intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghi lễ nông nghiệp của người Khơme vùng Tây Nam bộ

Chia sẻ: Kiếp Này Bình Yên | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

131
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này phân tích giá trị văn hóa của nghi lễ nông nghiệp của người Khơme vùng Tây Nam Bộ, đồng thời đưa ra một số giải pháp bảo tồn và phát huy các nghi lễ nông nghiệp của người Khơme vùng Tây Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghi lễ nông nghiệp của người Khơme vùng Tây Nam bộ

Nghi lễ nông nghiệp của người Khơme vùng Tây Nam Bộ<br /> <br /> <br /> NGHI LỄ NÔNG NGHIỆP CỦA NGƯỜI KHƠME<br /> VÙNG TÂY NAM BỘ<br /> NGUYỄN THÀNH TRUNG *<br /> HÀ THỊ THÙY DƯƠNG **<br /> <br /> Tóm tắt: Văn hóa Việt Nam vốn là nền văn hóa nông nghiệp. Do vậy, các<br /> nghi lễ nông nghiệp ở Việt Nam thường hết sức phong phú và phổ biến ở mọi<br /> địa phương, các vùng miền. Đồng bào Khơme ở Tây Nam Bộ có một hệ thống<br /> các nghi lễ nông nghiệp khá đặc sắc so với nghi lễ nông nghiệp của các dân tộc<br /> khác. Những nghi lễ này ngày nay vẫn còn nhiều giá trị tích cực đối với cuộc<br /> sống cộng đồng. Bài viết phân tích giá trị văn hóa của nghi lễ nông nghiệp của<br /> người Khơme vùng Tây Nam Bộ; đưa ra một số giải pháp bảo tồn và phát huy<br /> các nghi lễ nông nghiệp của người Khơme vùng Tây Nam Bộ trong giai đoạn<br /> hiện nay.<br /> Từ khóa: Giá trị văn hóa; nghi lễ nông nghiệp; dân tộc; người Khơme.<br /> <br /> 1. Bản sắc của nghi lễ nông nghiệp vùng Tây Nam Bộ bao gồm cả những lễ<br /> của người Khơme vùng Tây Nam Bộ nghi chỉ có phần lễ và không có phần<br /> Nếu lễ hội được quan niệm là “cuộc hội và những lễ nghi có kèm phần hội. (1)<br /> vui chung, có tổ chức, có các hoạt động Đồng bào Khơme vùng Tây Nam Bộ<br /> nghi lễ mang tính văn hóa truyền có một hệ thống nghi lễ nông nghiệp<br /> thống”(1), thì nghi lễ là “nghi thức và khá đa dạng, phong phú, trong đó có thể<br /> trình tự tiến hành một cuộc lễ”(2). Như kể đến những nghi lễ chính như lễ cầu<br /> vậy, nghi lễ là một nội dung quan trọng mưa, lễ thờ lúa, gọi hồn lúa, đắp núi lúa,<br /> của lễ hội. Nghi lễ nông nghiệp của tết Chol Chnăm Thmây, lễ cúng trăng<br /> người Khơme vùng Tây Nam Bộ là (Ok-Om-Bok) và lễ cầu an. Những nghi<br /> những nghi lễ không định kỳ được thực lễ nông nghiệp của người Khơme vùng<br /> hiện nhằm biểu đạt những nguyện vọng Tây Nam Bộ vừa có những nét tương<br /> nhất định của cộng đồng, diễn ra khi đồng với các nghi lễ nông nghiệp của<br /> cuộc sống cộng đồng nảy sinh một sự các dân tộc khác sinh sống trên đất nước<br /> kiện thiên nhiên liên quan mật thiết đến Việt Nam, vừa có những nét đặc sắc<br /> đời sống sản xuất nông nghiệp của cộng riêng không thể hòa lẫn. Cụ thể là:<br /> đồng (như lễ cầu mưa chỉ được tổ chức<br /> khi có hạn hán lớn) và cả những nghi lễ<br /> (*), (**)<br /> định kỳ được tổ chức định kỳ gắn liền Thạc sĩ, Học viện Chính trị khu vực IV.<br /> (1)<br /> Trung tâm từ điển học (2008), Từ điển tiếng<br /> với một giai đoạn sản xuất nông nghiệp. Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.<br /> Nghi lễ nông nghiệp của đồng bào Khơme (2)<br /> Sđd.<br /> <br /> 95<br /> Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(87) - 2015<br /> <br /> Thứ nhất, về thời gian và không gian cầu mưa được tổ chức vào tháng 5,<br /> diễn ra các nghi lễ nông nghiệp. Các tháng 6, khi miền Tây Nam Bộ đã bước<br /> nghi lễ nông nghiệp có đặc điểm chung vào mùa mưa. Nhưng nếu trời vẫn nắng<br /> là được tổ chức theo mùa - theo chu kỳ gay gắt, không thuận lợi cho cây lúa vừa<br /> thời vụ gieo cấy. Hệ thống nghi lễ nông mới được gieo cấy xuống, thì đồng bào<br /> nghiệp của Việt Nam hiện nay được tổ Khơme làm lễ cầu mưa để cho việc sản<br /> chức vào hai mùa là mùa xuân và mùa xuất lúa được thuận lợi. Lễ gọi hồn lúa<br /> thu, theo tiết “xuân thu nhị kỳ” gắn với được tổ chức khi đồng bào Khơme bắt<br /> tập quán sản xuất lúa 2 