BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM
-----------------------
NGUYỄN VĂN QUYẾT
NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG NÔNG NGHIỆP-NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP (Thông qua nghiên cứu trường hợp tỉnh Đồng Nai)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội, 2013
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM
-----------------------
NGUYỄN VĂN QUYẾT Văn Quyết
NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG NÔNG NGHIỆP-NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP (Thông qua nghiên cứu trường hợp tỉnh Đồng Nai)
Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số: 62 31 70 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. ĐẶNG VIỆT BÍCH
PGS.TS. LƯƠNG HỒNG QUANG
Hà Nội, 2013
3
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án là do tôi viết và chưa công bố. Các cứ liệu nêu ra trong luận án là trung thực, khách quan. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình. Hà Nội, ngày tháng năm 2013
Nghiên cứu sinh
4
MỤC LỤC ..............................................................................................................4
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT............................................5
DANH MỤC CÁC BẢNG ......................................................................................6
MỞ ĐẦU ................................................................................................................8
Chương 1. PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRONG TIẾN TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH ĐỒNG NAI ............................ 24
1.1. Các cơ sở lý thuyết về biến đổi văn hóa......................................... ….. ….24 1.2. Vài nét về tỉnh Đồng Nai...........................................................................30 1.3. Thành tựu kinh tế văn hóa xã hội............................................................... 37 1.4. Mô tả các cộng đồng được khảo sát...........................................................40 Tiểu kết .................................................................................................................67
Chương 2. CÁC BIẾN ĐỔI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ KHU CÔNG NGHIỆP .............................................................. 69
2.1. Từ bình diện cộng đồng - sự tham gia của người dân vào các nghi lễ cộng đồng.................................................................................................................69 2.2. Các nghi lễ tại gia đình..............................................................................91 2.3. Từ bình diện cá nhân - các hưởng thụ văn hóa trong đời sống hàng ngày 101 Tiểu kết ...............................................................................................................113
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
CHO CÁC CỘNG ĐỒNG NÔNG THÔN TRONG CÁC KCN...........................116
3.1. Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời sống văn hóa cho các cộng đòng nông thôn trong các KCN ....................................................... 116 3.2. Xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách ở tầm vĩ mô ...........................124 3.3. Xây dựng các mô hình phát triển văn hóa................................................ 127 3.4...... Các biện pháp tăng cường phát triển văn hóa tại các cộng đồng dân cư có KCN ở bình diện tỉnh Đồng Nai..................................................................... 141 Tiểu kết ...............................................................................................................147
KẾT LUẬN......................................................................................................... 149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................................................. 154
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................155
PHỤ LỤC............................................................................................................169
MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN....................................................................................................3
5
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ÂL Âm lịch
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH Chủ nghĩa xã hội
ĐTH Đô thị hóa
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
ILO Tổ chức Lao động Quốc tế
KCN Khu công nghiệp
KKT Khu kỹ thuật
LAPTS Luận án phó tiến sĩ
LLSX Lực lượng sản xuất
NCKH Nghiên cứu khoa học
Nxb Nhà xuất bản
ODA Vốn đầu tư nước ngoài
QHSX Quan hệ sản xuất
TDĐKXDĐSVH Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá
TDTT Thể dục thể thao
Tp. HCM Thành phố Hồ Chí Minh
tr Trang
UBND Ủy ban nhân dân
VHTT Văn hóa Thông tin
6
Bảng 1: Quy hoạch phát triển một số KCN lớn của tỉnh Đồng Nai
32
Bảng 2: Tổng diện tích đất bị thu hồi qua các năm
44
Bảng 3: Tổng diện tích đất qua các thời kỳ
44
Bảng 4: Thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ
45
Bảng 5: Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ
45
Bảng 6: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ
46
Bảng 7: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư
46
Bảng 8: Diện tích đất bị thu hồi xã Thạnh Phú
48
Bảng 9: Nhân khẩu của xã qua các thời kỳ
48
Bảng 10: Dân nhập cư qua các thời kỳ
49
Bảng 11: Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ
50
Bảng 12: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ
50
Bảng 13: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư
51
Bảng 14: Thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ
52
Bảng 15: Tổng diện tích đất bị thu hồi qua các năm
53
Bảng 16: Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ
53
Bảng 17: Thống kê dân nhập cư qua các thời kỳ
54
Bảng 18: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ
54
Bảng 19: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư
55
Bảng 20: Tổng diện tích tự nhiên bị thu hồi để xây dựng các KCN ở 3 xã
57
Bảng 21: Diện tích đất dành cho nhà trọ trên tổng quỹ đất của hộ ở 3 xã
58
Bảng 22: Lương công nhân qua các thời kỳ 3 xã
59
Bảng 23: Khoản tiền trung bình chi cho thuê nhà một năm của người lao động
60
Bảng 24: Thu nhập trung bình của chủ nhà trọ qua các năm
62
Bảng 25: So sánh thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ
64
Bảng 26: Mức độ đi chùa/nhà thờ trong thời gian rảnh rỗi
68
Bảng 27: Người tham gia sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng tại địa phương
69
Bảng 28: Người tham gia vào các thiết chế văn hóa: Cư dân địa phương
70
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
7
Bảng 29: Người tham gia vào các thiết chế văn hóa: Người dân nhập cư
71
Bảng 30 : Nghi thức trong lễ Kỳ Yên
76
Bảng 31: Chương trình hoạt động của các giáo xứ trong một năm
87
Bảng 32: Nơi tổ chức tang lễ
94
Bảng 33: Hình thức tổ chức tang lễ
94
Bảng 34 Nơi tổ chức đám cưới
98
Bảng 35 Việc tổ chức cưới: Lý do lựa chọn
98
Bảng 36 Tổ chức đám cưới cho người lao động gần nơi ở
99
Bảng 37 Tham gia các hoạt động sinh hoạt văn hóa tại nhà máy
102
Bảng 38 Nhà máy của anh chị có tổ chức bất kỳ hoạt động văn hóa nào dưới đây 103
Bảng 39 Tỷ lệ những người biết đến các hoạt động văn hóa do nhà máy tổ
104
chức và có tham gia các hoạt động này
Bảng 40 Mức độ thường xuyên trong các hoạt động giải trí dưới đây
105
Bảng 41 Mức độ thường xuyên trong các hoạt động giải trí phân theo giới tính 106
Bảng 42 Mức độ thường xuyên trong các hoạt động giải trí của nhóm chưa lập
107
gia đình phân theo giới tính
Bảng 43 Số lần bình quân/người/lần đến các điểm văn hóa dưới đây
108
Bảng 44 Các trang thiết bị chủ yếu trong các gia đình cư dân tại chỗ xã Long Thọ 109
Bảng 45 Các trang thiết bị chủ yếu trong các gia đình cư dân tại chỗ xã Hiệp Phước 110
Bảng 46 Các trang thiết bị chủ yếu trong các gia đình cư dân tại chỗ xã Thạnh Phú 110
111
112
112
131
133
133
135
136
Bảng 47 Khu sinh hoạt văn hóa, giáo dục, thông tin Bảng 48 Tham gia hoạt động văn hóa không Bảng 49 Tham gia các hoạt động thể thao Bảng 50 Tổ chức các hoạt động văn hoá trong các dịp lễ, các sự kiện Bảng 51 Tổ chức các hoạt động văn hoá thường xuyên Bảng 52 Tổ chức các hoạt động can thiệp từ trên xuống Bảng 53 Tổ chức tại Trung tâm VHTT xã/phường Bảng 54 Tổ chức tại các khu dân cư có công nhân sinh sống Bảng 55 Các hoạt động can thiệp từ trên xuống
137
Biểu đồ số 1: So sánh thu nhập bình quân đầu người của ba xã
63
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình CNH, HĐH đất nước với sự đầu tư của các đối tác nước ngoài
đã hình thành ở nước ta các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ
cao (gọi chung là KCN), trong đó tập trung vào các tỉnh Đông Nam Bộ vốn
đã có những tiềm lực công nghiệp trước 1975 như Bình Dương, Tp. HCM,
Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. Từ các mô hình này, các KCN đã được mở
rộng ra các khu vực Trung và Bắc Bộ [77]. Các KCN đã tạo nên một nguồn
lực phát triển mới về sức sản xuất, góp phần đưa nước ta tham gia vào quá
trình phân công lao động quốc tế. Phương thức CNH bằng việc phát triển các
KCN đã cho phép khai thác tốt tài nguyên, nguồn lực lao động, sử dụng vốn,
khoa học công nghệ, trình độ tổ chức quản lý,... của các nước tiên tiến vào
quá trình sản xuất kinh doanh, tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có giá trị
thương phẩm trên thị trường. Ở bình diện các tỉnh, việc quy hoạch và phát
triển các KCN trên các địa phương đang được xem như một phương thức
nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện CNH, HĐH trên địa bàn.
Về mặt xã hội và văn hoá, việc hình thành các KCN đã tạo nên những
luồng di cư mới từ nông thôn ra đô thị, từ các tỉnh có nền kinh tế chậm phát
triển đến các vùng nông thôn của các tỉnh có nền kinh tế phát triển hơn. Từ đó
hình thành ở các địa phương có KCN những vấn đề văn hóa, xã hội mới: tốc
độ đô thị hoá tăng vọt, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội được tăng cường hơn
nhiều so với trước, mức sống dân cư được cải thiện thích đáng. Bên cạnh đó,
quá trình này cũng tạo ra những phức tạp trong quản lý xã hội, một số tệ nạn
xã hội phát triển, đời sống văn hoá tinh thần của các cư dân vốn cư trú trong
các cộng đồng làng xã nay bị các luồng di cư làm xáo trộn... Đó là một thực
tiễn phát triển đa diện và phức tạp hơn nhiều của những cộng đồng nông
9
nghiệp – nông thôn và nông dân khi một phần diện tích đất đai của mình bị
chuyển đổi mục đích sử dụng, một bộ phận dân cư phải chuyển dịch nghề,
dân nhập cư xuất hiện, mức sống gia tăng, kèm theo đó là các biến đổi về mặt
đời sống tinh thần.
Cùng với các chuyển đổi kinh tế xã hội là một phần của những biến đổi
văn hoá của các cộng đồng nông thôn khi bị lấy đất làm KCN. Đó là sự thay
đổi trong lối sống, từ nếp ăn, ở, mặc cho đến các sinh hoạt văn hoá như hưởng
thụ các tác phẩm văn hoá, sáng tạo văn hoá, rồi đến tư duy, hệ giá trị, chuẩn
mực, các phong tục tập quán như tang ma, cưới xin, giỗ chạp, hệ thống niềm
tin và tôn giáo… Một quá trình chuyển đổi cơ cấu văn hóa tinh thần đang diễn
ra do những biến đổi kinh tế xã hội, với sự xuất hiện của các KCN.
Trong bối cảnh này, việc nghiên cứu thực trạng đời sống của các cộng
đồng có tính chất nông nghiệp – nông thôn khi chuyển sang các cộng đồng có
tính chất công nghiệp, đô thị sẽ có ý nghĩa góp phần nhận diện thực trạng đời
sống văn hoá nước ta hiện nay trong bối cảnh đất nước có những chuyển đổi
mạnh mẽ về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá, đồng thời góp phần vào việc
đưa ra các luận cứ khoa học cho việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cho việc đưa ra các căn cứ thực tiễn và
phát triển chính sách cho ngành văn hoá ở trung ương và các tỉnh.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu này lấy thực trạng biến đổi trong đời sống văn hóa của các
cộng đồng dân cư vốn là các cộng đồng nông nghiệp – nông thôn được
chuyển thành các cộng đồng mang tính đô thị do những áp lực của quá trình
CNH, HĐH ở Đồng Nai là việc xây dựng các KCN, làm đối tượng nghiên cứu
chủ yếu của mình.
Do chọn khái niệm văn hoá theo nghĩa rộng nên một số vấn đề sau đây
sẽ là đối tượng nghiên cứu chủ yếu, đó là:
10
- Sự biến đổi kinh tế - xã hội của các cộng đồng nông nghiệp - nông
thôn sang cộng đồng đô thị - công nghiệp vừa là cơ sở của các biến đổi đời
sống văn hoá, vừa là biểu thị của sự biến đổi đời sống văn hoá cộng đồng;
- Các biến đổi trong đời sống tôn giáo tín ngưỡng, thể hiện qua các tôn
giáo như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Cao Đài; các tập tục thờ cúng
tại miếu, đình, đền…;
- Các biến đổi trong sinh hoạt văn hoá cộng đồng thông qua nghiên cứu
các lễ hội cộng đồng, các nghi lễ mang tính cộng đồng;
- Các biến đổi trong đời sống văn hoá tại gia đình từ đời sống tâm linh
cho đến các lễ tục liên quan đến nghi lễ vòng đời người; nếp ăn, ở, mặc…
- Các xu hướng hưởng thụ/tiêu dùng văn hoá và những biến đổi của nó
dưới tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội như mức sống, học vấn…;
- Các biến đổi trong hệ thống giá trị chuẩn mực, lối sống, nếp sống.
- Các điều kiện và yếu tố tác động đến quá trình biến đổi đời sống văn
hoá; trong đó, đặc biệt chú ý đến các yếu tố về kinh tế, chính trị, xã hội, sự
giao lưu và tiếp biến văn hoá giữa nông thôn và đô thị, giữa các vùng miền,
giữa nước ta với các nước trên thế giới…;
- Các vấn đề về quản lý và chính sách phát triển văn hoá có liên quan
trực tiếp đến sự phát triển các KCN, đến việc xây dựng đời sống văn hoá cơ
sở vùng dân cư có KCN, đặc biệt là các xã nông thôn đang chuẩn bị chuyển
nhanh thành thị trấn.
Phạm vi nghiên cứu của luận án lấy tỉnh Đồng Nai như một trường hợp
nghiên cứu. Thời gian nghiên cứu là từ 1990 trở lại đây, sau khi Luật Đầu tư
nước ngoài ban hành tháng 12 – 1987. Trên thực tế phải đến đầu những năm
90 tốc độ và quy mô đầu tư công nghiệp của các nhà đầu tư trong nước và
quốc tế vào Việt Nam mới gia tăng, trước hết là các tỉnh Đông Nam Bộ, trong
11
đó có tỉnh Đồng Nai, nơi có nhiều điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư của xã
hội vào các KCN.
Do đây là vấn đề mang tính tổng hợp và trải rộng trên nhiều địa bàn,
trong luận án này, chúng tôi chỉ tập trung vào nghiên cứu 3 xã là Hiệp Phước
và Long Thọ (huyện Nhơn Trạch) và xã Thạnh Phú (huyện Vĩnh Cửu), với
các mức độ bị ảnh hưởng khác nhau. Đây là 3 cộng đồng dân cư bị lấy đất
nông nghiệp, đất thổ cư ở những mức độ khác nhau, để xây dựng các KCN,
có làn sóng dân nhập cư lớn, có quá trình biến chuyển cơ cấu kinh tế - xã hội
ở những mức độ khác nhau, phù hợp với chủ đề nghiên cứu của luận án. Tuy
nhiên, 3 cộng đồng này lại phản ánh quá trình biến đổi không đồng đều nhau,
với mức độ phát triển khác nhau, trong đó Hiệp Phước là xã có tốc độ ĐTH,
CNH mạnh nhất, tiếp đến là Thạnh Phú, cuối cùng là Long Thọ, thể hiện ở
các chỉ báo: mức độ chuyển đổi mục đích sử dụng đất, mức độ chuyển đổi cơ
cấu dân cư, mức sống, tiện nghi sinh hoạt và phương thức tiêu dùng.
3. Về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đối với chủ đề nghiên cứu của luận án, có 3 nhóm công trình có liên
quan: các nghiên cứu lý thuyết về sự biến đổi văn hóa chung và ở Việt Nam;
các nghiên cứu về tỉnh Đồng Nai và cuối cùng là nhóm các nghiên cứu liên
quan trực tiếp đến đề tài luận án.
Ở bình diện lý thuyết chung, lịch sử nghiên cứu về biến đổi văn hóa đã
cung cấp những lý thuyết rất quan trọng cho các nghiên cứu thực địa về sự
biến đổi của các xã hội đang chuyển đổi, trong đó đáng lưu ý là công trình
Hiện đại hóa, biến đổi văn hóa và sự duy trì những giá trị văn hóa truyền
thống của Ronald Inghart và Waye E. Baker [83], đã cung cấp một cái nhìn
tổng quan và các lý thuyết về sự biến đổi văn hóa trong các xã hội đang trong
tiến trình HĐH.
12
Biến đổi văn hoá đã được đề cập đến từ khá sớm bởi những nhà khoa
học khởi xướng ủng hộ thuyết tiến hoá văn hoá như E. Taylor (1891) hay L.
Morgan (1877) khi họ phân chia xã hội theo thứ bậc đơn tuyến và có chung
một mẫu hình biến đổi xã hội và biến đổi văn hoá. Theo mô hình phát triển
tiến hóa đơn tuyến này, những nền văn hoá ngoài phương Tây được nhìn nhận
là “kém văn minh”, con người sống trong sự ràng buộc chặt chẽ của phong
tục, và vì vậy sự biến đổi diễn ra rất chậm chạp,… đối ngược lại với văn hoá
phương Tây “văn minh”, năng động và biến đổi nhanh. Mô hình tiến hóa luận
đơn tuyến về sự phát triển và biến đổi của văn hóa này bị phản đối rộng khắp
trong giới Nhân học và đây cũng là tiền đề để khá nhiều lý thuyết mới về biến
đổi văn hoá ra đời và phát triển vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX: Thuyết
Truyền bá văn hoá (đại diện là G.Elliot Smith 1911, W.Rivers 1914,…) cho
rằng vấn đề mấu chốt của biến đổi văn hoá là sự vay mượn hoặc sự truyền bá
của các đặc trưng văn hoá từ xã hội này sang xã hội khác; Thuyết Vùng văn
hoá (đại diện là C.L.Wissler 1923, A.L.Kroeber 1925,…) đưa ra các khái
niệm cơ bản về vùng văn hoá, loại hình văn hoá, trung tâm văn hoá, tổ hợp
văn hoá, sự biến đổi văn hoá diễn ra rất đa chiều và nhiều cấp độ tuỳ thuộc
vào việc cộng đồng đó là trung tâm hay ngoại vi hay vùng chuyển tiếp, môi
trường và sự chuyên môn hoá của cộng đồng đó là gì? Thuyết Tiếp biến văn
hoá (đại diện là Redfield 1934, Broom 1954,...) chỉ ra sự biến đổi văn hoá
trong bối cảnh những xã hội phương Tây và ngoài phương Tây đã trải qua
mối quan hệ lâu dài, đặc biệt là sự ảnh hưởng của những xã hội có ưu thế đối
với người dân bản địa. Thuyết Chức năng (đại diện là Brown 1952,
Malinowski 1944,…) nhìn nhận xã hội như một dạng cơ cấu trong đó từng bộ
phận đều có chức năng cụ thể, mỗi chức năng đó có thể xác định được nhằm
để duy trì hệ thống xã hội tổng thể. Vì vậy xã hội và văn hoá thường có sự hội
nhập tốt và ổn định, nếu văn hoá thay đổi thì phần lớn là do tác động từ bên
13
ngoài,... Cùng với các trường phái trên là hàng loạt những luận điểm lý thuyết
về thích nghi văn hoá, hội nhập văn hoá, sinh thái học văn hoá,…
Ở phạm vi Việt Nam, các nghiên cứu của các học giả nước ngoài nghiên
cứu về Việt Nam như Lương Văn Hy, với các công trình Việt Nam thời hậu
chiến: động thái của một xã hội đang chuyển đổi (2003), Cuộc cách mạng
trong làng: Truyền thống và biến đổi của một xã hội đang chuyển đổi ở Bắc
Việt Nam, từ 1925 đến 1988 (1992)[49]. Các công trình nghiên cứu của
Lương Văn Hy đã có những gợi ý về mặt mô hình nghiên cứu về sự biến đổi
các cộng đồng nông thôn, phù hợp với đặc điểm văn hóa và lịch sử phát triển
của Việt Nam.
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Giảm nghèo, di dân, đô thị hóa tại Tp. HCM
trong tầm nhìn so sánh [64] được tổ chức trên cơ sở các kết quả nghiên cứu
của Chương trình nghiên cứu được tiến hành từ năm 1997 đến 2003 bởi Viện
Khoa học Xã hội tại Tp. HCM hợp tác với Hội đồng Khoa học Xã hội Hoa Kỳ
(SSRC), với sự tài trợ của Quỹ Ford, đã cung cấp nhiều nghiên cứu sâu về các
cộng đồng cư dân ven đô dưới góc độ di dân – chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp
và biến đổi văn hóa và lối sống, giúp cho tác giả luận án có những tham khảo
hữu ích.
Cùng hướng nghiên cứu này, các biến chuyển văn hóa xã hội của các
cộng đồng nông thôn khi tiến trình CNH được đẩy mạnh, đã được nhiều học
giả trong nước và quốc tế quan tâm, trong đó có một số công trình đăng trong
tuyển tập Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: những cách
tiếp cận nhân học [50], do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Tp. HCM ấn hành
năm 2010.
Các nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học Xã hội Tp. HCM trong
chương trình giảm nghèo của Tp. Hồ Chí Minh, từ 1995 đến 2005 đã có
những nghiên cứu sâu về các cộng đồng nông thôn ven đô khi trở thành các
14
thị trấn, thị tứ hoặc bị đô thị tác động mạnh. Các nghiên cứu của Tôn Nữ
Quỳnh Trân về chủ đề này cũng cho chúng ta thấy được tiến trình phát triển
của các làng xã ven đô, khi bị mất đất cho các nhu cầu ĐTH, họ đã phải đối
mặt với “sức hút” của đô thị, đã chuyển đổi cơ cấu lao động nghề nghiệp như
thế nào, phát triển được cái gì, đang bắt gặp những khó khăn nào? [118].
Năm 2011, Nguyễn Văn Dân đã công bố công trình Con người và văn
hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập [20] đã nghiên cứu về con
người và văn hóa Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới, phân tích các nhân tố
tác động, dự báo những xu hướng phát triển. Công trình này đã cung cấp cho
luận án một cái nhìn tổng quát về văn hóa thời kỳ đổi mới.
Các công trình này đặc biệt chú trọng nghiên cứu đến các tác động của
nhiều yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội đến văn hoá của các cộng đồng dân cư,
chỉ ra các xu hướng phát triển của văn hoá trong bối cảnh kinh tế thị trường
và mở cửa. Các nghiên cứu này chủ yếu được triển khai trên cách tiếp cận xã
hội học hay nhân học văn hoá - xã hội, với các nghiên cứu của Viện Xã hội
học (Tô Duy Hợp, Trịnh Duy Luân, Bùi Thế Cường…), Viện Văn hoá -
Thông tin, bao gồm các công trình Văn hoá nông thôn trong phát triển
(Lương Hồng Quang, 1997 - 1999) [79], Vai trò hệ thống truyền thông đại
chúng trong việc phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc (Bùi Quang Thắng - 1999) [98]. Gần đây, công trình của Nguyễn
Phương Châm về Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay (trường hợp làng
Đồng Kỵ, Trang Liệt và Đình Bảng thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) [13]
hay công trình Câu chuyện làng Giang (các khuynh hướng, giá trị và khuôn
mẫu trong một xã hội đang chuyển đổi) của nhóm tác giả do Lương Hồng
Quang làm chủ biên [82], đã cho thấy các động thái biến đổi của các cộng
đồng nông thôn vùng châu thổ sông Hồng trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh
CNH, HĐH, từ đời sống tôn giáo tín ngưỡng, các quan hệ xã hội cho đến các
15
biểu hiện văn hóa cụ thể. Đây là các công trình không chỉ là mô tả các biến
đổi mà đã chỉ ra các xu hướng, các mối liên hệ hữu cơ giữa các nhân tố phát
triển của các cộng đồng dân cư vốn là nông nghiệp đang trong tiến trình
HĐH. Các công trình này là một tham khảo tốt cho đề tài luận án về định
hướng nghiên cứu, về việc cần phải gắn biến đổi văn hóa với tiến trình biến
đối cơ cấu kinh tế - xã hội, đặc biệt là xu hướng biến đổi văn hóa có tính hai
mặt: vừa phụ thuộc vào sự biến đổi kinh tế xã hội, vừa có tính độc lập và đôi
khi, độc lập với tiến trình biến đổi kinh tế.
Liên quan tới những hiểu biết chung của đề tài, là các công trình nghiên
cứu mang tính tổng hợp về tỉnh như Địa chí Đồng Nai, do nhà xuất bản Đồng
Nai ấn hành vào 2000 và 2001 [114], cung cấp một cái nhìn tổng quát về địa
lý, sinh thái, lịch sử, phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa của tỉnh, trong đó
có mô tả những nét khái quát về các cộng đồng nông thôn và nông dân trên
mảnh đất Đồng Nai trong hơn 300 năm lịch sử.
Liên quan tới các cộng đồng nông dân - nông thôn trên tỉnh Đồng Nai
sau 1975 là các công trình nghiên cứu của Diệp Đình Hoa viết về các làng cổ
của tỉnh Đồng Nai, đó là các cuốn Làng Bến Gỗ xưa và nay [38], xuất bản
năm 1995, Làng Bến Cá xưa và nay [39], xuất bản năm 1998. Hai công trình
này đều là ấn phẩm của nhà xuất bản Đồng Nai. Công trình của Diệp Đình
Hoa cung cấp một bức tranh mô tả về những cộng đồng nông thôn Việt
phương Nam, với tất cả thăng trầm của nó trong lịch sử, với các biểu hiện văn
hóa vật chất và tinh thần của các cộng đồng cư dân Việt trong một vùng dân
cư mang tính hỗn dung văn hóa. Đây là những mô tả dân tộc học rất công
phu, chi tiết, có thể làm cơ sở tư liệu đầu vào khi các nghiên cứu về biến đổi
văn hóa làng xã Việt tỉnh Đồng Nai trong thời kỳ CNH, HĐH.
Về nhóm tài liệu liên quan trực tiếp đến đề tài, có thể kể tới công trình
nghiên cứu của nhóm tác giả do Lương Hồng Quang (chủ biên). Năm 1998,
16
Viện Văn hóa Thông tin đã nghiên cứu về làng Hiệp Phước, huyện Nhơn
Trạch - một làng trong đối tượng khảo sát của đề tài. Đây là một nghiên cứu
nhỏ, chỉ tập trung vào một xã, do đó chưa thể đại diện được tính đa dạng của
sự phát triển ở Đồng Nai, nhất là tính đến thời điểm hiện nay. Nhưng vào thời
điểm đó, làng Hiệp Phước là một làng thuần nông nghiệp, với tất cả những
biểu hiện của một văn hóa nông nghiệp - nông dân và nông thôn, đã là một tư
liệu đầu vào quan trọng để có thể thấy được bức tranh của sự biến đổi văn hóa
của một làng quê thuần nông.
Đầu những năm 2000, trong khuôn khổ chương trình khoa học công
nghệ cấp nhà nước về phát triển văn hoá - con người và nguồn nhân lực, đề
tài KX 05.03 về Đời sống văn hoá và xu hướng phát triển văn hoá vùng đô thị
và KCN trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá được triển khai ở Hà
Nội, Đà Nẵng, Tp. HCM và tỉnh Bình Dương, đã cung cấp những phương
pháp luận và cách tiếp cận vấn đề trong nghiên cứu đời sống văn hoá KCN và
đô thị, nhất là từ góc độ nghiên cứu phát triển chính sách quản lý đời sống văn
hoá. Đây là đề tài liên quan trực tiếp đến nội dung nghiên cứu của luận án,
song góc tiếp cận của nó là nghiên cứu trực tiếp về KCN và đời sống văn hóa
tinh thần của công nhân KCN, chưa phải là nghiên cứu vào các cộng đồng
nông dân – nông thôn dưới tác động của KCN.
Trong phạm vi đề tài nhà nước KX.05.03, nhóm tác giả do Đình Quang
chủ biên đã xuất bản công trình Đời sống văn hóa của các đô thị và KCN Việt
Nam [77], do nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành năm 2005, trong đó có
những nghiên cứu tại tỉnh Đồng Nai. Đây là một nghiên cứu có một phần đi
chuyên sâu về đời sống văn hóa tinh thần của công nhân KCN hai tỉnh Bình
Dương và Đồng Nai, gắn với các cộng đồng nông thôn bị mất đất cho KCN,
cung cấp một bức tranh khá toàn diện về đời sống văn hóa tinh thần của công
nhân các KCN, trong đó thiên về sự tiêu dùng văn hóa của người dân.
17
Cùng với Bình Dương, Đồng Nai cũng có những vấn đề tương tự trong
quá trình CNH, HĐH. Cách đây 5 năm, vào các năm 2005 và 2006, Sở VHTT
Đồng Nai có kết hợp với Viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật đã xây dựng
đề tài Khảo sát về Đời sống Văn hóa Công nhân các KCN ở Đồng Nai [81],
nghiên cứu trên nhiều huyện của tỉnh, tập trung vào các KCN trên địa bàn
tỉnh. Đề tài đã chỉ ra nhiều tồn tại trong việc tổ chức đời sống văn hóa tinh
thần cho công nhân các KCN, khuyến nghị các chính sách về tổ chức đời
sống văn hóa tinh thần cho công nhân KCN với hai mô hình: Mô hình tại các
cộng đồng dân cư và Mô hình tại các doanh nghiệp. Nghiên cứu này là một cơ
sở tham khảo hữu ích cho nghiên cứu của chúng tôi khi muốn mở rộng diện
khảo sát và nghiên cứu.
Năm 2010, công trình hợp tác giữa Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam
và Viện Văn hóa và Du lịch Hàn Quốc về Nghiên cứu các giải pháp nhằm
giảm thiểu xung đột giữa chủ Hàn Quốc và công nhân Việt Nam tại Việt Nam
[138], cũng lấy địa bàn Đồng Nai làm đối tượng khảo sát, đã cho thấy một
phần đời sống văn hóa tinh thần của công nhân KCN sinh sống trong các cộng
đồng ven KCN. Đó chưa phải là các nghiên cứu trực tiếp về các cộng đồng
nông nghiệp – nông dân khi các KCN hình thành trên mảnh đất của mình mà
là nghiên cứu trực tiếp vào người công nhân các KCN.
Về các đề tài có liên quan tới công nhân KCN, đặc biệt là các vụ đình
công của công nhân nhập cư và công nhân tại các cộng đồng địa phương tại
chỗ. Vấn đề này gắn liền với các cộng đồng dân cư nông thôn có đất, được
trưng dụng vào việc xây dựng các KCN, tiêu biểu là các công trình của Chang
Hee Lee xuất bản năm 2006 về Quan hệ lao động và giải quyết tranh chấp
lao động tại Việt Nam [146]; của Jang Jung Min Sunoo: Một số giải pháp
phòng ngừa đình công tại các doanh nghiệp ở Việt Nam [150], tổ chức lao
động quốc tế xuất bản năm 2007. Các công trình này đã báo động những bất
18
ổn về mặt văn hóa xã hội của các cộng đồng dân cư “hội” vào các KCN. Một
mặt, các KCN luôn phải thiếu nhân công hay nhân công không ổn định,
nhưng mặt khác, các xã có KCN sẽ phải đối mặt với những thách thức về
lượng người sinh sống gia tăng đột biến.
Có một số hội nghị, hội thảo liên quan tới sự phát triển các KCN cũng
như các vấn đề về đời sống văn hóa xã hội của KCN. Năm 2010, Bộ Kế
hoạch Đầu tư đã phối hợp với Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam tổ chức hội
thảo: Xây dựng môi trường sống cho công nhân xung quanh các KCN tại Việt
Nam, trong đó ghi nhận những đóng góp của các cộng đồng dân cư nông thôn
vào việc cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản cho bản thân công nhân và gia
đình của họ. Trong năm 2011, Bộ Kế hoạch Đầu tư cũng đã tổ chức hội thảo:
Vấn đề lao động và điều kiện sống của công nhân KCN, khu kỹ thuật trong
khuôn khổ chương trình tổng kết đánh giá 20 năm phát triển KCN, khu kỹ
thuật đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hội thảo chỉ ra những mối liên
hệ nông thôn – đô thị khi phát triển các KCN, với những đề xuất chính sách
để hạn chế những tác động tiêu cực của tiến trình phát triển KCN vào các
cộng đồng nông thôn.
Tháng 11 năm 2008, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức hội thảo: Xây dựng đời sống văn
hóa công nhân lao động ở các KCN đến 2015, cho thấy tầm quan trọng của
công tác này đối với việc phát triển các KCN cũng như gắn các KCN với các
cộng đồng dân cư xung quanh KCN. Năm 2010, Ban Chỉ đạo Trung ương về
chính sách nhà ở và thị trường bất động sản đã tổ chức Hội thảo Quốc gia về
Nhà ở công nhân - Thực trạng và giải pháp với sự phối hợp của Bộ Xây
dựng, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và UBND tỉnh Bình Dương. Hội
nghị đã đưa ra thông tin là: hiện mới có 20% công nhân các KCN có chỗ ở ổn
định, còn khoảng 80% phải thuê nhà ở trọ chật chội và thiếu tiện nghi tại các
19
cộng đồng dân cư có KCN. Như vậy số công nhân, lao động tại các KCN cả
nước có nhu cầu về nhà ở đến năm 2015 khoảng 2,65 triệu người và cần khoảng 21,2 triệu m2 nhà ở và năm 2020 con số tương ứng là 4,2 triệu người và 33,6 triệu m2 nhà ở. Tháng 4/2001, hội thảo: Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra đã được tổ chức, nhấn mạnh đến
những tác động của KCN vào các cộng đồng nông dân - nông thôn, sự phát
triển các KCN là những cơ hội song cũng chứa đựng những thách thức đối
với chúng trên con đường phát triển.
Về các văn bản pháp quy, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
nhiều văn bản liên quan tới việc phát triển các KCN. Gần đây nhất, liên quan
trực tiếp tới việc xây dựng đời sống văn hoá công nhân ở các KCN, Thủ
tướng Chính phủ vừa phê duyệt Đề án Xây dựng đời sống văn hoá công nhân
ở các KCN đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 theo Quyết định số
1780/QĐ-TTg ngày 12/10/2011, với mục tiêu xây dựng đội ngũ công nhân có
nếp sống văn hóa lành mạnh, có tác phong làm việc công nghiệp, năng suất,
chất lượng và hiệu quả. Đề án đặt mục tiêu đến năm 2015 sẽ có 70% công
nhân và người sử dụng lao động ở các KCN được phổ biến pháp luật về xây
dựng đời sống văn hoá, 100% địa phương (có KCN) hoàn thành việc phê
duyệt quy hoạch phát triển thiết chế văn hoá, thể thao phục vụ công nhân.
Phấn đấu 50% công nhân ở các KCN tham gia các hoạt động văn hoá, thể
thao và 50% “Doanh nghiệp đạt chuẩn văn hoá”. Các chỉ tiêu trên sẽ tiếp tục
được duy trì, củng cố và nâng cao để đến năm 2020, 100% công nhân và
người sử dụng lao động ở các KCN được phổ biến pháp luật về xây dựng đời
sống văn hoá. Lượng công nhân ở các KCN tham gia các hoạt động văn hoá,
thể thao được nâng lên 70%, đặc biệt là số “Doanh nghiệp đạt chuẩn văn hoá”
nâng lên 80%.
20
Để đạt các mục tiêu trên, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tổ chức phát
động, đăng ký thi đua xây dựng đời sống văn hóa công nhân ở các địa phương
(có KCN). Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các doanh
nghiệp trong việc thực hiện các chính sách pháp luật về lao động, bảo hiểm và
các chế độ an sinh xã hội đối với công nhân. Thực hiện nghiêm việc phê
duyệt phát triển các KCN phải có quy hoạch xây dựng nhà ở và các công trình
văn hóa, xã hội phục vụ công nhân làm việc ở các KCN. Chủ các doanh
nghiệp phải cam kết thực hiện trách nhiệm xã hội trong việc chăm lo xây
dựng đời sống văn hóa của công nhân.
Với các công trình nghiên cứu có liên quan cũng như các công trình
liên quan trực tiếp đến đề tài, chúng ta có thể thấy những điểm cần lưu ý sau:
- Với chủ đề biến đổi văn hóa của cư dân KCN tỉnh Đồng Nai, các
nghiên cứu về các cộng đồng nông thôn trước tác động của tiến trình công
nghiệp hóa, cụ thể ở đây là các KCN, là chưa nhiều.
- Bên cạnh những thuận lợi và thời cơ có được từ các KCN như chuyển
đổi cơ cấu kinh tế - xã hội, gia tăng mức sống..., là những khó khăn và thách
thức đang đứng trước các các cộng đồng dân cư tại chỗ, đó là sự quá tải về cơ
sở hạ tầng, dân số tăng đột biến, các phức tạp về an ninh trật tự, phá vỡ một
phần lối sống - nếp sống của vùng thôn quê để chuyển sang lối sống đô thị
của một bộ phận dân cư… Đó là những hệ quả của tiến trình phát triển dưới
tác động của các KCN.
- Các cư dân tại chỗ, về mặt đời sống tinh thần, bên cạnh quá trình
chuyển đổi mang tính tự nhiên do các nhu cầu về phát triển kinh tế, đã và
đang có những “khoảng cách”, “dị ứng” với tiến trình này, đòi hỏi sự làm
quen và thích nghi với những yếu tố mới từ bên ngoài xâm nhập vào.
- Tìm ra một giải pháp hoàn chỉnh, toàn diện cho các cộng đồng dân cư
tại chỗ thích nghi với một tiến trình phát triển mới, đòi hỏi phải có những
21
nghiên cứu, tìm tòi, thời gian và công sức để đưa ra những mô hình tổ chức
đời sống văn hóa tinh thần hữu hiệu cho các cộng đồng dân cư tại chỗ, vẫn là
một câu hỏi còn bỏ ngỏ.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu của chúng tôi sẽ tập trung vào việc khảo sát những xu hướng
biến đổi trong đời sống văn hoá các cộng đồng dân cư nông nghiệp có liên
quan tới quá trình phát triển các KCN ở tỉnh Đồng Nai. Từ đây, đề ra các căn
cứ khoa học cho việc xây dựng và quản lý văn hoá của các cộng đồng dân cư
này, góp phần vào sự phát triển chung của KCN cũng như các cộng đồng có
liên quan tới KCN.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khảo sát các biến đổi đời sống văn hóa của 3 cộng đồng dân cư nông
nghiệp - nông thôn sau khi bị cắt một phần đất nông nghiệp, đất thổ cư để xây
dựng các KCN tập trung, đã bị biến đổi như thế nào trong một bối cảnh phát
triển nhanh chóng, phát triển “nóng”, mang tính “cưỡng bức” từ trên xuống.
- Thông qua sự khảo sát này, cùng với các trường hợp khác mà tác giả
luận án đã thâm nhập trong quá trình công tác tại tỉnh, khái quát lên một bức
tranh phát triển đời sống văn hóa của những cộng đồng dân cư có KCN tập
trung, với tất cả những lợi thế, hạn chế, thời cơ và thách thức đối với họ.
- Xây dựng một số giải pháp mang tính lý luận và thực tiễn để góp
phần vào việc hình thành các quan điểm, cơ chế chính sách phát triển văn hóa
của các cộng đồng nông thôn Đồng Nai có KCN, từ đây, cung cấp các luận
giải khoa học và căn cứ thực tiễn cho việc quản lý văn hóa nông thôn ở tầm vĩ mô.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn này được phát triển trên cơ sở các luận điểm
của Đảng và Nhà nước về CNH, HĐH đất nước, về quá trình xây dựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó
22
nhấn mạnh đến vai trò của phát triển kinh tế, vị trí của việc phát triển các lĩnh
vực xã hội – văn hoá như là nền tảng của sự phát triển.
Luận án cũng dựa vào một số lý thuyết của xã hội học và nghiên cứu văn
hoá khi đề cập tới vấn đề biến chuyển văn hoá, trong đó nhấn mạnh đến lý
luận cho rằng sự biến đổi văn hoá cần được nghiên cứu trong những bối cảnh
lịch sử, kinh tế, chính trị và xã hội cụ thể, trong những tương tác văn hoá giữa
truyền thống và hiện đại, giữa trong nước và quốc tế. Trong các lý thuyết biến
đổi văn hóa này, cần cân bằng hai quan điểm: Những nhà lý thuyết hiện đại
hoá, ví dụ như Ronald Inglehart và Wayne E. Baker trong công trình: Hiện
đại hoá, biến đổi văn hoá và sự duy trì những giá trị văn hoá truyền thống
[84] đã cho rằng: từ Karl Marx tới Daniel Bell đã cho rằng sự phát triển kinh
tế - xã hội sẽ mang tới những biến đổi văn hoá phong phú, nhưng những
người khác từ Max Weber tới Samuel Huntington lại tuyên bố rằng những giá
trị văn hoá là những ảnh hưởng lâu dài và tự trị lên xã hội, nghĩa là sự phát
triển văn hóa mang yếu tố nội sinh. Quan điểm lý thuyết của luận án là: Sự
biến đổi văn hóa là kết quả của cả hai tiến trình phát triển kinh tế - xã hội và
tiến trình tự thân vận động bên trong của văn hóa, biến đổi văn hóa không thể
và không chỉ là kết quả của một quá trình.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Thống kê: trong đó tập trung vào các dữ liệu phát triển kinh tế xã hội,
dân cư, mức sống, cơ sở hạ tầng…
- Điều tra xã hội học: đã được tổ chức điều tra tại 3 xã, với 500 phiếu,
với mục tiêu là khảo sát đời sống văn hóa tinh thần của bộ phận dân nhập cư
trên địa bàn. Luận án cũng đã có những dữ liệu được phân tích thông qua
phương pháp phân tích thứ cấp các số liệu điều tra khảo sát của các đề tài
nghiên cứu về công nhân KCN Đồng Nai gần đây.
23
- Nghiên cứu trường hợp: trực tiếp nghiên cứu 3 cộng đồng dân cư (3
xã), với sự phát triển khác nhau sau khi bị mất một phần đất để nhà nước xây
dựng các KCN, trong đó Hiệp Phước (huyện Nhơn Trạch) và Thạnh Phú
(huyện Vĩnh Cửu) là 2 xã bị tác động của KCN mạnh nhất, xã Long Thọ
(huyện Nhơn Trạch) là xã ít bị tác động hơn. 3 xã đều có một điểm chung là
các cộng đồng dân cư nông nghiệp - nông thôn tiêu biểu cho tỉnh Đồng Nai.
- Phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm: Luận án đã có những dữ liệu sâu
là do đã phỏng vấn trực tiếp và thảo luận với nhiều người cao tuổi am hiểu về
văn hóa cộng đồng, các công nhân nhập cư sinh sống tại 3 xã, các cấp chính
quyền, các cơ quan quản lý văn hóa ở xã, huyện, tỉnh.
- Quan sát thâm nhập: tác giả luận án đã trực tiếp sinh sống và quan sát
các hiện tượng văn hóa tiêu biểu của 3 cộng đồng dân cư trong nhiều năm,
qua đó, thấu hiểu đời sống và những biến đổi của cư dân tại chỗ. Các quan sát
này được tiến hành trước khi làm luận án, do tác giả có thời gian dài công tác tại
các địa phương, cũng như sau này, trong suốt quá trình thực hiện viết luận án.
- Phương pháp chuyên gia: Trực tiếp xin sự tư vấn của các chuyên gia
về phát triển KCN, về văn hóa nông thôn, về phát triển văn hóa gắn với phát
triển kinh tế xã hội, bao gồm các chuyên gia của tỉnh và trung ương.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần Mở đầu (16 trang), Kết luận (5 trang), Tài liệu tham khảo
(14 trang) và Phụ lục (40 trang), luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Phát triển các KCN trong tiến trình CNH, HĐH ở tỉnh Đồng
Nai (45 trang).
Chương 2: Các biến đổi trong đời sống văn hoá của các cộng đồng dân
cư KCN (47 trang).
Chương 3: Phương hướng, giải pháp về xây dựng đời sống văn hóa cho
các cộng đồng KCN (33 trang).
24
Chương 1 PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRONG TIẾN TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH ĐỒNG NAI
1.1. Các cơ sở lý thuyết về biến đổi văn hóa
Các lý thuyết về biến đổi văn hóa được hình thành chủ yếu dựa trên các
lý thuyết về biến đổi xã hội được các học giả phương Tây xây dựng trong
ngành nhân học và xã hội học, ở đó biến đổi xã hội là một quá trình qua đó
các khuôn mẫu của các hành vi xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội
và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi theo thời gian. Với quan điểm
này, văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, cũng tự không ngừng biến
đổi. Sự ổn định chỉ là sự ổn định của bề ngoài, còn thực tế nó không ngừng
thay đổi bên trong bản thân nó. Bất cứ xã hội nào và bất cứ nền văn hóa nào,
cho dù nó có bảo thủ và cổ truyền đến đâu chăng nữa cũng luôn biến đổi; sự
biến đổi trong xã hội hiện đại ngày càng rõ hơn, nhanh hơn. Mọi cái đều biến
đổi và xã hội cũng giống như các hiện thực khách quan khác, không ngừng
vận động và thay đổi, với một thực trạng đứng yên trong sự vận động liên tục.
Biến đổi xã hội là hiện tượng phổ biến, nhưng nó diễn ra không giống
nhau giữa các xã hội; với những khác biệt về phạm vi, thời gian và hệ quả. Đó
là một quá trình mang tính chủ động của các lực lượng trong xã hội hay mang
tính phi kế hoạch, nghĩa là đó là một tiến trình tự nhiên, khách quan. Thường
thì có sự phân chia giữa biến đối vĩ mô và vi mô, để chỉ những tầm mức biến
đổi khác khau trong đời sống xã hội. Khái niệm biến đổi là một thuật ngữ
không chỉ định hướng giá trị mà thể hiện một sự mô phỏng của một nền văn
hóa hay cấu trúc xã hội hiện hữu, không hàm nghĩa là một phán quyết giá trị
chứ không phải là một lời tường thuật về một sự kiện hay hiện tượng xã hội.
25
Các nhà nhân học và xã hội học khi xem xét đến sự phát triển của xã hội,
đã đưa ra một số lý thuyết để giải thích tại sao biến đổi xã hội lại xảy ra và dự
đoán những biến đổi sẽ diễn ra trong tương lai. Một số cách tiếp cận chủ yếu
về biến đổi xã hội thường được xem xét đến là:
(1) Cách tiếp cận theo chu kỳ: Trong lịch sử loài người, sự hiểu biết về
chu kỳ của những biến đổi xã hội đã ăn sâu vào ý nghĩ của con người, chu kỳ
của tự nhiên, mặt trời mọc và lặn, quy luật bốn mùa thay đổi của một năm và
sự lặp lại của tự nhiên, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến những khái niệm, nhận
thức của con người về sự biến đổi xã hội. Nhân loại hiểu rằng, lịch sử được
lặp lại mãi trong những chu kỳ không bao giờ kết thúc. Các nhà khoa học và
sử học trước đây nhìn chung đều phản đối những tư tưởng này, mặc dù họ cho
rằng các xã hội có những chu kỳ sống của nó, và mỗi xã hội được sinh ra
trưởng thành, rồi sau đó biến mất. Một số nhà lý thuyết, như Amold Toybee
lại có quan điểm tương tự, nhưng ông phản đối "sự không thể tránh được" của
sự suy tàn và cho rằng "những nỗ lực được tạo nên bởi con người có thể cho
phép văn minh hóa đối với sự sống". Trong khi đó Pitirim Sorokin lại đưa ra
lý thuyết chu kỳ về sự biến đổi với một bước tiến xa hơn, và cho rằng sự văn
minh hóa được dao động trong ba kiểu của "những trạng thái tâm lý" hoặc
rộng hơn - kiểu hệ tư tưởng, kiểu cảm giác và kiểu lý tưởng - trong tất cả các
hệ thống văn hóa, sự biến đổi xuất hiện khi mô hình cụ thể của suy nghĩ nắm
được giới hạn logic của nó.
(2) Các quan điểm tiến hóa: với hai mô hình kinh điển và quan điểm tiến
hóa mới. Mô hình kinh điển là những mô hình được lấy từ khoa học sinh học,
đã giành được vị trí ở thế kỷ XIX, nhiều nhà xã hội học đã tán thành với lý
thuyết phổ biến được gọi là sự tiến hóa một chiều, sự tiến hóa theo lộ trình
dọc, chỉ tiến về phía trước chứ không lùi hoặc đi ngược về phía sau cho rằng
tất cả các hình thức sống, tất cả các xã hội đều tiến hóa từ những hình thức
26
đơn giản đến phức tạp, với mỗi hình thức sau xa hơn những hình thức trước
nó, với các học giả như Auguste Comte, Herbert Spencer, Émile Durkhem.
Thế kỷ XX, những mô hình ở thế kỷ trước đã mô tả biến đổi xã hội như là sự
tiếp tục và không thể thay đổi được thay thế bằng cái nhìn tinh tế hơn. Những
lý thuyết tiến hóa mới, hiểu biết về các xã hội khác nhau tùy thuộc vào mức
độ phức tạp của xã hội và qua thời gian một khuynh hướng chung đi tới sự
khác biệt xã hội (kinh tế, gia đình, tôn giáo, chính trị,...) trở thành sự phân
chia và khác biệt giữa các thành phần trong một xã hội tổng thể. Không giống
như các nhà nghiên cứu lý thuyết tiến hóa ở thế kỷ XIX, các nhà lý thuyết tiến
hóa mới không mô tả một hình thức của xã hội như là một sự tuyệt đối, cũng
không khẳng định rằng, các xã hội không thể tiến hóa tới một vài thực trạng
cao hơn.
(3) Quan điểm xung đột: với một học giả tiêu biểu là Karl Marx, với
quan điểm các xã hội phải chuyển đổi để tồn tại và ông không nhấn mạnh
rằng kinh tế phục vụ như là sự thành lập cho trật tự xã hội. Được xếp vào các
nhà lý thuyết theo chủ nghĩa xung đột đối kháng, Marx đã triển khai một lý
thuyết tiến hóa về sự biến đổi xã hội. Dựa vào sự thay đổi liên tục trong kỹ
thuật mà các xã hội tiến từ đơn giản đến phức tạp. Ở mỗi một trạng thái, một
xã hội tiềm ẩn những điều kiện tự hủy diệt, và những điều kiện này cuối cùng
sẽ dẫn đến sự biến đổi và đưa xã hội vào trạng thái tiếp sau đó. Karl Marx có
cái nhìn về quá trình hiện đại hóa rất khác biệt với những nhà tư tưởng xã hội
khác, bởi lẽ Marx nhấn mạnh tầm quan trọng của mâu thuẫn xã hội. Marx cho
rằng xã hội hiện đại đồng nghĩa với xã hội tư bản, một hệ thống kinh tế được
sản sinh do đấu tranh giai cấp vào cuối thời kỳ trung cổ. Giai cấp tư sản nắm
giữ hệ thống sản xuất mới do cuộc cách mạng công nghiệp đem lại và đã
thành công trong việc thay thế giai cấp quý tộc. Karl Marx cũng không phủ
nhận rằng sự hình thành tính hiện đại có liên quan đến sự suy tàn của cộng
27
đồng có quy mô nhỏ, đến sự phân công lao động gia tăng và sự xuất hiện của
thế giới duy lý. Marx cho rằng, cả ba yếu tố này đều cần thiết cho việc phát
triển chủ nghĩa tư bản. Chính chủ nghĩa tư bản đã kéo theo những người nông
dân từ vùng nông thôn về các đô thị với hệ thống thị trường không ngừng
phát triển. Sự chuyên môn hóa là cơ sở cho sự vận hành các xí nghiệp; tính
duy lý thể hiện rõ trong xã hội tư bản. Ông tin rằng mẫu thuẫn xã hội trong xã
hội tư bản sẽ đem lại một cuộc cách mạng xã hội, và rồi theo quy luật tiến
hóa, xã hội này sẽ được thay thế bằng một xã hội khác công bằng hơn, nhân
đạo hơn.
