

1, 2. NXB Giáo dục - Hà Nội.

42. Nguyễn Đình Thi (1965), Công việc của người viết tiểu thuyết , NXBVăn

học - Hà Nội.

43. Đinh Gia Trinh (1995), Hoài vọng của lý trí, NXB Văn học - Hà Nội.

44. Nguyễn Văn Trung, 1965, Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết, NXB Nam Sơn

Hà Nội.

45. Lê Thị Dục Tú (1997), Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự lực văn

đoàn, NXB Khoa học xã hội- Hà Nội.

46. Lê Tuyên (1961), Hiện hữu của tiểu thuyết, NXB Đại học.

47. Nguyễn Văn Xung (1985), Bình giảng về Tự lực văn đoàn, NXB Tân Việt -

Sài Gòn.

48. Trần Đăng Xuyền (1991), Chủ nghĩa tâm lý trong sáng tác của Nam Cao,

105

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tạp chí diễn đàn văn nghệ Việt Nam, Tập 2.

®¹i häc th¸i nguyªn Tr­êng ®¹i häc s­ ph¹m ----------------------

NguyÔn ThÞ Mai H­¬ng

NghÖ thuËt x©y dùng nh©n vËt trong tiÓu thuyÕt Cña nhÊt linh qua '®«i b¹n" vµ "b­ím tr¾ng" Chuyªn ngµnh: V¨n häc ViÖt Nam M· sè: 60.22.34

Th¸i Nguyªn. 2008

106

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

TTããmm tt¾¾tt LLuuËËnn vv¨¨nn tthh¹¹cc ssÜÜ kkhhooaa hhääcc nngg÷÷ vv¨¨nn

A - MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Nhất Linh - Nguyễn Tường Tam (1906-1963) bắt đầu sáng tác từ những năm 20, thành công hơn cả những năm 30 và kết thúc sự nghiệp cầm bút c ủa mình vào đầu những năm 60 của thế kỉ XX. Đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về những thành tựu nghệ thuật của Nhất Linh. Nhưng dường như ít đi sâu vào mặt nghệ thuật xây dựng nhân vật trong những tác phẩm cụ thể, đặc biệt là hai tiểu thuyết “Đôi Bạn” và “ Bướm trắng”.

Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh qua “Đôi bạn ” và “Bướm trắng” làm đối tượng nghiên cứu, với mong muốn có thể góp một tiếng nói, một ý kiến trong sự nghiên cứu chung và tìm hiểu rõ hơn nghệ thuật xây dựng nhân vật trong sự vận động của một thể loại ở quá trình sáng tác của Nhất Linh. 2. Lịch sử vấn đề

Số lượng bài viết và các công trình nghiên cứu về tác giả Nhất Linh khá phong phú, đề cập đến nhiều phương diện về con người và văn nghiệp. Trong khuôn khổ vấn đề nghiên cứu, chúng tôi chủ yếu dừng lại khảo sát các ý kiến trực tiếp liên quan tới nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh nói chung và hai tiểu thuyết “Đôi bạn” và “Bướm trắng” nói riêng, sắp xếp chúng theo trình tự thời gian nhằm tái hiện một cách khách quan những quan điểm đánh giá ấy. 2.1. Các ý kiến đánh giá về nghệ thuật tiểu thuyết và xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh

Trước năm 1945, tiểu thuyết của Nhất Linh đã thu hút được sự chú ý của bạn đọc và giới nghiên cứu, phê bình. Tiêu biểu là các tác giả như: Trương Tửu; Trương Chính; Dương Quảng Hàm; Vũ Ngọc Phan…Nhìn chung, các ý kiến đánh giá về nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh thời kì này chưa thật sự phong phú. Có ý kiến thì đề cao, có ý kiến thì nghiêm khắc nhìn nhận, nhưng nhìn một cách bao quát, tất cả các nhà nghiên cứu đều thừa nhận phương diện đổi mới trong nghệ thuật tiểu thuyết của Nhất Linh.

Các nhà nghiên cứu hầu như không lưu tâm tới những tác phẩm của Nhất Linh, phải tới sau những năm 1954, chúng mới được nghiên cứu trở lại. Nhưng do tình hình chính trị của đất nước mà việc nghiên cứu về Nhất Linh cũng được chia thành hai bộ phận theo hai miền Nam - Bắc. Vì thế mà nảy sinh một hiện tượng: Trên phương diện tư tưởng, tiểu thuyết của Nhất Linh được đề cao ở miền Nam, bị phê phán ở miền Bắc, nhưng trên phương diện nghệ thuật có điểm gặp gỡ giữa các nhà nghiên cứu hai miền.

Các ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu cả hai miền Nam - Bắc phần lớn rơi vào phán xét tiểu thuyết của Nhất Linh theo quan điểm đạo đức xã hội. Nhưng một số ý kiến đã đề cập đến sự đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết Nhất Linh, trong đó có nghệ thuật xây dựng nhân vật.

Bước vào giai đoạn sau Đại hội Đảng VI (1986); trong xu thế đổi mới, một số hiện tượng văn học quá khứ được nhìn nhận, đánh giá lại và được đánh giá toàn diện hơn, trong đó nổi bật lên là những tác phẩm của Nhất Linh. Các công trình nghiên cứu của các tác giả như: Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Trương Chính, Nguyễn Hoành Khung, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác - Đái Xuân Linh, Lê Thị Đức Hạnh, Vu Gia, Lê Thị Dục Tú, Trịnh Hồ Khoa, Vũ Thị Khánh Dần,

107

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Dương Thị Hương… đã thể hiện một sự đánh giá phong phú một cách nhìn toàn diện, đúng đắn và đa chiều về tiểu thuyết Tự lực văn đoàn cũng như tiểu thuyết Nhất Linh. 2.2. Các ý kiến đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết “Đôi bạn” (1938) và “Bướm trắng” ( 1939) của Nhất Linh