mùa của đồng đầu bước vào mùa gặt lúa, thu hoạch lúa<br /> bào. Các nghi lễ nông nghiệp của đồng lễ cúng trăng (Ok-Om-Bok) được tổ<br /> bào Khơme vùng Tây Nam Bộ cũng gắn chức vào ngày 15 tháng 10 (âm lịch),<br /> chặt với chu kỳ sản xuất nông nghiệp, khi đồng bào đã hoàn thành xong mùa<br /> nhưng do đồng bào Khơme có tập quán vụ sản xuất, đồng thời đây cũng là thời<br /> sản xuất lúa một vụ lâu đời, mãi đến gần điểm khi mùa khô đến, mùa ẩm ướt sắp<br /> đây, họ mới sản xuất lúa 2 vụ. Hơn nữa, đi qua để đồng bào thể hiện mong ước<br /> đồng bào Khơme sống ở vùng Tây Nam thần Mặt trăng đã cho mưa thuận gió<br /> Bộ, nơi chỉ có hai mùa mưa và khô, chu hòa, để bà con có một mùa vụ bội thu và<br /> kỳ sản xuất lúa của đồng bào kéo dài thể hiện ước muốn cầu tạnh.<br /> trong mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 11, Về không gian, các nghi lễ nông<br /> do đó, thời gian tổ chức các nghi lễ nông nghiệp của đồng bào Khơme, cũng<br /> nghiệp của đồng bào Khơme vùng Tây giống như nhiều tộc người khác, diễn ra<br /> Nam Bộ gắn liền với những dấu mốc ở nhiều địa điểm như ngoài đồng, trong<br /> quan trọng của chu kỳ sản xuất lúa mùa miếu, trong nhà... Tuy nhiên, điểm khác<br /> này. Tết Chol Chnăm Thmây với nghĩa biệt trong nghi lễ nông nghiệp của đồng<br /> là mừng mùa vụ mới trong năm, được tổ bào Khơme vùng Tây Nam Bộ là ở chỗ,<br /> chức vào khoảng giữa tháng 4, là lúc nghi lễ còn diễn ra ở chùa. Rất nhiều<br /> đồng bào Khơme bắt đầu bước vào mùa nghi lễ nông nghiệp diễn ra ở chùa như<br /> vụ sản xuất mới theo nông lịch cổ lễ cầu mưa, lễ Chol Chnăm Thmây, lễ<br /> truyền. Trong lễ hội Chol Chnăm Thmây, Ok-Om-Bok, lễ đắp núi lúa... Điều này<br /> đồng bào còn tiến hành nghi lễ đắp núi là một đặc trưng riêng của tộc người<br /> lúa, hoặc núi cát để xua đuổi mùa khô, Khơme vì đa số người Khơme đều là<br /> đón mùa mưa đến sớm để mùa màng Phật tử.<br /> tươi tốt, thóc lúa nhiều thêm. Lễ cầu an Thứ hai, về lễ vật dâng cúng trong<br /> thường được tổ chức sau tết Chol nghi lễ nông nghiệp của đồng bào<br /> Chnăm Thmây từ 15 đến 30 ngày. Đó là Khơme vùng Tây Nam Bộ. Cũng giống<br /> khi đồng bào Khơme đã bước vào mùa như các lễ nghi nông nghiệp khác, lễ vật<br /> vụ mới, họ cầu thần thiên nhiên phù hộ dâng cúng của đồng bào Khơme đều là<br /> độ trì cho họ có một mùa vụ bội thu. Lễ những sản vật trong nông nghiệp, cả<br /> <br /> 96<br /> Nghi lễ nông nghiệp của người Khơme vùng Tây Nam Bộ<br /> <br /> trong trồng trọt và chăn nuôi, trong đó thần linh như đặt một con cá lóc, một<br /> nhiều nhất là những lễ vật làm từ lúa con lươn, một con ếch, một con sò (hoặc<br /> gạo. Tuy nhiên, mỗi tộc người có khẩu một con cua thay con sò) quằn quại<br /> vị và cách chế biến riêng nên các lễ vật trong hố dưới trời nắng chang chang để<br /> dâng cúng trong lễ nghi nông nghiệp thần linh cho mưa... Tuy nhiên, điểm<br /> của đồng bào Khơme cũng được chế khác biệt của các nghi thức trong nghi lễ<br /> biến theo văn hóa ẩm thực của đồng bào nông nghiệp của đồng bào Khơme so<br /> như cốm dẹp, num tiênh (bánh ít), num với các dân tộc khác chính là ở chỗ các<br /> khnhây (bánh gừng làm bằng bột nếp nghi thức được giải thích bằng các Phật<br /> pha với đường, nặn thành hình củ gừng tích cũng như mang tính chất Phật giáo.<br /> rồi chiên cho vàng), num akâu (bánh Nghi thức đặt con cá lóc trong một chậu<br /> bò)... Ngoài ra, các lễ vật dâng cúng này nước và đặt trước mặt một ông sư ngồi<br /> còn biểu thị quan niệm, cách suy nghĩ trước thềm chùa để làm lễ tụng kinh cầu<br /> của đồng bào. Nếu như một số tộc người mưa dưới trời nắng bắt nguồn từ một<br /> khác, lễ vật dâng cúng trong các nghi lễ huyền thoại. Theo huyền thoại này:<br /> nông nghiệp có cả trâu, bò thì ít thấy bà “Xưa kia vào một năm nào đó, hạn hán<br /> con Khơme đem trâu, bò cúng các vị rất to làm các sinh vật bị chết đói.