(4) Quan điểm hiện đại về biến đổi xã hội: Các nhà nhân học và xã hội
học ngày nay cho rằng sự tương tác phức tạp của nhiều yếu tố - cả yếu tố bên
trong và yếu tố bên ngoài của nhiều yếu tố - tạo nên sự biến đổi. Mặc dù trong
những hoàn cảnh xã hội và lịch sử nhất định, các yếu tố cụ thể đôi lúc có thể
ảnh hưởng nhiều hơn những yếu tố khác. Những yếu tố được các nhà lý
thuyết hiện đại quan tâm khi xem xét về biến đổi xã hội, như: môi trường vật
chất, kỹ thuật - công nghệ, dân số, giao lưu… Các lý thuyết hiện đại hóa, lý
thuyết hệ thống thế giới, lý thuyết phụ thuộc là những tiếp cận mới trong quan
điểm hiện đại về biến đổi xã hội, ở đó, các nhà khoa học đã đưa ra những cách
lý giải đa diện hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, các thành
tựu khoa học công nghệ phát triển, thế giới ngày càng phụ thuộc nhau. Lần
đầu tiên, các nhà khoa học đã thừa nhận các yếu tố phi vật chất, vô hình cũng
có thể làm biến đổi mạnh mẽ các xã hội và nền văn hóa, như tư tưởng, quản lý
xã hội… Tính hiện đại là một thuật ngữ xuyên suốt trong quan điểm hiện đại
về sự biến đổi, Ví dụ, trong lý thuyết hệ thống xã hội, Parsons coi tiểu hệ
thống văn hóa là hệ thống có nhiều thông tin nhất và nó kiểm soát các tiểu hệ
thống khác. Các nhà nhân học và xã hội học đều cho rằng, tư tưởng có thể
giúp cho xã hội giữ nguyên trạng thái hoặc có thể kích thích sự biến đổi xã
28
hội nếu những niềm tin và chuẩn mực xã hội không còn phù hợp với nhu cầu
của xã hội. Văn hóa được biến đổi là do các yếu tố chính trị, kinh tế và xã hội
khác, cũng như nó phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên và sinh thái khác.
Biến đổi văn hoá đã được đề cập đến trong các khoa học xã hội như một
chủ đề trọng tâm của thế kỷ XX và XXI. Trên nền tảng lý thuyết mang tính
khái quát hóa cao như ở trên, với các nghiên cứu về từng hiện tượng văn hóa
cụ thể, đã có những triển khai để xây dựng các khung lý thuyết để làm cơ sở
cho các nghiên cứu thực địa.
Tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay đã là một
bối cảnh mang tính đặc thù để từng nghiên cứu xây dựng cho mình một khung
lý thuyết làm nền tảng lý luận. Trong các tiếp cận về biến đổi văn hóa tại các
cộng đồng nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nổi lên
một tiếp cận coi tiến trình biến đổi văn hóa phụ thuộc vào các yếu tố chính trị,
kinh tế, xã hội. Tiến trình này lại mang tính đặc thù của từng khu vực, cộng
đồng dân cư. Sự biến đổi kinh tế xã hội và những thay đổi về hành chính, đất
đai, chính sách nông nghiệp… là những tiền đề trực tiếp tác động đến biến đổi
văn hóa, với các tác giả như Tô Duy Hợp, Nguyễn Văn Chính, Lương Hồng
Quang, Nguyễn Thị Phương Châm và nhiều tác giả khác.
Cuốn sách Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay của Nguyễn Thị
Phương Châm là một trong số những công trình nghiên cứu về chủ đề này.
Tác giả đã đưa ra một mô hình phân tích. Sự biến đổi đầu tiên và quan trọng
nhất làm nên diện mạo mới ở nông thôn hiện nay là do biến đổi về nghề
nghiệp. Từ sự chuyển đổi nghề nghiệp đến những tác động của quá trình công
nghiệp hóa, đô thị hóa đã làm cho đời sống xã hội của dân cư ba làng có
những thay đổi nhanh chóng. Từ nền tảng này, tác giả đi vào trả lời cho câu
hỏi chính của vấn đề quan tâm, đó là văn hóa làng xã đang biến đổi như thế
nào trong quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa hiện nay? Để trả lời cho
29
câu hỏi này tác giả đã tập trung phân tích trong bốn lĩnh vực chủ yếu: (1)
Không gian và cảnh quan làng; (2) Di tích, tín ngưỡng và lễ hội; (3) Phong
tục tập quán; (4) Sự tiếp cận thông tin và các loại hình giải trí.
Hệ quả của sự biến đổi này là: (1) Không gian của làng nay đã rất khác
không gian của làng xưa: mở hơn, thoáng đạt hơn, nhiều sự giao lưu hơn, tính
chất công nghiệp, đô thị đã thể hiện rõ và ăn sâu vào trong cả nếp nghĩ và lối
sống của dân làng; (2) Di tích, lễ hội, tín ngưỡng đều được đưa trở lại với vai
trò đặc biệt của chúng trong đời sống tâm linh bằng nhiều hình thức khác
nhau như trùng tu lại di tích, dựng lại các lễ hội, thực hành và phát triển tín
ngưỡng; (3) Các phong tục tập quán có sự đan xen và giao lưu rõ rệt giữa làng
và phố, hiện đại và truyền thống; (4) Tiếp cận thông tin và đa dạng hóa các
loại hình giải trí, đặc biệt là sự cố kết người dân theo mạng lưới quan hệ và
lợi ích trong làng, là những biểu hiện nổi bật của sự biến đổi và hình thành
những yếu tố văn hóa mới ở ba làng quê này.
Hệ quả của quá trình biến đổi trên là: (1) Phục hồi văn hóa truyền thống
trong bối cảnh làng quê hiện đại; (2) Nhu cầu hướng về văn hóa tâm linh của
dân làng thời hiện đại; (3) Xuất hiện những “tệ nạn” mới. Quá trình phục hồi
văn hóa truyền thống ở các làng quê hiện nay đi cùng với quá trình tái cấu
trúc, lựa chọn và biến đổi các yếu tố văn hóa truyền thống trong bối cảnh làng
quê hiện đại. Quá trình phục hồi văn hóa và tái cấu trúc văn hóa truyền thống
trong xã hội hiện đại ở các làng quê cũng đang đặt ra hàng loạt các vấn đề bất
cập như: môi trường, không gian sống, hoạt động sản xuất, đất đai, mối quan
hệ giữa nhà nước và cộng đồng dân cư. Đây là một trong những nghiên cứu
điển hình về biến đổi của các cộng đồng dân cư nông thôn trong bối cảnh
công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay, gợi ý nhiều cho tác giả luận án những ý
tưởng về lý thuyết nghiên cứu.
30
Đối với các cộng đồng dân cư có KCN, về mặt lý luận, cần phải giải
quyết các câu hỏi lớn sau: (1) xác định được các yếu tố tác động, trong đó lớn
nhất là biến đổi về nghề nghiệp và sự biến động cơ cấu dân cư bởi sự di dân
của một bộ phận dân nhập cư đã ảnh hưởng như thế nào đến đời sống văn
hóa? (2) Trong bối cảnh đó, các hình thái văn hóa truyền thống và văn hóa
mới đã tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau ra sao; (3) Trước các biến đổi này,
cần xác lập những mô hình quản lý văn hóa thích hợp nào để đáp ứng với tiến
trình biến đổi này.
1.2. Vài nét về tỉnh Đồng Nai Đồng Nai là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, có diện tích 5.903,4 km2,
chiếm 1,76% diện tích tự nhiên cả nước và chiếm 25,5% diện tích tự nhiên
của vùng Đông Nam Bộ. Dân số toàn tỉnh theo số liệu thống kê năm 2010 là 2.569.400 người, mật độ dân số: 435,000 người/km2 [109]. Tỉnh có 11 đơn vị
hành chính trực thuộc gồm: Thành phố Biên Hòa - là trung tâm chính trị -
kinh tế - văn hóa của tỉnh; thị xã Long Khánh và 9 huyện: Long Thành; Nhơn
Trạch; Trảng Bom; Thống Nhất; Cẩm Mỹ; Vĩnh Cửu; Xuân Lộc; Định Quán;
Tân Phú.
- Phía đông giáp tỉnh Bình Thuận.
- Phía đông bắc giáp tỉnh Lâm Đồng.
- Phía tây bắc giáp tỉnh Bình Dương và Bình Phước
- Phía nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
- Phía tây giáp Tp. Hồ Chí Minh
Tính đến năm 2011, dân số tỉnh Đồng Nai là 2.665.100 người, mật độ
dân số là 451 người/km², trong đó dân số sống tại thành thị là 897.600 người
(chiếm 33,68%), dân số sống tại nông thôn là 1.767.500 người (chiếm
66,32%). Dân số đô thị tăng nhanh với tốc độ bình quân 2,78% trong 5 năm
31
gần đây. Mức tăng dân cư đô thị không tăng đột biến nhưng lại tăng đột biến
về mật độ dân cư sống tại khu vực đô thị khi các KCN tập trung tăng mạnh.
Nằm trong khu vực có nhiều ưu thế, tỉnh lại có nhiều nguồn lực để phát
triển, với các điều kiện ưu đãi của tự nhiên như: tài nguyên khoáng sản phong
phú, khoáng sản có vàng, thiếc, kẽm, có nhiều mỏ đá, cao lanh, bùn, cát…kết
cấu nền đất có độ cứng, chịu nén tốt, thuận lợi cho việc xây dựng kết cấu hạ
tầng cơ sở của các KCN và các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; có
tiềm năng thuận lợi cho việc phát triển du lịch, với hệ thống khu di tích lịch
sử khá nổi tiếng, cảnh quan thiên nhiên môi trường hấp dẫn,… có đất đai màu
mỡ với nhiều loại đất khác nhau, phần lớn là đất đỏ bazan, nơi đây sớm hình
thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, vùng
cây ăn trái nổi tiếng cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, hàng hóa
cho xuất khẩu. Đồng Nai cũng là tỉnh có dân số đông, nguồn lao động dồi dào
với trình độ đa dạng từ mọi miền đất nước hội tụ về đây lập nghiệp, đó là
nguồn nhân lực quý báu cho sự nghiệp đẩy nhanh sự nghiệp CNH – HĐH
trong tỉnh.
Tất cả nguồn lực trên đã tạo ra cho Đồng Nai những thuận lợi và những
lợi thế đó đã và đang được tận dụng và được phát huy cao độ trong công cuộc
phát triển kinh tế - xã hội, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng
coi KCN có một vai trò là động lực trong việc đẩy mạnh tốc độ, chất lượng quá
trình CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã ghi rõ:
Hình thành các KCN tập trung (bao gồm cả khu chế xuất và khu công
nghệ cao), tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công
nghiệp mới. Phát triển công nghiệp nông thôn và ven đô thị. Ở các
thành phố, thị xã, nâng cấp và cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có,
đưa các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra ngoài thành phố,
hạn chế việc xây dựng cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cư.
32
Báo cáo về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005 tại Đại hội
IX khẳng định: "Quy hoạch phân bố hợp lý công nghiệp trên cả nước. Phát
triển có hiệu quả các KCN, khu chế xuất, xây dựng một số khu công nghệ cao,
hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở".
Sau 30 năm xây dựng và phát triển (1975 - 2005), “ngành công nghiệp
Đồng Nai đã góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
tỉnh từ một tỉnh nông nghiệp thành một tỉnh công nghiệp (tỷ trọng GDP công
nghiệp dịch vụ tăng từ 13,4% năm 1976 lên 85% năm 2005)” [129; tr.231].
Đồng Nai là tỉnh đi đầu trong xây dựng, phát triển và dẫn đầu cả
nước về số lượng KCN với 30 KCN tổng diện tích 9.573 ha và 43 cụm
công nghiệp, thu hút 1.130 dự án từ 35 quốc gia và vùng lãnh thổ như
Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản…, có tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ USD
và hơn 31.600 tỷ đồng, thu hút hơn 375 ngàn lao động đang làm việc tại
các KCN, trong đó hơn 60% là người ngoài tỉnh. Tỉnh đã quy hoạch 21
cụm công nghiệp với tổng diện tích 620 ha trên địa bàn các huyện, thành phố
Biên Hòa và thị xã Long Khánh.
Bảng 1: Quy hoạch phát triển một số KCN lớn của tỉnh Đồng Nai
Đơn vị tính: ha
Tổng diện tích (ha)
STT
KCN
1.
Biên Hoà 1
335
2.
Biên Hoà 2
365
3.
Amata
418
4.
Loteco
100
5.
Gò Dầu
184
6.
Nhơn Trạch, bao gồm:
2.700
- Nhơn Trạch 1
430
- Nhơn Trạch 2
700
- Nhơn Trạch 3
368
33
Tổng diện tích (ha)
STT
KCN
- Nhơn Trạch 4
352
- Nhơn Trạch 5
556
- Nhơn Trạch 6
616
7.
Sông Mây
471
8.
Hố Nai
523
9.
Tam Phước
331
10.
Long Thành
488
11.
An Phước
130
12.
Ông Keo
800
13.
Thanh Phú
186
14.
Bàu Xéo
495
15.
Long Khánh
100
16.
Xuân Lộc
100
17.
Tân Phú
50
18.
Định Quán
50
Tổng
7.826
Nguồn: Website: www.dongnai.gov.vn
Mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng năm
2010, các KCN Đồng Nai đã thu hút được 38 dự án FDI mới với tổng vốn đầu
tư 375 triệu USD và 60 dự án tăng vốn với 905 triệu USD. Tổng vốn thu hút
FDI trong năm 2010 là 1,28 tỷ USD, trong khi các tỉnh, thành lân cận như
TP.Hồ Chí Minh thu hút được 774 triệu USD, Bình Dương là 436,4 triệu
USD. Đó là những thành công lớn của Đồng Nai. Giai đoạn 2001 - 2010
Đồng Nai đã thực hiện tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách
mạnh mẽ và đạt được những kết quả quan trọng, không chỉ duy trì mức tăng
trưởng kinh tế cao mà các lĩnh vực giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ,
văn hóa – xã hội được quan tâm đạt được nhiều tiến bộ. Công tác xóa đói
giảm nghèo, giải quyết việc làm, chăm lo các đối tượng chính sách được quan
34
tâm thực hiện tốt. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; hệ
thống chính trị ngày càng được củng cố và tăng cường. Đời sống nhân dân
không ngừng được nâng lên, GDP bình quân đầu người (theo giá so sánh năm
1994) từ 1,8 triệu đồng (năm 1990) tăng lên 29,6 triệu đồng (năm 2010)
[130].
Tuy nhiên, Đồng Nai cũng đứng trước nhiều cơ hội và thách thức. Hiện nay
có nhiều ngành công nghiệp phù hợp với định hướng CNH, HĐH chung của cả
nước như có nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp chế biến, chế tác, nhất là các
ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp như công nghiệp sản xuất thức ăn gia
súc, công nghiệp thực phẩm. So với chỉ tiêu công nghiệp chế tạo chiếm 40%
tổng giá trị công nghiệp thì Đồng Nai đã vượt qua. Ngoài ra, Đồng Nai đã bước
đầu xây dựng được một số khu công nghệ sinh học, khu công nghệ cao, hứa hẹn
là xuất phát điểm cho HĐH một số ngành khác trong những năm tới.
Tuy nhiên, Đồng Nai đang đối mặt với những bất lợi như: chính sách thu
hút chưa chú trọng chọn lọc dự án đầu tư ở giai đoạn ban đầu nên nhiều cơ sở
sản xuất công nghiệp mang lại doanh thu lớn nhưng ở trạng thái công nghệ
chưa sạch, chưa thân thiện với môi trường, thậm chí còn ở trình độ gia công,
lắp ráp nên phụ thuộc vào nguyên, vật liệu nhập khẩu cũng như để lại tổng giá
trị gia tăng thấp cho tỉnh. Khảo sát từ năm 2004 - 2009 tại 805 doanh nghiệp
cho thấy, chỉ có 141 doanh nghiệp có hệ số năng lực công nghệ đạt mức tiên
tiến (đạt 17,57%). Trong khi đó, doanh nghiệp có trình độ công nghệ nằm ở
mức trung bình là 571, chiếm đến 71%. Đó là các cơ sở giày da, dệt may, một
số cơ sở chế biến nông sản, sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm. Hơn nữa,
các KCN cũng chưa được sắp xếp theo hướng chuyên môn hóa ngay từ đầu
nên hiệu quả sử dụng đất còn thấp, chưa thuận tiện cho xử lý chất thải, bảo vệ
môi trường... [130]
35
Các KCN theo mô hình các KCN tập trung, khu chế xuất, khu kinh tế
mở mới đang hình thành với các quy mô, chất lượng phát triển rất khác nhau.
Mô hình xây dựng các KCN chủ yếu vẫn là các kết cấu hạ tầng kỹ thuật dành
cho việc sản xuất là chủ yếu, các cơ sở hạ tầng xã hội vẫn chưa được chú
trọng, thường sử dụng các hạ tầng xã hội của các khu dân cư bên cạnh đó (xã,
phường). Đó là các KCN chưa hoàn chỉnh về mặt kết cấu hạ tầng kỹ thuật và
kết cấu hạ tầng xã hội.
Trong bối cảnh đó, cộng với lịch sử phát triển đô thị không dài và có
tính chất không điển hình nên người dân đô thị không thể chỉ dựa vào đô thị
để duy trì cuộc sống mà phải dựa thêm vào nông thôn với nền sản xuất nông
nghiệp truyền thống. Sự liên hệ chặt chẽ với nông thôn trở thành một đặc
điểm nổi bật của các đô thị Việt Nam, thể hiện ở các "tàn dư" của xã hội nông
thôn trong đời sống đô thị. Làng trong phố phường với các thiết chế văn hoá
truyền thống, nếp sống làng xã... vẫn còn là một bộ phận hiện hữu của đô thị
nước ta hiện nay. Thực tiễn này đòi hỏi các tiến trình quản lý đô thị sẽ rất
khác so với các đô thị ở Âu - Mỹ.
Trong bối cảnh chung đó, các làng xã ở tỉnh Đồng Nai khi bị các KCN
tập trung “thôn tính” cũng nằm trong trong xu hướng chúng là: chất lượng đô
thị hóa thấp với một loạt các vấn đề quá tải về cơ sở hạ tầng, nước sạch, vệ
sinh môi trường; luồng di dân ào ạt từ các nơi khác tập trung về, với tất cả
những thuận lợi và khó khăn của nó, đặt cho các cộng đồng dân cư tại đây có
những vấn đề bất cập trong tiến trình phát triển.
Quy mô bình quân vốn của dự án có xu hướng ngày càng thấp (bình quân
vốn đầu tư một dự án năm 1995 là 27,22 triệu USD, 9 tháng đầu năm 2004 là
6,27 triệu USD), ít dự án công nghệ kỹ thuật cao, ít nhà đầu tư từ Nhật Bản,
Mỹ, EU. Các huyện miền Bắc tỉnh vẫn rất ít dự án đầu tư. Vốn đầu tư bình
quân trên 1 ha đất KCN Đồng Nai là 3,6 triệu USD, nhưng riêng trong giai
36
đoạn 2001- 2003 chỉ đạt bình quân 0,91 triệu USD. Các doanh nghiệp
trong nước còn thấp, chỉ chiếm tỷ trong 6% vốn đầu tư trong KCN. Các
dự án chủ yếu là công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến thực phẩm,
trong khi các ngành công nghiệp nặng lại quá ít.
Tình trạng phân bố các KCN trong tỉnh chưa đều đã ảnh hưởng đến
phân bố lao động trên địa bàn. Đa số dự án thu hút nhiều lao động được
tập trung chủ yếu trong các KCN trên địa bàn thành phố Biên Hòa. Trong
tổng số 190.000 người làm việc trong các KCN, số lao động làm việc
trong các KCN ở thành phố Biên Hòa là: 101.000 người (chiếm 54%); số
lao động nhập cư ước khoảng: 113.000 người (chiếm đến 60% trên tổng
số lao động). Lao động nhập cư là một trong những nguyên nhân chính
dẫn đến tình trạng quá tải về cơ sở hạ tầng như: nhà ở, bệnh viện, trường
học, nạn kẹt xe vào mỗi giờ ra, vào ca, các tệ nạn xã hội, vi phạm trật tự
an ninh trên địa bàn…
Số lượng lao động có tay nghề trong các KCN còn thấp, chưa tạo ra
được cán bộ quản lý chủ chốt, chưa tập trung vào việc đào tạo ra đội ngũ
công nhân có tay nghề.
Các công trình văn hóa ở KCN hiện nay chưa được thống nhất về
khái niệm, chưa có những nội dung cụ thể về hình thức hoạt động cho
thiết chế văn hóa KCN.
Tuy các thủ tục hành chính đã được liên tục cải tiến nhưng vẫn còn
nhiều biểu hiện trì trệ trong việc tổ chức thực hiện. Công tác phối hợp
giữa các cơ quan quản lý nhà nước, địa phương trong một số lĩnh vực
chưa chặt chẽ. Hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư, hội nhập
kinh tế quốc tế còn yếu kém và thiếu kinh nghiệm [131].
Sự phát triển của ngành công nghiệp Đồng Nai trong những năm qua
đã góp phần làm cho Đồng Nai vươn lên đứng hàng thứ 3 cả nước về phát
37
triển công nghiệp và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc phát
triển kinh tế Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Đồng Nai xét cho cùng là sự
phát triển nhanh của ngành công nghiệp trên địa bàn theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; từ đó thúc đẩy các ngành kinh tế và các lĩnh vực
khác phát triển như: kết cấu hạ tầng, khoa học công nghệ, giáo dục đào
tạo, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng [130].
Các điều kiện trên là cơ sở, nền tảng cho quá trình tiếp nhận và
hưởng thụ văn hoá của công nhân KCN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong
tương lai. Trong thời gian tới, Đảng bộ và nhân dân Đồng Nai tiếp tục đổi
mới phương thức và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng
bộ; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; phát triển kinh tế với tốc độ
tăng trưởng cao, bền vững; nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh;
chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; đẩy mạnh CNH, HĐH đi đôi với bảo
vệ môi trường; thực hiện tốt và đồng bộ các chính sách an sinh xã hội;
nâng cao hơn nữa chất lượng cuộc sống của nhân dân; bảo đảm vững chắc
quốc phòng an ninh; xây dựng Đồng Nai thành tỉnh cơ bản CNH – HĐH
vào năm 2015 [28].
Trong hơn 20 năm qua, quá trình thực hiện CNH, HĐH ở Đồng Nai
đã thu được nhiều thành tích vượt trội so với nhiều địa phương khác. Từ
năm 1991 đến nay là, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn được duy trì với tốc
độ cao và ổn định trong nhiều năm: giai đoạn 1991 - 1995 tăng bình quân
13,94%/năm, giai đoạn 1996 - 2000 tăng bình quân 12%/năm, giai đoạn
2001 - 2005 tăng bình quân 12,86%/năm, giai đoạn 2006 - 2010 tăng bình
quân 13,5%/năm.
1.3. Thành tựu kinh tế văn hóa xã hội
38
Tổng sản phẩm quốc nội GDP của tỉnh tăng bình quân 13,2%/năm.
Trong đó ngành công nghiệp, xây dựng tăng 14,5%/năm, dịch vụ tăng
15%/năm, nông lâm nghiệp thủy sản tăng 4,5%/năm. Quy mô GDP theo giá
thực tế năm 2010 đạt 75.137 tỷ đồng (tương đương 4,13 tỷ USD), gấp 2,5 lần
năm 2005. GDP bình quân đầu người năm 2010 là 29,65 triệu đồng
(1.629USD), tăng gấp 2,1 lần năm 2005.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng định hướng, tỷ trọng các
ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 57% năm 2005 lên 57,2% năm
2010; dịch vụ từ 28% lên 34% và giảm ngành nông - lâm - thủy sản từ
14,9% xuống còn 8,7%. Cơ cấu lao động cũng chuyển dịch mạnh theo
hướng giảm tỷ trọng lao động khu vực nông nghiệp từ 45,5% năm 2005
xuống còn 30% năm 2010, lao động phi nông nghiệp tăng từ 54,5% năm
2005 lên 70% năm 2010.
- Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân là 17,2%/năm, cao hơn mức
tăng của giai đoạn 2001 - 2005.
- Tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bình quân
19,1%/năm. Trong 5 năm 2006 - 2010 huy động tổng vốn đầu tư phát
triển xã hội đạt 121.500 tỷ đồng. Tốc độ thu ngân sách bình quân
12,5%/năm, tổng thu ngân sách bình quân chiếm tỷ lệ khoảng 23% GDP
hàng năm.
- Trong 5 năm 2006 - 2010, đã phát triển thêm 11 khu công nghiệp,
nâng tổng số khu công nghiệp được thành lập trên địa bàn tỉnh lên 30 khu
với diện tích 9.573 ha. Về phát triển các cụm công nghiệp, đến cuối năm
2010 toàn tỉnh có 43 cụm công nghiệp được quy hoạch với tổng diện tích
là 2.143 ha trong đó có 2 cụm công nghiệp đã đầu tư hoàn thiện hạ tầng, 6
cụm công nghiệp đang đầu tư hạ tầng số còn lại đang trong quá trình bồi
thường giải phóng mặt bằng và lập thủ tục đầu tư.
39
- Tỷ lệ thất nghiệp thành thị năm 2010 giảm xuống còn 2,6%. Cơ cấu
lao động năm 2010 là: khu vực công nghiệp - xây dựng 39,1%, khu vực
dịch vụ 30,9%, khu vực nông nghiệp 30%.
- Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đến cuối năm 2010 đạt 53%, tỷ lệ
lao động qua đào tạo nghề đạt 40%. Ngoài ra, tỉ lệ người tốt nghiệp đại
học, công nhân tay nghề bậc cao còn thấp so với bình quân chung cả
nước. Công nghiệp phát triển nhanh nhưng nhân lực chất lượng cao không
đáp ứng kịp. Tính đến cuối năm 2008 mới có 19.751 người tốt nghiệp đại
học, đang công tác trong các thành phần kinh tế hoặc đã nghỉ hưu. Trong
số này số tốt nghiệp từ hệ đào tạo không chính qui (chuyên tu, tại chức,
chuẩn hóa, từ xa) chiếm đến 44,2%.
- Tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 100%. Kết quả xây dựng trường đạt
chuẩn quốc gia đến năm 2010 là mầm non 12%, tiểu học 12%, THCS
15%, THPT 20%. Đến năm 2010, trên địa bàn tỉnh có 2 trường đại học, 9
trường cao đẳng, 6 trường trung cấp chuyên nghiệp, 80 cơ sở dạy nghề
với năng lực đào tạo trên 58.000 học viên.
- Tỷ lệ hộ nghèo tính theo chuẩn năm 2006 đến cuối năm 2009 còn
dưới 1%. Nếu tính theo chuẩn 2009 của tỉnh đến cuối năm 2010 còn
4,27%.
- Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi cuối năm 2010 giảm còn
14,5%. Năm 2010, dự kiến toàn tỉnh có 257 cơ sở y tế. 100% xã, phường
có trạm y tế, 100% trạm y tế có nữ hộ sinh, 100% ấp, khu phố có nhân
viên y tế được đào tạo và hưởng chế độ trợ cấp của nhà nước. Toàn tỉnh
có 19 bệnh viện đa khoa, chuyên khoa và 13 phòng khám đa khoa khu vực
với 5.675 giường bệnh, đạt 19 giường bệnh/vạn dân. Toàn tỉnh có 5.703
cán bộ y tế, đạt 22,5 cán bộ y tế/vạn dân. Trong đó số bác sỹ là 1.267
người, đạt 5 bác sỹ/vạn dân.
40
- Tỷ lệ hộ dùng điện năm 2010 đạt 99%.
- Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch năm 2010 khu vực thành thị đạt
98%, khu vực nông thôn 90%.
- Thu gom xử lý chất thải y tế đạt 100%; thu gom chất thải nguy hại
đạt 60%; thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt đạt 80%.
- Tỷ lệ độ che phủ cây xanh đến cuối năm 2010 đạt 54,3%, trong đó
tỷ lệ độ che phủ của rừng đạt 29,76%.
Các thành tựu này là nền tảng xã hội cho sự phát triển đời sống văn
hóa tinh thần cho các cộng đồng dân cư trên địa bàn tỉnh nói chung, các
cộng đồng dân cư có KCN nói riêng. Theo Báo cáo về Đời sống văn hoá đô
thị & Khu công nghiệp Việt Nam năm 2009 của Viện Văn hóa Nghệ thuật
Việt Nam [137], sự tăng trưởng kinh tế xã hội mới là bước đầu, chưa có một
chất lượng đô thị cao. Chính đặc điểm này đã đặt ra vấn đề là cần phải nâng
cao hơn nữa “chất lượng đô thị” trong cuộc sống của người dân trên nhiều
phương diện. “Lối sống đô thị" với hàng loạt các yếu tố, các tiêu chí mà các
nhà xã hội học đã đề cập đến chính là vấn đề mà chúng ta cần quan tâm đối
với các cộng đồng nông thôn đang đi vào công nghiệp hóa, đô thị hóa ở Việt
Nam hiện nay. Sự chuyển biến tuy đã có nhưng còn rất chậm so với yêu cầu
khách quan, nhất là so với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH mà chúng ta
đang tiến hành.
1.4. Mô tả các cộng đồng được khảo sát
Sau năm 1975, cũng giống như các cộng đồng nông thôn khác của phía
Nam, các xã mà chúng tôi đi khảo sát cũng như các xã thuộc tỉnh Đồng Nai
nói chung đều có những biến động lớn về kinh tế - xã hội và văn hóa.
Theo tác giả Lương Hồng Quang, trong cuốn sách Văn hóa cộng đồng
làng vùng đồng bằng sông Cửu Long thập kỷ 80 – 90 (qua trường hợp Bình
Phú - Cai Lậy - Tiền Giang) khoảng thời gian từ 1980 cho đến nay là một giai
41
đoạn đầy biến động của nông thôn Nam Bộ, trong đó có các xã Long Thọ,
Hiệp Phước và Thạnh Phú. Sau một, hai năm khắc phục hậu quả chiến tranh,
ổn định cuộc sống, sản xuất nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
đã từng bước được phục hồi và cải tạo theo phương hướng tiến lên sản xuất
lớn Xã hội Chủ nghĩa. Những kinh nghiệm và mô hình tập thể hoá ở miền
Bắc đã được áp dụng trên một nông thôn - nông nghiệp - nông dân có nhiều
đặc điểm khác hẳn so với các tỉnh phía Bắc. Cuối năm 1975, gần 6 triệu
nông dân phiêu tán trong chiến tranh nay đã trở về quê, nhu cầu ruộng đất
trở thành một vấn đề nóng bỏng của người nông dân và các tranh chấp ruộng
đất trở thành một vấn đề xã hội gay gắt. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà
nước chủ trương tiến hành điều chỉnh ruộng đất, coi đây là bước mở đầu để
đưa nông dân các tỉnh Nam Bộ đi dần vào con đường tập thể hoá [78].
Trong những năm 1976 - 1978, ở nông thôn các tỉnh Nam Bộ đã diễn ra
quá trình điều chỉnh, chia cấp ruộng đất cho nông dân, tập thể hoá tư liệu sản
xuất, tiến hành xây dựng thí điểm các hợp tác xã nông nghiệp. Trước đó,
trong năm 1975, cả vùng đã có phong trào xây dựng tập đoàn sản xuất phát
triển mạnh mẽ với 12.246 tập đoàn. Song, do làm ồ ạt, xuất phát từ mục tiêu
chính trị hơn là kinh tế, gò ép, thiếu chuẩn bị nên các tập đoàn sản xuất hoạt
động ít hiệu quả, tồn tại ở hình thức. 6000 tập đoàn hoạt động cầm chừng,
4000 tập đoàn khi thành lập gặp thiên tai vào các năm 1976 đến 1979 đã lần
lượt tan vỡ.
Sau Chỉ thị 15 của Ban Bí thư Trung ương (khoá IV) Về việc làm thí điểm
cải tạo Xã hội Chủ nghĩa đối với nông nghiệp miền Nam, tháng 8 năm 1977,
theo sự chỉ đạo của Trung ương, ở Nam Bộ xây dựng ba hợp tác xã thí điểm:
Tân Hội (Cai Lậy - Tiền Giang), Ô Môn (Hậu Giang), Long Thành (Đồng Nai).
Đến cuối những năm 80, hàng loạt hợp tác xã và tập đoàn sản xuất ở Đông và
Tây Nam Bộ tan rã. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, mô hình tập thể hoá áp dụng vào
42
điều kiện thực tế của nông thôn các tỉnh phía Nam, trên những va đập của các
quan hệ kinh tế - xã hội đặc thù đã sớm bộc lộ những hạn chế, yếu kém của lối
làm ăn tập thể được áp dụng một cách duy ý chí.
Ngày 05/04/1988, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá
VI) ra Nghị quyết Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp (gọi tắt là Nghị
quyết 10), trong đó, Bộ Chính trị đã đưa ra những quan điểm mới: Hợp tác xã
là đơn vị kinh tế tự chủ, tự quản, hộ gia đình xã viên là đơn vị nhận khoán với
hợp tác xã. Chính các quan điểm này xác nhận sự "trỗi dậy" của kinh tế nông
hộ, từ đó, ngầm ẩn các quá trình đòi lại ruộng đất đã điều chỉnh thời tập thể
hoá và bùng phát trên cả vùng khi Luật đất đai được thi hành. Sự phát triển
trở lại của nền kinh tế thị trường, thay vì một chính sách quản lý chặt chẽ của
Nhà nước đã đánh mất vai trò độc tôn của hợp tác xã là đối tượng cung cấp
duy nhất trên thị trường các sản phẩm vật tư nông nghiệp. Thị trường tự điều
chỉnh các cung ứng này. Các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất dần dần mất chức
năng, tự phá sản. Nền nông nghiệp các tỉnh Đông và Tây Nam Bộ trở lại là
nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá với nông hộ là đơn vị kinh tế cơ bản,
trong đó trung nông là lực lượng chính. Những năm 1990 là thời kỳ phát triển
mạnh mẽ của nền nông nghiệp của cả vùng và ở 3 xã mà luận án này khảo sát.
Chính sự phát triển theo cơ chế thị trường đã cơ bản khắc phục được những
khó khăn trong đời sống nông dân các năm về trước, mức sống của người dân
được cải thiện một bước, công tác văn hoá xã hội cũng nhờ đó mà phát triển.
Các xã Hiệp Phước, Thạnh Phú và Long Thọ là các cộng đồng nông
thôn điển hình của vùng đất Đồng Nai, có vị trí địa lý nằm ở vùng trung tâm
trồng lúa của hai huyện Nhơn Trạch và Vĩnh Cửu, đất vườn xanh tươi, trù phú
với các loại cây ăn quả như bưởi, mít, chuối, xoài. Trước năm 2000, cả 3 xã
đều là các xã nông nghiệp điển hình của tỉnh Đồng Nai với lợi thế dựa vào
43
tiềm năng đất đai rộng, người dân cần cù sản xuất. Có thể nói đây là 3 cộng
đồng dân cư tiêu biểu của đất Đồng Nai, có truyền thống lịch sử trên dưới 300
năm, gắn liền với lịch sử phát triển, thể hiện trong hệ thống các di tích lịch sử
văn hóa, các nghi lễ, phong tục tập quán, lễ hội sẽ được phân tích ở Chương 3.
1.4.1. Xã Hiệp Phước
Xã Hiệp Phước nằm về hướng phía Đông Bắc của thành phố Nhơn
Trạch, phía đông giáp xã Long An, Long Phước của huyện Long Thành; phía
tây giáp các xã Phước Thiền, Phú Hội, Long Tân (cùng huyện Nhơn Trạch);
phía nam giáp các xã Long Thọ, Phước An cũng cùng huyện; phía bắc giáp
thị trấn Long Thành (huyện Long Thành).
Tại Nhơn Trạch, có 6 khu công nghiệp được Chính phủ phê duyệt, gồm:
KCN Nhơn Trạch 1, KCN Nhơn Trạch 2, KCN Nhơn Trạch 3, KCN Nhơn
Trạch 4, KCN Nhơn Trạch 5 và KCN Nhơn Trạch 6. Ngoài ra, còn có 1 KCN
do tỉnh phê duyệt là KCN Ông Kèo và 1 KCN của địa phương khoảng 100 ha
ở xã Phú Thạnh - Vĩnh Thanh. Bên cạnh đó, do Nhơn Trạch có vị trí địa lý
thuận lợi là tâm điểm tam giác Tp. HCM, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu nên
được quy hoạch thành đô thị loại II, hình thành ở đây các khu đô thị mới được
xây dựng hiện đại, theo tiêu chuẩn của các đô thị mới, với hệ thống nhà ở, cơ
sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đạt chuẩn. Hai tiến trình phát triển KCN
và xây dựng các đô thị mới đã tạo ra những áp lực cho chính các cộng đồng
nông thôn ở đây, trong đó có Hiệp Phước và Long Thọ.
Tại Hiệp Phước, trong 10 năm, quỹ đất của toàn xã có sự tăng lên nhưng
diện tích bị thu hồi lại giảm đi. Nếu như năm 2000 thu hồi 450 ha, đến năm
2005 là 420 ha và năm 2010 còn 49 ha. Trong 10 năm, tổng diện tích đất của
xã tăng 69 ha thì diện tích bị thu hồi giảm 8,3 lần (từ 24,8% xuống 2,6%). Vì
có vị trí địa lý thuận lợi phục vụ quy hoạch phát triển KCN và phát triển các
đô thị là một trong các trọng tâm của tỉnh. Giai đoạn 2000 - 2005 nhanh
44
chóng thu hồi đất nhằm đáp ứng xây dựng hạ tầng phát triển KCN và phát
triển đô thị. Đến năm 2010, diện tích thu hồi đất giảm sút rõ rệt (1/10 so với
những năm 2000 - 2005) vì quỹ đất của địa phương đã không còn đáp ứng
nhu cầu quy hoạch KCN. Từ đó quá trình thu hồi đất phát triển KCN chuyển
qua các xã lân cận như: Phước Thiền, Long Thọ,…
Bảng 2: Diện tích đất bị thu hồi qua các năm
Đơn vị tính: ha
Diện tích đất (ha)
2010
%
2005
%
2000
%
Tổng diện tích tự nhiên
1882
100
1813
100
1813
100
Đất bị thu hồi
49
2,6
420
23,1
450
24,8
Nguồn: UBND xã Hiệp Phước, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010
Diện tích đất tự nhiên của Hiệp Phước là 1.813ha, trong đó đất canh tác
552,48 ha. Đất thổ cư 107,31 ha, 1150 ha diện tích đất mặt nước, đất dự trữ và
khác, trong đó đất canh tác từ trên 1500 ha xuống còn trên 500 ha sau 10 năm,
chứng tỏ Hiệp Phước là nơi có tốc độ CNH và ĐTH mạnh nhất trong 3 xã.
Bảng 3: Tổng diện tích đất qua các thời kỳ
Đơn vị tính: ha
STT
Loại hình
2010
2005
2000
1
Đất canh tác
552,48
500,27
1615,12
2
Đất thổ cư
107,31
91,50
52,98
Nguồn: UBND xã Hiệp Phước, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010
Xã có 5 ấp, được đánh số từ 1 đến 5. Dân số của xã năm 2000 dân số
toàn xã 10.543 người, năm 2005 là 13.916 người và 2010 là 16.179 người với
5.369 hộ. Số người trong độ tuổi lao động chiếm 60% dân số của xã. Trong
đó năm 2000 có 6732 người nhập cư vào xã. Năm 2005 có 9547 người và
2010 có 13919 người.
Kinh tế trong xã phát triển theo hướng bền vững với đóng góp chủ yếu
của công nghiệp và dịch vụ. Thu nhập bình quân theo đầu người không ngừng
45
tăng. Năm 2000 là 0,92 triệu đồng/người/tháng. Năm 2005 là 1,5 triệu
đồng/người/tháng. Năm 2010 là 2,1 triệu đồng/người/tháng. Tính theo năm,
thu nhập này là gấp 2 lần so với trung bình thống kê cả nước cho khu vực
nông thôn (Tổng điều tra toàn quốc năm 2009 là gần 12 triệu
đồng/người/năm). Thu nhập của nhân dân trong xã không ngừng được tăng
lên qua các mốc thời gian trong 10 năm. Đời sống của nhân dân không ngừng
được cải thiện do chủ yếu là tốc độ CNH tăng mạnh, khi các KCN được xây
dựng ngay tại xã, với các nhà máy lớn như nhà máy nhiệt điện Nhơn Trạch,
nhà máy Formosa...
Bảng 4: Thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ
Đơn vị tính: triệu đồng
STT
Thu nhập
2010
2005
2000
2,1 triệu x 12
1,5 triệu x 12
920.000 x 12
Thu nhập bình quân (triệu
tháng =
tháng =
tháng =
1
đ/năm)
25.200.000/năm
18.000.000/năm
11.040.000/năm
Nguồn: UBND xã Hiệp Phước, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010
Tỷ lệ cơ cấu hộ gia đình nông nghiệp từ năm 2000 chiếm 60,8%, sau
10 năm còn gần 20%, giảm 3 lần, tỷ lệ hộ phi nông nghiệp từ 0,2% năm
2000, tăng lên 26,2%, tăng 26 lần, trong số này, chủ yếu là tăng do dân
nhập cư vào các KCN đến sinh sống, nhập cư tại Hiệp Phước, một phần là
chuyển đổi của dân tại chỗ.
Bảng 5: Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ
Đơn vị tính: người
2010
2005
2000
STT
Hộ
n
%
n
%
n
%
1 Hộ nông nghiệp
1063
19,8
1965
42,7
2010
60,8
2 Hộ hỗn hợp
2897
54,0
2018
44,0
1279
39,0
3 Hộ phi nông nghiệp
1408
26,2
610
13,3
18
0,2
46
4 Tổng
5368
100
4593
100
3307
100
Nguồn: UBND xã Hiệp Phước, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010
Bảng 6: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ
Đơn vị tính: người
2010
2005
2000
STT
Dân cư
Người % Người %
Người
%
1 Học sinh, sinh viên
5230
4891
5150
2 Công nhân, viên chức, hưu trí
763
812
898
Kinh doanh, buôn bán nhỏ (bán
hàng tại nhà, buôn bán vỉa hè,
3
cho thuê nhà….)
3790
2850
2005
Thủ công nghiệp (làm giầy da,
dệt len, làm mộc, thợ đục, thợ
may…)
4
3616
1853
1360
Nghề tự do (Nội trợ, làm thuê,
5
giúp việc, xây dựng, xe ôm...)
2780
3510
1130
6 Tổng dân số toàn xã
16179
13916
10543
Nguồn: UBND xã Hiệp Phước, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010
Bảng 7: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư
Đơn vị tính: người
2010
2005
2000
STT
Dân cư
Người %
Người
%
Người %
1 Học sinh, sinh viên
1230
610
815
2 Công nhân, viên chức, hưu trí
87
67
61
Kinh doanh, buôn bán nhỏ
(bán hàng tại nhà, buôn bán
3
vỉa hè, cho thuê nhà….)
2120
1976
1783
Thủ công nghiệp (làm giầy
4
da, dệt len, làm mộc, thợ đục,
7613
6382
6616
47
thợ may…)
Nghề tự do (Nội trợ, làm
thuê, giúp việc, xây dựng, xe
ôm...)
5
2869
4881
1268
6 Tổng
16179
13916
10543
Nguồn: UBND xã Hiệp Phước, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010
Hòa cùng quá trình ĐTH của cả nước trong giai đoạn hiện nay, quá trình
ĐTH ở xã Hiệp Phước cũng đang diễn ra rất nhanh nhất là quá trình ĐTH về
những loại hình dịch vụ đặc biệt phát triển: với sự xuất hiện hàng loạt các
tiệm điện thoại di động, dịch vụ bưu điện, viễn thông, các dịch vụ sửa chữa,
dịch vụ du lịch vận tải, dịch vụ internet, truyền thông, dịch vụ hành chính văn phòng
khi xã đang có những trung tâm đô thị dọc quốc lộ 51…
Do nhu cầu về chỗ ở của người lao động quá lớn, trong khi đó các chủ sử
dụng lao động không đáp ứng được cộng thêm mức thu nhập thấp (bình quân
mỗi tháng từ 1.5 triệu – 1.8 triệu đồng/người) dẫn đến người lao động nhập cư
tự lo chỗ ở phải thuê những căn nhà trọ giá rẻ, chưa đảm bảo chất lượng cuộc sống với diện tích bình quân 4m2/người, chất lượng nhà cho thuê (vệ sinh,
điện, nước) chưa đảm bảo yêu cầu của cuộc sống, sinh hoạt văn hóa dường
như không có. Giá cả tăng vọt, lương cho công nhân còn thấp, thu nhập từ
việc buôn bán của người dân địa phương còn quá bấp bênh. Các hoạt động
giải trí, sinh hoạt văn hóa chưa đáp ứng đủ nhu cầu của người dân.
1.4.2. Xã Thạnh Phú
Xã Thạnh Phú thuộc huyện Vĩnh Cửu, hiện có 7 ấp với diện tích 1436 ha
trong đó 876,29 ha đất canh tác, 158,95 ha đất thổ cư, còn 250 ha đất diện tích
đất mặt nước, đất dữ trự và đất khác.
Diện tích đất thu hồi của xã Thạnh Phú tăng dần theo các thời kỳ: nếu
như năm 2000 chưa bị thu hồi đất thì năm 2005 là 34 ha bằng 2,4 % tổng diện
tích đất. Năm 2010 thu hồi gấp hơn 2 lần năm 2005. Tổng diện tích đất bị cắt
48
giảm do điều chỉnh địa giới hành chính từ 1436 ha (2005) xuống chỉ còn 1405
ha (2010), vì thế năm 2010 số đất bị thu hồi đã là 5,8 % tổng diện tích đất của
toàn xã. Có hai nguyên nhân cho sự biến động này: điều chỉnh địa giới hành
chính nhằm tập trung sản xuất công nghiệp và theo quy hoạch KT - XH của
tỉnh. Từ thu hồi đất thu hẹp đất sản xuất nông nghiệp của người dân địa
phương, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã. Đồng thời có những biến động xã
hội mà biểu hiện qua nơi tụ cư/nơi ở của người dân.
Bảng 8: Diện tích đất bị thu hồi xã Thạnh Phú
Đơn vị tính: ha
Diện tích đất
2010
%
2005
%
2000
%
Tổng diện tích tự nhiên
1405
100
1436
100
1436
100
Đất bị thu hồi
82
5,8
34
2,4
0
0
Nguồn: UBND xã Thạnh Phú, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010
Tuy so với hai xã kia, diện tích đất không bị lấy nhiều (177 ha so với
1405 ha, bằng 12,6%), song ở Thạnh Phú lại có một đặc điểm là ngay tại
trung tâm xã, đã xây dựng rất nhiều nhà máy có quy mô nhân công cao. V í dụ
công ty giầy Changshin Vina nằm ngay trên tỉnh lộ 768, sử dụng trên 3000
công nhân, thu nhận dân tại chỗ, dân từ Biên Hòa xuống, dân của huyện Vĩnh
Cửu và dân các tỉnh về. Tính trên địa bàn xã Thạnh Phú, đất nông nghiệp ít bị
lấy làm đất KCN nhưng đất dân chủ động chuyển đổi để làm nhà trọ, xây cất
các khu nhà ở mới cho thuê là rất lớn, từ đây cơ cấu kinh tế của xã thay đổi
nhanh theo hướng phi nông nghiệp hóa, mặc dù trước đó là một vùng trồng
cây ăn trái, trồng lúa nổi tiếng.
Dân số của xã năm 2000 dân số toàn xã là 10613 người, tăng lên trên 22
ngàn người năm 2010, gấp đôi trong 10 năm, một tốc độ tăng “chóng mặt”,
khiến diện tích bình quân đầu người giảm trên 2 lần:
Bảng 9: Nhân khẩu của xã qua các thời kỳ
Đơn vị tính: người
49
2010
2005
2000
STT
Dân số
22150
11097
10613
1
Tổng số dân toàn xã Diện tích bình quân đầu người (m2/
2
người)
8
14
20
Tổng số dân nhập cư là công nhân
3
(KT2/3, chưa đăng ký)
5762
1980
488
Nguồn: UBND xã Thạnh Phú, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010
Trong tổng số dân toàn xã, dân nhập cư hiện nay chiếm 40% tổng số
dân, trong đó từ miền Tây lên là lớn nhất, miền Bắc và miền Trung chiếm
gần/trên 1/5 tổng số dân nhập cư, song họ lại có xu hướng định cư lâu dài hơn
dân miền Tây. Toàn xã có 22.108 nhân khẩu trong đó trên 40% là dân nhập
cư từ các tỉnh tới đây sinh sống và làm ăn (trên 5 ngàn là công nhân và gần 9
ngàn (8843 người) là dân nhập cư.
Bảng 10: Dân nhập cư qua các thời kỳ
Đơn vị tính: người
2010
2005
2000
STT
Dân cư
Người %
Người
%
Người %
Tổng số dân nhập cư (KT2/3,
1
chưa đăng ký)
5762
26
1980
17,8
488
0,5
2 Từ miền Tây Nam bộ
3270
-
-
634
81
-
3 Từ miền Trung
1009
-
-
733
193
-
4 Từ miền Bắc
1483
-
-
613
214
-
5 Tổng số dân toàn xã
22150 100
11097
100
10613 100
Nguồn: UBND xã Thạnh Phú, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010
Phần lớn người nhập cư không có hộ khẩu thường trú, không có nhà mà
chủ yếu là dạng tạm trú, ở nhà trọ. Khi công ty tăng nhu cầu lao động bao
nhiêu thì những dãy trọ cũng mọc lên bấy nhiêu. Các dãy trọ tập trung chủ
yếu ở ấp 5 và ấp 1, theo khảo sát của chúng tôi thì đây là hai ấp có lượng công
50
nhân người dân tộc Chăm và Khmer đông. Họ sống tập trung thành các xóm
trọ và ít tiếp xúc với bên ngoài sau giờ làm việc, chủ yếu là sống khép kín.
Bảng 11: Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ
Đơn vị tính: hộ
2010
2005
2000
STT
Hộ
n
%
n
%
n
%
1 Hộ nông nghiệp
824
23.36
1793
85.95
1697
95.98
2 Hộ hỗn hợp
1652
46.85
143
6.85
30
1.69
3 Hộ phi nông nghiệp
1050
29.77
150
7.19
41
2.3
4 Tổng
3526
2086
1768
Nguồn: UBND xã Thạnh Phú, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn
hóa 2010
Bảng 12: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ
Đơn vị tính: người
2010
2005
2000
STT
Dân cư
Người %
Người
%
Người %
1 Học sinh, sinh viên
3540
15,98
1435
12,93
930
8,76
52,0
2 Công nhân, viên chức, hưu trí 15890 71,73
7524
67,8
5520
1
Kinh doanh, buôn bán nhỏ
(bán hàng tại nhà, buôn bán
vỉa hè, cho thuê nhà….)