Trước thời kỳ đổi mới các bài viết đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Đôi bạn và Bướm trắng. Có thể kể đến một số bài viết của Đặng Tiến trong Hạnh phúc trong tác phẩm của Nhất Linh (1965), Nguyễn Hoành Khung trong cuốn Văn xuôi lãng mạn Việt Nam (1930- 1945), Phan Cự Đệ - Lời giới thiệu tiểu thuyết Đôi bạn (1988)...Hay ở trong các luận văn của Vũ Thị Khánh Dần và Đỗ Đức Tiểu cũng có những nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh. Với tiểu thuyết Bướm Trắng vì ra đời sau trong sự nghiệp sáng tác nên chưa thu hút đư ợc sự quan tâm của giới nghiên cứu đương thời. Ở Miền Nam có các bài viết của Bùi Xuân Đào trong Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn sử giản ước tân biên...ở Miền Bắc có các bài viết của Phan Cự Đệ trong Lời giới thiệu cuốn Đoạn tuyệt có nhận xét : “ Xét về một phương diện nào đó thì nghệ thuật của Đôi bạn và Bướm Trắng già dặn hơn, những nhận xét về tâm lý nhân vật sâu sắc và tinh vi hơn”, Đỗ Đức Hiểu cho rằng: “ Bướm Trắng là một tiểu thuyết hiện đại”. Nhìn chung các ý kiến đánh giá khá phong phú và đa dạng. C ác nhà nghiên cứu đứng trên quan điểm lịch sử để đánh giá nhận định, cố gắng tìm tòi những khám phá đóng góp của Nhất Linh đối với tiến trình văn học, nhưng nghệ thuật tiểu thuyết chưa đi sâu. 3. Đối tượng , phạm vi nghiên cứu

Luận văn khảo sát thế giới hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng, đi sâu vào các thủ pháp xây dựng nhân vật của tiểu thuyết, đặc biệt chú trọng đến các yếu tố thể hiện tâm lý. Tiểu thuyết là một đơn vị tổ chức nghệ thuật phức tạp nhiều khía cạnh, nhiều tầng bậc. Nhân vật cũng chỉ ra là một phương diện của tổ chức nghệ thuật mà thôi. Do đó việc phân tích nhân vật không tách rời nghiên cứu các yếu tố khác của tiểu thuyết như cốt truyện, kết cấu, tả cảnh...đặc biệt là cốt truyện. Và tiểu thuyết phần nào cả thực chất là hành trình của số phận nhân vật trong thời gian - trước là cốt truyện. 4. Phương pháp nghiên cứu

Trong luận văn này, chúng tôi đã kết hợp một vài phương pháp nghiên cứu phù hợp với mục đích nghiên cứu của mình. Đó là do vận dụng tổng hợp các phương pháp mà các thao tác chính là:

Phương pháp thống kê phân loại, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh

đối chiếu, phương pháp lịch sử: 5. Đóng góp của luận văn

Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng , chúng tôi mong muốn góp một phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu, nghiên cứu thế giới nghệ thuật của hai tiểu thuyết nêu trên, xem nó như một thành phần quan trọng của toàn bộ hệ thống tác phẩm của nhà văn Nhất Linh. Mục đích của luận văn là chỉ ra:

- Những thủ pháp xây dựng nhân vật, những đóng góp và những hạn chế của nghệ thuật

tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng.

108

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

- Những đóng góp của Nhất Linh đối với tiến trình hiện đại hoá nghệ thuật tiểu thuyết Việt Nam ở giai đoạn đương thời; đồng thời cũng chỉ ra sự vận động, chuyển hướng trên cả hai phương diện nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật trong tiểu thuyết Nhất Linh.

Đây là công trình chuyên biệt đầu tiên tập trung nghiên cứu nhân vật của tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng. Có thể nói với luận văn này, hai tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng được nghiên cứu một cách tỉ mỉ và cụ thể về nghệ thuật nhân vật . Từ đó, luận văn bước đầu đưa ra nhận định về những đóng góp của Nhất Linh với tiến trình hiện đại hoá nghệ thuật tiểu thuyết ở giai đoạn sau trong sự nghiệp sáng tác của ông. 6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn

gồm 3 chương:

Chương 1: Quan niệm tiểu thuyết, nhân vật tiểu thuyết, hai kiểu tiểu thuyết của Nhất

Linh.

Chương 2: Nhân v ật và kết cấu cốt truyện trong Đôi b ạn và Bướm trắng. Chương 3: Các th ủ pháp xây dựng nhân vật trong Đôi bạn và Bướm trắng.

B - NỘI DUNG CHƯƠNG I

QUAN NIỆM VỀ TIỂU THUYẾT, NHÂN VẬT TIỂU THUYẾT

HAI KIỂU TIỂU THUYẾT CỦA NHẤT LINH

1.1. Quan niệm tiểu thuyết và nhân vật tiểu thuyết 1.1.1. Quan niệm tiểu thuyết

Tiểu thuyết là một trong những thể loại quan trọng nhất của văn chương, nghệ thuật hiện đại. Theo M. Bakhtin cho rằng “Tiểu thuyết không đơn thuần chỉ là một thể loại trong nhiều thể loại. Đó là thể loại duy nhất nảy sinh và được nuôi dưỡng bởi thời đại mới của lịch sử thế giới và vì thế mà thân thuộc sâu sắc với thời đại ấy ”.Việc đưa ra một khái niệm về thể loại tiểu thuyết một cách hoàn chỉnh không phải là dễ. Bởi vì đã có khá nhiều quan niệm khác nhau về tiểu thuyết. Ở nước ta, trước năm 1945 khi viết tiểu thuyết đã trở thành nhưu cầu bức thiết của nhà văn Việt Nam đầu thế kỷ XX thì lý luận về tiểu thuyết càng trở nên bức thiết. Trước năm 1945 có các quan niệm về tiểu thuyết được đưa ra của các tác giả: Phạm Quỳnh, Thạch Lam, Vũ Bằng, Thiếu Sơn, Vũ Ngọc Phan ...Sau năm 1945, việc nghiên cứu thể loại tiểu thuyết được trải rộng ra cả ở hai miền Bắc - Nam. Khi sự phân định về mặt thể loại càng cụ thể hơn, thì quan niệm về tiểu thuyết sát với đặc trưng thể loại hơn, có thể đưa ra một định nghĩa khái quát của Phương Lựu trong cuốn Lý luận như sau: “Tiểu thuyết là một hình thức tự sự cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận đại và hiện đại. Với những giới hạn rộng rãi trong hình thức trần thuật tiểu thuyết có thể chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả cụ thể cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp tái hiện nhiều tính đa dạng”. 1.1.2. Quan niệm nhân vật tiểu thuyết

Nhân vật là linh hồn, là yếu tố không thể thiếu trong tiểu thuyết, ở nhân vật có thể là chiếc cầu nối giữa “cuộc đời thực” và “cuộc đời có vẻ thực” trong tiểu thuyết. Qua thế giới nhân vật, người đọc sẽ tìm thấy những vấn đề nhân sinh mà tác giả muốn gửi gắm, muốn chia sẻ.