<br /> thần vì họ cho rằng trâu, bò là động vật Thương hại chúng sinh, Đức Phật đã tự<br /> phụ giúp lao động chính trong sản xuất hóa mình thành một con cá nằm quằn<br /> nông nghiệp của mình. Đồng bào Khơme quại trong ao khô để thần Inđra (một vị<br /> thường cúng đầu heo, gà hoặc vịt vì họ thần mưa gió trong thần thoại Ấn Độ)<br /> cho rằng thần Neak Ta ma chăs sróc thì thấy Phật quá khổ mà làm mưa xuống”.<br /> thích dùng đầu heo, thần Neak Ta Srê lại Một dị bản khác về huyền thoại này lại<br /> thích con gà luộc hoặc vịt luộc. Riêng cho rằng không phải cá lóc nằm quằn<br /> thần Neang hing prăs thô ra nây thì lại quại trong ao khô để chờ mưa mà chính<br /> thích dùng trái cây và các loại bánh. cá lóc đích thân lên Trời kêu cứu. Dị<br /> Thứ ba, về các nghi thức trong nghi bản nào cũng đều gắn liền với Phật tích.<br /> lễ nông nghiệp của đồng bào Khơme Nghi thức rước quyền đại lịch trong<br /> vùng Tây Nam Bộ. Cũng như các nghi ngày đầu tiên của lễ hội Chol Chnăm<br /> thức trong nghi lễ nông nghiệp của các Thmây (theo đó, tất cả xếp thành hàng<br /> dân tộc khác, nghi thức trong nghi lễ một, đi vòng quanh chánh điện 3 lần để<br /> nông nghiệp của đồng bào Khơme có rất chào mừng năm mới và nhận thêm một<br /> nhiều lễ thức, vừa thể hiện sự tôn kính tuổi), gắn với thần thoại Thomabal và<br /> của họ đối với các vị thần linh qua các Kabal Maha Prum (thần Bốn mặt). Thần<br /> hành động chắp tay vái lạy, vừa thể hiện thoại kể về Hoàng tử Thomabal thông<br /> ước mong của họ qua những lời khấn minh và tài trí đã thắng được thần Bốn<br /> gửi tới thần linh, những hành động mặt Kabal Maha Prum trong một cuộc<br /> nhằm gây lòng thương xót của các vị đấu trí. Thua cuộc, thần đã tự chặt đầu<br /> <br /> 97<br /> Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(87) - 2015<br /> <br /> mình sau khi căn dặn 7 nàng con gái hãy nghiệp là thần đất, thần nước và thần<br /> để đầu mình lên một chiếc khay bằng lúa. Tuy nhiên, các nghi lễ nông nghiệp<br /> vàng và đem đặt tại hang thủy tinh của người Khơme vùng Tây Nam Bộ<br /> “Thamaminly” trên núi Cailas trong dãy còn thể hiện đặc trưng riêng là thờ Phật<br /> Hy Mã Lạp Sơn. Từ đó về sau, cứ đúng như lễ Chol Chnăm Thmây, lễ cầu an,<br /> vào ngày thần tự sát, 7 cô gái xuống núi, do đại đa số đồng bào Khơme đều theo<br /> vào hang thủy tinh, cứ luân phiên nhau Phật giáo Nam tông Khơme.<br /> mỗi năm một cô, rước đầu cha đi vòng 3 Như vậy, một đặc điểm mang tính<br /> ngọn núi quanh ngọn Meru, một ngọn bản sắc của nghi lễ nông nghiệp của<br /> núi rất nổi tiếng trong hệ thống thần đồng bào Khơme là mang dấu ấn của<br /> thoại đạo Hin đu của Ấn Độ. Trong nghi Phật giáo Nam tông Khơme. Sư sãi,<br /> lễ nông nghiệp của đồng bào Khơme chùa chiền hiện diện trong cả các nghi lễ<br /> không chỉ có những nghi thức gắn liền nông nghiệp của đồng bào. Chẳng hạn,<br /> với Phật thoại mà còn có những nghi trong ngày tết Chol Chnăm Thmây chỉ<br /> thức mang tính chất của Phật giáo như có chùa chiền là đông vui, nhiều gia<br /> đọc kinh, thuyết pháp, cầu siêu, tắm đình còn vào hết trong chùa ăn tết.<br /> tượng Phật trong lễ hội Chol Chnăm Trong lễ đua ghe thì ghe cũng là của<br /> Thmây, lễ hội cầu an... chùa. Lễ cúng trăng, lễ cầu mưa, lễ cầu<br /> Thứ tư, về các vị thần được thờ an hay các nghi lễ trong tết Chol Chnăm<br /> phụng trong nghi lễ nông nghiệp của Thmây, đều có một số nghi thức do sư<br /> người Khơme vùng Tây Nam Bộ. Cũng sãi thực hiện và được thực hiện tại chùa.<br /> giống như nghi lễ nông nghiệp của các Có thể nói, Phật giáo Nam tông Khơme<br /> dân tộc khác, trong nghi lễ nông nghiệp đã trở thành một thành tố đặc biệt quan<br /> của mình, đồng bào Khơme thờ rất trọng trong văn hóa truyền thống của<br /> nhiều các vị thần tự nhiên mà theo họ có người Khơme.