3
890
4,42
450
4,05
208
1,95
Thủ công nghiệp (làm giầy
da, dệt len, làm mộc, thợ đục,
4
thợ may…)
789
3,56
658
5,92
243
2,28
Nghề tự do (Nội trợ, làm
34,9
thuê, giúp việc, xây dựng, xe
5
ôm…)
1041
4,69
1030
9,28
3712
7
51
6 Tổng dân số toàn xã
22150
10613
Nguồn: UBND xã Thạnh Phú, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn
hóa 2010
Bảng 13: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư
Đơn vị tính: người
2010
2005
2000
STT
Dân cư
Người %
Người
%
Người %
1 Học sinh, sinh viên
102
1,77
35
1,76
4
0,81
2 Công nhân, viên chức, hưu trí
5160
89,55
1675
84,59
390
7,99
Kinh doanh, buôn bán nhỏ
(bán hàng tại nhà, buôn bán
vỉa hè, cho thuê nhà….)
3
60
1,04
16
0,8
5
1,02
Thủ công nghiệp (làm giầy
da, dệt len, làm mộc, thợ đục,
4
thợ may…)
230
3,99
60
3,03
9
1,84
Nghề tự do (Nội trợ, làm
thuê, giúp việc, xây dựng, xe
5
ôm...)
210
3,64
194
9,79
80
16,39
6 Tổng số toàn xã
5762
1980
488
Nguồn: UBND xã Thạnh Phú, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn
hóa 2010
Thu nhập bình quân đầu người của toàn xã tăng gấp 3 lần trong 10
năm, từ 2000 đến 2010, chủ yếu do chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ làm
nông nghiệp sang dịch vụ (dân tại chỗ với mô hình kinh tế cho thuê nhà
trọ, buôn bán nhỏ), làm công nhân KCN (một phần dân tại chỗ và chủ
yếu là công nhân là dân nhập cư). Trước đây người dân ở xã sống bằng
nghề nông và một số ngành nghề khác. Từ khi có các công ty, xí nghiệp
mọc lên thì cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động cũng thay đổi hầu hết lao
52
động nông nghiệp chuyển sang công nghiệp, từ người nông dân chuyển
thành công nhân, tiểu thương.
53
Bảng 14: Thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ
Đơn vị tính: triệu đồng
STT
Thu nhập
2010
2005
2000
Thu nhập bình quân
1
(triệu đ/năm)
15.000.000/năm
10.000.000/năm 5.000.000/năm
Nguồn: UBND xã Thạnh Phú, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010
Hệ thống các quán ăn, cửa hàng, quán café, karaoke rất phát triển. Thời
gian rảnh rỗi công nhân thường tới các dịch vụ này nhiều hơn tham gia các
hoạt động văn hóa địa phương. Các dịch vụ internet ít phát triển do trình độ
công nhân chưa cao.
Toàn xã có một trung tâm học tập cộng đồng, 02 trường mẫu giáo, 02
trường tiểu học, 02 trường trung học cơ sở, 02 trường trung học phổ thông. Ở
đây còn có 01 trung tâm Anh ngữ và trung tâm giáo dục thường xuyên, hướng
nghiệp dạy nghề cho thanh niên địa phương. Ở xã có 01 trạm y tế đạt chuẩn
quốc gia. Xã có 1 sân bóng đá và một sân bóng chuyền để luyện tập vui chơi,
tuy nhiên đó chỉ là những sân chơi tạm thời. Hệ thống đài phát thanh xã được
đầu tư máy phát sóng FM với 24 loa vô tuyến và 14 loa hữu tuyến. Dọc hai
bên đường và tại các trạm thông tin các ấp được gắn các áp phích, pano, tranh
ảnh tuyên truyền về hưởng ứng các phong trào, các chủ trương của Đảng và
nhà nước.
1.4.3. Xã Long Thọ
Ngày nay xã Long Thọ nằm ở phía Đông của trung tâm thành phố
Nhơn Trạch và cách trung tâm 11 km. Phía Bắc giáp xã Hiệp Phước
(huyện Nhơn Trạch), phía Nam giáp xã Phước An (huyện Nhơn Trạch),
phía Tây giáp các KCN của huyện Nhơn Trạch, phía Đông giáp xã Long
Phước (huyện Long Thành). Xã có địa hình bằng phẳng thuận lợi để xây
dựng nhà ở, KCN, trung tâm văn hóa, trung tâm thương mại, chung cư…
54
Diện tích đất tự nhiên 1.113 ha, trong đó đất canh tác 904.52 ha.
Đất thổ cư 209.11 ha, 50 ha diện tích đất mặt nước, đất dữ trự và khác.
Ở xã Long Thọ, tương tự như Thạnh Phú, năm 2000 diện tích đất
của xã chưa bị thu hồi, năm 2005 thu hồi 339 ha, bằng 13,9 % tổng diện
tích toàn xã. Năm 2010 thu hồi 47 ha bằng 1,9 % toàn diện tích xã. Năm
2000 chưa có dự án công nghiệp, đến năm 2005 đất xã Long Thọ thu hồi
13,9% tổng diện tích đất của xã. Để phát triển cụm công nghiệp Nhơn
Trạch đòi hỏi quỹ đất phải đáp ứng đủ theo cầu quy hoạch phát triển
KCN và đô thị của tỉnh và vùng, do đó ở Long Thọ không thu hồi đất lẻ
tẻ/nhỏ lẻ gây nhức nhối trong nhân dân ở giai đoạn trước nữa. Năm
2010, diện tích thu hồi đất giảm sút rõ rệt (1/7 so với những năm 2000 -
2005), do nhu cầu xây dựng KCN và đô thị trên địa bàn đã đủ.
Bảng 15: Tổng diện tích đất bị thu hồi qua các năm
Đơn vị tính: ha
Diện tích đất
2010
2005
%
2000 %
%
Tổng diện tích tự nhiên
2427
2427
100
2427
100
100
Đất bị thu hồi
47
339
13,9
0
0
1,9
Nguồn: UBND xã Long Thọ, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010
Bảng 16: Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ
Đơn vị tính: hộ
2010
2005
2000
STT
Hộ
n
%
n
%
n
%
1 Hộ nông nghiệp
405
20
416
23,4
1168
80
2 Hộ hỗn hợp
420
20,7
900
50,7
-
-
3 Hộ phi nông nghiệp
1200
59,2
459
25,8
-
-
4 Tổng
2025
100
1775
100
1460
100
Nguồn: UBND xã Long Thọ, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010
55
Qua bảng phân bố trên, ta thấy một diện mạo phát triển mới khi năm
2000, cư dân nông nghiệp chiếm 80% song 10 năm sau, chỉ còn 20%. Tỷ
lệ hộ phi nông nghiệp năm 2005 là 25,8% nhưng đến năm 2010 là gần
60%, trong 5 năm, tăng hơn 2 lần. Các chỉ số này cho thấy với sự phát
triển nhanh các KCN, cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề, trong đó nghề
ngoài nông nghiệp tăng mạnh. Quá trình này được củng cố bởi luồng di
dân vào xã tăng mạnh, phần lớn là dân cư phi nông nghiệp.
Bảng 17: Thống kê dân nhập cư qua các thời kỳ
Đơn vị tính: người
STT
2010
2005
2000
Dân cư
Người
%
Người
%
Người %
1
Tổng số dân nhập cư
4353
53
1302
19
14,5
905
2 Từ miền Tây Nam bộ
1088
25
225
25
227
3 Từ miền Trung
1305
30
390
30
270
4 Từ miền Bắc
1960
45
582
45
408
Nguồn: UBND xã Long Thọ, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010
Bảng 18: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ
Đơn vị tính: người
2010
2005
2000
STT
Dân cư
Người %
Người
%
Người %
1 Học sinh, sinh viên
1184
1300
1100
2 Công nhân, viên chức, hưu trí
4679
3520
800
Kinh doanh, buôn bán nhỏ
(bán hàng tại nhà, buôn bán
vỉa hè, cho thuê nhà….)
3
2052
1569
500
Thủ công nghiệp (làm giầy
da, dệt len, làm mộc, thợ đục,
4
thợ may…)
25
25
620
Nghề tự do (Nội trợ, làm
5
thuê, giúp việc, xây dựng, xe
270
410
3020
56
ôm...)
6 Tổng
8210
6824
6040
Nguồn: UBND xã Long Thọ, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010
Bảng 19: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư
Đơn vị tính: người
2010
2005
2000
STT
Dân cư
Người %
Người %
Người %
1 Học sinh, sinh viên
130
39
27
2 Công nhân, viên chức, hưu trí
3047
911
635
Kinh doanh, buôn bán nhỏ (bán
hàng tại nhà, buôn bán vỉa hè,
3
cho thuê nhà….)
125
30
026
Thủ công nghiệp (làm giầy da,
dệt len, làm mộc, thợ đục, thợ
4
may…)
609
182
126
Nghề tự do (Nội trợ, làm thuê,
5
giúp việc, xây dựng, xe ôm...)
452
140
91
6 Tổng
4363
1302
905
Nguồn: UBND xã Long Thọ, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010
Xã có dân cư đông với một lượng lớn người nhập cư khiến cho đời sống
văn hóa của người dân trong xã khá phong phú và nhiều tôn giáo khác nhau.
Trên địa bàn xã có chùa, miếu với 4 tôn giáo: Phật Giáo có 121 tín đồ với 2
cơ sở thờ tự, Thiên Chúa có 177 giáo dân, Cao Đài có một chức sắc, một
chính trị sự và 103 tín đồ, Hòa Hảo có một tín đồ.
Xã hiện có 5 ấp thì cả 5 ấp đều là ấp văn hóa. Chạy theo trục đường
chính chạy vào Long Thọ là thiết chế văn hóa, dịch vụ nằm dọc 2 bên đường.
Xã có một thư viện, 1 trung tâm văn hóa, 1 khu vui chơi giải trí, 1 trung tâm
học tập cộng đồng, 5 ấp có 5 sân chơi bóng đá và bóng chuyền. Ngoài ra còn
có 1 bưu điện, 1 trường cấp 1, 1 trường cấp 2, đặc biệt có 1 trường mần non
57
đạt chuẩn quốc gia, chưa có trường cấp 3 và trung tâm ngoại ngữ tin học.
Trên địa bàn xã tập trung nhiều công ty xí nghiệp lớn, chủ yếu là công ty liên
doanh, tư nhân và công ty 100% vốn nước ngoài. Chính vì vậy hệ thống
phòng trọ khá phát triển có tất cả 16 khu trọ, có nhiều công nhân là người dân
tộc chủ yếu từ các tỉnh phía Bắc. Những khu trọ đều được quản lý chặt chẽ
và các chủ trọ đã ký cam kết với chính quyền địa phương. Hệ thống đường xá
vào các KCN được xây dựng rộng và hiện đại. Số lượng quán ăn, quán cafe,
quán karaoke, tiệm bi - a, cửa hàng phát triển khá nhiều.
Kinh tế trong xã phát triển theo hướng bền vững với đóng góp chủ yếu
của công nghiệp và dịch vụ. Thu nhập bình quân theo đầu người không ngừng
tăng. Năm 2000 là 4 triệu đồng/người. Năm 2005 là 8 triệu đồng/người. Năm
2010 là 15 triệu đồng/người. Thu nhập của nhân dân trong xã không ngừng
được tăng lên. Đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện.
Xã Long Thọ là một xã đang trong thời kỳ phát triển của quá trình đô thị
hóa nhanh, mạnh, do sự phát triển của các KCN tại chỗ làm biến đổi cơ cấu
kinh tế xã hội. Long Thọ ngày nay không còn là hình ảnh của một làng quê
Nam Bộ với đồng lúa, vườn cau, mái nhà cổ mà là một xã đang đi trong tiến
trình đô thị hóa mạnh, có KCN tại chỗ, có những khu dân cư mới kiểu đường
phố sầm uất, với những cửa hàng dịch vụ cho nhóm cư dân nhập cư, có những
dãy nhà trọ xây bên trong vườn nhà, do người dân coi cho thuê nhà là một
nguồn sinh sống mới.
1.4.4. Tổng hợp về mẫu nghiên cứu
Trên cơ sở xây dựng một số chỉ số để đo lường mức độ CNH ở các xã
trong mẫu nghiên cứu, chúng tôi thấy được các mức độ phát triển kinh tế - xã
hội chung của 3 xã như sau.
58
Bảng 20: Tổng diện tích tự nhiên bị thu hồi để xây dựng các KCN ở 3 xã
Đơn vị tính: ha
Xã
2010
2005
2000
Hiệp Phước
43
37
20
Long Thọ
46
39
17
Thạnh Phú
12,6
5
3
Nguồn: điều tra của tác giả năm 2010
Cùng với tiến trình CNH mạnh mẽ ở Đồng Nai, quá trình người dân bị
mất đất có chiều hướng tăng không ngừng. Do nằm trong các KCN và ven các
KCN nên diện tích đất bị thu hồi phục vụ các dự án mở rộng và xây mới các
nhà máy của cả 3 xã đều tăng. Chu kỳ 10 năm (2000 - 2010), diện tích đất của
người dân phục vụ các KCN tăng gấp đôi (xã Hiệp Phước và Long Thọ),
thậm chí xã Thạnh Phú tăng gấp 4 lần. Nếu như năm 2000 xã Hiệp Phước bị
mấy 20% tổng diện tích đất thì năm 2005 tăng lên gấp 1,7 lần, 5 năm tiếp sau
đó tăng thêm 6 %. Trong khi đó, xã Long Thọ diện tích đất dành cho KCN
tăng từ 17% lên 46% trong vòng 10 năm, tức là 29% tổng diện tích tự nhiên
của xã. Xã Thạnh Phú là xã có diện tích đất dành cho KCN ít hơn cả. Trong
vòng 10 năm, diện tích đất chỉ mất 10% tổng diện tích tự nhiên của xã.
Nguyên nhân có sự đột biến về đất đai là sự bùng nổ của sản xuất công
nghiệp trên địa bàn và quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng. Các xã Hiệp
Phước và Long Thọ, 2 xã nằm trong các khu công nghiệp lớn như (Nhơn
Trạch II, Nhơn Trạch III) có diện tích bị thu hồi bằng một gần nửa diện tích tự
nhiên và có chiều hướng tăng dần theo các năm. Trong khi đó, Thạnh Phú là
xã nằm trong KCN Thạnh Phú mới được thành lập, quá trình thu hồi đất diễn
ra chậm hơn và cũng có chiều hướng gia tăng, song không có một tốc độ lớn
như hai xã Hiệp Phước và Long Thọ. Nhìn vào bảng thống kê cho thấy, số
lượng đất dành cho các KCN có xu hướng tăng lên theo chu kỳ các năm và
chiếm tỷ lệ lớn trong tổng diện tích tự nhiên của các xã.
59
Bảng 21: Diện tích đất dành cho nhà trọ trên tổng quỹ đất của hộ ở 3 xã (%)
Đơn vị tính: ha
Xã
2010
2005
2000
Tổng
Hiệp Phước
30
23
15
68
Long Thọ
30
20
14
74
Thạnh Phú
22
19
16
57
Nguồn: điều tra của tác giả năm 2010
Bảng thống kê cho thấy, trong vòng 10 năm diện tích đất dành cho nhà
trọ ở các xã đã tăng lên nhanh chóng. Diện tích đất dành cho nhà trọ tăng gấp
đôi so với tổng diện tích đất tự nhiên của từng xã. Riêng xã Thạnh Phú, tuy
diện tích đất dành cho nhà trọ có tăng nhưng không nhanh và mạnh (từ 16%
lên 22%) bằng xã Hiệp Phước và Long Thọ. Trong 3 xã, Long Thọ là xã có
diện tích dành cho nhà trọ tăng nhiều nhất (16%), bởi ở đây có lượng công
nhân KCN sinh sống đông nhất. Trong khi đó, các xã Hiệp Phước 15% và
Thạnh Phú 6 %. Theo thống kê chưa đầy đủ, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có
hơn 7.600 hộ kinh doanh nhà trọ với trên 47.000 phòng, tập trung tại Tp.Biên
Hoà, các huyện Nhơn Trạch, Trảng Bom, Vĩnh Cửu... Trên địa bàn tỉnh có 5
loại nhà ở đang sử dụng. Đầu tiên là nhà dạng cấp 4, do công ty kinh doanh
nhà xây dựng để cho thuê và nhà chung cư để bán. Loại này giá thường cao,
không phù hợp với túi tiền của công nhân có thu nhập thấp.
Tiếp đến phải kể tới nhà ở do các doanh nghiệp tự xây, thường nằm
trong khuôn viên của doanh nghiệp. Có thể kể tới khu nhà của công ty
Formosa, Vedan, Hưng Long... Tuy nhiên, số phòng ở loại này không nhiều
và chỉ giải quyết cho số lao động kỹ thuật hoặc nhân viên hành chính và một
phần nhỏ số công nhân xa nhà. Ba loại nhà còn lại là do nhân dân địa phương
có điều kiện đất đai, xây dựng cho thuê. Có những hộ gia đình ngăn ra một
phần diện tích để cho thuê. Đáng nói là loại nhà trọ cải tạo từ các khu chuồng
trại chăn nuôi, nhà kho của gia đình.
60
Qua khảo sát có thể thấy, loại nhà trọ này tạm bợ, không đảm bảo nhu
cầu sinh hoạt tối thiểu của người lao động. Các yếu tố thiết yếu cho cuộc sống
như diện tích, vệ sinh, môi trường, điện, nước đều thiếu thốn hoặc dưới mức
tối thiểu. Thế nhưng, dạng nhà trọ này hiện chiếm khoảng gần 40%. Một bên
có nhu cầu trọ với thu nhập ít ỏi và một bên có khả năng đáp ứng, nên dạng
nhà trọ này vẫn tiếp tục tồn tại.
Nếu đến các phường Trảng Dài, Long Bình, Tam Hiệp... và các huyện
Nhơn Trạch, Trảng Bom, Long Thành, Vĩnh Cửu..., sẽ bắt gặp rất nhiều khu
nhà trọ cho công nhân có thu nhập thấp - chủ yếu làm việc tại các KCN thuê.
Với khả năng kinh tế cũng như điều kiện về mặt bằng của gia đình kinh doanh nhà trọ, phần lớn các phòng cho thuê diện tích chỉ từ 10m2 đến 14m2/phòng,
giá 400.000đ-600.000đ/tháng. Để tiết kiệm tiền, thường có 3 – 4 công nhân
lao động chung nhau thuê. Tất nhiên, đa số các khu nhà trọ này đều là tự phát,
không nằm trong quy hoạch, không có nơi vui chơi giải trí. Có thể nói, những
căn nhà trọ chỉ là nơi "trú chân" "qua đêm" của người lao động.
Bảng 22: Lương công nhân qua các thời kỳ tại 3 xã
Đơn vị tính: triệu đồng
Xã
2010
2005
2000
Hiệp Phước
2,6
1,8
1,2
Long Thọ
2,7
1,6
1,2
Thạnh Phú
2,8
1,5
0,9
Nguồn: Điều tra của tác giả năm 2010
Nhìn vào bảng thống kê cho thấy, lương công nhân của các KCN có tăng
lên rõ rệt. Ở hai xã Hiệp Phước và Long Thọ lương của người lao động tăng
hơn 2 lần. Xã Thạnh Phú, người lao động tăng 3 lần. Theo chu kỳ tăng lương,
giai đoạn 5 năm (2000 - 2005) trung bình lương công nhân tăng 400 nghìn
đến 600 nghìn. 5 năm tiếp theo, lương công nhân tăng không đều, xã Hiệp
Phước tăng từ 1,8 triệu đến 2,6 triệu. Xã Long Thọ tăng 1,6 lên 2,7 triệu đồng.
61
Trong khi đó, xã Thạnh Phú lương công nhân tăng nhiều nhất (1,3 triệu
đồng). Tăng lương không đồng đều giữa KCN cũng phản ảnh nhiều vấn đề:
Mức thu nhập của công nhân lao động tại các doanh nghiệp trong các
khu công nghiệp đạt bình quân gần 3 triệu đồng/tháng, bao gồm cả các khoản
phụ cấp như tiền xăng xe, chuyên cần, nhà trọ, làm thêm giờ...
Trong khi đó, với mức độ lạm phát, giá cả hàng hóa dịch vụ tăng nhanh,
nhất là tại các khu đô thị tập trung đông người, cuộc sống của công nhân lao
động không những không được cải thiện mà đang có chiều hướng giảm
xuống. Tiết kiệm chi phí trong bối cảnh lạm phát tăng cao dẫn đến việc họ
phải chấp nhận những điều kiện sống thấp kém hơn. Đặc biệt là vấn đề dinh
dưỡng và nhà ở.
Theo kết quả khảo sát về tiền lương và mức sống tối thiểu của người lao
động khu vực doanh nghiệp vừa được Viện Công nhân - Công đoàn (Tổng
liên đoàn Lao động Việt Nam) công bố cho thấy, 35,6% số người lao động
được hỏi cho biết thu nhập của họ không đủ chi tiêu; 44,7% cho rằng phải
chắt chiu, dành dụm và thật tiết kiệm mới đủ trang trải cuộc sống; 17,9%
khẳng định tạm đủ trang trải cuộc sống gia đình; chỉ 1,9% cho biết đủ trang
trải cuộc sống và có phần tích luỹ.
Thực tế cho thấy, với mực lương tăng lên hiện nay, người lao động
không đủ chi trả cho cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình họ. Qua tiếp
xúc thực tế và chứng kiến sinh hoạt của người lao động ở Đồng Nai, với mức
lương hiện nay, với chi phí hiện nay, người lao động đang phải oằn mình vật
lộn với cơn bão giá.
Bảng 23: Khoản tiền trung bình chi cho thuê nhà một năm của người lao động
Đơn vị tính: triệu đồng
Xã
2010
2005
2000
Hiệp Phước
5,4
4,2
3,6
62
Long Thọ
7,2
4,8
3,6
Thạnh Phú
7,2
3,6
1,2
Nguồn: điều tra của tác giả năm 2010
Nhìn chung, khoản tiền trung bình dành cho thuê nhà của người lao động
tăng, mức độ tăng ở các xã có sự khác biệt. Tăng nhiều nhất là người lao động
ở KCN Thạnh Phú, trong vòng 10 năm, người lao động bỏ số tiền gấp 6 lần so
với trước đó. Trong khi đó, ở xã Long Thọ (KCN Nhơn Trạch III) tăng gấp 2
lần. Số tiền người lao động bỏ dành cho thuê nhà ở Hiệp Phước (KCN Nhơn
Trạch II) ít hơn so với hai xã còn lại. Khoản tiền người lao động chi cho thuê
nhà trong từng thời kỳ cũng không ổn định. Nếu như Thạnh Phú năm 2000
người lao động 1,2 triệu đồng thuê nhà thì 5 năm sau (2005) phải bỏ ra gấp 3
lần. Hai xã còn lại, mức chi cho thuê nhà chỉ tăng không đáng kể. Có thể thấy,
nếu như năm 2000, tiền thuê nhà của người lao động ở xã Thạnh Phú thấp
nhất (1,2 triệu), xã Hiệp Phước cao nhất (3,6 triệu). 10 năm sau, tiền thuê nhà
của người lao động có sự chuyển dịch, xã Hiệp Phước số tiền dành cho thuê
nhà thấp nhất trong khi đó 2 xã còn lại tăng cao.
Có thể nói, khoản tiền trung bình của người lao động chi cho thuê nhà
tăng lên đáng kể có các nguyên nhân: Mức lương của người lao động không
ngừng được tăng lên. Bên cạnh đó, giá cả sinh hoạt và chi phí sinh hoạt đều
tăng theo. Tuy nhiên do mức chi cho thuê nhà trọ không đồng đều giữa các
“khu vực” người lao động thuê trọ nên giá thuê trọ có khác nhau. Thực tế cho
thấy, KCN Thạnh Phú mới được xây dựng, các dịch vụ, nhất là nhà có còn ít,
nếu là nhà trọ mới xây dựng tương đối đắt so với mặt bằng các KCN khác.
Bên cạnh đó, KCN Nhơn Trạch II và Nhơn Trạch III, các doanh nghiệp đã
bước đầu xây dựng nhà trọ cho công nhân của họ. Chính vì thế cũng ảnh
hưởng tới giá của nhà trọ trong khu vực. Vì vậy khoản tiền của người lao
động chi cho thuê nhà có tác động đáng kể.
63
Hầu hết, người lao động đều cho rằng, mức lương họ được hưởng rất
thấp, không đủ sống nên khoản tiền chi cho thuê nhà đối với họ càng tiết kiệm
càng tốt. Họ mong chờ các đoàn thể và chủ sử dụng lao động quan tâm đến
nhà ở của họ như một nhu cầu đầu tiên đối với người lao động ngoại tỉnh.
Bảng 24: Thu nhập trung bình của chủ nhà trọ qua các năm
Đơn vị tính: triệu đồng
Xã
2010
2005
2000
Hiệp Phước
85,5
44,5
30
Long Thọ
72,2
46,5
30,6
Thạnh Phú
82,8
40,9
20,1
Nguồn: điều tra của tác giả năm 2010
Thu nhập của chủ nhà trọ đều tăng! Mức tăng thu nhập của chủ nhà trọ ở
ba xã có sự khác biệt. Thu nhập trung bình của chủ nhà trọ xã Thạnh Phú tăng
4 lần trong vòng 10 năm, xã Long Thọ tăng 2 lần và Hiệp Phước tăng 1,5 lần.
Mức tăng giữa các năm cũng không ổn định.
Tăng thu nhập của chủ nhà trọ cũng có những nguyên nhân. Đầu tiên
phải kể đến số lượng công nhân ngày một tăng trong các KCN, sau đến số nhà
trọ cũng tăng theo. Thu nhập bình quân qua các năm của chủ nhà trọ tăng
chính là do lương của người lao động tăng. Lý do tăng giá của các chủ nhà trọ
được xác định chính là do lương của công nhân tăng:
Quanh chỗ em nhà trọ nào cũng rục rịch tăng rồi. Chẳng biết chuyển đi
đâu được. Nhà nào cũng thế thôi. Giờ mình chuyển lại mất công tìm nhà,
chuyển đồ đạc, chi phí không ít. Muốn rẻ thì phải ở xa, lại thêm tiền xe bus và
đi lại mất thời gian. Thôi em cố ở nốt năm nay này rồi đầu năm tới tính tiếp.
Mệt vì nhà trọ. PV chị Lê Thị Minh, KCN Nhơn Trạch II.
Khu vực nhà trọ của công nhân, người lao động cũng bắt đầu rục rịch
tăng giá. Chị Nguyễn Thị Lanh – công nhân KCN Nhơn Trạch II – chia
sẻ: “Nhà trọ chỉ ăn và ngủ nên chúng em ở chật, 4 người chung một phòng.
64
Năn nỉ mãi chủ mới đồng ý đấy, bình thường chỉ 3 người/phòng thôi nhưng
tiền nhà bọn em cũng phải đóng chênh 50.000 đồng so với các phòng khác.
Đầu năm vừa lên thấy chủ nhà thông báo mỗi phòng tăng 200.000 đồng.
50.000 đồng với bạn em cũng là số tiền cần suy nghĩ rồi”. Thực tế, chủ nhà
trọ cũng tìm đủ lý do để tăng giá, một chủ nhà trọ xã Long Thọ cho biết:
“Cho thuê nhà là một hình thức kinh doanh. Nói thật, chẳng ai muốn cho
người lạ vào ở cùng nhà chỉ để cho vui cả. Mà kinh doanh thì phải có lãi.
Tiền thu được phải đảm bảo cho nhu cầu của người thuê nhà. Giờ mớ rau,
con cá cũng tăng. Tiền nhà không tăng thì chúng tôi phải chịu thiệt. Giờ kiếm
đâu chả được người thuê. Ai không chịu được ‘nhiệt’ thì thoải mái dọn đi,
nào ai cấm cản gì”.
Nằm trên hai huyện có tốc độ CNH cao nhất của tỉnh sau những năm 90,
tại các xã Long Thọ, Hiệp Phước và Thạnh Phú, quá trình CNH, HĐH chủ
yếu thông qua 3 chỉ số: Biến đổi cơ cấu kinh tế sang hướng CNH, ĐTH, gia
tăng luồng dân nhập cư và gia tăng mức sống bởi các thu nhập từ phi nông
nghiệp. Hãy xem bảng phân tích thu nhập như một ví dụ minh chứng:
Biểu đồ 1: So sánh thu nhập bình quân đầu người của ba xã
(triệu đồng/người/năm)
25
20
15
2000
2005
10
2010
5
0
Thạnh Phú Hiệp Phước Long Thọ
65
Bảng 25: So sánh thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ
(triệu đ/năm/người)
Thu nhập bình quân đầu người
2010
2005
2000
Hiệp Phước
25,2
18
11
Thạnh Phú
15
10
5
Long Thọ
15
8
4
Nguồn: điều tra của tác giả năm 2010
Nhìn chung, thu nhập bình quân theo đầu người của 3 xã đều tăng. Xã
Thạnh Phú có nhịp độ tăng đều. Năm 2000 thu nhập bình quân đầu người là 5
triệu, năm 2005 là 10 triệu và 2010 là 15 triệu. Trong vòng 10 năm thu nhập
trung bình của người dân tăng gấp 3 lần. Xã Hiệp Phước nơi cũng có các nhà
máy lớn, thu nhập trung bình của người dân cũng tăng hơn 2 lần. Xã Long
Thọ tăng gần 4 lần (từ 4 triệu đ/năm/người lên 15 triệu đ/năm/người). Tăng
thu nhập bình quân của người dân trong xã có nhiều nguyên nhân: dân sở tại
trở thành công nhân hoặc kinh doanh dịch vụ quanh KCN cho công nhân, mặt
khác, địa phương cũng thu thuế những doanh nghiệp đóng trên địa bàn xã.
Chính vì thế tính thu nhập bình quân đầu người theo xã luôn luôn tịnh tiến
phát triển các KCN trên địa bàn.
Thu nhập từ bán đất, từ các hoạt động dịch vụ môi giới đất đã tăng mạnh
trong cả 3 cộng đồng này. Giá trị của đất tăng theo cấp số nhân, vốn trước năm 2000 chỉ vào khoảng 100 ngàn/m2 lên đến 10 triệu/m2 vào năm 2010 nếu
tính bình quân ở cả 3 xã, đã khiến một bộ phận dân cư giàu lên. Họ xây nhà,
mua các vật dụng sinh hoạt, chia cho các con một ít, nhưng ruộng và đất ở bị
thu hẹp, hoặc bị mất hết. Ở khía cạnh khác, do chưa được chuyển đổi nghề
nên một bộ phận dân cư rơi vào tình trạng thất nghiệp, một số hộ lại rơi vào
vòng xoáy của sự nghèo đói.
Là vùng ven hay trong đô thị và KCN, về mặt xã hội, đã xuất hiện những
phức tạp về an ninh trật tự, về tệ nạn xã hội. Sự gia tăng các hộ kinh doanh
66
nhà nghỉ, quán bar, quán karaoke, điểm gội đầu, điểm nhậu phản ánh những
phức tạp trong quản lý xã hội. Đã xuất hiện người dân trong cộng đồng hút
chích, trộm cắp, một tình trạng 10 năm trước không hề có trong các cộng
đồng này. Đã có những hình thức mại dâm trá hình, thanh niên đua xe máy
dẫn đến các tai nạn giao thông. Bạo lực gia đình tăng và tỷ lệ ly hôn tăng là
những động thái mới của tiến trình phát triển.
Ba cộng đồng này có bước phát triển khác nhau, có nghĩa là bị các tác
động khác nhau của các KCN: Hiệp Phước là xã có tốc độ phát triển kinh tế
xã hội nhanh và mạnh nhất sang hướng CNH, tiếp đến là Thạnh Phú và Long
Thọ. Về mặt văn hóa tinh thần, có một sự tương đồng đó không khi cơ sở
kinh tế -xã hội thay đổi? Đó là một câu hỏi cần phải giải đáp.
Sau 2000, trước xu thế phát triển của các KCN, các cộng đồng được
nghiên cứu đã có những bước phát triển mới. Đó là sự phát triển mang tính
bước ngoặt để chuyển từ một cộng đồng nông dân – nông thôn thuần túy sang
một cộng đồng đang ĐTH và HĐH mạnh, dưới tác động của quá trình phát
triển các KCN: cơ cấu kinh tế xã hội thay đổi, phân bố lại không gian và cảnh
quan, đời sống văn hóa tinh thần trên các biểu hiện cụ thể đã bị biến đổi.
Trong những năm 90 của thế kỷ trước, ba xã mà chúng tôi lấy làm điểm
khảo sát cho luận án về cơ bản vẫn là các cộng đồng nông nghiệp – nông thôn
song đã bị những tác động mạnh của chính sách CNH, HĐH từ Trung ương,
đã có những bước phát triển “nóng”, mang tính “cưỡng bức’ từ trên xuống.
Trước những biến đổi này, cần nhận diện những yếu tố tích cực, những
hạn chế của tiến trình phát triển, các cơ hội và thách thức đang tới cho các
cộng đồng này, mở rộng ra là các cộng đồng nông thôn – nông dân Đồng Nai
trước những vận hội và thách thức mới về mặt văn hóa tinh thần. Đó là những
câu hỏi cần phải giải đáp về mặt quản lý nhà nước và trách nhiệm của các nhà
nghiên cứu.
67
Tiểu kết
Phát triển các KCN tập trung là một phương thức CNH đất nước, bằng
việc thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài và trong nước cho các dự án phát
triển sản xuất. Chính chủ trương này làm cho các khu vực nông thôn có
những thời cơ lớn trong tiến trình phát triển, CNH, HĐH ngay chính mảnh đất
của mình trong bối cảnh tiến trình HĐH tại chỗ không có những nguồn lực tại
chỗ; đồng thời, tiến trình này cũng làm nảy sinh các vấn đề văn hóa – xã hội
mà bản thân mỗi cộng đồng nông thôn ở đây đang phải đối mặt. Đó là một
thực tiễn khá phức tạp, không đơn giản xuất phát từ chính sách phát triển
công nghiệp dựa vào nhân công giá rẻ.
Tỉnh Đồng Nai là một tỉnh có tốc độ CNH cao nhất nước, phấn đấu đến
năm 2015 trở thành tỉnh CNH, HĐH. Các KCN tập trung đã tạo ra một lượng
hàng hóa lớn, đóng góp quan trọng vào cơ cấu GDP tỉnh. Đời sống nhân dân
không ngừng được nâng lên, GDP bình quân đầu người từ 1,8 triệu đồng
(năm 1990) tăng lên 29,6 triệu đồng (năm 2010), trong đó các KCN đóng một
vai trò quan trọng. Tuy nhiên, các KCN này cũng đang phải đối mặt với các
vấn đề về quản lý môi trường, thu hút đầu tư vào các ngành có hàm lượng
công nghệ cao, thay vì chủ yếu sử dụng nhân công giá rẻ như hiện nay.
Ba xã mà chúng tôi khảo sát là 3 xã nằm trên hai huyện có tốc độ phát
triển KCN nhanh và mạnh nhất tỉnh. Với 3 xã đó, có thể xếp Hiệp Phước là xã
có tốc độ phát triển cao nhất, kế đến là Thạnh Phú và Long Thọ. Hiệp Phước
nằm tiếp giáp thành phố Nhơn Trạch, nên cũng được “hưởng lợi” từ quá trình
đô thị hóa này, bên cạnh quá trình đô thị hóa tại chỗ đang diễn ra mạnh mẽ.
Thạnh Phú phát triển được nhờ ngay các công ty của KCN Thạnh Phú thuộc
xã, các nhà máy này có lượng công nhân đông, trong khi đó Long Thọ phát
triển chậm hơn, mặc dù lượng đất đai lấy cho KCN nhiều nhưng một số chưa
xây dựng.
68
Với tiến trình thu hồi đất để xây dựng các KCN cũng như xây dựng các
khu đô thị mới đã làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng mạnh phần
phi nông nghiệp, thu hút làn sóng di dân từ các nơi khác vào. Bản thân dân tại
chỗ cũng xuất hiện những nghề mới như cho thuê phòng trọ, buôn bán bất
động sản, làm các dịch vụ phục vụ công nhân KCN. Mức sống gia tăng tỷ lệ
thuận với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Chính trên nền tảng kinh tế xã hội này, sự phát triển của văn hóa các
công đồng nông thôn đã và đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới,
đòi hỏi phải có đầu tư nghiên cứu tiến trình biến đổi và phát triển này.
69
Chương 2
CÁC BIẾN ĐỔI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CÁC
CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ KHU CÔNG NGHIỆP
2.1. Từ bình diện cộng đồng - sự tham gia của người dân vào các
nghi lễ cộng đồng
Với các cộng đồng nông thôn, chùa và đình là hai thiết chế cơ bản thu
hút sự tham gia của người dân vào các hoạt động tôn giáo tín ngưỡng. Một
trong những đặc điểm để đo lường sự biến đổi trong đời sống tôn giáo tín
ngưỡng là dựa vào thang đo mức độ tham gia thực hành các nghi lễ tôn giáo,
tín ngưỡng của tín đồ. Dựa vào kết quả khảo sát trên 500 đơn vị mẫu tại 3 xã
mà luận án đã khảo sát, trong đó, 306 người (61.2%) tham gia trả lời “Không”
khi được hỏi về “Mức độ đi chùa/nhà thờ trong thời gian rảnh rỗi?”, 5.4% “Ít
khi”, 20.2% “Thỉnh thoảng” và 13.2% là “Thường xuyên”.
Với tỉ lệ phần trăm thu thập được về mức độ “Thường xuyên” (13.2%) đi
chùa/nhà thờ trong thời gian rảnh rỗi. Như vậy, có thể thấy mức độ tham gia
thực hành tôn giáo ở bộ phận dân cư này ít hơn rất nhiều so với bộ phận
không thực hành tôn giáo (61.2%).
Bảng 26: Mức độ đi chùa/nhà thờ trong thời gian rảnh rỗi
STT
Giá trị
Tần số
Tỉ lệ phần trăm
1.
Thường xuyên
66
13.2
2.
Thỉnh thoảng
101
20.2
3.
Ít khi
27
5.4
4.
Không
306
61.2
5.
Tổng cộng
500
100.0
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.
Mức độ thực hành tôn giáo còn chịu ảnh hưởng bởi những thiết chế tín
ngưỡng, tôn giáo sẵn có trong cộng đồng.
70
Dựa vào kết quả khảo sát có thể thấy, thiết chế văn hóa tại địa phương
phổ biến nhất là chùa 67%. Tiếp đến là sự hiện diện của thiết chế miếu
46.2%, đình với 41.4%, nhà thờ đạo Thiên Chúa là 31.4%, nhà thờ đạo Tin
Lành chỉ chiếm 0.8%. Như vậy, loại hình thiết chế văn hóa tín ngưỡng tôn
giáo tập trung tại địa phương là chùa, đình, miếu và nhà thờ đạo Thiên Chúa.
Mặc dù, có sự hiện diện đa dạng các loại hình thiết chế tín ngưỡng tôn
giáo tại địa phương, nhưng mức độ hoạt động của các thiết chế này như thế
nào? Khi tìm hiểu về mức độ hoạt động của các loại hình thiết chế trên, cho
thấy: chùa chiếm mức độ hoạt động thường xuyên nhất với 59%, điều này
tương thích với sự tập trung nhiều nhất của loại hình thiết chế tôn giáo này tại
địa phương (67%). Miếu là loại hình thiết chế tín ngưỡng có mức độ hoạt
động thường xuyên xếp thứ 2 với 32.2%. Tiếp đến là đình với mức độ hoạt
động thường xuyên là 30.4% và mức độ hoạt động thường xuyên của nhà thờ
đạo Thiên Chúa 28%. Mức độ hoạt động của các cơ sở theo đánh giá của ông
Mai Văn Đức – Trưởng ban Văn hóa xã Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu: “Đạo
Phật thì cúng vào rằm tháng Giêng và rằm tháng Bảy. Miếu cũng cúng hai
lần/1 năm. Ví dụ như đạo Cao Đài cúng một năm 3 lễ lớn tháng giêng, tháng
7 và tháng 10. Còn bình thường cúng mồng 1 và rằm hàng tháng. Ba lễ lớn
người ta gọi là lễ thượng quân, trung quân và hạ quân”.
Bảng 27: Người tham gia sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng tại địa phương
Đối tượng tham gia sinh họat tôn giáo, tín
STT
Có
Không
ngưỡng
87%
13%
1.
Cư dân địa phương
74.6%
25.4%
2. Người dân nhập cư
48.6%
51.4%
3. Khách vãng lai
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả
Với sự hiện diện của các loại hình thiết chế tín ngưỡng tôn giáo tại địa
phương như trên, một vấn đề nữa được quan tâm không kém phần quan trọng,
71
đó là đối tượng tham gia các loại hình sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng này gồm
những ai. Kết quả khảo sát cho thấy, đối tượng tham gia vào các sinh hoạt này
chiếm tỉ lệ cao nhất là cư dân địa phương 87%, tiếp đến là người dân nhập cư
74.6% và sau cùng là khách vãng lai 48.6%. Khi hỏi người dân về đối tượng
đến các cơ sở tín ngưỡng tôn giáo để thực hành các nghi thức tôn giác, chúng
tôi được biết:
Dân nhập cư, trong quá trình sinh sống tại cộng đồng, dù có hộ khẩu, dù
có được tham gia vào các hoạt động chính thức của xã, ấp thông qua các đoàn
thể, nhưng vẫn chưa được chấp nhận là thành viên chấp sự, tế tự việc làng. Họ
có thể cung tiến, cúng lễ, hỗ trợ cộng đồng địa phương tại chỗ nhưng không
được tham gia vào các hoạt động tế tự, bởi những nguyên tắc và chuẩn mực
cổ truyền về dân ngụ cư. Được xác nhận là thành viên của cộng đồng làng,
phải qua nhiều thế hệ.
Bảng 28: Người tham gia vào các thiết chế văn hóa: Cư dân địa phương
Tần số
Tỉ lệ phần trăm
Giá trị
Có
488
97.6
Không
3
0.6
Tổng cộng
491
98.2
Không cung cấp
9
1.8
thông tin
Tổng cộng
500
100.0
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.
Bảng trên cho biết, có 97.6% người tham gia, thụ hưởng các loại hình
thiết chế văn hóa truyền thống tại địa phương là cư dân địa phương, chỉ có
0.6% cho rằng, không có sự tham gia của cư dân địa phương vào các thiết chế
văn hóa. Bên cạnh đó, đối với những cộng đồng có số lượng lớn thanh niên
công nhân đang làm việc tại các công ty, xí nghiệp, ắt hẳn không thể bỏ qua
sự hiện diện của một bộ phận người dân nhập cư trong các cộng đồng này.
72
Vậy, với các loại hình thiết chế văn hóa đang hiện diện tại địa phương, người
dân nhập cư có được thụ hưởng hay tham gia vào không?
Bảng 29: Người tham gia vào các thiết chế văn hóa: Người dân nhập cư
Tần số
Tỉ lệ phần trăm
312
Giá trị
Có
62.4
178
Không
35.6
490
Tổng cộng
98.0
Không cung cấp thông tin
10
2.0
500
Tổng cộng
100.0
Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.
Kết quả khảo sát cho thấy, có 62,4% người tham gia trả lời cho biết “có”
sự tham gia của người dân nhập cư vào các loại hình thiết chế văn hóa truyền
thống tại địa phương. Song song đó, cũng có một bộ phận đáng kể 35.6% cho
rằng, người dân nhập cư không tham dự vào các thiết chế văn hóa này. Ngoài
ra, chỉ có 7.4% người tham gia trả lời cho rằng có sự tham gia của khách vãng
lai vào các loại hình văn hóa ở địa phương. Làm một phép thử, chúng ta có
thể biết được, sự tham gia, sự thụ hưởng các loại hình văn hóa ở nhóm đối
tượng nào là chiếm chủ yếu. Như vậy, cư dân địa phương là người có ưu thế
hơn so với bộ phận dân nhập cư trong tham gia các loại hình văn hóa phục vụ
cho việc hưởng thụ đời sống văn hóa – tinh thần.
2.1.1. Cúng đình
Cũng như các làng Việt khác, mỗi thôn làng ở Đồng Nai thường có đình,
miếu, chùa, chợ… đặt ở vị trí trung tâm, tiện đi lại, là nơi sinh hoạt chung của
dân làng. Lịch sử hình thành vùng đất Đồng Nai nằm trong quá trình hình
thành và phát triển chung của Nam Bộ, do vậy các nghi thức cúng tế và các lễ
hội của đình ở Đồng Nai về cơ bản cũng giống như đình ở Nam Bộ. Hằng
năm, mỗi đình ở Đồng Nai đều có nhiều ngày lễ hội. Các ngày lễ hàng tháng
mang tính chất dân gian theo từng làng xã riêng được gọi là tạp tế. Đây là các
73
lễ nhỏ vào các ngày lễ tiết, ngày vía thánh thần trong năm. Những ngày này
chỉ cúng chứ không tế, không mở hội, thường chỉ do các hương chức, hội tề
hoặc ban tế tự dâng cúng lễ vật đơn giản và cúng ngắn gọn, không nhất thiết
phải bài bản, nghi thức rườm rà như lễ rước ông bà, lễ Khai sơn, tết Đoan
ngọ, vía Thổ thần, các ngày lễ mang tính chất tôn giáo như cúng rằm Thượng
nguyên (tháng 3), Trung nguyên (tháng 7), Hạ nguyên (tháng 10). Các ngày lễ
quan trọng có quy mô lớn mang tính chất cộng đồng, gắn với chu kỳ canh tác
nông nghiệp là lễ Thượng điền, Hạ điền và đặc biệt là đại lễ Kỳ yên.
Đó là Hai cuộc lễ có quy mô lớn của đa số các ngôi đình ở Đồng Nai là
lễ Hạ điền vào đầu mùa mưa và lễ Thượng điền được cử hành vào cuối mùa
mưa. Theo tập quán tam niên đáo lệ, cứ ba năm thì người dân lại chọn một
ngày lễ Thượng điền, hoặc Hạ điền để tiến hành làm lễ Kỳ yên. Nếu chọn
ngày Hạ điền thì gọi là Hạ điền cầu bông hay lễ Cầu bông, cầu cho mùa màng
được bội thu; Nếu tiến hành ngày Thượng điền được chọn thì gọi là Thượng
điền chạp miếu, là lễ tạ ơn thần. Một số ngôi đình trong năm đủ cả ba ngày lễ
Thượng điền, Hạ điền, Kỳ yên. Ngày nay, do điều kiện kinh tế phát triển, cơ
cấu kinh tế thay đổi từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp, một số ngôi
đình ở Đồng Nai không còn cúng lễ Thượng điền, Hạ điền nữa, chỉ cúng lễ
Kỳ yên hàng năm như: đình Tân Lân, đình Bình Trước, đình Bình Kính, đình
Mỹ Khánh…..
Trên thực tế, lễ Kỳ yên là cầu Quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa đem
lại sự an vui, thịnh vượng, hạnh phúc cho mọi gia đình. Cầu cho được Thiên
thời, Địa lợi, Nhân hòa. Ba đạo này mà hòa hợp với nhau theo quy luật tự
nhiên của càn khôn vũ trụ thì con người mới và phát triển tồn tại được. Muốn
hòa trời, hòa đất, hòa người thì trước hết con người cần phải tu sửa tâm tính,
phải hiểu được quyền lợi, nhiệm vụ của mình trong gia đình, làng xóm và xã
hội.
74
Lễ Kỳ yên của đình ở Đồng Nai thường diễn ra trong ba ngày, bao gồm
có ba lễ chính: lễ Túc yết tức nghênh chào và ra mắt thần linh; Đoàn cả (hay
Đàn cả) còn gọi là lễ Chánh tế, có nghĩa là lễ tạ ơn thần Thành hoàng; lễ Tiền
hiền- Hậu hiền là nghi lễ tạ ơn các vị tiền nhân đã có công lập làng.
Nghi lễ cúng thể hiện phần hồn của đình. Lễ chính của đình là lễ Kỳ yên
với mục đích chính là cầu an (Quốc thái dân an, Phong điều vũ thuận). Ngày
cúng của đình không giống nhau, tùy theo tục lệ của làng; phổ biến là ba
tháng đầu năm hoặc ba tháng cuối năm. Theo quan niệm của người dân, cúng
thần đầu năm là: Thủ nghĩa xuân kỳ (mùa xuân làm lễ cầu thần cho được mùa
sắp tới); cúng thần trong ba tháng mùa đông có nghĩa là: Thủ nghĩa trọn năm
(thành công, đáp tạ lại thần). Nhìn chung, tùy theo nhận định của dân làng mà
định ngày cúng khác nhau, có nơi kết hợp với ngày giỗ của Thành hoàng.
Ngoài ra, còn các nghi lễ khác như cúng Thượng điền, Hạ điền, rước sắc thần,
nghinh xuân, tống phong, giỗ các anh hùng lịch sử,…
Bài trí bên trong đình: giữa thờ Thần, trên các cây xiên đều có hoành phi
chữ Hán bằng gỗ sơn son thếp vàng. Đình Mỹ Khoan giữ được khá nhiều
những bức hoành phi cổ, các đình khác đều tạo mới sau này. Trên các cây cột
ở võ ca, võ quy đều có các bức liễn đối chữ Hán. Tuy nhiên, các bức liễn cũ
bằng gỗ nay đã không còn; được thay bằng các bức xi măng chạm nổi chữ
Hán. Trải qua chiến tranh tàn phá, các đình đều bị đốt hoặc bị Tây chiếm làm
đồn bốt, các hiện vật quý đều bị mất; sau này dân làng bổ sung nhưng vẫn
chưa đủ, yếu tố gốc của các hiện vật đều không được bảo đảm. Đình Hiệp
Phước trước kia có một long đình rất đẹp, một chiêng bằng đồng khi khởi lên
vang âm rất xa và là niềm tự hào của dân làng (do ông Đào Trí Phú cúng
tiến), vào thời Pháp xâm lược chiêng đã bị mất. Theo truyền thống vào mỗi
dịp Kỳ Yên, ban quý tế phải đem đến cúng ông một mâm xôi, bàn thờ đặt tại
nhà người cháu (bà Năm Tô). Trước kia các bàn thờ, khánh thờ đều bằng gỗ,
75
các tự khí đều bằng đồng; nay bàn thờ đều được thay bằng xi măng, các tự khí
còn giữ được và cất giữ tại nhà các thành viên Ban quý tế, duy lỗ bộ bằng
đồng đã bị mất. Vị trí các bàn thờ ở các đình đều giống nhau; tuy nhiên, bố trí
từng vị thần được thờ khác nhau. Trong chánh điện: hai bên là Thái giám,
Ngũ cốc, Tiên sư, Ngũ thổ (đình Mỹ Khoan, đình Hiệp Phước); hai bên chánh
điện chỉ có Ngũ thổ, Ngũ cốc, Tả ban, Hữu ban có bàn thờ phía trước bàn thờ
Thần; Tiên sư và Thổ công bố trí hai bên vách tả, hữu (đình Phước Lai). Phía
sau của chánh điện đều thờ: Tiền hiền, Hậu hiền, Tiền hương trưởng, Tiền
hương mục, Hậu đại hương trưởng.
Đối tượng thờ ở đình đều là Thần Thành hoàng, hình thức thờ là chữ
Thần bằng chữ Hán tự ở gian giữa chánh điện. Hầu hết các Thần Thành hoàng
thờ trong các đình ở Hiệp Phước hay ở hai xã Thạnh Phú, Long Thọ đều gọi
chung là Thành Hoàng bổn cảnh, có Sắc vua phong mỹ tự “Chánh trực, Hữu
thiện, Đôn ngưng chi thần” nhưng không có danh tính cụ thể. Thần Thành
hoàng là người đem đến cho người dân niềm tin rằng có người bao bọc, chở
che, nâng bước họ trên mọi bước đường cuộc sống. Ngoài ra, đình còn thờ
phụng người có công khai khẩn lập nên làng xã, người dạy nghề cho dân...
Các đình đều duy trì được ngày tu lý (theo nghĩa Hán tự, tu lý là trao
lời, lập lại cho có trật tự). Theo lệ xưa, vào sáng sớm ngày thứ nhất của lễ Kỳ
yên, tất cả bà con trong làng, người đi làm ăn sinh sống ở xa đều phải tề tựu
về đông đủ, mỗi người đem theo hai bó tranh về sửa sang lại đình. Đồng thời
các vị bô lão phân công nhiệm vụ cho từng người: trực nhang cháy liên tục
trong ba ngày; học trò lễ lo trà nước, rượu, nhận lễ vật cúng của nhân dân…
Trong ngày này, các vị bô lão giao nhiệm vụ cho năm tới (ghi các món lễ vật
vào tờ giấy (trao giấy) và phát cho dân làng; đến ngày tu lý năm sau đem
đúng lễ vật đó lên cúng. Nếu không làm đúng sẽ bị phạt (trước sân đình có
làm 4 cây nọc, mỗi nọc buộc 4 sợi dây và buộc chân tay người bị phạt và
76
đánh đòn). Đây là hình thức răn đe, hầu hết người dân đều thực hiện khá đầy
đủ. Hiện nay, ngày tu lý được tiến hành như sau: trước ngày cúng Ban quý tế
lên đình phân công công việc cụ thể, bà con tới làm vệ sinh, cắt cử người trực
nhang…. Chánh tế phải cúng một mâm xôi, hết thời hạn một năm bồi tế sẽ
thay nhiệm vụ chánh tế (chức chánh tế có tính chất luân phiên).
Các đình đều thành lập Ban quý tế (hội hương) gồm những cụ ông tuổi
cao có uy tín trong làng, nhiệt tình, tâm huyết, có ý thức cao trong việc giữ
gìn phong tục tập quán xưa. Ban Quý tế còn có nhiệm vụ ngoại giao, tham gia
cúng tế cùng các đình bạn, viết văn tế cho đình, miếu; góp phần quan trọng
vào việc bảo tồn tín ngưỡng dân gian truyền thống tại địa phương.
Thành phần Ban tế tự: trước lễ Kỳ yên sẽ diễn ra cuộc họp toàn ban để
phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên: Chánh niệm hương (4
người): Chánh bái (1 người), bồi bái (1 người), Đông hiến và Tây hiến (4 vị
thủ lễ ở Tả ban và Hữu ban), Chấp sự viên (3 người phụ trách: chuông, trống,
mõ), Thầy lễ (1 người), Học trò lễ (gồm 10 người chia làm 5 cặp: 8 người đi,
2 người xướng).
Các đình không tổ chức hát bội vào các dịp Kỳ yên, cũng không rõ
nguyên nhân tại sao tục xưa để lại như vậy? Có lẽ do điều kiện kinh tế eo hẹp
không đủ thuê gánh hát bội; lâu dần thành thói quen của các đình. Tuy nhiên,
trong lễ Kỳ yên các đình đều có tổ chức múa lân, đờn ca tài tử.
Các đình ở 3 xã đều có tổ chức lễ Kỳ yên cầu cho mưa thuận gió hòa,
mùa màng bội thu vào các ngày khác nhau. Đình Hiệp Phước cúng 12 tháng
chạp, đình Phước Lai cúng 11 tháng chạp, đình Mỹ Khoan cúng 16 tháng 11
âm lịch. Lễ Kỳ yên thường được diễn ra trong 2 ngày, nghi thức tế trong các
đình đa phần giống nhau, nhưng thứ tự các nghi thức có sự khác biệt. Đình
Mỹ Khoan lễ Tiền hiền, Hậu hiền được cử hành riêng một ngày 15 tháng 8
âm lịch với nghi thức long trọng (nhân dân vẫn gọi là ngày giỗ Tiền hiền).
77
Các đình khác thứ tự các nghi thức như sau: ngày đầu Ban quý tế tề tựu, đánh
hồi chuông, trống báo tin lễ hội bắt đầu; tiếp theo là các nghi thức: rước nhạc,
thượng thần kỳ, thỉnh Sắc thần, cúng Bà, cúng Tiền hiền, Hậu hiền, Thỉnh
sanh; ngày thứ hai là Túc yết. Các vị bô lão trong làng giải thích: trước đây
các đình tổ chức Kỳ yên trong 3 ngày (lễ Tiền hiền, hậu hiền được tổ chức
vào ngày thứ ba), sau này rút gọn còn 2 ngày cúng cho nên lễ Tiền hiền, Hậu
hiền được đưa lên ngày đầu tiên. Trong lễ Kỳ yên có tổ chức cúng Đàn cả rất
long trọng; hiện nay tất cả đình đều bỏ do nghi thức của lệ cúng này.
Bảng 30: Nghi thức trong lễ Kỳ Yên
Lễ sinh xướng
Thành viên Ban tế tự thi hành
Tựu vị
Các thành viên vào vị trí
Quán tẩy
Chấp sự viên rửa mặt (tượng trưng)
Thuế cân
Chấp sự viên lau mặt (tượng trưng)
Phần hương
Đốt hương
Cúc cung bái (tứ bái) Lạy bốn lạy
Hưng, bình thân
Đứng lên
Chước tửu
Chánh tế rót rượu
Cúc cung bái (nhị bái) Lạy hai lạy
Hưng bình thân
Đứng lên
Nghệ tỉnh sanh sở
Đến chỗ tỉnh sanh
Tỉnh sanh
Chánh tế cầm ly rượu đổ vào miệng con vật, còn bao nhiêu
tưới lên thân nó. Viên đồ tể lấy dao thọc huyết con vật, cắt
một ít lông gáy và ít huyết cho vào một cái chén để làm lễ tế
mao huyết.
Phục vị
Trở về vị trí
Chước tửu
Chánh tế rót rượu
Cúc cung bái (nhị bái)
Lạy hai lạy
Hưng bình thân
Đứng lên
Chước tửu
Chánh tế rót rượu
78
Cúc cung bái (nhị bái) Lạy hai lạy
Nguồn: Ghi chép điền dã của tác giả năm 2009.
Tại Hiệp Phước, Long Thọ và Thạnh Phú, về cơ bản vẫn lưu giữ các
khuôn mẫu cúng đình theo tập tục xưa, dù đời sống kinh tế xã hội đã đi vào
hướng hiện đại hóa. Các nghi lễ được duy trì và do người dân sở tại đứng ra
thực hiện, dân nhập cư không được tham gia vào các hoạt động tế tự.
Lễ vật
Lễ vật dâng cúng ở bàn thờ thần gồm các loại hoa, trái, nhang, đèn, các
món cúng mặn (thịt luộc, mắm, muối và các món kho, xào). Đặc biệt, khi tế
thần luôn phải có món xôi và thịt sống.
Ngày xưa, nhà nào cũng chuẩn bị một mâm xôi đến đình để tế thần, bày
tỏ lòng tri ân về việc thần đã giúp họ được mùa, gia đình, cha mẹ, con cái
mạnh khỏe, hòa thuận. Người địa phương tin rằng mâm xôi của mình càng
ngon, đơm càng khéo được thần chứng lễ thì chủ nhân sẽ gặp nhiều may mắn.
Mâm xôi được đặt ở các bàn thờ quan trọng của đình theo địa vị của gia đình
đó ở trong làng. Thịt sống: Theo quan niệm của người dân, cúng thịt sống là
để thần hưởng sự tinh khiết, nguyên chất. Thông thường, heo tế phải để
nguyên con. Xưa kia, những làng nghèo có thể cúng thịt sống không đủ bộ,
thu gọn lại còn đầu, móng, đuôi gọi là thủ vĩ. Heo được làm sạch đặt ở bàn La
liệt (bàn để bày lễ vật trước bàn thờ thần) theo tư thế quỳ, hướng đầu về phía
bàn thờ thần, người địa phương gọi là heo chong. Trước kia, người ta chọn
heo đen tuyền vì đây là con vật thuần chủng. Một số làng có điều kiện thì
cúng thêm bò và dê.
Ngày nay, lễ vật cúng đình vẫn được duy trì như xưa, bởi các bậc cao
tuổi trong cộng đồng vẫn muốn duy trì như vậy, con cháu thành kính tuân
theo, không có bàn cãi gì về lễ vật.
Lễ Đàn cả
79
Ở lễ Túc yết có mục đích nghênh thần thì ở lễ Đàn cả là để tế thần, là lễ
chính của đại lễ Kỳ yên. Qua ngày lễ thứ hai, đúng 0 giờ mới cử hành lễ Đàn
cả. Ngày nay, tùy theo địa phương mà lễ Đàn cả có thể diễn ra vào buổi sáng
hoặc nửa đêm. Cũng có đình tổ chức lễ này vào lúc con nước đang lên đến
đỉnh điểm.
Đến giờ hành lễ, đội tế tề chỉnh y phục, đứng xếp hàng ở hai bên nhà võ
ca. Nhạc khởi ba hồi mõ, chiêng, trống. Lễ sanh bắt đầu xướng các nghi thức
tuần tự giống như lễ Túc yết, có một số chi tiết khác đó là:
+ Ở lễ Túc yết xướng: “Nghi thần cúc cung bái” thì ở lễ Đàn cả xướng:
“Tạ thần cúc cung bái”;
+ Ở lễ Túc yết xướng: “Lễ thành” thì ở lễ Đàn cả xướng: “Lễ tất”.
Cũng có đình thì trong lễ Túc yết chỉ dâng một tuần rượu, gọi là khởi
tuần rượu hay sơ tuần (Lễ sanh xướng: hành sơ hiến lễ), còn trong lễ Đàn cả
thì dâng tiếp hai tuần rượu nữa gọi là tuần rượu nhì (Lễ sanh xướng: hành á
hiến lễ) và tuần rượu ba (Lễ sanh xướng: hành chung hiến lễ). Còn lại các
nghi thức và nhạc lễ trong các tuần rượu đều tuần tự giống nhau.
Lễ Tiền hiền, Hậu hiền
Đây là nghi lễ tế các vị tiền nhân đã có công khai khẩn, mở mang làng
xóm, đất đai. Thông thường được tổ chức sang ngày thứ ba của đại lễ Kỳ yên
nhưng cũng có đình tổ chức vào ngay sau lễ Đàn cả. Có điều khác biệt với
nghi lễ Túc yết và Đàn cả đó là: Khi Lễ sanh mang lễ vật dâng lên thần, ban
nhạc cử theo điệu nhạc Bụa, khi đi lên thì nhịp chậm, khi về thì nhịp nhanh
nhưng hoàn toàn mang hơi Ai khác với hơi Xuân trong lễ Túc yết và Đàn cả.
- Khởi minh chinh: Đánh ba hồi chiêng.
- Khởi đại cổ: đánh ba hồi trống.
- Chinh cổ hòa minh: đánh ba hồi chiêng, ba hồi trống.
- Nhạc sinh khởi nhạc.
80
Các hình thức lễ cũng giống như nghi thức tuần hương của lễ Túc yết.
Tuy nhiên trong lễ Túc yết là dâng hương lên bàn thờ thần thì lễ này dâng
hương lên bàn thờ Tiền hiền và Hậu hiền. Sau đó bà con, trai gái trong làng
vào lạy.
Trong lễ này có hình thức đọc văn tế do Thầy lễ thực hiện sau khi mọi
người trong làng đã lạy xong. Sau đó đến các nghi thức như hiến quả phẩm,
hiến bỉnh, điểm trà nhưng không cầu kỳ như hai lễ trước mà ở đây sau khi
nghe xướng, Lễ sanh chỉ dâng lên hai bàn thờ (cách thức dâng theo điệu nhạc
như hai lễ trước). Cuối cùng là nghi thức đốt văn tế do Lễ sanh thực hiện, sau
đó mọi người lạy bàn thờ Tiền hiền, Hậu hiền một lạy; chiêng, trống, mõ
đồng gióng lên kết thúc lễ.
Lễ Xây chầu
Lễ này thường diễn ra sau lễ Đàn cả, cũng có đình thực hiện sau lễ Túc
yết. Lễ này không diễn ra thường xuyên hàng năm, thông thường cứ ba năm
sẽ tiến hành lễ Xây chầu. Trong lễ Xây chầu thường có tiết mục hát bội. Đây
là hình thức sinh hoạt văn nghệ giải trí với chương trình hát tuồng mang tính
chất hội, kết hợp với các nghi thức nghiêm túc với các tiết mục Xây chầu, Đại
bội, Tôn vương, Hồi chầu. Lễ này thường khi nào dân có tiền, hay năm đó có
một nhà hảo tâm tài trợ đăng ký với làng thì cho tổ chức. Xưa kia do dân
trong làng cung tiến, nay ở nghi lễ này, dân nhập cư cũng có thể đứng lên
đăng ký. Đó là một điểm khác so với lệ xưa.
Trong bối cảnh phát triển đã thấy những nét mới đó là: người cúng đình
hiện nay không còn, chỉ là dân địa phương tại chỗ nữa mà có sự tham gia của
dân nhập cư, dân tứ phương tới cúng. Đó là một đặc điểm khác trước. Tuy họ
không tham gia vào thành phần tiến hành nghi lễ nhưng họ rất quan trọng với
tư cách là nhà tài trợ, người công đức mỗi khi có dịp cúng. Các thống kê trong
3 năm tại các đình của 3 xã, số tiền tài trợ và cung tiến thông qua công đức là
81
gần 200 triệu đồng. Mỗi dịp này, các xã đều mời các cơ quan, công ty đóng
trên địa bàn tham dự và họ tham dự với một lòng thành kính về vị thần bảo hộ
nơi họ đến kinh doanh. Người nhập cư tham dự như một dịp bày tỏ sự thành
kinh và cầu xin thần phù hộ cho họ đến đây định cư, sinh sống.
Thông qua các tổ dân phố, một bộ phận dân nhập cư, đã có gia đình sinh
sống lâu ở các xã, có mối liên hệ hàng ngày với bà con chòm xóm, họ có thể
tham gia vào các việc phụ giúp việc tổ chức cúng tế, tiếp khách, nấu bếp, dọn
dẹp vệ sinh như một thành viên của làng. Bao giờ họ được tham gia vào các
nghi lễ cộng đồng, đó vẫn còn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ!
Với dân nhập cư, tuy chưa tham gia vào thực hành nghi lễ cúng của cộng
đồng, họ vẫn sắp lễ, ra đình cúng, nhất là nhóm dân gốc Bắc Bộ và Trung Bộ.
Họ có thể là các cá nhân, có thể theo từng gia đình, có thể theo nhóm bạn
cùng công ty, tự nguyện cúng, nhất vào thời điểm ban đêm, trước ngày cúng
chính hay trong ba ngày lễ. Lễ vật đơn giản bao gồm hoa, đăng, hương, quả,
một ít gia đình có xôi gà, không thiếu phần tiền cúng trên ban thờ thần, sau
cúng bao giờ cũng bỏ hòm công đức hay ghi phiếu công đức. Chính sự tham
gia của họ được người dân địa phương chào đón, tăng thêm phần tấp nập của
ngày cúng đình.
2.1.2. Cúng chùa
Cả 3 xã đều có các ngôi chùa song đều là các chùa mới xây dựng vài
chục năm gần đây, không có ngôi chùa nào được gọi là cổ tự bởi vùng này là
dân tứ xứ hợp lại. Khác với đình, chùa mang một ý nghĩa tôn giáo và tâm linh
cho đời sống hàng ngày. Cư dân trong cộng đồng tại chùa cầu cúng tại chùa
ngày sóc vọng, ngày thường, không có lễ hội chùa như ở phía Bắc
Chùa Tân Bửu
Chùa Tân Bửu thuộc ấp 6, xã Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng
Nai. Trước năm 1975 chùa chỉ là một am nhỏ do ông Phạm Văn Bỡ xây dựng
82
bằng tranh tre nứa lá để thờ Phật. Đến năm 1960 chùa được trùng tu sửa chữa,
phá bỏ toàn bộ am, xây dựng nên ngôi chùa mới với tường xây, cột kèo gỗ,
mái tôn, nền lát gạch Tàu. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ chùa Tân
Bửu là cơ sở cách mạng của huyện Vĩnh Cửu. Tại đây, ông Trần Văn Xảo -
trụ trì chùa đã cho đào hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, chuẩn bị cho trận đánh
năm 1968 vào quận Công Thanh. Sau khi ông Xảo qua đời, chùa được giao
lại cho ban hộ tự thừa kế. Năm 1992 chùa được trùng tu lần 2 và mang hình
dáng đó đến ngày nay.
Chùa Tân Bửu được xây dựng trên một khu đất bằng phẳng, đông dân
cư, mặt quay về hướng Đông. Nếu tính theo nóc mái, chùa được bố trí có
dạng chữ tam, gồm chánh điện, nhà khách và nhà túc. Chánh điện có kiến trúc
dạng nhà dài 3 gian (hai gian đầu là chánh điện, gian trong là nhà tổ). Tại
chánh điện trên ngôi Tam bảo thờ duy nhất pho tượng của Thích Ca Mâu Ni,
bên tả và bên hữu thờ Quan Âm Bồ Tát và Địa Tạng Bồ Tát. Phía sau Địa
Tạng Bồ Tát là bàn thờ tổ sư Đạt Ma, hai bên thờ vong linh. Nhà khách có
kiến trúc dạng nhà 3 gian, cột kèo gỗ, máy lợp tôn, nền tráng xi măng. Đây là
nơi cho tăng ni, phật tử sửa soạn vào bái Phật. Nhà túc được xây rộng, cột kèo
gỗ, không tường bao, nền tráng xi măng.
Chùa thờ Phật theo hệ phái Bắc tông, hàng năm tại chùa diễn ra 3 ngày
lễ chính vào rằm tháng giêng, rằm tháng tư và rằm tháng mười.
Chùa Phước Hưng
Chùa tọa lạc dọc theo bên phải Hương lộ 19 (hướng đi xã Long Thọ)
thuộc ấp 4, xã Hiệp Phước. Theo kể lại, trước kia chùa được xây dựng rất lớn,
toàn bộ vật liệu bằng gỗ, mái ngói âm dương, nền gạch Tàu, hệ thống tượng
bằng gỗ mít. Qua thời gian, ngôi chùa bị chiến tranh tàn phá, trải qua nhiều
lần trùng tu nên có sự thay đổi so với diện mạo ban đầu.
83
Chùa bố trí dạng chữ tam gồm Chánh điện, Giảng đường, Trai đường nối
nhau theo chiều dọc trên nền móng đá ong, hai bên là hành lang nội Đông Tây trong tổng diện tích sử dụng gần 300m2. Mái chùa lợp ngói âm dương, nền
gạch bông và xi măng, tường xây. Chánh điện có hệ thống cột gỗ tròn được
kê trên chân tảng đá xanh; cột, kèo nối với nhau bằng xiên, trính rất vững
chãi. Giảng đường, Trai đường cột bằng gạch xây, chỉ còn kèo, rui, mè bằng
gỗ. Hiện nay, chùa chỉ còn giữ được một số tượng bằng gỗ mít. Năm 2007, kẻ
gian đột nhập chùa và lấy đi một số hiện vật quý bằng đồng như: đại hồng
chung, chuông gia trì, lư hương, tượng Phật Địa Tạng Bồ Tát.
Thầy trụ trì đương nhiệm không biết rõ các đời trụ trì tại chùa; trong
chùa còn giữ được bài vị của sư trụ trì gần đây nhất, nội dung: Từ Lâm tế
Chánh tông, Tứ thập nhất thế, thượng Trí hạ Lễ hòa thượng (tạm dịch: Hòa
thượng Nguyễn Công húy là Trí Lễ, đời thứ bốn mươi mốt, dòng Lâm tế
Chánh tông). Các bài vị của các đời trụ trì trước đều đã thất lạc, đó cũng là
vấn đề rất khó khăn trong công tác tìm hiểu về lịch sử hình thành ngôi chùa.
Chùa Quang Mỹ
Chùa do vợ chồng ông bà Đốc phủ tỉnh Sóc Trăng Lê Văn An và
Nguyễn Thị Lâu tạo dựng năm 1925. Ban đầu chùa chỉ có chánh điện và hậu
tổ xây bằng gạch thẻ tô vôi, ô dước, móng bằng đá xanh nền lát gạch Tàu, mái
lợp ngói âm dương. Năm 1990, chùa được trùng tu nóc mái chánh điện; năm
1992, trùng tu nhà hậu tổ thành giảng đường; năm 1993, trùng tu chánh điện,
mái cổ lầu, lợp ngói Tây, kiến tạo mái nối giữa chánh điện và giảng đường
làm hậu tổ, trùng tu bảo điện, các công trình sinh hoạt: nhà trù, giếng nước,
cải tạo cảnh quan chùa.
Chùa tọa lạc trong khuôn viên đất rộng gần 2 héc ta, quay mặt chính về
hướng Bắc, trước chùa có tượng Quan Âm lộ thiên, xung quanh chùa được bố
trí rất nhiều cây cảnh tạo sự thoáng mát, phía sau là khu mộ cổ của ông bà
84
Phủ (người dựng chùa). Chùa có dạng chữ tam gồm Chánh điện, Hậu tổ,
Giảng đường nối nhau theo chiều dọc trong tổng diện tích sử dụng gần 600m2.
Trên các cây cột trong chánh điện được bài trí hoành phi, liễn đối sơn
son thếp vàng tạo sự thâm nghiêm; các tượng thờ như: Thích Ca Mâu Ni,
Quan Công, Ngọc hoàng, Tam thế Phật bằng gỗ mít nài, phía ngoài áo khoác
dát vàng. Chùa có đại hồng chung đúc năm 1926. Hậu tổ và giảng đường phía
sau chánh điện, tiếp nối nhau tạo không gian rộng rãi, thoáng đãng.
Chùa Quang Mỹ trải qua các đời trụ trì: Hòa thượng Hoằng Đạo, Cư sĩ
Cả Hiền, Hòa thượng Thích Chí Hảo, Ni sư Thích Nữ Như Thuận.
Chùa Long Hoa
Năm 1970, bà Hai Hồng (người làng Mỹ Khoan) xây dựng ngôi chùa
trên đất gia tộc cho ông Phan Văn Phạn trụ trì. Ban đầu là ngôi chùa nhỏ, năm
1972 được trùng tu, đến nay hàng năm kinh phí đều được tăng lên. Từ ngôi
chùa tại gia, các phật tử mộ đạo thường lui tới ngày càng đông, ngôi chùa
được nhiều người biết đến, đến nay chùa đã được Giáo hội Phật giáo Việt
Nam tỉnh Đồng Nai công nhận.
Ngôi chùa nằm kế bên đình Hiệp Phước, bao gồm các hạng mục: Chánh
điện, nhà giảng và nhà bếp nối liền nhau; khung nhà bằng sắt, mái lợp tôn, tường xây, cột bê tông; tổng diện tích 290m2. Chánh điện bài trí đơn giản
gồm: tượng Tam thế Phật bằng xi măng, phía trước có một đại hồng chung,
tạo không gian thoáng đạt cho phật tử lui tới đọc kinh hằng đêm.
Hiện nay, đại đức Thích Huệ Đức 87 tuổi, sức khỏe yếu không còn điều
hành chùa nữa nên giao lại cho người cháu cùng hai cư sĩ trực tiếp chăm lo
hương khói, làm phật sự.
Chùa Phước Quang
85
Chùa thuộc hệ phái Nam tông là ngôi chùa ra đời muộn nhất so với các
ngôi chùa khác trong xã. Trụ trì chùa hiện nay là Đại đức Thích Chơn Quang-
tu học từ nhỏ tại chùa Quang Minh (xã Long An, huyện Long Thành). Năm
1999, được gia đình cho một mảnh đất tại ấp 1, Đại đức đứng ra lập một am
nhỏ để tu luyện, cầu an cho nhân dân trong ấp. Năm 2003, xây dựng thêm nhà
Tổ; hiện đang xin phép để xây dựng chính điện. Năm 2006, chùa được Giáo
hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Đồng Nai công nhận.
Theo thông lệ, hàng năm cứ ngày 17/10 âm lịch, Phật tử gần xa đều đến
dâng y cho quý Chư tăng.
Lễ vật cúng thường đơn giản, gồm thanh bông hoa quả dâng lên Phật tổ,
không cầu kỳ như các chùa ở miền Trung và miền Bắc. Tùy vào chùa, có nơi
có tiến hành các nghi lễ dâng sao giải hạn, cúng trừ tà ma, đây là nét sinh hoạt
mới, các phỏng vấn tại chỗ cho thấy xưa kia, không có các hoạt động nghi lễ
này.
Tại một số chùa, do có dân di cư từ Bắc vào, đã xuất hiện các lễ lên đồng
tại miếu, có nơi tại ngay chùa. Ở phía Bắc, các nghi thức lên đồng thường
được làm trong các điện tư gia hay điện thờ phía sau chùa. Ở Đồng Nai do sự
quản lý khá chặt chẽ của an ninh các ấp, nên dân không được tiến hành tại
nhà, bởi xưa không có, nay có, làm tại nhà, sẽ bị coi là mê tín di đoan, nên tốt
nhất dựa vào các ngày lễ cúng rằm lớn mà tiến hành ngay tại chùa. Các giá
đồng cũng đơn giản, thường chỉ hầu vài giá. Khi có con nhang đệ tử người
miền Bắc cúng lễ trong không gian chùa, sư trụ trì không tham gia.
Các sư trụ trì ở cả 3 xã đều thực hành các nghi lễ cúng khi tang chủ mời,
thực hiện các nghi thức cúng khi nhập quan, cúng đưa tiễn, cúng vong vào các
ngày lễ trọng. Người dân ở đây coi đó là một hình thức dịch vụ tôn giáo tín
ngưỡng, khoán gọn cho nhà chùa với một số tiền nào đó, tùy vào từng thời
điểm.
86
Các chùa đều xây nơi thờ vong như một hình thức dịch vụ để bà con
trong xã và các nơi khác đến gửi tro cốt và ảnh để thờ tự trên chùa. Các chùa
đua nhau xây nơi này khang trang để thu hút các gia đình có người mất đến
ký gửi. Đây là một điểm mới so với trước kia.
2.1.3. Sinh hoạt tôn giáo của nhóm cư dân đạo Cao Đài
Tại thánh thất Ngọc Linh, xã Hiệp Phước, các hoạt động của người dân
theo đạo Cao Đài được tổ chức một cách quy củ, có tổ chức, nghiêm cẩn theo
đúng quy định về mặt lễ tiết.
Năm 1957, một số chức sắc của giáo phái Tiên thiên, Hội thánh Tiên
thiên tòa thánh Châu Minh (xã Tiên Thủy, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre)
về vùng Hiệp Phước chọn địa điểm đặt viên đá đầu tiên xây dựng ngôi Thánh
tịnh, lấy tên là Ngọc Linh thuộc hệ phái Cao Đài Tiên thiên. Từ năm 1958 đến
năm 1960, xây dựng chánh điện Phật mẫu gồm 2 tầng, kế bên là nhà nghỉ của
phái nữ. Năm 1960, đặt viên đá xây dựng đền thờ đức Chí tôn, năm 1962 khởi
công và khánh lạc năm 1964. Năm 2007, sửa lại nhà Tây lang (nhà nghỉ của
phái nữ).
Nguồn gốc của hệ phái Cao Đài Tiên thiên: Năm 1934, một số chức sắc
Cao Đài về Mỹ Tho lập “Cao Đài Thiên thai tịnh” sau chuyển về Bến Tre.
Trong thời kỳ chồng Pháp, phái Cao Đài Tiên thiên tham gia tổ chức “Cao
Đài cứu quốc 12 phái hợp nhất” để động viên chức sắc, tín đồ tham gia kháng
chiến. Năm 1955, Cao Đài Tiên thiên phối hợp với các lực lượng yêu nước
trong các phái khác đấu tranh chống Mỹ - Diệm đòi thi hành hiệp định
Giơnevơ, chống khủng bố đạo Cao Đài. Tòa thánh trung tâm của Cao Đài
Tiên thiên đặt tại tỉnh Bến Tre, các tín đồ tập trung chủ yếu ở Bến Tre, Cần
Thơ, Tp. HCM.
Ban đầu hình thành ở Hiệp Phước, số lượng các tín đồ đạo Cai Đài tương
đối ít; trải qua 50 năm tồn tại, số lượng các tín đồ được nâng lên hàng trăm
87
người chủ yếu là nhân dân trong xã. Các tín đồ trong xã thực hiện việc ăn
chay tùy theo sở thích của mình. Các chức sắc như Lễ sanh phải thực hiện
chay tịnh từ 10 đến 16 ngày trong một tháng. Để gia nhập đạo, khi trẻ một
tuổi phải làm lễ tắm Thánh, khi đủ 18 tuổi mỗi người đều phải thông qua Ban
trị sự, lập đàn làm lễ Nhập môn, đọc kinh giải oan; sau lễ còn có lời thề nhập
môn “nếu sau có phản thầy, phản bạn, thề có ngũ lôi tiêu diệt”.
Hàng ngày các tín đồ đều phải đọc kinh Tứ thời, kinh Nhật tụng, kinh:
Quan, Hôn, Tang, Tế; phải học thuộc để đến các ngày lễ này sử dụng. Họ
làm lễ sớm vào 5h sáng, tối làm lễ, ngày rằm mùng một cúng lớn hơn.
Đối tượng thờ chính của đạo Cao Đài là Tam giáo (Nho, Thánh, Đạo) và
Ngũ chi (Tùng khổ - Hiền đạo, Thọ khổ - Thần đạo, Thắng khổ - Thánh đạo,
Giải khổ - Tiên đạo, Thoát khổ - Phật đạo). Hình thức thờ là Thiên nhãn (mắt
trái - thờ đức Ngọc hoàng Thượng đế). Vào ngày rằm, mùng một hàng tháng,
bốn đạo cúng vía các bậc được thờ. Trong gia đình theo đạo Cao Đài, bàn thờ
đặt Thiên nhãn được dựng trang trọng cùng với ba ly nước trắng và nước trà
dâng cúng tượng trưng cho yếu tố âm dương trong vũ trụ; 3 ly nước thể hiện
ba yếu tố: Tinh, Khí, Thần mà mỗi người theo đạo cần giữ gìn.
Trong bổn đạo có bầu ra Ban cai quản (dạy giáo lý cho các tín đồ), Ban
trị sự (quản lý các tín đồ, lo các việc quan, hôn, tang, tế). Thủ tự có 2 người lo
việc quét dọn, nhang đèn.
Thánh tịnh Ngọc Linh quay về hướng Bắc, tọa lạc trong tổng diện tích 1250 m2, diện tích xây dựng dành cho thờ tự chiếm khoảng 300m2, vật liệu
bằng bê tông với hai tầng lầu, nền gạch bông. Trong kiến trúc có điểm đặc
biệt để phân biệt với lối kiến trúc của Thánh thất (phái Cao Đài Tây Ninh) là:
Thánh tịnh chỉ có một tòa nhà nằm sâu so với trục đường lộ; Thánh thất gồm
hai tòa nhà song song và sát với trục lộ.
88
Tín đồ theo đạo Cao Đài ở Hiệp Phước sống hiền hòa, ít có những tệ nạn
xã hội, ứng xử và giao tiếp theo khuôn mẫu truyền thống, hiếu lễ với ông bà
cha mẹ, tôn trọng thứ bậc trong gia đình và dòng họ.
2.1.4. Sinh hoạt tôn giáo của nhóm cư dân đạo Thiên Chúa
Các cư dân theo đạo Thiên Chúa ở 3 xã thuộc giáo phận Xuân Lộc. Đây
là một giáo phận lớn với hơn 700.000 người của 12 giáo hạt. Thành phố Biên
Hòa có Giáo hạt Biên Hòa, với 13 giáo xứ, 49.429 giáo dân.
(Từ 15/10/2011 đến 14/10/2012, theo lịch của đạo Thiên Chúa)
Các chương trình hoạt động tôn giáo của các giáo xứ diễn ra trong năm
Bảng 31: Chương trình hoạt động của các giáo xứ (trong một năm)
STT
Tên hoạt động Tôn giáo
Thời gian tổ chức
01 Ngày chầu lượt thay giáo phận
30/10/2011
02 Lễ cầu hồn tại nghĩa trang giáo xứ
02/11/2011
03 Lễ kính Đức mẹ Vô Nhiễm Nguyên
08/12/2011
04 Lễ Giáng sinh
Đêm 24/12/2011
05 Lễ kinh Thánh Giuse
19/03/2012
Lễ Phục Sinh
Từ ngày 05/04/2012 đến ngày
06
07/04/2012
07 Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô
10/06/2012
08 Lễ kính Thánh Phêrô và Phaolô
29/06/2012
09 Lễ kính Thánh Đa Minh
08/08/2012
10 Lễ kính Thánh nữ Monica
27/08/2012
11 Thánh lễ kỷ niệm cung hiến nhà thờ
13/10/2012
Hàng ngày, thánh lễ buổi sáng cử hành lúc 4h45 thời lượng lễ 45 phút.
Buổi chiều lúc 18h30 thời lượng lễ 45 phút. Vào chiều thứ Bảy, lễ tiến hành
lúc 18h thời lượng từ 45p đến 60 phút. Sáng và chiều Chủ nhật hàng tuần có
lễ 5h sáng và đến 7h và từ 17h và đến 18h45 có một lễ nữa. Giáo dân có thể đi
lễ vào thứ bảy hoặc chủ nhật tùy thời gian của từng người.
89
Các nghi thức trong nhà thờ bao gồm:
Nghi thức mở đầu: Đây là phần chuẩn bị và tập hợp cộng đoàn (giáo
dân) nhằm mục đích giúp các tín hữu hiệp thông với nhau, chuẩn bị tâm hồn
để lắng nghe Lời chúa và cử hành Thánh lễ cho xứng đáng
- Ca nhập lễ là bài hát đi kèm cuộc rước chủ tế ra bàn thờ, nhằm mục
đích mở đầu thánh lễ, giúp cộng đoàn hiệp nhất với nhau và hướng tâm hồn
họ vào mầu nhiệm sắp được hành trong thánh lễ.
Chủ tế chào bàn thờ qua hai hành động: Cúi mình sâu trước bàn thờ và
hôn bàn thờ, đây là dấu hiệu chỉ sự kính trọng và tôn kính đối với chúa Kitô.
Sau đó ngài đến ghế chủ tọa, chấm dứt hát ca nhập lễ, ngài cùng toàn thể
Cộng đoàn làm dấu thánh giá bắt đầu Thánh lễ.
Trong Thánh lễ có 4 thời điểm chủ tế chào cộng đoàn bằng công thức:
Chúa ở cùng anh chị em (đầu Thánh lễ, đọc Tin Mừng, bắt đầu lời tiền tụng
và kết thúc thánh lễ), còn đọc Tin mừng thì chắp tay như thường lệ.
- Kinh nguyện Thánh thể: bắt đầu từ lời tiền tụng đến hết vinh tụng ca,
nghĩa là đến lúc chủ tế nâng đĩa thánh và chén thánh đọc: “Chính nhờ Người,
với Người và trong Người …”
Nghi thức rước lễ: Bắt đầu kinh Lạy Cha đến hết lời nguyện hiệp lễ.
- Khi chủ tế dâng Thánh lễ (cộng đoàn quỳ - thời gian khoảng 2 đến 3
phút). Vào những Thánh lễ đặc biệt, chủ tế dùng công thức chúc lành long
trọng hay lời nguyện trên dân chúng trước khi kết thúc thanh lễ. Khi ban phép
lành trên dân chúng, chủ tế dang tay chào “Chúa ở cùng anh chị em”, rồi chắp
tay lại, tay trái đặt lên ngực, tay phải đưa lên cao vừa làm dấu thánh giá.
Sau lời giải tán dân chúng và đang lúc chủ tế và đoàn đồng tế bái kính
bàn thờ, tùy nghi, có thể hát các bài thánh ca tạ ơn hay tấu lên những bài ca
chúc tụng diễn tả tâm tình hoặc mầu nhiệm cử hành hôm đó hoặc niềm vui
90
ngày lễ. Nếu sau thánh lễ có cử hành một nghi thức phụng vụ nào khác, thì bỏ
nghi thức kết thúc, tức là lời chào, chúc lành và giải tán.
Giáo dân có 5 phụng vụ gồm: mùa Vọng, mùa Chay, mùa Phục sinh,
mùa Giáng sinh, mùa Thường niên. Tầm quan trọng của các mùa phụng vụ
không giống nhau. Tam nhật vượt qua đứng vượt lên trên tất cả các cử hành
và mùa phụng vụ khác, tâm điểm của Tam nhật là lễ Phục sinh. Lễ Phục sinh
là lễ trọng nhất trong năm phụng vụ.
Các mùa phụng vụ chia làm hai nhóm và tầm quan trọng của hai nhóm
này khác xa nhau: Nhóm 1: gồm 3 mùa: mùa Vọng, mùa Chay, mùa Phục
sinh. Các chủ nhật thuộc nhóm này đứng trên bậc lễ của các lễ trọng trùng với
các chủ nhật này người ta phải dời sang thứ 2 kế tiếp. Nhóm 2 gồm hai mùa
Giáng sinh và Thường niên. Các chủ nhật của nhóm này lại đứng dưới mọi lễ
trọng và lễ Kính Chúa, vì thế khi các lễ trọng và lễ kính Chúa trùng với các
chủ nhật này, thì năm đó không cử hành thánh lễ của chủ nhật Giáng sinh hay
thường niên phải cử hành lễ trọng hay lễ kính Chúa.
Ngoài ra còn có phụng vụ các Bí tích:
- Bí tích Thánh tẩy
- Bí tích Thêm sức
- Bí tích hòa giải
- Bí tích Xức dầu bệnh nhân
- Bí tích Truyền chức
- Bí tích Hôn phối Các giáo dân theo các lịch lễ trên mà tham dự. Sinh hoạt tôn giáo của
giáo dân là công nhân, họ có thể đề nghị công ty có thể cho công nhân về sớm
hơn. Có một anh chị em công nhân vào ngày lễ, để kịp dự lễ họ có thể đến bất
cứ Giáo xứ nào để tham dự lễ cho kịp. Về phía Giáo xứ, họ cũng chấp nhận
con chiên ở địa phương được dự lễ ở các nhà thờ khác miễn là thuận tiện cho
việc hành lễ của họ. Họ có giấy giới thiệu của giáo xứ nơi họ sinh ra, được
91
cha nơi giáo xứ mới tiếp nhận. Khi có việc hôn nhân, tang ma, họ phải học
các quy định của đạo về hôn nhân gia đình, về trách nhiệm của vợ, chồng, với
gia đình, được làm lễ tại nhà thờ bởi cha xứ nơi họ định cư.
2.2. Các nghi lễ tại gia đình
2.2.1. Tang ma
Tang lễ của người Việt ở Đồng Nai cũng được cử hành theo khuôn khổ
các nghi lễ căn cứ theo cuốn Thọ Mai gia lễ của Hồ Sỹ Tân (Tiến sĩ năm
1721, có hiệu là Thọ Mai). Cuốn sách này ghi những thế thức quy định trong
việc quan, hôn, tang, tế trong gia đình. Ông có phỏng theo nghi thức gia lễ
của Chu Văn Công, tức Chu Hy đời Nam Tống và có sửa đổi ít nhiều cho phù
hợp; và sau đó tác phẩm rất được phổ biến.
Trước tiên lấy một chiếc chiếu trải xuống đất, đưa người chết nằm xuống
chiếu một lát rồi đưa trở lên giường. Theo tục lệ, lúc này con cháu (có thể
người ngoài) phải lau rửa cơ thể cho người chết bằng cồn (hoặc rượu). Xưa
kia những nhà giàu có thì lau bằng nước trầm hương. Khi lau rửa xong xuôi
thì thay quần áo mới cho người chết, đặt người chết lên giường, lấy một tờ
giấy trắng đậy mặt người chết hàm ý để khỏi nhìn thấy con cháu buồn khổ,
cũng có ý kiến giải thích là con cháu không nhìn thấy mặt người đã khuất để
đỡ đau lòng hơn. Gia đình cũng phải có người hỏi thầy cúng để xem giờ coi
người nhà đi vào giờ tốt hay xấu, sau đó tiến hành lễ Nhập quan.
Trước khi nhập quan phải qua thủ tục liệm xác, gọi là khâm liệm. Công
việc này cần phải tiến hành sớm, không nên để xác nằm lâu ở ngoài. Vì vậy
người nhà cần phải toan liệu gấp rút. Thường thì gia đình phải nhờ người coi
giờ để làm lễ, việc coi giờ này hiện nay nhiều gia đình vẫn còn chú trọng.
Trước khi đặt tử thi vào quan tài phải chuẩn bị đầy đủ gối đầu, đệm lót hai
bên tai cho đầu được thẳng, một tấm đệm đầu, hai tấm đệm chân, hai tấm đệm
đùi. Những thứ này có thể làm bằng bông, giấy bồi trong có nhồi bấc.
92
Trước khi làm lễ Nhập quan, dưới quan tài phải rải một lớp trà hoặc
bỏng gạo với mục đích để hút nước từ cơ thể rỉ ra và cũng để khử mùi. Lễ
nhập quan được tiến hành ngay sau khi liệm xác. Đặt tử thi đã khâm liệm vào
quan tài, đầu quay ra phía ngoài, chèn xung quanh cho chặt sao cho tử thi
không xê dịch. Đậy nắp quan tài lại, đóng cho chặt, rồi trét sơn ta hoặc dầu
chai cho thật kín. Ngày nay còn ít gia đình theo lệ này, vì thông thường do cơ
sở mai táng lo liệu. Họ lo hòm áo quan, tùy theo chất lượng gỗ. Ngày nay
hòm được sơn vàng, nhiều kiểu dáng thay vì đỏ như truyền thống. Khi có tục
hỏa táng, quan tài gỗ tốt cũng không quan trọng như xưa nữa, miễn là có hình
dáng đẹp.
Sau khi đặt linh cữu đúng vị trí, thân nhân đặt một chén cơm lồng chặt
và một quả trứng luộc, đôi đũa có một đầu gọt sơ bông, cắm thẳng đứng hai
bên quả trứng. Ngày nay, một số nơi đũa không gọt bông, mỗi bên một chiếc.
Theo quan niệm của người dân đó là cơm mời tử thần đến rước linh hồn
người chết về âm phủ, vì có một chén cơm, một quả trứng tròn và hai chiếc
đũa để riêng, tử thần sẽ khó dùng và ăn chậm hơn, không hối thúc linh hồn
người chết về âm phủ sớm được.
Ngày nay, những gia đình theo Phật giáo và thờ cúng ông bà thường mời
nhà sư và một số tăng ni đến tụng kinh. Một số gia đình theo đạo Công giáo
mời linh mục đến làm phép rửa tội và họ hàng thân nhân cùng đọc kinh cho
người đã qua đời, có khi việc đọc kinh kéo dài vài ngày trước khi an táng.
Trong lễ Thành phục, do nhà sư thực hiện các thủ tục cho tang lễ. Trong
lúc này ban nhạc thường theo nhà sư hoặc người làm lễ xướng mà thực hiện
các bài bản trong nhạc lễ. Nghi lễ Thành phục đối với người Đồng Nai rất
quan trọng, được thực hiện long trọng. Nhà sư sau khi khấn xong, mâm tang
lễ phải được chuẩn bị trước, bao nhiêu con cháu thì phát bấy nhiêu khăn tang.
93
Khi phát khăn, ông dùng kéo cắt nhá trên đầu mỗi người một lần, gọi là
cắt tượng trưng. Ngày xưa, khi gia đình có cha mẹ mất, con cái không được
quyền cắt tóc, gội đầu trong thời gian thọ tang. Vì vậy nhà sư khấn và xin
phép cắt nhá để tượng trưng, cho con cháu được quyền cắt tóc, gội đầu trong
thời gian thọ tang. Sau khi làm lễ Thành phục xong thì làm lễ Phát tang.
Lễ cúng cơm áo gồm mỗi ngày cúng ba tuần cơm: Sáng (Chiêu thời),
trưa (Phô thời), chiều (Tịch thời). Ngoài ra, mỗi ngày cũng có ba tuần rượu,
ba tuần trà. Ngày xưa, vào buổi sáng con cháu bưng chậu nước, khăn mặt,
lược, gương và cơi trầu vào chỗ linh sàng khóc ba tiếng rồi rước ảnh ra chỗ
Linh tọa cúng cơm, dâng rượu trà. Buổi chiều, sau khi cúng cơm, dâng rượu,
trà xong, con cháu lại rước hình ảnh vào linh sàng, buông màn. Ngày nay,
thông thường người ta thờ ảnh ngay trước linh cữu, thủ tục cúng cơm cũng
diễn ra tại đây. Tục cúng cơm thực hiện đều đặn cho tới ngày an táng.
Cúng Thổ thần xong, linh cữu mới được hạ huyệt. Trong khi hạ huyệt thì
ban nhạc đàn bài Nam ai, vỗ trống cơm hoặc đổ trống, chiêng liên hồi. Sau
khi lấp huyệt xong, con cháu làm lễ Thành phần (hoàn thành việc lấp mộ).
Những người đi đưa đám cùng vái tạ bốn lạy để từ biệt người quá cố. Ở Đồng
Nai, trong lúc hạ huyệt một số nơi có hát Tuồng với số người hạn chế từ năm
người đến bảy người.
Đám đưa ma về, theo lệ ngày xưa khi đưa đám một đường thì khi về phải
đi đường khác, ngày nay ít người theo lệ này. Về đến nhà, con cháu làm lễ An
vị, việc đưa đám coi như đã hoàn tất.
Các tục lệ sau khi đưa đám, bao gồm Cúng ba ngày, Lễ Mở cửa mả,
Cúng cơm hàng ngày, Cúng Thất thất lai tuần, Giỗ đầu, Giỗ hết vẫn được lưu
giữ, được các gia đình thực hiện đầy đủ và nghiêm cẩn. Riêng đối với nhóm
dân nhập cư, các lễ cúng cơm hàng ngày và sau đó thường ít được tuân thủ
bởi một số là do gia đình gốc đảm nhiệm, hoặc điều kiện làm việc không cho
94
phép. Họ giản tiện phần nghi lễ, có làm thì cúng sơ rồi mời một nhóm bạn,
hàng xóm đến nhậu, không có nhiều ý nghĩa nghi lễ như xưa.
Tại Đồng Nai từ xưa đến nay không có tục cải táng như ở miền Bắc. Gần
đây, do điều kiện đất đai khó khăn, nhiều biến động, một số do điều kiện làm
ăn xa, nhiều người ủng hộ tổ chức hỏa táng, bốc mộ, cho di cốt vào hũ sành
đậy nắp kín gởi ở chùa với tâm niệm rằng vong linh người chết sẽ được
nương nhờ cửa Phật, được ổn định và nhang khói ngày đêm.
Trong các gia đình cư dân tại chỗ, do có người dân nhập cư sinh sống
trong khuôn viên nhà mình, do ở lâu, nên khi gia đình có việc tang, họ cũng
tham gia vào việc tổ chức cỗ bàn, tiếp khách song họ tuyệt nhiên không được
tham gia vào việc nghi lễ. Khi các hộ gia đình người nhập cư là công nhân có
người mất, nếu gia đình ở xa, họ cũng hỏi thăm, gửi đồ phúng viếng; nếu chết
tại chỗ, họ cử người giúp đỡ, có nêu các nghi thức phải làm song đó chỉ là
tham khảo, gia chủ, tùy vào gốc quê hương mà thực hành nghi lễ nhưng rất
giản tiện, thường hỏa táng và mang tro cốt về quê nhà. Dân nhập cư là công
nhân không có điều kiện tổ chức đình đám như ở quê. Sự khác nhau về phong
tục là do nguồn gốc bản quán quyết định. 97.8% cho biết tổ chức tang lễ tại
quê nhà, chỉ có 0.4% tổ chức tang lễ nơi cư trú và 0.6% tổ chức tang lễ ở nơi
khác. Nghĩa là có người đau ốm, sắp mất, họ đưa về quê, không xoay sở kịp,
mới tổ chức tang lễ tại nơi cư trú. Một số đám lo liệu tại bệnh viện, vừa không
bị áp lực bởi theo nghi lễ nào, vừa thuận tiện về phương diện tổ chức.
Một trong những đặc trưng nổi bật trong đời sống tâm linh của mỗi cá
nhân là vấn đề tổ chức thờ cúng, giỗ ông – bà tại nơi ở. Có 35.8% người được
hỏi cho biết họ “có” và 64.2% “không” thờ cúng. Thông tin định lượng cho
thấy có rất nhiều lý do khác nhau, chẳng hạn: đối với người nhập cư, tại nơi ở
mới họ cảm thấy bất tiện vì không gian nhà trọ chật hẹp nên không thuận tiện
cho việc thờ cúng. Nguyên nhân nữa là họ đã thờ cúng, giỗ ông bà ở quê nên
95
bây giờ vào địa phương sinh sống không nhất thiết phải thờ nữa, vì lý do bất
tiện của cảnh nhà trọ chật chội và vì “không thích”. Như vậy, phần lớn cư dân
trong cộng đồng không thờ cúng, giỗ ông bà tại nơi ở.
Bảng 32: Nơi tổ chức tang lễ
Tần số
Tỉ lệ phần trăm
Giá trị
Quê nhà
489
97.8
Nơi cư trú
2
0.4
Khác
3
0.6
Tổng cộng
494
98.8
6
1.2
Không cung cấp thông tin
Tổng cộng
500
100.0
Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.
Về hình thức tổ chức tang lễ, kết quả khảo sát cho thấy:
Bảng 33: Hình thức tổ chức tang lễ
Tần số
Tỉ lệ phần trăm
Theo phong tục
455
91.0
Giá trị
Khác
17
3.4
Tổng cộng
472
94.4
Không cung cấp thông tin
28
5.6
Tổng cộng
500
100.0
Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.
Vậy, 91% người tham gia trả lời cho biết hình thức tổ chức tang lễ là
theo phong tục. Bên cạnh đó, cũng có 3.4% tổ chức tang lễ theo hình thức
khác, chẳng hạn như: hỏa táng, theo dịch vụ, đãi chay… bởi vì, 92% người
tham gia trả lời cho biết, lý do lựa chọn hình thức tổ chức tang lễ là “đúng với
truyền thống”.
2.2.2. Cưới
Trong truyền thống, hôn nhân là một nghi lễ quan trọng của đời người.
Trước những biến động của đời sống, hiện nay ở Đồng Nai nói chung, 3 xã
96
được khảo sát nói riêng, ta vẫn thấy việc hôn nhân có một ý nghĩa quan trọng.
áp lực của tộc họ và cá nhân bắt buộc mỗi người dân trưởng thành phải lập
gia đình, sinh con, khó ai thoát khỏi áp lực đó. Do sự di động xã hội ngày
càng tăng nên việc tìm hiểu, đi tới hôn nhân của họ không còn bó hẹp trong
khuôn khổ làng xã hoặc chỉ do cha mẹ dạm hỏi cho.
Với sự phát triển của nền giáo dục, sự gia tăng các cơ hội tiếp xúc,
thường các đôi nam nữ tự tìm hiểu nhau trước khi quyết định thành vợ thành
chồng, sau đó họ mới về thưa chuyện với cha mẹ để lo chuyện hôn nhân. Sự
trinh tiết của người con gái không bị coi nặng như xưa do sự phổ biến các
kiến thức về tình dục trước hôn nhân được phổ biến cũng như quan niệm của
giới trẻ cũng đã thay đổi. Cuộc điều tra của chúng tôi cho thấy đa số thanh
niên đi theo mô hình "có sự tìm hiểu trước, ba mẹ đồng ý và lo tổ chức đám
cưới cho", chiếm 95,0%. Cha mẹ hai bên phải có trách nhiệm tác thành cho
đôi trai gái đó. Hôn nhân là đại sự của gia tộc hai bên, chứ không phải là việc
của cá nhân đôi trẻ.
Theo tục lệ xứ Đồng Nai, cưới hỏi tiến hành theo: 1/Lễ coi mặt (dạm ngõ); 2/Lễ giáp lời (kết sui); 3/Lễ sơ vấn (đám hỏi); 4/Lễ nạp sinh (nạp tài); 5/Lễ cưới; 6/Lễ phản bái (lại mặt). Khoảng ba bốn năm nay, cưới hỏi chỉ còn hai lễ
chính: Lễ hỏi và Lễ cưới.
Lễ hỏi: Theo đúng ngày được gọi là tốt cho việc hôn nhân, nhà trai gồm
một số bà con (đàn ông) và thanh niên trong bộ lễ phục, thường người lớn
tuổi mặc áo dài gấm, the, thanh niên trong bộ áo comple hoặc áo sơ mi trắng
"đóng thùng", sắp hàng một đến nhà gái. Xưa họ có thể đi ghe thuyền, nay
thuê xe hay đi xe máy nếu gần. Lễ vật gồm vài mâm trái cây gồm: nho, hồng,
cam, nhãn, vải. Có bánh, trà bọc giấy điều, một ít tiền gọi là tiền phụ cỗ, rượu
97
(có rượu Tây, rượu ta - thường là hai chai dán giấy đỏ tượng trưng hai chóe
rượu cưới truyền thống), bánh ngọt (bánh Tây đóng hộp sẵn, gần đây bày
bánh kem theo Tây phương). Nhà giàu thường kèm heo quay (ngày nay, giầu
nghèo gì cũng cố lo đủ, không như xưa). Lễ vật không thể thiếu được là đôi
bông tai (dù nghèo cũng phải có, nhà giàu thì có thêm dây chuyền, lắc, nhẫn,
vải may áo dài cho cô dâu. Ngày nay các đồ này được để chung với các lễ vật
khác, trong một cái khay nhỏ hơn.
Họ hàng nhà gái tụ họp đông đủ bên nhà gái và nghênh tiếp nhà trai. Khi
vào nhà, người con trai đi thẳng vào bàn thờ tổ tiên và lạy, sau đó anh ta lạy
trước họ hàng người con gái. Việc cúi lạy này có ý nghĩa là tổ tiên và gia đình
người thiếu nữ công nhận anh ta là con cháu trong nhà.
Lễ cưới: Trước ngày cưới vài hôm, hai gia đình sửa soạn cho lễ cưới khá
tất bật. Hai nhà đều dựng rạp bằng tre, trên che những tấm bạt, dù. Trước cửa
nhà bao giờ cũng làm cổng kết bằng lá dừa, trên có treo tấm biển Vu quy ở
nhà gái và Tân hôn ở nhà trai, ở đó có kết những đường dây hoa bằng đèn đủ
màu sắc. Các đồ thờ bằng đồng như lư hương, đỉnh, đèn được đem xuống
đánh bóng. Vào ngày này các gia chủ thường mua chiếu mới để rải trên các
bộ phản kê trước bàn thờ và hai bên, bàn, ghế, ly, chén,... được thuê hoặc
mượn của hàng xóm. Việc trang trí nhà khách thường do các thanh niên trong
xóm, người trọ trong nhà hoặc bạn bè cô dâu chú rể tự nguyện đến giúp.
Khi về đến nhà chú rể, hai vợ chồng phải thắp hương và lạy bàn thờ có
các bố đứng sau. Trong lúc đó, khách được mời vào bàn tiệc gọi là thồi. Cô
dâu, chú rể đi vào trong nhà. Đại diện nhà trai tiến lên trước, thắp hai cây đèn
cầy và đưa lên cao khấn vái để trình tổ tiên về dâu mới. Hai vợ chồng lạy tổ
tiên, rồi tiến đến cái chiếu trước mặt, quì hoặc đứng (tuỳ vào qui định của ông
Thân đang đứng bên cạnh chỉ giáo) để lạy ông bà, họ hàng. Chuyện lạy ông
bà tổ tiên hay ông bà cô bác mang ý nghĩa trình diện. Lễ bái xong, hai vợ
98
chồng đi từng bàn mang ý nghĩa tiếp tân, ra mắt. Trong lúc đi từng bàn, bà
con mừng tiền cho hai vợ chồng hoặc những đồ mừng khác. Họ phải đi từng
bàn để chúc tụng, chú rể cầm ly rượu chúc tượng trưng. Trong quá trình đãi
khách cô dâu thường thay hai đến ba bộ váy áo. Lúc đón dâu là váy trắng
hoặc áo dài đỏ khăn xếp kiểu hoàng hậu, sau là váy vàng hoặc hồng. Việc
thay áo váy nhiều để cho chụp ảnh hoặc quay video ghi rõ các kiểu dáng của
cô dâu trong ngày cưới. Bữa tiệc kéo dài đến tối.
Sau khi khách ra về, dọn dẹp xong, cô dâu chú rể được dẫn vào phòng
gọi là lễ nhập phòng. Cô dâu bước vào trước, trong khi chú rể lùi ra sau, để
tránh cho cô dâu đạp bóng chú rể, bởi nếu như vậy thì chú rể sẽ bị cô dâu điều
khiển. Trước khi nhập phòng, có tục cô dâu rót rượu mời cha mẹ chồng, có
khi còn phải rót rượu mời cả anh chị em chồng hàm ý cô dâu tỏ vẻ e ngại
trong gia cảnh mới lạ, mong sự dạy dỗ. Cha mẹ cũng nói vài điều để nhận
thêm một thành viên mới vào gia đình. Hiện nay, lễ nhập phòng này có nhà
làm, có nhà không, thường thì chỉ những gia đình bố mẹ nào nhiều tuổi, có
học mới hướng con cháu chuyện này.
Đối với đám cưới của dân nhập cư, ở các địa bàn thuộc phạm vi khảo sát
của luận án đang trong quá trình công nghiệp hóa – đô thị hóa với sự xuất
hiện của nhiều công ty, xí nghiệp; kéo theo đó là một đội ngũ dân nhập cư ồ
ạt đổ xô lập nghiệp ở địa phương này, phần lớn là thanh niên. Do đó, sự xuất
hiện của những người nhập cư, cũng đã phần nào tác động đến cuộc sống của
người dân tại cộng đồng khi họ mang theo những nếp sống, chuẩn mực, văn
hóa từ các vùng quê đến nơi ở mới.
Như đã nói ở trên, phần lớn thành phần dân nhập cư là thanh niên, và
đây cũng là độ tuổi có nhu cầu kết hôn cao. Vậy, với sự xuất hiện của tầng lớp
thanh niên nhập cư, cách thức tổ chức đám cưới ở các địa bàn nằm trong
99
phạm vi nghiên cứu của luận án có những thay đổi gì? Và những thay đổi đó
đang diễn ra theo hướng nào?
Dựa vào thông tin định tính thu thập được từ các cuộc phỏng vấn sâu
chứng tỏ rằng, đám cưới hiện nay đã thay đổi rất nhiều, linh hoạt hơn với
cuộc sống hiện tại.
Kết quả khảo sát cũng nêu rõ, 98.4% người dân cho biết, đám cưới được
tổ chức theo hình thức “đãi tiệc mặn”. Theo hình thức này, đám cưới hiện nay
được bao trùm thêm bởi nhiều yếu tố: gọn gàng, tiết kiệm, đơn giản. Chính vì
thế, không ngạc nhiên khi yếu tố “thuận tiện” được đặt lên hàng đầu với
54.6%. Sự thuận tiện của hình thức đãi tiệc đám cưới được gắn liền với việc
tổ chức tại các nhà hàng – nơi vừa đảm bảo được thức ăn, bàn tiệc đãi khách
vừa có đầy đủ kịch bản cho buổi lễ cưới bao gồm phần giới thiệu họ hàng hai
bên, phát biểu cảm tưởng, cắt bánh cưới, rót rượu mừng, ca nhạc…
Bảng 34: Nơi tổ chức đám cưới
Tần số
Tỉ lệ phần trăm
Quê nhà
264
52.8
Nhà hàng gần nơi ở
233
46.6
Khác
3
0.6
Tổng cộng
500
100.0
Nguồn: Tác giả, kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010
Kết quả khảo sát cho thấy, có 46.6% cho biết đám cưới hiện nay thường
được tổ chức ở nhà hàng gần nơi ở. Hình thức đám cưới này thường thấy ở
phần đông tầng lớp thanh niên công nhân và một số ít ở người dân tại địa
phương. Song song đó, có 52.8% tổ chức đám cưới ở quê nhà, hình thức đám
cưới này thường gặp ở những người dân tại địa phương và một số thanh niên
công nhân đãi đám cưới chính tại quê nhà, sau đó, vào nơi ở hiện tại, đãi tiệc
nhỏ mời bạn bè đến cùng chung vui.
Bảng 35: Việc tổ chức cưới: Lý do lựa chọn
100
Tần số
Tỉ lệ phần trăm
Giá trị
Thuận tiện
273
54.6
Phù hợp truyền thống
62
12.4
Khác
143
28.6
Tổng cộng
478
95.6
Không cung cấp thông tin
22
4.4
Tổng cộng
500
100.0
Nguồn: Tác giả, kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010
Như đã trình bày ở trên, người nhập cư trên địa bàn chiếm tỉ lệ khá đông
đảo, và đa phần làm công nhân tại các KCN. Họ có tuổi đời từ 18-35 đây
chính là độ tuổi lý tưởng cho việc lập gia đình. Đối với người Việt Nam, lập
gia đình riêng là việc quan trọng của cuộc đời nên ai cũng cố gắng có được
một đám cưới vừa được tổ chức trang trọng, tươm tất, đúng với truyền thống
vừa thuận tiện, phù hợp với hoàn cảnh bản thân. Dựa trên những yếu tố đó,
chúng tôi đặt câu hỏi về sự cần thiết của việc có một nơi tổ chức cưới dành
cho người dân mà đặc biệt là người nhập cư – vốn không có nhiều điều kiện
kinh tế, địa điểm để tổ chức đám cưới.
Bảng 36: Tổ chức đám cưới cho người lao động gần nơi ở
Tần số
Tỉ lệ phần trăm
Giá trị
Có
472
94.4
Không
28
5.6
Tổng cộng
500
100.0
Nguồn: Tác giả, kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010
Có đến 94.4% mong muốn có được một chỗ để tổ chức đám cưới cho
người lao động gần nơi ở. Vì một thực trạng chung, thu nhập của người lao
động (công nhân) thường không khá giả, do đó, để tổ chức một đám cưới sẽ
phải tốn rất nhiều chi phí. Chính vì vậy, việc thành lập một nơi chuyên dành
để tổ chức đám cưới dành cho người dân thì vừa sẽ tiết kiệm chi phí mà vừa
vẫn đúng với phong tục đám cưới truyền thống cho một số trường hợp thuê
101
trung tâm văn hóa xã để tổ chức, người ta không có nhà mà thuê nhà hàng thì
không đủ kinh phí.
2.3. Từ bình diện cá nhân - các hưởng thụ văn hóa trong đời sống
hàng ngày
Trong các cộng đồng đang có những “xáo trộn” lớn về mặt dân số, bị
phân tách thành hai mảng văn hóa của hai nhóm cư dân có những đặc điểm
khác nhau về mặt bản quán, địa vị kinh tế và xã hội, chưa thực sự là một
chỉnh thể hoàn chỉnh nên luận án đã có những nghiên cứu riêng về hai nhóm
dân cư này, với các hưởng thụ văn hóa trong đời sống hàng ngày của nhóm
công nhân và nhóm cư dân tại chỗ. Luận án đã sử dụng các kết quả điều tra do
bản thân tác giả đề tài luận án khảo sát tại 3 xã, cho thấy những diện mạo phát
triển khá đa dạng, nhiều chiều kích trong quá trình hưởng thụ văn hóa của họ.
Theo thống kê, đa số công nhân lao động tại KCN sống tại 3 xã là di cư
vào từ miền Bắc và miền Trung, đến từ các vùng nông thôn, và thường là
những thanh niên nghèo. Vì thế, khả năng mua nhà để định cư lâu dài ngay
khi mới vào là một điều không tưởng đối với họ. Như vậy, một giải pháp khả
thi nhất là ở tạm trong những căn nhà trọ với giá sàn khoảng trên dưới 150
ngàn/1 người/1 phòng có 4 đến 5 người. Một lý do khác, nhưng nhỏ hơn là
việc sống trong loại hình cư trú này, họ thấy thoải mái hơn do nó tương tự với
cách sống ở nơi quê nhà. Trong bối cảnh này, việc tự tổ chức chăm lo đời
sống văn hoá tinh thần tại các khu nhà trọ là vô cùng khó khăn.
Trong đời sống hàng ngày, thời gian của nhóm công nhân được chia ra
thành các hoạt động chủ yếu sau: thời gian làm việc tại các nhà máy, thường
là 8 tiếng, có khi kéo dài thêm do tăng ca, từ 1 đến 2 tiếng, có khi đến 4 tiếng.
Thời gian đi lại, nấu ăn, vệ sinh cá nhân hết 2 đến 3 tiếng, còn lại là thời gian
ngủ để tái sản xuất sức lao động. Do trong các khu nhà trọ không có các
khoảng không gian công cộng để tổ chức các hoạt động thể dục thể thao, vui
102
chơi giải trí, cộng với thời gian hạn hẹp nên họ thường ít tổ chức được các
hoạt động vui chơi giải trí có ý nghĩa tích cực nào. Hoạt động văn hoá thường
xuyên nhất là nghe đài, xem vô tuyến, chơi bài, nhậu, nghĩa là các hoạt động
có tính thụ động và ít tính sáng tạo. Tổ chức sinh nhật cũng đôi khi được làm
nhưng nặng về ý nghĩa ăn nhậu hơn là ý nghĩa văn hoá. Việc đến các thiết chế
văn hoá là hầu như không có.
Các dịp cưới hỏi, giỗ chạp là những dịp để nhóm công nhân có một sự
liên hệ với truyền thống, nghĩa là có cơ hội nghĩ tới gia đình gốc và các mối
liên hệ với cội nguồn nhưng họ hầu như không có thời gian, điều kiện tài
chính để về quê hay tổ chức các lễ trọng này tại các nhà trọ.
Các liên hệ với cộng đồng tại chỗ cũng rất hạn chế. Các giao tiếp chủ
yếu là trong nhóm công nhân cùng khu nhà trọ, có chăng cũng là giao tiếp qua
nhà chủ phòng trọ. Việc thường xuyên đổi chỗ ở cũng là yếu tố hạn chế sự
giao tiếp với cộng đồng tại chỗ. Các thiết chế văn hoá tại chỗ hầu như không
thu hút được công nhân KCN. Chỉ có cư dân tại chỗ là tham dự các hoạt động
văn hoá tại trung tâm văn hoá, các sân chơi thể thao.
Các “gia đình tạm”, nghĩa là loại “gia đình” được tập hợp mang tính cơ
học của một nhóm công nhân cùng quê, cùng họ hay có sự giới thiệu làm
quen, thường tự do trong sinh hoạt, mang nhiều yếu tố tự phát. Do việc sinh
sống trong các khu nhà trọ là những kết hợp mang nhiều tính ngẫu nhiên của
các thanh niên của những miền quê khác nhau, sự quản lý của các chủ nhà trọ
nằm chủ yếu ở việc đảm bảo an ninh, nên việc sinh hoạt văn hóa của những
người ở trọ thường không được định hướng bởi các tổ chức, đoàn thể nhất
định như công đoàn, đoàn thanh niên, lớp học nghề, doanh nghiệp. Xa quê
hương, không ở gần cha mẹ, không bị ràng buộc quá nhiều bởi những khuôn
mẫu truyền thống cũng dẫn đến những sinh hoạt tự do hơn. Những sinh hoạt
tự do có hai mặt tích cực và tiêu cực của nó. Về khía cạnh tích cực, sự tự do
103
mang lại cho đối tượng công nhân trẻ này sự năng động, phát huy tối đa lợi
thế này của thanh niên. Xem xét dưới góc độ tiêu cực thì trẻ tuổi, nghèo, xa
quê, tính vô danh cao khi sinh sống ở đô thị đã khiến cho tệ nạn xã hội có cơ
hội nảy sinh.
Các hình thức giải trí có tính thụ động; các sinh hoạt văn hóa chủ yếu là
với nhóm bạn bè gần phòng, đồng hương, cùng doanh nghiệp, gần giống
nhau về hoàn cảnh sống; dễ lây lan có thói quen xấu do ít bị kiểm soát;
truyền thống văn hóa bị lãng quên là những đặc điểm dễ nhận thấy trong sinh
hoạt văn hoá của các phòng trọ.
Nhận thấy việc cần phải xây dựng các khu dân cư văn minh, tỉnh Đồng
Nai đã phát động phong trào Khu dân cư không có tệ nạn như một phong trào
xã hội rộng khắp trên địa bàn tỉnh. Các khu dân cư này ngoài việc bảo đảm
các vấn đề về an ninh trật tự cho nhóm dân cư tại chỗ mà còn phải rất chú
trọng đến nhóm cư dân nhập cư, vốn xa rời gốc rễ của họ tại nguyên quán, về
vùng đất mới, xây dựng các hộ/gia đình mới, với các chỉ tiêu cụ thể như:
- Không có tệ nạn xã hội nghiêm trọng như trộm cắp, xì ke, cờ bạc…
- Có trật tự vệ sinh công cộng;
- Bảo đảm các chỉ tiêu trong xây dựng gia đình văn hoá, làng/đơn vị
văn hoá;
Cuộc điều tra này có sự tham gia của chính bản thân tác giả luận án và
các kết quả được sử dụng lại dưới đây đã được xử lý lại.
Bảng 37: Tham gia các hoạt động sinh hoạt văn hóa tại nhà máy
Không
Có
Hội diễn văn nghệ
N
789
144
%
84.6
15.4
Tham quan, du lịch
N
578
419
%
58.0
42.0
Tham gia các cuộc thi tìm hiểu
N
799
101
104
%
88.8
11.2
Tham gia thi tay nghề
N
841
51
%
94.3
5.7
Tham gia giải thi đấu thể thao
N
745
191
%
79.6
20.4
Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.
Hoạt động văn hoá được nhiều người tham gia nhất là tham quan và du
lịch. 42% ý kiến cho biết họ đã đi tham quan, du lịch trong năm 2004 ít nhất một
lần. Tiếp đến là hoạt động thi đấu thể thao, 20,4% những người được hỏi cho
biết họ có tham gia thi đấu thể thao trong năm 2004. Một hoạt động văn hóa rất
thiết thực liên quan đến công việc của người lao động là thi tay nghề lại có một
số ít người tham gia, chỉ có 5,7%. Hội diễn văn nghệ có 15,4% những người
được hỏi tham gia. Nhìn chung, các hoạt động trên chưa thu hút được số đông
người tham gia rất nhiều lý do, trong đó chủ yếu là giới chủ chưa thực sự coi đây
là một hoạt động cần phải có để nâng cao hơn nữa chất lượng sống của người
công nhân.
Bảng 38: Nhà máy của anh chị có tổ chức bất kỳ hoạt động văn hóa nào dưới đây
Không tổ
Có tổ chức
Không biết
chức
Hội diễn văn nghệ
N
464
363
738
%
29.6
23.2
47.2
Tham quan, du lịch
N
394
367
804
%
25.2
23.5
51.4
Tham gia các cuộc thi tìm
588
127
850
hiểu
N
%
37.6
8.1
54.3
Thi tay nghề
N
597
120
848
%
38.1
7.7
54.2
Giải thi đấu thể thao
N
443
466
656
105
28.3
%
29.8
41.9
Giao lưu với các đơn vị khác N
555
152
858
35.5
%
9.7
54.8
Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.
Rất nhiều người được hỏi không biết hoặc không rõ về các hoạt động của
nhà máy được tổ chức trong năm những năm gần đây. Những người tham gia
trả lời câu hỏi này là những người đã làm việc ở nhà máy trong năm 2004. Có
54,8% ý kiến những người được hỏi trả lời không biết về việc nhà máy có tổ
chức giao lưu với các đơn vị khác không. Tiếp đến là hội thi tay nghề, 54,3%
cho biết họ không rõ hoặc không biết nhà máy có tổ chức hoạt động này trong
năm 2004 hay không. Có thể nhận thấy là tỷ lệ những người không biết về các
hoạt động có được nhà máy tổ chức hay không rất cao. Đây là một vấn đề cần
được các nhà máy xem xét. Rất có thể hình thức hoặc thể lệ tổ chức các hoạt
động văn hoá tại nhà máy chưa gây được sự chú ý của những người lao động,
hoặc họ thờ ơ không quan tâm đến việc nhà máy có tổ chức hay không.
Điều này phản ánh một thực tế là chăm lo cho đời sống văn hóa tinh
thần của công nhân chưa phải là một phần trong chiến lược phát triển sản
xuất của các doanh nghiệp. Một nền sản xuất dựa vào nhân công rẻ sẽ không
coi công nhân là một thành tố quan trọng trong hệ thống sản xuất.
Bảng 39: Tỷ lệ những người biết đến các hoạt động văn hóa do nhà máy
tổ chức và có tham gia các hoạt động này
Không
Có
N
%
N
%
284
78.2
79
21.8
Tham quan, du lịch
121
33.0
246
67.0
Tham gia các cuộc thi tìm hiểu
70
55.1
57
44.9
Tham gia thi tay nghề
80
66.7
40
33.3
Tham gia giải thi đấu thể thao
326
70.0
140
30.0
Hội diễn văn nghệ
Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.
106
Trong số 363 người biết đến việc nhà máy có tổ chức tham quan du lịch
thì có 21,8% là tham gia hoạt động này, còn lại 78,2% là không tham gia. Có
367 người biết đến các cuộc thi tìm hiểu do nhà máy tổ chức thì có 67% tham
gia. Đây cũng là hoạt động được nhiều người tham gia nhất so với các hoạt
động khác. Trong số 127 người trả lời có biết nhà máy tổ chức cuộc thi tay
nghề thì có 44,9% có tham gia cuộc thi này. 120 người trả lời có biết nhà máy
tổ chức thi đấu thể thao nhưng chỉ có 33,3% là có tham gia hoạt động này của
nhà máy. Trong số 466 người biết về hội diễn văn nghệ của nhà máy nhưng
chỉ có 30% người tham gia. Có thể nói là tỷ lệ người biết đến các hoạt động
của nhà máy chiếm tỷ lệ thấp, nhưng ngay cả chính những người này cũng
không tham gia nhiều vào các hoạt động trên.
Bảng dưới đây sắp xếp các hoạt động giải trí (xem ti vi, đọc báo, tạp chí,
nghe đài, xem video, DVD, đọc sách, tập thể dục thể thao, đọc truyện, sử dụng
Internet) theo các mức độ từ hoạt động được tham gia thường xuyên nhất cho
đến ít thường xuyên nhất.
Bảng 40: Mức độ thường xuyên trong các hoạt động giải trí dưới đây
Tỉ lệ trung bình
Độ lệch chuẩn
Xem ti vi
3.90
1.572
Đọc báo, tạp chí
3.01
1.784
Nghe đài
2.25
2.073
Xem video, DVD
2.04
1.832
Đọc sách
1.82
1.811
Tập thể dục thể thao
1.71
2.092
Đọc truyện
1.40
1.603
Sử dụng Internet
1.06
1.637
(Không bao giờ = 0, Hiếm khi = 1, Một lần một tháng = 2, Vài lần một tháng = 3,
Vài lần một tuần = 4, Hằng ngày = 5)
Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.
107
Có 6 hoạt động giải trí bao gồm xem ti vi, đọc báo chí, nghe đài, xem
video, đọc sách, tập thể dục, đọc truyện và sử dụng Internet được đặt ra nhằm
tìm hiểu mức độ thường xuyên tham gia các hoạt động này từ mức thấp nhất
là không bao giờ cho đến mức thường xuyên nhất là hằng ngày. Ti vi là loại
hình giải trí được người ta xem thường xuyên hơn cả (3,9 gần ở mức vài lần
một tuần). Báo, tạp chí là loại hình giải trí xếp vị trí thứ hai, ít thường xuyên
hơn (3,01 trên mức vài lần một tháng một chút ít). Đài đứng vị trí thứ tư, với
mức độ thường xuyên là 2,25, trên mức một lần một tháng một chút. Tiếp sau
là loại giải trí qua xem video, hoặc DVD là 2,04. Sau nữa là đọc sách, vối
mức điểm trung bình là 1,82 dưới mức một làn một tháng. Các hoạt động sau
có mức độ thường xuyên rất thấp. Điều này thể hiện có rất nhiều người hầu
như không tham gia các hoạt động này, hoặc tham gia không đáng kể.
Bảng 41: Mức độ thường xuyên trong các hoạt động giải trí phân theo giới tính
Tỉ lệ trung bình
Độ lệch chuẩn
Nam
Nữ
Tổng số Nam
Nữ
Tổng số
Xem ti vi
4.14
3.70
3.90
1.407
1.668
1.572
Đọc báo, tạp chí
3.23
2.83
3.01
1.763
1.783
1.784
Nghe đài
2.52
2.03
2.25
2.093
2.032
2.073
Tập thể dục thể thao
2.52
1.05
1.71
2.141
1.801
2.092
Xem video, DVD
2.46
1.70
2.04
1.809
1.778
1.832
Đọc sách
2.12
1.59
1.82
1.854
1.741
1.811
Đọc truyện
1.39
1.40
1.40
1.601
1.606
1.603
Sử dụng Internet
1.21
.94
1.06
1.670
1.600
1.637
(Không bao giờ = 0, Hiếm khi = 1, Một lần một tháng = 2, Vài lần một tháng = 3,
Vài lần một tuần = 4, Hằng ngày = 5)
Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.
Ngay cả trong hoạt động giải trí phụ nữ cũng ít thường xuyên hơn nam
giới. Có lẽ chính phụ nữ cũng cần phải xem lại bản thân mình trong tất cả các
hoạt động từ làm việc, quan hệ tại nơi làm việc, tại cộng đồng, tại nơi ở,...
108
Như trên đã phân tích những người lao động là phụ nữ có xu hướng đánh giá
về các vấn đề nêu trên ít tích cực hơn nam giới. Thêm một bằng chứng nữa
trong tất cả các hoạt động giải trí nêu trên phụ nữ vẫn ít thường xuyên tham
gia hơn so với nam giới. Dưới đây, chúng ta thử tìm hiểu và so sánh nhóm
nam, nữ chưa lập gia đình để xem xét kỹ hơn về nhận định trên.
Bảng 42: Mức độ thường xuyên trong các hoạt động giải trí của nhóm
chưa lập gia đình phân theo giới tính
Tỉ lệ trung bình
Độ lệch chuẩn
Nam
Nữ
Tổng số Nam
Nữ
Tổng số
Xem ti vi
4.00
3.47
3.70
1.424
1.691
1.601
Đọc báo, tạp chí
3.44
3.03
3.21
1.647
1.708
1.693
Nghe đài
2.87
2.28
2.54
2.026
2.046
2.057
Tập thể dục thể thao
2.67
1.11
1.79
2.092
1.820
2.091
Xem video, DVD
2.53
1.64
2.03
1.798
1.750
1.825
Đọc sách
2.37
1.77
2.03
1.841
1.800
1.841
Đọc truyện
1.65
1.64
1.65
1.674
1.676
1.674
Sử dụng Internet
1.56
1.24
1.38
1.726
1.740
1.740
(Không bao giờ=0, Hiếm khi=1, Một lần một tháng=2, Vài lần một tháng=3, Vài lần
một tuần=4, Hằng ngày=5)
Nguồn: Tác giả, kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân năm 2010
Ngay ở nhóm nam, nữ chưa lập gia đình, các cô gái chưa có gia đình vẫn
có khuynh hướng giải trí ít thường xuyên hơn so với nam. Ở tất cả các hình
thức giải trí, các cô gái chưa có gia đình đều có mức độ thường xuyên rất
thấp, thậm chí có tới 5 loại hình giải trí được các cô gái tham gia ở mức gần
như hiếm khi và dưới mức một lần một tháng. Đó là, tập thể dục thể thao,
xem video, đọc sách, đọc truyện và sử dụng Internet. Trong khi đó những
người nam giới chưa có gia đình chỉ có 2 hoạt động dưới mức một lần một
tháng là đọc truyện và sử dụng Internet.
109
Bảng 43: Số lần bình quân/người/lần đến các điểm văn hóa dưới đây
Tỉ lệ trung bình
Độ lệch chuẩn
Nam Nữ
Tổng số Nam
Nữ
Tổng số
3.71 18.270 18.004
18.119
Nhà thờ
3.92
3.54
Chùa
1.69
3.54
2.71
3.881
6.889
5.815
Khu vui chơi, giải trí
1.70
1.25
1.45
4.600
4.880
4.761
Các danh lam thắng cảnh
.64
.36
.49
1.668
.980
1.339
Nhà hát
.64
.33
.47
1.928
.962
1.482
Thư viện
.59
.29
.42
2.176
1.605
1.887
Sân vận động/Nhà thi đấu TT
.69
.12
.37
2.243
.647
1.599
Rạp chiếu phim
.47
.21
.33
2.122
.871
1.564
Cung văn hoá
.32
.31
.32
2.130
3.932
3.252
Nhà bảo tàng
.35
.15
.24
1.262
.672
.985
Các di tích lịch sử, văn hoá
.35
.13
.23
1.048
.548
.818
Đình
.33
.12
.21
1.371
.715
1.064
Câu lạc bộ
.31
.07
.18
1.476
.681
1.115
Đền
.14
.09
.11
.804
.963
.896
Nguồn: Tác giả, kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân năm 2010
Các điểm văn hoá được đến nhiều nhất lần lượt là: nhà thờ, chùa, khu vui
chơi giải trí, các danh lam thắng cảnh, nhà hát, thư viện, sân vận động/nhà thi
đấu thể thao, rạp chiếu phim, cung văn hóa, nhà bảo tàng, các di tích lịch sử,
đình, câu lâu bộ, đền. Số lần trung bình/người/năm đến nhà thờ là 3,71. Số lần
bình quân/người/năm đến chùa là 2,71. Số lần trung bình/người/năm đến các
khu vui chơi giải trí là 1,45. Đó là 3 điểm mà người ta đi nhiều nhất, tất cả các
điểm còn lại số lần đến rất thấp. Số lần đến các điểm văn hóa của nam giới
đều cao hơn nữ, chỉ riêng đi chùa thì nữ đi nhiều hơn nam.
Nam có số lần đến các điểm văn hóa là 12,14, còn nữ có số lần đến là
10,5 lần ít hơn nam 1,46 lần đi. Xem xét theo nơi xuất phát của người lao
động có thể thấy những người tại chỗ có số lần đến các điểm văn hóa cao nhất
110
với số lần trung bình là 15,12 lần đi. Những người lao động đến từ Tây
Nguyên đứng ở vị trí thứ hai với số lần đi trung bình là 13,19. Bốn nơi có số
lần đi đến các điểm văn hóa thấp hơn cả lần lượt là Tây Bắc, đồng bằng sông
Cửu Long, duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Bắc và Trung du đồng bằng Bắc
Bộ với các lần đi trung bình lần lượt là 6,75, 8,07, 8,48, 8,85, 9,42.
Diện mạo tiêu dùng văn hóa của nhóm cư dân địa phương lại có những
điểm khác so với các nhóm cư dân là công nhân KCN, bởi họ có một nền tảng
kinh tế xã hội khác, khi mà đa phần dân số đều có các trang thiết bị cho các
sinh hoạt văn hóa như vô tuyến, đài, internet, điện thoại, có những phương
tiện vận chuyển để không những phục vụ sinh hoạt cho đời sống hàng ngày
mà còn là dịp để tăng cường trao đổi giao lưu, học hỏi. Ở ba xã, các số liệu
thống kê đều cho thấy rõ điều này.
Bảng 44: Các trang thiết bị chủ yếu trong các gia đình cư dân tại chỗ xã Long Thọ
Đơn vị: cái
STT
Trang thiết bị
2010
2000
2005
Ô tô
1
15
7
Xe máy
2
2822
1220
2022
Điện thoại
3
636
50
359
Tủ lạnh
4
615
10
434
Đầu Video
5
920
36
420
TV màu
6
2509
850
1533
Dàn nghe nhạc các loại
7
302
-
-
Máy vi tính
8
380
-
116
Máy điều hòa nhiệt độ
9
120
-
20
Máy giặt
10
536
46
120
-
-
Internet
11
110
Nguồn: UBND xã Long Thọ, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa năm
2010
111
Bảng 45: Các trang thiết bị chủ yếu trong các gia đình cư dân tại chỗ xã Hiệp Phước
Đơn vị: cái
STT
Trang thiết bị
2005
2000
2010
Ô tô
1
356
112
16
Xe máy
2
10427
8618
6089
Điện thoại
3
9678
5180
3676
Tủ lạnh
4
4970
2810
1178
Đầu Video
5
5160
3102
618
TV màu
6
5160
3102
763
Dàn nghe nhạc các loại
7
3087
1189
698
Máy vi tính
8
2779
1018
312
Máy điều hòa nhiệt độ
9
1027
815
538
10
Máy giặt
1320
797
513
11
Internet
2371
996
618
Nguồn: UBND xã Hiệp Phước, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa năm 2010
Bảng 46: Các trang thiết bị chủ yếu trong các gia đình cư dân tại chỗ xã Thạnh Phú
Đơn vị: cái
STT
Trang thiết bị
2010
2005
2000
Ô tô
1
25
10
-
Xe máy
2
7052
4172
1543
Điện thoại
3
6170
960
450
Tủ lạnh
4
-
-
-
Đầu Video
5
-
-
-
TV màu
6
-
-
-
7
-
-
-
Dàn nghe nhạc các loại
8
-
-
-
Máy vi tính
9
-
-
-
Máy điều hòa nhiệt độ
-
-
-
10
Máy giặt
--
-
-
11
Internet
Nguồn: UBND xã Thạnh Phú, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa năm 2010
112
Đây là cơ sở nền tảng để người dân tại chỗ có một mức hưởng thụ văn
hóa nhiều hơn các cư dân nhập cư là công nhân KCN, ở đó, họ đều có đi công
viên, nhà văn hóa, phòng đọc sách, bưu điện văn hóa xã (đọc sách các loại và
các tài liệu về về pháp lý), trung tâm giáo dục thường xuyên, tham dự các
hoạt động tại trường học, với nhiều hoạt động văn hóa-xã hội phong phú.
Đến các điểm xem ca nhạc, sân khấu ở rạp hát là hoạt động giải trí ít
được xem nhất, do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là nguồn cung cấp
hạn chế và khả năng chi trả của dân cư thấp.
Bảng 47: Khu sinh hoạt văn hóa, giáo dục, thông tin
Số lượng
Phần trăm
Thiết chế
Công viên
116
11.5
Rạp hát
25
2.4
Nhà văn hóa
485
48
Phòng đọc sách
143
14.1
Bưu điện văn hóa xã
580
57
Trường học
833
83
Trung tâm giáo dục thường xuyên
127
12.6
Không tham dự
34
3.3
Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.
Trong khi đó, xem phim trên truyền hình lại là một hình thức sinh hoạt
văn hóa được ưa thích nhất. Khảo sát 3 cộng đồng cho thấy 98,3% số hộ
được hỏi đều xác nhận có xem các phim trên ti vi, trong đó, phim sau chương
trình thời sự trên VTV là được ưa thích nhất, 79,9% xác nhận thích xem phim
Việt Nam, phần lớn giới trẻ thích phim Hàn Quốc (81,9%), phim phương
Tây, chủ yếu là phim Mỹ, chiếm 61,3% số người được hỏi. Các kênh phim
thường được xem là trên VTV, VTC, các phim phát trên đài Đồng Nai, Bình
Dương ít được xem hơn.
113
Bảng 48: Tham gia hoạt động văn hóa không
Số lượng
Phần trăm
Xem phim
41
415
Sinh hoạt tại nhà văn hóa
9.2
93
Các điểm giải trí
6.5
66
Đến phòng đọc
5.8
59
Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.
Các hoạt động thể thao ít được tham gia bởi những hạn chế bởi sân bãi
và thói quen tập thể dục thể thao vẫn chưa thịnh hành. Nhóm có thói quen
thực hành các hoạt động thể dục chủ yếu là nhóm công chức xã, huyện, tỉnh.
Với nhóm dân thường, chủ yếu là những người trung tuổi, từ trên 55 với nữ
và trên 60 với nam, số người trên 75 tham gia thể dục là rất ít.
Bảng 49: Tham gia các hoạt động thể thao
Số lượng
Phần trăm
143
14.1
Bóng đá
9.1
92
Bóng chuyền
1.7
17
Bóng bàn
9
90
Cầu lông
0.3
3
Võ thuật
9.1
92
Khác
57.3
574
Không trả lời
Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.
Với loại hình du lịch, chỉ có khoảng 1/3 số người được hỏi xác nhận có
đi tham quan các di tích lịch sử, các lễ hội truyền thống, danh lam thắng cảnh
và ra nước ngoài, trong đó loại hình du lịch tôn giáo tín ngưỡng, danh lam
thắng cảnh trong nước là cao nhất, đi du lịch nước ngoài là ít nhất. Điều này
phản ánh đúng thực trạng về mức sống và sự phân hóa mức sống trong dân cư.
114
Tiểu kết
Các biến đổi trong đời sống văn hóa của các cộng đồng dân cư KCN, ba
xã được khảo sát sâu đã phản ánh những động thái phát triển của tỉnh và vùng
Đông Nam Bộ từ thập niên 90 cho đến nay, đó là sự phát triển các KCN như
một yếu tố động lực phát triển vùng và mỗi cộng đồng dân cư. Đi kèm với
tiến trình này là làn sóng di dân và sự biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội của chính
bản thân mỗi cộng đồng theo hướng ĐTH, HĐH, với các chỉ báo thay đổi về
cơ cấu kinh tế; cơ cấu dân số; kết cấu cơ sở hạ tầng làm thay đổi kết cấu
không gian làng quê cổ truyền; gia tăng mức thu nhập từ công nghiệp - dịch
vụ, thay vì chủ yếu từ nông nghiệp như trước những năm 2000; hiện đại hóa
nhà ở và trang thiết bị, tiện nghi sinh hoạt; di động xã hội lớn hơn bởi quá
trình chuyển dịch nghề nghiệp diễn ra nhanh và mạnh hơn trước. Các quá
trình này đặt một nền tảng mới của những biến đổi văn hóa tinh thần của cư
dân các xã bị lấy đất xây dựng KCN.
Quá trình này đã làm biến đổi sâu sắc đời sống văn hóa tinh thần khiến
cho 3 cộng đồng không còn là các cộng đồng nông thôn – nông dân thuần túy
như trước đó nữa. Về cơ bản, đó là sự đan xen giữa các hình thái văn hóa cũ
và mới, truyền thống và hiện đại, trong nước và quốc tế. Ở đây chưa phát triển
thành các cộng đồng đô thị - công nghiệp, nhưng phân hóa một cách rõ nét,
với các bộ phận cư dân tại chỗ và dân nhập cư. Văn hóa truyền thống đã và
đang là nội dung văn hóa chủ yếu song trong từng hình thái văn hóa, đã có
những biến đổi cho phù hợp với cuộc sống hiện tại, nhiều yếu tố mới đã nảy
sinh và trở thành một bộ phận tất yếu của người dân. Quá trình này chủ yếu là
do các yếu tố chuyển đổi cơ cấu lao động – nghề nghiệp, sự xuất cư và nhập
cư gia tăng, sự cải thiện về mức sống và điều kiện sinh hoạt… tác động lên cơ
cấu văn hóa của 3 làng nói riêng, các cộng đồng có KCN nói chung.
115
Sự biến đổi văn hóa, ở các cộng đồng có KCN, trong hơn 20 năm qua,
với ba bình diện: cộng đồng, gia đình và cá nhân. Các loại hình sinh hoạt văn
hóa truyền thống/dân gian đã và đang được bảo lưu trong đời sống cộng đồng.
Đó là một tiến trình bảo lưu mang tính tự nhiên, được các tổ chức trong cộng
đồng và nhóm người cao tuổi bảo lưu và gìn giữ. Khi xuất hiện những thành
phần cư dân mới, sự biến đổi của các hoạt động văn hóa là có, thể hiện sự
cộng cư bởi các quan hệ kinh tế - xã hội và nhờ đó, các hoạt động văn hóa
tinh thần được ảnh hưởng qua lại, song đó mới chỉ là tác động vào vỏ bề
ngoài (giản tiện, gộp các hoạt động), hạt nhân là các nghi lễ, về cơ bản, vẫn
được lưu giữ, với ý nghĩa tinh thần là cố kết cộng đồng, thể hiện sức mạnh và
bản sắc (trong các sinh hoạt văn hóa cộng đồng); bảo lưu giá trị gia đình và
dòng họ, biết ơn tổ tiên, sự kính trọng người cao tuổi (trong các sinh hoạt văn
hóa ở gia đình); xuất hiện các động thái tiêu dùng văn hóa mới (ở bình diện cá
nhân).
Tiến trình tiêu dùng văn hóa của cư dân, với những xu hướng và động
thái phát triển khá đa dạng và phức tạp, thể hiện những động thái đương đại
của sự phát triển: hạn chế sinh hoạt văn hóa tại thiết chế văn hóa; tập trung
chủ yếu tại nhà, qua vô tuyến là chủ yếu; loại hình văn hóa đại chúng/bình
dân là chính; văn hóa trong nước được ưa thích. Các động thái này thể hiện
một mức sống tuy đã có cải thiện, song chưa phải là phát triển ở một tầm mức
cao để chuyển sang các khuôn mẫu văn hóa đô thị - công nghiệp.
116
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA CHO CÁC CỘNG ĐỒNG NÔNG THÔN TRONG CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP
3.1. Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời sống văn
hóa cho các cộng đòng nông thôn trong các KCN
Sau hơn 20 năm thực hiện đường đối đổi mới, nông nghiệp, nông dân,
nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp
tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao
năng suất, chất lượng và hiệu quả; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế
cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng
công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi
mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng
nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các
vùng nông thôn ngày càng được cải thiện.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi
thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền
vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa
phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa
học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ
biến vẫn là sản xuất nhỏ phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều
mặt hàng thấp. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực
thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh
thần của người dân nông thôn còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng
117
bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và
thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.
Quá trình phát triển các KCN trên địa bàn nông thôn vẫn được coi là giải
pháp để CNH, HĐH nông nghiệp - nông thôn trên phương hướng tăng cường
nào? Tiếp tục phát triển các KCN với những tồn tại không cần khắc phục hay
phải nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư các KCN, chú trọng gắn kết phát
triển bên trong KCN với các địa bàn nông thôn – nông dân? Trong bối cảnh
đó, việc xây dựng và phát triển đời sống văn hóa tinh thần cho cư dân các
cộng đồng nông thôn KCN sẽ có một ý nghĩa quan trọng.
Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển các
KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 [106], trong đó
xác định: Mục tiêu phát triển các KCN tại Việt Nam đến năm 2015 và định
hướng đến năm 2020 là hình thành hệ thống các KCN chủ đạo có vai trò dẫn
dắt sự phát triển công nghiệp quốc gia, đồng thời hình thành các KCN có quy
mô hợp lý để tạo điều kiện phát triển công nghiệp, nhằm chuyển dịch cơ cấu
kinh tế tại những địa phương có tỷ trọng công nghiệp trong GDP thấp. Đưa tỷ
lệ đóng góp của các KCN vào tổng giá trị sản xuất công nghiệp từ trên 24%
hiện nay lên khoảng 39 - 40% vào năm 2010 và tới trên 60% vào giai đoạn
tiếp theo. Tăng tỷ lệ xuất khẩu hàng công nghiệp của các KCN từ 19,2% giá
trị xuất khẩu toàn quốc hiện nay lên khoảng 40% vào năm 2010 và cao hơn
vào các giai đoạn tiếp theo.
Năm 2008, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) đã
ban hành Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn [27], với các tư
tưởng chỉ đạo cụ thể sau:
- Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để
phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an
118
ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi
trường sinh thái của đất nước.
- Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết
đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình CNH,
HĐH đất nước. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và
nông thôn; thì nông dân là chủ thể của quá trình xây dựng, phát triển nông
thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị
theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, HĐH nông nghiệp là then chốt.
- Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai,
rừng và biển; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc
tế cho phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy
cao nội lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng
nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông
thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân.
- Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả
hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu nước,
tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn
định, hoà thuận, dân chủ, có đời sống văn hoá phong phú, đậm đà bản sắc dân
tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới,
nâng cao đời sống nông dân.
Nghị quyết đã đề ra mục tiêu tổng quát phát triển nông nghiệp, nông dân
và nông thôn là: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân
cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các
119
vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang
bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai
trò làm chủ nông thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện
theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất
lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh
lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức
sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ,
đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân
tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ.
Nghị quyết cũng đã xác định các chỉ tiêu đến năm 2020 liên quan trực
tiếp đến văn hóa:
- Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt 3,5 - 4%/năm; sử dựng đất
nông nghiệp tiết kiệm và hiệu quả; duy trì diện tích đất lúa đảm bảo vững
chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài. Phát triển nông nghiệp
kết hợp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải
quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp trên 2,5
lần so với hiện nay.
- Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỉ lệ lao động
nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới
khoảng 50%.
- Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, nhằm
đảm bảo cơ bản điều kiện học tập chữa bệnh, sinh hoạt văn hoá, thể dục thể
thao ở hầu hết các vùng nông thôn tiến gần tới mức các đô thị trung bình.
- Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có
hiệu quả, bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo; nâng cao trình độ giác
120
ngộ và vị thế chính trị của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham
gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
Một văn bản rất quan trọng nữa có liên quan tới chủ đề của luận án, đó là
Quyết định số 491/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ [107], ban hành "Bộ
tiêu chí quốc gia về nông thôn" mới bao gồm 19 tiêu chí và được chia thành 5
nhóm cụ thể: nhóm tiêu chí về quy hoạch, về hạ tầng kinh tế - xã hội, về kinh
tế và tổ chức sản xuất, về văn hóa - xã hội - môi trường và về hệ thống chính
trị. Các tiêu chí này là cơ sở để đánh giá mức độ phát triển của các cộng đồng
nông thôn trên con đường CNH, HĐH.
Ở bình diện lãnh đạo cấp tỉnh, Nghị quyết Đại hội đảng bộ lần thứ IX
tỉnh Đồng Nai năm 2010 đã xác định các nhiệm vụ và giải pháp lớn liên quan
tới phát triển văn hóa, cụ thể là:
Tiếp tục giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc ở địa phương.
Nâng cao mức hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của nhân dân. Triển khai đồng
bộ và hiệu quả đề án phát triển văn hóa nông thôn đến năm 2015, định hướng
đến năm 2020 theo Quyết định số 22/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
[108]. Tập trung mở rộng và phát triển nhanh mạng lưới y tế, nâng cao chất
lượng khám chữa bệnh, chất lượng các dịch vụ y tế và bảo vệ sức khỏe cộng
đồng. Tiếp tục tạo chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực việc làm, đào tạo
nghề, nâng cao thu nhập người lao động và bảo đảm an sinh xã hội, giảm
nghèo bền vững.
Phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, xây
dựng gia đình văn hoá điển hình, mẫu mực ở nông thôn. Đẩy mạnh phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu, thực
chất và hiệu quả. Tiếp tục đầu tư xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên, di
tích, các công trình văn hóa lịch sử và thiết chế văn hóa, thể thao ngang tầm
với mục tiêu phát triển bền vững. Tăng đầu tư nhà nước, đồng thời đẩy mạnh
121
xã hội hoá để phát triển các hoạt động văn hoá. Củng cố và nâng cao chất
lượng hoạt động phát thanh, truyền hình, báo chí, xuất bản nhằm nâng cao
chất lượng thông tin truyền hình. Phát triển rộng, mạnh phong trào “Toàn dân
rèn luyện sức khoẻ theo gương Bác Hồ vĩ đại” và đẩy mạnh xã hội hoá hoạt
động thể dục thể thao.
Gắn phát triển văn hóa nông thôn với phát triển nông nghiệp, xây dựng
nông thôn mới theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và phong
trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.
Phát triển văn hóa nông thôn theo phương châm phát huy vai trò chủ
động của cộng đồng dân cư địa phương là chính. Nhà nước đóng vai trò
hướng dẫn và hỗ trợ; đồng thời có cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư, thu
hút các nguồn lực xã hội, huy động đóng góp của nhân dân để phát triển văn
hóa. Nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật và các quy định về văn
hóa của người dân ở nông thôn; xây dựng, củng cố và phát triển hệ thống thiết
chế văn hóa, thể thao cơ sở, tạo điều kiện để người dân ở nông thôn nâng cao
mức hưởng thụ, tham gia hoạt động và sáng tạo văn hóa; nâng cao chất lượng
phong trào xây dựng gia đình văn hóa, ấp văn hóa, thực hiện các tiêu chí phát
triển văn hóa nông thôn mới cấp xã, tạo nền tảng vững chắc để phát triển văn
hóa nông thôn mới trên địa bàn xã; xây dựng con người, gia đình, cộng đồng
nông thôn và môi trường văn hóa nông thôn lành mạnh, phong phú, giàu bản
sắc văn hóa dân tộc, tạo động lực thúc đẩy phát triển nông nghiệp và xã hội
nông thôn mới.
Các chỉ tiêu cụ thể đến năm 2015 đối với các xã đồng bằng:
- 70% người dân ở nông thôn tham gia thường xuyên vào các hoạt động
văn hóa, thể thao, trong đó hơn 30% dân số nông thôn luyện tập thể dục, thể
thao thường xuyên;
122
- 100% xã có Trung tâm Văn hóa, thể thao, trong đó Trung tâm Văn hóa,
thể thao đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là
80%;
- 98% "Gia đình đạt chuẩn văn hóa; trong đó, trên 70% gia đình giữ
vững và phát huy danh hiệu "Gia đình đạt chuẩn văn hóa” và trên 20% gia
đình văn hóa ở nông thôn làm giàu từ sản xuất nông nghiệp hàng hóa;
- 90% "Ấp đạt chuẩn văn hóa; trong đó, trên 70% ấp giữ vững và phát
huy danh hiệu "Ấp đạt chuẩn văn hóa và trên 50% ấp văn hóa đạt chuẩn cơ sở
vật chất, hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn mới;
- 90% nông dân được phổ biến pháp luật và các quy định về văn hóa;
- 100% cán bộ văn hóa, thể thao ở nông thôn được đào tạo, bồi dưỡng,
tập huấn về nghiệp vụ.
Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết trên, tỉnh Đồng Nai đã ban hành Đề án:
Phát triển văn hóa nông thôn tỉnh Đồng Nai đến năm 2015, định hướng đến
năm 2020, trong đó nhấn mạnh: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí
chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở
và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn
định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.
Các văn bản có tính chất định hướng trên cho thấy cần phải xây dựng các
quan điểm chỉ đạo cơ bản sau, gắn các quá trình định hướng sự biến đổi của
các cộng đồng nông nghiệp, nông dân và nông thôn khi bị các KCN tác động,
đó là:
- Gắn phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, coi đây vừa là
nền tảng, vừa là một bộ phận không thể tách rời của tiến trình phát triển văn
hóa mỗi cộng đồng. Không có phát triển kinh tế xã hội, không có quá trình gia
123
tăng mức sống, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động – việc làm, không thể có
cơ sở và nền tảng để phát triển văn hóa trong giai đoạn hiện nay.
- Các KCN là động lực, là “đầu tàu” để cho các tiến trình ở trên phát
triển. Như một thực thể “lai ghép”, “cấy” vào trong các cộng đồng nông thôn,
nó cần phải có thời gian và những định hướng chính sách để cùng với cộng
đồng nông thôn phát triển một cách hài hòa, bảo đảm các lợi ích của doanh
nghiệp cũng như lợi ích của cộng đồng địa phương. Cần phải coi các doanh
nghiệp và văn hóa doanh nghiệp của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn là
một bộ phận không thể tách rời của cơ cấu văn hóa nông thôn mới. Nó có thể
là một bộ phận chưa ăn nhập lắm vào đời sống văn hóa nông thôn trong thời
gian đầu, song về lâu dài, cùng với “mạch” nối là các công nhân KCN, doanh
nghiệp và văn hóa doanh nghiệp phải trở thành một bộ phận trong cơ cấu văn
hóa cộng đồng.
- Vai trò của chủ thể văn hóa, của các tổ chức văn hóa và thiết chế văn
hóa truyền thống, của cá nhân mỗi người dân là rất quan trọng trong tiến trình
xây dựng cơ cấu văn hóa mới cũng như tổ chức xây dựng đời sống văn hóa
nông thôn. Phát huy vai trò của cộng đồng cùng với sự định hướng và hỗ trợ
của Nhà nước là hai mặt của một tiến trình định hướng chính sách nhất quán
cho các cộng đồng nông thôn trong bối cảnh CNH, HĐH.
- Văn hóa doanh nghiệp và văn hóa cộng đồng nông thôn sẽ “hợp tác”
như thế nào, đó là một câu hỏi cần có sự nghiên cứu và xây dựng các mô hình
hợp tác. Thông qua doanh nghiệp và văn hóa doanh nghiệp, các cộng đồng
nông thôn – nông dân tiếp thu được các khía cạnh văn minh của đời sống văn
hóa, các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các cách tổ chức đời sống văn hóa kiểu
mới; trong khi đó, các cộng đồng nông thôn vừa là cái nôi chung của toàn bộ
tổng thể văn hóa cộng đồng, vừa là nơi bảo tồn vốn văn hóa truyền thống, nơi
trao truyền các khuôn mẫu văn hóa trong sinh hoạt cho người dân, một không
124
gian văn hóa cần có cho tất cả mọi người. Trên tinh thần đó, cần có các mô
hình tổ chức đời sống văn hóa khác nhau, đáp ứng nhu cầu chung của nhiều
nhóm xã hội trong cộng đồng nông thôn đang biến đổi.
3.2. Xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách ở tầm vĩ mô
Một hệ thống cơ chế chính sách ở tầm vĩ mô, vượt ra khỏi khuôn khổ
của một tỉnh, sẽ là một khung chính sách chung cho việc phát triển văn hóa
cho các cộng đồng dân cư có KCN. Đây là một hệ thống chính sách phản ánh
các nỗ lực gắn KCN với cộng đồng dân cư tại chỗ, gắn hoạt động nhà nước
với hoạt động của người dân, gắn phát triển kinh tế - xã hội với phát triển đời
sống tinh thần.
* Nhóm các chính sách
Quy hoạch KCN và doanh nghiệp: Quy hoạch là sự thể hiện tầm nhìn và
kế hoạch dự liệu đi trước cho mỗi hoạt động trong KCN. Liên quan tới đời
sống văn hoá, các quy hoạch sau đây sẽ rất cần thiết cho việc phát triển một
đời sống văn hoá tại KCN và cộng đồng dân cư, đó là:
Quy hoạch về hệ thống cơ sở hạ tầng dành cho văn hoá - nghệ thuật,
trong đó trước hết là quy hoạch về các quảng trường nhỏ, công viên nhỏ, các
giao lộ phục vụ các sinh hoạt động văn hoá công cộng, các lễ hội, …
Quy hoạch về hệ thống các thiết chế văn hoá công cộng như nhà văn hoá
(câu lạc bộ), các khu vui chơi giải trí tổng hợp hay chuyên dụng;
Quy hoạch về các không gian công cộng trong các khu vực ở, trong mỗi
công sở nhằm phát triển các không gian xanh, các không gian chuyển tiếp
giữa nơi ở với các hệ thống giao thông, bảo đảm mối quan hệ giữa con người
và thiên nhiên nơi sinh sống, các khu vực nghỉ ngơi, giải trí nhỏ cho mỗi khu
nhà, tạo ra một môi trường làm việc “thân thiện” với môi trường tự nhiên.
Luật pháp: Các điều luật liên quan đến hệ thống giao thông, bảo đảm
các dòng lưu thông trong nội bộ đô thị và với các vùng xung quanh, giảm các
125
ách tắc giao thông, phản ánh tính chất văn minh của đô thị hiện đại và khả
năng quản lý các dòng di chuyển không ngừng nghỉ vốn là một đặc trưng của
xã hội đô thị. Các điều luật quy định các sinh hoạt nơi công cộng, bảo đảm vệ
sinh, trật tự, để các cá nhân, nhóm xã hội có thể thể hiện tiếng nói nhưng
không phá vỡ những quy định chung của đời sống công cộng;
Bổ sung và phát triển các điều luật và quy định trong thiết kế, xây dựng
các thiết chế cơ sở văn hoá trong KCN, các khu vực vui chơi giải trí, có tính
đến các nhu cầu sinh hoạt của người tàn tật là công nhân KCN (chỗ ngồi,
đường di chuyển, hệ thống vệ sinh…)
Xây dựng chính sách về đất đai cho các tụ điểm văn hoá công cộng như
dành quỹ đất cho các khu vực công cộng tại KCN và mỗi doanh nghiệp; quỹ
đất xây dựng các thiết chế văn hoá công cộng tại khu dân cư như nhà văn hoá
(câu lạc bộ), các khu vui chơi giải trí tổng hợp hay chuyên dụng; quỹ đất cho
việc xây dựng các không gian công cộng trong các khu vực ở, trong mỗi công
sở, nhà xưởng, ấp;
* Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách kinh tế - tài chính
Bao gồm các chính sách như: Chính sách về giảm thuế cho các doanh
nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội đối với công nhân, bao gồm các phúc
lợi xã hội và chăm lo đời sống văn hoá tinh thần cho công nhân, xây dựng các
thiết chế văn hoá, có các hoạt động cộng đồng; Chính sách về thuế đất cho
các cơ sở văn hoá trên cơ sở phân loại các loại hình văn hoá để có chính sách
ưu tiên cho các cơ sở văn hoá công ích, thuế kinh doanh cho các doanh
nghiệp văn hoá có chương trình phục vụ công nhân KCN. Cũng cần xây dựng
chính sách về giảm thuế, không đánh thuế cho các hình thức dịch vụ như tổ
chức cưới, du lịch, các lễ hội, các hoạt động văn hoá văn nghệ khác phục vụ
công nhân. Các chính sách thu hút đầu tư của khu vực tư nhân vào hạ tầng xã
hội phục vụ các KCN, bên cạnh các chính sách về đầu tư xây dựng nhà ở đã
126
ban hành, đó là các chính sách về xây dựng các khu vui chơi giải trí đa chức
năng, các công viên xanh, hồ bơi, sân thể thao…, thực hiện chính sách “xã hội
hoá” VHTT của Đảng và Nhà nước.
Sử dụng có hiệu quả và phát triển thiết chế văn hoá: Xây dựng các kế
hoạch hàng năm và dài hơn cho hệ thống các thiết chế VHTT trên địa bàn tỉnh
phục vụ công nhân KCN nhằm sử dụng sức mạnh tổng hợp của cả ngành, gắn
kết các hoạt động VHTT phục vụ công nhân, tăng mức hưởng thụ văn hoá của
công nhân. Đặc biệt chú ý sử dụng hệ thống trung tâm văn hoá huyện/thị và
xã phường vì đó là nơi nắm bắt rõ các nhu cầu của công nhân trên từng địa
bàn.
Nâng cao năng lực của các trung tâm VHTT xã/phường có nhiều công
nhân KCN sinh sống bằng việc đầu tư trang thiết bị, chương trình, hướng dẫn
nghiệp vụ, đào tạo để họ có thể tự tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ
phục vụ công nhân, huy động dân cư tại chỗ và cư dân là công nhân tham gia
các hoạt động này.
Phát triển các tổ hợp văn hoá đa năng phục vụ nhiều loại hình văn hoá,
các dịch vụ thương mại, hội nghị, vui chơi giải trí hiện đại…;
Phát triển một số thiết chế văn hoá có tính đặc thù phục vụ một số nhu
cầu và sở thích của những nhóm đặc thù như các nhóm thanh thiếu niên ưa
thích các trò chơi mạo hiểm, tốc độ, các trung tâm giải trí công nghệ cao, các
khu du lịch văn hoá phục vụ cho các nhóm sở thích có tiền, các trung tâm sinh
hoạt văn hoá cho người già, cho giới nữ…;
Phát triển một số trung tâm văn hoá phục vụ các nhóm thiệt thòi, những
người khuyết tật, trẻ em cơ nhỡ, trẻ em nghèo vốn là các nhóm sẽ có tỷ lệ gia
tăng cao trong đời sống đô thị và khả năng hoà nhập xã hội bị hạn chế.
127
Phát triển các trung tâm vui chơi giải trí công nghệ cao, các khu văn hoá
thể thao phục vụ tầng lớp thanh niên, đáp ứng nhu cầu tìm tòi, giải trí, tính
năng động của tuổi trẻ.
* Nhóm giải pháp tăng cường sự tham gia
Phát huy vai trò của các tổ chức cấp cơ sở, các tổ chức tự quản tại khu
dân cư như đoàn thanh niên, các hội phụ nữ, mặt trận, cựu chiến binh, các tổ
dân phố trong các việc tổ chức các hoạt động văn hoá hàng ngày, các phong
trào, đợt sinh hoạt văn hoá do trên đưa xuống;
Duy trì an ninh trật tự, vệ sinh nơi ở, nếp sống văn minh bởi các tổ chức
tự quản, các tổ, đội của các đoàn thể cấp cơ sở tại các khu dân cư là công nhân.
Huy động sự tham gia tài trợ của các Mạnh thường quân, các nhân vật xã
hội nổi tiếng vào các hoạt động văn hoá nghệ thuật ở đô thị thông qua các
hình thức hội chợ, hội diễn, các phiên bán đấu giá các tác phẩm văn học nghệ
thuật, trên các “shows” diễn nhằm huy động các nhà hảo tâm, những người
yêu thích văn hoá nghệ thuật;
Huy động sự tham gia của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
các tổ chức văn hoá quốc tế và các quỹ, tổ chức văn hoá ở nước ngoài tham
gia vào việc tổ chức các hoạt động văn hoá ở KCN nhằm huy động không
những nguồn vốn mà quan trọng hơn là học tập các cách tiếp cận mới, những
phương pháp, kỹ năng tổ chức và xây dựng các hoạt động văn hoá cho mỗi tổ
chức văn hoá, nghệ thuật vốn đang là một điểm yếu của các tổ chức văn hoá
nghệ thuật của chúng ta trong môi trường công nghiệp - đô thị;
Xây dựng một mạng liên kết các nhà tài trợ, các Mạnh thường quân cho
văn hoá nghệ thuật nhằm liên kết các nhu cầu, các lợi ích, các phương pháp
làm việc, các kế hoạch tổ chức các hoạt động văn hoá nghệ thuật vốn vừa
thừa, vừa thiếu các hoạt động văn hoá nghệ thuật.
3.3. Xây dựng các mô hình phát triển văn hóa
128
Thuật ngữ mô hình ở đây không có nghĩa là gắn với các “nhà” (các thiết
chế văn hoá như trung tâm văn hoá, điểm sinh hoạt văn hoá …) mà là một
khung tổ chức các hoạt động phục vụ công nhân các KCN được vận hành trên
một số nguyên tắc, mục tiêu được xác định trong khoảng thời gian xác định,
trong những không gian nhất định, nhằm cung cấp những ý tưởng mới về tổ
chức đời sống văn hoá cho các cộng đồng nông thôn có KCN, các cơ chế vận
hành, các hoạt động, các trách nhiệm cho từng cá nhân và tổ chức, các đánh
giá kèm theo.
Đặc điểm chung của mô hình ở đây là tính động của nó. Hai điểm triển
khai là mô hình tại doanh nghiệp và mô hình tại khu dân cư chỉ là các mô
hình thực tế của mô hình lý thuyết này, có gắn với những địa chỉ cụ thể,
chúng được thể hiện rõ trong một kịch bản thể hiện các loại hình hoạt động,
cách tổ chức, thời gian, địa điểm, các tổ chức và cá nhân chịu trách nhiệm sau
khi có những thảo luận giữa chương trình khảo sát với các cơ sở, các cơ quan
chuyên môn.
Mô hình này lấy định nghĩa văn hoá theo nghĩa rộng, nghĩa là nó không
chỉ khuôn hẹp trong các hoạt động văn nghệ mà còn là các hoạt động thể dục
thể thao, các hoạt động phúc lợi xã hội, từ thiện, các hoạt động vệ sinh môi
trường…, các hoạt động học tập nâng cao kiến thức và kỹ năng sống và kỹ
năng nghề nghiệp, tổ chức các các khu phố, dãy nhà trọ văn minh... Khuôn
khổ này mới có thể cho phép bao phủ các khía cạnh của đời sống văn hoá của
một doanh nghiệp, một địa bàn dân cư có công nhân KCN sinh sống.
Mục tiêu của các mô hình tổ chức đời sống văn hóa cho các cộng đồng
dân cư có KCN là: Cung cấp một phương thức tổ chức đời sống văn hoá cho
các cộng đồng dân cư có KCN theo nguyên tắc phát triển bền vững, tăng
cường sự tham gia từ dưới lên, đáp ứng nhu cầu của công nhân KCN và
người dân tại chỗ, đa dạng các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục thể
129
thao, du lịch, từ đây xây dựng năng lực quản lý cho các doanh nghiệp và các
thiết chế, điểm văn hoá trên địa bàn dân cư để họ có thể tự tổ chức đời sống
văn hoá.
Các mô hình này được vận hành trên nguyên tắc: (1) Phát triển bền
vững: Các hoạt động trong giai đoạn triển khai thí điểm phải được duy trì bằng
những can thiệp nhằm duy trì khả năng tự quản lý của các điểm được can thiệp;
(2) Tăng cường sự tham gia từ dưới lên: sự tham gia của cộng đồng và doanh
nghiệp sẽ là yếu tố quyết định cho sự duy trì và phát triển của các mô hình, trên
tinh thần tự nguyện, tự tổ chức, tự quản lý; (3) Đáp ứng đúng nhu cầu: các hoạt
động được xây dựng trên cơ sở nhu cầu của công nhân, trên phương châm là
chọn lựa các ưu tiên và khả năng nguồn lực mà tổ chức các hoạt động vào những
thời điểm thích hợp; (4) Đa dạng hóa các loại hình hoạt động: nhằm bảo đảm
khả năng giao lưu giữa các điểm văn hoá, các doanh nghiệp trong và ngoài
KCN, giữa chúng với các hoạt động của các đơn vị thuộc ngành VHTT, các
ngành khác trong tỉnh đưa văn hoá đến cơ sở; (5) Xã hội hoá: Huy động các
nguồn lực tại chỗ, của các lực lượng xã hội, các cá nhân vào việc tổ chức các
hoạt động văn hoá phục vụ công nhân KCN, bao gồm tiền, công sức, các ý
tưởng, các sáng kiến, các hình thức đóng góp bằng vật chất và tinh thần khác; (6)
Có sự giám sát: nhằm bảo đảm các hoạt động được triển khai trên tinh thần minh
bạch, hiệu quả, thiết thực. Hình thức giám sát có thể là do cộng đồng tự tổ chức
hay do các tổ chức chính trị xã hội tiến hành. Các hoạt động giám sát là nhằm
thúc đẩy các hoạt động tại các điểm triển khai mô hình, chứ không phải là hoạt
động kiểm tra, kiểm soát.
Phương châm của các mô hình là tăng tính chất nghi lễ, trang trọng trong
các hoạt động của văn hoá tại doanh nghiệp, bảo tồn tốt các nghi lễ truyền thống;
tăng tính chất giải trí, nghệ thuật, tính dân gian trong các hoạt động văn hoá
tại cộng đồng thay vì các tính chất hành chính vốn ít thu hút người dân.
130
Để thực hiện tốt mục tiêu và phương châm trên, một loạt các hoạt động,
bao gồm các hoạt động tại chỗ và từ trên đưa xuống, các hoạt động thường
xuyên và các hoạt động theo dịp lễ tết, cần được tổ chức, cụ thể là:
- Các hoạt động giao lưu: Giao lưu giữa các doanh nghiệp có nhiều
công nhân nữ với doanh nghiệp có nhiều công nhân nam; giao lưu giữa doanh
nghiệp với địa bàn dân cư; giao lưu giữa công nhân nữ với bộ đội; các hình
thức giao lưu khác.
- Các hoạt động văn hóa văn nghệ: Hội diễn/hội thi nhân các dịp lễ kỷ
niệm; các câu lạc bộ hát dân ca, cùng nhau hát, nhảy; các hoạt động xây dựng
tủ sách, đọc sách báo/thi kể chuyện, hùng biện; các hoạt động giáo dục truyền
thống như xây dựng phòng trưng bày truyền thống doanh nghiệp, triển lãm; tổ
chức các Festival mang tính tổng hợp với nhiều hình thức văn nghệ, trò chơi,
thi nấu ăn, phụ nữ duyên dáng thanh lịch, thi bé khoẻ, bé ngoan cho con em
công nhân, thi đố vui; các hoạt động tổ chức các tour du lịch ngắn cho công
nhân vào những ngày cuối tuần; tổ chức các buổi chiếu phim có bình luận từ
phía người xem.
- Các hoạt động học tập, phổ biến kiến thức (có thể là các lớp học và
thông qua các hình thức sinh hoạt văn hóa văn nghệ khác để tăng sức thu hút):
Tổ chức các lớp về sức khỏe sinh sản, kế hoạch hoá gia đình; tổ chức các lớp,
các buổi nói chuyện về tình bạn - tình yêu, hôn nhân và gia đình; tổ chức các
hình thức tuyên truyền pháp luật, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp và Luật công
đoàn; tổ chức các hình thức phổ biến kỹ năng sống trong môi trường công
nghiệp - đô thị;
- Các hoạt động thể thao, trò chơi: Các trò chơi dân gian; các trò chơi của
các nước (chú trọng trò chơi của nước đầu tư); các trò chơi hiện đại; các
chương trình luyện tập bóng chuyền, bóng đá, cờ tướng, đá cầu, bóng bàn, thể
hình…; các chương trình thi đấu TDTT (tại chỗ và giao lưu);
131
- Các hoạt động an sinh xã hội, hoạt động cộng đồng: Các hoạt động xây
dựng nhà tình thương, ủng hộ người nghèo, vệ sinh đường phố…; tổ chức các lễ
cưới, ăn tết cho công nhân; tổ chức lễ cưới cho các cặp công nhân;
Tổ chức các hoạt động văn hoá cho công nhân không về quê ăn tết gắn
với cộng đồng dân cư.
Các mô hình này cần có một số điều kiện xây dựng mô hình: Có
sự đồng thuận của Chủ doanh nghiệp/công đoàn, đoàn thanh niên; của đảng
uỷ, chính quyền, các đoàn thể tại xã/phường, các tổ chức văn hóa truyền
thống vốn gắn chặt với đình, chùa, miếu…, tạo nên sức mạnh chung của cả
cộng đồng; các doanh nghiệp, điểm dân cư đã tổ chức một số hoạt động
VHTT phục vụ công nhân những còn có những điểm chưa được hoàn chỉnh.
Không cộng tác với những điểm quá hoàn chỉnh hoặc chưa có năng lực tổ
chức các hoạt động văn hoá phục vụ công nhân KCN; có sự hỗ trợ từ trên
xuống; tự tổ chức để bảo đảm nguyên tắc tham dự; có cơ sở vật chất như sân
bãi, hội trường, kinh phí.
Các hoạt động trên được tổ chức vào các thời điểm tổ chức:
- Tết dương lịch;
- Tết âm lịch;
- Valentine;
- Ngày 8/3 (hoặc ngày 20/10);
- Ngày lễ 30/4 và 1/5;
- Tết thiếu nhi 1/6;
- Rằm tháng Tám;
- Quốc khánh 2/9;
- Noel;
- Ngày thành lập công ty;
- Ngày Hội văn hóa thể thao;
132
- Cưới;
- Lễ hội cúng đình.
Các kịch bản cho hai mô hình: Các kịch bản này cho phép có được một
cấu trúc các hoạt động cần phải làm tại doanh nghiệp và địa bàn dân cư, với
hai loại hoạt động: hoạt động tại chỗ và các hoạt động can thiệp từ trên đưa
xuống. Các hoạt hoạt động này bổ sung cho nhau bởi cần có sự tổng hợp các
nguồn lực, các loại hình, các cách thức tổ chức hoạt động.
Tại doanh nghiệp:
Bảng 50: Tổ chức các hoạt động văn hoá trong các dịp lễ, các sự kiện
STT
Sự kiện
Hoạt động
1.
Tết dương
Tổ chức Festival tổng hợp hay theo một chủ đề
lịch
2.
Tết âm lịch
Tổ chức Festival tổng hợp hay theo một chủ đề
Tổ chức ăn tết cho công nhân không về quê ăn tết
3.
Valentine
Tổ chức hội trại thanh niên, có các hoạt động nói chuyện, vui
chơi, giao lưu
4.
Ngày lễ 30/4
Tổ chức hoạt động triển lãm về ngày 30/4 do công nhân sưu tầm
và 1/5
trên báo chí và trưng bày với sự hướng dẫn nghiệp vụ của Bảo
tàng tỉnh;
Trưng bày các cụm Panô tuyên truyền ngày truyền thống 30/4 và
1/5 kèm theo các hoạt động thông tin cổ động;
Tổ chức các tour du lịch ngắn ngày;
Mở hội thi nấu ăn
5.
Tết thiếu nhi
Thi bé khoẻ, bé ngoan cho con em công nhân (trong nhà máy)
1/6
6.
Rằm tháng
Tổ chức thi vẽ tranh, chơi trò chơi cho con em công nhân tại sân
Tám
chơi khu dân cư
7.
Quốc khánh
Nói chuyện truyền thống, giao lưu với các lão thành cách mạng
2/9
8.
Noel
Tổ chức hoạt động văn hoá cho nhóm công nhân theo đạo Thiên
133
chúa, Tin lành
9.
Ngày thành
Tổ chức hội trại của Cty: có hoạt động khen thưởng, biểu dương
lập công ty
thành tích, có hoạt động văn nghệ, có tổ chức các trò chơi
10. Ngày hội
Tập trung vào các hoạt động thể thao có thưởng
văn hóa thể
thao
11.
Tổ chức
Tổ chức một đám cưới cho một đôi công nhân cùng làm tại nhà
cưới
máy, có sự tham gia của công đoàn, đoàn thanh niên, theo nghi
thức đám cưới đời sống mới
12.
Tổ chức các
Tổ chức các tour du lịch dã ngoại có sự phối hợp giữa Công đoàn,
tour du lịch
các Cty du lịch
ngắn ngày
13.
Các hoạt
Tổ chức các chương trình từ thiện, các chương trình xã hội trong
động cộng
các cộng đồng dân cư có nhiều công nhân của nhà máy sinh sống
đồng
14.
Các hoạt
Giao lưu giữa các doanh nghiệp
động giao
Giao lưu giữa doanh nghiệp với các ban ngành đoàn thể, các địa
lưu
phương
Bảng 51: Tổ chức các hoạt động văn hoá thường xuyên
STT Sự kiện
Hoạt động
1.
Các hoạt động luyện
Tổ chức các hoạt động luyện tập bóng bàn
tập thể dục thể thao:
Tổ chức các hoạt động luyện tập cầu lông
gồm các hoạt động
Tổ chức các hoạt động luyện tập cờ tướng
chịu ít kinh phí đầu
Tổ chức các hoạt động luyện tập đá cầu
tư, không đòi hỏi
Tổ chức các đội/nhóm TDTT
đội/nhóm lớn; các
đội/nhóm có thể thi
đấu giao lưu, tranh
giải
134
2.
Tổ chức các hoạt
Thi đấu bóng đá
động thi đấu thể thao
Thi đấu bóng chuyền
giữa doanh nghiệp
Thi đấu cờ tướng
với nhau, giữa doanh
Các thi đấu TDTT khác
nghiệp với địa bàn
dân cư
3.
Các hoạt động đọc
Xây dựng thư viện/phòng đọc sách báo/góc đọc sách
sách báo
Duy trì các hoạt động cho muợn sách báo
Tổ chức các cuộc thi đọc sách, kể chuyện
Hoạt động trao đổi sách báo với hệ thống thư viện tỉnh
4.
Các hoạt động giải trí Xây dựng khu giải trí hiện đại (góc giải trí) tại điểm văn
hoá của doanh nghiệp trên phương tiện truyền thông mới
Tổ chức và duy trì các khu trò chơi (dân gian và hiện đại)
5.
Các hoạt động thông
Xây dựng (hoặc hoàn chỉnh) các cụm thông tin cổ động
tin cổ động
tuyên truyền trong địa bàn dân cư và tại các khu công
nhân sinh sống
Tổ chức các hoạt động tuyên truyền tại địa bàn dân cư và
tại các khu công nhân sinh sống
6.
Các hoạt động văn
Xây dựng các hạt nhân văn nghệ, các nhóm văn nghệ
Duy trì các hoạt động luyện tập, duy trì đội nhóm
nghệ
7.
Các hoạt động cộng
Thành lập và duy trì các loại quỹ tương trợ, tương thân
đồng
tương ái trong công nhân
Xây dựng các chương trình xã hội tại cộng đồng như nhà
tình thương, nhà tình nghĩa, xoá đói giảm nghèo…
Bảng 52: Tổ chức các hoạt động can thiệp từ trên xuống
STT
Sự kiện
Hoạt động
1.
Các hoạt động xây
Phổ biến quy chế xây dựng khu dân cư an toàn, đăng ký
dựng thể chế
thực hiện quy chế
Xây dựng các quy chế (thư viện, trung tâm sinh hoạt văn
135
hoá và các quy chế khác)
2.
Các hoạt động đào
Đào tạo kỹ năng xây dựng đội nhóm
tạo
Đào tạo kỹ năng tuyên truyền, vận động
Đào tạo kỹ năng văn nghệ
3.
Các hoạt động biểu
Đưa các hoạt động ca múa nhạc mới xuống doanh nghiệp
diễn nghệ thuật
Đưa các hoạt động văn nghệ truyền thống xuống doanh
nghiệp
Đưa các hoạt động chiếu bóng xuống doanh nghiệp có sự
tham dự của khán giả (bình luận của công nhân sau khi
xem phim)
4.
Các luân chuyển sách Luân chuyển sách báo
Tổ chức giới thiệu, thi kể chuyện
5.
Các hoạt động giáo
Hỗ trợ tổ chức đợt triển lãm truyền thống 30/4 và Nói
dục truyền thống
chuyện truyền thống vào 2/9
Hỗ trợ xây dựng góc/phòng truyền thống của doanh
nghiệp
6.
Các hoạt động thông
Hỗ trợ việc xây dựng các cụm thông tin tuyên truyền
tin cổ động
trong doanh nghiệp
Hỗ trợ các hoạt động tuyên truyền
7.
Hỗ trợ về trang thiết
Hỗ trợ các trang thiết bị âm thanh
bị, tài chính
Hỗ trợ các trang thiết bị trong triển lãm, tổ chức
Festival…
Hỗ trợ về tài chính
8.
Xây dựng chương
Các chuyên mục phổ biến kiến thức và pháp luật cho
trình phục vụ công
công nhân
nhân KCN của Đài
Các chương trình ca múa nhạc của công nhân
PTTH tỉnh (chung
Các chương trình trò chơi, thi đố vui
cho cả doanh nghiệp
Các chương trình TDTT
và Khu dân cư)
136
Tại địa bàn dân cư:
Bảng 53 : Tổ chức tại Trung tâm VHTT xã/phường
STT
Sự kiện
Hoạt động
1.
Tết dương lịch
Tổ chức Festival tổng hợp hay theo một chủ đề
2.
Tết âm lịch
Tổ chức ăn tết cho công nhân không về quê ăn tết tại một
khu dân cư trong xã/phường
3.
Ngày lễ 30/4 và 1/5
Tổ chức hoạt động triển lãm về ngày 30/4 do công nhân
sưu tầm trên báo chí và trưng bày với sự hướng dẫn
nghiệp vụ của Bảo tàng tỉnh;
Trưng bày các cụm Panô tuyên truyền ngày truyền thống
30/4 và 1/5 kèm theo các hoạt động thông tin cổ động;
Mở một hội thi (văn hóa văn nghệ, trò chơi, ẩm thực…)
4.
Tết thiếu nhi 1/6
Thi bé khoẻ, bé ngoan cho con em công nhân các nhà máy
đóng trên địa bàn phường xã
5.
Rằm tháng Tám
Tổ chức thi vẽ tranh, chơi trò chơi cho con em công nhân
tại sân chơi khu dân cư
6.
Quốc khánh 2/9
Nói chuyện truyền thống, giao lưu với các lão thành cách
mạng
7.
Noel
Tổ chức hoạt động văn hoá cho nhóm công nhân theo đạo
Thiên chúa, Tin lành với cộng đồng tôn giáo trong
xã/phường
8.
Ngày hội VHTT
Tập trung vào các hoạt động thể thao có thưởng
9.
Tổ chức cưới
Tổ chức một mô hình tổ chức đám cưới công nhân có sự
tham gia của các doanh nghiệp, theo phương châm giá cả
phải chăng, chu đáo, trang trọng, tiết kiệm, theo nghi thức
đám cưới đời sống mới
10.
Các hoạt động cộng
Tổ chức các chương trình từ thiện, các chương trình xã hội
đồng
trong các cộng đồng dân cư có nhiều công nhân của nhà
máy sinh sống
11.
Các hoạt động giao
Giao lưu giữa các doanh nghiệp
lưu
Giao lưu giữa doanh nghiệp với các ban ngành đoàn thể,
137
các địa phương
12.
Luyện tập TDTT cho
Các hoạt động luyện tập theo từng loại hình câu lạc bộ
các cá nhân và xây
Các hoạt động thi đấu, tranh giải
dựng các đội/nhóm
có thể thi đấu giao
lưu, tranh giải
13.
Các hoạt động đọc
Xây dựng thư viện/phòng đọc sách báo/góc đọc sách
sách báo
Duy trì các hoạt động cho muợn sách báo
Tổ chức các cuộc thi đọc sách, kể chuyện
Hoạt động trao đổi sách báo với hệ thống thư viện tỉnh
Bảng 54: Tổ chức tại các khu dân cư có công nhân sinh sống
STT Sự kiện
Hoạt động
1.
Các hoạt động xây
Phổ biến các quy định về khu dân cư an toàn bằng các loa
dựng khu dân cư an
truyền thành, các pano dán tại các nhà trọ, các hoạt động
toàn
đăng ký của các công nhân ở nhà trọ
2.
Các hoạt động thông
Tuyên truyền về nếp sống văn minh, vệ sinh nơi cư trú
tin tuyên truyền qua
Tuyên truyền về sức khỏe sinh sản, kế hoạch hoá gia đình
đài phát thanh
Thông tin về thời sự hàng ngày
xã/phường
3.
Các hoạt động thông
Quảng cáo về vệ sinh an toàn thực phẩm, về phòng chống
tin cổ động
HIV/AIDS, về vệ sinh văn minh ngõ xóm, về xây dựng
khu dân cư an toàn bằng các cụm pano, áp phích…
Xây dựng một số Bảng tin tại Khu nhà trọ để làm nơi
thông tin cho công nhân
Xây dựng một số đội tuyên truyền viên từ công nhân các
khu nhà trọ
4.
Các hoạt động giải trí Tổ chức một vài sân chơi nhỏ để công nhân sau giờ lao
động có chỗ tập TDTT, chơi
Tổ chức một số CLB sinh hoạt văn hoá tại Khu nhà trọ
138
5.
Các hoạt động văn
Tổ chức Rằm tháng 8 tại Khu nhà trọ
nghệ
6.
Các hoạt động cộng
Thành lập và duy trì các loại quỹ tương trợ, tương thân
tương ái trong công nhân
đồng
Xây dựng các chương trình xã hội tại cộng đồng như nhà
tình thương, nhà tình nghĩa, xoá đói giảm nghèo…
Bảng 55: Các hoạt động can thiệp từ trên xuống
STT Sự kiện
Hoạt động
1.
Các hoạt động xây
Xây dựng quy chế phối hợp giữa Doanh nghiệp, các ban
dựng thể chế
ngành với xã phường về xây dựng đời sống văn hoá cho
công nhân tại khu dân cư
Phổ biến quy chế xây dựng khu dân cư an toàn, đăng ký
thực hiện quy chế tại các khu nhà trọ, chung cư
2.
Các hoạt động đào
Đào tạo kỹ năng xây dựng đội nhóm
tạo
Đào tạo kỹ năng tuyên truyền, vận động
Đào tạo kỹ năng văn nghệ
3.
Các hoạt động biểu
Đưa các hoạt động ca múa nhạc mới phục vụ công nhân ở
diễn nghệ thuật
khu dân cư
Đưa các hoạt động văn nghệ truyền thống phục vụ công
nhân ở khu dân cư
Đưa các hoạt động chiếu bóng phục vụ công nhân ở khu
dân cư
4.
Các hoạt động giao
Giao lưu văn hoá giữa thanh niên công nhân và thanh niên
lưu, thăm hỏi
tại chỗ
Thăm hỏi và động viên các gia đình diện chính sách là
công nhân KCN
Các hoạt động xã hội khác.
5.
Các hoạt động thông
Cung cấp các tài liệu tuyên truyền xuống cơ sở
tin cổ động
Giúp trang thiết bị tuyên truyền
139
Giúp phương pháp tuyên truyền
6.
Hỗ trợ về trang thiết
Hỗ trợ các trang thiết bị âm thanh
bị, tài chính
Hỗ trợ các trang thiết bị trong triển lãm, tổ chức
Festival…
Hỗ trợ về tài chính
7.
Các hoạt động giám
Giám sát theo tháng bằng hình thức họp giao ban giúp
sát
kinh nghiệm
Giám sát theo quý để sơ kết việc thực hiện, điều chỉnh kế
hoạch
Tổng kết cộng đồng can thiệp, đánh giá sự phối hợp xây
dựng mô hình
Với các mô hình trên, chúng ta có thể thấy một số điều kiện thuận lợi và
khó khăn sau:
Ngoài khu vực tư nhân, các khu vực kinh tế nhà nước và đầu tư nước
ngoài đã có những nhân tố để có thể triển khai các mô hình của chương trình
khảo sát. Điều đó có nghĩa là các mô hình của chúng ta không phải “treo” trên
mảnh đất trắng mà là từ các nhân tố tích cực của thực tiễn cũng như những
điểm còn hạn chế mà tổng kết, xây dựng mô hình thí điểm.
Đã có một số doanh nghiệp tổ chức được các hoạt động văn hoá tinh
thần phục vụ công nhân KCN, có thể dựa trên mô hình của họ, nghiên cứu,
đúc kết các điểm mạnh, yếu để cùng có thể cùng họ bàn bạc cùng nhau xây
dựng một mô hình thí điểm chung. Đó là các công ty Vedan, công ty
Changshin; công ty Taiwan Vina....
Sự quan tâm của cấp uỷ Đảng, chính quyền, của giới chủ; có hạt nhân để
tổ chức phong trào là tổ chức công đoàn hay các cá nhân cụ thể là hai yếu tố
cực kỳ quan trọng để có thể tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ cho
công nhân.
140
Có sự ủng hộ tích cực của chính quyền cấp cơ sở, của người dân trên địa
bàn. Với sự ủng họ này, các doanh nghiệp đã có một cơ sở để nối công nhân
của doanh nghiệp với cộng đồng dân cư, có địa bàn để triển khai các hoạt
động văn hóa và phúc lợi xã hội ngoài doanh nghiệp, tăng nguồn lực đầu tư,
khả năng tổ chức sự kiện và hoạt động.
Tìm sự đồng thuận của các chủ doanh nghiệp vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ.
Tình hình này rất khác với các địa bàn dân cư tại chỗ, khi mà các tổ chức văn
hóa truyền thống vẫn được duy trì, bởi chúng ta chưa có một khung pháp lý
nào cụ thể quy định trách nhiệm của họ trong việc tổ chức đời sống văn hoá
tinh thần cho công nhân cũng như việc chưa có một quan niệm coi việc đầu tư
này là đầu tư lâu dài, cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Tuy
nhiên, gần đây, khi giới chủ nhận thấy nếu không chăm lo các vấn đề an sinh
xã hội, trong đó có các vấn đề văn hóa tinh thần, thì sẽ không thu hút được
công nhân gắn bó lâu dài với doanh nghiệp. Trong quá trình chuyển đổi về
nhận thức và tư duy này, họ thấy cần phải gắn doanh nghiệp với các cộng
đồng nông thôn hơn nữa.
Cách thức triển khai hoạt động văn hoá từ dưới lên, tăng sự tham gia là
những phương thức hoạt động mới mẻ, đòi hỏi một sự phối hợp tổ chức đồng
bộ, có sự quyết tâm cao từ nhiều phía. Đó là một thách thức khi chúng ta còn
thiếu kinh nghiệm trong vấn đề này. Thêm nữa, việc huy động nguồn lực tại
chỗ cũng là một câu hỏi chưa có sự trả lời rõ ràng do những lý do hạn chế về
nguồn ngân sách của cấp cơ sở cũng như các rào cản do quan niệm vẫn còn
hạn chế của các chủ doanh nghiệp.
Điểm yếu chung của các mô hình tổ chức thực tiễn này là thiếu thường
xuyên, chưa huy động được công nhân tham gia một cách tích cực vào các
hoạt động văn hoá văn nghệ, thiếu các điều kiện tổ chức như thời gian tổ
chức, kinh phí, nhân lực, cơ sở hạ tầng. Thiếu một mạng lưới liên kết giữa các
141
doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với các địa phương, giữa các địa phương
với nhau trong việc tổ chức các hoạt động. Thiếu các hỗ trợ từ trên xuống,
nghĩa là các can thiệp từ ngành văn hóa thông tin xuống các địa phương, các
doanh nghiệp, do đó vừa thiếu sự chỉ đạo nghiệp vụ cụ thể, vừa thiếu các hoạt
động từ trên xuống phục vụ cơ sở để cho nó đủ mạnh, có các hoạt động
thường xuyên hơn.
3.4. Các biện pháp tăng cường phát triển văn hóa tại các cộng đồng
dân cư có KCN ở bình diện tỉnh Đồng Nai
3.3.1. Tham mưu xây dựng cơ chế chính sách, kết hợp nguồn lực
nhà nước với nguồn lực xã hội hoá, xây dựng các thiết chế văn hóa
Dựa trên quy hoạch của ngành và yêu cầu thực tế, tham mưu cho
UBND tỉnh đầu tư kết hợp phương thức vận động xã hội đóng góp trùng tu
tôn tạo nhiều di tích lịch sử, nhiều công trình văn hoá có ý nghĩa giáo dục
truyền thống, giáo dục lịch sử và văn hoá, tổ chức các hoạt động lễ hội nhằm
giáo dục lòng yêu nước, yêu quê hương, phát huy giá trị các di sản này. Trong
các xã có KCN, khi xây dựng các KCN, cần bảo tồn và không lấy các khu đất
có dân cư sinh sống lâu đời, có những thiết chế văn hóa truyền thống.
Trong quy hoạch KCN và quy hoạch văn hóa nông thôn, cần
gắn với quy hoạch phát triển các thiết chế văn hoá để đảm bảo phát triển hài
hoà kinh tế và văn hoá; sản xuất và an sinh dân cư. Có thể đầu tư xây dựng
Trung tâm văn hoá thể thao liên phường, liên xã để nâng cao chất lượng hoạt
động. Trong hoạt động của các Trung tâm văn hóa ở cơ sở nên thử nghiệm
mô hình tổ chức đám cưới cho cư dân tại chỗ vì thiết chế văn hóa này có đủ
điều kiện để phối hợp tổ chức. Đặc biệt cần đầu tư xây dựng một số nhà sinh
hoạt cộng đồng để tổ chức các cuộc họp, các đám cưới, các sinh hoạt văn
nghệ tại nơi cư dân tập trung. Hiện nay toàn tỉnh có 1007 trụ sở làm việc của
ấp, khu phố trong khi nhân dân vẫn thiếu nơi sinh hoạt, sáng tạo văn hóa.
142
Trong khuôn khổ hẹp một ấp, khu phố; đề nghị gắn kết, đầu tư cho các trụ sở
này với các hoạt động văn hoá khác trở thành nhà văn hoá ấp, khu phố để có
thể tận dụng các thiết chế có sẵn, tạo thuận lợi cho nhân dân đến sinh hoạt,
đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trên địa
bàn dân cư và hưởng thụ, sáng tạo các giá trị văn hóa.
Để tạo điều kiện nâng cao tính chủ động, hiệu quả hoạt động văn
hoá đưa văn hoá thể dục thể thao về cơ sở, nâng cao nhận thức chính trị,
văn hoá cho công nhân, nhất là công nhân các KCN tập trung. Vừa qua
tỉnh đã tổ chức thành công mô hình Ngày hội văn hóa công nhân, Ngày
hội công nhân ăn tết xa quê, Liên hoan Tiếng hát xã viên Hợp tác xã và
kinh tế tập thể.
Hình thành “Quỹ phát triển đời sống văn hoá công nhân” bằng
hình thức xã hội hoá thì có nhiều điều kiện hơn để duy trì, phát triển
hình thức hoạt động văn hóa thể thao cho công nhân, người lao động các
khu vực tập trung (bởi ngân sách nhà nước còn hạn chế), đồng thời cũng
là nâng cao trách nhiệm của các nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp sử dụng
lao động với đời sống văn hoá công nhân.
Kết nối hoạt động nhịp nhàng cùng với Trung tâm văn hoá 11 huyện,
thị xã, thành phố, Trung tâm Văn hóa tỉnh, Nhà Thiếu nhi tỉnh thành một hệ
thống chặt chẽ. Bằng các phương tiện cổ động trực quan, bằng các chương
trình hội, hội diễn (thông tin lưu động, với chủ đề bám sát chủ trương đường
lối của Đảng, Nhà nước, phòng chống tệ nạn xã hội, an toàn giao thông…).
Các trung tâm văn hoá, nhà văn hoá xã, văn hoá dân tộc vừa là nơi sinh hoạt
văn hoá, thể thao của nhân dân khu vực, nơi giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc,
truyền nghề và đào tạo năng khiếu cho lớp trẻ.
Nâng mức đầu tư cho hoạt động của các thiết chế hiện nay được Nhà
nước đầu tư xây dựng. Đồng thời chú trọng đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ
143
quản lý, tổ chức hoạt động văn hóa thể thao và có cơ chế chính sách cho cán
bộ văn hóa ở cơ sở để ổn định và phát triển được mạng lưới thiết chế này ở cơ
sở. Tuy nhiên trước yêu cầu phát triển phong phú và rất nhanh của tốc độ
ĐTH vẫn còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu như việc tăng cường đầu tư trang
thiết bị, nguồn nhân lực quản lý điều hành, xã hội hóa kinh phí hoạt động…1
Đảm bảo diện tích đất sử dụng theo đúng quy hoạch phát triển hệ thống
thiết chế văn hóa cơ sở; từng bước xây dựng các thiết chế: Đài Truyền thanh,
Thư viện, phòng Thông tin, các Câu lạc bộ, Trung tâm Học tập cộng đồng,
Nhà tập luyện và thi đấu thể thao, sân tập ngoài trời thuộc Trung tâm Văn
hóa, thể thao xã; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khai thác, quản lý
và phát huy hiệu quả Trung tâm Văn hóa, thể thao xã.
Xây dựng nhà văn hóa, khu thể thao cấp ấp: Phát triển nhà văn hóa, khu
thể thao ở cấp ấp gắn với phong trào xây dựng ấp văn hóa; Xây dựng hạt nhân
văn hóa, thể thao làm nòng cốt để duy trì thường xuyên các hoạt động của nhà
văn hóa, khu thể thao cấp ấp.
3.3.2. Đẩy mạnh phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hoá và xây dựng gia đình hạnh phúc, phòng chống bạo lực gia đình
Toàn tỉnh đã có 86 % ấp, khu phố được công nhận đủ chuẩn ấp, khu phố
văn hoá, trên 94% hộ gia đình đủ chuẩn hộ gia đình văn hoá (số liệu 2009).
Ngành đã triển khai Luật phòng chống bạo lực gia đình, các mục tiêu về gia
đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và cùng phát triển bền vững đến
từng xã, phường thuộc 11 huyện, thị xã Long Khánh, thành phố Biên Hoà; đã
1 Tỉnh cấp kinh phí xây dựng 600 triệu đồng cho mỗi Trung tâm Văn hóa xây dựng mới; (còn lại do cấp huyện và cơ sở vận động); và kinh phí hoạt động vẫn do ngân sách cấp hàng năm (bình quân mỗi Trung tâm Văn hóa được cấp kinh phí hoạt động 30 triệu đồng/năm; riêng huyện Trảng Bom cấp cho mỗi Trung tâm Văn hóa cơ sở từ 80 đến 90 triệu đồng/năm; ngoài ra thực hiện thu chi theo Nghị định 43/NĐ - CP). Biên chế mỗi Trung tâm Văn hóa cơ sở được 1 kiêm nhiệm và từ 1 - 5 hợp đồng.
xây dựng được 230 Câu lạc bộ gia đình hạnh phúc, với gần 6.000 hội viên. Để
144
củng cố hoạt động này, UBND tỉnh giao nhiệm vụ Thường trực Ban chỉ đạo
phong trào toàn dân đoàn kết dựng đời sống văn hóa, ngành văn hóa phối hợp
chặt chẽ cùng Mặt trận Tổ quốc tỉnh và các ngành, đoàn thể liên quan triển
khai phong trào sâu rộng và có chất lượng tới tận xã ấp, khu phố, từng gia
đình.
Tiến hành đánh giá thường xuyên trên cơ sở xây dựng các tiêu chí đánh
giá cho phong trào này, trong đó chú trọng vào các cộng đồng dân cư có
KCN, trong đó chú trọng vào các khía cạnh: (1) Gắn hoạt động văn hóa nghệ
thuật với các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội khác; (2) Phát huy vai trò
của chủ thể văn hóa, với các nhóm xã hội trong cộng đồng, trong đó vai trò
chủ chốt là người cao tuổi, các trí thức trong cộng đồng; (3) Tạo lập các hoạt
động văn hóa giữa các nhà máy thuộc KCN với cộng đồng bản địa; (4) Gắn
bó chặt chẽ giữa hai khối dân cư, bảo đảm cho dân nhập cư hòa nhập được
vào đời sống văn hóa cộng đồng tại chỗ.
Nâng cao nhận thức của người dân về văn hóa gia đình, tiêu chuẩn công
nhận danh hiệu gia đình văn hóa, ý thức tự nguyện, tự giác của các gia đình
trong việc xây dựng, giữ vững và phát huy danh hiệu "Gia đình đạt chuẩn văn
hóa”; phổ biến nhân rộng mô hình gia đình văn hóa ở nông thôn làm giàu từ
sản xuất nông nghiệp hàng hóa và dịch vụ nông thôn.
Xây dựng gia đình văn hóa điển hình, mẫu mực ở nông thôn: Hòa thuận,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, kỷ cương, nề nếp, có đời sống kinh tế ổn định
và phát triển, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình
Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội
phát triển, có tinh thần tương thân, tương ái, tính tự quản, dân chủ và năng lực
làm chủ trong sinh hoạt cộng đồng.
Nâng cao chất lượng ấp đạt chuẩn văn hóa, trong đó, nâng cao nhận thức
của người dân về ý nghĩa văn hóa ấp, tiêu chuẩn công nhận ấp văn hóa, ý thức
145
và vai trò tự quản của các cộng đồng dân cư trong việc xây dựng, giữ vững và
phát huy danh hiệu "Ấp đạt chuẩn văn hóa”; phổ biến nhân rộng mô hình ấp
văn hóa chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển ngành nghề phụ; huy động được
nội lực của người dân nông thôn xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng kinh tế - xã
hội nông thôn mới;
Xây dựng ấp văn hóa bền vững, thực sự là những điểm sáng về văn hóa
ở nông thôn: Thực hiện tốt nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ
hội; bài trừ tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan; nâng cao mức hưởng thụ về văn hóa,
thu hút người dân nông thôn tham gia vào các hoạt động văn hóa, thể thao
trên địa bàn; xây dựng cộng đồng nông thôn ổn định về chính trị, dân chủ, hòa
thuận, nhân ái giàu bản sắc dân tộc, có môi trường xanh - sạch - đẹp - an toàn.
Thực hiện tiêu chí phát triển văn hóa nông thôn mới cấp xã: (1) Nhà văn
hóa và Trung tâm Văn hóa thể thao xã đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch; (2) Có từ 90% số ấp trở lên đạt tiêu chuẩn ấp văn
hóa theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; (3) 50% ấp có nhà
văn hóa và khu thể thao đạt quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
Xã đạt danh hiệu lành mạnh không có tệ nạn xã hội; (4) Môi trường đạt chuẩn
theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường; (5) Thực hiện tốt quy chế
dân chủ ở cơ sở, giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ tốt di tích
lịch sử, văn hóa, cảnh quan thiên nhiên và các di sản văn hóa dân tộc.
3.3.3. Phát triển mạnh phong trào văn hoá văn nghệ quần chúng, thể
dục thể thao quần chúng trong các cộng đồng dân cư KCN
Tuỳ theo từng đối tượng, đặc điểm lao động, tâm sinh lý, ngành tổ
chức các hội thi, hội diễn quần chúng phù hợp, vừa góp phần nâng cao đời
sống văn hoá tinh thần cho các tầng lớp giai cấp, vừa tạo điều kiện cho quần
chúng sáng tạo trong văn học nghệ thuật. Các hội thi Hoa phượng đỏ, Tiếng
hát sinh viên học sinh, Tiếng hát quê hương, Tiếng hát xã viên và người lao
146
động trong khu vực tập thể, Tiếng hát công nhân, làng ca hát làng vui chơi,
Làng kháng chiến thi tài; liên hoan văn hoá văn nghệ, thể thao công nhân,
công nhân ăn tết xa quê, hội thi hội thao cấp ngành, cấp tỉnh…góp phần tạo
không khí vui tươi trong lao động học tập, sản xuất.
Phát động và duy trì phong trào toàn dân rèn luyện thân thể theo gương
Bác Hồ vĩ đại tiếp tục phát triển, số người tập thể dục đạt 29%. Tổ chức thành
công đại hội thể dục thể thao cấp cơ sở và cấp tỉnh; nhiều lần đạt huy chương
vàng bóng đá U17, U19, U21 toàn quốc; đạt nhiều huy chương vàng các môn
thể thao cấp quốc tế, quốc gia, khu vực.
Tăng cường các hoạt động sáng tác và phổ biến các tác phẩm văn hóa -
nghệ thuật, các chương trình tuyên truyền về đề tài nông nghiệp, nông dân,
nông thôn; tăng cường hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa Nhà nước,
đưa các chương trình hoạt động văn hóa, nghệ thuật phục vụ đồng bào vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đào tạo, tập huấn về nghiệp vụ
cho cán bộ văn hóa - xã hội cấp xã và hạt nhân văn hóa cơ sở cấp ấp; tạo điều
kiện để người dân ở nông thôn tham gia sáng tạo, bảo tồn và truyền dạy các
loại hình văn nghệ dân gian truyền thống.
3.3.4. Phối hợp với Hội VHNT tỉnh tổ chức các cuộc liên hoan văn
nghệ, triển lãm, thi sáng tác văn học, mỹ thuật
Các cuộc thi nhiếp ảnh Nhịp sống Đồng Nai, cảnh đẹp Đồng Nai, mỹ
thuật Đồng Nai, sáng tác văn học (giải Trịnh Hoài Đức), nhiếp ảnh khu vực,
triển lãm mỹ thuật (hội hoạ, điêu khắc mỹ thuật…) miền Đông, tạo điều kiện
cho các tác giả trong tỉnh và trong khu vực miền Đông Nam Bộ có điều kiện
giao lưu học thuật, đưa các tác phẩm nghệ thuật đến với công chúng trong và
ngoài tỉnh.
Xây dựng những chương trình nghệ thuật có chất lượng đáp ứng yêu cầu
thưởng thức nghệ thuật của công chúng, phục vụ nhiệm vụ chính trị. Hai đoàn
147
nghệ thuật của tỉnh do ngành quản lý không ngừng đổi mới trong hoạt động,
tăng cường đội ngũ diễn viên, nghệ sĩ, ca sĩ dàn dựng nhiều chương trình
nghệ thuật có chất lượng tham gia các lễ hội, phục vụ các ngày lễ lớn kỷ niệm
của dân tộc và cách mạng. Giao chỉ tiêu cao hơn cho hai đoàn hàng năm phục
vụ vùng sâu vùng xa, vùng có KCN trên 200 buổi diễn phục vụ nhân dân.
Tiểu kết
Các định hướng và giải pháp phát triển văn hóa cho các cộng đồng dân
cư KCN được phát triển trên các nền tảng lý luận và thực tiễn của gần 20 năm
phát triển các KCN, đó là đường lối CNH, HĐH đất nước, của các định
hướng phát triển nông nghiệp - nông dân - nông thôn, của đường lối phát triển
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chung trong cả nước và
tỉnh Đồng Nai. Các cơ sở thực tiễn của các định hướng này là thành tựu và
những hạn chế của quá trình phát triển KCN trong cả nước, các tỉnh Đông
Nam Bộ và riêng tỉnh Đồng Nai trong gần 20 năm qua.
Các định hướng phát triển văn hóa dân cư KCN của tỉnh Đồng Nai nói
riêng, cả nước nói chung hướng vào việc hài hòa giữa phát triển kinh tế và
phát triển văn hóa, coi sự phát triển đời sống văn hóa tinh thần của cư dân các
cộng đồng KCN vừa là mục tiêu vừa là động lực. Sự phát triển này tạo ra một
chất lượng sống tốt hơn, gắn các KCN với các cộng đồng nông thôn địa
phương, vừa giúp các cộng đồng địa phương và KCN cùng nhau phát triển.
Các hệ thống chính sách ở tầm vĩ mô, vượt ra khỏi khuôn khổ của một
tỉnh sẽ là cơ sở và nền tảng cho sự phát triển văn hóa của các cộng đồng nông
thôn bị lấy đất xây dựng KCN. Ở bình diện một tỉnh, cũng cần xây dựng một
hệ thống các giải pháp mang tính hành động và kế hoạch hóa. Hai hệ thống
chính sách này bảo đảm tính hệ thống và hỗ trợ cho nhau
Các giải pháp phát triển đời sống văn hóa các cộng đồng nông thôn KCN
bao gồm các giải pháp về cơ chế chính sách, nâng cao năng lực quản lý và tự
148
quản của người dân, xây dựng thiết chế văn hóa, tổ chức các hoạt động văn
hóa văn nghệ tại chỗ, đưa văn hóa về KCN và cộng đồng địa phương tại chỗ.
Đây là các giải pháp đồng bộ và mang tính lên kết với nhau, tạo động lực
chung cho phát triển văn hóa các cộng đồng địa phương KCN.
Các mô hình tổ chức hoạt động trong chương này là một cách hiện thực
hóa các mục tiêu, nguyên tắc và phương châm tổ chức đời sống văn hóa cho
các cộng đồng dân cư có KCN, bao gồm hai mô hình tổ chức hoạt động tại
doanh nghiệp và tại cộng đồng dân cư, hai mô hình này được thiết kế trên tư
tưởng là các hoạt động được tổ chức trên tinh thần doanh nghiệp và cộng đồng
dân cư là một thể thống nhất, văn hóa doanh nghiệp và văn hóa nông nghiệp -
nông thôn là hai thực thể của một chỉnh thể thống nhất hữu cơ, trong văn hóa
các cộng đồng nông thôn có KCN là có văn hóa của các doanh nghiệp. Hai mô
hình này bao gồm nhiều nội dung hoạt động, bao trùm nhiều khía cạnh của đời
sống văn hóa, do đó, cần phải có việc nâng cao năng lực tổ chức và tạo các
điều kiện về cơ chế chính sách cho nó triển khai trong thực tiễn.
149
KẾT LUẬN
1. Quá trình CNH, HĐH đất nước đã hình thành ở nước ta những KCN,
trong đó tập trung vào trọng điểm kinh tế phía Nam với các tỉnh Đông Nam
Bộ vốn đã có những tiềm lực công nghiệp như Bình Dương, Tp. HCM, Đồng
Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu,.. từ các mô hình này, các KCN đã được mở rộng ra
các khu vực Trung và Bắc Bộ.
Các KCN này tạo nên một sức phát triển mới về sức sản xuất, góp phần
đưa nước ta tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế theo hướng
chuyên môn hoá và tập trung hoá. Phương thức này cho phép khai thác tốt
nhất tài nguyên, nguồn lực lao động, sử dụng vốn, khoa học công nghệ, trình
độ tổ chức quản lý,... của các nước tiên tiến vào quá trình sản xuất kinh doanh
và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Ở bình diện các tỉnh, việc quy
hoạch và phát triển các KCN trên các địa phương đang được xem như yếu tố
cơ bản nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trên địa bàn,..
Về mặt xã hội và văn hoá, việc hình thành các KCN đã tạo nên những
luồng di cư mới từ nông thôn ra đô thị, từ các tỉnh có nền kinh tế chậm phát
triển đến các vùng nông thôn của các tỉnh có nền kinh tế phát triển hơn, hình
thành ở các địa phương có KCN những vấn đề văn hóa xã hội mới: tốc độ đô
thị hoá tăng vọt, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội được tăng cường hơn nhiều
so với trước, mức sống dân cư được cải thiện đáng kể. Bên cạnh đó, quá trình
này cũng tạo ra những phức tạp trong quản lý xã hội, một số tệ nạn xã hội
phát triển, đời sống văn hoá tinh thần của các cư dân vốn cư trú trong các
cộng đồng làng xã bị các luồng dân di cư làm xáo trộn... Đó là một thực tiễn
phát triển đa diện và phức tạp hơn nhiều so với những làng quê nông nghiệp
thuần túy.
150
2. Cùng với các chuyển đổi kinh tế xã hội là những biến đổi văn hoá của
các cộng đồng nông thôn có KCN. Đó là sự thay đổi trong lối sống, từ nếp ăn,
ở, mặc cho đến các sinh hoạt văn hoá như phong tục tập quán trong tang ma,
cưới xin, giỗ chạp, hệ thống niềm tin và tôn giáo… Một quá trình chuyển đổi
cơ cấu văn hóa tinh thần đang diễn ra do những biến đổi kinh tế xã hội, với sự
xuất hiện của các KCN.
Sự thay đổi trong đời sống văn hóa tinh thần của các cộng đồng dân cư
có KCN đang diễn ra được luận án chỉ ra rằng: phụ thuộc vào mức độ, quy
mô CNH và HĐH của từng cộng đồng. Với 3 cộng đồng được khảo sát, Hiệp
Phước là cộng đồng có mức biến đổi nhanh nhất, mạnh mẽ nhất, kế đến là
Thạnh Phú và cuối cùng là Long Thọ. Tuy nhiên, cả 3 mẫu nghiên cứu này
đều thể hiện một điểm chung là các nghi lễ và phong tục truyền thống vẫn
được bảo lưu và gìn giữ như những giá trị cốt lõi của các cộng đồng nông
thôn. Sự thay đổi thấy rõ nhất ở khía cạnh tiêu dùng văn hóa, ở bình diện cá
nhân và một phần nào đó ở bình diện gia đình. Nền tảng của sự biến đổi là các
cộng đồng nông thôn này chưa biến trở thành một loại cộng đồng đô thị (làng
lên phố) mà chỉ là cộng đồng bị CNH, ĐTH mạnh, chưa có những thay đổi
mang tính đột biến để trở thành các cộng đồng đô thị.
Quá trình biến đổi này cũng có những hệ, đó là sự xuất hiện những lệch
chuẩn của một bộ phận dân cư. Nhiều xáo trộn gây nên những lo lắng cho
những giới quản lý. Đó là sự mất đất và tình trạng không nghề nghiệp của một
bộ phận nông dân; một số tệ nạn xã hội, tâm lý sính tiêu dùng văn hóa vượt
quá khả năng chi trả.
3. Về mặt quản lý nhà nước, quản lý các cộng đồng nông thôn nông dân
trong tiến trình ĐTH, CNH tại chỗ như luận án đã nghiên cứu đòi hỏi phải đặt
trên nền tảng hai chiến lược: (1) Chiến lược phát triển văn hoá đô thị như một
ưu tiên phát triển chính sách của Đảng và Nhà nước về mặt văn hoá đáp ứng
151
quá trình đô thị hoá, hiện đại hoá đã và sẽ được đẩy mạnh ở nước ta cũng như
tỷ trọng khu vực đô thị và KCN sẽ gia tăng mạnh hơn trong thời gian tới,
nhằm khắc phục tình trạng hiện tại là chiến lược phát triển văn hoá luôn đi
sau chiến lược kinh tế và xã hội, kèm theo đó xác lập các mô hình văn hoá đô
thị và mô hình quản lý văn hoá đô thị; (2) Chiến lược phát triển văn hóa nông
thôn để đáp ứng nhu cầu bảo tồn, lưu giữ các giá trị văn hóa, đón trước và dự
báo được những xu hướng phát triển của nó để làm tốt chức năng quản lý nhà
nước về văn hóa.
Ở bình diện tỉnh Đồng Nai, sự chủ động đi trước một bước bằng các
nghiên cứu thực tiễn và xây dựng mô hình văn hóa dựa vào khu dân cư, vào
doanh nghiệp vẫn đang là một quá trình tìm tòi, vận dụng, tháo gỡ từng bước
những khó khăn. Cơ sở của việc nâng cao hơn nữa chất lượng đời sống vật
chất và tinh thần cho cộng đồng dân cư KCN là quyết tâm chính trị của Đảng
bộ, chính quyền và các đoàn thể của tỉnh, là các đầu tư và tổ chức nhiều
chương trình, đề án phát triển cho các cộng đồng này. Tuy nhiên, quá trình
này không phải không có những thách thức; và có những vấn đề chế độ chính
sách thuộc thẩm quyền của Chính phủ và các Bộ ngành trung ương. Song sự
quyết tâm chính trị đi kèm với những dự án phát triển cụ thể sẽ là cơ sở để ra
đời các mô hình văn hóa cho cộng đồng dân cư KCN, bao gồm cả dân cư tại
chỗ và dân nhập cư, để họ có cơ hội, điều kiện sinh sống ổn định và thực hiện
quyền văn hóa của mình.
Ở tầm mức của sự sáng tạo văn hoá, của sự thay đổi hệ giá trị, chuẩn
mực văn hóa, trong phạm vi của luận án, luận án chưa đủ cơ sở dữ liệu để
chứng minh và phân tích, do những hạn chế về nguồn tư liệu và khả năng của
nghiên cứu sinh. Song đó là những chủ đề cần được tiếp tục nghiên cứu tiếp
theo của công tác mà tác giả luận án sẽ phải tiếp tục nghiên cứu.
152
4. Các khuyến nghị dưới đây là các vấn đề cần ưu tiên đặc biệt trong thời
gian tới, đó là:
- Các ngành hữu quan ở TƯ cần gấp rút nghiên cứu đệ trình Chính phủ
về việc sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Khuyến khích đầu tư trong
nước, trong đó phải quy định rõ trách nhiệm của chủ doanh nghiệp trong việc
chăm lo đời sống văn hoá tinh thần cho công nhân, làm cơ sở pháp lý cho các
doanh nghiệp thực hiện.
- Vấn đề về xây dựng đời sống văn hóa cho các cộng đồng dân cư nông
thôn có KCN phải trở thành một nội dung của Chiến lược phát triển văn hóa
nông thôn trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Chiến lược này cần
phải được gấp rút xây dựng trong thời gian tới để gắn kết nông thôn với tiến
trình CNH, HĐH, tận dụng được các lợi thế của tiến trình này, khắc phục
được những bất cập trong thời gian qua khi xây dựng các KCN.
- Phát triển hệ thống luật trong lĩnh vực văn hoá nhằm khắc phục tình
trạng nhiều hoạt động văn hoá được triển khai trong đời sống văn hoá KCN
nhưng không có khung pháp lý, đặc biệt là các hoạt động kinh doanh văn hoá
- nghệ thuật do các thành phần kinh tế phi nhà nước tham gia; các luật thuế
trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật cũng sớm được phát triển nhằm đáp ứng
nhu cầu của các tổ chức, cá nhân tham gia vào tổ chức các hoạt động văn hoá
- nghệ thuật;
- Cần có một Chiến lược phát triển văn hoá KCN như một ưu tiên phát
triển chính sách của Đảng và Nhà nước về mặt văn hoá đáp ứng quá trình đô
thị hoá, hiện đại hoá đã và sẽ được đẩy mạnh ở nước ta cũng như tỷ trọng khu
vực đô thị và KCN sẽ gia tăng mạnh hơn trong thời gian tới, nhằm khắc phục
tình trạng hiện tại là chiến lược phát triển văn hoá luôn đi sau chiến lược kinh
tế và xã hội;
153
- Cần nghiên cứu, phát triển các mô hình tổ chức đời sống văn hoá tinh
thần cho công nhân KCN, cho các cộng đồng dân cư có KCN trên cơ sở
nghiên cứu kỹ các yếu tố tác động và điều kiện phát triển. Các mô hình này
phải bảo đảm được các cân bằng sinh thái, xã hội và con người, cho nhiều loại
hình đô thị có chức năng và quy mô phát triển khác nhau;
- Đưa vấn đề xây dựng đời sống văn hoá công nhân của KCN thành một
vấn đề cần phải giải quyết trong quá trình phát triển KCN, phải coi đầu tư cho
văn hoá là đầu tư cho nguồn lực con người, thay vì một chiến lược chạy theo,
giải quyết các vấn đề tình thế như hiện nay;
- Nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình, hướng tới các
chương trình có tính trí tuệ, có sức thu hút khán thính giả thay vì chỉ đầu tư
vào các chương trình giải trí có thị hiếu thấp. Phát triển và quản lý các
phương tiện truyền thông mới, đẩy mạnh hoạt động truyền bá sách báo và
phát triển văn hoá đọc cho các tầng lớp dân cư đang ĐTH, CNH.
- Đầu tư phát triển hệ thống thiết chế văn hoá công cộng, chú ý các mô
hình thiết chế đa năng, quy mô vừa và nhỏ bên cạnh đầu tư các mô hình
chuyên hoá về chức năng, lớn về quy mô. Vấn đề quỹ đất cho phát triển các
thiết chế văn hoá công cộng, đầu tư xây dựng nó và vấn đề nâng cao năng lực
- Cần phát triển một chương trình nghiên cứu chuyên sâu về văn hoá - xã
quản lý các thiết chế văn hoá là hai vấn đề cần phải tiến hành song song.
hội khu vực KCN, bởi trong khu vực này đã và đang diễn ra các quá trình
phát triển hết sức phức tạp về mặt văn hoá - xã hội, với nhiều động thái rất
khác so với trước đó. Ở đây không những thể hiện những vấn đề của xã hội
đô thị mà còn thể hiện rõ nét quan hệ nông thôn - đô thị, giữa xã hội đô thị với
cả nước và quốc tế.
154
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Sách:
1. (2005), “Nhạc lễ Nam Bộ - nghi thức và nhạc lễ trong cúng đình, tang
ma của người Việt ở Đồng Nai” viết chương I; IV, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.
Tạp chí:
2. (2007), “Phát triển khu công nghiệp gắn với xây dựng các thiết chế
văn hóa”, chuyên đề cơ sở Tạp chí cộng sản, số 8, tr. 25 - 28
3. (2007), “Tình hình đời sống công nhân ở các khu công nghiệp tỉnh
Đồng Nai”, trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quy hoach kiến trúc các đô thị
vùng phát triển công nghiệp, Hội kiến trúc sư Việt Nam. Đồng Nai, tr. 97-
105.
4. (2011), “Ngôi nhà truyền thống trên đất Đồng Nai”, Tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật, số 328, tr. 21 - 26.
5. (2012), “Các biến đổi trong đời sống văn hóa của cộng đồng dân cư khu
công nghiệp”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 342, tr. 23 – 26.
155
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1.
Phan Sĩ Anh (2011), “Mục tiêu và những định hướng chủ yếu để thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Đồng Nai”, tham luận tại Hội thảo
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng
Nai.
2.
Ban chấp hành Trung ương Đảng (2010), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương (khoá X) tại Đại hội XI, Hà Nội.
3.
Bảo tàng Đồng Nai (1997), Tài liệu điền dã, khảo sát của Phòng Di sản văn
hóa.
4.
Mai Sông Bé (2009), Đồng Nai từ mở cõi đến mở cửa, Nxb Đồng Nai, Đồng
Nai.
5.
Nguyễn Chí Bền (1999), Văn hoá dân gian Việt Nam, những suy nghĩ, Nxb
Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
6.
Nguyễn Chí Bền (2004), “Bảo tàng với việc bảo tồn và phát huy các di sản
văn hoá phi vật thể”, Tạp chí Di sản văn hoá, số 7, tr. 24 - 26.
7.
Nguyễn Chí Bền (2006), Văn hoá Việt Nam, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
8.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng cục Thống kê (2009), Tổng quan kinh tế - xã
hội Việt Nam (2006 - 2010), Hà Nội.
9.
Bộ Xây dựng (1992), Cẩm nang đô thị hóa toàn quốc, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
10.
Bộ Xây dựng (1999), Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt
Nam đến năm 2020, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
11.
Brian Van Arkadie, Raymond Mallon (2004), Việt Nam - Con hổ đang
chuyển mình, Sách điện tử xuất bản trên trang Ebook của TT Thư viện, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
12.
Nguyễn Thị Cành (2009), “Kinh tế Việt Nam qua các chỉ số phát triển và
những tác động của quá trình hội nhập”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 219,
156
tr. 21 – 30.
13.
Nguyễn Phương Châm (2011), Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay
(trường hợp làng Đồng Kỵ, Trang Liệt và Đình Bảng thuộc huyện Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
14.
Nguyễn Từ Chi (1989), “Nhận xét bước đầu về gia đình người Việt”, Tạp
chí Xã hội học, số 2, tr. 16 - 24.
15.
Nguyễn Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc người,
NxbVăn hoá Dân tộc, Hà Nội.
16.
Nguyễn Văn Chính (2002), “Di dân nội địa ở Việt Nam - các chiến lược sinh
tồn và những khuôn mẫu đang thay đổi”, trong Phát triển đô thị bền vững,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
17.
Nguyễn Văn Chính (2008), Di dân, đô thị hoá và đói nghèo đô thị: Nghiên
cứu trường hợp một xóm liều ở Hà Nội, Hội thảo quốc tế về di dân, Tp Hồ
Chí Minh.
18.
Cục Bảo tồn Bảo tàng, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (1998), Bảo tàng với
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (kỷ yếu Hội thảo khoa
học tại Quảng Bình, tháng 8 năm 1997), Nxb Hà Nội, Hà Nội.
19.
Phạm Hùng Cường (2005), “Đặc điểm của quá trình đô thị hoá tại Việt Nam
(qua thực tiễn ở vùng ven đô Hà Nội)”, trong Đô thị hoá và vấn đề giảm
nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
20.
Nguyễn Văn Dân (2011), Con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới và hội nhập, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội.
21.
Phan Đại Doãn (2006), Làng Việt Nam đa nguyên và chặt, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
22.
Đinh Xuân Dũng (2000), Xã hội hóa hoạt động văn hóa - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Ban Tư tưởng, Văn hóa Trung ương, Hà Nội.
23.
Nguyễn Hữu Dũng, Patrick Gubry, Phạm Thuý Hương (2004), Dân số và
phát triển ở Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
157
24.
Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (2010), “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh khoá VIII tại Đại hội đại biểu lần thứ IX, nhiệm kỳ 2010 – 2015” tại
Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ IX.
25.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
26.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8
năm 2008 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn.
28.
Nguyễn Tấn Đắc (1997), “Lược qua tiến trình diễn tiến của đô thị ở Việt
Nam”, trong Môi trường nhân văn và đô thị hoá tại Việt Nam, Đông Nam Á
và Nhật Bản, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Tp HCM.
29.
Nguyễn Khoa Điềm (Chủ biên) (2001), Xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30.
Mạc Đường (2002), Dân tộc học - đô thị và vấn đề đô thị hoá, Nxb Trẻ, Tp
HCM.
31.
Huỳnh Thị Gấm (2011), “Về phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Đồng Nai”,
tham luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những
vấn đề đặt ra, Đồng Nai.
32.
Phan Tuấn Giang (2011), Định hướng chính để phát triển KCN, Trang tin điện
tử Tạp chí KCN Việt Nam của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư
http://www.khucongnghiep.com.vn/
33.
Lê Thế Giới (2005), Những giải pháp thu hút đầu tư và nâng cao hiệu quả
hoạt động của các khu công nghiệp ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung,
Đề tài NCKH cấp Bộ trọng điểm (B2003-III-21-TĐ).
34.
Gunter. Endrweit, Gisela Trommsdorff (2002), Từ điển xã hội học, (Người
dịch: Ngụy Hữu Tâm, Nguyễn Hoài Bão), Nxb Thế giới, Hà Nội
35.
Phạm Minh Hạc, Phạm Thành Nghị (2007), “Thái độ của người dân đối với
158
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 1, tr
19 - 25.
36.
Trần Quang Hải (2011), “Vai trò, tầm quan trọng và những giải pháp chủ
yếu để phát huy hiệu quả các khu công nghiệp trong tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”, tham luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.
37.
Trần Ngọc Hiên, Trần Văn Chử (Đồng chủ biên) (1998), Đô thị hóa và chính
sách phát triển đô thị trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38.
Diệp Đình Hoa (1995), Làng Bến Gỗ xưa và nay, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.
39.
Diệp Đình Hoa (1998), Làng Bến Cá xưa và nay, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.
40.
Lê Thị Cát Hoa (2011), “Đánh thức tiềm năng kinh tế - xã hội để phát triển
công nghiệp, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đồng Nai”, tham
luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những vấn
đề đặt ra, Đồng Nai.
41.
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2005), Lý luận văn hoá và đường
lối văn hoá của Đảng, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
42.
Hồ Chí Minh Toàn tập (1996), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
43.
Tô Duy Hợp (2000), Sự biến đổi của làng xã Việt Nam ngày nay (ở đồng
bằng sông Hồng), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
44.
Tô Duy Hợp (2005), Thực trạng hưởng thụ và tiếp nhận văn hoá của một
khu công nghiệp ở tỉnh Đồng Nai, Chuyên đề nghiên cứu.
45.
Phạm Quang Huấn (1994), “Về phát triển kinh tế nước ta trong những năm
90”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế,
46.
Nguyễn Văn Huyên (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập II,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
47.
Nguyễn Văn Huyên (2003), “Lối sống người Việt Nam dưới tác động của
toàn cầu hoá hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 12, tr 29 - 34.
48.
Trần Đình Hượu (1991), “Về truyền thống gia đình Việt Nam”, trong Những
159
nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
49.
Lương Văn Hy (Bản dịch tóm tắt của Lương Hồng Quang) (1992), Cuộc
cách mạng trong làng: Truyền thống và biến đổi của một xã hội đang
chuyển đổi ở Bắc Việt Nam, từ 1925 đến 1988, University of Hawaiii Press.
50.
Lương Văn Hy, Ngô Văn Lệ (2010), Hiện đại và động thái của truyền thống
ở Việt Nam: những cách tiếp cận nhân học, Nxb. Đại học Quốc gia Tp Hồ
Chí Minh, Tp HCM.
51.
Vũ Ngọc Khánh (2006), “Cần cái nhìn văn hoá làng trong phương hướng
kiến trúc cho đô thị hoá nông thôn”, Tạp chí Kiến trúc Việt Nam, số 4, tr 28 -
31.
52.
Chu Khắc (1993), Vấn đề nhà ở và lối sống đô thị, Nxb Văn hoá Thông tin,
Hà Nội.
53.
Tương Lai (1997), Xã hội học và những vấn đề của sự biến đổi xã hội, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
54.
Vũ Ngọc Lân (2004), Kinh tế tri thức ở Việt Nam quan điểm giải pháp và
phát triển, Nxb Khoa học Kĩ thuật, Hà Nội.
55.
Lê Ngọc Lân, Nguyễn Thanh Tâm (1999), “Tìm hiểu một số đặc điểm trong
quan hệ gia đình hiện nay”, Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, số 1, tr 1 - 6.
56.
Vũ Tự Lập (Chủ biên) (1991), Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Hồng,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
57.
Lê Xuân Lập, Trần Ngọc Tuấn (2001), Doanh nhân doanh nghiệp Đồng Nai,
Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.
58.
Chang Hee Lee (2006), Quan hệ lao động và giải quyết tranh chấp lao động
tại Việt Nam, http://www.ilo.org
59.
Nguyễn Đình Lê (Chủ biên) (2004), Biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam
thế kỷ XX, Đề tài khoa học trọng điểm Đại học Quốc gia Hà Nội Mã số
QGTĐ.01.04.
60.
Phan Huy Lê (Chủ nhiệm tuyển chọn và chỉnh lý) (2002), Các nhà Việt Nam
học nước ngoài viết về Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
160
61.
Hoàng Văn Lễ (2011), “Nhơn Trạch (Đồng Nai), đột phá công nghiệp hóa
trên địa bàn thuần nông giáp cửa biển”, tham luận tại Hội thảo Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.
62.
Ngô Văn Lệ (2010), Văn hoá tộc người, truyền thống và biến đổi, Nxb Đại
học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tp HCM.
63.
Ngô Văn Lệ (2011), Đặc trưng tín ngưỡng tôn giáo và sinh hoạt văn hóa
của các cộng đồng cư dân Nam Bộ, đề tài cấp Nhà nước.
64.
Ngô Văn Lệ, Nguyễn Minh Hoà (Đồng chủ biên), Trương Thị Kim Chuyên
(2003), Giảm nghèo đô thị: Tài liệu giảng dạy Đại học, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
65.
Nguyễn Văn Long (2011), “Vị trí, tầm quan trọng của sự nghiệp công
nghiệp hóa đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở Đồng Nai”, tham
luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những vấn
đề đặt ra, Đồng Nai.
66.
Trịnh Duy Luân (2004), Xã hội học đô thị, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
67.
Trịnh Duy Luân, Helle Rydstrom, Wil Burghoorn (Đồng chủ biên) (2008),
Gia đình nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
68.
Michel Bassand (chủ biên) (2001), Đô thị hoá - khủng hoảng sinh thái và
phát triển bền vững, Nxb Trẻ, Tp HCM.
69.
Ngô Quang Minh, Phạm Văn Sáng, Nguyễn Hữu Thắng (2005), Xây dựng lộ
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế Đồng Nai đến năm 2020,
Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
70.
Nguyễn Hữu Minh, Nguyễn Xuân Mai (2005), “Đô thị hoá và nghèo khó đô
thị ở Việt Nam: một số đặc điểm cơ bản”, trong Đô thị hoá và vấn đề giảm
nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
71.
Nguyễn Hữu Nguyên (2011), “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và
những thách thức từ ô nhiễm môi trường nước”, tham luận tại Hội thảo Công
161
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.
72.
Trương Minh Nhựt (2011), “Vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở các khu
công nghiệp tỉnh Đồng Nai trong tình hình hiện nay”, tham luận tại Hội thảo
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng
Nai.
73.
Nguyễn Hồng Phong (1989), “Đô thị cổ và vấn đề đô thị hoá ở Việt Nam”,
trong Đô thị cổ Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
74.
Trần Minh Phúc, Võ Thanh Lập, Phạm Xuân Nam (2005), Tổng kết quá
trình xây dựng phát triển các khu công nghiệp và thu hút đầu tư trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai 1991-2004, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.
75.
Vũ Văn Phúc (2011), “Thấm nhuần Nghị quyết Đại hội XI phấn đấu hoàn
thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Đồng Nai vào năm 2015”, tham
luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những vấn
đề đặt ra, Đồng Nai.
76.
David Popenoe (1991), “Đời sống đô thị và sự biến đổi”, Tạp chí Xã hội học,
số 3, tr 82 - 87.
77.
Đình Quang (Chủ biên) (2005), Đời sống văn hóa đô thị và khu công nghiệp
Việt Nam, NxbVăn hóa Thông tin, Hà Nội.
78.
Lương Hồng Quang (1997), Văn hóa cộng đồng làng vùng đồng bằng sông
Cửu Long thập kỷ 80 – 90 (qua trường hợp Bình Phú - Cai Lậy - Tiền
Giang), Nxb.Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
79.
Lương Hồng Quang (1997-1999), Văn hoá nông thôn trong phát triển, Viện
Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
80.
Lương Hồng Quang (1999), Dân trí và sự hình thành văn hóa cá nhân, Nxb
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
81.
Lương Hồng Quang và cộng sự (2005/06), Khảo sát đời sống văn hoá tinh
thần công nhân các KCN ở Đồng Nai, Viện Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam,
Hà Nội.
82.
Lương Hồng Quang (2011), Câu chuyện làng Giang (các khuynh hướng, giá
162
trị và khuôn mẫu trong một xã hội đang chuyển đổi, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
83.
Ronald Inglehart, Wayne E. Baker (2000), Hiện đại hoá, biến đổi văn hoá và
sự duy trì những giá trị văn hoá truyền thống, Bùi Lưu Phi Khanh dịch, Đại
học Princeton.
84.
Lê Thanh Sang (2008), Đô thị hoá và cấu trúc đô thị Việt Nam trước và sau
đổi mới 1979 - 1989 và 1989 - 1999, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
85.
Phạm Văn Sáng (2003), Phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông
thôn tỉnh Đồng Nai, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội.
86.
Phạm Văn Sáng (2011), “Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”,
tham luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những
vấn đề đặt ra, Đồng Nai.
87.
Sở Giao thông Vận tải Đồng Nai (2011),“Một số giải pháp chủ yếu phát
triển hạ tầng giao thông phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Đồng Nai”, tham luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng
Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.
88.
Jang Jung Min Sunoo (2007), Một số giải pháp phòng ngừa đình công tại
các doanh nghiệp ở Việt Nam, http://www.ilo/hanoi
89.
Lê Quốc Sử (1998), Một số vấn đề về lịch sử kinh tế Việt Nam, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
90.
Dương Thanh Tân, Nguyễn Văn Long, Phẩm An Ninh (2005), Công tác tư
tưởng chính trị trong giai cấp công nhân Đồng Nai thực trạng và giải pháp,
Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội.
91.
Phương Ngọc Thạch (2011), “Hoạt động các khu công nghiệp Đồng Nai vấn
đề và giải pháp”, tham luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.
92.
Phạm Văn Thanh (2011), “Vai trò của khu công nghiệp tập trung và một số
đề xuất mang tính giải pháp góp phần phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh
163
Đồng Nai”, tham luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng
Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.
93.
Tô Ngọc Thanh, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Chí Bền (1997), Giữ gìn và
phát huy tài sản văn hoá các dân tộc ở Đông Nam Bộ, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
94.
Hà Huy Thành (2002), Đô thị hoá - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt
Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
95.
Trần Đình Thành, Võ Văn Một, Nguyễn Đức Đạt (2004), Tình hình phân
phối và phân hoá giàu nghèo trên địa bàn Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai, Đồng
Nai.
96.
Đinh Thị Phương Thảo (2003), “Tìm hiểu quan hệ dòng họ trong hoạt động
cúng giỗ ở nông thôn (Qua khảo sát việc thực thao lễ giỗ tại làng Đại Kim,
xã Đồng Tiến, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên)”, Tạp chí Xã hội học, số
1, tr 65 - 71.
97.
Bùi Quang Thắng (1999), Vai trò hệ thống truyền thông đại chúng trong
việc phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Viện
Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
98.
Võ Văn Thắng (2006), Xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay (từ góc độ
văn hoá truyền thống dân tộc), Nxb Văn hoá Thông tin và Viện Văn hoá, Hà
Nội.
99.
Mai Thanh Thế (2006), “Bước đầu tìm hiểu về tác động của đô thị hoá đến
tâm lý người nông dân ven các đô thị”, Tạp chí Tâm lý học, số 4, tr 26 - 33.
100. Lê Thi (2002), Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
101. Lê Thi (2007), “Đặc điểm của các thế hệ Việt Nam hiện nay và con đường
chung sống hòa hợp”, Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 3, tr 23 - 30.
102. Nguyễn Thị Thiềng, Phạm Thúy Hương, Patrick Gubry, Franck Castiglioni,
Jean-Michel Cusset (2006), Đô thị Việt Nam trong thời kỳ quá độ, Nxb Thế
giới, Hà Nội.
164
103. Đỗ Kim Thịnh (1993), Lối sống đô thị và vấn đề giáo dục thẩm mỹ cho trẻ
em, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
104. Lê Duy Thống (2011), “Những lợi thế của tỉnh Đồng Nai trong phát triển
nguồn nhân lực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa
phương”, tham luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai
và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.
105. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21 tháng 8
năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc Quy hoạch phát triển các khu
công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020.
106. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4
năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành bộ tiêu chí quốc gia
về nông thôn mới.
107. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 22/QĐ-TTg ngày 05 tháng 01
năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt đề án “Phát triển văn
hóa nông thôn đến năm 2015, định hướng đến năm 2020”.
108. Phan Trọng Thưởng (2000), Phóng sự Việt Nam 1932 – 1945, Nxb Văn học,
Hà Nội.
109. Tỉnh Ủy Đồng Nai (2010), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai
lần thứ IX nhiệm kỳ 2010 – 2015, Đồng Nai.
110. Trần Quang Toại (2004), Đồng Nai di tích lịch sử văn hoá, Nxb Đồng Nai,
Đồng Nai.
111. Trần Toản (1994), Sự hình thành và phát triển của đội ngũ công nhân cao su
Đồng Nai qua các thời kỳ lịch sử (1906-1991), Luận án Phó Tiến sĩ khoa học
Lịch sử, Tp. HCM.
112. Huỳnh Văn Tới (1996), Những sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng dân gian của
cư dân Việt ở Đồng Nai, Luận án Phó Tiến sĩ khoa học Lịch sử, Hà Nội.
113. Huỳnh Văn Tới, Bùi Quang Huy, Trần Hiếu Thuận (2001), Địa chí Đồng
Nai, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.
114. Huỳnh Văn Tới, Phan Đình Dũng, Phan Xuân Biên (2005), Văn hoá Đồng
165
Nai, Nxb. Đồng Nai, Đồng Nai.
115. Huỳnh Văn Tới, Phan Đình Dũng (2008), Truyện kể người Mạ Đồng Nai,
Nxb. Đồng Nai, Đồng Nai.
116. Huỳnh Ngọc Trảng (1998), Vè Nam Bộ, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.
117. Huỳnh Ngọc Trảng, Trường Ngọc Tường (1999), Đình Nam Bộ xưa và nay,
Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.
118. Tôn Nữ Quỳnh Trân cùng các đồng nghiệp (1999), Văn hoá làng xã trước
thách thức của đô thị hoá tại thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, Tp HCM.
119. Nguyễn Chơn Trung, Trương Giang Long (2004), Phát triển các khu công
nghiệp, khu chế xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
120. Trương Xuân Trường (2003), “Một số biến đổi kinh tế - xã hội ở nông thôn
vùng châu thổ sông Hồng hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, số 3, tr 28 - 41.
121. Nguyễn Thiện Trưởng (2004), Dân số và phát triển bền vững ở Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
122. Nguyễn Đình Tuấn (2007), “Một số biến đổi trong quan hệ ứng xử và sử
dụng thời gian của người dân vùng chuyển đổi từ xã lên phường”, Tạp chí
Nghiên cứu Con người, số 4, tr 34 - 40.
123. Nguyễn Ngọc Tuấn (2003), Những vấn đề kinh tế - xã hội và môi trường
vùng ven các đô thị lớn trong quá trình phát triển bền vững, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
124. Nguyễn Quốc Tuấn (2011), “Sự phát triển tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt
Nam về công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước”, tham luận tại Hội thảo
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng
Nai.
125. Nguyễn Thanh Tuấn (2008), Biến đổi văn hóa đô thị Việt Nam hiện nay,
Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
126. Trương Ngọc Tường (2006), “Nhà cổ Nam Bộ”, Tạp chí Xưa và nay, số 253-
254, tr. 46 – 47.
166
127. UBND tỉnh Đồng Nai (2002), Chương trình phát triển kinh tế - xã hội, an
ninh – quốc phòng tỉnh Đồng Nai (giai đoạn 2001 – 2005), Tài liệu lưu hành
nội bộ, Đồng Nai.
128. UBND tỉnh Đồng Nai (2002), Đồng Nai 25 năm xây dựng và phát triển kinh
tế - xã hội, Đồng Nai.
129. UBND tỉnh Đồng Nai (2005), Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm xây dựng và
phát triển, Đồng Nai.
130. UBND tỉnh Đồng Nai (2004), Phát triển KCN, khu chế xuất ở Việt Nam
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học.
131. UBND tỉnh Đồng Nai (2007), Những nghiên cứu xã hội học trong thời kỳ
chuyển đổi, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
132. Nguyễn Mạnh Văn (2011), “Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ các khu công
nghiệp ở tỉnh Đồng Nai”, tham luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.
133. Viện Nghiên cứu Chiến lược (2002), Chính sách công nghiệp, Chiến lược,
chính sách công nghiệp, Nxb Thế giới, Hà Nội.
134. Viện Nghiên cứu Văn hoá (2007), Biến đổi văn hoá làng xã trong quá trình
đô thị hoá và công nghiệp hoá, đề tài cấp Bộ, Hà Nội.
135. Viện Văn hoá (1986), Khái niệm và quan niệm về văn hoá, Nxb. Văn hoá
Thông tin, Hà Nội.
136. Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam (2009), Báo cáo về Đời sống văn hoá đô
thị & Khu công nghiệp Việt Nam, Thư viện Viện Văn hoá Nghệ thuật Việt
Nam, Hà Nội.
137. Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam và Viện Văn hóa và Du lịch Hàn Quốc
(2010), Nghiên cứu các giải pháp nhằm giảm thiểu xung đột giữa chủ Hàn
Quốc và công nhân Việt Nam tại Việt Nam, Thư viện Viện Văn hoá Nghệ
thuật Việt Nam, Hà Nội.
138. Hồ Cao Việt (2011),“Công nghiệp hóa và sự biến đổi sinh kế - Đời sống của
hộ nông dân ở Đồng Nai”, tham luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại
167
hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.
139. Vũ Quang Việt (1999), Tình hình phát triển kinh tế Việt Nam 1989- 1995,
Nxb Hà Nội, Hà Nội.
140. Hồ Sĩ Vịnh (chủ biên) (1993), Tìm về bản sắc dân tộc của văn hóa, Tạp chí
Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
141. Vụ Văn hóa Dân tộc, Miền núi - Bộ Văn hóa Thông tin (1996), Xây dựng
đời sống văn hóa ở các tỉnh phía Nam, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
142. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2005), Cơ sở văn hoá Việt Nam, tái bản, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
143. Đinh Thu Xuân (2011), “Vai trò các khu công nghiệp trong sự nghiệp Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai”, tham luận tại Hội thảo Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.
144. Trần Thanh Xuân (2005), Tăng cường công tác thanh tra hoạt động thương
mại của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Lấy số liệu thực tế trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội.
Tiếng Anh
146. Chang Hee Lee (2006), Industrial Relations and Dispute Settlement in
Vietnam (Mối quan lao động và các cuộc đình công ở Việt Nam), ILO.
147. Hy V. Luong
(1992), Revolution
in
the Village: Tradition and
Transformation in North Vietnam, 1925-1988 (Cuộc cách mạng ở làng:
Truyền thống và sự biến đổi ở miền Bắc Việt Nam, 1925 – 1988), Honolulu:
University of Hawaii Press.
148. Hy V. Luong (edited) (2003), Postwar Vietnam: dynamics of a Transforming
society (Việt Nam sau chiến tranh: động thái của một xã hội đang chuyển đổi),
Institute of Southeast Asian Studies, Singapore and Rowman & Littlefield
Publishers. Inc.
149. Jan Sunoo (1998), 23 Frequently Asked Questions about Industrial Relations
168
in Vietnam (Hai mươi ba câu hỏi về quan hệ lao động ở Việt Nam). ILO
150. Jang Jung Min Sunoo (2007), Understanding and Minimizing Risk for Strikes
in Vietnam (Nhận biết và giảm thiểu các nguy cơ từ đình công tại Việt Nam),
ILO.
151. Lê Thế Giới (2005), Clustering, total competitiveness and Japanese ODA:
How industrial parks, supporting industries and government in Vietnam need
for supports from Japanese intellectual cooperation (phân nhóm, cạnh tranh
và viện trợ phát triển của Nhật Bản: các khu công nghiệp nào, công nghiệp
hỗ trợ, và chính phủ Việt nam cần làm gì từ sự hỗ trợ hợp tác trị thức của
Nhật Bản), Annual Buletin of The Institute for Industrial Research of Obirin
University (Tokyo, Japan).
152. Polly Ulichny (1997), The mismanagement of misunderstandings in cross
(Quản lý kém những xung đột), Cultural interactions Journal of Pragmatics
27.
169
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM
-----------------------
NGUYỄN VĂN QUYẾT
NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG NÔNG NGHIỆP-NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP (Thông qua nghiên cứu trường hợp tỉnh Đồng Nai)
PHỤ LỤC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội, 2013
170
MỤC LỤC PHỤ LỤC
Trang
Phụ lục 1
Bản đồ
170
Phụ lục 2
Thống kê xã Hiệp Phước, xã Thạnh Phú, xã
174
Long Thọ
Phụ lục 3
Một số hình ảnh
186
Phụ lục 4
Mẫu phiếu điều tra
191
Phụ lục 5
Danh sách phỏng vấn
206
171
Phụ lục 1 Bản đồ hành chính tỉnh Đồng Nai
172
Bản đồ hành chính xã Long Thọ
173
Bản đồ hành chính xã Hiệp Phước
174
Bản đồ hành chính xã Thạnh Phú
Phụ lục 2
BẢNG THỐNG KÊ
175
TÌNH HÌNH BIỂN ĐỔI DIỆN TÍCH, CƠ CẤU KINH TẾ, XÃ HỘI
VÀ VĂN HÓA DÂN CƯ Ở XÃ HIỆP PHƯỚC THÀNH PHỐ NHƠN TRẠCH
1 Tổng diện tích đất qua các thời kỳ: (ha)
Loại đất
2010 552,48 107,31 - - 1223 -
STT 1 2 3 4 5 6
Đất canh tác Đất thổ cư Diện tích mặt nước Đất dự trữ Khác Tổng
2005 500,27 91,50 - - 1221 -
2000 1615,12 52,98 - - 145,43 -
2. Biến động đất đai qua các thời kỳ: (ha)
Diện tích đất
2010 1882,94 552,48 432,34 271,59 249,02 1330,46 107,31 107,31 - 1200,24
2005 1813,58 500,27 418,31 327,49 276,14 1313,31 91,50 91,50 - 1190,90
2000 1813,58 1615,12 1141,99 406,23 326,70 195,25 52,98 52,98 - 105,33
3,85
0,81
0,26
- -
- 0,20
- -
1,51
0,21
0,71
Tổng diện tích tự nhiên Đất nông nghiệp Đất sản xuất nông nghiệp Đất trồng cây hàng năm Đất trồng lúa Đất phi nông nghiệp Đất ở Đất ở tại nông thôn Đất ở tại đô thị Đất chuyên dùng Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp Đất quốc phòng Đất an ninh Đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp
131,52
89,56
63,15
3,95 7,51
2,80 11,07
1,99 12,77
11,45
17,04
17,09
Đất có mục đích công cộng Đất tôn giáo tín ngưỡng Đất nghĩa trang, nghĩa địa Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng Đất phi nông nghiệp khác Đất chưa sử dụng Đất bằng chưa sử dụng
- - -
- - -
3,09 3,21 3,21
3. Diện tích đất bị thu hồi, dành cho khu công nghiệp, qua các năm: (ha)
Diện tích
2010
2009 2008 2007 2006 2005 2004 2003 2002 2001 2000
176
1882
1882 1813 1813 1813 1813 1813 1813 1813 1813 1813
49
-
-
-
-
420
-
-
-
-
450
đất Tổng diện tích tự nhiên Đất bị thu hồi
4. Thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ: (triệu đồng)
2010
Thu nhập
2005
2000
25,2
18
11
Thu nhập bình quân (triệu đ/năm/người)
5. Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ: (hộ)
2010
2005
2000
Hộ
STT
1 Hộ nông nghiệp 2 Hộ hỗn hợp 3 Hộ phi nông nghiệp 4
Tổng
Hộ 1063 2897 1408 5368
% 19,8 54,0 26,2 100
Hộ 1965 2018 610 4593
% 42,7 44,0 13,3 100
Hộ 2010 1279 18 3307
% 60,8 39,0 0,2 100
6. Quy mô hộ gia đình ở xã: (hộ)
Số người trong hộ
Số hộ hiện có
Tỷ lệ (%)
Số hộ có từ 1 đến 3 người Số hộ có 4 người Số hộ có 5 người Số hộ có từ 6 người trở lên Tổng
918 1013 2278 1159 5368
Tổng số hộ toàn xã đến hết năm 2010 5368 5368 5368 - 16104
- - - - -
7. Nhân khẩu của xã qua các thời kỳ: (người)
Dân số
STT 1
2010 22150
2005 11097
2000 10613
2
8
14
20
3
Tổng số dân toàn xã Diện tích bình quân đầu người (m2/ người) Tổng số dân nhập cư là công nhân (KT2/3, chưa đăng ký)
5762
1980
488
177
8. Thống kê dân nhập cư qua các thời kỳ: (người)
2005
2000
STT
Dân cư
2010 Người %
Người
%
Người
%
13919
100
9547
100
6732
100
Tổng số dân nhập cư 1 (KT2/3, chưa đăng ký) 2 Từ miền Tây Nam bộ 3 Từ miền Trung 4 Từ miền Bắc
5617 5273 3029
40,3 37,9 21,7
3770 3189 2588
39,5 33,4 27,1
2128 1986 2618
31,6 29,5 38,8
9. Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ: (người)
2005
2000
STT
2010 Người % 32,3 5230 4,7 763
Người 4891 812
% 35,1 5,8
Người 5150 898
% 48,8 8,5
3
3790
23,4
2850
20,5
2005
19
4
3616
22,3
1853
13,3
1360
12,9
Dân cư 1 Học sinh, sinh viên 2 Công nhân, viên chức, hưu trí Kinh doanh, buôn bán nhỏ (bán hàng tại nhà, buôn bán vỉa hè, cho thuê nhà….) Thủ công nghiệp (làm giầy da, dệt len, làm mộc, thợ đục, thợ may…) Nghề tự do (Nội trợ, làm thuê, giúp việc, xây dựng, xe ôm...)
5 6 Tổng dân số toàn xã
2780 16179
17,1 100
3510 13916
25,2 100
1130 10543
10,7 100
10. Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư: (người)
2005
STT
Dân cư
2010 Người % 8,8 1230 0,6 87
Người 610 67
% 4,3 0,5
2000 Người % 7,7 0,6
815 61
3
2120
15,2
1976
14,1
1783
16,9
4
7613
54,6
6382
45,8
6616
62,8
1 Học sinh, sinh viên 2 Công nhân, viên chức, hưu trí Kinh doanh, buôn bán nhỏ (bán hàng tại nhà, buôn bán vỉa hè, cho thuê nhà….) Thủ công nghiệp (làm giầy da, dệt len, làm mộc, thợ đục, thợ may…) Nghề tự do (Nội trợ, làm thuê, giúp việc, xây dựng, xe 5 ôm...) 6 Tổng
2869 13919
20,6 100
4881 13916
35 100
1268 10543
12 100
178
11. Cơ cấu nhà ở phân theo các thời kỳ: (nhà)
2005
2000
STT
Nhà ở
1 2 3 4
Nhà kiên cố Nhà bán kiên cố Nhà tạm Tổng
2010 Số lượng % 68,3 31,4 0,002 100
3669 1688 11 5368
Số lượng 2918 1655 20 4593
% 63,5 36 0,004 100
Số lượng 2618 634 55 3307
% 79,1 19,1 0,16 100
12. Công năng của các loại hình nhà của xã năm 2010
Loại hình nhà
Số lượng
Nhà biệt thự Nhà ống nhiều tấm Nhà đúc 1 tấm Nhà kiên cố nhưng lợp ngói/ tôn Nhà tạm (vách gỗ, lá, lợp lá, tôn) Tổng
Văn phòng - 21 - - - 21
Công năng Để ở 18 06 11 3991 03 4029
Cho thuê trọ - - - 1310 8 1318
- - - - - -
13. Số lượng các trang thiết bị chủ yếu trong gia đình: (cái/chiếc)
2005
2000
2010
STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
Trang thiết bị Ô tô Xe máy Điện thoại Tủ lạnh Đầu Video TV màu Dàn nghe nhạc các loại Máy vi tính Máy điều hòa nhiệt độ Máy giặt Internet
356 10427 9678 4970 5160 5160 3087 2779 1027 1320 2371
112 8618 5180 2810 3102 3102 1189 1018 815 797 996
16 6089 3676 1178 618 763 698 312 538 513 618
179
BẢNG THỐNG KÊ
TÌNH HÌNH BIỂN ĐỔI DIỆN TÍCH, CƠ CẤU KINH TẾ, XÃ HỘI
VÀ VĂN HÓA DÂN CƯ Ở XÃ THẠNH PHÚ HUYỆN VĨNH CỬU
1. Tổng diện tích đất qua các thời kỳ: (ha)
Loại đất
2010 876.29 158.95 26.26 - -
2005 993.87 83.27 14.28 - -
2000 1209.16 45.3 5.14 - -
STT 1 2 3 4 5
Đất canh tác Đất thổ cư Diện tích mặt nước Đất dự trữ Khác
2. Biến động đất đai qua các thời kỳ: (ha)
Diện tích đất
2010 1405.42 876.29 818.38 555.27 302.09 529 158.83 158.83 - 3.403.814
2005 1436.21 993.87 909.31 713.15 446.69 442.34 83.27 83.27 - 318.87
2000 1436.21 1209.16 1067.92 415.82 358.80 209.04 45.30 45.30 - 115.42
Tổng diện tích tự nhiên Đất nông nghiệp Đất sản xuất nông nghiệp Đất trồng cây hàng năm Đất trồng lúa Đất phi nông nghiệp Đất ở Đất ở tại nông thôn Đất ở tại đô thị Đất chuyên dùng
-
-
-
6.71 -
7.5 -
-
Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp Đất quốc phòng Đất an ninh
78.68
254.90
237.67
Đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp
77.8
71.91
39/61
1.96 12.81
2.1 12.35
2.1 19.24
Đất có mục đích công cộng Đất tôn giáo tín ngưỡng Đất nghĩa trang, nghĩa địa
14.99
25.75
25.75
-
-
-
-
-
-
Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng Đất phi nông nghiệp khác Đất chưa sử dụng Đất bằng chưa sử dụng
180
3. Diện tích đất bị thu hồi dành cho khu công nghiệp, qua các năm: (ha)
Diện tích đất
Tổng diện tích tự nhiên 1405 Đất bị thu hồi
2010 2009 2008 2007 2006 2005 2004 2003 2002 2001 2000 1436 1436 0 34
- -
- -
- -
- -
- -
- -
- -
- -
82
4. Thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ: (triệu đồng)
2010
Thu nhập
2005
2000
15
10
5
Thu nhập bình quân (triệu đ/năm/người)
5. Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ: (hộ)
2010
2005
2000
Hộ
STT
1 Hộ nông nghiệp 2 Hộ hỗn hợp 3 Hộ phi nông nghiệp 4 Tổng
Hộ 824 1652 1050 3526
% 23.36 46.85 29.77 100
Hộ 1793 143 150 2086
% 85.95 6.85 7.19 100
Hộ 1697 30 41 1768
% 95.98 1.69 2.3 100
6. Quy mô hộ gia đình ở xã: (hộ)
Số người trong hộ
Số hộ hiện có
Tỷ lệ (%)
Số hộ có từ 1 đến 3 người Số hộ có 4 người Số hộ có 5 người Số hộ có từ 6 người trở lên Tổng
529 1040 1252 705 3526
Tổng số hộ toàn xã đến hết năm 2010 3526 3526 3526 3526 3526
15 29.29 35.5 19.99 100
7. Nhân khẩu của xã qua các thời kỳ: (người)
Dân số
STT 1 2
2010 22150 11053
2005 11097 484
2000 10613 216
3
8
14
20
Tổng số dân toàn xã Tỷ lệ phát triển dân số Diện tích bình quân đầu người (m2/ người) Tổng số sân nhập cư (KT2/3, chưa đăng ký)
4
5762
1980
488
181
8. Thống kê dân nhập cư qua các thời kỳ: (người)
2000
Dân cư
2005
STT
2010 Người %
Người
Người
%
% 100
1980
Tổng số dân nhập cư (KT2/3, chưa đăng ký) 1 2 Từ miền Tây Nam bộ 3 Từ miền Trung 4 Từ miền Bắc
5762 3270 1009 1483
100 56,7 17,5 25,7
634 32 733 39 613 30,9
100 16,5 39,5 43,8
488 81 193 214
9. Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ: (người)
2005
2000
STT
Dân cư
2010 Người % 3540
1 Học sinh, sinh viên 15,98 2 Công nhân, viên chức, hưu trí 15890 71,73
Người 1435 7524
% 12,93 67,8
Người 930 5520
% 8,76 52,01
3
890
4,42
450
4,05
208
1,95
4
789
3,56
658
5,92
243
2,28
Kinh doanh, buôn bán nhỏ (bán hàng tại nhà, buôn bán vỉa hè, cho thuê nhà….) Thủ công nghiệp (làm giầy da, dệt len, làm mộc, thợ đục, thợ may…) Nghề tự do (Nội trợ, làm thuê, giúp việc, xây dựng, xe ôm...) 5 6 Tổng
1041 22150
4,69
1030
9,28
3712 10613
34,97
10. Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư: (người)
2005
STT
2010 Người % 1,77 89,55
102 5160
Người 35 1675
% 1,76 84,59
2000 Người % 0,81 7,99
4 390
3
60
1,04
16
0,8
5
1,02
4
230
3,99
60
3,03
9
1,84
Dân cư 1 Học sinh, sinh viên 2 Công nhân, viên chức, hưu trí Kinh doanh, buôn bán nhỏ (bán hàng tại nhà, buôn bán vỉa hè, cho thuê nhà….) Thủ công nghiệp (làm giầy da, dệt len, làm mộc, thợ đục, thợ may…) Nghề tự do (Nội trợ, làm thuê, giúp việc, xây dựng, xe 5 ôm...) 6 Tổng
210 5762
3,64 100
194 1980
9,79 100
80 488
16,39 100
182
11. Công năng của các loại hình nhà của xã năm 2010
Loại hình nhà
Số lượng
Văn phòng - - - - - -
Nhà biệt thự Nhà ống nhiều tấm Nhà đúc 1 tấm Nhà kiên cố nhưng lợp ngói/ tôn Nhà tạm (vách gỗ, lá, lợp lá, tôn) Tổng
Công năng Để ở 4 - - - - -
Cho thuê trọ - - - - - -
4 - - - 0 -
12. Số lượng các trang thiết bị chủ yếu trong gia đình: (đơn vị: cái/chiếc)
2010
2000
2005
25 7052 6170 - - - - - - - --
- 1543 450 - - - - - - - -
10 4172 960 - - - - - - - -
STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
Trang thiết bị Ô tô Xe máy Điện thoại Tủ lạnh Đầu Video TV màu Dàn nghe nhạc các loại Máy vi tính Máy điều hòa nhiệt độ Máy giặt Internet
183
BẢNG THỐNG KÊ
TÌNH HÌNH BIỂN ĐỔI DIỆN TÍCH, CƠ CẤU KINH TẾ, XÃ HỘI
VÀ VĂN HÓA DÂN CƯ Ở XÃ LONG THỌ THÀNH PHỐ NHƠN TRẠCH
1. Tổng diện tích đất qua các thời kỳ: (ha)
Loại đất
STT 1 2 3 4 5 6
Đất canh tác Đất thổ cư Diện tích mặt nước Đất dự trữ Khác Tổng
2010 904,52 209,11 59,65 - - -
2005 994,54 297,62 59,77 - - -
2000 2153,13 34,71 - - - -
2. Biến động đất đai qua các thời kỳ: (ha)
Diện tích đất
2010 2427,51 904,52 481,27 258,98 155,44 1522,98 209,11 35,62 173,49 1142,30
2005 2427,51 1546,03 994,54 305,13 172,30 881,48 297,62 34,71 262,91 432,16
2000 2427,51 2153,13 1605,24 - - 223,70 34,71 - - 46,97
7,82
0,63
-
- -
- -
- -
7,71
360,90
-
Tổng diện tích tự nhiên Đất nông nghiệp Đất sản xuất nông nghiệp Đất trồng cây hàng năm Đất trồng lúa Đất phi nông nghiệp Đất ở Đất ở tại nông thôn Đất ở tại đô thị Đất chuyên dùng Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp Đất quốc phòng Đất an ninh Đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp
426,87
70,63
-
2,23 29,48
2,23 9,61
3,29 8,84
139,86
139,86
139,86
Đất có mục đích công cộng Đất tôn giáo tín ngưỡng Đất nghĩa trang, nghĩa địa Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng Đất phi nông nghiệp khác Đất chưa sử dụng Đất bằng chưa sử dụng
- - -
- - -
- - -
184
3. Diện tích đất bị thu hồi dành cho khu công nghiệp, qua các năm: (ha)
Diện tích đất
Tổng diện tích tự nhiên 2427 47 Đất bị thu hồi
2010 2009 2008 2007 2006 2005 2004 2003 2002 2001 2000 2427 2427 0 339
- 250
- 110
- 333
- 212
- 11
- 3
- -
- -
4. Thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ: (triệu đồng)
Thu nhập Thu nhập bình quân (triệu đ/năm/người)
2010 15
2005 8
2000 4
5. Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ: (hộ)
2010
2005
2000
STT
Hộ
1 Hộ nông nghiệp 2 Hộ hỗn hợp 3 Hộ phi nông nghiệp 4 Tổng
Hộ 405 - - 2025
% 20 - - 100
Hộ 416 - - 1775
% 24 - - 100
Hộ - - - -
% - - - -
6. Quy mô hộ gia đình ở xã: (hộ)
Số người trong hộ
Số hộ hiện có
Tỷ lệ (%)
Số hộ có từ 1 đến 3 người Số hộ có 4 người Số hộ có 5 người Số hộ có từ 6 người trở lên
450 697 719 304
Tổng số hộ toàn xã đến hết năm 2010 405 607 709 392
90 87 98,6 128
7. Nhân khẩu của xã qua các thời kỳ: (người)
Dân số
STT 1 2
2010 8210 1,1
2005 6824 1,1
2000 6244
-
-
-
3
-
-
-
Tổng số dân toàn xã Tỷ lệ phát triển dân số Diện tích bình quân đầu người (m2/ người) Tổng số sân nhập cư (KT2/3, chưa đăng ký)
4
8. Thống kê dân nhập cư qua các thời kỳ: (người)
2005
2000
STT
Dân cư
2010 Người %
Người
%
Người
%
185
100
Tổng số dân nhập cư 1 (KT2/3, chưa đăng ký) 2 Từ miền Tây Nam bộ 3 Từ miền Trung 4 Từ miền Bắc
4353 1088 1305 1960
100 24,9 29,9 45
1302 225 390 582
17,3 30 44,7
905 227 270 408
100 25 29,8 45
9. Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ: (người)
2005
2000
STT
Dân cư
2010 Người % 14,4 1 Học sinh, sinh viên 1184 56,9 2 Công nhân, viên chức, hưu trí 4679
Người 1300 3520
% 19 51,6
Người 1100 800
% 18,2 13,2
3
2052
25
1569
23
500
0,08
4
25
0,003
25
0,003
620
10,3
Kinh doanh, buôn bán nhỏ (bán hàng tại nhà, buôn bán vỉa hè, cho thuê nhà….) Thủ công nghiệp (làm giầy da, dệt len, làm mộc, thợ đục, thợ may…) Nghề tự do (Nội trợ, làm thuê, giúp việc, xây dựng, xe 5 ôm...) 6 Tổng
270 8210
0,32 100
410 6824
0,06 100
3020 6040
53 100
10. Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư: (người)
2005
STT
Dân cư
1 2
2010 Người % 0,03 69,8
130 3047
Người 39 911
% 0,03 70
2000 Người % 0,03 70,1
27 635
3
125
0,03
30
0,02
26
0,03
4
609
13,9
182
0,06
126
14
5
452
10,4
140
10,8
91
10
6
Học sinh, sinh viên Công nhân, viên chức, hưu trí Kinh doanh, buôn bán nhỏ (bán hàng tại nhà, buôn bán vỉa hè, cho thuê nhà….) Thủ công nghiệp (làm giầy da, dệt len, làm mộc, thợ đục, thợ may…) Nghề tự do (Nội trợ, làm thuê, giúp việc, xây dựng, xe ôm...) Tổng
4363
100
1302
100
905
100
11. Cơ cấu nhà ở phân theo các thời kỳ: (nhà)
2005
2000
STT
Nhà ở
1
Nhà kiên cố
2010 Số lượng % 3,2
66
Số lượng 32
% 1,8
Số lượng -
% -
186
2 3 4
Nhà bán kiên cố Nhà tạm Tổng
1945 14 2025
96,4 0,69 100
1400 243 1675
78,8 13,7 100
- - -
- - -
12. Công năng của các loại hình nhà của xã năm 2010
Loại hình nhà
Số lượng
Nhà biệt thự Nhà ống nhiều tấm Nhà đúc 1 tấm Nhà kiên cố nhưng lợp ngói/ tôn Nhà tạm (vách gỗ, lá, lợp lá, tôn) Tổng
Văn phòng - - - - - -
Công năng Để ở 10 0 56 1915 0 1981
Cho thuê trọ - - 10 30 - 40
- - - - - -
13. Số lượng các trang thiết bị chủ yếu trong gia đình (cái/chiếc)
2010
2005
2000
7 2022 359 434 420 1533 - 116 20 120 -
1220 50 10 36 850 - - - 46 -
STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
Trang thiết bị Ô tô Xe máy Điện thoại Tủ lạnh Đầu Video TV màu Dàn nghe nhạc các loại Máy vi tính Máy điều hòa nhiệt độ Máy giặt Internet
15 2822 636 615 920 2509 302 380 120 536 110
187
Phụ lục 3 Một số hình ảnh
Ảnh: Cổng chào ấp văn hóa Long Thọ, Nguồn: tác giả, 2011
Ảnh: Đình Mỹ Khoan, Xã Hiệp Phước Nguồn: tác giả, 2011
188
Ảnh: Đám rước ở đình Phú Trạch, Thạnh Phú Nguồn: tác giả, 2009
Ảnh: Nhà cổ xã Long Thọ Nguồn: tác giả, 2011
189
Ảnh: Khu nhà trọ của công nhân xã Hiệp Phước Nguồn: tác giả, 2011
Ảnh: Nhà trọ công nhân xã Thạnh Phú Nguồn: tác giả, 2011
190
Ảnh: Liên hoan tiếng hát công nhân KCN tổ chức trên địa bàn khu dân cư Nguồn: tác giả, 2011
Ảnh: Sân bóng đá xã Long Thọ Nguồn: tác giả, 2011
191
Ảnh: Tiệm bi-a ở xã Hiệp Phước Nguồn: tác giả, 2011
Ảnh: Trung tâm văn hóa thể thao xã Hiệp Phước Nguồn: tác giả, 2011 Phụ lục 4
192
Mẫu phiếu điều tra
Mẫu A: CÁ NHÂN
PHIẾU KHẢO SÁT THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA KHU CƯ DÂN CÔNG NGHIỆP ĐỒNG NAI
Ngày phỏng vấn………tháng……..năm 20….
I. SƠ LƯỢC BẢN THÂN:
1. Giới tính:
Nữ
Anh (chị) cho biết một số thông tin về bản thân: Nam
2. Năm sinh: .....................................................................................................................................
3. Nơi sinh:........................................................................................................................................
4. Dân tộc: ........................................................................................................................................
5. Tôn giáo: .......................................................................................................................................
6. Trình độ học vấn: ...........................................................................................................................
7. Tên cơ quan đang làm việc:..............................................................................................................
8. Địa chỉ cơ quan:.............................................................................................................................
9. Chỗ ở hiện nay: ..............................................................................................................................
........................................................................................................................................................
II. PHẦN KHẢO SÁT:
Anh (chị) vui lòng nghiên cứu Bảng câu hỏi, cho biết một số thông tin liên quan đến bản thân, công việc đang làm, các thiết chế và nhu cầu hưởng thụ văn hóa nghệ thuật - thể dục thể thao tại nơi ở và nơi làm việc của anh (chị) bằng cách đánh dấu chéo (x) hoặc điền vào ô (…..) ở Bảng trả lời.
STT
BẢNG CÂU HỎI
BẢNG TRẢ LỜI
1.
Tháng _______ năm _________
Anh (chị) đến làm việc tại cơ quan, đơn vị hiện nay từ tháng năm nào?
- Người địa phương - Người các tỉnh khác
2.
Anh (chị) là người địa phương hay ở các tỉnh khác, nếu ở các tỉnh khác thì anh (chị) cho biết đã đến tỉnh Đồng Nai vào năm nào?
+ Tỉnh:................................................. + Năm đến ĐN:....................................
Trước khi đến và làm việc ở
đây, anh (chị) đã làm việc gì?
3.
- Học sinh phổ thông - Học trường dạy nghề - Sinh viên CĐ, ĐH
193
- Chưa có việc làm - Bộ đội xuất ngũ - CB công nhân viên chức - Nông dân - Buôn bán - Khác: ……………………………………
Trình độ chuyên môn kỹ thuật
4.
hiện nay mà anh (chị) đạt được.
- Công nhân kỹ thuật - Bậc thợ ______/7 - Không có trình độ CMKT - Trung cấp kỹ thuật - Cao đẳng - Đại học - Trên đại học
Anh (chị) đang làm việc theo
5.
giờ hành chính hay theo ca.
- Giờ hành chính - Ca cố định - Ca không cố định
6.
Ngoài giờ làm việc tại cơ quan, đơn vị, anh (chị) có làm thêm để tăng thu nhập không?
- Không - Có - Thất thường - Số giờ /tuần _____________
Tổng thu nhập bình quân hàng
7.
tháng của anh (chị) là bao nhiêu?
- Dưới 300.000 đ - Từ 300.000 đ - 500.000 đ - Từ 500.000 đ - 1.000.000 đ - Từ 1.000.000 - 1.500.000 đ - Trên 1.500.000 đ
8.
Nhà ở của anh (chị) hiện nay?
- Nhà riêng - Nhà thuê - Nhà tập thể của đơn vị - Khác: …………………………………….
9.
Anh (chị) có dành thời gian để học tập nâng cao trình độ chuyên môn - kỹ thuật, ngoại ngữ, tin học không?
- Học tập chuyên môn - kỹ thuật - Học tập ngoại ngữ - Học tập tin học - Không học
B
Trình độ ngoại ngữ hiện nay
10.
của anh (chị)?
A C CĐ ĐH Trình độ: - Anh văn - Hoa văn - Pháp văn - Nga văn - Nhật - Đức - Khác
11.
Tại nơi anh (chị) ở có các khu sinh hoạt văn hóa, giáo dục, thông
- Công viên - Rạp hát
194
tin không?
- Nhà văn hóa - Thư viện - Bưu điện - Trường học - Trung tâm giáo dục thường xuyên - Khác: ……………………………………. ……………………………………………..
- Xem phim tại rạp:
+ T/xuyên (cid:0)
Không t/xuyên
- Sinh hoạt tại nhà văn hóa:
+ T/xuyên (cid:0)
Không t/xuyên - Sinh hoạt tại các tụ điểm văn hoá (ca, múa, nhạc, kịch…)
12.
Không t/xuyên
Anh (chị) có dành thời gian cho các hoạt động văn hóa hay không?
Không t/xuyên
+ T/xuyên (cid:0) - Đến thư viện + T/xuyên (cid:0) - Không sinh hoạt - Các hoạt động khác ............................................... ..............................................................................
Nơi anh (chị) ở có các khu sinh
13.
hoạt thể thao giải trí không?
- Sân bóng đá - Bóng chuyền - Bóng bàn - Tennis - Cầu lông - Võ thuật - Các sân chơi khác...................................................... ....................................................................................
14.
Anh (chị) thường dành thời gian cho các hoạt động thể thao nào?
- Môn thể thao: ......................................................... ................................................................................. - Không chơi thể thao
- Các khu du lịch văn hóa:
+ T/xuyên (cid:0)
Không t/xuyên
- Các di tích lịch sử văn hóa:
+ T/xuyên (cid:0)
Không t/xuyên
- Lễ hội truyền thống:
15.
Anh (chị) có thường xuyên đi tham quan hay không? (dưới 24 giờ)
+ T/xuyên (cid:0)
Không t/xuyên
- Dã ngoại (picnic):
+ T/xuyên (cid:0)
- Không đi
Không t/xuyên
- Các khu du lịch văn hóa:
+ T/xuyên (cid:0)
Không t/xuyên
Anh (chị) có thường xuyên đi
16.
- Các di tích lịch sử văn hóa:
du lịch hay không? (trên 24 giờ)
+ T/xuyên (cid:0)
Không t/xuyên
- Lễ hội truyền thống:
195
+ T/xuyên (cid:0)
Không t/xuyên
- Các danh lam thắng cảnh
Không t/xuyên
+ T/xuyên (cid:0)
- Nước ngoài
+ T/xuyên (cid:0)
Không t/xuyên
Không đi
- Văn hoá:
17.
+ Công viên + Phòng xem phim + Sân khấu (ca, múa, nhạc…) + Thư Viện (phòng đọc) + Hội trường sinh hoạt tập thể + Các thiết chế khác: ................................................
…………………………………………...
Trong cơ quan anh (chị) hiện nay đã có những thiết chế văn hóa, thể thao gì cho công nhân, nhân viên sinh hoạt?
- Thể dục - Thể thao
+ Sân chơi các bộ môn thể dục: …………
……………………………………………..
+ Sân chơi các bộ môn thể thao :...............................
………………………………………………..
- Hoạt động văn hóa văn nghệ:
+ T/xuyên
Không t/xuyên
- Hoạt động thể dục thể thao:
18.
+ T/xuyên (cid:0)
Không t/xuyên
- Hoạt động xã hội:
Anh (chị) có thường xuyên tham gia các hoạt động xã hội, VHVN - TDTT do cơ quan đơn vị tổ chức?
Không t/xuyên
+ T/xuyên (cid:0) - Không tham gia
19.
- Thiết thực - Không thiết thực - Không ý kiến
Theo anh (chị) việc xây dựng và nâng cấp các khu sinh hoạt văn hóa - thể thao tại cơ quan anh (chị) là việc làm:
20.
- Thiết thực - Không thiết thực - Không ý kiến
Theo anh (chị) việc xây dựng và nâng cấp các khu sinh hoạt văn hóa - thể thao tại xã, phường của các anh (chị) đang ở là việc làm:
- Văn hoá - Văn nghệ:
Theo anh (chị) cần xây dựng thêm và nâng cấp các khu sinh hoạt văn hóa Văn nghệ - Thể dục thể thao gì tại các xã, phường nơi các anh (chị) đang sinh sống?
21.
(cid:0)anh chị vui lòng đánh dấu (X) và điền tên các khu sinh hoạt văn hoá, bộ môn thể dục thể thao mà anh chị cảm thấy cần xây dựng và nâng cấp)
+ Công viên + Nhà Văn hoá + Rạp chiếu bóng + Bưu điện + Thư viện, phòng đọc sách + Các tụ điểm ca, múa, nhạc, kịch ( + Khác: .................................................................... .................................................................................... - Thể dục thể thao
196
+ Sân chơi các bộ môn thể dục.................................. .................................................................................... + Sân chơi các bộ môn thể thao: ............................... ....................................................................................
- Văn hoá:
Theo anh (chị) cần xây dựng và nâng cấp các khu sinh hoạt văn hóa văn nghệ - Thể dục thể thao gì tại cơ quan, đơn vị anh chị đang công tác?
22.
+ Công viên + Phòng xem phim + Sân khấu (ca, múa, nhạc…) + Thư Viện + Hội trường sinh hoạt tập thể + Khác: ....................................................................
…………………………………………...
- Thể dục - Thể thao
+ Sân chơi các bộ môn thể dục: ………… ………………………………………………..
(cid:0)anh chị vui lòng đánh dấu (X) và điền tên các khu sinh hoạt văn hoá, bộ môn thể dục thể thao mà anh chị cảm thấy cần xây dựng và nâng cấp)
+ Sân chơi các bộ môn thể thao :...............................
……………………………………………….
23.
Anh (chị) có nhu cầu thành lập, tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ không?
- Ban nhạc - Đội múa - Aâm nhạc - Kịch nói - Khác : ...................................................................... ……………………………………………….
Anh (chị) thích nghe loại nhạc
24.
nào nhất?
- Nhạc nước ngoài - Nhạc trẻ - Nhạc tiền chiến - Nhạc cách mạng - Nhạc vàng - Dân ca - Cải lương - Không thích nghe nhạc
25.
Anh (chị) thích xem phim tại rạp hay ở nhà và thích xem phim gì?
- Tại rạp - Tại nhà - Phim hình sự - Phim tình cảm - Phim tâm lý xã hội - Phim lịch sử - Các loại phim khác: ………………………
Trong các ngày nghỉ lễ, anh
26.
(chị) thường làm gì?
- Về quê - Thăm hỏi bạn bè - Sinh hoạt truyền thống - Đi tham quan - Đi du lịch - Nghỉ tại nhà
197
- Khác: ........................................................................ ....................................................................................
Tại khu vực anh (chị) ở có dịch
27.
vụ internet không?
- Có - Không
28.
Anh (chị) có thường sử dụng Internet không và với mục đích gì?
- Thường xuyên - Không thường xuyên - Mục đích: + giải trí (cid:0) - Không sử dụng
+ Thông tin
29
Theo anh (chị) việc tham gia các hoạt động Văn hoá văn nghệ vào những khoảng thời gian nào trong ngày là thích hợp, số giờ tham gia?
- Buổi sáng sớm - Buổi trưa - Buổi chiều - Buổi tối - Ý kiến khác……………………………….. - Số giờ có thể tham gia trong ngày ……….
30
Theo anh (chị) việc tham gia các hoạt động Thể dục thể thao vào những khoảng thời gian nào trong ngày là thích hợp, số giờ tham gia?
- Buổi sáng sớm - Buổi trưa - Buổi chiều - Buổi tối - Ý kiến khác……………………………….. - Số giờ có thể tham gia trong ngày ……….
31
- Từ 5000đ - 10.000đ - Từ 10.000đ - 20.000đ - Ý kiến khác ………………………………. ……………………………………………..
Theo anh (chị) một số hoạt động Văn hoá văn nghệ - Thể dục thể thao tại nơi anh chị cư trú nếu có bán vé thì giá vé khoảng bao nhiêu là phù hợp với anh chị?
198
Mẫu B: Cơ quan, đơn vị
PHIẾU KHẢO SÁT
THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA KHU CƯ DÂN
CÔNG NGHIỆP ĐỒNG NAI
Ngày khảo sát ……… tháng ………… năm 200……
I. SƠ LƯỢC VỀ CƠ QUAN, ĐƠN VỊ :
1. Tên cơ quan, đơn vị : .............................................................................................................
2. Năm thành lập : ....................................................................................................................
3. Sản phẩm : ...........................................................................................................................
4. Số lượng công nhân, nhân viên : ...........................................................................................
II. PHẦN KHẢO SÁT :
Ông (bà) vui lòng nghiên cứu Bảng câu hỏi, cho biết một số thông tin liên quan đến các thiết chế và các hoạt động văn hóa văn nghệ – thể dục thể thao của cơ quan dành cho nhân viên, công nhân bằng cách đánh dấu chéo (x) hoặc điền vào ô (…) ở Bảng trả lời.
Côngviệc: ………………………………………………………………… Chức vụ: ………………………………………………………………………
BẢNG CÂU HỎI BẢNG TRẢ LỜI 1. Ông (bà) vui lòng cho biết công việc chính và chức vụ hiện nay.
2. Cơ quan, đơn vị của Ông (bà) là cơ quan.
- Liên doanh - 100% vốn nước ngoài - Nhà nước - Tư nhân trong nước Có Không - Nhân viên - Công nhân
Có Không Trong nước Tỷ lệ % : …………………………………………… Nước ngoài Tỷ lệ % : ……………………………………………
- Tổ chức Thường xuyên Không T/xuyên - Tỷ lệ %: ………………………………………………………… - Không tổ chức
3. Cơ quan, đơn vị của Ông (bà) có nhà ở tập thể cho nhân viên, công nhân không? 4. Cơ quan, đơn vị của Ông (bà) có cho nhân viên đi học nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn? 5. Cơ quan, đơn vị của Ông (bà) có tổ chức học tập nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn cho đội ngũ công nhân tại cơ quan, đơn vị?
199
Thường xuyên Không thường xuyên Không tổ chức
6. Cơ quan, đơn vị Ông (bà) có thường xuyên tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, thời sự cho đội ngũ công nhân, nhân viên?
Phòng đọc Sân khấu (ca, múa, nhạc) Công viên Hội trường sinh hoạt tập thể Phòng xem phim Khác : ……………………………………………………………………
7. Hiện nay trong cơ quan, đơn vị Ông (bà) đã có những địa điểm sinh hoạt văn hoá gì cho công nhân ?
…………………………………………………………………………………… - Thể dục:
8. Hiện nay trong cơ quan đơn vị Ông (bà) đã có những sân chơi thể dục thể thao gì cho công nhân, nhân viên ?
Thể dục thể hình Thể dục thẩm mỹ Thể dục dụng cụ Khác: …………………………………………………………………………… - Thể thao: Sân bóng đá Sân bóng chuyền Phòng bóng bàn Phòng cầu lông Sân Tennis Hồ bơi Khác : ……………………………………………………………………………
9. Cơ quan Ông (bà) có tổ chức các hoạt động văn hoá văn nghệ : (Tổ chức các cuộc thi, tổ chức đêm diễn cho công nhân, nhân viên xem). 10. Các hoạt động văn hoá văn nghệ có được tổ chức thường xuyên?
11. Hàng năm cơ quan Ông (bà) có tổ chức các cuộc thi TDTT cho nhân viên – công nhân ?
- Ca, múa, nhạc - Diễn kịch - Thi tìm hiểu - Thi sáng tác - Không tổ chức - Các hình thức khác : ………………………………………… …………………………………………………………………………………………… - Thường xuyên - Không thường xuyên - Nhân các dịp lễ, kỷ niệm - Thể dục Môn : ………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… - Thể thao : Môn : …………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… - Các trò chơi dân gian - Không tổ chức Thể dục : Thường xuyên Không T/ xuyên Thể thao :
12. Hoạt động TDTT có được tổ chức thường xuyên ?
Thường xuyên Không T/ xuyên
200
Tổ chức hội thao nhân
các dịp lễ, kỷ niệm :
13. Trong cơ quan, đơn vị của ông (bà) đã thành lập được:
14. Cơ quan anh (chị) đã thành lập các tổ chức.
Không tổ chức - Đội công tác xã hội - Đội văn nghệ : Ca Múa Kịch - Ban nhạc - Khác : ………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… - Công đoàn - Đoàn thanh niên - Không - Đoàn thanh niên : ……………………………% - Công đoàn : ……………………………%
15. Có bao nhiêu % công nhân, nhân viên tham gia vào các tổ chức.
16. Cơ quan của ông (bà) có tổ chức giao lưu văn hoá thể thao với các cơ quan đơn vị khác.
Thường xuyên Không thường xuyên - Học tập, tìm hiểu - Văn hoá, văn nghệ - T dục T Thao - Không tổ chức Nên tổ chức Không nên Loại hình : ……………………………………………………………………… …………………………………………………………………… Không ý kiến
- Tác phong sinh hoạt - Tác phong giao tiếp - Tác phong làm việc - Giờ giấc làm việc - Khác : ………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………
Tính cần cù Tính sáng tạo Tính cộng đồng Khác : …………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………
- Các di tích lịch sử văn hoá. Số lần : …………………/năm. - Các khu du lịch văn hoá.
17. Theo ông, cơ quan có nên tổ chức giao lưu văn hoá - văn nghệ – thể dục – thể thao giữa công nhân Việt Nam với nhân viên – công nhân nước ngoài không, loại hình gì cho phù hợp? 18. Theo ông (bà) nhân viên – công nhân khi làm việc trong môi trường công nghiệp hiện nay thì cần phải khắc phục những gì ? 19. Theo ông (bà) nhân viên, công nhân người Việt khi làm việc cho các Công ty, nhà máy, đơn vị trong và ngoài nước có những ưu điểm gì ? 20. Hàng năm cơ quan ông (bà) có tổ chức cho nhân
201
viên, công nhân đi tham quan (dưới 24giờ).
Số lần : …………………./năm. - Các lễ hội truyền thống. Số lần : …………………./năm. - Khác : ………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………… - Không tổ chức - Tổ chức số lần : …………………./năm. - Địa điểm thường đi : …………………………………………… …………………………………………………………………………………………… - Không tổ chức
21. Hàng năm cơ quan ông (bà) có tổ chức cho công nhân – nhân viên đi du lịch, nghỉ mát (đi trên 24 giờ).
22. Theo ông (bà) cơ quan, đơn vị cần xây dựng mới và cải tạo các khu sinh hoạt văn hoá, thông tin gì cho công nhân, nhân viên.
23. Theo ông (bà) cơ quan, đơn vị cần xây dựng mới và nâng cấp các sân chơi TDTT gì cho đội ngũ công nhân, nhân viên.
24. Ông (bà) cho biết các khu sinh hoạt văn hoá văn nghệ TDTT tại cơ quan đơn vị có đáp ứng được nhu cầu của công nhân, nhân viên.
- Trạm bưu điện - Nhà văn hoá - Công viên - Phòng xem phim - Phòng Karaoke - Dịch vụ Internet - Phòng đọc - Khác : ………………………………………………………………………… …………………………………………………………………… - Thể dục : Môn : …………………………………………………………………… ………………………………………………………………………… - Thể thao : Môn : …………………………………………………………………… …………………………………………………………………… Văn hoá, văn nghệ. Đầy đủ Tương đối Chưa đủ Thể dục thể thao. Đầy đủ Tương đối Chưa đủ - Buổi sáng - Buổi trưa - Buổi chiều - Buổi tối
25. Ông (bà) có thể cho biết nhu cầu giải trí của công nhân, nhân viên của cơ quan, đơn vị vào khỏang thời gian nào trong ngày?
202
Mẫu C: Xã hội
PHIẾU KHẢO SÁT THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA KHU CƯ DÂN CÔNG NGHIỆP ĐỒNG NAI
Ông (bà) vui lòng nghiên cứu Bảng câu hỏi, cho biết các thông tin về các thiết chế
BẢNG TRẢ LỜI - Công việc : ………………………………………………… - Chức vụ : ……………………………………………………… - Dân số : ………………………………………………………… - Mật độ : …………………………………………………………
- Ấp văn hoá : ……………/………………. - Gia đình văn hoá: ………… /…………….
Ngày Khảo sát ………….. tháng…….. năm 200….. Tên xã, phường :…………………………………………….. Huyện:……………………………………………………………. và nhu cầu hưởng thụ văn hoá, văn nghệ, Thể dục thể thao của cư dân trên địa bàn phường, xã của ông (bà) bằng cách đánh dấu (x) hoặc điền vào ô ( …………) ở Bảng Trả lời. BẢNG CÂU HỎI 1. Ông (bà) vui lòng cho biết công việc chính và chức vụ hiện nay. 2. Dân số và mật độ dân cư trên địa bàn xã, phường hiện nay (mật độ người/km2). 3. Trên địa bàn xã, phường nhà có bao nhiêu ấp, gia đình đạt tiêu chuẩn văn hoá ? (Ông (bà) vui lòng cho biết rõ số ấp khu phố văn hoá/tổng số ấp (khu phố) trên địa bàn : Số hộ gia đình văn hoá/tổng số hộ gia đình).
4. Ông (bà) vui lòng cho biết trên địa bàn xã, phường nhà đã có những thiết chế văn hoá do nhà nước xây dựng?; hoạt động của những thiết chế đó có thường xuyên không ?
5. Trên địa bàn xã, phường nhà đã có những trường học, trung tâm đào tạo.
Thường xuyên Không T/xuyên - Thư viện - Nhà văn hoá - Khu vui chơi, giải trí - Công viên - Rạp chiếu bóng - Sân khấu (ca, múa, nhạc) - Sân chơi tập thể - Bưu điện - Các thiết chế khác ………………………………………… …………………………………………… Cấp I Cấp II Cấp III Trung tâm ngoại ngữ & tin học Trường dạy nghề Khác : ……………………………………………………………………
203
6. Ông (bà) có thể nhận xét các thiết chế văn hoá trên địa bàn xã phường nhà.
7. Theo ông (bà) cần xây dựng thêm và cải tạo, nâng cấp các thiết chế văn hoá gì cho phù hợp với tình hình hiện nay trên địa bàn phường, xã nhà?
8. Trên địa bàn xã, phường đã có những khu sinh hoạt TDTT hoạt động của các sân chơi này như thế nào ?
9. Ông (bà) có nhận xét về các địa điểm sinh hoạt TDTT trên địa bàn xã, phường nhà.
10. Theo quan điểm của ông(bà), nhà nước cần đầu tư xây dựng thêm và cải tạo, nâng cấp các khu sinh hoạt TDTT gì cho phù hợp với tình hình hiện nay trên địa bàn xã, phường nhà?
- Đáp ứng đủ nhu cầu - Chưa đáp ứng đủ nhu cầu - Phù hợp - Chưa phù hợp - Ý kiến khác : …………………………………………………. ………………………………………………………………………………….. - Bưu điện - Thư viện (phòng đọc) - Nhà văn hoá - Công viên - Rạp chiếu phim - Sâu khấu (ca, múa, nhạc, kịch) - Sân chơi sinh hoạt tập thể - Khác : ………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………... Thường xuyên Không T/xuyên Thể dục : Thể dục thể hình Thể dục thẩm mỹ Khác : ……………………………… ……………………………… ……………………………… Sân chơi thể thao : Thường xuyên Không t/xuyên Bóng đá Bóng chuyền Bóng bàn Tennis Cầu lông Hồ bơi Khác : ……………………………… ……………………………… ……………………………… - Chưa đáp ứng đủ nhu cầu - Đáp ứng đủ nhu cầu - Phù hợp - Không phù hợp - Ý kiến khác : ………………………….……………………… ………………………………………………………………………………… Sân chơi thể dục : Thể dục thể hình Thể dục thẩm mỹ Thể dục nhịp điệu Khác : …………………………………………………………… …………………………………………………………… Sân chơi thể thao : Bóng đá Bóng chuyền
204
11. Tại xã, phường hiện nay đã có những thiết chế văn hoá tôn giáo, tín ngưỡng. (Nếu có thể xin ông (bà) cho biết cụ thể số lượng).
12. Hoạt động của các thiết chế trên.
13. Các lễ hội và những ngày lễ lớn trong năm của các thiết chế trên. Ông (bà) cho biết tên các lễ, hội, ngày diễn ra, âm lịch hoặc dương lịch.
14. Theo ông (bà) các thiết chế văn hoá trên có phù hợp với nhu cầu về tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân trên địa bàn xã, phường nhà.
15. Trên địa bàn của xã, phường nhà đã có những tụ điểm sinh hoạt văn hoá của tư nhân, hoạt động của các địa điểm này như thế nào ?
Bóng bàn Tennis Võ thuật Cầu lông Các sân chơi khác :……………………………… …………………………………………………………………………… Số lượng Đình : ……………………………………… Chùa : ……………………………………… Nhà thờ : - Thiên chúa giáo ……………………………………… - Tin lành ……………………………………… Miếu : ………………………………………… Thánh thất ………………………………………… Thường xuyên Không t/xuyên Đình Chùa Nhà thờ Thiên chúa giáo Tin lành Miếu Thánh thất Đình : ……………………………………………………………… ……………………………………………………………… Chùa : ……………………………………………………………… ……………………………………………………………… Nhà thờ : - Thiên chúa giáo:…………………………………………… ……………………………………………………………… - Tin lành ……………………………………………………………… ……………………………………………………………… Miếu : ……………………………………………………………… ……………………………………………………………… Các lễ hội khác : ……………………………………………… ……………………………………………………………… Phù hợp Không phù hợp Ý kiến khác : ……………………………………………………… ……………………………………………………………… Thường xuyên Không T/xuyên Đại lý Bưu điện Điểm cho thuê video Điểm chiếu phim Karaoke Tụ điểm ca nhạc Quán càfe Thường xuyên Không T/xuyên Thể dục :
16. Trên địa bàn của xã, phường nhà đã có
205
những khu vực vui chơi thể thao, thể dục của tư nhân, hoạt động của các địa điểm này như thế nào ?
17. Theo ông (bà) những tụ điểm sinh hoạt văn hoá văn nghệ thể dục thể thao của tư nhân có phù hợp với nhu cầu của cư dân.
18. Tại địa phương đã thành lập được các đội, ban văn hoá, văn nghệ.
19. Hoạt động của những đội này như thế nào ?
20. Nguồn kinh phí thu chi của các đội, ban này.
21. Tại địa phương đã thành lập được các đội Thể dục thể thao:
Thể hình Thẩm mỹ Nhịp điệu ………………………………… ………………………………….. Thể thao : Bóng đá Bóng bàn Bóng chuyền Tennis Cầu lông Võ thuật Hồ bơi ………………………………… ………………………………… ………………………………… - Phù hợp - Chưa phù hợp - Bình thường - Ý kiến khác : ……………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………… - Ban nhạc - Đội nhạc kèn - Đội múa - Đội thông tin cổ động - Các ban đội khác : ……………………………………… ……………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… - Biểu diễn - Giao lưu với các xã phường khác - Không hoạt động - Hoạt động không thường xuyên - Hoạt động thường xuyên Khác : …………………………………………………………… …………………………………………………………… - Tự thu chi - Được cơ quan, đơn vị tài trợ - Tư nhân tài trợ - Khác : …………………………………………………………… ……………………………………………………………… Thể dục : Thể hình Thẩm mỹ ……………………………………………………………… ……………………………………………………………… Thể thao : Bóng đá Bóng chuyền Bóng bàn
206
22. Hoạt động của các đội Thể dục thể thao này như thế nào ?
23. Nguồn kinh phí hoạt động của các đội này.
Tennis Võ thuật ……………………………………………………………… ……………………………………………………………… ……………………………………………………………… Thường xuyên Không T/xuyên Luyện tập Thi đấu Giao hữu Khác : ……………………………………………………………… ……………………………………………………………… Tự thu chi Cơ quan, đợn vị tài trợ Tư nhân tài trợ Khác : ……………………………………………………………… ……………………………………………………………… - Tăng nhanh - Tăng chậm - Không tăng - Loại hình : + Đa dạng + Không thay đổi + Khác : ………………………………………………………… …………………………………………………………
24. Xin ông (bà) cho biết từ sau quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc tuần làm việc 40 giờ thì nhu cầu hưởng thụ văn hoá, văn nghệ. Thể dục thể thao của cư dân ở đây như thế nào ? Loại hình như thế nào ?
25. Đối tượng hưởng thụ các loại hình văn hoá, văn nghệ – TDTT tại địa phương là những đối tượng gì? những đối tượng nào chủ yếu.
- Người lao động tại các KCN - Cư dân địa phương và các khu dân cư - Khách vãng lai - Đối tượng chủ yếu : ……………………………………… ………………………………………………………………
207
Phụ lục 5
DANH SÁCH PHỎNG VẤN
1. Tỉnh Đồng Nai:
- Ông Huỳnh Văn Tới, Ủy viên Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
(2008 - 2009 - 2011)
- Ông Nguyễn Thành Trí, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh (2012);
- Ông Huỳnh Tấn Kiệt, Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch Liên đoàn Lao
động tỉnh (2009 – 2011 - 2012);
- Ông Huỳnh Văn Tịnh - Tỉnh ủy viên, nguyên Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao
động tỉnh (2010).
2. Thành phố Biên Hòa:
- Ông Nguyễn Phú Cường, Ủy viên Trung ương Đảng dự khuyết, Bí thư
Thành ủy Biên Hòa (2012);
- Ông Trần Tuấn Liêm, Chủ tịch UBND thành phố Biên Hòa (2011 - 2012);
- Linh mục Philippe Lê Văn Năng, Chánh xứ Biên Hòa (2012).
3. Huyện Nhơn Trạch:
- Ông Nguyễn Văn Đức, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy (2011 - 2012);
- Ông Lê Vân Chính, Phó Chủ tịch UBND huyện Nhơn Trạch (2011).
4. Huyện Vĩnh Cửu:
- Ông Thái Văn Ri, Phó Bí thư Huyện ủy (2011 - 2012);
- Ông Trần Văn Phước, Trưởng phòng Văn hóa Thông tin (2012).
5. Phỏng vấn tại ba xã:
Xã Thạnh Phú (huyện Vĩnh Cửu):
- Mai Mỹ Duyên, phó Chủ tịch UBND xã (2012);
- Mai Văn Đức - Trưởng ban Văn hóa - Thông tin xã (2012);
- Linh mục Thomas Lâm Văn King - Chánh xứ Tân Triều (2011).
- Huỳnh Văn Cư, sinh 1955, trưởng ấp 1 (2012);
- Phan Văn Châu, sinh 1963, trưởng ấp 2 (2012);
208
- Nguyễn Như Lộc, sinh 1963, trưởng ấp 5(2012);
- Lê Văn Bé, sinh 1948, Địa chỉ, 57A tổ 10 ấp 1 (Trưởng Ban quý tế Đình
Thần Phú trạch ấp 2 xã Thạnh Phú) (2012);
- Trần Thị Ngọc Kiều, sinh 1962, cạnh chùa Lâm Bửu, ấp 2 (2010);
- Trần Thị Ngọc Mai, sinh 1976, cạnh chùa Lâm Bửu, ấp 2 (2011);
- Bùi Thị Bảy, sinh 1960 cạnh chùa Tân Sơn, ấp 6 (2012);
- Chủ nhà trọ Đoàn Hữu Hạnh, sinh 1956, khu nhà trọ, 48A tổ 12 ấp 1, Thạnh
Phú - Vĩnh Cửu (2012);
- Chủ nhà trọ Mạch Văn Chuyển ấp 5, khu nhà trọ, 48A tổ 12 ấp 1 - Thạnh
Phú - Vĩnh Cửu (2010 - 2012);
- Vạn Ngọc Thoáng, sinh 1984, huyện Ninh Phước - Ninh Thuận (2012);
- Phú Thị Ngọc Thuốc, sinh 1984, huyện Thuận Nam - Ninh Thuận (2012);
- Nguyễn Văn Nhuận, huyện Mỹ Tú, Sóc Trăng, công nhân nhà máy
Changshin (2012);
- Trần Thị Kim Hoa sinh 1980, thị trấn Vĩnh An, công nhân nhà máy
Changshin (2012);
- Thập Ngọc Văn Trung sinh 1983, quê Ninh Thuận (2012);
- Nguyễn Minh Toàn sinh 1988, quê Kiên Giang (2012);
- Phạm Thị Nhung sinh 1989, quê Nghệ An (2012).
Xã Hiệp Phước (thành phố Nhơn Trạch):
- Đoàn Văn Trúng, Chủ tịch UBND xã (2012);
- Trương Văn Dũng, Phó Chủ tịch UBND xã (2012);
- Phạm Minh Phước, Chủ tịch Công đoàn công ty TNHH bao bì Việt Long
(2012).
- Anh Kiệt, Chủ tịch Công đoàn công ty Dona Quế Bằng (2011);
- Chú Chương, phó Giám đốc Công ty Dona Quế Bằng (2012);
- Đinh Văn Huyền, phụ trách Văn hóa - Xã hội xã (2012);
- Nguyễn Minh Tới, phụ trách Tôn giáo dân tộc (2009 – 2010 - 2012);
- Phạm Tiến Dũng, phó Giám đốc Trung tâm Văn hóa xã (2012);
209
- Trần Văn Bảy, trưởng ấp 1 (2011 - 2012);
- Nguyễn Ngọc Tân, trưởng ấp 2 (2011 - 2012);
- Đoàn Văn Tường, trưởng ấp 5 (2011 -2012);
- Phan Văn Cải, sinh 1947, ấp 2 xã Hiệp Phước, Trưởng Ban quý tế Đình thần
Phước Kiểng (2011 - 2012);
- Phạm Tiến Dũng, phó Giám đốc Trung tâm Văn hóa xã (2012);;
- Nguyễn Ngọc Quang, chủ nhà trọ ấp 1 (2012);
- Công nhân Nguyễn Hữu Hải, quê Quảng Bình ở trọ ấp 1 (2012);
- Công nhân Nguyễn thị Thanh Thảo, quê Nghệ An ở trọ ấp 2 (2012);
- Công nhân Trần Thanh Minh, ở trọ ấp 3 (2012);
- Nguyễn Văn Tấn, chủ khu nhà trọ ấp 2 (2011 - 2012);
- Huỳnh Thị Trúc, 37 tuổi, Châu Đốc An Giang.
- Tống Thanh Phong, sinh 1967, Tân Châu, An Giang (2012);.
- Tống Thị Quỳnh Như, 26 tuối, sinh An Giang, công ty JUNNGANG VINA
(2012);
- Võ Hoàng Vũ, 34 tuổi, Phú Tân, An Giang, Công
ty HUALON
COORPORATION (2012);.
- Huỳnh Thị Bé Ba, 34 tuổi, quê Phong Điền, Cần Thơ (2012);
Xã Long Thọ (thành phố Nhơn Trạch):
- Ông Võ Văn Tính – Chủ tịch UBND xã (2011 - 2012);;
- Ông Huỳnh Thế Vinh – Phó Chủ tịch UBND xã (2011 - 2012);;
- Ông Nguyễn Tấn Phát, Phó Chủ tịch UBND xã phụ trách khối Văn hóa-Xã
hội kiêm Giám đốc Trung tâm Văn hóa xã (2012);;
Ông Nguyễn Đức Tự, nguyên Phó Chủ tịch UBND xã phụ trách khối Văn hóa
-Xã hội (2011);
- Nguyễn Thông Huyền Vũ, 26 tuổi, cán bộ Ban Văn hóa – Thông tin xã
(2011 - 2012);
- Nữ tu Phan Thị Lệ, 60 tuổi, trụ trì chùa Phước Thạnh (2009 - 2012);
- Nguyễn Văn Xuân, 40 tuổi, trưởng ấp 4 (2011 - 2012);
210
- Mai Văn Dỉ, 73 tuổi, ấp 4 (2008 - 2012);
- Mai Văn Thượng, 73 tuổi, ấp 4 (2011);
- Trần Văn Hoàng, 55 tuổi, ấp 3 (2011);
- Nguyễn Văn Sách, 60 tuổi, chủ nhà trọ ấp 2 (2011 - 2012);
- Nguyễn Thị Thu Sang, 36 tuổi, chủ nhà trọ ấp 1 (2012);
- Mai Sơn Tuyên, 24 tuổi, quê Triệu Sơn, Thanh Hóa, nhân viên bảo vệ Công ty
HUD (2012);
- Lê Văn Tâm, 24 tuổi, quê Triệu Sơn, Thanh Hóa, nhân viên bảo vệ Công ty
HUD (2012);
- Trần Hoàng Phụng, 31 tuổi, xã Phước Minh, Gò Quao, Kiên Giang (2012);
- Nguyễn Ngợi Duyên, 31 tuổi, xã Phước Minh, Gò Quao, Kiên Giang (2012);
- Lê Thị Hồng, 19 tuổi, quê Quảng Bình (2012);