109

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Khi sáng tác, mỗi nhà văn thường chọn cho mình một thế giới nhân vật phù hợp với sở thích, cá tính của mình để miêu tả, thể hiện. Nguyễn Đình Thi đã viết : “Vấn đề trung tâm của nghệ thuật tiểu thuyết theo tôi, là miêu tả những con người và đường đi của họ trong xã hội. Người viết tiểu thuyết nghĩ mọi vấn đề đều phải thông qua các nhân vật, xuất phát từ nhân vật hơn là từ sự việc”. Một đặc điểm rất quan trọng trong tiểu thuyết hiện đại là nhân vật dường như mang tính tự thân. Nhiều lúc nó vượt ra khỏi sự kiểm soát, sự định hướng ban đầu của nhà văn để đi theo qui luật của cuộc đời, số phận.

Nhà văn chỉ có thể xây dựng nhân vật tiểu thuyết bằng chính vốn sống và sự hiểu biết về nhân vật. Và như thế, một vấn đề đặt ra trong phương thức xây dựng nhân vật tiểu thuyết, là giải quyết như thế nào mối quan hệ giữa nhân vật và tác giả. Có ý kiến cho rằng nhân vật trong tác phẩm là hình ảnh của tác giả, nhưng cũng có ý kiến ngược lại. 1.2. Quan niệm của Nhất Linh về tiểu thuyết

Trước năm 1932, Nhất Linh theo quan điểm của các nhà Nho. Tiểu thuyết Nho phong

(1926) và tập truyện ngắn Người quay tơ (1927) thể hiện khá rõ những quan niệm trên.

Sau khi du học ở Pháp về, Nhất Linh đã thay đổi quan niệm văn chương.. Số phận con người cá nhân, quyền sống, quyền tự do dân chủ, quyền được hưởng hạnh phúc, lòng khao khát lý tưởng được nhà văn quan tâm thể hiện trong hàng loạt tiểu thuyết : Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng và hai tiểu thuyết viết chung với Khái Hưng: Gánh hang hoa, Đời mưa gió. Trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết Nhất Linh, đã nói rõ về quan niệm viết tiểu thuyết của mình. Ông cho rằng một cuốn tiểu thuyết hay là “tả đúng sự thực cả bề trong lẫn bề ngoài. Diễn tả linh động các trạng thái phức tạp của cuộc đời...”, “việc diễn tả tâm hồn và những uổn khúc của tâm hồn, những ý nghĩ thầm kín của các nhân vật là việc làm khó nhất”. Theo Nhất Linh hình dáng nhân vật “không nên tả ngay một lúc”.Với tư cách một người sau lưng có nhiều tiểu thuyết đã xuất bản ông chân thành kể ra những quan niệm non nớt của mình hồi đang viết nhiều viết khoẻ. Trong “Tự lực văn đoàn”, nghệ thuật của Nhất Linh có thể nói là vững vàng nhất. 1.3. Hai kiểu tiểu thuyết của Nhất Linh 1.3.1. Tiểu thuyết luận đề

Nói về loại tiểu thuyết này, Nhất Linh cũng đã đưa ra quan niệm: “Viết luận đề tiểu thuyết nghĩa là viết tiểu thuyết để nêu lên một lý thuyết, để tán dương, tuyên truyền một cái gì tác giả cho là tốt đẹp, để đả đảo một cái gì tác giả cho là xấu xa, viết tiểu thuyết để phụng sự, để chứng tỏ một cái gì đó…”. Ở tiểu thuyết luận đề, Nhất Linh đã có sự can thiệp khá rõ tới nhân vật. Để khẳng định và bảo vệ cho luận đề của mình, Nhất Linh luôn xây dựng nhân vật chính diện mang tư tưởng luân đề, nhân vật phản diện thì chống lại. Mặt khác, nhân vật thường được khai thác mặt có lợi cho luận đề. Kết thúc các tiểu thuyết luân đề thường là kết thúc có hậu vì thế nó thường mang màu sắc duy lý, vì tất cả mọi biểu hiện đều bộ lộ tình cảm và dục vọng của nhân vật. 1.3.2. Tiểu thuyết tâm lý

Ở tiểu thuyết tâm lý, ông đặt ra yêu cầu đi sâu khám phá tâm lý con người chú trọng miêu tả cảm giác của nhân vật, đây cũng là nét khu biệt và là thành tựu nghệ thuật trong việc thể hiện nội tâm của văn học lãng mạn. Những hoạt động bên ngoài không còn được giữ vai trò quan trọng như trước đây nữa, nhân vật được quan tâm trong mối quan hệ với đời sống nội

110

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tâm. Nhất Linh mở rộng diện quan tâm tới các nhân vật với nét tâm lý khác nhau trong quá trình miêu tả. Thay cho động cơ tâm lý nhất quán một chiều là những biểu hiện đa dạng hơn, có cả phần mơ hồ của tiềm thức, vô thức, nhiều khi cá nhân hành động mà không tự biết mình. Đây là nét khác nhau cơ bản trong nét xây dựng tâm lý nhân vật ở tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lý của Nhất Linh. Các quá trình tâm lý được quan tâm, thay cho các trạng thái tâm lý trước đây, với những biểu hiện của sự vận động, qua những mâu thuẫn nội tại phức tạp. Hành vi bên ngoài và suy nghĩ bên trong của nhân vật không thống nhất đơn giản một chiều, nhân vật độc thoại nhiều hơn, hiện tượng người trần thuật nhập vào ý nghĩ của nhân vật với cái nhìn từ bên trong xuất hiện nhiều hơn.