<br /> vai trò rất lớn đến sản xuất nông nghiệp, 2. Những giá trị văn hóa của nghi lễ<br /> như trong lễ cầu mưa, họ thờ thần Neak nông nghiệp của người Khơme vùng<br /> Ta ma chăs sróc (thần cai quản xóm Tây Nam Bộ<br /> làng), và thần cai quản việc làm mưa, Nghi lễ nông nghiệp của đồng bào<br /> trong lễ cúng Trăng, họ thờ thần Mặt Khơme vùng Tây Nam Bộ mang lại<br /> trăng, trong lễ cầu an, họ thờ thần Neak nhiều giá trị văn hóa cho cộng đồng<br /> Ta srê (thần cai quản ruộng đồng), thần người Khơme, biểu hiện cụ thể như sau:<br /> Neang Hing prăs thôranây (thần đất) là Thứ nhất, nghi lễ nông nghiệp của<br /> thần cai quản đất đai, trong lễ gọi hồn đồng bào Khơme có chức năng sinh<br /> lúa, họ thờ thần lúa. Như vậy, nghi lễ hoạt tôn giáo. Họ tin vào những đấng<br /> nông nghiệp của đồng bào Khơme đã thần linh siêu nhiên bên ngoài con<br /> thể hiện sự tôn kính đối với những vị người, có khả năng tác động, điều khiển<br /> thần quan trọng nhất của sản xuất nông và chi phối đời sống của con người. Các<br /> <br /> 98<br /> Nghi lễ nông nghiệp của người Khơme vùng Tây Nam Bộ<br /> <br /> sinh hoạt tôn giáo có mục đích là dựa Thứ hai, nghi lễ nông nghiệp của<br /> vào sự che chở của một đấng thần linh đồng bào Khơme còn có chức năng thực<br /> siêu nhiên nào đó để cầu mong sự giúp hành văn hóa trong đời sống cộng đồng.<br /> đỡ của các đấng thần linh, làm cho cuộc Văn hóa là một lĩnh vực rất rộng. Chức<br /> sống của họ được no đủ, sung sướng, năng thực hành văn hóa của nghi lễ<br /> không gặp những điều rủi ro, bất trắc. nông nghiệp được thể hiện trên một số<br /> Thông qua những sinh hoạt tôn giáo như mặt chính sau:<br /> vậy, con người cảm thấy thoải mái, Một là, các nghi lễ nông nghiệp là nơi<br /> được giải thoát khỏi những lo sợ về thể hiện đạo lý, triết lý sống và các<br /> những rủi ro có thể xảy ra trong đời phong tục truyền thống của người Khơme.<br /> sống của mình. Với ý nghĩa như vậy thì Các lễ nghi nông nghiệp của đồng<br /> các nghi lễ nông nghiệp của đồng bào bào Khơme thể hiện lòng tôn trọng, yêu<br /> Khơme Tây Nam Bộ thực chất là thực quý các sản phẩm nông nghiệp do mình<br /> hiện chức năng tôn giáo, góp phần thỏa tạo ra, tôn trọng sản phẩm của lao động<br /> mãn đời sống tâm linh của đồng bào cũng có nghĩa là tôn trọng lao động con<br /> Khơme. Các nghi lễ nông nghiệp của người. Đồng bào Khơme có lễ thờ thần<br /> đồng bào Khơme diễn ra ở thời điểm lúa và gọi hồn lúa. Họ trân trọng những<br /> vào mùa với mong muốn thỉnh cầu tổ hạt lúa, hạt gạo do mình làm ra, cho<br /> tiên, các lực lượng siêu nhiên trợ giúp rằng lúa cũng có linh hồn, đáng được<br /> cho mùa màng tươi tốt, mưa thuận gió thờ phụng. Thờ phụng hạt lúa cũng là<br /> hòa, âm dương tương hợp. Còn các nghi cách thể hiện lòng biết ơn của đồng bào<br /> lễ diễn ra sau mùa thu hoạch là để tạ ơn Khơme đối với những sản vật đã nuôi<br /> thánh thần, trời đất, tổ tiên mang lại sống mình.<br /> mùa màng cho phong đăng, sau đó là Việc Đồng bào Khơme thực hành<br /> những vui chơi, giao tiếp tận hưởng các lễ nghi nông nghiệp là để thể hiện<br /> những ân đức mà trời đất, thần thánh đạo lý uống nước nhớ nguồn, biết ơn tổ<br /> mang lại. Các nghi lễ nông nghiệp của tiên, ông bà, cha mẹ, những người đã<br /> đồng bào Khơme có chức năng thực có công nuôi nấng và dưỡng dục mình,<br /> hành các sinh hoạt tôn giáo còn vì đồng những người có công lao đối với sự<br /> bào Khơme quan niệm rằng càng đi lễ phát triển của phum, sóc. Trong nhiều<br /> nhiều càng được nhiều phúc đức, càng nghi lễ nông nghiệp của người Khơme<br /> có cuộc sống yên vui. Vì nhiều lễ nghi có nhiều nghi thức thể hiện lòng biết ơn<br /> nông nghiệp của đồng bào Khơme có đối với ông bà, tổ tiên những người đã<br /> thờ Phật, cho nên tham gia các nghi lễ có công sinh thành, dưỡng dục (như:<br /> này, đồng bào còn được tụng kinh, con cháu sẽ dùng nước hoa thơm tắm<br /> nghe thuyết pháp và cầu nguyện, xin cho ông bà, cha mẹ, nghi thức làm lễ<br /> Phật phù hộ độ trì cho thoát khỏi mọi cầu siêu cho linh hồn của người thân đã<br /> rủi ro trong cuộc sống... quá cố...).