CHƯƠNG II NHÂN VẬT VÀ KẾT CẤU CỐT TRUYỆN TRONG ĐÔI BẠN VÀ BƯỚM TRẮNG

2.1. Quan niệm của Nhất Linh về con người 2.1.1. Quan niệm về con người trong văn học

Quan niệm con người cũng là một sản phẩm của lịch sử. Nó chịu sự chi phối của cá tính sáng tạo của nhà văn, truyền thống văn hoá dân tộc và ảnh hưởng của mối quan hệ giao lưu văn hoá quốc tế. Ở mỗi thời kỳ, mỗi nơi, mỗi con người khi đưa ra quan niệm nghệ thuật về con người đều có sự khác nhau. Đối với các nhà nghiên cứu phương Tây thì cho rằng con người chính là phương tiện tất yếu và quan trọng nhất để thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Theo Brech “các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống, mà là hình tượng được khắc hoạ phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả”.

Đối với các nhà nghiên cứu phê bình ở Việt Nam quan niệm nghệ thuật là cơ sở chắc chắn nhất để nghiên cứu tính độc đáo của các sáng tác nghệ thuật. Theo giáo sư Trần Đình Sử thì vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người thực chất là vấn đề “tính năng động của nghệ thuật, là giới hạn, phạm vi chiếm lĩnh đời sống của một hệ thống nghệ thuật, là khả năng thâm nhập của nó vào các miền khác nhau của cuộc đời”

Từ quan niệm nghệ thuật về con người dưới cách nhìn của các nhà nghiên cứu ta có thể thấy rằng con người khi được đưa vào trong tác phẩm nó trở thành đối tượng nhận thức các vấn đề của cuộc sống. Nhân vật được khắc hoạ qua cái nhìn của tác giả và được các nhà văn thể hiện qua các hình thức nghệ thuật. Ở các nhà văn lớn, sự hình thành quan niệm nghệ thuật của họ vừa có vai trò đặc biệt quyết định của cá tính sáng tạo của thế giới quan và tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. 2.1.2. Quan niệm về con người trong sáng tác của Nhất Linh

Trong tiểu thuyết như Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng… Ông đã thể hiện một quan niệm về con người mới làm nền tảng cho việc xây dựng cốt truyện và miêu tả nhân vật trong tác phẩm của mình. Trong tiểu thuyết của Nhất Linh, quan niệm nghệ thuật về con người được xây dựng theo mô hình con người cá nhân. Với tiểu thuyết tâm lý thì con người có khát vọng hành động tìm lối thoát li mọi quan hệ xã hội để thoả mãn tự do bản năng đây cũng là cấp độ cao nhất của con người cá nhân ý thức hướng tới một cuộc đời mới với một quan niệm sống mới, là ý thức thường trực trong con người ở tiểu thuyết Nhất Linh. Con người trong tiểu thuyết

111

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

luận đề là vậy, còn con người trong Đôi bạn, Bướm trắng thì lại đấu tranh để giải phóng bản năng của mình.

Trong các tiểu thuyết : Đoạn tuyệt, Lạnh lùng , hay Đôi bạn Nhất Linh quan niệm về nhân vật : Nhân vật đại diện cho chế độ và tập tục cũ như Bà Án (Bướm trắng) - là nhân vật phản diện; đồng thời có những nhân vật chính diện mang lý tưởng, thể hiện quan điểm tư tưởng, đạo đức của tác giả, của thời đại như: Loan (Đoạn tuyệt); Dũng (Đôi bạn), Trâm (Nắng thu)… Riêng ở Bướm trắng Nhất Linh còn thể hiện một quan niệm nghệ thuật mới về con người, nhân vật Trương không thể xếp vào hai loại nhân vật trên. Đó là nhân vật đại diện cho chính nhân vật đó, cho cách sống và suy nghĩ của chính họ. Ở đây, phải chăng nhà văn Nhất Linh đã xoá nhoà hai kiểu nhân vật, xoá nhoà ranh giới giữa thiện và ác, giữa tốt đẹp và xấu xa để tạo nên một kiểu nhân vật phức hợp, hội tụ nhiều phẩm chất, nhiều con người trong một chỉnh thể ?

Trong quan niệm nghệ thuật về con người của mình, nhà văn Nhất Linh đặc biệt quan tâm đến việc khám phá “con người bên trong”, khám phá những cảm xúc, cảm giác mong manh tinh tế cũng như mãnh liệt trong tâm hồn con người nhưng không vì vậy tác giả coi nhẹ việc khắc hoạ, đặc tả “con người bên ngoài”.

Quan điểm nghệ thuật của Nhất Linh về con người trong tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng cho thấy ông đã đổi mới hẳn quan niệm về con người và cách miêu tả con người, tạo thành chất lượng mới trong tác phẩm. 2.2. Quan hệ giữa cốt truyện và sự thể hiện nhân vật trong tiểu thuyết Nhất Linh 2.2.1. Vấn đề cốt truyện của tiểu thuyết

Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, đã định nghĩa: Cốt truyện “là hệ thống các sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch”.Cùng quan điểm như vậy, Lại Nguyên Ân cũng quan niệm: Cốt truyện là “sự phát triển hành động; tiến trình các sự việc, các biến cố trong tự sự và kịch, đôi khi cả trong tác phẩm trữ tình”.

Ở Việt Nam, các nhà tiểu thuyết giai đoạn đầu thế kỉ XX đã rất thành công trong việc từ bỏ lối viết chương hồi, kết thúc có hậu. Thay vào đó là sự lắp ghép nhiều mẩu chuyện xung quanh nhân vật chính, cốt truyện cô đọng, kết thúc bỏ ngỏ, tôn trọng sự thật. Người có công đầu trong những cách tân nghệ thuật này phải nói tới Song An Hoàng Ngọc Phách và nhóm Tự lực văn đoàn. Trong đó những đóng góp đáng ghi nhận nhất là nghệ thuật miêu tả tâm lý, tính cách nhân vật.