<br /> <br /> 99<br /> Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(87) - 2015<br /> <br /> Trong ngày tết Chol Chnăm Thmây, chung. Ngay từ khi chuẩn bị lễ hội, mọi<br /> đồng bào Khơme và sư sãi đều làm lễ người trong cộng đồng đã cần sự đoàn<br /> đọc kinh cầu siêu (Băng Skôl/Bâng kết, thống nhất. Trong ngày tết Chol<br /> Skâu) cho những người đã quá vãng vào Chnăm Thmây, không chỉ lo chuẩn bị lễ<br /> khoảng 12 giờ trưa, tại tháp, nơi đặt tro trong gia đình, nhiều người, nhất là<br /> cốt của người quá vãng. Sau khi xong, những người lớn tuổi, còn đến chùa để<br /> một số gia đình mời sư sãi đến nhà để làm công quả. Họ cùng nhau dọn dẹp,<br /> cầu siêu cho ông bà, cha mẹ hay người lau chùi lư hương, bàn thờ Phật... để<br /> thân đã quá cố. Tại từng gia đình mọi người đến đây cùng nhau đón mừng<br /> Khơme, sau khi đọc kinh cầu nguyện, năm mới. Các thanh niên cũng đến chùa<br /> ước mong năm mới cả nhà sẽ luôn gặp để luyện tập các bài hát theo giàn ngũ<br /> được nhiều điều may mắn, vui vẻ, bình âm truyền thống để ca hát trong dịp lễ.<br /> an và hạnh phúc, con cháu sẽ dùng nước Hay trong lễ cầu an, trước ngày vào lễ,<br /> hoa thơm tắm cho ông bà, cha mẹ để tỏ bà con trong phum, sóc cùng nhau tập<br /> lòng nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng trung vệ sinh môi trường, sửa chữa cầu<br /> dục như nghi thức. Lễ hội cầu an được cống, làm đường nhằm phục vụ cho việc<br /> tổ chức ngoài việc thể hiện ước mong có đi lại và tạo điều kiện cho việc tổ chức<br /> một mùa màng bội thu, còn nhằm tưởng lễ được diễn ra thuận lợi và tươm tất<br /> nhớ đến các bậc tiền bối và các vị anh hơn. Thông qua đó, mọi người được gặp<br /> hùng đã hy sinh vì nước, vì dân và vì sự gỡ, trò chuyện và gắn kết với nhau hơn.<br /> nghiệp cách mạng. Các vị đã có công Mỗi người một số phận và hoàn cảnh<br /> khai hoang và sản sinh ra đất đai và khác nhau nhưng đến với lễ nghi nông<br /> ngành nghề nông nghiệp giúp cho nông nghiệp, họ đều cùng hướng tới một niềm<br /> dân Khơme có ruộng đất sản xuất đến mơ ước, mong mỏi chung là mưa thuận<br /> ngày nay. Đồng bào Khơme thực hiện gió hòa, cây cối tốt tươi để mang lại<br /> các lễ nghi nông nghiệp còn là để thể mùa màng bội thu cho cả phum, sóc.<br /> hiện tinh thần dân chủ, bình đẳng, đoàn Việc cùng thể hiện một ý chí, một<br /> kết, gắn bó với nhau không phân biệt nguyện vọng đã giúp đồng bào Khơme<br /> giàu sang hay nghèo khó. thấy được sợi dây vô hình nối kết họ lại<br /> Sự gắn kết cộng đồng của người với nhau. Trong khi thực hiện các nghi<br /> Khơme thông qua các nghi lễ nông lễ nông nghiệp, đồng bào Khơme cũng<br /> nghiệp thể hiện ở chỗ, trước và trong khi có rất nhiều hoạt động chung để gắn kết<br /> tổ chức lễ hội, mọi người phải tiến hành cộng đồng. Chẳng hạn như, trong lễ cầu<br /> các hoạt động chung. Nếu như hàng an, khi nghi thức lễ vừa xong, tất cả bà<br /> ngày, mỗi người phải lo mưu sinh cuộc con cùng nhau ngồi lại ăn một bữa cơm<br /> sống của gia đình và bản thân thì các lễ thân mật, cùng nhau trao đổi về cuộc<br /> nghi nông nghiệp này gắn kết mọi người sống và những kinh nghiệm trong sản<br /> lại với nhau thông qua các hoạt động xuất, sinh hoạt...; điều đó giúp mọi<br /> <br /> 100<br /> Nghi lễ nông nghiệp của người Khơme vùng Tây Nam Bộ<br /> <br /> người hiểu nhau và thông cảm với nhau lễ nghi nông nghiệp, các món ăn truyền<br /> hơn. Đặc biệt, việc cùng tham gia các thống của người Khơme từ xưa vẫn<br /> trò chơi, các hoạt động văn nghệ sau các được bảo lưu.<br /> lễ nghi nông nghiệp cũng góp phần nâng Ba là, các lễ nghi nông nghiệp là nơi<br /> cao tính cộng đồng trong đồng bào bảo lưu các loại hình nghệ thuật truyền<br /> Khơme vùng Tây Nam Bộ. Những nghi thống của người Khơme. Trong khi thực<br /> lễ nông nghiệp không chỉ gắn kết đồng hiện các lễ nghi nông nghiệp, một số<br /> bào Khơme với nhau mà có sự tham gia điệu múa, nhạc điệu dân tộc của người<br /> vào các nghi lễ của các tộc người Kinh, Khơme đã trở thành một phần thuộc các<br /> Hoa cùng sinh sống trên địa bàn, góp nghi thức của lễ nghi. Do vậy, thực hiện<br /> phần củng cố khối đoàn kết thống nhất các nghi lễ nông nghiệp cũng là góp<br /> của toàn dân tộc. phần bảo tồn các loại hình nghệ thuật<br /> Hai là, các nghi lễ nông nghiệp cũng truyền thống của người Khơme. Chẳng<br /> là nơi bảo lưu nét văn hóa ẩm thực riêng hạn như, trong lễ hội cúng trăng có lễ<br /> của người Khơme. Trong các lễ nghi thả đèn nước trên sông, rạch ao hồ và<br /> nông nghiệp bao giờ cũng phải chuẩn bị thả đèn giấy bay theo gió. Đèn làm bằng<br /> những lễ vật dâng cúng cho thần linh thân bẹ chuối tựa như một ngôi đền nhỏ<br /> cũng như các món ăn dành cho bữa ăn có trang trí cờ, phướn và bày trong nó<br /> chung. Vì vậy, các lễ nghi nông nghiệp một ít muối, trái cây, bánh kẹo làm lễ<br /> còn là nơi bảo lưu các món ăn truyền vật dâng cúng. Vị sư đến thắp đèn,<br /> thống của người Khơme. Vì đây là hương và cùng mọi người đọc kinh<br /> những lễ vật dâng cúng thần linh nên đó tưởng nhớ công ơn đức Phật. Tiếp đến<br /> phải là những món ăn ngon hơn, đặc người ta rước đèn ra bến nước, có đoàn<br /> biệt hơn, bày biện sao cho khéo, đẹp múa trống xà dăm đi cùng biểu diễn. Tới<br /> mắt... thể hiện lòng tôn kính của con bến, những chiếc bè chuối có hương đèn<br /> người đối với các vị thần linh. Nét đặc cháy sáng được thả xuống nước rồi đẩy<br /> sắc văn hóa ẩm thực của người Khơme ra xa cho nó tự trôi lơ lửng trên sông,<br /> được lưu giữ trong các lễ nghi nông rạch. Đoàn múa trống xà dăm biểu diễn<br /> nghiệp chính là các món ăn được làm từ là một phần của nghi lễ thả đèn nước<br /> lúa gạo, như cốm dẹp, các loại bánh như trên sông, rạch, ao, hồ.<br /> num chruk (bánh tét), num tiênh (bánh Ngoài ra, sau khi tiến hành các nghi<br /> ít), num khnhây (bánh gừng làm bằng lễ nông nghiệp, một số nơi tổ chức các<br /> bột nếp pha với đường, nặn thành hình trò chơi dân gian truyền thống như đấu<br /> củ gừng rồi chiên cho vàng), num akâu võ, kéo co, đua ghe ngo hoặc biểu diễn<br /> (bánh bò). Những món ăn được chế biến các loại hình nghệ thuật truyền thống<br /> cầu kỳ này không phải ngày nào đồng được đồng bào Khơme yêu thích, như<br /> bào Khơme cũng có thể chế biến và múa Lâm thôn, nghệ thuật Dù kê, Rô<br /> thưởng thức nhưng chính thông qua các băm, hát Roăm vông, Lăm leo, Ađay...<br /> <br /> 101<br /> Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(87) - 2015<br /> <br /> Do đó, nghi lễ nông nghiệp cũng là nơi Khơme, nhưng vẫn cần phải bảo tồn và<br /> bảo lưu nhiều loại hình nghệ thuật phát huy các nghi lễ này bởi những giá<br /> truyền thống của người Khơme. trị tích cực mang lại cho đời sống cộng<br /> Chính vì những giá trị của các nghi lễ đồng khi thực hiện các nghi lễ này vẫn<br /> nông nghiệp của người Khơme như đã còn tồn tại. Thực tế hiện nay, vì bận lo<br /> phân tích ở trên, nên việc bảo tồn và mưu sinh cuộc sống, mọi người ít có<br /> phát huy các nghi lễ nông nghiệp của thời gian trao đổi, trò chuyện với những<br /> người Khơme vùng Tây Nam Bộ là hết người cùng phum, sóc, cùng ấp, người<br /> sức cần thiết và có ý nghĩa. thân. Các lễ nghi nông nghiệp thường<br /> 3. Giải pháp bảo tồn và phát huy được tổ chức để đánh dấu một thời điểm<br /> các nghi lễ nông nghiệp của người của chu trình sản xuất, vừa là dịp để mọi<br /> Khơme vùng Tây Nam Bộ người gặp nhau, giải tỏa nỗi niềm, thư<br /> Thứ nhất, nâng cao nhận thức cho giãn tâm trí, cơ thể sau những ngày<br /> cán bộ quản lý văn hóa, đặc biệt là cán sống và làm việc đều đặn, bình lặng.