Như vậy, mặc dù vấn đề khái niệm “cốt truyện” đang còn là một vấn đề phức tạp nhưng trên cơ sở những khái niệm và những đặc điểm cơ bản vừa nêu trong luận văn này, chúng tôi cũng xin mạnh dạn khẳng định: cốt truyện là hệ thống các sự kiện, biến cố cụ thể được trình bày trong tác phẩm thuộc thể loại tự sự và kịch với ý đồ nghệ thuật của tác giả như một tiến trình và thể hiện qua các phương tiện nghệ thuật. 2.2.2. Tiến trình cốt truyện trong tiểu thuyết luận đề xã hội và tiểu thuyết tâm lý

Sự nghiệp sáng tác của Nhất Linh ở thể loại tiểu thuyết ta thấy có những tác phẩm tiêu biểu sau: Nho phong, Người quay tơ, Lạnh Lùng, Đoạn tuyệt, Đôi bạn, Bướm trắng. Ở đây, có sự vận động, chuyển hóa giữa tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lí.

112

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tiến trình cốt truyện trong tiểu thuyết luận đề là hành trình số phận cuộc đấu tranh xã hội của các nhân vật, đi sâu khai thác sự đối lập giữa tính cách và hoàn cảnh, giữa những nhân vật mang tính lý tuởng với xã hội phong kiến, giữa mới và cũ. Các tác phẩm này đấu trang cho một cuộc sống mới, phê phán lễ giáo phong kiến kìm kẹp con người còn trong tiểu thuyết tâm lý chính là hành trình của thế giới nội tâm của nhân vật, mâu thuẫn cơ bản của x ã hội không được đề cập đến hoàn cảnh xã hội hầu như không được phản ánh. Các sự kiện ít, mạch truyện chậm, hồi tưởng của nhân vật trôi chảy, tự nhiên tạo nên sự phát triển tâm lý nhân vật. 2.3. Hành trình số phận và hành trình nội tâm trong Đôi bạn 2.3.1. Đôi bạn một tiểu thuyết luận đề xã hội với nhiều yếu tố tâm lý

Đôi bạn có kết cấu song tuyến, bao gồm hai mạch chuyện chính: “Bản tình ca không lời” của “đôi bạn vẫn yêu nhau từ lâu” và hành khúc ra đi đầy trăn chở của “đôi bạn lên đường”. Đôi bạn là tiểu thuyết có kết cấu tâm lý - lối kết cấu thường lấy quá trình vận động bên trong của nhân vật, những phản ứng tâm lý của nhân vật đối với sự kiện và những diễn biến tâm trạng của nhân vật trong mỗi quan hệt với các nhân vật khác làm cơ sở để tổ chức tác phẩm. Thời gian của truyện không tuân theo trật tự tuyến tính của câu chuyện. Tác phẩm mở ra khi tất cả đã bắt đầu: mối tình Loan - Dũng, sự chán nản về hiện tại và khát vọng thoát ly của Dũng…và kết thúc khi tất cả đều chưa đi đến chung cục. Trong tác phẩm luôn có những sự ngưng kết: diễn biễn của mạch truyện như ngừng lại để cho nhân vật suy tư, ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm, tưởng tượng.

2.3.2. Con người hành động và suy tưởng ở Đôi bạn Nếu ở Nho Phong các nhân vật được định giá trong các mối quan hệ luân thường, thông qua việc thực hiện những bổn phận nghĩa vụ trong các mối quan hệ đó (con với cha, vợ với chồng…) thì Đôi bạn là tiếng nói khẳng định giá trị của cái tôi cá nhân vượt ra ngoài những khuôn phép truyền thống.

Những thanh niên ít nhiều chịu ảnh hưởng Tây học, mang tư tưởng tân tiến, như: Dũng, Trúc, Thái, Cận, Tạo, hay Loan, Hà, Phương đều có ý thức sâu sắc về giá trị sống của mình và họ luôn làm chủ sự sống ấy. Họ sống trong những mối quan hệ luân thường của xã hội, phong kiến, họ luôn luôn trăn trở, thao thức để kiếm tìm một phương thức sống mới, một cuộc đời mới, luôn băn khoăn tìm cách giải phóng mình khỏi hoàn cảnh đang sống. Dũng nói: “Tôi có tự do của tôi, tôi muốn sống thế nào thì mặc xác tôi”. Bởi thế, Dũng luôn luôn trăn trở trong ý định đoạn tuyệt với thực tại để ra đi, để hành động. Chàng luôn coi cảnh đời sau này khi đã bỏ nhà đi - mới là cuộc sống đích thực của mình.

Qua số phận, hành động…của các nhân vật trên đã phản ánh “tâm trạng của một lớp thanh niên đau đớn, chán chường sau kh i cuộc khởi nghĩa Yên Bái, Lâm Thao thất bại”. Con người trong Đôi bạn luôn có tâm trạng cô đơn, nỗi đau khổ, băn khoăn hoặc có hoàn cảnh éo le”. Như vậy, Đôi bạn đã thể hiện những khát vọng hành động của một số thanh niên đang bị nhấn chìm trong nỗi dằn vặt, đau nhói vì cuộc sống không có lý tưởng, không lối thoát. 2.4. Hành trình của nhân vật trong Bướm trắng 2.4.1. Bướm trắng một tiểu thuyết tâm lý

Bướm trắng đã có những hướng đi mới, thể hiện sự cách tân của tiểu thuyết. Việc sử dụng hình thức kết cấu tâm lý đã làm phá vỡ kiểu kết cấu truyền thống. Các sự kiện, biến cố không là mối quan tâm hàng đầu trong tác phẩm mà nhân vật trở thành yếu tố hàng đầu, câu

113

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chuyện không cần kết thúc có hậu, mạch truyện không cần phát triển theo trình tự thời gian tự nhiên mà theo sự diễn biến của tâm lý. 2.4.2. Cốt truyện của tiểu thuyết Bướm trắng

Góp phần vào sự đa dạng và hiện đại hoá nghệ thuật tiểu thuyết, cốt truyện tâm lý của Nhất Linh thuộc cốt truyện đồng tâm. Hệ thống sự kiện được tác giả kể lại đơn giản, gọn gàng, tập trung thể hiện quá trình phát triển của tính cách trong một giai đoạn cuộc đời nhân vật. Tiểu thuyết Bướm trắng chỉ xoay quanh thế giới tâm trạng của Trương - một sinh viên trường Luật. “Bướm trắng, với cốt truyện đơn giản, là: “thế giới bên t rong” con người vô cùng biến động đó là ý thức và tiềm thức, cái vô lý và cái phi lý, giấc mơ, mê sảng, linh cảm…Đó là thế giới bên trong của Trương, một thanh niên trí thức ho lao, đi tìm tình yêu (cái đẹp) vô vọng trong tuyệt vọng. Tình yêu, cái chết, màu trắng, máu, tự tử, vào tù, sám hối, truỵ lạc, tình thương, đám ma, đời sống thôn dã…, đó là những “phiêu lưu” trong tâm hồn Trương được Nhất Linh miêu tả, phân tích một cách tinh vi”. 2.4.3. Hành trình tâm lý nhân vật chính trong tiểu thuyết Bướm trắng

Hành trình tâm lý nhân vật Trương được thể hiện rõ nét nhất là từ khi chàng đi khám

bệnh để biết rõ số phận mình, cái chết không còn là một ám ảnh xa xôi nữa, nó hiện hình với thời gian định sẵn, sau lời phán quyết của bác sỹ. Bắt đầu số phận đau khổ, tuyệt vọng. Trương luôn luôn nghĩ đến cái chết. Trong 133 trang của tiểu thuyết Bướm trắng số lần nói đến cái chết là 135 lần, nói đến cuộc sống là 105 lần. Trương không chỉ bị dày vò đau đớn về cái chết, về cuộc sống, chàng còn đau đớn, khốn khổ vì tình yêu. Từ xét đoán mọi điều “vô lí”, nhân vật Trương tự nhận ra mình, tự bộc lộ, tự khám phá mình. Chính nhà văn và độc giả cũng đi vào hành trình khám phá đó. Nhà văn khẳng định cho Trương một tính cách rồi thể hiện tính cách ấy bằng hành động, ngôn từ, tả cảnh, đối thoại…

CHƯƠNG III CÁC THỦ PHÁP XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG ĐÔI BẠN VÀ BƯỚM TRẮNG

3.1. Các thủ pháp thể hiện thế giới bên trong của nhân vật trong Đôi bạn và Bướm trắng 3.1.1. Đối thoại tâm lý 3.1.1.1. Đối thoại mang tính chất ám chỉ

Theo sự thống kê của chúng tôi, hình thức đối thoại mang tính chất ám chỉ sử dụng trong Đôi bạn là : 9 lần [xem 26: 292, 315-316, 327, 332, 336-337, 344, 346, 369, 371] và ở Bướm trắng có số lần ít hơn Đôi bạn: 8 lần [xem 27: 397, 398, 399 -400, 417, 421- 422, 501, 543, 558]. Một ví dụ tiêu biểu ở tiểu thuyết Đôi bạn: Cuộc trò chuyện giữa bà Hai, Loan và Dũng, Dũng đã bóng gió bày tỏ tình cảm của mình cho Loan biết qua lập luận: Không lấy vợ - Dũng sẽ lấy vợ nếu gặp người vừa ý - không lấy vì sợ người ấy khổ. Bà Hai cho rằng: “Anh nói có giời hiểu”, nhưng Loan khẳng định: “Trời không hiểu nhưng người may hiểu chăng”. Lời nói ấy phản ánh đúng sự đứt đoạn và sự nối tiếp trong mạch ngầm của lời đối thoại. Loan có thể hiểu được vì sao Dũng không lấy vợ và có lấy vợ, nhất là thừa biết cái người vừa ý ấy là mình, nhưng Loan không thể hiểu được tại sao lại sợ người ta khổ, bởi vì Loan không hình dung và đoán định được hết mộng ước phiêu lưu trong con người Dũng, đặc biệt là quan niệm: “việc yêu Loan và sự cưới xin, chàng phân tách ra làm hai việc không có liên lạc gì với nhau cả ”.

114

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3.1.1.2. Đối thoại qua hành vi và cử chỉ

Các nhân vật của Nhất Linh qua Đôi bạn và Bướm trắng, ngoài hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ, họ còn giao tiếp với nhau bằng các hành vi phi ngôn ngữ. Ánh mắt, nụ cười, cử chỉ…của họ đã tham gia vào cuộc đối thoại không đơn giản chỉ để bổ xung cho ngôn từ bên ngoài mà là những tín hiệu thẩm mĩ gợi ra một cuộc đối thoại khác. Kiểu đối thoại này có ý nghĩa biểu đạt trạng thái tâm lý nhân vật rất sâu sắc. Chúng tôi gọi đó là đối thoại không lời. Loại đối thoại này chính là một phương tiện hữu ích để trao đổi tình cảm giữa các nhân vật Dũng-Loan, Trương-Thu. Nó cũng là một môtíp phổ biến,” yêu trong tâm hồn, yêu trong ý tưởng” của văn chương Tự lực văn đoàn.

Mối tình Loan-Dũng trong Đôi bạn không hề có một lời yêu thương nào, chỉ có ánh mắt trao gửi như một lời tỏ tình, nếu có nói thì chỉ là những câu ý tứ - chỉ hai người ngầm hiểu với nhau. Trương - Thu trong Bướm trắng cũng thường dùng ánh mắt để trao đổi tình cảm cho nhau. Đoạn văn đặc sắc nhất, thể hiện được những thành công của Nhất Linh với thủ pháp trên là đoạn văn miêu tả đôi trai gái hôm đi chơi chùa Thầy: “Tình cờ chàng được ngồi vào chỗ rất tốt vì nhìn vào chiếc gương con chàng thấy in rõ hình khuôn mặt Thu (…). Xe đi khỏi Ô Cầu Giấy, Thu mới nhận biết là từ lúc đó Thu không nói chuyện nữa. Hai người yên lặng nhìn nhau. Trương không thấy ngượng lắm như khi nhìn thẳng vào mắt Thu thỉnh thoảng chàng chớp mắt luôn mấy cái rồi nhắm mắt lại một lúc lâu như để cố giữ lại cái hình ảnh đẹp của hai con mắt Thu. Chàng hạ lông mi xuống một chút và tưởng như đó là một lời nói Thu có thể hiểu:- Anh yêu em lắm. Chàng thấy Thu cũng bắt chước hạ lông mi làm hiệu như có ý trả lời:- Em đã hiểu là anh định nói với em điều gì ”. Chỉ cần như thế hai nhân vật đã quá hiểu tâm hồn nhau. Hình thức đối thoại mang tính chất ám chỉ và đối thoại không lời đã làm rõ cảm giác về người khác trong nhân vật của Đôi bạn và Bướm trắng. Đó là một thành tựu mà Nhất Linh cũng như Tự lực văn đoàn tiếp t hu được từ Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách và nâng lên một chất lượng mới. Cảm giác về nhau, hay mối giao cảm giữa những cặp tình nhân này giống như những mắt lưới dệt nên các cuộc tình trong tiểu thuyết Nhất Linh. 3.1.2. Độc thoại nội tâm