<br /> bộ cơ sở. Nhu cầu đó là rất chính đáng và cần<br /> Thực tế cho thấy, ở cơ sở nào, nếu thiết ngay cả khi đời sống phát triển,<br /> cán bộ (cán bộ Đảng, chính quyền) nhất tính duy tâm không còn nhiều, con<br /> trí về quan điểm, nhận thức đúng vai trò người không còn nhiều nhu cầu cầu xin<br /> của các lễ nghi nông nghiệp thì ở đó sự che chở của những vị thần tự nhiên<br /> phát huy được các giá trị của nghi lễ trong việc bảo vệ mùa màng. Các lễ<br /> nông nghiệp; ngược lại, ở đâu, nếu cán nghi nông nghiệp với tư cách là môi<br /> bộ cơ sở không nhận thức được đầy đủ, trường, điều kiện để những người<br /> toàn diện về những giá trị của các lễ Khơme trong cộng đồng và kể cả các<br /> nghi nông nghiệp, có cái nhìn phiến dân tộc khác cùng sinh sống trên địa<br /> diện, chủ quan thì sẽ có thái độ và biện bàn cùng giao lưu, cộng cảm và trao<br /> pháp e dè và không khuyến khích, thậm truyền đạo lý, tình cảm, mỹ tục và khát<br /> chí cấm đoán những thực hành các lễ vọng cao đẹp, củng cố tinh thần đoàn<br /> nghi nông nghiệp truyền thống. kết thì vẫn rất cần thiết để bảo lưu và<br /> Giải pháp đầu tiên nhằm khắc phục phát huy. Hơn nữa, các lễ nghi nông<br /> tình trạng đang suy giảm của lễ nghi nghiệp còn là nơi bảo lưu nhiều giá trị<br /> nông nghiệp của đồng bào Khơme vùng văn hóa truyền thống của người Khơme<br /> Tây Nam Bộ là nâng cao nhận thức cho như văn hóa ẩm thực, nghệ thuật.<br /> cán bộ văn hóa các cấp, đặc biệt là cán Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên<br /> bộ cấp cơ sở. Điều này giúp cho họ hiểu truyền, nâng cao ý thức, trách nhiệm bảo<br /> rằng, mặc dù hiện nay môi trường kinh tồn và phát huy các lễ nghi nông nghiệp<br /> tế, xã hội không giống với môi trường của người Khơme vùng Tây Nam Bộ.<br /> kinh tế - xã hội nguyên gốc sản sinh ra Đồng bào Khơme là chủ thể thực<br /> các lễ nghi nông nghiệp của người hành các lễ nghi nông nghiệp, do đó họ<br /> <br /> 102<br /> Nghi lễ nông nghiệp của người Khơme vùng Tây Nam Bộ<br /> <br /> có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thấy được sự cần thiết và có nhu cầu<br /> bảo tồn và phát huy các lễ nghi nông thực sự, mong muốn, mong đợi được<br /> nghiệp. Hiện nay, do điều kiện sống của thực hành các nghi lễ nông nghiệp này.<br /> người Khơme vùng Tây Nam Bộ có Vậy làm sao để đánh thức và khơi dậy<br /> nhiều thay đổi, không phải tất cả đồng những nhu cầu của họ? Điều này đòi<br /> bào Khơme đều sản xuất nông nghiệp, hỏi sự tham gia tích cực của công tác<br /> có những người đi làm ăn xa, những giáo dục, tuyên truyền. Trước hết, cần<br /> người thoát ly nông nghiệp, tham gia nâng cao ý thức tôn trọng và bảo vệ các<br /> vào các ngành nghề khác. Vì vậy, nhu giá trị văn hóa truyền thống của đồng<br /> cầu tham gia các lễ nghi nông nghiệp bào Khơme. Cùng với đó, cần giúp<br /> nhằm mục đích cầu mong cho mùa đồng bào hiểu rõ những giá trị, cái hay<br /> màng tốt tươi không trở thành thiết thân cái đẹp trong các lễ nghi nông nghiệp<br /> đối với một số người Khơme. Hơn nữa, truyền thống của người Khơme. Khi họ<br /> nhiều người Khơme đã có sự giao lưu, đã hiểu rằng thực hành các lễ nghi nông<br /> tiếp xúc với các dân tộc khác, trong một nghiệp không chỉ là để cầu xin các vị<br /> số người Khơme nảy sinh tâm lý tự ti thần bảo hộ mùa màng mà quan trọng<br /> văn hóa, muốn tiếp thu toàn bộ các hoạt hơn là góp phần bảo tồn và phát huy các<br /> động văn hóa của các dân tộc khác. giá trị văn hóa truyền thống của chính<br /> Thêm vào đó, cuộc sống hiện đại cũng dân tộc mình thì chúng ta sẽ huy động<br /> có rất nhiều các trò chơi, thú vui hấp được sự tham gia tích cực của cộng<br /> dẫn mọi người, đặc biệt là tầng lớp đồng Khơme, kể cả những người không<br /> thanh niên, chính vì vậy, không chỉ còn tham gia hoạt động sản xuất nông<br /> thanh niên Khơme mà thậm chí thanh nghiệp, các thế hệ trẻ. Công tác tuyên<br /> niên các dân tộc khác cũng đều có thể truyền, giáo dục cần thực hiện một cách<br /> trở nên thờ ơ, thiếu gắn bó với những kiên trì, bền bỉ, trong đó tập trung vào<br /> giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc những đối tượng có nguy cơ mất nhu<br /> mình, trong đó có lễ nghi nông nghiệp. cầu duy trì, thực hành các lễ nghi nông<br /> Những tâm lý này đã tác động làm cho nghiệp như người thoát ly nông nghiệp,<br /> các lễ nghi nông nghiệp của người thế hệ trẻ. Điều này đòi hỏi sự tham gia<br /> Khơme vùng Tây Nam Bộ đang bị suy toàn diện của ngành giáo dục, cán bộ<br /> giảm và mai một. văn hóa, công tác tuyên giáo...<br /> Các lễ nghi nông nghiệp chỉ thật sự Thứ ba, có chính sách hợp lý đối với<br /> có ý nghĩa và giá trị khi bắt nguồn từ những người còn nắm giữ các nghi thức<br /> tâm tưởng sâu xa của con người, khi trong lễ nghi nông nghiệp.<br /> con người thấy thật sự cần, nhu cầu đó Những người nắm được tương đối<br /> thật sự thôi thúc từ trong lòng mình. Vì đầy đủ các nội dung của lễ nghi nông<br /> vậy, để bảo tồn và phát huy các nghi lễ nghiệp truyền thống của đồng bào<br /> nông nghiệp phải làm cho đồng bào Khơme không nhiều, chủ yếu là các<br /> <br /> 103<br /> Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(87) - 2015<br /> <br /> <br /> Achar và những người lớn tuổi trong tạp, lai căng những yếu tố hiện đại<br /> phum, sóc. Những người này đã già cả không cần thiết vào những giá trị truyền<br /> và theo quy luật của cuộc sống, họ sẽ thống tốt đẹp của các lễ nghi. Việc<br /> phải ra đi. Vì vậy, nếu các cấp, các nghiên cứu này cũng tránh trường hợp<br /> ngành không có những chính sách phù bảo thủ, khư khư giữ lấy cái cũ mà<br /> hợp để khai thác vốn tri thức cũng như không có những điều chỉnh phù hợp với<br /> vai trò của họ trong việc bảo tồn và phát hoàn cảnh mới.<br /> huy các lễ nghi nông nghiệp truyền Có thể nói, chỉ khi nào các giải pháp<br /> thống thì những nét đặc sắc cổ truyền nêu trên được quan tâm và thực hiện<br /> trong các lễ nghi nông nghiệp của người một cách đồng bộ thì những giá trị của<br /> Khơme sẽ mai một và mất đi theo những nghi lễ nông nghiệp của đồng bào<br /> người này. Tuy nhiên, việc phát huy vai Khơme vùng Tây Nam Bộ mới được<br /> trò của lớp người này trong việc bảo tồn gìn giữ và phát huy trong cuộc sống<br /> và phát huy các nghi lễ nông nghiệp cộng đồng.<br /> truyền thống cần gắn với việc thực hiện<br /> các chính sách tôn vinh, động viên cả về Tài liệu tham khảo<br /> mặt vật chất và tinh thần. 1. Trần Văn Bính (Chủ biên), Văn hóa các<br /> Thứ tư, điều tra, sưu tập để có những dân tộc Tây Nam Bộ - thực trạng và những vấn<br /> định hướng trong việc bảo tồn và phát đề đặt ra, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.<br /> huy các lễ nghi nông nghiệp truyền 2. Trần Văn Bổn (1999), Một số lễ tục dân<br /> thống của người Khơme. gian người Khơme Đồng bằng sông Cửu Long,<br /> Khi môi trường tồn tại của lễ nghi Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.<br /> nông nghiệp hiện nay đã khác nhiều so 3. Trần Văn Bổn (2002), Phong tục và nghi<br /> với nguyên bản của nó thì cần có tinh lễ vòng đời người Khơme Nam Bộ, Nxb Đại học<br /> thần “gạn đục, khơi trong” trong việc Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.<br /> bảo tồn và phát huy các nghi lễ nông 4. Phạm Thị Phương Hạnh (Chủ biên)<br /> nghiệp của người Khơme. Làm thế nào (2011), Văn hóa Khơme Nam Bộ nét đẹp trong<br /> để xác định được đâu là giá trị và đâu là bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc<br /> những điểm không còn phù hợp của các gia - Sự thật, Hà Nội.<br /> nghi lễ nông nghiệp? Các nhà nghiên 5. Sơn Nam (Biên khảo) (2004), Đồng bằng<br /> cứu và những người thực hành nghi lễ sông Cửu Long - Nét sinh hoạt xưa & văn minh<br /> này cần có sự hợp tác trong điều tra, sưu miệt vườn, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.<br /> tầm nghiên cứu để xác định một cách có 6. Huỳnh Thanh Quang (2008), Giá trị văn<br /> cơ sở và căn cứ. Điều này sẽ hạn chế hóa Khơme vùng Đồng bằng sông Cửu Long,<br /> những trường hợp nhân danh bảo tồn và Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.<br /> phát huy làm đánh mất những cái hay, 7. Trung tâm từ điển học (2008), Từ điển<br /> cái đẹp của các lễ nghi nông nghiệp, pha Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.<br /> <br /> 104<br /> Nghi lễ nông nghiệp của người Khơme vùng Tây Nam Bộ<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 105<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0