Trong tiểu thuyết Nhất Linh nội tâm nhân vật không chỉ được khám phá qua lời nói, cử chỉ, hành vi mà tác giả còn khai thác thủ pháp độc thoại nội tâm giúp người đọc đi sâu hơn nữa vào tâm hồn nhân vật.

Chúng tôi đã làm một thống kê nhỏ về tỉ lệ dòng văn bản độc thoại và độc thoại nội tâm ở hai tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng: Kết quả cho thấy tỉ lệ này có sự chênh lệch khá lớn. Ở Đôi bạn : 2,26% (111/4904 dòng văn bản) trong khi đó Bướm trắng có tỉ lệ lớn hơn hẳn: 7,46%(385/5161 dòng văn bản). Như vậy, ở tiểu thuyết Bướm trắng hình thức độc thoại nội tâm hoàn hảo hơn cả. Nhất Linh không chỉ chú ý tới lĩnh vực ý thức mà còn khai thác hợp lý những vấn đề tiềm thức trong tâm hồn nhân vật.

Bằng hình thức độc thoại nội tâm, Nhất Linh đã chạm đến những sự vận động nằm ở phần tiềm thức của tâm hồn nhân vật, khiến nó trở thành một thế giới khép kín. Tuy tham gia vào mọi cuộc giao tiếp, nhưng dường như nhân vật chỉ quan tâm đến những chuyển biến trong tâm trạng của nó mà thôi. 3.1.3 . Thể hiện tâm lí nhân vật qua tả cảnh thiên nhiên

115

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ở Đôi bạn, thiên nhiên xuất hiện với tần số cao và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thể hiện nhân vật. Thiên nhiên không chỉ tạo nên không gian bối cảnh cho nhân vật xuất hiện mà còn làm tôn thêm lên vẻ đẹp của nhân vật, gắn liền với biểu hiện rõ hơn các trạng thái tâm lý của họ. Thiên nhiên gắn với mối tình Loan - Dũng ngọt ngào, gần gụi, tươi sáng, đầy hương sắc; thiên nhiên gắn với cuộc ra đi của Dũng - Trúc thoáng đãng, hùng vĩ, được miêu tả với độ cao xa khiến nhân vật phải ngước nhìn, phải hình dung, tưởng tượng, so sánh …Có thể nói rằng trong Đôi bạn, nếu thiếu đi sự diễn tả thiên nhiên thì nhân vật sẽ nghèo nàn, cằn cỗi và bớt hấp dẫn đi rất nhiều.

So với Đôi bạn, rất ít cảnh thiên nhiên được miêu tả trong “Bướm trắng”. Quả thực cuốn tiểu thuyết này Nhất Linh rất khác biệt so với các tác phẩm khác của ông cũng như của các nhà văn cùng nằm trong Tự lực văn đoàn. Bởi kết hợp với một số thư pháp khác, Bướm trắng bước đến gần hơn với thư pháp tiểu thuyết hiện đại . Thiên nhiên góp phần bộc lộ tâm lý nhân vật nhưng mức độ xuất hiện không còn nhiều so với các tiểu thuyết trước. Nhất Linh đã dùng nhiều cảnh thiên nhiên để diễn tả tâm lý, tâm trạng của Trương khi gặp gỡ Thu, người con gái đẹp mà chàng biết là sẽ yêu. Thiên nhiên như sợi dây bảo hiểm, khi con người ta chơi vơi, tuyệt vọng, nó giúp cho con người le lói một cái gì đó, tìm về sự bình an của cuộc sống, niềm hy vọng và nhìn rõ mình hơn. Nó là niềm an ủi tươi sáng, khát khao cháy bỏng về tình yêu, lòng ham sống một cuộc sống tươi đẹp. Đó là bút pháp thành công của Nhất Linh. 3.2. Mô tả hình thức bên ngoài của nhân vật trong mối quan hệ với thế giới nội tâm sâu kín

- Ở tiểu thuyết Nhất Linh cũng như tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, con người có ý thức về sắc đẹp tự thân là một yếu tố của giá trị cá nhân. Đặc điểm cơ bản trong cách thể hiện ngoại hình nhân vật trong tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng của Nhất Linh: Vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật luôn luôn phụ thuộc vào thế giới tình cảm của người đang cảm nhận về chúng. Vẻ đẹp của nhân vật không được Nhất Linh miêu tả một cách tập trung như cách miêu tả thường thấy trong văn học cổ điển - nghĩa là vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật hiện ra dần dần mang đến cho người đọc một sự thưởng thức từ từ ở những đường nét ấn tượng và gợi cảm giác thưởng thức. Có thể đây là một sự tiến bộ trong bút pháp nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nhất Linh.

C - KẾT LUẬN Đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam chuyển mình với những sức sống mới trỗi dậy một cách mãnh liệt. Trong dòng chuyển lưu mạnh mẽ ấy, văn học Việt Nam có điều kiện gặp gỡ, tiếp xúc với nền văn học mới ở phương Tây. Những ảnh hưởng giao thoa đã đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam. Lịch sử xã hội và những nhu cầu thời đại đã làm xuất hiện nhiều tổ chức văn học, trong đó có Tự lực văn đoàn. Cùng với Tự lực văn đoàn không thể không nhắc tới Nhất Linh “người cầm đầu, người điều hành…đồng thời cũng là một cây bút tiểu thuyết trụ cột của nhóm ”. Nhất Linh làm báo, viết văn. Cống hiến của ông đối với văn học không chỉ ở khối lượng tác phẩm ông để lại cho đời mà còn ở những đóng góp về mặt cách tân nghệ thuật tiểu thuyết, hiện đại hoá tiểu thuyết.

Trước năm 1932, Nhất Linh sáng tác theo quan niệm của các nhà Nho nhưng sau khi du học ở Pháp về ông đã thay đổi quan niệm văn chương. Qua cuốn Viết và đọc tiểu thuyết Nhất Linh đã đưa ra quan niệm viết tiểu thuyết của mình tuy không thật sắc sảo, càng không uyên

116

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bác. Song những ý kiến mà Nhất Linh viết ra trong cuốn Viết và đọc tiểu thuyết là sự chân thành.

Hai kiểu tiểu thuyết: Tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lý của Nhất Linh mỗi kiểu tiểu thuyết có một chức năng riêng, do đó có cách xây dựng nhân vật khác nhau. Ở tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh miêu tả tâm lý nhân vật đều có liên quan trực tiếp đến các vấn đề xã hội. Đến tiểu thuyết tâm lý, ông yêu cầu đi sâu khám phá tâm lý con người chú trọng miêu tả cảm giác của nhân vật, những hoạt động bên ngoài không còn được giữ vai trò quan trọng như trước đây nữa, nhân vật được quan tâm trong mối quan hệ với đời sống nội tâm. Đây là nét khác nhau cơ bản trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ở tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết tâm lý của Nhất Linh.

Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết của Nhất Linh được xây dựng theo mô hình con người cá nhân. Với tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng, vấn đề cá nhân đã được ý thức ở cấp độ mới hẳn. Tiểu thuyết Đôi bạn và Bướm trắng cho chúng ta thấy sự cách tân văn học của Nhất Linh không chỉ dừng lại ở một cuộc cách mạng về tư tưởng, văn hóa mà sâu xa hơn, nó đã tác động đến phần nhạy cảm nhất trong mỗi nhà văn: nghệ thuật viết tiể u thuyết.

Để khám phá “con người bên trong”, tác giả Nhất Linh đã miêu tả tâm lý nhân vật ở các mức độ biểu hiện khác nhau. Tâm lý nhân vật tự bộc lộ ra bên ngoài qua những biểu hiện nhỏ nhặt, qua ngôn ngữ, hành động, cử chỉ có tính bột phát bất chấp sự kiểm soát của lý trí và ý thức. Mặt khác, tâm lý nhân vật được miêu tả thể hiện trực tiếp hoặc cũng có thể được nhận thức qua quá trình phân tích của chính bản thân nhân vật. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nhất Linh qua Đôi bạn và Bướm trắng đạt tới sự nhuần nhuyễn trong việc sủ dụng các thủ pháp: Đối thoại tâm lý (đối thoại mang tính chất ám chỉ; đối thoại qua hành vi, cử chỉ), độc thoại nội tâm; sự thể hiện tâm lý nhân vật qua tả cảnh thiên nhiên và mô tả hình thức bên ngoài của nhân vật trong mối quan hệ với thế giới nội tâm sâu kín.

Trong các cuộc đối thoại mang tính chất ám chỉ, ở Đôi bạn các nhân vật nhằm khám phá những dự cảm về nhau. Họ mang trong mình những tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, luôn khao khát tìm kiếm những điệu hồn đồng điệu. Ở Bướm trắng, Nhất Linh sử dụng biện pháp đối thoại ám chỉ để thể hiện những thăm dò tình cảm lẫn nhau giữa các nhân vật. Các nhân vật trong Đôi bạn và Bướm trắng, ngoài hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ, họ còn giao tiếp với nhau bằng hành vi phi ngôn ngữ. Đó là những tín hiệu thẩm mỹ gợi ra các cuộc đối thoại và biểu đạt trạng thái tâm lý nhân vật rất sâu sắc. Bằng hình thức độc thoại nội tâm, Nhất Linh đã chạm đến những vận động nằm ở trong tiềm thức của tâm hồn nhân vật, khiến nó trở thành thế giới khép kín. Tuy tham gia vào cuộc giao tiếp, nhưng dường như các nhân vật trong Đôi bạn và Bướm trắng chỉ quan tâm đến những biến chuyển trong tâm trạng. Ngoài ra, trong các thủ pháp xây dựng nhân vật Nhất Linh còn thể hiện tâm lý nhân vật qua tả cảnh thiên nhiên. Thiên nhiên không chỉ tạo nên không gian bối cảnh cho nhân vật xuất hiện mà còn làm tôn thêm vẻ đẹp cho nhân vật, gắn liền với biểu hiện rõ hơn các trạng thái tâm lý của họ. Có thể nói, đến tiểu thuyết của Nhất Linh con người có ý thức công khai về sắc đẹp tự thân là một yếu tố của giá trị cá nhân. Việc xây dựng ngoại hình nhân vật trong Đôi bạn và Bướm trắng đã có những bước tiến bộ trong văn học truyền thống nó không còn tĩnh tại, giản đơn, bất biến nữa mà có mối quan hệ mật thiết hữu cơ với mọi mặt của con người.

117

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tuy nhiên, nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh không tránh khỏi những hạn chế. Một số nhân vật của ông không có sức sống lâu bền, do tính cách chưa sắc cạnh, tâm lý nhân vật còn đơn giản và ít biến cố. Khi đi vào tâm lý nhân vật của Nhất Linh trở nên cô đơn trong cõi riêng của mình, rơi vào trạng thái phi logic, đối lập với thực tại. Đôi khi thế giới nội tâm nhân vật, ngôn ngữ mô tả còn có sự trùng lặp…

Với đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Nhất Linh qua Đôi bạn và Bướm trắng. Chúng tôi xin góp một ý kiến nhỏ bé vào việc ghi nhận những gì mà Nhất Linh đã đóng góp cho công cuộc hiện đại hoá văn học Việt Nam. Trong luận văn này còn nhiều thiếu sót mà chúng tôi sẽ cố gắng hoàn thiện dần trên con đường học tập và nghiên cứu của mình.

118

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn