BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM

-----------------------

NGUYỄN VĂN QUYẾT

NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG NÔNG NGHIỆP-NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP (Thông qua nghiên cứu trường hợp tỉnh Đồng Nai)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Hà Nội, 2013

2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM

-----------------------

NGUYỄN VĂN QUYẾT Văn Quyết

NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG NÔNG NGHIỆP-NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP (Thông qua nghiên cứu trường hợp tỉnh Đồng Nai)

Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số: 62 31 70 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. ĐẶNG VIỆT BÍCH

PGS.TS. LƯƠNG HỒNG QUANG

Hà Nội, 2013

3

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án là do tôi viết và chưa công bố. Các cứ liệu nêu ra trong luận án là trung thực, khách quan. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình. Hà Nội, ngày tháng năm 2013

Nghiên cứu sinh

4

MỤC LỤC ..............................................................................................................4

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT............................................5

DANH MỤC CÁC BẢNG ......................................................................................6

MỞ ĐẦU ................................................................................................................8

Chương 1. PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRONG TIẾN TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH ĐỒNG NAI ............................ 24

1.1. Các cơ sở lý thuyết về biến đổi văn hóa......................................... ….. ….24 1.2. Vài nét về tỉnh Đồng Nai...........................................................................30 1.3. Thành tựu kinh tế văn hóa xã hội............................................................... 37 1.4. Mô tả các cộng đồng được khảo sát...........................................................40 Tiểu kết .................................................................................................................67

Chương 2. CÁC BIẾN ĐỔI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ KHU CÔNG NGHIỆP .............................................................. 69

2.1. Từ bình diện cộng đồng - sự tham gia của người dân vào các nghi lễ cộng đồng.................................................................................................................69 2.2. Các nghi lễ tại gia đình..............................................................................91 2.3. Từ bình diện cá nhân - các hưởng thụ văn hóa trong đời sống hàng ngày 101 Tiểu kết ...............................................................................................................113

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA

CHO CÁC CỘNG ĐỒNG NÔNG THÔN TRONG CÁC KCN...........................116

3.1. Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời sống văn hóa cho các cộng đòng nông thôn trong các KCN ....................................................... 116 3.2. Xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách ở tầm vĩ mô ...........................124 3.3. Xây dựng các mô hình phát triển văn hóa................................................ 127 3.4...... Các biện pháp tăng cường phát triển văn hóa tại các cộng đồng dân cư có KCN ở bình diện tỉnh Đồng Nai..................................................................... 141 Tiểu kết ...............................................................................................................147

KẾT LUẬN......................................................................................................... 149

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................................................. 154

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................155

PHỤ LỤC............................................................................................................169

MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN....................................................................................................3

5

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ÂL Âm lịch

CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH Chủ nghĩa xã hội

ĐTH Đô thị hóa

FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP Tổng sản phẩm quốc nội

ILO Tổ chức Lao động Quốc tế

KCN Khu công nghiệp

KKT Khu kỹ thuật

LAPTS Luận án phó tiến sĩ

LLSX Lực lượng sản xuất

NCKH Nghiên cứu khoa học

Nxb Nhà xuất bản

ODA Vốn đầu tư nước ngoài

QHSX Quan hệ sản xuất

TDĐKXDĐSVH Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá

TDTT Thể dục thể thao

Tp. HCM Thành phố Hồ Chí Minh

tr Trang

UBND Ủy ban nhân dân

VHTT Văn hóa Thông tin

6

Bảng 1: Quy hoạch phát triển một số KCN lớn của tỉnh Đồng Nai

32

Bảng 2: Tổng diện tích đất bị thu hồi qua các năm

44

Bảng 3: Tổng diện tích đất qua các thời kỳ

44

Bảng 4: Thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ

45

Bảng 5: Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ

45

Bảng 6: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ

46

Bảng 7: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư

46

Bảng 8: Diện tích đất bị thu hồi xã Thạnh Phú

48

Bảng 9: Nhân khẩu của xã qua các thời kỳ

48

Bảng 10: Dân nhập cư qua các thời kỳ

49

Bảng 11: Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ

50

Bảng 12: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ

50

Bảng 13: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư

51

Bảng 14: Thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ

52

Bảng 15: Tổng diện tích đất bị thu hồi qua các năm

53

Bảng 16: Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ

53

Bảng 17: Thống kê dân nhập cư qua các thời kỳ

54

Bảng 18: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ

54

Bảng 19: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư

55

Bảng 20: Tổng diện tích tự nhiên bị thu hồi để xây dựng các KCN ở 3 xã

57

Bảng 21: Diện tích đất dành cho nhà trọ trên tổng quỹ đất của hộ ở 3 xã

58

Bảng 22: Lương công nhân qua các thời kỳ 3 xã

59

Bảng 23: Khoản tiền trung bình chi cho thuê nhà một năm của người lao động

60

Bảng 24: Thu nhập trung bình của chủ nhà trọ qua các năm

62

Bảng 25: So sánh thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ

64

Bảng 26: Mức độ đi chùa/nhà thờ trong thời gian rảnh rỗi

68

Bảng 27: Người tham gia sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng tại địa phương

69

Bảng 28: Người tham gia vào các thiết chế văn hóa: Cư dân địa phương

70

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

7

Bảng 29: Người tham gia vào các thiết chế văn hóa: Người dân nhập cư

71

Bảng 30 : Nghi thức trong lễ Kỳ Yên

76

Bảng 31: Chương trình hoạt động của các giáo xứ trong một năm

87

Bảng 32: Nơi tổ chức tang lễ

94

Bảng 33: Hình thức tổ chức tang lễ

94

Bảng 34 Nơi tổ chức đám cưới

98

Bảng 35 Việc tổ chức cưới: Lý do lựa chọn

98

Bảng 36 Tổ chức đám cưới cho người lao động gần nơi ở

99

Bảng 37 Tham gia các hoạt động sinh hoạt văn hóa tại nhà máy

102

Bảng 38 Nhà máy của anh chị có tổ chức bất kỳ hoạt động văn hóa nào dưới đây 103

Bảng 39 Tỷ lệ những người biết đến các hoạt động văn hóa do nhà máy tổ

104

chức và có tham gia các hoạt động này

Bảng 40 Mức độ thường xuyên trong các hoạt động giải trí dưới đây

105

Bảng 41 Mức độ thường xuyên trong các hoạt động giải trí phân theo giới tính 106

Bảng 42 Mức độ thường xuyên trong các hoạt động giải trí của nhóm chưa lập

107

gia đình phân theo giới tính

Bảng 43 Số lần bình quân/người/lần đến các điểm văn hóa dưới đây

108

Bảng 44 Các trang thiết bị chủ yếu trong các gia đình cư dân tại chỗ xã Long Thọ 109

Bảng 45 Các trang thiết bị chủ yếu trong các gia đình cư dân tại chỗ xã Hiệp Phước 110

Bảng 46 Các trang thiết bị chủ yếu trong các gia đình cư dân tại chỗ xã Thạnh Phú 110

111

112

112

131

133

133

135

136

Bảng 47 Khu sinh hoạt văn hóa, giáo dục, thông tin Bảng 48 Tham gia hoạt động văn hóa không Bảng 49 Tham gia các hoạt động thể thao Bảng 50 Tổ chức các hoạt động văn hoá trong các dịp lễ, các sự kiện Bảng 51 Tổ chức các hoạt động văn hoá thường xuyên Bảng 52 Tổ chức các hoạt động can thiệp từ trên xuống Bảng 53 Tổ chức tại Trung tâm VHTT xã/phường Bảng 54 Tổ chức tại các khu dân cư có công nhân sinh sống Bảng 55 Các hoạt động can thiệp từ trên xuống

137

Biểu đồ số 1: So sánh thu nhập bình quân đầu người của ba xã

63

8

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quá trình CNH, HĐH đất nước với sự đầu tư của các đối tác nước ngoài

đã hình thành ở nước ta các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ

cao (gọi chung là KCN), trong đó tập trung vào các tỉnh Đông Nam Bộ vốn

đã có những tiềm lực công nghiệp trước 1975 như Bình Dương, Tp. HCM,

Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. Từ các mô hình này, các KCN đã được mở

rộng ra các khu vực Trung và Bắc Bộ [77]. Các KCN đã tạo nên một nguồn

lực phát triển mới về sức sản xuất, góp phần đưa nước ta tham gia vào quá

trình phân công lao động quốc tế. Phương thức CNH bằng việc phát triển các

KCN đã cho phép khai thác tốt tài nguyên, nguồn lực lao động, sử dụng vốn,

khoa học công nghệ, trình độ tổ chức quản lý,... của các nước tiên tiến vào

quá trình sản xuất kinh doanh, tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có giá trị

thương phẩm trên thị trường. Ở bình diện các tỉnh, việc quy hoạch và phát

triển các KCN trên các địa phương đang được xem như một phương thức

nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện CNH, HĐH trên địa bàn.

Về mặt xã hội và văn hoá, việc hình thành các KCN đã tạo nên những

luồng di cư mới từ nông thôn ra đô thị, từ các tỉnh có nền kinh tế chậm phát

triển đến các vùng nông thôn của các tỉnh có nền kinh tế phát triển hơn. Từ đó

hình thành ở các địa phương có KCN những vấn đề văn hóa, xã hội mới: tốc

độ đô thị hoá tăng vọt, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội được tăng cường hơn

nhiều so với trước, mức sống dân cư được cải thiện thích đáng. Bên cạnh đó,

quá trình này cũng tạo ra những phức tạp trong quản lý xã hội, một số tệ nạn

xã hội phát triển, đời sống văn hoá tinh thần của các cư dân vốn cư trú trong

các cộng đồng làng xã nay bị các luồng di cư làm xáo trộn... Đó là một thực

tiễn phát triển đa diện và phức tạp hơn nhiều của những cộng đồng nông

9

nghiệp – nông thôn và nông dân khi một phần diện tích đất đai của mình bị

chuyển đổi mục đích sử dụng, một bộ phận dân cư phải chuyển dịch nghề,

dân nhập cư xuất hiện, mức sống gia tăng, kèm theo đó là các biến đổi về mặt

đời sống tinh thần.

Cùng với các chuyển đổi kinh tế xã hội là một phần của những biến đổi

văn hoá của các cộng đồng nông thôn khi bị lấy đất làm KCN. Đó là sự thay

đổi trong lối sống, từ nếp ăn, ở, mặc cho đến các sinh hoạt văn hoá như hưởng

thụ các tác phẩm văn hoá, sáng tạo văn hoá, rồi đến tư duy, hệ giá trị, chuẩn

mực, các phong tục tập quán như tang ma, cưới xin, giỗ chạp, hệ thống niềm

tin và tôn giáo… Một quá trình chuyển đổi cơ cấu văn hóa tinh thần đang diễn

ra do những biến đổi kinh tế xã hội, với sự xuất hiện của các KCN.

Trong bối cảnh này, việc nghiên cứu thực trạng đời sống của các cộng

đồng có tính chất nông nghiệp – nông thôn khi chuyển sang các cộng đồng có

tính chất công nghiệp, đô thị sẽ có ý nghĩa góp phần nhận diện thực trạng đời

sống văn hoá nước ta hiện nay trong bối cảnh đất nước có những chuyển đổi

mạnh mẽ về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá, đồng thời góp phần vào việc

đưa ra các luận cứ khoa học cho việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt

Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cho việc đưa ra các căn cứ thực tiễn và

phát triển chính sách cho ngành văn hoá ở trung ương và các tỉnh.

2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu này lấy thực trạng biến đổi trong đời sống văn hóa của các

cộng đồng dân cư vốn là các cộng đồng nông nghiệp – nông thôn được

chuyển thành các cộng đồng mang tính đô thị do những áp lực của quá trình

CNH, HĐH ở Đồng Nai là việc xây dựng các KCN, làm đối tượng nghiên cứu

chủ yếu của mình.

Do chọn khái niệm văn hoá theo nghĩa rộng nên một số vấn đề sau đây

sẽ là đối tượng nghiên cứu chủ yếu, đó là:

10

- Sự biến đổi kinh tế - xã hội của các cộng đồng nông nghiệp - nông

thôn sang cộng đồng đô thị - công nghiệp vừa là cơ sở của các biến đổi đời

sống văn hoá, vừa là biểu thị của sự biến đổi đời sống văn hoá cộng đồng;

- Các biến đổi trong đời sống tôn giáo tín ngưỡng, thể hiện qua các tôn

giáo như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Cao Đài; các tập tục thờ cúng

tại miếu, đình, đền…;

- Các biến đổi trong sinh hoạt văn hoá cộng đồng thông qua nghiên cứu

các lễ hội cộng đồng, các nghi lễ mang tính cộng đồng;

- Các biến đổi trong đời sống văn hoá tại gia đình từ đời sống tâm linh

cho đến các lễ tục liên quan đến nghi lễ vòng đời người; nếp ăn, ở, mặc…

- Các xu hướng hưởng thụ/tiêu dùng văn hoá và những biến đổi của nó

dưới tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội như mức sống, học vấn…;

- Các biến đổi trong hệ thống giá trị chuẩn mực, lối sống, nếp sống.

- Các điều kiện và yếu tố tác động đến quá trình biến đổi đời sống văn

hoá; trong đó, đặc biệt chú ý đến các yếu tố về kinh tế, chính trị, xã hội, sự

giao lưu và tiếp biến văn hoá giữa nông thôn và đô thị, giữa các vùng miền,

giữa nước ta với các nước trên thế giới…;

- Các vấn đề về quản lý và chính sách phát triển văn hoá có liên quan

trực tiếp đến sự phát triển các KCN, đến việc xây dựng đời sống văn hoá cơ

sở vùng dân cư có KCN, đặc biệt là các xã nông thôn đang chuẩn bị chuyển

nhanh thành thị trấn.

Phạm vi nghiên cứu của luận án lấy tỉnh Đồng Nai như một trường hợp

nghiên cứu. Thời gian nghiên cứu là từ 1990 trở lại đây, sau khi Luật Đầu tư

nước ngoài ban hành tháng 12 – 1987. Trên thực tế phải đến đầu những năm

90 tốc độ và quy mô đầu tư công nghiệp của các nhà đầu tư trong nước và

quốc tế vào Việt Nam mới gia tăng, trước hết là các tỉnh Đông Nam Bộ, trong

11

đó có tỉnh Đồng Nai, nơi có nhiều điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư của xã

hội vào các KCN.

Do đây là vấn đề mang tính tổng hợp và trải rộng trên nhiều địa bàn,

trong luận án này, chúng tôi chỉ tập trung vào nghiên cứu 3 xã là Hiệp Phước

và Long Thọ (huyện Nhơn Trạch) và xã Thạnh Phú (huyện Vĩnh Cửu), với

các mức độ bị ảnh hưởng khác nhau. Đây là 3 cộng đồng dân cư bị lấy đất

nông nghiệp, đất thổ cư ở những mức độ khác nhau, để xây dựng các KCN,

có làn sóng dân nhập cư lớn, có quá trình biến chuyển cơ cấu kinh tế - xã hội

ở những mức độ khác nhau, phù hợp với chủ đề nghiên cứu của luận án. Tuy

nhiên, 3 cộng đồng này lại phản ánh quá trình biến đổi không đồng đều nhau,

với mức độ phát triển khác nhau, trong đó Hiệp Phước là xã có tốc độ ĐTH,

CNH mạnh nhất, tiếp đến là Thạnh Phú, cuối cùng là Long Thọ, thể hiện ở

các chỉ báo: mức độ chuyển đổi mục đích sử dụng đất, mức độ chuyển đổi cơ

cấu dân cư, mức sống, tiện nghi sinh hoạt và phương thức tiêu dùng.

3. Về lịch sử nghiên cứu vấn đề

Đối với chủ đề nghiên cứu của luận án, có 3 nhóm công trình có liên

quan: các nghiên cứu lý thuyết về sự biến đổi văn hóa chung và ở Việt Nam;

các nghiên cứu về tỉnh Đồng Nai và cuối cùng là nhóm các nghiên cứu liên

quan trực tiếp đến đề tài luận án.

Ở bình diện lý thuyết chung, lịch sử nghiên cứu về biến đổi văn hóa đã

cung cấp những lý thuyết rất quan trọng cho các nghiên cứu thực địa về sự

biến đổi của các xã hội đang chuyển đổi, trong đó đáng lưu ý là công trình

Hiện đại hóa, biến đổi văn hóa và sự duy trì những giá trị văn hóa truyền

thống của Ronald Inghart và Waye E. Baker [83], đã cung cấp một cái nhìn

tổng quan và các lý thuyết về sự biến đổi văn hóa trong các xã hội đang trong

tiến trình HĐH.

12

Biến đổi văn hoá đã được đề cập đến từ khá sớm bởi những nhà khoa

học khởi xướng ủng hộ thuyết tiến hoá văn hoá như E. Taylor (1891) hay L.

Morgan (1877) khi họ phân chia xã hội theo thứ bậc đơn tuyến và có chung

một mẫu hình biến đổi xã hội và biến đổi văn hoá. Theo mô hình phát triển

tiến hóa đơn tuyến này, những nền văn hoá ngoài phương Tây được nhìn nhận

là “kém văn minh”, con người sống trong sự ràng buộc chặt chẽ của phong

tục, và vì vậy sự biến đổi diễn ra rất chậm chạp,… đối ngược lại với văn hoá

phương Tây “văn minh”, năng động và biến đổi nhanh. Mô hình tiến hóa luận

đơn tuyến về sự phát triển và biến đổi của văn hóa này bị phản đối rộng khắp

trong giới Nhân học và đây cũng là tiền đề để khá nhiều lý thuyết mới về biến

đổi văn hoá ra đời và phát triển vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX: Thuyết

Truyền bá văn hoá (đại diện là G.Elliot Smith 1911, W.Rivers 1914,…) cho

rằng vấn đề mấu chốt của biến đổi văn hoá là sự vay mượn hoặc sự truyền bá

của các đặc trưng văn hoá từ xã hội này sang xã hội khác; Thuyết Vùng văn

hoá (đại diện là C.L.Wissler 1923, A.L.Kroeber 1925,…) đưa ra các khái

niệm cơ bản về vùng văn hoá, loại hình văn hoá, trung tâm văn hoá, tổ hợp

văn hoá, sự biến đổi văn hoá diễn ra rất đa chiều và nhiều cấp độ tuỳ thuộc

vào việc cộng đồng đó là trung tâm hay ngoại vi hay vùng chuyển tiếp, môi

trường và sự chuyên môn hoá của cộng đồng đó là gì? Thuyết Tiếp biến văn

hoá (đại diện là Redfield 1934, Broom 1954,...) chỉ ra sự biến đổi văn hoá

trong bối cảnh những xã hội phương Tây và ngoài phương Tây đã trải qua

mối quan hệ lâu dài, đặc biệt là sự ảnh hưởng của những xã hội có ưu thế đối

với người dân bản địa. Thuyết Chức năng (đại diện là Brown 1952,

Malinowski 1944,…) nhìn nhận xã hội như một dạng cơ cấu trong đó từng bộ

phận đều có chức năng cụ thể, mỗi chức năng đó có thể xác định được nhằm

để duy trì hệ thống xã hội tổng thể. Vì vậy xã hội và văn hoá thường có sự hội

nhập tốt và ổn định, nếu văn hoá thay đổi thì phần lớn là do tác động từ bên

13

ngoài,... Cùng với các trường phái trên là hàng loạt những luận điểm lý thuyết

về thích nghi văn hoá, hội nhập văn hoá, sinh thái học văn hoá,…

Ở phạm vi Việt Nam, các nghiên cứu của các học giả nước ngoài nghiên

cứu về Việt Nam như Lương Văn Hy, với các công trình Việt Nam thời hậu

chiến: động thái của một xã hội đang chuyển đổi (2003), Cuộc cách mạng

trong làng: Truyền thống và biến đổi của một xã hội đang chuyển đổi ở Bắc

Việt Nam, từ 1925 đến 1988 (1992)[49]. Các công trình nghiên cứu của

Lương Văn Hy đã có những gợi ý về mặt mô hình nghiên cứu về sự biến đổi

các cộng đồng nông thôn, phù hợp với đặc điểm văn hóa và lịch sử phát triển

của Việt Nam.

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Giảm nghèo, di dân, đô thị hóa tại Tp. HCM

trong tầm nhìn so sánh [64] được tổ chức trên cơ sở các kết quả nghiên cứu

của Chương trình nghiên cứu được tiến hành từ năm 1997 đến 2003 bởi Viện

Khoa học Xã hội tại Tp. HCM hợp tác với Hội đồng Khoa học Xã hội Hoa Kỳ

(SSRC), với sự tài trợ của Quỹ Ford, đã cung cấp nhiều nghiên cứu sâu về các

cộng đồng cư dân ven đô dưới góc độ di dân – chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp

và biến đổi văn hóa và lối sống, giúp cho tác giả luận án có những tham khảo

hữu ích.

Cùng hướng nghiên cứu này, các biến chuyển văn hóa xã hội của các

cộng đồng nông thôn khi tiến trình CNH được đẩy mạnh, đã được nhiều học

giả trong nước và quốc tế quan tâm, trong đó có một số công trình đăng trong

tuyển tập Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: những cách

tiếp cận nhân học [50], do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Tp. HCM ấn hành

năm 2010.

Các nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học Xã hội Tp. HCM trong

chương trình giảm nghèo của Tp. Hồ Chí Minh, từ 1995 đến 2005 đã có

những nghiên cứu sâu về các cộng đồng nông thôn ven đô khi trở thành các

14

thị trấn, thị tứ hoặc bị đô thị tác động mạnh. Các nghiên cứu của Tôn Nữ

Quỳnh Trân về chủ đề này cũng cho chúng ta thấy được tiến trình phát triển

của các làng xã ven đô, khi bị mất đất cho các nhu cầu ĐTH, họ đã phải đối

mặt với “sức hút” của đô thị, đã chuyển đổi cơ cấu lao động nghề nghiệp như

thế nào, phát triển được cái gì, đang bắt gặp những khó khăn nào? [118].

Năm 2011, Nguyễn Văn Dân đã công bố công trình Con người và văn

hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập [20] đã nghiên cứu về con

người và văn hóa Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới, phân tích các nhân tố

tác động, dự báo những xu hướng phát triển. Công trình này đã cung cấp cho

luận án một cái nhìn tổng quát về văn hóa thời kỳ đổi mới.

Các công trình này đặc biệt chú trọng nghiên cứu đến các tác động của

nhiều yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội đến văn hoá của các cộng đồng dân cư,

chỉ ra các xu hướng phát triển của văn hoá trong bối cảnh kinh tế thị trường

và mở cửa. Các nghiên cứu này chủ yếu được triển khai trên cách tiếp cận xã

hội học hay nhân học văn hoá - xã hội, với các nghiên cứu của Viện Xã hội

học (Tô Duy Hợp, Trịnh Duy Luân, Bùi Thế Cường…), Viện Văn hoá -

Thông tin, bao gồm các công trình Văn hoá nông thôn trong phát triển

(Lương Hồng Quang, 1997 - 1999) [79], Vai trò hệ thống truyền thông đại

chúng trong việc phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc (Bùi Quang Thắng - 1999) [98]. Gần đây, công trình của Nguyễn

Phương Châm về Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay (trường hợp làng

Đồng Kỵ, Trang Liệt và Đình Bảng thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) [13]

hay công trình Câu chuyện làng Giang (các khuynh hướng, giá trị và khuôn

mẫu trong một xã hội đang chuyển đổi) của nhóm tác giả do Lương Hồng

Quang làm chủ biên [82], đã cho thấy các động thái biến đổi của các cộng

đồng nông thôn vùng châu thổ sông Hồng trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh

CNH, HĐH, từ đời sống tôn giáo tín ngưỡng, các quan hệ xã hội cho đến các

15

biểu hiện văn hóa cụ thể. Đây là các công trình không chỉ là mô tả các biến

đổi mà đã chỉ ra các xu hướng, các mối liên hệ hữu cơ giữa các nhân tố phát

triển của các cộng đồng dân cư vốn là nông nghiệp đang trong tiến trình

HĐH. Các công trình này là một tham khảo tốt cho đề tài luận án về định

hướng nghiên cứu, về việc cần phải gắn biến đổi văn hóa với tiến trình biến

đối cơ cấu kinh tế - xã hội, đặc biệt là xu hướng biến đổi văn hóa có tính hai

mặt: vừa phụ thuộc vào sự biến đổi kinh tế xã hội, vừa có tính độc lập và đôi

khi, độc lập với tiến trình biến đổi kinh tế.

Liên quan tới những hiểu biết chung của đề tài, là các công trình nghiên

cứu mang tính tổng hợp về tỉnh như Địa chí Đồng Nai, do nhà xuất bản Đồng

Nai ấn hành vào 2000 và 2001 [114], cung cấp một cái nhìn tổng quát về địa

lý, sinh thái, lịch sử, phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa của tỉnh, trong đó

có mô tả những nét khái quát về các cộng đồng nông thôn và nông dân trên

mảnh đất Đồng Nai trong hơn 300 năm lịch sử.

Liên quan tới các cộng đồng nông dân - nông thôn trên tỉnh Đồng Nai

sau 1975 là các công trình nghiên cứu của Diệp Đình Hoa viết về các làng cổ

của tỉnh Đồng Nai, đó là các cuốn Làng Bến Gỗ xưa và nay [38], xuất bản

năm 1995, Làng Bến Cá xưa và nay [39], xuất bản năm 1998. Hai công trình

này đều là ấn phẩm của nhà xuất bản Đồng Nai. Công trình của Diệp Đình

Hoa cung cấp một bức tranh mô tả về những cộng đồng nông thôn Việt

phương Nam, với tất cả thăng trầm của nó trong lịch sử, với các biểu hiện văn

hóa vật chất và tinh thần của các cộng đồng cư dân Việt trong một vùng dân

cư mang tính hỗn dung văn hóa. Đây là những mô tả dân tộc học rất công

phu, chi tiết, có thể làm cơ sở tư liệu đầu vào khi các nghiên cứu về biến đổi

văn hóa làng xã Việt tỉnh Đồng Nai trong thời kỳ CNH, HĐH.

Về nhóm tài liệu liên quan trực tiếp đến đề tài, có thể kể tới công trình

nghiên cứu của nhóm tác giả do Lương Hồng Quang (chủ biên). Năm 1998,

16

Viện Văn hóa Thông tin đã nghiên cứu về làng Hiệp Phước, huyện Nhơn

Trạch - một làng trong đối tượng khảo sát của đề tài. Đây là một nghiên cứu

nhỏ, chỉ tập trung vào một xã, do đó chưa thể đại diện được tính đa dạng của

sự phát triển ở Đồng Nai, nhất là tính đến thời điểm hiện nay. Nhưng vào thời

điểm đó, làng Hiệp Phước là một làng thuần nông nghiệp, với tất cả những

biểu hiện của một văn hóa nông nghiệp - nông dân và nông thôn, đã là một tư

liệu đầu vào quan trọng để có thể thấy được bức tranh của sự biến đổi văn hóa

của một làng quê thuần nông.

Đầu những năm 2000, trong khuôn khổ chương trình khoa học công

nghệ cấp nhà nước về phát triển văn hoá - con người và nguồn nhân lực, đề

tài KX 05.03 về Đời sống văn hoá và xu hướng phát triển văn hoá vùng đô thị

và KCN trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá được triển khai ở Hà

Nội, Đà Nẵng, Tp. HCM và tỉnh Bình Dương, đã cung cấp những phương

pháp luận và cách tiếp cận vấn đề trong nghiên cứu đời sống văn hoá KCN và

đô thị, nhất là từ góc độ nghiên cứu phát triển chính sách quản lý đời sống văn

hoá. Đây là đề tài liên quan trực tiếp đến nội dung nghiên cứu của luận án,

song góc tiếp cận của nó là nghiên cứu trực tiếp về KCN và đời sống văn hóa

tinh thần của công nhân KCN, chưa phải là nghiên cứu vào các cộng đồng

nông dân – nông thôn dưới tác động của KCN.

Trong phạm vi đề tài nhà nước KX.05.03, nhóm tác giả do Đình Quang

chủ biên đã xuất bản công trình Đời sống văn hóa của các đô thị và KCN Việt

Nam [77], do nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành năm 2005, trong đó có

những nghiên cứu tại tỉnh Đồng Nai. Đây là một nghiên cứu có một phần đi

chuyên sâu về đời sống văn hóa tinh thần của công nhân KCN hai tỉnh Bình

Dương và Đồng Nai, gắn với các cộng đồng nông thôn bị mất đất cho KCN,

cung cấp một bức tranh khá toàn diện về đời sống văn hóa tinh thần của công

nhân các KCN, trong đó thiên về sự tiêu dùng văn hóa của người dân.

17

Cùng với Bình Dương, Đồng Nai cũng có những vấn đề tương tự trong

quá trình CNH, HĐH. Cách đây 5 năm, vào các năm 2005 và 2006, Sở VHTT

Đồng Nai có kết hợp với Viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật đã xây dựng

đề tài Khảo sát về Đời sống Văn hóa Công nhân các KCN ở Đồng Nai [81],

nghiên cứu trên nhiều huyện của tỉnh, tập trung vào các KCN trên địa bàn

tỉnh. Đề tài đã chỉ ra nhiều tồn tại trong việc tổ chức đời sống văn hóa tinh

thần cho công nhân các KCN, khuyến nghị các chính sách về tổ chức đời

sống văn hóa tinh thần cho công nhân KCN với hai mô hình: Mô hình tại các

cộng đồng dân cư và Mô hình tại các doanh nghiệp. Nghiên cứu này là một cơ

sở tham khảo hữu ích cho nghiên cứu của chúng tôi khi muốn mở rộng diện

khảo sát và nghiên cứu.

Năm 2010, công trình hợp tác giữa Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam

và Viện Văn hóa và Du lịch Hàn Quốc về Nghiên cứu các giải pháp nhằm

giảm thiểu xung đột giữa chủ Hàn Quốc và công nhân Việt Nam tại Việt Nam

[138], cũng lấy địa bàn Đồng Nai làm đối tượng khảo sát, đã cho thấy một

phần đời sống văn hóa tinh thần của công nhân KCN sinh sống trong các cộng

đồng ven KCN. Đó chưa phải là các nghiên cứu trực tiếp về các cộng đồng

nông nghiệp – nông dân khi các KCN hình thành trên mảnh đất của mình mà

là nghiên cứu trực tiếp vào người công nhân các KCN.

Về các đề tài có liên quan tới công nhân KCN, đặc biệt là các vụ đình

công của công nhân nhập cư và công nhân tại các cộng đồng địa phương tại

chỗ. Vấn đề này gắn liền với các cộng đồng dân cư nông thôn có đất, được

trưng dụng vào việc xây dựng các KCN, tiêu biểu là các công trình của Chang

Hee Lee xuất bản năm 2006 về Quan hệ lao động và giải quyết tranh chấp

lao động tại Việt Nam [146]; của Jang Jung Min Sunoo: Một số giải pháp

phòng ngừa đình công tại các doanh nghiệp ở Việt Nam [150], tổ chức lao

động quốc tế xuất bản năm 2007. Các công trình này đã báo động những bất

18

ổn về mặt văn hóa xã hội của các cộng đồng dân cư “hội” vào các KCN. Một

mặt, các KCN luôn phải thiếu nhân công hay nhân công không ổn định,

nhưng mặt khác, các xã có KCN sẽ phải đối mặt với những thách thức về

lượng người sinh sống gia tăng đột biến.

Có một số hội nghị, hội thảo liên quan tới sự phát triển các KCN cũng

như các vấn đề về đời sống văn hóa xã hội của KCN. Năm 2010, Bộ Kế

hoạch Đầu tư đã phối hợp với Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam tổ chức hội

thảo: Xây dựng môi trường sống cho công nhân xung quanh các KCN tại Việt

Nam, trong đó ghi nhận những đóng góp của các cộng đồng dân cư nông thôn

vào việc cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản cho bản thân công nhân và gia

đình của họ. Trong năm 2011, Bộ Kế hoạch Đầu tư cũng đã tổ chức hội thảo:

Vấn đề lao động và điều kiện sống của công nhân KCN, khu kỹ thuật trong

khuôn khổ chương trình tổng kết đánh giá 20 năm phát triển KCN, khu kỹ

thuật đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hội thảo chỉ ra những mối liên

hệ nông thôn – đô thị khi phát triển các KCN, với những đề xuất chính sách

để hạn chế những tác động tiêu cực của tiến trình phát triển KCN vào các

cộng đồng nông thôn.

Tháng 11 năm 2008, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức hội thảo: Xây dựng đời sống văn

hóa công nhân lao động ở các KCN đến 2015, cho thấy tầm quan trọng của

công tác này đối với việc phát triển các KCN cũng như gắn các KCN với các

cộng đồng dân cư xung quanh KCN. Năm 2010, Ban Chỉ đạo Trung ương về

chính sách nhà ở và thị trường bất động sản đã tổ chức Hội thảo Quốc gia về

Nhà ở công nhân - Thực trạng và giải pháp với sự phối hợp của Bộ Xây

dựng, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và UBND tỉnh Bình Dương. Hội

nghị đã đưa ra thông tin là: hiện mới có 20% công nhân các KCN có chỗ ở ổn

định, còn khoảng 80% phải thuê nhà ở trọ chật chội và thiếu tiện nghi tại các

19

cộng đồng dân cư có KCN. Như vậy số công nhân, lao động tại các KCN cả

nước có nhu cầu về nhà ở đến năm 2015 khoảng 2,65 triệu người và cần khoảng 21,2 triệu m2 nhà ở và năm 2020 con số tương ứng là 4,2 triệu người và 33,6 triệu m2 nhà ở. Tháng 4/2001, hội thảo: Công nghiệp hóa, hiện đại

hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra đã được tổ chức, nhấn mạnh đến

những tác động của KCN vào các cộng đồng nông dân - nông thôn, sự phát

triển các KCN là những cơ hội song cũng chứa đựng những thách thức đối

với chúng trên con đường phát triển.

Về các văn bản pháp quy, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành

nhiều văn bản liên quan tới việc phát triển các KCN. Gần đây nhất, liên quan

trực tiếp tới việc xây dựng đời sống văn hoá công nhân ở các KCN, Thủ

tướng Chính phủ vừa phê duyệt Đề án Xây dựng đời sống văn hoá công nhân

ở các KCN đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 theo Quyết định số

1780/QĐ-TTg ngày 12/10/2011, với mục tiêu xây dựng đội ngũ công nhân có

nếp sống văn hóa lành mạnh, có tác phong làm việc công nghiệp, năng suất,

chất lượng và hiệu quả. Đề án đặt mục tiêu đến năm 2015 sẽ có 70% công

nhân và người sử dụng lao động ở các KCN được phổ biến pháp luật về xây

dựng đời sống văn hoá, 100% địa phương (có KCN) hoàn thành việc phê

duyệt quy hoạch phát triển thiết chế văn hoá, thể thao phục vụ công nhân.

Phấn đấu 50% công nhân ở các KCN tham gia các hoạt động văn hoá, thể

thao và 50% “Doanh nghiệp đạt chuẩn văn hoá”. Các chỉ tiêu trên sẽ tiếp tục

được duy trì, củng cố và nâng cao để đến năm 2020, 100% công nhân và

người sử dụng lao động ở các KCN được phổ biến pháp luật về xây dựng đời

sống văn hoá. Lượng công nhân ở các KCN tham gia các hoạt động văn hoá,

thể thao được nâng lên 70%, đặc biệt là số “Doanh nghiệp đạt chuẩn văn hoá”

nâng lên 80%.

20

Để đạt các mục tiêu trên, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tổ chức phát

động, đăng ký thi đua xây dựng đời sống văn hóa công nhân ở các địa phương

(có KCN). Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các doanh

nghiệp trong việc thực hiện các chính sách pháp luật về lao động, bảo hiểm và

các chế độ an sinh xã hội đối với công nhân. Thực hiện nghiêm việc phê

duyệt phát triển các KCN phải có quy hoạch xây dựng nhà ở và các công trình

văn hóa, xã hội phục vụ công nhân làm việc ở các KCN. Chủ các doanh

nghiệp phải cam kết thực hiện trách nhiệm xã hội trong việc chăm lo xây

dựng đời sống văn hóa của công nhân.

Với các công trình nghiên cứu có liên quan cũng như các công trình

liên quan trực tiếp đến đề tài, chúng ta có thể thấy những điểm cần lưu ý sau:

- Với chủ đề biến đổi văn hóa của cư dân KCN tỉnh Đồng Nai, các

nghiên cứu về các cộng đồng nông thôn trước tác động của tiến trình công

nghiệp hóa, cụ thể ở đây là các KCN, là chưa nhiều.

- Bên cạnh những thuận lợi và thời cơ có được từ các KCN như chuyển

đổi cơ cấu kinh tế - xã hội, gia tăng mức sống..., là những khó khăn và thách

thức đang đứng trước các các cộng đồng dân cư tại chỗ, đó là sự quá tải về cơ

sở hạ tầng, dân số tăng đột biến, các phức tạp về an ninh trật tự, phá vỡ một

phần lối sống - nếp sống của vùng thôn quê để chuyển sang lối sống đô thị

của một bộ phận dân cư… Đó là những hệ quả của tiến trình phát triển dưới

tác động của các KCN.

- Các cư dân tại chỗ, về mặt đời sống tinh thần, bên cạnh quá trình

chuyển đổi mang tính tự nhiên do các nhu cầu về phát triển kinh tế, đã và

đang có những “khoảng cách”, “dị ứng” với tiến trình này, đòi hỏi sự làm

quen và thích nghi với những yếu tố mới từ bên ngoài xâm nhập vào.

- Tìm ra một giải pháp hoàn chỉnh, toàn diện cho các cộng đồng dân cư

tại chỗ thích nghi với một tiến trình phát triển mới, đòi hỏi phải có những

21

nghiên cứu, tìm tòi, thời gian và công sức để đưa ra những mô hình tổ chức

đời sống văn hóa tinh thần hữu hiệu cho các cộng đồng dân cư tại chỗ, vẫn là

một câu hỏi còn bỏ ngỏ.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu của chúng tôi sẽ tập trung vào việc khảo sát những xu hướng

biến đổi trong đời sống văn hoá các cộng đồng dân cư nông nghiệp có liên

quan tới quá trình phát triển các KCN ở tỉnh Đồng Nai. Từ đây, đề ra các căn

cứ khoa học cho việc xây dựng và quản lý văn hoá của các cộng đồng dân cư

này, góp phần vào sự phát triển chung của KCN cũng như các cộng đồng có

liên quan tới KCN.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Khảo sát các biến đổi đời sống văn hóa của 3 cộng đồng dân cư nông

nghiệp - nông thôn sau khi bị cắt một phần đất nông nghiệp, đất thổ cư để xây

dựng các KCN tập trung, đã bị biến đổi như thế nào trong một bối cảnh phát

triển nhanh chóng, phát triển “nóng”, mang tính “cưỡng bức” từ trên xuống.

- Thông qua sự khảo sát này, cùng với các trường hợp khác mà tác giả

luận án đã thâm nhập trong quá trình công tác tại tỉnh, khái quát lên một bức

tranh phát triển đời sống văn hóa của những cộng đồng dân cư có KCN tập

trung, với tất cả những lợi thế, hạn chế, thời cơ và thách thức đối với họ.

- Xây dựng một số giải pháp mang tính lý luận và thực tiễn để góp

phần vào việc hình thành các quan điểm, cơ chế chính sách phát triển văn hóa

của các cộng đồng nông thôn Đồng Nai có KCN, từ đây, cung cấp các luận

giải khoa học và căn cứ thực tiễn cho việc quản lý văn hóa nông thôn ở tầm vĩ mô.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận của luận văn này được phát triển trên cơ sở các luận điểm

của Đảng và Nhà nước về CNH, HĐH đất nước, về quá trình xây dựng và

phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó

22

nhấn mạnh đến vai trò của phát triển kinh tế, vị trí của việc phát triển các lĩnh

vực xã hội – văn hoá như là nền tảng của sự phát triển.

Luận án cũng dựa vào một số lý thuyết của xã hội học và nghiên cứu văn

hoá khi đề cập tới vấn đề biến chuyển văn hoá, trong đó nhấn mạnh đến lý

luận cho rằng sự biến đổi văn hoá cần được nghiên cứu trong những bối cảnh

lịch sử, kinh tế, chính trị và xã hội cụ thể, trong những tương tác văn hoá giữa

truyền thống và hiện đại, giữa trong nước và quốc tế. Trong các lý thuyết biến

đổi văn hóa này, cần cân bằng hai quan điểm: Những nhà lý thuyết hiện đại

hoá, ví dụ như Ronald Inglehart và Wayne E. Baker trong công trình: Hiện

đại hoá, biến đổi văn hoá và sự duy trì những giá trị văn hoá truyền thống

[84] đã cho rằng: từ Karl Marx tới Daniel Bell đã cho rằng sự phát triển kinh

tế - xã hội sẽ mang tới những biến đổi văn hoá phong phú, nhưng những

người khác từ Max Weber tới Samuel Huntington lại tuyên bố rằng những giá

trị văn hoá là những ảnh hưởng lâu dài và tự trị lên xã hội, nghĩa là sự phát

triển văn hóa mang yếu tố nội sinh. Quan điểm lý thuyết của luận án là: Sự

biến đổi văn hóa là kết quả của cả hai tiến trình phát triển kinh tế - xã hội và

tiến trình tự thân vận động bên trong của văn hóa, biến đổi văn hóa không thể

và không chỉ là kết quả của một quá trình.

Phương pháp nghiên cứu của đề tài bao gồm:

- Thống kê: trong đó tập trung vào các dữ liệu phát triển kinh tế xã hội,

dân cư, mức sống, cơ sở hạ tầng…

- Điều tra xã hội học: đã được tổ chức điều tra tại 3 xã, với 500 phiếu,

với mục tiêu là khảo sát đời sống văn hóa tinh thần của bộ phận dân nhập cư

trên địa bàn. Luận án cũng đã có những dữ liệu được phân tích thông qua

phương pháp phân tích thứ cấp các số liệu điều tra khảo sát của các đề tài

nghiên cứu về công nhân KCN Đồng Nai gần đây.

23

- Nghiên cứu trường hợp: trực tiếp nghiên cứu 3 cộng đồng dân cư (3

xã), với sự phát triển khác nhau sau khi bị mất một phần đất để nhà nước xây

dựng các KCN, trong đó Hiệp Phước (huyện Nhơn Trạch) và Thạnh Phú

(huyện Vĩnh Cửu) là 2 xã bị tác động của KCN mạnh nhất, xã Long Thọ

(huyện Nhơn Trạch) là xã ít bị tác động hơn. 3 xã đều có một điểm chung là

các cộng đồng dân cư nông nghiệp - nông thôn tiêu biểu cho tỉnh Đồng Nai.

- Phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm: Luận án đã có những dữ liệu sâu

là do đã phỏng vấn trực tiếp và thảo luận với nhiều người cao tuổi am hiểu về

văn hóa cộng đồng, các công nhân nhập cư sinh sống tại 3 xã, các cấp chính

quyền, các cơ quan quản lý văn hóa ở xã, huyện, tỉnh.

- Quan sát thâm nhập: tác giả luận án đã trực tiếp sinh sống và quan sát

các hiện tượng văn hóa tiêu biểu của 3 cộng đồng dân cư trong nhiều năm,

qua đó, thấu hiểu đời sống và những biến đổi của cư dân tại chỗ. Các quan sát

này được tiến hành trước khi làm luận án, do tác giả có thời gian dài công tác tại

các địa phương, cũng như sau này, trong suốt quá trình thực hiện viết luận án.

- Phương pháp chuyên gia: Trực tiếp xin sự tư vấn của các chuyên gia

về phát triển KCN, về văn hóa nông thôn, về phát triển văn hóa gắn với phát

triển kinh tế xã hội, bao gồm các chuyên gia của tỉnh và trung ương.

6. Bố cục luận án

Ngoài phần Mở đầu (16 trang), Kết luận (5 trang), Tài liệu tham khảo

(14 trang) và Phụ lục (40 trang), luận án gồm 3 chương:

Chương 1: Phát triển các KCN trong tiến trình CNH, HĐH ở tỉnh Đồng

Nai (45 trang).

Chương 2: Các biến đổi trong đời sống văn hoá của các cộng đồng dân

cư KCN (47 trang).

Chương 3: Phương hướng, giải pháp về xây dựng đời sống văn hóa cho

các cộng đồng KCN (33 trang).

24

Chương 1 PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRONG TIẾN TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH ĐỒNG NAI

1.1. Các cơ sở lý thuyết về biến đổi văn hóa

Các lý thuyết về biến đổi văn hóa được hình thành chủ yếu dựa trên các

lý thuyết về biến đổi xã hội được các học giả phương Tây xây dựng trong

ngành nhân học và xã hội học, ở đó biến đổi xã hội là một quá trình qua đó

các khuôn mẫu của các hành vi xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội

và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi theo thời gian. Với quan điểm

này, văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, cũng tự không ngừng biến

đổi. Sự ổn định chỉ là sự ổn định của bề ngoài, còn thực tế nó không ngừng

thay đổi bên trong bản thân nó. Bất cứ xã hội nào và bất cứ nền văn hóa nào,

cho dù nó có bảo thủ và cổ truyền đến đâu chăng nữa cũng luôn biến đổi; sự

biến đổi trong xã hội hiện đại ngày càng rõ hơn, nhanh hơn. Mọi cái đều biến

đổi và xã hội cũng giống như các hiện thực khách quan khác, không ngừng

vận động và thay đổi, với một thực trạng đứng yên trong sự vận động liên tục.

Biến đổi xã hội là hiện tượng phổ biến, nhưng nó diễn ra không giống

nhau giữa các xã hội; với những khác biệt về phạm vi, thời gian và hệ quả. Đó

là một quá trình mang tính chủ động của các lực lượng trong xã hội hay mang

tính phi kế hoạch, nghĩa là đó là một tiến trình tự nhiên, khách quan. Thường

thì có sự phân chia giữa biến đối vĩ mô và vi mô, để chỉ những tầm mức biến

đổi khác khau trong đời sống xã hội. Khái niệm biến đổi là một thuật ngữ

không chỉ định hướng giá trị mà thể hiện một sự mô phỏng của một nền văn

hóa hay cấu trúc xã hội hiện hữu, không hàm nghĩa là một phán quyết giá trị

chứ không phải là một lời tường thuật về một sự kiện hay hiện tượng xã hội.

25

Các nhà nhân học và xã hội học khi xem xét đến sự phát triển của xã hội,

đã đưa ra một số lý thuyết để giải thích tại sao biến đổi xã hội lại xảy ra và dự

đoán những biến đổi sẽ diễn ra trong tương lai. Một số cách tiếp cận chủ yếu

về biến đổi xã hội thường được xem xét đến là:

(1) Cách tiếp cận theo chu kỳ: Trong lịch sử loài người, sự hiểu biết về

chu kỳ của những biến đổi xã hội đã ăn sâu vào ý nghĩ của con người, chu kỳ

của tự nhiên, mặt trời mọc và lặn, quy luật bốn mùa thay đổi của một năm và

sự lặp lại của tự nhiên, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến những khái niệm, nhận

thức của con người về sự biến đổi xã hội. Nhân loại hiểu rằng, lịch sử được

lặp lại mãi trong những chu kỳ không bao giờ kết thúc. Các nhà khoa học và

sử học trước đây nhìn chung đều phản đối những tư tưởng này, mặc dù họ cho

rằng các xã hội có những chu kỳ sống của nó, và mỗi xã hội được sinh ra

trưởng thành, rồi sau đó biến mất. Một số nhà lý thuyết, như Amold Toybee

lại có quan điểm tương tự, nhưng ông phản đối "sự không thể tránh được" của

sự suy tàn và cho rằng "những nỗ lực được tạo nên bởi con người có thể cho

phép văn minh hóa đối với sự sống". Trong khi đó Pitirim Sorokin lại đưa ra

lý thuyết chu kỳ về sự biến đổi với một bước tiến xa hơn, và cho rằng sự văn

minh hóa được dao động trong ba kiểu của "những trạng thái tâm lý" hoặc

rộng hơn - kiểu hệ tư tưởng, kiểu cảm giác và kiểu lý tưởng - trong tất cả các

hệ thống văn hóa, sự biến đổi xuất hiện khi mô hình cụ thể của suy nghĩ nắm

được giới hạn logic của nó.

(2) Các quan điểm tiến hóa: với hai mô hình kinh điển và quan điểm tiến

hóa mới. Mô hình kinh điển là những mô hình được lấy từ khoa học sinh học,

đã giành được vị trí ở thế kỷ XIX, nhiều nhà xã hội học đã tán thành với lý

thuyết phổ biến được gọi là sự tiến hóa một chiều, sự tiến hóa theo lộ trình

dọc, chỉ tiến về phía trước chứ không lùi hoặc đi ngược về phía sau cho rằng

tất cả các hình thức sống, tất cả các xã hội đều tiến hóa từ những hình thức

26

đơn giản đến phức tạp, với mỗi hình thức sau xa hơn những hình thức trước

nó, với các học giả như Auguste Comte, Herbert Spencer, Émile Durkhem.

Thế kỷ XX, những mô hình ở thế kỷ trước đã mô tả biến đổi xã hội như là sự

tiếp tục và không thể thay đổi được thay thế bằng cái nhìn tinh tế hơn. Những

lý thuyết tiến hóa mới, hiểu biết về các xã hội khác nhau tùy thuộc vào mức

độ phức tạp của xã hội và qua thời gian một khuynh hướng chung đi tới sự

khác biệt xã hội (kinh tế, gia đình, tôn giáo, chính trị,...) trở thành sự phân

chia và khác biệt giữa các thành phần trong một xã hội tổng thể. Không giống

như các nhà nghiên cứu lý thuyết tiến hóa ở thế kỷ XIX, các nhà lý thuyết tiến

hóa mới không mô tả một hình thức của xã hội như là một sự tuyệt đối, cũng

không khẳng định rằng, các xã hội không thể tiến hóa tới một vài thực trạng

cao hơn.

(3) Quan điểm xung đột: với một học giả tiêu biểu là Karl Marx, với

quan điểm các xã hội phải chuyển đổi để tồn tại và ông không nhấn mạnh

rằng kinh tế phục vụ như là sự thành lập cho trật tự xã hội. Được xếp vào các

nhà lý thuyết theo chủ nghĩa xung đột đối kháng, Marx đã triển khai một lý

thuyết tiến hóa về sự biến đổi xã hội. Dựa vào sự thay đổi liên tục trong kỹ

thuật mà các xã hội tiến từ đơn giản đến phức tạp. Ở mỗi một trạng thái, một

xã hội tiềm ẩn những điều kiện tự hủy diệt, và những điều kiện này cuối cùng

sẽ dẫn đến sự biến đổi và đưa xã hội vào trạng thái tiếp sau đó. Karl Marx có

cái nhìn về quá trình hiện đại hóa rất khác biệt với những nhà tư tưởng xã hội

khác, bởi lẽ Marx nhấn mạnh tầm quan trọng của mâu thuẫn xã hội. Marx cho

rằng xã hội hiện đại đồng nghĩa với xã hội tư bản, một hệ thống kinh tế được

sản sinh do đấu tranh giai cấp vào cuối thời kỳ trung cổ. Giai cấp tư sản nắm

giữ hệ thống sản xuất mới do cuộc cách mạng công nghiệp đem lại và đã

thành công trong việc thay thế giai cấp quý tộc. Karl Marx cũng không phủ

nhận rằng sự hình thành tính hiện đại có liên quan đến sự suy tàn của cộng

27

đồng có quy mô nhỏ, đến sự phân công lao động gia tăng và sự xuất hiện của

thế giới duy lý. Marx cho rằng, cả ba yếu tố này đều cần thiết cho việc phát

triển chủ nghĩa tư bản. Chính chủ nghĩa tư bản đã kéo theo những người nông

dân từ vùng nông thôn về các đô thị với hệ thống thị trường không ngừng

phát triển. Sự chuyên môn hóa là cơ sở cho sự vận hành các xí nghiệp; tính

duy lý thể hiện rõ trong xã hội tư bản. Ông tin rằng mẫu thuẫn xã hội trong xã

hội tư bản sẽ đem lại một cuộc cách mạng xã hội, và rồi theo quy luật tiến

hóa, xã hội này sẽ được thay thế bằng một xã hội khác công bằng hơn, nhân

đạo hơn.

(4) Quan điểm hiện đại về biến đổi xã hội: Các nhà nhân học và xã hội

học ngày nay cho rằng sự tương tác phức tạp của nhiều yếu tố - cả yếu tố bên

trong và yếu tố bên ngoài của nhiều yếu tố - tạo nên sự biến đổi. Mặc dù trong

những hoàn cảnh xã hội và lịch sử nhất định, các yếu tố cụ thể đôi lúc có thể

ảnh hưởng nhiều hơn những yếu tố khác. Những yếu tố được các nhà lý

thuyết hiện đại quan tâm khi xem xét về biến đổi xã hội, như: môi trường vật

chất, kỹ thuật - công nghệ, dân số, giao lưu… Các lý thuyết hiện đại hóa, lý

thuyết hệ thống thế giới, lý thuyết phụ thuộc là những tiếp cận mới trong quan

điểm hiện đại về biến đổi xã hội, ở đó, các nhà khoa học đã đưa ra những cách

lý giải đa diện hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, các thành

tựu khoa học công nghệ phát triển, thế giới ngày càng phụ thuộc nhau. Lần

đầu tiên, các nhà khoa học đã thừa nhận các yếu tố phi vật chất, vô hình cũng

có thể làm biến đổi mạnh mẽ các xã hội và nền văn hóa, như tư tưởng, quản lý

xã hội… Tính hiện đại là một thuật ngữ xuyên suốt trong quan điểm hiện đại

về sự biến đổi, Ví dụ, trong lý thuyết hệ thống xã hội, Parsons coi tiểu hệ

thống văn hóa là hệ thống có nhiều thông tin nhất và nó kiểm soát các tiểu hệ

thống khác. Các nhà nhân học và xã hội học đều cho rằng, tư tưởng có thể

giúp cho xã hội giữ nguyên trạng thái hoặc có thể kích thích sự biến đổi xã

28

hội nếu những niềm tin và chuẩn mực xã hội không còn phù hợp với nhu cầu

của xã hội. Văn hóa được biến đổi là do các yếu tố chính trị, kinh tế và xã hội

khác, cũng như nó phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên và sinh thái khác.

Biến đổi văn hoá đã được đề cập đến trong các khoa học xã hội như một

chủ đề trọng tâm của thế kỷ XX và XXI. Trên nền tảng lý thuyết mang tính

khái quát hóa cao như ở trên, với các nghiên cứu về từng hiện tượng văn hóa

cụ thể, đã có những triển khai để xây dựng các khung lý thuyết để làm cơ sở

cho các nghiên cứu thực địa.

Tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay đã là một

bối cảnh mang tính đặc thù để từng nghiên cứu xây dựng cho mình một khung

lý thuyết làm nền tảng lý luận. Trong các tiếp cận về biến đổi văn hóa tại các

cộng đồng nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nổi lên

một tiếp cận coi tiến trình biến đổi văn hóa phụ thuộc vào các yếu tố chính trị,

kinh tế, xã hội. Tiến trình này lại mang tính đặc thù của từng khu vực, cộng

đồng dân cư. Sự biến đổi kinh tế xã hội và những thay đổi về hành chính, đất

đai, chính sách nông nghiệp… là những tiền đề trực tiếp tác động đến biến đổi

văn hóa, với các tác giả như Tô Duy Hợp, Nguyễn Văn Chính, Lương Hồng

Quang, Nguyễn Thị Phương Châm và nhiều tác giả khác.

Cuốn sách Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay của Nguyễn Thị

Phương Châm là một trong số những công trình nghiên cứu về chủ đề này.

Tác giả đã đưa ra một mô hình phân tích. Sự biến đổi đầu tiên và quan trọng

nhất làm nên diện mạo mới ở nông thôn hiện nay là do biến đổi về nghề

nghiệp. Từ sự chuyển đổi nghề nghiệp đến những tác động của quá trình công

nghiệp hóa, đô thị hóa đã làm cho đời sống xã hội của dân cư ba làng có

những thay đổi nhanh chóng. Từ nền tảng này, tác giả đi vào trả lời cho câu

hỏi chính của vấn đề quan tâm, đó là văn hóa làng xã đang biến đổi như thế

nào trong quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa hiện nay? Để trả lời cho

29

câu hỏi này tác giả đã tập trung phân tích trong bốn lĩnh vực chủ yếu: (1)

Không gian và cảnh quan làng; (2) Di tích, tín ngưỡng và lễ hội; (3) Phong

tục tập quán; (4) Sự tiếp cận thông tin và các loại hình giải trí.

Hệ quả của sự biến đổi này là: (1) Không gian của làng nay đã rất khác

không gian của làng xưa: mở hơn, thoáng đạt hơn, nhiều sự giao lưu hơn, tính

chất công nghiệp, đô thị đã thể hiện rõ và ăn sâu vào trong cả nếp nghĩ và lối

sống của dân làng; (2) Di tích, lễ hội, tín ngưỡng đều được đưa trở lại với vai

trò đặc biệt của chúng trong đời sống tâm linh bằng nhiều hình thức khác

nhau như trùng tu lại di tích, dựng lại các lễ hội, thực hành và phát triển tín

ngưỡng; (3) Các phong tục tập quán có sự đan xen và giao lưu rõ rệt giữa làng

và phố, hiện đại và truyền thống; (4) Tiếp cận thông tin và đa dạng hóa các

loại hình giải trí, đặc biệt là sự cố kết người dân theo mạng lưới quan hệ và

lợi ích trong làng, là những biểu hiện nổi bật của sự biến đổi và hình thành

những yếu tố văn hóa mới ở ba làng quê này.

Hệ quả của quá trình biến đổi trên là: (1) Phục hồi văn hóa truyền thống

trong bối cảnh làng quê hiện đại; (2) Nhu cầu hướng về văn hóa tâm linh của

dân làng thời hiện đại; (3) Xuất hiện những “tệ nạn” mới. Quá trình phục hồi

văn hóa truyền thống ở các làng quê hiện nay đi cùng với quá trình tái cấu

trúc, lựa chọn và biến đổi các yếu tố văn hóa truyền thống trong bối cảnh làng

quê hiện đại. Quá trình phục hồi văn hóa và tái cấu trúc văn hóa truyền thống

trong xã hội hiện đại ở các làng quê cũng đang đặt ra hàng loạt các vấn đề bất

cập như: môi trường, không gian sống, hoạt động sản xuất, đất đai, mối quan

hệ giữa nhà nước và cộng đồng dân cư. Đây là một trong những nghiên cứu

điển hình về biến đổi của các cộng đồng dân cư nông thôn trong bối cảnh

công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay, gợi ý nhiều cho tác giả luận án những ý

tưởng về lý thuyết nghiên cứu.

30

Đối với các cộng đồng dân cư có KCN, về mặt lý luận, cần phải giải

quyết các câu hỏi lớn sau: (1) xác định được các yếu tố tác động, trong đó lớn

nhất là biến đổi về nghề nghiệp và sự biến động cơ cấu dân cư bởi sự di dân

của một bộ phận dân nhập cư đã ảnh hưởng như thế nào đến đời sống văn

hóa? (2) Trong bối cảnh đó, các hình thái văn hóa truyền thống và văn hóa

mới đã tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau ra sao; (3) Trước các biến đổi này,

cần xác lập những mô hình quản lý văn hóa thích hợp nào để đáp ứng với tiến

trình biến đổi này.

1.2. Vài nét về tỉnh Đồng Nai Đồng Nai là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, có diện tích 5.903,4 km2,

chiếm 1,76% diện tích tự nhiên cả nước và chiếm 25,5% diện tích tự nhiên

của vùng Đông Nam Bộ. Dân số toàn tỉnh theo số liệu thống kê năm 2010 là 2.569.400 người, mật độ dân số: 435,000 người/km2 [109]. Tỉnh có 11 đơn vị

hành chính trực thuộc gồm: Thành phố Biên Hòa - là trung tâm chính trị -

kinh tế - văn hóa của tỉnh; thị xã Long Khánh và 9 huyện: Long Thành; Nhơn

Trạch; Trảng Bom; Thống Nhất; Cẩm Mỹ; Vĩnh Cửu; Xuân Lộc; Định Quán;

Tân Phú.

- Phía đông giáp tỉnh Bình Thuận.

- Phía đông bắc giáp tỉnh Lâm Đồng.

- Phía tây bắc giáp tỉnh Bình Dương và Bình Phước

- Phía nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

- Phía tây giáp Tp. Hồ Chí Minh

Tính đến năm 2011, dân số tỉnh Đồng Nai là 2.665.100 người, mật độ

dân số là 451 người/km², trong đó dân số sống tại thành thị là 897.600 người

(chiếm 33,68%), dân số sống tại nông thôn là 1.767.500 người (chiếm

66,32%). Dân số đô thị tăng nhanh với tốc độ bình quân 2,78% trong 5 năm

31

gần đây. Mức tăng dân cư đô thị không tăng đột biến nhưng lại tăng đột biến

về mật độ dân cư sống tại khu vực đô thị khi các KCN tập trung tăng mạnh.

Nằm trong khu vực có nhiều ưu thế, tỉnh lại có nhiều nguồn lực để phát

triển, với các điều kiện ưu đãi của tự nhiên như: tài nguyên khoáng sản phong

phú, khoáng sản có vàng, thiếc, kẽm, có nhiều mỏ đá, cao lanh, bùn, cát…kết

cấu nền đất có độ cứng, chịu nén tốt, thuận lợi cho việc xây dựng kết cấu hạ

tầng cơ sở của các KCN và các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; có

tiềm năng thuận lợi cho việc phát triển du lịch, với hệ thống khu di tích lịch

sử khá nổi tiếng, cảnh quan thiên nhiên môi trường hấp dẫn,… có đất đai màu

mỡ với nhiều loại đất khác nhau, phần lớn là đất đỏ bazan, nơi đây sớm hình

thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, vùng

cây ăn trái nổi tiếng cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, hàng hóa

cho xuất khẩu. Đồng Nai cũng là tỉnh có dân số đông, nguồn lao động dồi dào

với trình độ đa dạng từ mọi miền đất nước hội tụ về đây lập nghiệp, đó là

nguồn nhân lực quý báu cho sự nghiệp đẩy nhanh sự nghiệp CNH – HĐH

trong tỉnh.

Tất cả nguồn lực trên đã tạo ra cho Đồng Nai những thuận lợi và những

lợi thế đó đã và đang được tận dụng và được phát huy cao độ trong công cuộc

phát triển kinh tế - xã hội, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng

coi KCN có một vai trò là động lực trong việc đẩy mạnh tốc độ, chất lượng quá

trình CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã ghi rõ:

Hình thành các KCN tập trung (bao gồm cả khu chế xuất và khu công

nghệ cao), tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công

nghiệp mới. Phát triển công nghiệp nông thôn và ven đô thị. Ở các

thành phố, thị xã, nâng cấp và cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có,

đưa các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra ngoài thành phố,

hạn chế việc xây dựng cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cư.

32

Báo cáo về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005 tại Đại hội

IX khẳng định: "Quy hoạch phân bố hợp lý công nghiệp trên cả nước. Phát

triển có hiệu quả các KCN, khu chế xuất, xây dựng một số khu công nghệ cao,

hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở".

Sau 30 năm xây dựng và phát triển (1975 - 2005), “ngành công nghiệp

Đồng Nai đã góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của

tỉnh từ một tỉnh nông nghiệp thành một tỉnh công nghiệp (tỷ trọng GDP công

nghiệp dịch vụ tăng từ 13,4% năm 1976 lên 85% năm 2005)” [129; tr.231].

Đồng Nai là tỉnh đi đầu trong xây dựng, phát triển và dẫn đầu cả

nước về số lượng KCN với 30 KCN tổng diện tích 9.573 ha và 43 cụm

công nghiệp, thu hút 1.130 dự án từ 35 quốc gia và vùng lãnh thổ như

Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản…, có tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ USD

và hơn 31.600 tỷ đồng, thu hút hơn 375 ngàn lao động đang làm việc tại

các KCN, trong đó hơn 60% là người ngoài tỉnh. Tỉnh đã quy hoạch 21

cụm công nghiệp với tổng diện tích 620 ha trên địa bàn các huyện, thành phố

Biên Hòa và thị xã Long Khánh.

Bảng 1: Quy hoạch phát triển một số KCN lớn của tỉnh Đồng Nai

Đơn vị tính: ha

Tổng diện tích (ha)

STT

KCN

1.

Biên Hoà 1

335

2.

Biên Hoà 2

365

3.

Amata

418

4.

Loteco

100

5.

Gò Dầu

184

6.

Nhơn Trạch, bao gồm:

2.700

- Nhơn Trạch 1

430

- Nhơn Trạch 2

700

- Nhơn Trạch 3

368

33

Tổng diện tích (ha)

STT

KCN

- Nhơn Trạch 4

352

- Nhơn Trạch 5

556

- Nhơn Trạch 6

616

7.

Sông Mây

471

8.

Hố Nai

523

9.

Tam Phước

331

10.

Long Thành

488

11.

An Phước

130

12.

Ông Keo

800

13.

Thanh Phú

186

14.

Bàu Xéo

495

15.

Long Khánh

100

16.

Xuân Lộc

100

17.

Tân Phú

50

18.

Định Quán

50

Tổng

7.826

Nguồn: Website: www.dongnai.gov.vn

Mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng năm

2010, các KCN Đồng Nai đã thu hút được 38 dự án FDI mới với tổng vốn đầu

tư 375 triệu USD và 60 dự án tăng vốn với 905 triệu USD. Tổng vốn thu hút

FDI trong năm 2010 là 1,28 tỷ USD, trong khi các tỉnh, thành lân cận như

TP.Hồ Chí Minh thu hút được 774 triệu USD, Bình Dương là 436,4 triệu

USD. Đó là những thành công lớn của Đồng Nai. Giai đoạn 2001 - 2010

Đồng Nai đã thực hiện tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách

mạnh mẽ và đạt được những kết quả quan trọng, không chỉ duy trì mức tăng

trưởng kinh tế cao mà các lĩnh vực giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ,

văn hóa – xã hội được quan tâm đạt được nhiều tiến bộ. Công tác xóa đói

giảm nghèo, giải quyết việc làm, chăm lo các đối tượng chính sách được quan

34

tâm thực hiện tốt. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; hệ

thống chính trị ngày càng được củng cố và tăng cường. Đời sống nhân dân

không ngừng được nâng lên, GDP bình quân đầu người (theo giá so sánh năm

1994) từ 1,8 triệu đồng (năm 1990) tăng lên 29,6 triệu đồng (năm 2010)

[130].

Tuy nhiên, Đồng Nai cũng đứng trước nhiều cơ hội và thách thức. Hiện nay

có nhiều ngành công nghiệp phù hợp với định hướng CNH, HĐH chung của cả

nước như có nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp chế biến, chế tác, nhất là các

ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp như công nghiệp sản xuất thức ăn gia

súc, công nghiệp thực phẩm. So với chỉ tiêu công nghiệp chế tạo chiếm 40%

tổng giá trị công nghiệp thì Đồng Nai đã vượt qua. Ngoài ra, Đồng Nai đã bước

đầu xây dựng được một số khu công nghệ sinh học, khu công nghệ cao, hứa hẹn

là xuất phát điểm cho HĐH một số ngành khác trong những năm tới.

Tuy nhiên, Đồng Nai đang đối mặt với những bất lợi như: chính sách thu

hút chưa chú trọng chọn lọc dự án đầu tư ở giai đoạn ban đầu nên nhiều cơ sở

sản xuất công nghiệp mang lại doanh thu lớn nhưng ở trạng thái công nghệ

chưa sạch, chưa thân thiện với môi trường, thậm chí còn ở trình độ gia công,

lắp ráp nên phụ thuộc vào nguyên, vật liệu nhập khẩu cũng như để lại tổng giá

trị gia tăng thấp cho tỉnh. Khảo sát từ năm 2004 - 2009 tại 805 doanh nghiệp

cho thấy, chỉ có 141 doanh nghiệp có hệ số năng lực công nghệ đạt mức tiên

tiến (đạt 17,57%). Trong khi đó, doanh nghiệp có trình độ công nghệ nằm ở

mức trung bình là 571, chiếm đến 71%. Đó là các cơ sở giày da, dệt may, một

số cơ sở chế biến nông sản, sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm. Hơn nữa,

các KCN cũng chưa được sắp xếp theo hướng chuyên môn hóa ngay từ đầu

nên hiệu quả sử dụng đất còn thấp, chưa thuận tiện cho xử lý chất thải, bảo vệ

môi trường... [130]

35

Các KCN theo mô hình các KCN tập trung, khu chế xuất, khu kinh tế

mở mới đang hình thành với các quy mô, chất lượng phát triển rất khác nhau.

Mô hình xây dựng các KCN chủ yếu vẫn là các kết cấu hạ tầng kỹ thuật dành

cho việc sản xuất là chủ yếu, các cơ sở hạ tầng xã hội vẫn chưa được chú

trọng, thường sử dụng các hạ tầng xã hội của các khu dân cư bên cạnh đó (xã,

phường). Đó là các KCN chưa hoàn chỉnh về mặt kết cấu hạ tầng kỹ thuật và

kết cấu hạ tầng xã hội.

Trong bối cảnh đó, cộng với lịch sử phát triển đô thị không dài và có

tính chất không điển hình nên người dân đô thị không thể chỉ dựa vào đô thị

để duy trì cuộc sống mà phải dựa thêm vào nông thôn với nền sản xuất nông

nghiệp truyền thống. Sự liên hệ chặt chẽ với nông thôn trở thành một đặc

điểm nổi bật của các đô thị Việt Nam, thể hiện ở các "tàn dư" của xã hội nông

thôn trong đời sống đô thị. Làng trong phố phường với các thiết chế văn hoá

truyền thống, nếp sống làng xã... vẫn còn là một bộ phận hiện hữu của đô thị

nước ta hiện nay. Thực tiễn này đòi hỏi các tiến trình quản lý đô thị sẽ rất

khác so với các đô thị ở Âu - Mỹ.

Trong bối cảnh chung đó, các làng xã ở tỉnh Đồng Nai khi bị các KCN

tập trung “thôn tính” cũng nằm trong trong xu hướng chúng là: chất lượng đô

thị hóa thấp với một loạt các vấn đề quá tải về cơ sở hạ tầng, nước sạch, vệ

sinh môi trường; luồng di dân ào ạt từ các nơi khác tập trung về, với tất cả

những thuận lợi và khó khăn của nó, đặt cho các cộng đồng dân cư tại đây có

những vấn đề bất cập trong tiến trình phát triển.

Quy mô bình quân vốn của dự án có xu hướng ngày càng thấp (bình quân

vốn đầu tư một dự án năm 1995 là 27,22 triệu USD, 9 tháng đầu năm 2004 là

6,27 triệu USD), ít dự án công nghệ kỹ thuật cao, ít nhà đầu tư từ Nhật Bản,

Mỹ, EU. Các huyện miền Bắc tỉnh vẫn rất ít dự án đầu tư. Vốn đầu tư bình

quân trên 1 ha đất KCN Đồng Nai là 3,6 triệu USD, nhưng riêng trong giai

36

đoạn 2001- 2003 chỉ đạt bình quân 0,91 triệu USD. Các doanh nghiệp

trong nước còn thấp, chỉ chiếm tỷ trong 6% vốn đầu tư trong KCN. Các

dự án chủ yếu là công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến thực phẩm,

trong khi các ngành công nghiệp nặng lại quá ít.

Tình trạng phân bố các KCN trong tỉnh chưa đều đã ảnh hưởng đến

phân bố lao động trên địa bàn. Đa số dự án thu hút nhiều lao động được

tập trung chủ yếu trong các KCN trên địa bàn thành phố Biên Hòa. Trong

tổng số 190.000 người làm việc trong các KCN, số lao động làm việc

trong các KCN ở thành phố Biên Hòa là: 101.000 người (chiếm 54%); số

lao động nhập cư ước khoảng: 113.000 người (chiếm đến 60% trên tổng

số lao động). Lao động nhập cư là một trong những nguyên nhân chính

dẫn đến tình trạng quá tải về cơ sở hạ tầng như: nhà ở, bệnh viện, trường

học, nạn kẹt xe vào mỗi giờ ra, vào ca, các tệ nạn xã hội, vi phạm trật tự

an ninh trên địa bàn…

Số lượng lao động có tay nghề trong các KCN còn thấp, chưa tạo ra

được cán bộ quản lý chủ chốt, chưa tập trung vào việc đào tạo ra đội ngũ

công nhân có tay nghề.

Các công trình văn hóa ở KCN hiện nay chưa được thống nhất về

khái niệm, chưa có những nội dung cụ thể về hình thức hoạt động cho

thiết chế văn hóa KCN.

Tuy các thủ tục hành chính đã được liên tục cải tiến nhưng vẫn còn

nhiều biểu hiện trì trệ trong việc tổ chức thực hiện. Công tác phối hợp

giữa các cơ quan quản lý nhà nước, địa phương trong một số lĩnh vực

chưa chặt chẽ. Hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư, hội nhập

kinh tế quốc tế còn yếu kém và thiếu kinh nghiệm [131].

Sự phát triển của ngành công nghiệp Đồng Nai trong những năm qua

đã góp phần làm cho Đồng Nai vươn lên đứng hàng thứ 3 cả nước về phát

37

triển công nghiệp và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc phát

triển kinh tế Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Đồng Nai xét cho cùng là sự

phát triển nhanh của ngành công nghiệp trên địa bàn theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa; từ đó thúc đẩy các ngành kinh tế và các lĩnh vực

khác phát triển như: kết cấu hạ tầng, khoa học công nghệ, giáo dục đào

tạo, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng [130].

Các điều kiện trên là cơ sở, nền tảng cho quá trình tiếp nhận và

hưởng thụ văn hoá của công nhân KCN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong

tương lai. Trong thời gian tới, Đảng bộ và nhân dân Đồng Nai tiếp tục đổi

mới phương thức và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng

bộ; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; phát triển kinh tế với tốc độ

tăng trưởng cao, bền vững; nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh;

chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; đẩy mạnh CNH, HĐH đi đôi với bảo

vệ môi trường; thực hiện tốt và đồng bộ các chính sách an sinh xã hội;

nâng cao hơn nữa chất lượng cuộc sống của nhân dân; bảo đảm vững chắc

quốc phòng an ninh; xây dựng Đồng Nai thành tỉnh cơ bản CNH – HĐH

vào năm 2015 [28].

Trong hơn 20 năm qua, quá trình thực hiện CNH, HĐH ở Đồng Nai

đã thu được nhiều thành tích vượt trội so với nhiều địa phương khác. Từ

năm 1991 đến nay là, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn được duy trì với tốc

độ cao và ổn định trong nhiều năm: giai đoạn 1991 - 1995 tăng bình quân

13,94%/năm, giai đoạn 1996 - 2000 tăng bình quân 12%/năm, giai đoạn

2001 - 2005 tăng bình quân 12,86%/năm, giai đoạn 2006 - 2010 tăng bình

quân 13,5%/năm.

1.3. Thành tựu kinh tế văn hóa xã hội

38

Tổng sản phẩm quốc nội GDP của tỉnh tăng bình quân 13,2%/năm.

Trong đó ngành công nghiệp, xây dựng tăng 14,5%/năm, dịch vụ tăng

15%/năm, nông lâm nghiệp thủy sản tăng 4,5%/năm. Quy mô GDP theo giá

thực tế năm 2010 đạt 75.137 tỷ đồng (tương đương 4,13 tỷ USD), gấp 2,5 lần

năm 2005. GDP bình quân đầu người năm 2010 là 29,65 triệu đồng

(1.629USD), tăng gấp 2,1 lần năm 2005.

- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng định hướng, tỷ trọng các

ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 57% năm 2005 lên 57,2% năm

2010; dịch vụ từ 28% lên 34% và giảm ngành nông - lâm - thủy sản từ

14,9% xuống còn 8,7%. Cơ cấu lao động cũng chuyển dịch mạnh theo

hướng giảm tỷ trọng lao động khu vực nông nghiệp từ 45,5% năm 2005

xuống còn 30% năm 2010, lao động phi nông nghiệp tăng từ 54,5% năm

2005 lên 70% năm 2010.

- Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân là 17,2%/năm, cao hơn mức

tăng của giai đoạn 2001 - 2005.

- Tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bình quân

19,1%/năm. Trong 5 năm 2006 - 2010 huy động tổng vốn đầu tư phát

triển xã hội đạt 121.500 tỷ đồng. Tốc độ thu ngân sách bình quân

12,5%/năm, tổng thu ngân sách bình quân chiếm tỷ lệ khoảng 23% GDP

hàng năm.

- Trong 5 năm 2006 - 2010, đã phát triển thêm 11 khu công nghiệp,

nâng tổng số khu công nghiệp được thành lập trên địa bàn tỉnh lên 30 khu

với diện tích 9.573 ha. Về phát triển các cụm công nghiệp, đến cuối năm

2010 toàn tỉnh có 43 cụm công nghiệp được quy hoạch với tổng diện tích

là 2.143 ha trong đó có 2 cụm công nghiệp đã đầu tư hoàn thiện hạ tầng, 6

cụm công nghiệp đang đầu tư hạ tầng số còn lại đang trong quá trình bồi

thường giải phóng mặt bằng và lập thủ tục đầu tư.

39

- Tỷ lệ thất nghiệp thành thị năm 2010 giảm xuống còn 2,6%. Cơ cấu

lao động năm 2010 là: khu vực công nghiệp - xây dựng 39,1%, khu vực

dịch vụ 30,9%, khu vực nông nghiệp 30%.

- Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đến cuối năm 2010 đạt 53%, tỷ lệ

lao động qua đào tạo nghề đạt 40%. Ngoài ra, tỉ lệ người tốt nghiệp đại

học, công nhân tay nghề bậc cao còn thấp so với bình quân chung cả

nước. Công nghiệp phát triển nhanh nhưng nhân lực chất lượng cao không

đáp ứng kịp. Tính đến cuối năm 2008 mới có 19.751 người tốt nghiệp đại

học, đang công tác trong các thành phần kinh tế hoặc đã nghỉ hưu. Trong

số này số tốt nghiệp từ hệ đào tạo không chính qui (chuyên tu, tại chức,

chuẩn hóa, từ xa) chiếm đến 44,2%.

- Tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 100%. Kết quả xây dựng trường đạt

chuẩn quốc gia đến năm 2010 là mầm non 12%, tiểu học 12%, THCS

15%, THPT 20%. Đến năm 2010, trên địa bàn tỉnh có 2 trường đại học, 9

trường cao đẳng, 6 trường trung cấp chuyên nghiệp, 80 cơ sở dạy nghề

với năng lực đào tạo trên 58.000 học viên.

- Tỷ lệ hộ nghèo tính theo chuẩn năm 2006 đến cuối năm 2009 còn

dưới 1%. Nếu tính theo chuẩn 2009 của tỉnh đến cuối năm 2010 còn

4,27%.

- Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi cuối năm 2010 giảm còn

14,5%. Năm 2010, dự kiến toàn tỉnh có 257 cơ sở y tế. 100% xã, phường

có trạm y tế, 100% trạm y tế có nữ hộ sinh, 100% ấp, khu phố có nhân

viên y tế được đào tạo và hưởng chế độ trợ cấp của nhà nước. Toàn tỉnh

có 19 bệnh viện đa khoa, chuyên khoa và 13 phòng khám đa khoa khu vực

với 5.675 giường bệnh, đạt 19 giường bệnh/vạn dân. Toàn tỉnh có 5.703

cán bộ y tế, đạt 22,5 cán bộ y tế/vạn dân. Trong đó số bác sỹ là 1.267

người, đạt 5 bác sỹ/vạn dân.

40

- Tỷ lệ hộ dùng điện năm 2010 đạt 99%.

- Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch năm 2010 khu vực thành thị đạt

98%, khu vực nông thôn 90%.

- Thu gom xử lý chất thải y tế đạt 100%; thu gom chất thải nguy hại

đạt 60%; thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt đạt 80%.

- Tỷ lệ độ che phủ cây xanh đến cuối năm 2010 đạt 54,3%, trong đó

tỷ lệ độ che phủ của rừng đạt 29,76%.

Các thành tựu này là nền tảng xã hội cho sự phát triển đời sống văn

hóa tinh thần cho các cộng đồng dân cư trên địa bàn tỉnh nói chung, các

cộng đồng dân cư có KCN nói riêng. Theo Báo cáo về Đời sống văn hoá đô

thị & Khu công nghiệp Việt Nam năm 2009 của Viện Văn hóa Nghệ thuật

Việt Nam [137], sự tăng trưởng kinh tế xã hội mới là bước đầu, chưa có một

chất lượng đô thị cao. Chính đặc điểm này đã đặt ra vấn đề là cần phải nâng

cao hơn nữa “chất lượng đô thị” trong cuộc sống của người dân trên nhiều

phương diện. “Lối sống đô thị" với hàng loạt các yếu tố, các tiêu chí mà các

nhà xã hội học đã đề cập đến chính là vấn đề mà chúng ta cần quan tâm đối

với các cộng đồng nông thôn đang đi vào công nghiệp hóa, đô thị hóa ở Việt

Nam hiện nay. Sự chuyển biến tuy đã có nhưng còn rất chậm so với yêu cầu

khách quan, nhất là so với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH mà chúng ta

đang tiến hành.

1.4. Mô tả các cộng đồng được khảo sát

Sau năm 1975, cũng giống như các cộng đồng nông thôn khác của phía

Nam, các xã mà chúng tôi đi khảo sát cũng như các xã thuộc tỉnh Đồng Nai

nói chung đều có những biến động lớn về kinh tế - xã hội và văn hóa.

Theo tác giả Lương Hồng Quang, trong cuốn sách Văn hóa cộng đồng

làng vùng đồng bằng sông Cửu Long thập kỷ 80 – 90 (qua trường hợp Bình

Phú - Cai Lậy - Tiền Giang) khoảng thời gian từ 1980 cho đến nay là một giai

41

đoạn đầy biến động của nông thôn Nam Bộ, trong đó có các xã Long Thọ,

Hiệp Phước và Thạnh Phú. Sau một, hai năm khắc phục hậu quả chiến tranh,

ổn định cuộc sống, sản xuất nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Cửu Long

đã từng bước được phục hồi và cải tạo theo phương hướng tiến lên sản xuất

lớn Xã hội Chủ nghĩa. Những kinh nghiệm và mô hình tập thể hoá ở miền

Bắc đã được áp dụng trên một nông thôn - nông nghiệp - nông dân có nhiều

đặc điểm khác hẳn so với các tỉnh phía Bắc. Cuối năm 1975, gần 6 triệu

nông dân phiêu tán trong chiến tranh nay đã trở về quê, nhu cầu ruộng đất

trở thành một vấn đề nóng bỏng của người nông dân và các tranh chấp ruộng

đất trở thành một vấn đề xã hội gay gắt. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà

nước chủ trương tiến hành điều chỉnh ruộng đất, coi đây là bước mở đầu để

đưa nông dân các tỉnh Nam Bộ đi dần vào con đường tập thể hoá [78].

Trong những năm 1976 - 1978, ở nông thôn các tỉnh Nam Bộ đã diễn ra

quá trình điều chỉnh, chia cấp ruộng đất cho nông dân, tập thể hoá tư liệu sản

xuất, tiến hành xây dựng thí điểm các hợp tác xã nông nghiệp. Trước đó,

trong năm 1975, cả vùng đã có phong trào xây dựng tập đoàn sản xuất phát

triển mạnh mẽ với 12.246 tập đoàn. Song, do làm ồ ạt, xuất phát từ mục tiêu

chính trị hơn là kinh tế, gò ép, thiếu chuẩn bị nên các tập đoàn sản xuất hoạt

động ít hiệu quả, tồn tại ở hình thức. 6000 tập đoàn hoạt động cầm chừng,

4000 tập đoàn khi thành lập gặp thiên tai vào các năm 1976 đến 1979 đã lần

lượt tan vỡ.

Sau Chỉ thị 15 của Ban Bí thư Trung ương (khoá IV) Về việc làm thí điểm

cải tạo Xã hội Chủ nghĩa đối với nông nghiệp miền Nam, tháng 8 năm 1977,

theo sự chỉ đạo của Trung ương, ở Nam Bộ xây dựng ba hợp tác xã thí điểm:

Tân Hội (Cai Lậy - Tiền Giang), Ô Môn (Hậu Giang), Long Thành (Đồng Nai).

Đến cuối những năm 80, hàng loạt hợp tác xã và tập đoàn sản xuất ở Đông và

Tây Nam Bộ tan rã. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, mô hình tập thể hoá áp dụng vào

42

điều kiện thực tế của nông thôn các tỉnh phía Nam, trên những va đập của các

quan hệ kinh tế - xã hội đặc thù đã sớm bộc lộ những hạn chế, yếu kém của lối

làm ăn tập thể được áp dụng một cách duy ý chí.

Ngày 05/04/1988, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá

VI) ra Nghị quyết Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp (gọi tắt là Nghị

quyết 10), trong đó, Bộ Chính trị đã đưa ra những quan điểm mới: Hợp tác xã

là đơn vị kinh tế tự chủ, tự quản, hộ gia đình xã viên là đơn vị nhận khoán với

hợp tác xã. Chính các quan điểm này xác nhận sự "trỗi dậy" của kinh tế nông

hộ, từ đó, ngầm ẩn các quá trình đòi lại ruộng đất đã điều chỉnh thời tập thể

hoá và bùng phát trên cả vùng khi Luật đất đai được thi hành. Sự phát triển

trở lại của nền kinh tế thị trường, thay vì một chính sách quản lý chặt chẽ của

Nhà nước đã đánh mất vai trò độc tôn của hợp tác xã là đối tượng cung cấp

duy nhất trên thị trường các sản phẩm vật tư nông nghiệp. Thị trường tự điều

chỉnh các cung ứng này. Các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất dần dần mất chức

năng, tự phá sản. Nền nông nghiệp các tỉnh Đông và Tây Nam Bộ trở lại là

nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá với nông hộ là đơn vị kinh tế cơ bản,

trong đó trung nông là lực lượng chính. Những năm 1990 là thời kỳ phát triển

mạnh mẽ của nền nông nghiệp của cả vùng và ở 3 xã mà luận án này khảo sát.

Chính sự phát triển theo cơ chế thị trường đã cơ bản khắc phục được những

khó khăn trong đời sống nông dân các năm về trước, mức sống của người dân

được cải thiện một bước, công tác văn hoá xã hội cũng nhờ đó mà phát triển.

Các xã Hiệp Phước, Thạnh Phú và Long Thọ là các cộng đồng nông

thôn điển hình của vùng đất Đồng Nai, có vị trí địa lý nằm ở vùng trung tâm

trồng lúa của hai huyện Nhơn Trạch và Vĩnh Cửu, đất vườn xanh tươi, trù phú

với các loại cây ăn quả như bưởi, mít, chuối, xoài. Trước năm 2000, cả 3 xã

đều là các xã nông nghiệp điển hình của tỉnh Đồng Nai với lợi thế dựa vào

43

tiềm năng đất đai rộng, người dân cần cù sản xuất. Có thể nói đây là 3 cộng

đồng dân cư tiêu biểu của đất Đồng Nai, có truyền thống lịch sử trên dưới 300

năm, gắn liền với lịch sử phát triển, thể hiện trong hệ thống các di tích lịch sử

văn hóa, các nghi lễ, phong tục tập quán, lễ hội sẽ được phân tích ở Chương 3.

1.4.1. Xã Hiệp Phước

Xã Hiệp Phước nằm về hướng phía Đông Bắc của thành phố Nhơn

Trạch, phía đông giáp xã Long An, Long Phước của huyện Long Thành; phía

tây giáp các xã Phước Thiền, Phú Hội, Long Tân (cùng huyện Nhơn Trạch);

phía nam giáp các xã Long Thọ, Phước An cũng cùng huyện; phía bắc giáp

thị trấn Long Thành (huyện Long Thành).

Tại Nhơn Trạch, có 6 khu công nghiệp được Chính phủ phê duyệt, gồm:

KCN Nhơn Trạch 1, KCN Nhơn Trạch 2, KCN Nhơn Trạch 3, KCN Nhơn

Trạch 4, KCN Nhơn Trạch 5 và KCN Nhơn Trạch 6. Ngoài ra, còn có 1 KCN

do tỉnh phê duyệt là KCN Ông Kèo và 1 KCN của địa phương khoảng 100 ha

ở xã Phú Thạnh - Vĩnh Thanh. Bên cạnh đó, do Nhơn Trạch có vị trí địa lý

thuận lợi là tâm điểm tam giác Tp. HCM, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu nên

được quy hoạch thành đô thị loại II, hình thành ở đây các khu đô thị mới được

xây dựng hiện đại, theo tiêu chuẩn của các đô thị mới, với hệ thống nhà ở, cơ

sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đạt chuẩn. Hai tiến trình phát triển KCN

và xây dựng các đô thị mới đã tạo ra những áp lực cho chính các cộng đồng

nông thôn ở đây, trong đó có Hiệp Phước và Long Thọ.

Tại Hiệp Phước, trong 10 năm, quỹ đất của toàn xã có sự tăng lên nhưng

diện tích bị thu hồi lại giảm đi. Nếu như năm 2000 thu hồi 450 ha, đến năm

2005 là 420 ha và năm 2010 còn 49 ha. Trong 10 năm, tổng diện tích đất của

xã tăng 69 ha thì diện tích bị thu hồi giảm 8,3 lần (từ 24,8% xuống 2,6%). Vì

có vị trí địa lý thuận lợi phục vụ quy hoạch phát triển KCN và phát triển các

đô thị là một trong các trọng tâm của tỉnh. Giai đoạn 2000 - 2005 nhanh

44

chóng thu hồi đất nhằm đáp ứng xây dựng hạ tầng phát triển KCN và phát

triển đô thị. Đến năm 2010, diện tích thu hồi đất giảm sút rõ rệt (1/10 so với

những năm 2000 - 2005) vì quỹ đất của địa phương đã không còn đáp ứng

nhu cầu quy hoạch KCN. Từ đó quá trình thu hồi đất phát triển KCN chuyển

qua các xã lân cận như: Phước Thiền, Long Thọ,…

Bảng 2: Diện tích đất bị thu hồi qua các năm

Đơn vị tính: ha

Diện tích đất (ha)

2010

%

2005

%

2000

%

Tổng diện tích tự nhiên

1882

100

1813

100

1813

100

Đất bị thu hồi

49

2,6

420

23,1

450

24,8

Nguồn: UBND xã Hiệp Phước, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010

Diện tích đất tự nhiên của Hiệp Phước là 1.813ha, trong đó đất canh tác

552,48 ha. Đất thổ cư 107,31 ha, 1150 ha diện tích đất mặt nước, đất dự trữ và

khác, trong đó đất canh tác từ trên 1500 ha xuống còn trên 500 ha sau 10 năm,

chứng tỏ Hiệp Phước là nơi có tốc độ CNH và ĐTH mạnh nhất trong 3 xã.

Bảng 3: Tổng diện tích đất qua các thời kỳ

Đơn vị tính: ha

STT

Loại hình

2010

2005

2000

1

Đất canh tác

552,48

500,27

1615,12

2

Đất thổ cư

107,31

91,50

52,98

Nguồn: UBND xã Hiệp Phước, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010

Xã có 5 ấp, được đánh số từ 1 đến 5. Dân số của xã năm 2000 dân số

toàn xã 10.543 người, năm 2005 là 13.916 người và 2010 là 16.179 người với

5.369 hộ. Số người trong độ tuổi lao động chiếm 60% dân số của xã. Trong

đó năm 2000 có 6732 người nhập cư vào xã. Năm 2005 có 9547 người và

2010 có 13919 người.

Kinh tế trong xã phát triển theo hướng bền vững với đóng góp chủ yếu

của công nghiệp và dịch vụ. Thu nhập bình quân theo đầu người không ngừng

45

tăng. Năm 2000 là 0,92 triệu đồng/người/tháng. Năm 2005 là 1,5 triệu

đồng/người/tháng. Năm 2010 là 2,1 triệu đồng/người/tháng. Tính theo năm,

thu nhập này là gấp 2 lần so với trung bình thống kê cả nước cho khu vực

nông thôn (Tổng điều tra toàn quốc năm 2009 là gần 12 triệu

đồng/người/năm). Thu nhập của nhân dân trong xã không ngừng được tăng

lên qua các mốc thời gian trong 10 năm. Đời sống của nhân dân không ngừng

được cải thiện do chủ yếu là tốc độ CNH tăng mạnh, khi các KCN được xây

dựng ngay tại xã, với các nhà máy lớn như nhà máy nhiệt điện Nhơn Trạch,

nhà máy Formosa...

Bảng 4: Thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ

Đơn vị tính: triệu đồng

STT

Thu nhập

2010

2005

2000

2,1 triệu x 12

1,5 triệu x 12

920.000 x 12

Thu nhập bình quân (triệu

tháng =

tháng =

tháng =

1

đ/năm)

25.200.000/năm

18.000.000/năm

11.040.000/năm

Nguồn: UBND xã Hiệp Phước, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010

Tỷ lệ cơ cấu hộ gia đình nông nghiệp từ năm 2000 chiếm 60,8%, sau

10 năm còn gần 20%, giảm 3 lần, tỷ lệ hộ phi nông nghiệp từ 0,2% năm

2000, tăng lên 26,2%, tăng 26 lần, trong số này, chủ yếu là tăng do dân

nhập cư vào các KCN đến sinh sống, nhập cư tại Hiệp Phước, một phần là

chuyển đổi của dân tại chỗ.

Bảng 5: Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ

Đơn vị tính: người

2010

2005

2000

STT

Hộ

n

%

n

%

n

%

1 Hộ nông nghiệp

1063

19,8

1965

42,7

2010

60,8

2 Hộ hỗn hợp

2897

54,0

2018

44,0

1279

39,0

3 Hộ phi nông nghiệp

1408

26,2

610

13,3

18

0,2

46

4 Tổng

5368

100

4593

100

3307

100

Nguồn: UBND xã Hiệp Phước, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010

Bảng 6: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ

Đơn vị tính: người

2010

2005

2000

STT

Dân cư

Người % Người %

Người

%

1 Học sinh, sinh viên

5230

4891

5150

2 Công nhân, viên chức, hưu trí

763

812

898

Kinh doanh, buôn bán nhỏ (bán

hàng tại nhà, buôn bán vỉa hè,

3

cho thuê nhà….)

3790

2850

2005

Thủ công nghiệp (làm giầy da,

dệt len, làm mộc, thợ đục, thợ

may…)

4

3616

1853

1360

Nghề tự do (Nội trợ, làm thuê,

5

giúp việc, xây dựng, xe ôm...)

2780

3510

1130

6 Tổng dân số toàn xã

16179

13916

10543

Nguồn: UBND xã Hiệp Phước, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010

Bảng 7: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư

Đơn vị tính: người

2010

2005

2000

STT

Dân cư

Người %

Người

%

Người %

1 Học sinh, sinh viên

1230

610

815

2 Công nhân, viên chức, hưu trí

87

67

61

Kinh doanh, buôn bán nhỏ

(bán hàng tại nhà, buôn bán

3

vỉa hè, cho thuê nhà….)

2120

1976

1783

Thủ công nghiệp (làm giầy

4

da, dệt len, làm mộc, thợ đục,

7613

6382

6616

47

thợ may…)

Nghề tự do (Nội trợ, làm

thuê, giúp việc, xây dựng, xe

ôm...)

5

2869

4881

1268

6 Tổng

16179

13916

10543

Nguồn: UBND xã Hiệp Phước, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010

Hòa cùng quá trình ĐTH của cả nước trong giai đoạn hiện nay, quá trình

ĐTH ở xã Hiệp Phước cũng đang diễn ra rất nhanh nhất là quá trình ĐTH về

những loại hình dịch vụ đặc biệt phát triển: với sự xuất hiện hàng loạt các

tiệm điện thoại di động, dịch vụ bưu điện, viễn thông, các dịch vụ sửa chữa,

dịch vụ du lịch vận tải, dịch vụ internet, truyền thông, dịch vụ hành chính văn phòng

khi xã đang có những trung tâm đô thị dọc quốc lộ 51…

Do nhu cầu về chỗ ở của người lao động quá lớn, trong khi đó các chủ sử

dụng lao động không đáp ứng được cộng thêm mức thu nhập thấp (bình quân

mỗi tháng từ 1.5 triệu – 1.8 triệu đồng/người) dẫn đến người lao động nhập cư

tự lo chỗ ở phải thuê những căn nhà trọ giá rẻ, chưa đảm bảo chất lượng cuộc sống với diện tích bình quân 4m2/người, chất lượng nhà cho thuê (vệ sinh,

điện, nước) chưa đảm bảo yêu cầu của cuộc sống, sinh hoạt văn hóa dường

như không có. Giá cả tăng vọt, lương cho công nhân còn thấp, thu nhập từ

việc buôn bán của người dân địa phương còn quá bấp bênh. Các hoạt động

giải trí, sinh hoạt văn hóa chưa đáp ứng đủ nhu cầu của người dân.

1.4.2. Xã Thạnh Phú

Xã Thạnh Phú thuộc huyện Vĩnh Cửu, hiện có 7 ấp với diện tích 1436 ha

trong đó 876,29 ha đất canh tác, 158,95 ha đất thổ cư, còn 250 ha đất diện tích

đất mặt nước, đất dữ trự và đất khác.

Diện tích đất thu hồi của xã Thạnh Phú tăng dần theo các thời kỳ: nếu

như năm 2000 chưa bị thu hồi đất thì năm 2005 là 34 ha bằng 2,4 % tổng diện

tích đất. Năm 2010 thu hồi gấp hơn 2 lần năm 2005. Tổng diện tích đất bị cắt

48

giảm do điều chỉnh địa giới hành chính từ 1436 ha (2005) xuống chỉ còn 1405

ha (2010), vì thế năm 2010 số đất bị thu hồi đã là 5,8 % tổng diện tích đất của

toàn xã. Có hai nguyên nhân cho sự biến động này: điều chỉnh địa giới hành

chính nhằm tập trung sản xuất công nghiệp và theo quy hoạch KT - XH của

tỉnh. Từ thu hồi đất thu hẹp đất sản xuất nông nghiệp của người dân địa

phương, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã. Đồng thời có những biến động xã

hội mà biểu hiện qua nơi tụ cư/nơi ở của người dân.

Bảng 8: Diện tích đất bị thu hồi xã Thạnh Phú

Đơn vị tính: ha

Diện tích đất

2010

%

2005

%

2000

%

Tổng diện tích tự nhiên

1405

100

1436

100

1436

100

Đất bị thu hồi

82

5,8

34

2,4

0

0

Nguồn: UBND xã Thạnh Phú, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010

Tuy so với hai xã kia, diện tích đất không bị lấy nhiều (177 ha so với

1405 ha, bằng 12,6%), song ở Thạnh Phú lại có một đặc điểm là ngay tại

trung tâm xã, đã xây dựng rất nhiều nhà máy có quy mô nhân công cao. V í dụ

công ty giầy Changshin Vina nằm ngay trên tỉnh lộ 768, sử dụng trên 3000

công nhân, thu nhận dân tại chỗ, dân từ Biên Hòa xuống, dân của huyện Vĩnh

Cửu và dân các tỉnh về. Tính trên địa bàn xã Thạnh Phú, đất nông nghiệp ít bị

lấy làm đất KCN nhưng đất dân chủ động chuyển đổi để làm nhà trọ, xây cất

các khu nhà ở mới cho thuê là rất lớn, từ đây cơ cấu kinh tế của xã thay đổi

nhanh theo hướng phi nông nghiệp hóa, mặc dù trước đó là một vùng trồng

cây ăn trái, trồng lúa nổi tiếng.

Dân số của xã năm 2000 dân số toàn xã là 10613 người, tăng lên trên 22

ngàn người năm 2010, gấp đôi trong 10 năm, một tốc độ tăng “chóng mặt”,

khiến diện tích bình quân đầu người giảm trên 2 lần:

Bảng 9: Nhân khẩu của xã qua các thời kỳ

Đơn vị tính: người

49

2010

2005

2000

STT

Dân số

22150

11097

10613

1

Tổng số dân toàn xã Diện tích bình quân đầu người (m2/

2

người)

8

14

20

Tổng số dân nhập cư là công nhân

3

(KT2/3, chưa đăng ký)

5762

1980

488

Nguồn: UBND xã Thạnh Phú, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010

Trong tổng số dân toàn xã, dân nhập cư hiện nay chiếm 40% tổng số

dân, trong đó từ miền Tây lên là lớn nhất, miền Bắc và miền Trung chiếm

gần/trên 1/5 tổng số dân nhập cư, song họ lại có xu hướng định cư lâu dài hơn

dân miền Tây. Toàn xã có 22.108 nhân khẩu trong đó trên 40% là dân nhập

cư từ các tỉnh tới đây sinh sống và làm ăn (trên 5 ngàn là công nhân và gần 9

ngàn (8843 người) là dân nhập cư.

Bảng 10: Dân nhập cư qua các thời kỳ

Đơn vị tính: người

2010

2005

2000

STT

Dân cư

Người %

Người

%

Người %

Tổng số dân nhập cư (KT2/3,

1

chưa đăng ký)

5762

26

1980

17,8

488

0,5

2 Từ miền Tây Nam bộ

3270

-

-

634

81

-

3 Từ miền Trung

1009

-

-

733

193

-

4 Từ miền Bắc

1483

-

-

613

214

-

5 Tổng số dân toàn xã

22150 100

11097

100

10613 100

Nguồn: UBND xã Thạnh Phú, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010

Phần lớn người nhập cư không có hộ khẩu thường trú, không có nhà mà

chủ yếu là dạng tạm trú, ở nhà trọ. Khi công ty tăng nhu cầu lao động bao

nhiêu thì những dãy trọ cũng mọc lên bấy nhiêu. Các dãy trọ tập trung chủ

yếu ở ấp 5 và ấp 1, theo khảo sát của chúng tôi thì đây là hai ấp có lượng công

50

nhân người dân tộc Chăm và Khmer đông. Họ sống tập trung thành các xóm

trọ và ít tiếp xúc với bên ngoài sau giờ làm việc, chủ yếu là sống khép kín.

Bảng 11: Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ

Đơn vị tính: hộ

2010

2005

2000

STT

Hộ

n

%

n

%

n

%

1 Hộ nông nghiệp

824

23.36

1793

85.95

1697

95.98

2 Hộ hỗn hợp

1652

46.85

143

6.85

30

1.69

3 Hộ phi nông nghiệp

1050

29.77

150

7.19

41

2.3

4 Tổng

3526

2086

1768

Nguồn: UBND xã Thạnh Phú, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn

hóa 2010

Bảng 12: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ

Đơn vị tính: người

2010

2005

2000

STT

Dân cư

Người %

Người

%

Người %

1 Học sinh, sinh viên

3540

15,98

1435

12,93

930

8,76

52,0

2 Công nhân, viên chức, hưu trí 15890 71,73

7524

67,8

5520

1

Kinh doanh, buôn bán nhỏ

(bán hàng tại nhà, buôn bán

vỉa hè, cho thuê nhà….)

3

890

4,42

450

4,05

208

1,95

Thủ công nghiệp (làm giầy

da, dệt len, làm mộc, thợ đục,

4

thợ may…)

789

3,56

658

5,92

243

2,28

Nghề tự do (Nội trợ, làm

34,9

thuê, giúp việc, xây dựng, xe

5

ôm…)

1041

4,69

1030

9,28

3712

7

51

6 Tổng dân số toàn xã

22150

10613

Nguồn: UBND xã Thạnh Phú, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn

hóa 2010

Bảng 13: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư

Đơn vị tính: người

2010

2005

2000

STT

Dân cư

Người %

Người

%

Người %

1 Học sinh, sinh viên

102

1,77

35

1,76

4

0,81

2 Công nhân, viên chức, hưu trí

5160

89,55

1675

84,59

390

7,99

Kinh doanh, buôn bán nhỏ

(bán hàng tại nhà, buôn bán

vỉa hè, cho thuê nhà….)

3

60

1,04

16

0,8

5

1,02

Thủ công nghiệp (làm giầy

da, dệt len, làm mộc, thợ đục,

4

thợ may…)

230

3,99

60

3,03

9

1,84

Nghề tự do (Nội trợ, làm

thuê, giúp việc, xây dựng, xe

5

ôm...)

210

3,64

194

9,79

80

16,39

6 Tổng số toàn xã

5762

1980

488

Nguồn: UBND xã Thạnh Phú, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn

hóa 2010

Thu nhập bình quân đầu người của toàn xã tăng gấp 3 lần trong 10

năm, từ 2000 đến 2010, chủ yếu do chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ làm

nông nghiệp sang dịch vụ (dân tại chỗ với mô hình kinh tế cho thuê nhà

trọ, buôn bán nhỏ), làm công nhân KCN (một phần dân tại chỗ và chủ

yếu là công nhân là dân nhập cư). Trước đây người dân ở xã sống bằng

nghề nông và một số ngành nghề khác. Từ khi có các công ty, xí nghiệp

mọc lên thì cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động cũng thay đổi hầu hết lao

52

động nông nghiệp chuyển sang công nghiệp, từ người nông dân chuyển

thành công nhân, tiểu thương.

53

Bảng 14: Thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ

Đơn vị tính: triệu đồng

STT

Thu nhập

2010

2005

2000

Thu nhập bình quân

1

(triệu đ/năm)

15.000.000/năm

10.000.000/năm 5.000.000/năm

Nguồn: UBND xã Thạnh Phú, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010

Hệ thống các quán ăn, cửa hàng, quán café, karaoke rất phát triển. Thời

gian rảnh rỗi công nhân thường tới các dịch vụ này nhiều hơn tham gia các

hoạt động văn hóa địa phương. Các dịch vụ internet ít phát triển do trình độ

công nhân chưa cao.

Toàn xã có một trung tâm học tập cộng đồng, 02 trường mẫu giáo, 02

trường tiểu học, 02 trường trung học cơ sở, 02 trường trung học phổ thông. Ở

đây còn có 01 trung tâm Anh ngữ và trung tâm giáo dục thường xuyên, hướng

nghiệp dạy nghề cho thanh niên địa phương. Ở xã có 01 trạm y tế đạt chuẩn

quốc gia. Xã có 1 sân bóng đá và một sân bóng chuyền để luyện tập vui chơi,

tuy nhiên đó chỉ là những sân chơi tạm thời. Hệ thống đài phát thanh xã được

đầu tư máy phát sóng FM với 24 loa vô tuyến và 14 loa hữu tuyến. Dọc hai

bên đường và tại các trạm thông tin các ấp được gắn các áp phích, pano, tranh

ảnh tuyên truyền về hưởng ứng các phong trào, các chủ trương của Đảng và

nhà nước.

1.4.3. Xã Long Thọ

Ngày nay xã Long Thọ nằm ở phía Đông của trung tâm thành phố

Nhơn Trạch và cách trung tâm 11 km. Phía Bắc giáp xã Hiệp Phước

(huyện Nhơn Trạch), phía Nam giáp xã Phước An (huyện Nhơn Trạch),

phía Tây giáp các KCN của huyện Nhơn Trạch, phía Đông giáp xã Long

Phước (huyện Long Thành). Xã có địa hình bằng phẳng thuận lợi để xây

dựng nhà ở, KCN, trung tâm văn hóa, trung tâm thương mại, chung cư…

54

Diện tích đất tự nhiên 1.113 ha, trong đó đất canh tác 904.52 ha.

Đất thổ cư 209.11 ha, 50 ha diện tích đất mặt nước, đất dữ trự và khác.

Ở xã Long Thọ, tương tự như Thạnh Phú, năm 2000 diện tích đất

của xã chưa bị thu hồi, năm 2005 thu hồi 339 ha, bằng 13,9 % tổng diện

tích toàn xã. Năm 2010 thu hồi 47 ha bằng 1,9 % toàn diện tích xã. Năm

2000 chưa có dự án công nghiệp, đến năm 2005 đất xã Long Thọ thu hồi

13,9% tổng diện tích đất của xã. Để phát triển cụm công nghiệp Nhơn

Trạch đòi hỏi quỹ đất phải đáp ứng đủ theo cầu quy hoạch phát triển

KCN và đô thị của tỉnh và vùng, do đó ở Long Thọ không thu hồi đất lẻ

tẻ/nhỏ lẻ gây nhức nhối trong nhân dân ở giai đoạn trước nữa. Năm

2010, diện tích thu hồi đất giảm sút rõ rệt (1/7 so với những năm 2000 -

2005), do nhu cầu xây dựng KCN và đô thị trên địa bàn đã đủ.

Bảng 15: Tổng diện tích đất bị thu hồi qua các năm

Đơn vị tính: ha

Diện tích đất

2010

2005

%

2000 %

%

Tổng diện tích tự nhiên

2427

2427

100

2427

100

100

Đất bị thu hồi

47

339

13,9

0

0

1,9

Nguồn: UBND xã Long Thọ, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010

Bảng 16: Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ

Đơn vị tính: hộ

2010

2005

2000

STT

Hộ

n

%

n

%

n

%

1 Hộ nông nghiệp

405

20

416

23,4

1168

80

2 Hộ hỗn hợp

420

20,7

900

50,7

-

-

3 Hộ phi nông nghiệp

1200

59,2

459

25,8

-

-

4 Tổng

2025

100

1775

100

1460

100

Nguồn: UBND xã Long Thọ, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010

55

Qua bảng phân bố trên, ta thấy một diện mạo phát triển mới khi năm

2000, cư dân nông nghiệp chiếm 80% song 10 năm sau, chỉ còn 20%. Tỷ

lệ hộ phi nông nghiệp năm 2005 là 25,8% nhưng đến năm 2010 là gần

60%, trong 5 năm, tăng hơn 2 lần. Các chỉ số này cho thấy với sự phát

triển nhanh các KCN, cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề, trong đó nghề

ngoài nông nghiệp tăng mạnh. Quá trình này được củng cố bởi luồng di

dân vào xã tăng mạnh, phần lớn là dân cư phi nông nghiệp.

Bảng 17: Thống kê dân nhập cư qua các thời kỳ

Đơn vị tính: người

STT

2010

2005

2000

Dân cư

Người

%

Người

%

Người %

1

Tổng số dân nhập cư

4353

53

1302

19

14,5

905

2 Từ miền Tây Nam bộ

1088

25

225

25

227

3 Từ miền Trung

1305

30

390

30

270

4 Từ miền Bắc

1960

45

582

45

408

Nguồn: UBND xã Long Thọ, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010

Bảng 18: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ

Đơn vị tính: người

2010

2005

2000

STT

Dân cư

Người %

Người

%

Người %

1 Học sinh, sinh viên

1184

1300

1100

2 Công nhân, viên chức, hưu trí

4679

3520

800

Kinh doanh, buôn bán nhỏ

(bán hàng tại nhà, buôn bán

vỉa hè, cho thuê nhà….)

3

2052

1569

500

Thủ công nghiệp (làm giầy

da, dệt len, làm mộc, thợ đục,

4

thợ may…)

25

25

620

Nghề tự do (Nội trợ, làm

5

thuê, giúp việc, xây dựng, xe

270

410

3020

56

ôm...)

6 Tổng

8210

6824

6040

Nguồn: UBND xã Long Thọ, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010

Bảng 19: Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư

Đơn vị tính: người

2010

2005

2000

STT

Dân cư

Người %

Người %

Người %

1 Học sinh, sinh viên

130

39

27

2 Công nhân, viên chức, hưu trí

3047

911

635

Kinh doanh, buôn bán nhỏ (bán

hàng tại nhà, buôn bán vỉa hè,

3

cho thuê nhà….)

125

30

026

Thủ công nghiệp (làm giầy da,

dệt len, làm mộc, thợ đục, thợ

4

may…)

609

182

126

Nghề tự do (Nội trợ, làm thuê,

5

giúp việc, xây dựng, xe ôm...)

452

140

91

6 Tổng

4363

1302

905

Nguồn: UBND xã Long Thọ, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa 2010

Xã có dân cư đông với một lượng lớn người nhập cư khiến cho đời sống

văn hóa của người dân trong xã khá phong phú và nhiều tôn giáo khác nhau.

Trên địa bàn xã có chùa, miếu với 4 tôn giáo: Phật Giáo có 121 tín đồ với 2

cơ sở thờ tự, Thiên Chúa có 177 giáo dân, Cao Đài có một chức sắc, một

chính trị sự và 103 tín đồ, Hòa Hảo có một tín đồ.

Xã hiện có 5 ấp thì cả 5 ấp đều là ấp văn hóa. Chạy theo trục đường

chính chạy vào Long Thọ là thiết chế văn hóa, dịch vụ nằm dọc 2 bên đường.

Xã có một thư viện, 1 trung tâm văn hóa, 1 khu vui chơi giải trí, 1 trung tâm

học tập cộng đồng, 5 ấp có 5 sân chơi bóng đá và bóng chuyền. Ngoài ra còn

có 1 bưu điện, 1 trường cấp 1, 1 trường cấp 2, đặc biệt có 1 trường mần non

57

đạt chuẩn quốc gia, chưa có trường cấp 3 và trung tâm ngoại ngữ tin học.

Trên địa bàn xã tập trung nhiều công ty xí nghiệp lớn, chủ yếu là công ty liên

doanh, tư nhân và công ty 100% vốn nước ngoài. Chính vì vậy hệ thống

phòng trọ khá phát triển có tất cả 16 khu trọ, có nhiều công nhân là người dân

tộc chủ yếu từ các tỉnh phía Bắc. Những khu trọ đều được quản lý chặt chẽ

và các chủ trọ đã ký cam kết với chính quyền địa phương. Hệ thống đường xá

vào các KCN được xây dựng rộng và hiện đại. Số lượng quán ăn, quán cafe,

quán karaoke, tiệm bi - a, cửa hàng phát triển khá nhiều.

Kinh tế trong xã phát triển theo hướng bền vững với đóng góp chủ yếu

của công nghiệp và dịch vụ. Thu nhập bình quân theo đầu người không ngừng

tăng. Năm 2000 là 4 triệu đồng/người. Năm 2005 là 8 triệu đồng/người. Năm

2010 là 15 triệu đồng/người. Thu nhập của nhân dân trong xã không ngừng

được tăng lên. Đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện.

Xã Long Thọ là một xã đang trong thời kỳ phát triển của quá trình đô thị

hóa nhanh, mạnh, do sự phát triển của các KCN tại chỗ làm biến đổi cơ cấu

kinh tế xã hội. Long Thọ ngày nay không còn là hình ảnh của một làng quê

Nam Bộ với đồng lúa, vườn cau, mái nhà cổ mà là một xã đang đi trong tiến

trình đô thị hóa mạnh, có KCN tại chỗ, có những khu dân cư mới kiểu đường

phố sầm uất, với những cửa hàng dịch vụ cho nhóm cư dân nhập cư, có những

dãy nhà trọ xây bên trong vườn nhà, do người dân coi cho thuê nhà là một

nguồn sinh sống mới.

1.4.4. Tổng hợp về mẫu nghiên cứu

Trên cơ sở xây dựng một số chỉ số để đo lường mức độ CNH ở các xã

trong mẫu nghiên cứu, chúng tôi thấy được các mức độ phát triển kinh tế - xã

hội chung của 3 xã như sau.

58

Bảng 20: Tổng diện tích tự nhiên bị thu hồi để xây dựng các KCN ở 3 xã

Đơn vị tính: ha

2010

2005

2000

Hiệp Phước

43

37

20

Long Thọ

46

39

17

Thạnh Phú

12,6

5

3

Nguồn: điều tra của tác giả năm 2010

Cùng với tiến trình CNH mạnh mẽ ở Đồng Nai, quá trình người dân bị

mất đất có chiều hướng tăng không ngừng. Do nằm trong các KCN và ven các

KCN nên diện tích đất bị thu hồi phục vụ các dự án mở rộng và xây mới các

nhà máy của cả 3 xã đều tăng. Chu kỳ 10 năm (2000 - 2010), diện tích đất của

người dân phục vụ các KCN tăng gấp đôi (xã Hiệp Phước và Long Thọ),

thậm chí xã Thạnh Phú tăng gấp 4 lần. Nếu như năm 2000 xã Hiệp Phước bị

mấy 20% tổng diện tích đất thì năm 2005 tăng lên gấp 1,7 lần, 5 năm tiếp sau

đó tăng thêm 6 %. Trong khi đó, xã Long Thọ diện tích đất dành cho KCN

tăng từ 17% lên 46% trong vòng 10 năm, tức là 29% tổng diện tích tự nhiên

của xã. Xã Thạnh Phú là xã có diện tích đất dành cho KCN ít hơn cả. Trong

vòng 10 năm, diện tích đất chỉ mất 10% tổng diện tích tự nhiên của xã.

Nguyên nhân có sự đột biến về đất đai là sự bùng nổ của sản xuất công

nghiệp trên địa bàn và quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng. Các xã Hiệp

Phước và Long Thọ, 2 xã nằm trong các khu công nghiệp lớn như (Nhơn

Trạch II, Nhơn Trạch III) có diện tích bị thu hồi bằng một gần nửa diện tích tự

nhiên và có chiều hướng tăng dần theo các năm. Trong khi đó, Thạnh Phú là

xã nằm trong KCN Thạnh Phú mới được thành lập, quá trình thu hồi đất diễn

ra chậm hơn và cũng có chiều hướng gia tăng, song không có một tốc độ lớn

như hai xã Hiệp Phước và Long Thọ. Nhìn vào bảng thống kê cho thấy, số

lượng đất dành cho các KCN có xu hướng tăng lên theo chu kỳ các năm và

chiếm tỷ lệ lớn trong tổng diện tích tự nhiên của các xã.

59

Bảng 21: Diện tích đất dành cho nhà trọ trên tổng quỹ đất của hộ ở 3 xã (%)

Đơn vị tính: ha

2010

2005

2000

Tổng

Hiệp Phước

30

23

15

68

Long Thọ

30

20

14

74

Thạnh Phú

22

19

16

57

Nguồn: điều tra của tác giả năm 2010

Bảng thống kê cho thấy, trong vòng 10 năm diện tích đất dành cho nhà

trọ ở các xã đã tăng lên nhanh chóng. Diện tích đất dành cho nhà trọ tăng gấp

đôi so với tổng diện tích đất tự nhiên của từng xã. Riêng xã Thạnh Phú, tuy

diện tích đất dành cho nhà trọ có tăng nhưng không nhanh và mạnh (từ 16%

lên 22%) bằng xã Hiệp Phước và Long Thọ. Trong 3 xã, Long Thọ là xã có

diện tích dành cho nhà trọ tăng nhiều nhất (16%), bởi ở đây có lượng công

nhân KCN sinh sống đông nhất. Trong khi đó, các xã Hiệp Phước 15% và

Thạnh Phú 6 %. Theo thống kê chưa đầy đủ, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có

hơn 7.600 hộ kinh doanh nhà trọ với trên 47.000 phòng, tập trung tại Tp.Biên

Hoà, các huyện Nhơn Trạch, Trảng Bom, Vĩnh Cửu... Trên địa bàn tỉnh có 5

loại nhà ở đang sử dụng. Đầu tiên là nhà dạng cấp 4, do công ty kinh doanh

nhà xây dựng để cho thuê và nhà chung cư để bán. Loại này giá thường cao,

không phù hợp với túi tiền của công nhân có thu nhập thấp.

Tiếp đến phải kể tới nhà ở do các doanh nghiệp tự xây, thường nằm

trong khuôn viên của doanh nghiệp. Có thể kể tới khu nhà của công ty

Formosa, Vedan, Hưng Long... Tuy nhiên, số phòng ở loại này không nhiều

và chỉ giải quyết cho số lao động kỹ thuật hoặc nhân viên hành chính và một

phần nhỏ số công nhân xa nhà. Ba loại nhà còn lại là do nhân dân địa phương

có điều kiện đất đai, xây dựng cho thuê. Có những hộ gia đình ngăn ra một

phần diện tích để cho thuê. Đáng nói là loại nhà trọ cải tạo từ các khu chuồng

trại chăn nuôi, nhà kho của gia đình.

60

Qua khảo sát có thể thấy, loại nhà trọ này tạm bợ, không đảm bảo nhu

cầu sinh hoạt tối thiểu của người lao động. Các yếu tố thiết yếu cho cuộc sống

như diện tích, vệ sinh, môi trường, điện, nước đều thiếu thốn hoặc dưới mức

tối thiểu. Thế nhưng, dạng nhà trọ này hiện chiếm khoảng gần 40%. Một bên

có nhu cầu trọ với thu nhập ít ỏi và một bên có khả năng đáp ứng, nên dạng

nhà trọ này vẫn tiếp tục tồn tại.

Nếu đến các phường Trảng Dài, Long Bình, Tam Hiệp... và các huyện

Nhơn Trạch, Trảng Bom, Long Thành, Vĩnh Cửu..., sẽ bắt gặp rất nhiều khu

nhà trọ cho công nhân có thu nhập thấp - chủ yếu làm việc tại các KCN thuê.

Với khả năng kinh tế cũng như điều kiện về mặt bằng của gia đình kinh doanh nhà trọ, phần lớn các phòng cho thuê diện tích chỉ từ 10m2 đến 14m2/phòng,

giá 400.000đ-600.000đ/tháng. Để tiết kiệm tiền, thường có 3 – 4 công nhân

lao động chung nhau thuê. Tất nhiên, đa số các khu nhà trọ này đều là tự phát,

không nằm trong quy hoạch, không có nơi vui chơi giải trí. Có thể nói, những

căn nhà trọ chỉ là nơi "trú chân" "qua đêm" của người lao động.

Bảng 22: Lương công nhân qua các thời kỳ tại 3 xã

Đơn vị tính: triệu đồng

2010

2005

2000

Hiệp Phước

2,6

1,8

1,2

Long Thọ

2,7

1,6

1,2

Thạnh Phú

2,8

1,5

0,9

Nguồn: Điều tra của tác giả năm 2010

Nhìn vào bảng thống kê cho thấy, lương công nhân của các KCN có tăng

lên rõ rệt. Ở hai xã Hiệp Phước và Long Thọ lương của người lao động tăng

hơn 2 lần. Xã Thạnh Phú, người lao động tăng 3 lần. Theo chu kỳ tăng lương,

giai đoạn 5 năm (2000 - 2005) trung bình lương công nhân tăng 400 nghìn

đến 600 nghìn. 5 năm tiếp theo, lương công nhân tăng không đều, xã Hiệp

Phước tăng từ 1,8 triệu đến 2,6 triệu. Xã Long Thọ tăng 1,6 lên 2,7 triệu đồng.

61

Trong khi đó, xã Thạnh Phú lương công nhân tăng nhiều nhất (1,3 triệu

đồng). Tăng lương không đồng đều giữa KCN cũng phản ảnh nhiều vấn đề:

Mức thu nhập của công nhân lao động tại các doanh nghiệp trong các

khu công nghiệp đạt bình quân gần 3 triệu đồng/tháng, bao gồm cả các khoản

phụ cấp như tiền xăng xe, chuyên cần, nhà trọ, làm thêm giờ...

Trong khi đó, với mức độ lạm phát, giá cả hàng hóa dịch vụ tăng nhanh,

nhất là tại các khu đô thị tập trung đông người, cuộc sống của công nhân lao

động không những không được cải thiện mà đang có chiều hướng giảm

xuống. Tiết kiệm chi phí trong bối cảnh lạm phát tăng cao dẫn đến việc họ

phải chấp nhận những điều kiện sống thấp kém hơn. Đặc biệt là vấn đề dinh

dưỡng và nhà ở.

Theo kết quả khảo sát về tiền lương và mức sống tối thiểu của người lao

động khu vực doanh nghiệp vừa được Viện Công nhân - Công đoàn (Tổng

liên đoàn Lao động Việt Nam) công bố cho thấy, 35,6% số người lao động

được hỏi cho biết thu nhập của họ không đủ chi tiêu; 44,7% cho rằng phải

chắt chiu, dành dụm và thật tiết kiệm mới đủ trang trải cuộc sống; 17,9%

khẳng định tạm đủ trang trải cuộc sống gia đình; chỉ 1,9% cho biết đủ trang

trải cuộc sống và có phần tích luỹ.

Thực tế cho thấy, với mực lương tăng lên hiện nay, người lao động

không đủ chi trả cho cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình họ. Qua tiếp

xúc thực tế và chứng kiến sinh hoạt của người lao động ở Đồng Nai, với mức

lương hiện nay, với chi phí hiện nay, người lao động đang phải oằn mình vật

lộn với cơn bão giá.

Bảng 23: Khoản tiền trung bình chi cho thuê nhà một năm của người lao động

Đơn vị tính: triệu đồng

2010

2005

2000

Hiệp Phước

5,4

4,2

3,6

62

Long Thọ

7,2

4,8

3,6

Thạnh Phú

7,2

3,6

1,2

Nguồn: điều tra của tác giả năm 2010

Nhìn chung, khoản tiền trung bình dành cho thuê nhà của người lao động

tăng, mức độ tăng ở các xã có sự khác biệt. Tăng nhiều nhất là người lao động

ở KCN Thạnh Phú, trong vòng 10 năm, người lao động bỏ số tiền gấp 6 lần so

với trước đó. Trong khi đó, ở xã Long Thọ (KCN Nhơn Trạch III) tăng gấp 2

lần. Số tiền người lao động bỏ dành cho thuê nhà ở Hiệp Phước (KCN Nhơn

Trạch II) ít hơn so với hai xã còn lại. Khoản tiền người lao động chi cho thuê

nhà trong từng thời kỳ cũng không ổn định. Nếu như Thạnh Phú năm 2000

người lao động 1,2 triệu đồng thuê nhà thì 5 năm sau (2005) phải bỏ ra gấp 3

lần. Hai xã còn lại, mức chi cho thuê nhà chỉ tăng không đáng kể. Có thể thấy,

nếu như năm 2000, tiền thuê nhà của người lao động ở xã Thạnh Phú thấp

nhất (1,2 triệu), xã Hiệp Phước cao nhất (3,6 triệu). 10 năm sau, tiền thuê nhà

của người lao động có sự chuyển dịch, xã Hiệp Phước số tiền dành cho thuê

nhà thấp nhất trong khi đó 2 xã còn lại tăng cao.

Có thể nói, khoản tiền trung bình của người lao động chi cho thuê nhà

tăng lên đáng kể có các nguyên nhân: Mức lương của người lao động không

ngừng được tăng lên. Bên cạnh đó, giá cả sinh hoạt và chi phí sinh hoạt đều

tăng theo. Tuy nhiên do mức chi cho thuê nhà trọ không đồng đều giữa các

“khu vực” người lao động thuê trọ nên giá thuê trọ có khác nhau. Thực tế cho

thấy, KCN Thạnh Phú mới được xây dựng, các dịch vụ, nhất là nhà có còn ít,

nếu là nhà trọ mới xây dựng tương đối đắt so với mặt bằng các KCN khác.

Bên cạnh đó, KCN Nhơn Trạch II và Nhơn Trạch III, các doanh nghiệp đã

bước đầu xây dựng nhà trọ cho công nhân của họ. Chính vì thế cũng ảnh

hưởng tới giá của nhà trọ trong khu vực. Vì vậy khoản tiền của người lao

động chi cho thuê nhà có tác động đáng kể.

63

Hầu hết, người lao động đều cho rằng, mức lương họ được hưởng rất

thấp, không đủ sống nên khoản tiền chi cho thuê nhà đối với họ càng tiết kiệm

càng tốt. Họ mong chờ các đoàn thể và chủ sử dụng lao động quan tâm đến

nhà ở của họ như một nhu cầu đầu tiên đối với người lao động ngoại tỉnh.

Bảng 24: Thu nhập trung bình của chủ nhà trọ qua các năm

Đơn vị tính: triệu đồng

2010

2005

2000

Hiệp Phước

85,5

44,5

30

Long Thọ

72,2

46,5

30,6

Thạnh Phú

82,8

40,9

20,1

Nguồn: điều tra của tác giả năm 2010

Thu nhập của chủ nhà trọ đều tăng! Mức tăng thu nhập của chủ nhà trọ ở

ba xã có sự khác biệt. Thu nhập trung bình của chủ nhà trọ xã Thạnh Phú tăng

4 lần trong vòng 10 năm, xã Long Thọ tăng 2 lần và Hiệp Phước tăng 1,5 lần.

Mức tăng giữa các năm cũng không ổn định.

Tăng thu nhập của chủ nhà trọ cũng có những nguyên nhân. Đầu tiên

phải kể đến số lượng công nhân ngày một tăng trong các KCN, sau đến số nhà

trọ cũng tăng theo. Thu nhập bình quân qua các năm của chủ nhà trọ tăng

chính là do lương của người lao động tăng. Lý do tăng giá của các chủ nhà trọ

được xác định chính là do lương của công nhân tăng:

Quanh chỗ em nhà trọ nào cũng rục rịch tăng rồi. Chẳng biết chuyển đi

đâu được. Nhà nào cũng thế thôi. Giờ mình chuyển lại mất công tìm nhà,

chuyển đồ đạc, chi phí không ít. Muốn rẻ thì phải ở xa, lại thêm tiền xe bus và

đi lại mất thời gian. Thôi em cố ở nốt năm nay này rồi đầu năm tới tính tiếp.

Mệt vì nhà trọ. PV chị Lê Thị Minh, KCN Nhơn Trạch II.

Khu vực nhà trọ của công nhân, người lao động cũng bắt đầu rục rịch

tăng giá. Chị Nguyễn Thị Lanh – công nhân KCN Nhơn Trạch II – chia

sẻ: “Nhà trọ chỉ ăn và ngủ nên chúng em ở chật, 4 người chung một phòng.

64

Năn nỉ mãi chủ mới đồng ý đấy, bình thường chỉ 3 người/phòng thôi nhưng

tiền nhà bọn em cũng phải đóng chênh 50.000 đồng so với các phòng khác.

Đầu năm vừa lên thấy chủ nhà thông báo mỗi phòng tăng 200.000 đồng.

50.000 đồng với bạn em cũng là số tiền cần suy nghĩ rồi”. Thực tế, chủ nhà

trọ cũng tìm đủ lý do để tăng giá, một chủ nhà trọ xã Long Thọ cho biết:

“Cho thuê nhà là một hình thức kinh doanh. Nói thật, chẳng ai muốn cho

người lạ vào ở cùng nhà chỉ để cho vui cả. Mà kinh doanh thì phải có lãi.

Tiền thu được phải đảm bảo cho nhu cầu của người thuê nhà. Giờ mớ rau,

con cá cũng tăng. Tiền nhà không tăng thì chúng tôi phải chịu thiệt. Giờ kiếm

đâu chả được người thuê. Ai không chịu được ‘nhiệt’ thì thoải mái dọn đi,

nào ai cấm cản gì”.

Nằm trên hai huyện có tốc độ CNH cao nhất của tỉnh sau những năm 90,

tại các xã Long Thọ, Hiệp Phước và Thạnh Phú, quá trình CNH, HĐH chủ

yếu thông qua 3 chỉ số: Biến đổi cơ cấu kinh tế sang hướng CNH, ĐTH, gia

tăng luồng dân nhập cư và gia tăng mức sống bởi các thu nhập từ phi nông

nghiệp. Hãy xem bảng phân tích thu nhập như một ví dụ minh chứng:

Biểu đồ 1: So sánh thu nhập bình quân đầu người của ba xã

(triệu đồng/người/năm)

25

20

15

2000

2005

10

2010

5

0

Thạnh Phú Hiệp Phước Long Thọ

65

Bảng 25: So sánh thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ

(triệu đ/năm/người)

Thu nhập bình quân đầu người

2010

2005

2000

Hiệp Phước

25,2

18

11

Thạnh Phú

15

10

5

Long Thọ

15

8

4

Nguồn: điều tra của tác giả năm 2010

Nhìn chung, thu nhập bình quân theo đầu người của 3 xã đều tăng. Xã

Thạnh Phú có nhịp độ tăng đều. Năm 2000 thu nhập bình quân đầu người là 5

triệu, năm 2005 là 10 triệu và 2010 là 15 triệu. Trong vòng 10 năm thu nhập

trung bình của người dân tăng gấp 3 lần. Xã Hiệp Phước nơi cũng có các nhà

máy lớn, thu nhập trung bình của người dân cũng tăng hơn 2 lần. Xã Long

Thọ tăng gần 4 lần (từ 4 triệu đ/năm/người lên 15 triệu đ/năm/người). Tăng

thu nhập bình quân của người dân trong xã có nhiều nguyên nhân: dân sở tại

trở thành công nhân hoặc kinh doanh dịch vụ quanh KCN cho công nhân, mặt

khác, địa phương cũng thu thuế những doanh nghiệp đóng trên địa bàn xã.

Chính vì thế tính thu nhập bình quân đầu người theo xã luôn luôn tịnh tiến

phát triển các KCN trên địa bàn.

Thu nhập từ bán đất, từ các hoạt động dịch vụ môi giới đất đã tăng mạnh

trong cả 3 cộng đồng này. Giá trị của đất tăng theo cấp số nhân, vốn trước năm 2000 chỉ vào khoảng 100 ngàn/m2 lên đến 10 triệu/m2 vào năm 2010 nếu

tính bình quân ở cả 3 xã, đã khiến một bộ phận dân cư giàu lên. Họ xây nhà,

mua các vật dụng sinh hoạt, chia cho các con một ít, nhưng ruộng và đất ở bị

thu hẹp, hoặc bị mất hết. Ở khía cạnh khác, do chưa được chuyển đổi nghề

nên một bộ phận dân cư rơi vào tình trạng thất nghiệp, một số hộ lại rơi vào

vòng xoáy của sự nghèo đói.

Là vùng ven hay trong đô thị và KCN, về mặt xã hội, đã xuất hiện những

phức tạp về an ninh trật tự, về tệ nạn xã hội. Sự gia tăng các hộ kinh doanh

66

nhà nghỉ, quán bar, quán karaoke, điểm gội đầu, điểm nhậu phản ánh những

phức tạp trong quản lý xã hội. Đã xuất hiện người dân trong cộng đồng hút

chích, trộm cắp, một tình trạng 10 năm trước không hề có trong các cộng

đồng này. Đã có những hình thức mại dâm trá hình, thanh niên đua xe máy

dẫn đến các tai nạn giao thông. Bạo lực gia đình tăng và tỷ lệ ly hôn tăng là

những động thái mới của tiến trình phát triển.

Ba cộng đồng này có bước phát triển khác nhau, có nghĩa là bị các tác

động khác nhau của các KCN: Hiệp Phước là xã có tốc độ phát triển kinh tế

xã hội nhanh và mạnh nhất sang hướng CNH, tiếp đến là Thạnh Phú và Long

Thọ. Về mặt văn hóa tinh thần, có một sự tương đồng đó không khi cơ sở

kinh tế -xã hội thay đổi? Đó là một câu hỏi cần phải giải đáp.

Sau 2000, trước xu thế phát triển của các KCN, các cộng đồng được

nghiên cứu đã có những bước phát triển mới. Đó là sự phát triển mang tính

bước ngoặt để chuyển từ một cộng đồng nông dân – nông thôn thuần túy sang

một cộng đồng đang ĐTH và HĐH mạnh, dưới tác động của quá trình phát

triển các KCN: cơ cấu kinh tế xã hội thay đổi, phân bố lại không gian và cảnh

quan, đời sống văn hóa tinh thần trên các biểu hiện cụ thể đã bị biến đổi.

Trong những năm 90 của thế kỷ trước, ba xã mà chúng tôi lấy làm điểm

khảo sát cho luận án về cơ bản vẫn là các cộng đồng nông nghiệp – nông thôn

song đã bị những tác động mạnh của chính sách CNH, HĐH từ Trung ương,

đã có những bước phát triển “nóng”, mang tính “cưỡng bức’ từ trên xuống.

Trước những biến đổi này, cần nhận diện những yếu tố tích cực, những

hạn chế của tiến trình phát triển, các cơ hội và thách thức đang tới cho các

cộng đồng này, mở rộng ra là các cộng đồng nông thôn – nông dân Đồng Nai

trước những vận hội và thách thức mới về mặt văn hóa tinh thần. Đó là những

câu hỏi cần phải giải đáp về mặt quản lý nhà nước và trách nhiệm của các nhà

nghiên cứu.

67

Tiểu kết

Phát triển các KCN tập trung là một phương thức CNH đất nước, bằng

việc thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài và trong nước cho các dự án phát

triển sản xuất. Chính chủ trương này làm cho các khu vực nông thôn có

những thời cơ lớn trong tiến trình phát triển, CNH, HĐH ngay chính mảnh đất

của mình trong bối cảnh tiến trình HĐH tại chỗ không có những nguồn lực tại

chỗ; đồng thời, tiến trình này cũng làm nảy sinh các vấn đề văn hóa – xã hội

mà bản thân mỗi cộng đồng nông thôn ở đây đang phải đối mặt. Đó là một

thực tiễn khá phức tạp, không đơn giản xuất phát từ chính sách phát triển

công nghiệp dựa vào nhân công giá rẻ.

Tỉnh Đồng Nai là một tỉnh có tốc độ CNH cao nhất nước, phấn đấu đến

năm 2015 trở thành tỉnh CNH, HĐH. Các KCN tập trung đã tạo ra một lượng

hàng hóa lớn, đóng góp quan trọng vào cơ cấu GDP tỉnh. Đời sống nhân dân

không ngừng được nâng lên, GDP bình quân đầu người từ 1,8 triệu đồng

(năm 1990) tăng lên 29,6 triệu đồng (năm 2010), trong đó các KCN đóng một

vai trò quan trọng. Tuy nhiên, các KCN này cũng đang phải đối mặt với các

vấn đề về quản lý môi trường, thu hút đầu tư vào các ngành có hàm lượng

công nghệ cao, thay vì chủ yếu sử dụng nhân công giá rẻ như hiện nay.

Ba xã mà chúng tôi khảo sát là 3 xã nằm trên hai huyện có tốc độ phát

triển KCN nhanh và mạnh nhất tỉnh. Với 3 xã đó, có thể xếp Hiệp Phước là xã

có tốc độ phát triển cao nhất, kế đến là Thạnh Phú và Long Thọ. Hiệp Phước

nằm tiếp giáp thành phố Nhơn Trạch, nên cũng được “hưởng lợi” từ quá trình

đô thị hóa này, bên cạnh quá trình đô thị hóa tại chỗ đang diễn ra mạnh mẽ.

Thạnh Phú phát triển được nhờ ngay các công ty của KCN Thạnh Phú thuộc

xã, các nhà máy này có lượng công nhân đông, trong khi đó Long Thọ phát

triển chậm hơn, mặc dù lượng đất đai lấy cho KCN nhiều nhưng một số chưa

xây dựng.

68

Với tiến trình thu hồi đất để xây dựng các KCN cũng như xây dựng các

khu đô thị mới đã làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng mạnh phần

phi nông nghiệp, thu hút làn sóng di dân từ các nơi khác vào. Bản thân dân tại

chỗ cũng xuất hiện những nghề mới như cho thuê phòng trọ, buôn bán bất

động sản, làm các dịch vụ phục vụ công nhân KCN. Mức sống gia tăng tỷ lệ

thuận với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Chính trên nền tảng kinh tế xã hội này, sự phát triển của văn hóa các

công đồng nông thôn đã và đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới,

đòi hỏi phải có đầu tư nghiên cứu tiến trình biến đổi và phát triển này.

69

Chương 2

CÁC BIẾN ĐỔI TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CÁC

CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ KHU CÔNG NGHIỆP

2.1. Từ bình diện cộng đồng - sự tham gia của người dân vào các

nghi lễ cộng đồng

Với các cộng đồng nông thôn, chùa và đình là hai thiết chế cơ bản thu

hút sự tham gia của người dân vào các hoạt động tôn giáo tín ngưỡng. Một

trong những đặc điểm để đo lường sự biến đổi trong đời sống tôn giáo tín

ngưỡng là dựa vào thang đo mức độ tham gia thực hành các nghi lễ tôn giáo,

tín ngưỡng của tín đồ. Dựa vào kết quả khảo sát trên 500 đơn vị mẫu tại 3 xã

mà luận án đã khảo sát, trong đó, 306 người (61.2%) tham gia trả lời “Không”

khi được hỏi về “Mức độ đi chùa/nhà thờ trong thời gian rảnh rỗi?”, 5.4% “Ít

khi”, 20.2% “Thỉnh thoảng” và 13.2% là “Thường xuyên”.

Với tỉ lệ phần trăm thu thập được về mức độ “Thường xuyên” (13.2%) đi

chùa/nhà thờ trong thời gian rảnh rỗi. Như vậy, có thể thấy mức độ tham gia

thực hành tôn giáo ở bộ phận dân cư này ít hơn rất nhiều so với bộ phận

không thực hành tôn giáo (61.2%).

Bảng 26: Mức độ đi chùa/nhà thờ trong thời gian rảnh rỗi

STT

Giá trị

Tần số

Tỉ lệ phần trăm

1.

Thường xuyên

66

13.2

2.

Thỉnh thoảng

101

20.2

3.

Ít khi

27

5.4

4.

Không

306

61.2

5.

Tổng cộng

500

100.0

Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.

Mức độ thực hành tôn giáo còn chịu ảnh hưởng bởi những thiết chế tín

ngưỡng, tôn giáo sẵn có trong cộng đồng.

70

Dựa vào kết quả khảo sát có thể thấy, thiết chế văn hóa tại địa phương

phổ biến nhất là chùa 67%. Tiếp đến là sự hiện diện của thiết chế miếu

46.2%, đình với 41.4%, nhà thờ đạo Thiên Chúa là 31.4%, nhà thờ đạo Tin

Lành chỉ chiếm 0.8%. Như vậy, loại hình thiết chế văn hóa tín ngưỡng tôn

giáo tập trung tại địa phương là chùa, đình, miếu và nhà thờ đạo Thiên Chúa.

Mặc dù, có sự hiện diện đa dạng các loại hình thiết chế tín ngưỡng tôn

giáo tại địa phương, nhưng mức độ hoạt động của các thiết chế này như thế

nào? Khi tìm hiểu về mức độ hoạt động của các loại hình thiết chế trên, cho

thấy: chùa chiếm mức độ hoạt động thường xuyên nhất với 59%, điều này

tương thích với sự tập trung nhiều nhất của loại hình thiết chế tôn giáo này tại

địa phương (67%). Miếu là loại hình thiết chế tín ngưỡng có mức độ hoạt

động thường xuyên xếp thứ 2 với 32.2%. Tiếp đến là đình với mức độ hoạt

động thường xuyên là 30.4% và mức độ hoạt động thường xuyên của nhà thờ

đạo Thiên Chúa 28%. Mức độ hoạt động của các cơ sở theo đánh giá của ông

Mai Văn Đức – Trưởng ban Văn hóa xã Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu: “Đạo

Phật thì cúng vào rằm tháng Giêng và rằm tháng Bảy. Miếu cũng cúng hai

lần/1 năm. Ví dụ như đạo Cao Đài cúng một năm 3 lễ lớn tháng giêng, tháng

7 và tháng 10. Còn bình thường cúng mồng 1 và rằm hàng tháng. Ba lễ lớn

người ta gọi là lễ thượng quân, trung quân và hạ quân”.

Bảng 27: Người tham gia sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng tại địa phương

Đối tượng tham gia sinh họat tôn giáo, tín

STT

Không

ngưỡng

87%

13%

1.

Cư dân địa phương

74.6%

25.4%

2. Người dân nhập cư

48.6%

51.4%

3. Khách vãng lai

Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả

Với sự hiện diện của các loại hình thiết chế tín ngưỡng tôn giáo tại địa

phương như trên, một vấn đề nữa được quan tâm không kém phần quan trọng,

71

đó là đối tượng tham gia các loại hình sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng này gồm

những ai. Kết quả khảo sát cho thấy, đối tượng tham gia vào các sinh hoạt này

chiếm tỉ lệ cao nhất là cư dân địa phương 87%, tiếp đến là người dân nhập cư

74.6% và sau cùng là khách vãng lai 48.6%. Khi hỏi người dân về đối tượng

đến các cơ sở tín ngưỡng tôn giáo để thực hành các nghi thức tôn giác, chúng

tôi được biết:

Dân nhập cư, trong quá trình sinh sống tại cộng đồng, dù có hộ khẩu, dù

có được tham gia vào các hoạt động chính thức của xã, ấp thông qua các đoàn

thể, nhưng vẫn chưa được chấp nhận là thành viên chấp sự, tế tự việc làng. Họ

có thể cung tiến, cúng lễ, hỗ trợ cộng đồng địa phương tại chỗ nhưng không

được tham gia vào các hoạt động tế tự, bởi những nguyên tắc và chuẩn mực

cổ truyền về dân ngụ cư. Được xác nhận là thành viên của cộng đồng làng,

phải qua nhiều thế hệ.

Bảng 28: Người tham gia vào các thiết chế văn hóa: Cư dân địa phương

Tần số

Tỉ lệ phần trăm

Giá trị

488

97.6

Không

3

0.6

Tổng cộng

491

98.2

Không cung cấp

9

1.8

thông tin

Tổng cộng

500

100.0

Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.

Bảng trên cho biết, có 97.6% người tham gia, thụ hưởng các loại hình

thiết chế văn hóa truyền thống tại địa phương là cư dân địa phương, chỉ có

0.6% cho rằng, không có sự tham gia của cư dân địa phương vào các thiết chế

văn hóa. Bên cạnh đó, đối với những cộng đồng có số lượng lớn thanh niên

công nhân đang làm việc tại các công ty, xí nghiệp, ắt hẳn không thể bỏ qua

sự hiện diện của một bộ phận người dân nhập cư trong các cộng đồng này.

72

Vậy, với các loại hình thiết chế văn hóa đang hiện diện tại địa phương, người

dân nhập cư có được thụ hưởng hay tham gia vào không?

Bảng 29: Người tham gia vào các thiết chế văn hóa: Người dân nhập cư

Tần số

Tỉ lệ phần trăm

312

Giá trị

62.4

178

Không

35.6

490

Tổng cộng

98.0

Không cung cấp thông tin

10

2.0

500

Tổng cộng

100.0

Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.

Kết quả khảo sát cho thấy, có 62,4% người tham gia trả lời cho biết “có”

sự tham gia của người dân nhập cư vào các loại hình thiết chế văn hóa truyền

thống tại địa phương. Song song đó, cũng có một bộ phận đáng kể 35.6% cho

rằng, người dân nhập cư không tham dự vào các thiết chế văn hóa này. Ngoài

ra, chỉ có 7.4% người tham gia trả lời cho rằng có sự tham gia của khách vãng

lai vào các loại hình văn hóa ở địa phương. Làm một phép thử, chúng ta có

thể biết được, sự tham gia, sự thụ hưởng các loại hình văn hóa ở nhóm đối

tượng nào là chiếm chủ yếu. Như vậy, cư dân địa phương là người có ưu thế

hơn so với bộ phận dân nhập cư trong tham gia các loại hình văn hóa phục vụ

cho việc hưởng thụ đời sống văn hóa – tinh thần.

2.1.1. Cúng đình

Cũng như các làng Việt khác, mỗi thôn làng ở Đồng Nai thường có đình,

miếu, chùa, chợ… đặt ở vị trí trung tâm, tiện đi lại, là nơi sinh hoạt chung của

dân làng. Lịch sử hình thành vùng đất Đồng Nai nằm trong quá trình hình

thành và phát triển chung của Nam Bộ, do vậy các nghi thức cúng tế và các lễ

hội của đình ở Đồng Nai về cơ bản cũng giống như đình ở Nam Bộ. Hằng

năm, mỗi đình ở Đồng Nai đều có nhiều ngày lễ hội. Các ngày lễ hàng tháng

mang tính chất dân gian theo từng làng xã riêng được gọi là tạp tế. Đây là các

73

lễ nhỏ vào các ngày lễ tiết, ngày vía thánh thần trong năm. Những ngày này

chỉ cúng chứ không tế, không mở hội, thường chỉ do các hương chức, hội tề

hoặc ban tế tự dâng cúng lễ vật đơn giản và cúng ngắn gọn, không nhất thiết

phải bài bản, nghi thức rườm rà như lễ rước ông bà, lễ Khai sơn, tết Đoan

ngọ, vía Thổ thần, các ngày lễ mang tính chất tôn giáo như cúng rằm Thượng

nguyên (tháng 3), Trung nguyên (tháng 7), Hạ nguyên (tháng 10). Các ngày lễ

quan trọng có quy mô lớn mang tính chất cộng đồng, gắn với chu kỳ canh tác

nông nghiệp là lễ Thượng điền, Hạ điền và đặc biệt là đại lễ Kỳ yên.

Đó là Hai cuộc lễ có quy mô lớn của đa số các ngôi đình ở Đồng Nai là

lễ Hạ điền vào đầu mùa mưa và lễ Thượng điền được cử hành vào cuối mùa

mưa. Theo tập quán tam niên đáo lệ, cứ ba năm thì người dân lại chọn một

ngày lễ Thượng điền, hoặc Hạ điền để tiến hành làm lễ Kỳ yên. Nếu chọn

ngày Hạ điền thì gọi là Hạ điền cầu bông hay lễ Cầu bông, cầu cho mùa màng

được bội thu; Nếu tiến hành ngày Thượng điền được chọn thì gọi là Thượng

điền chạp miếu, là lễ tạ ơn thần. Một số ngôi đình trong năm đủ cả ba ngày lễ

Thượng điền, Hạ điền, Kỳ yên. Ngày nay, do điều kiện kinh tế phát triển, cơ

cấu kinh tế thay đổi từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp, một số ngôi

đình ở Đồng Nai không còn cúng lễ Thượng điền, Hạ điền nữa, chỉ cúng lễ

Kỳ yên hàng năm như: đình Tân Lân, đình Bình Trước, đình Bình Kính, đình

Mỹ Khánh…..

Trên thực tế, lễ Kỳ yên là cầu Quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa đem

lại sự an vui, thịnh vượng, hạnh phúc cho mọi gia đình. Cầu cho được Thiên

thời, Địa lợi, Nhân hòa. Ba đạo này mà hòa hợp với nhau theo quy luật tự

nhiên của càn khôn vũ trụ thì con người mới và phát triển tồn tại được. Muốn

hòa trời, hòa đất, hòa người thì trước hết con người cần phải tu sửa tâm tính,

phải hiểu được quyền lợi, nhiệm vụ của mình trong gia đình, làng xóm và xã

hội.

74

Lễ Kỳ yên của đình ở Đồng Nai thường diễn ra trong ba ngày, bao gồm

có ba lễ chính: lễ Túc yết tức nghênh chào và ra mắt thần linh; Đoàn cả (hay

Đàn cả) còn gọi là lễ Chánh tế, có nghĩa là lễ tạ ơn thần Thành hoàng; lễ Tiền

hiền- Hậu hiền là nghi lễ tạ ơn các vị tiền nhân đã có công lập làng.

Nghi lễ cúng thể hiện phần hồn của đình. Lễ chính của đình là lễ Kỳ yên

với mục đích chính là cầu an (Quốc thái dân an, Phong điều vũ thuận). Ngày

cúng của đình không giống nhau, tùy theo tục lệ của làng; phổ biến là ba

tháng đầu năm hoặc ba tháng cuối năm. Theo quan niệm của người dân, cúng

thần đầu năm là: Thủ nghĩa xuân kỳ (mùa xuân làm lễ cầu thần cho được mùa

sắp tới); cúng thần trong ba tháng mùa đông có nghĩa là: Thủ nghĩa trọn năm

(thành công, đáp tạ lại thần). Nhìn chung, tùy theo nhận định của dân làng mà

định ngày cúng khác nhau, có nơi kết hợp với ngày giỗ của Thành hoàng.

Ngoài ra, còn các nghi lễ khác như cúng Thượng điền, Hạ điền, rước sắc thần,

nghinh xuân, tống phong, giỗ các anh hùng lịch sử,…

Bài trí bên trong đình: giữa thờ Thần, trên các cây xiên đều có hoành phi

chữ Hán bằng gỗ sơn son thếp vàng. Đình Mỹ Khoan giữ được khá nhiều

những bức hoành phi cổ, các đình khác đều tạo mới sau này. Trên các cây cột

ở võ ca, võ quy đều có các bức liễn đối chữ Hán. Tuy nhiên, các bức liễn cũ

bằng gỗ nay đã không còn; được thay bằng các bức xi măng chạm nổi chữ

Hán. Trải qua chiến tranh tàn phá, các đình đều bị đốt hoặc bị Tây chiếm làm

đồn bốt, các hiện vật quý đều bị mất; sau này dân làng bổ sung nhưng vẫn

chưa đủ, yếu tố gốc của các hiện vật đều không được bảo đảm. Đình Hiệp

Phước trước kia có một long đình rất đẹp, một chiêng bằng đồng khi khởi lên

vang âm rất xa và là niềm tự hào của dân làng (do ông Đào Trí Phú cúng

tiến), vào thời Pháp xâm lược chiêng đã bị mất. Theo truyền thống vào mỗi

dịp Kỳ Yên, ban quý tế phải đem đến cúng ông một mâm xôi, bàn thờ đặt tại

nhà người cháu (bà Năm Tô). Trước kia các bàn thờ, khánh thờ đều bằng gỗ,

75

các tự khí đều bằng đồng; nay bàn thờ đều được thay bằng xi măng, các tự khí

còn giữ được và cất giữ tại nhà các thành viên Ban quý tế, duy lỗ bộ bằng

đồng đã bị mất. Vị trí các bàn thờ ở các đình đều giống nhau; tuy nhiên, bố trí

từng vị thần được thờ khác nhau. Trong chánh điện: hai bên là Thái giám,

Ngũ cốc, Tiên sư, Ngũ thổ (đình Mỹ Khoan, đình Hiệp Phước); hai bên chánh

điện chỉ có Ngũ thổ, Ngũ cốc, Tả ban, Hữu ban có bàn thờ phía trước bàn thờ

Thần; Tiên sư và Thổ công bố trí hai bên vách tả, hữu (đình Phước Lai). Phía

sau của chánh điện đều thờ: Tiền hiền, Hậu hiền, Tiền hương trưởng, Tiền

hương mục, Hậu đại hương trưởng.

Đối tượng thờ ở đình đều là Thần Thành hoàng, hình thức thờ là chữ

Thần bằng chữ Hán tự ở gian giữa chánh điện. Hầu hết các Thần Thành hoàng

thờ trong các đình ở Hiệp Phước hay ở hai xã Thạnh Phú, Long Thọ đều gọi

chung là Thành Hoàng bổn cảnh, có Sắc vua phong mỹ tự “Chánh trực, Hữu

thiện, Đôn ngưng chi thần” nhưng không có danh tính cụ thể. Thần Thành

hoàng là người đem đến cho người dân niềm tin rằng có người bao bọc, chở

che, nâng bước họ trên mọi bước đường cuộc sống. Ngoài ra, đình còn thờ

phụng người có công khai khẩn lập nên làng xã, người dạy nghề cho dân...

Các đình đều duy trì được ngày tu lý (theo nghĩa Hán tự, tu lý là trao

lời, lập lại cho có trật tự). Theo lệ xưa, vào sáng sớm ngày thứ nhất của lễ Kỳ

yên, tất cả bà con trong làng, người đi làm ăn sinh sống ở xa đều phải tề tựu

về đông đủ, mỗi người đem theo hai bó tranh về sửa sang lại đình. Đồng thời

các vị bô lão phân công nhiệm vụ cho từng người: trực nhang cháy liên tục

trong ba ngày; học trò lễ lo trà nước, rượu, nhận lễ vật cúng của nhân dân…

Trong ngày này, các vị bô lão giao nhiệm vụ cho năm tới (ghi các món lễ vật

vào tờ giấy (trao giấy) và phát cho dân làng; đến ngày tu lý năm sau đem

đúng lễ vật đó lên cúng. Nếu không làm đúng sẽ bị phạt (trước sân đình có

làm 4 cây nọc, mỗi nọc buộc 4 sợi dây và buộc chân tay người bị phạt và

76

đánh đòn). Đây là hình thức răn đe, hầu hết người dân đều thực hiện khá đầy

đủ. Hiện nay, ngày tu lý được tiến hành như sau: trước ngày cúng Ban quý tế

lên đình phân công công việc cụ thể, bà con tới làm vệ sinh, cắt cử người trực

nhang…. Chánh tế phải cúng một mâm xôi, hết thời hạn một năm bồi tế sẽ

thay nhiệm vụ chánh tế (chức chánh tế có tính chất luân phiên).

Các đình đều thành lập Ban quý tế (hội hương) gồm những cụ ông tuổi

cao có uy tín trong làng, nhiệt tình, tâm huyết, có ý thức cao trong việc giữ

gìn phong tục tập quán xưa. Ban Quý tế còn có nhiệm vụ ngoại giao, tham gia

cúng tế cùng các đình bạn, viết văn tế cho đình, miếu; góp phần quan trọng

vào việc bảo tồn tín ngưỡng dân gian truyền thống tại địa phương.

Thành phần Ban tế tự: trước lễ Kỳ yên sẽ diễn ra cuộc họp toàn ban để

phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên: Chánh niệm hương (4

người): Chánh bái (1 người), bồi bái (1 người), Đông hiến và Tây hiến (4 vị

thủ lễ ở Tả ban và Hữu ban), Chấp sự viên (3 người phụ trách: chuông, trống,

mõ), Thầy lễ (1 người), Học trò lễ (gồm 10 người chia làm 5 cặp: 8 người đi,

2 người xướng).

Các đình không tổ chức hát bội vào các dịp Kỳ yên, cũng không rõ

nguyên nhân tại sao tục xưa để lại như vậy? Có lẽ do điều kiện kinh tế eo hẹp

không đủ thuê gánh hát bội; lâu dần thành thói quen của các đình. Tuy nhiên,

trong lễ Kỳ yên các đình đều có tổ chức múa lân, đờn ca tài tử.

Các đình ở 3 xã đều có tổ chức lễ Kỳ yên cầu cho mưa thuận gió hòa,

mùa màng bội thu vào các ngày khác nhau. Đình Hiệp Phước cúng 12 tháng

chạp, đình Phước Lai cúng 11 tháng chạp, đình Mỹ Khoan cúng 16 tháng 11

âm lịch. Lễ Kỳ yên thường được diễn ra trong 2 ngày, nghi thức tế trong các

đình đa phần giống nhau, nhưng thứ tự các nghi thức có sự khác biệt. Đình

Mỹ Khoan lễ Tiền hiền, Hậu hiền được cử hành riêng một ngày 15 tháng 8

âm lịch với nghi thức long trọng (nhân dân vẫn gọi là ngày giỗ Tiền hiền).

77

Các đình khác thứ tự các nghi thức như sau: ngày đầu Ban quý tế tề tựu, đánh

hồi chuông, trống báo tin lễ hội bắt đầu; tiếp theo là các nghi thức: rước nhạc,

thượng thần kỳ, thỉnh Sắc thần, cúng Bà, cúng Tiền hiền, Hậu hiền, Thỉnh

sanh; ngày thứ hai là Túc yết. Các vị bô lão trong làng giải thích: trước đây

các đình tổ chức Kỳ yên trong 3 ngày (lễ Tiền hiền, hậu hiền được tổ chức

vào ngày thứ ba), sau này rút gọn còn 2 ngày cúng cho nên lễ Tiền hiền, Hậu

hiền được đưa lên ngày đầu tiên. Trong lễ Kỳ yên có tổ chức cúng Đàn cả rất

long trọng; hiện nay tất cả đình đều bỏ do nghi thức của lệ cúng này.

Bảng 30: Nghi thức trong lễ Kỳ Yên

Lễ sinh xướng

Thành viên Ban tế tự thi hành

Tựu vị

Các thành viên vào vị trí

Quán tẩy

Chấp sự viên rửa mặt (tượng trưng)

Thuế cân

Chấp sự viên lau mặt (tượng trưng)

Phần hương

Đốt hương

Cúc cung bái (tứ bái) Lạy bốn lạy

Hưng, bình thân

Đứng lên

Chước tửu

Chánh tế rót rượu

Cúc cung bái (nhị bái) Lạy hai lạy

Hưng bình thân

Đứng lên

Nghệ tỉnh sanh sở

Đến chỗ tỉnh sanh

Tỉnh sanh

Chánh tế cầm ly rượu đổ vào miệng con vật, còn bao nhiêu

tưới lên thân nó. Viên đồ tể lấy dao thọc huyết con vật, cắt

một ít lông gáy và ít huyết cho vào một cái chén để làm lễ tế

mao huyết.

Phục vị

Trở về vị trí

Chước tửu

Chánh tế rót rượu

Cúc cung bái (nhị bái)

Lạy hai lạy

Hưng bình thân

Đứng lên

Chước tửu

Chánh tế rót rượu

78

Cúc cung bái (nhị bái) Lạy hai lạy

Nguồn: Ghi chép điền dã của tác giả năm 2009.

Tại Hiệp Phước, Long Thọ và Thạnh Phú, về cơ bản vẫn lưu giữ các

khuôn mẫu cúng đình theo tập tục xưa, dù đời sống kinh tế xã hội đã đi vào

hướng hiện đại hóa. Các nghi lễ được duy trì và do người dân sở tại đứng ra

thực hiện, dân nhập cư không được tham gia vào các hoạt động tế tự.

Lễ vật

Lễ vật dâng cúng ở bàn thờ thần gồm các loại hoa, trái, nhang, đèn, các

món cúng mặn (thịt luộc, mắm, muối và các món kho, xào). Đặc biệt, khi tế

thần luôn phải có món xôi và thịt sống.

Ngày xưa, nhà nào cũng chuẩn bị một mâm xôi đến đình để tế thần, bày

tỏ lòng tri ân về việc thần đã giúp họ được mùa, gia đình, cha mẹ, con cái

mạnh khỏe, hòa thuận. Người địa phương tin rằng mâm xôi của mình càng

ngon, đơm càng khéo được thần chứng lễ thì chủ nhân sẽ gặp nhiều may mắn.

Mâm xôi được đặt ở các bàn thờ quan trọng của đình theo địa vị của gia đình

đó ở trong làng. Thịt sống: Theo quan niệm của người dân, cúng thịt sống là

để thần hưởng sự tinh khiết, nguyên chất. Thông thường, heo tế phải để

nguyên con. Xưa kia, những làng nghèo có thể cúng thịt sống không đủ bộ,

thu gọn lại còn đầu, móng, đuôi gọi là thủ vĩ. Heo được làm sạch đặt ở bàn La

liệt (bàn để bày lễ vật trước bàn thờ thần) theo tư thế quỳ, hướng đầu về phía

bàn thờ thần, người địa phương gọi là heo chong. Trước kia, người ta chọn

heo đen tuyền vì đây là con vật thuần chủng. Một số làng có điều kiện thì

cúng thêm bò và dê.

Ngày nay, lễ vật cúng đình vẫn được duy trì như xưa, bởi các bậc cao

tuổi trong cộng đồng vẫn muốn duy trì như vậy, con cháu thành kính tuân

theo, không có bàn cãi gì về lễ vật.

Lễ Đàn cả

79

Ở lễ Túc yết có mục đích nghênh thần thì ở lễ Đàn cả là để tế thần, là lễ

chính của đại lễ Kỳ yên. Qua ngày lễ thứ hai, đúng 0 giờ mới cử hành lễ Đàn

cả. Ngày nay, tùy theo địa phương mà lễ Đàn cả có thể diễn ra vào buổi sáng

hoặc nửa đêm. Cũng có đình tổ chức lễ này vào lúc con nước đang lên đến

đỉnh điểm.

Đến giờ hành lễ, đội tế tề chỉnh y phục, đứng xếp hàng ở hai bên nhà võ

ca. Nhạc khởi ba hồi mõ, chiêng, trống. Lễ sanh bắt đầu xướng các nghi thức

tuần tự giống như lễ Túc yết, có một số chi tiết khác đó là:

+ Ở lễ Túc yết xướng: “Nghi thần cúc cung bái” thì ở lễ Đàn cả xướng:

“Tạ thần cúc cung bái”;

+ Ở lễ Túc yết xướng: “Lễ thành” thì ở lễ Đàn cả xướng: “Lễ tất”.

Cũng có đình thì trong lễ Túc yết chỉ dâng một tuần rượu, gọi là khởi

tuần rượu hay sơ tuần (Lễ sanh xướng: hành sơ hiến lễ), còn trong lễ Đàn cả

thì dâng tiếp hai tuần rượu nữa gọi là tuần rượu nhì (Lễ sanh xướng: hành á

hiến lễ) và tuần rượu ba (Lễ sanh xướng: hành chung hiến lễ). Còn lại các

nghi thức và nhạc lễ trong các tuần rượu đều tuần tự giống nhau.

Lễ Tiền hiền, Hậu hiền

Đây là nghi lễ tế các vị tiền nhân đã có công khai khẩn, mở mang làng

xóm, đất đai. Thông thường được tổ chức sang ngày thứ ba của đại lễ Kỳ yên

nhưng cũng có đình tổ chức vào ngay sau lễ Đàn cả. Có điều khác biệt với

nghi lễ Túc yết và Đàn cả đó là: Khi Lễ sanh mang lễ vật dâng lên thần, ban

nhạc cử theo điệu nhạc Bụa, khi đi lên thì nhịp chậm, khi về thì nhịp nhanh

nhưng hoàn toàn mang hơi Ai khác với hơi Xuân trong lễ Túc yết và Đàn cả.

- Khởi minh chinh: Đánh ba hồi chiêng.

- Khởi đại cổ: đánh ba hồi trống.

- Chinh cổ hòa minh: đánh ba hồi chiêng, ba hồi trống.

- Nhạc sinh khởi nhạc.

80

Các hình thức lễ cũng giống như nghi thức tuần hương của lễ Túc yết.

Tuy nhiên trong lễ Túc yết là dâng hương lên bàn thờ thần thì lễ này dâng

hương lên bàn thờ Tiền hiền và Hậu hiền. Sau đó bà con, trai gái trong làng

vào lạy.

Trong lễ này có hình thức đọc văn tế do Thầy lễ thực hiện sau khi mọi

người trong làng đã lạy xong. Sau đó đến các nghi thức như hiến quả phẩm,

hiến bỉnh, điểm trà nhưng không cầu kỳ như hai lễ trước mà ở đây sau khi

nghe xướng, Lễ sanh chỉ dâng lên hai bàn thờ (cách thức dâng theo điệu nhạc

như hai lễ trước). Cuối cùng là nghi thức đốt văn tế do Lễ sanh thực hiện, sau

đó mọi người lạy bàn thờ Tiền hiền, Hậu hiền một lạy; chiêng, trống, mõ

đồng gióng lên kết thúc lễ.

Lễ Xây chầu

Lễ này thường diễn ra sau lễ Đàn cả, cũng có đình thực hiện sau lễ Túc

yết. Lễ này không diễn ra thường xuyên hàng năm, thông thường cứ ba năm

sẽ tiến hành lễ Xây chầu. Trong lễ Xây chầu thường có tiết mục hát bội. Đây

là hình thức sinh hoạt văn nghệ giải trí với chương trình hát tuồng mang tính

chất hội, kết hợp với các nghi thức nghiêm túc với các tiết mục Xây chầu, Đại

bội, Tôn vương, Hồi chầu. Lễ này thường khi nào dân có tiền, hay năm đó có

một nhà hảo tâm tài trợ đăng ký với làng thì cho tổ chức. Xưa kia do dân

trong làng cung tiến, nay ở nghi lễ này, dân nhập cư cũng có thể đứng lên

đăng ký. Đó là một điểm khác so với lệ xưa.

Trong bối cảnh phát triển đã thấy những nét mới đó là: người cúng đình

hiện nay không còn, chỉ là dân địa phương tại chỗ nữa mà có sự tham gia của

dân nhập cư, dân tứ phương tới cúng. Đó là một đặc điểm khác trước. Tuy họ

không tham gia vào thành phần tiến hành nghi lễ nhưng họ rất quan trọng với

tư cách là nhà tài trợ, người công đức mỗi khi có dịp cúng. Các thống kê trong

3 năm tại các đình của 3 xã, số tiền tài trợ và cung tiến thông qua công đức là

81

gần 200 triệu đồng. Mỗi dịp này, các xã đều mời các cơ quan, công ty đóng

trên địa bàn tham dự và họ tham dự với một lòng thành kính về vị thần bảo hộ

nơi họ đến kinh doanh. Người nhập cư tham dự như một dịp bày tỏ sự thành

kinh và cầu xin thần phù hộ cho họ đến đây định cư, sinh sống.

Thông qua các tổ dân phố, một bộ phận dân nhập cư, đã có gia đình sinh

sống lâu ở các xã, có mối liên hệ hàng ngày với bà con chòm xóm, họ có thể

tham gia vào các việc phụ giúp việc tổ chức cúng tế, tiếp khách, nấu bếp, dọn

dẹp vệ sinh như một thành viên của làng. Bao giờ họ được tham gia vào các

nghi lễ cộng đồng, đó vẫn còn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ!

Với dân nhập cư, tuy chưa tham gia vào thực hành nghi lễ cúng của cộng

đồng, họ vẫn sắp lễ, ra đình cúng, nhất là nhóm dân gốc Bắc Bộ và Trung Bộ.

Họ có thể là các cá nhân, có thể theo từng gia đình, có thể theo nhóm bạn

cùng công ty, tự nguyện cúng, nhất vào thời điểm ban đêm, trước ngày cúng

chính hay trong ba ngày lễ. Lễ vật đơn giản bao gồm hoa, đăng, hương, quả,

một ít gia đình có xôi gà, không thiếu phần tiền cúng trên ban thờ thần, sau

cúng bao giờ cũng bỏ hòm công đức hay ghi phiếu công đức. Chính sự tham

gia của họ được người dân địa phương chào đón, tăng thêm phần tấp nập của

ngày cúng đình.

2.1.2. Cúng chùa

Cả 3 xã đều có các ngôi chùa song đều là các chùa mới xây dựng vài

chục năm gần đây, không có ngôi chùa nào được gọi là cổ tự bởi vùng này là

dân tứ xứ hợp lại. Khác với đình, chùa mang một ý nghĩa tôn giáo và tâm linh

cho đời sống hàng ngày. Cư dân trong cộng đồng tại chùa cầu cúng tại chùa

ngày sóc vọng, ngày thường, không có lễ hội chùa như ở phía Bắc

Chùa Tân Bửu

Chùa Tân Bửu thuộc ấp 6, xã Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng

Nai. Trước năm 1975 chùa chỉ là một am nhỏ do ông Phạm Văn Bỡ xây dựng

82

bằng tranh tre nứa lá để thờ Phật. Đến năm 1960 chùa được trùng tu sửa chữa,

phá bỏ toàn bộ am, xây dựng nên ngôi chùa mới với tường xây, cột kèo gỗ,

mái tôn, nền lát gạch Tàu. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ chùa Tân

Bửu là cơ sở cách mạng của huyện Vĩnh Cửu. Tại đây, ông Trần Văn Xảo -

trụ trì chùa đã cho đào hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, chuẩn bị cho trận đánh

năm 1968 vào quận Công Thanh. Sau khi ông Xảo qua đời, chùa được giao

lại cho ban hộ tự thừa kế. Năm 1992 chùa được trùng tu lần 2 và mang hình

dáng đó đến ngày nay.

Chùa Tân Bửu được xây dựng trên một khu đất bằng phẳng, đông dân

cư, mặt quay về hướng Đông. Nếu tính theo nóc mái, chùa được bố trí có

dạng chữ tam, gồm chánh điện, nhà khách và nhà túc. Chánh điện có kiến trúc

dạng nhà dài 3 gian (hai gian đầu là chánh điện, gian trong là nhà tổ). Tại

chánh điện trên ngôi Tam bảo thờ duy nhất pho tượng của Thích Ca Mâu Ni,

bên tả và bên hữu thờ Quan Âm Bồ Tát và Địa Tạng Bồ Tát. Phía sau Địa

Tạng Bồ Tát là bàn thờ tổ sư Đạt Ma, hai bên thờ vong linh. Nhà khách có

kiến trúc dạng nhà 3 gian, cột kèo gỗ, máy lợp tôn, nền tráng xi măng. Đây là

nơi cho tăng ni, phật tử sửa soạn vào bái Phật. Nhà túc được xây rộng, cột kèo

gỗ, không tường bao, nền tráng xi măng.

Chùa thờ Phật theo hệ phái Bắc tông, hàng năm tại chùa diễn ra 3 ngày

lễ chính vào rằm tháng giêng, rằm tháng tư và rằm tháng mười.

Chùa Phước Hưng

Chùa tọa lạc dọc theo bên phải Hương lộ 19 (hướng đi xã Long Thọ)

thuộc ấp 4, xã Hiệp Phước. Theo kể lại, trước kia chùa được xây dựng rất lớn,

toàn bộ vật liệu bằng gỗ, mái ngói âm dương, nền gạch Tàu, hệ thống tượng

bằng gỗ mít. Qua thời gian, ngôi chùa bị chiến tranh tàn phá, trải qua nhiều

lần trùng tu nên có sự thay đổi so với diện mạo ban đầu.

83

Chùa bố trí dạng chữ tam gồm Chánh điện, Giảng đường, Trai đường nối

nhau theo chiều dọc trên nền móng đá ong, hai bên là hành lang nội Đông Tây trong tổng diện tích sử dụng gần 300m2. Mái chùa lợp ngói âm dương, nền

gạch bông và xi măng, tường xây. Chánh điện có hệ thống cột gỗ tròn được

kê trên chân tảng đá xanh; cột, kèo nối với nhau bằng xiên, trính rất vững

chãi. Giảng đường, Trai đường cột bằng gạch xây, chỉ còn kèo, rui, mè bằng

gỗ. Hiện nay, chùa chỉ còn giữ được một số tượng bằng gỗ mít. Năm 2007, kẻ

gian đột nhập chùa và lấy đi một số hiện vật quý bằng đồng như: đại hồng

chung, chuông gia trì, lư hương, tượng Phật Địa Tạng Bồ Tát.

Thầy trụ trì đương nhiệm không biết rõ các đời trụ trì tại chùa; trong

chùa còn giữ được bài vị của sư trụ trì gần đây nhất, nội dung: Từ Lâm tế

Chánh tông, Tứ thập nhất thế, thượng Trí hạ Lễ hòa thượng (tạm dịch: Hòa

thượng Nguyễn Công húy là Trí Lễ, đời thứ bốn mươi mốt, dòng Lâm tế

Chánh tông). Các bài vị của các đời trụ trì trước đều đã thất lạc, đó cũng là

vấn đề rất khó khăn trong công tác tìm hiểu về lịch sử hình thành ngôi chùa.

Chùa Quang Mỹ

Chùa do vợ chồng ông bà Đốc phủ tỉnh Sóc Trăng Lê Văn An và

Nguyễn Thị Lâu tạo dựng năm 1925. Ban đầu chùa chỉ có chánh điện và hậu

tổ xây bằng gạch thẻ tô vôi, ô dước, móng bằng đá xanh nền lát gạch Tàu, mái

lợp ngói âm dương. Năm 1990, chùa được trùng tu nóc mái chánh điện; năm

1992, trùng tu nhà hậu tổ thành giảng đường; năm 1993, trùng tu chánh điện,

mái cổ lầu, lợp ngói Tây, kiến tạo mái nối giữa chánh điện và giảng đường

làm hậu tổ, trùng tu bảo điện, các công trình sinh hoạt: nhà trù, giếng nước,

cải tạo cảnh quan chùa.

Chùa tọa lạc trong khuôn viên đất rộng gần 2 héc ta, quay mặt chính về

hướng Bắc, trước chùa có tượng Quan Âm lộ thiên, xung quanh chùa được bố

trí rất nhiều cây cảnh tạo sự thoáng mát, phía sau là khu mộ cổ của ông bà

84

Phủ (người dựng chùa). Chùa có dạng chữ tam gồm Chánh điện, Hậu tổ,

Giảng đường nối nhau theo chiều dọc trong tổng diện tích sử dụng gần 600m2.

Trên các cây cột trong chánh điện được bài trí hoành phi, liễn đối sơn

son thếp vàng tạo sự thâm nghiêm; các tượng thờ như: Thích Ca Mâu Ni,

Quan Công, Ngọc hoàng, Tam thế Phật bằng gỗ mít nài, phía ngoài áo khoác

dát vàng. Chùa có đại hồng chung đúc năm 1926. Hậu tổ và giảng đường phía

sau chánh điện, tiếp nối nhau tạo không gian rộng rãi, thoáng đãng.

Chùa Quang Mỹ trải qua các đời trụ trì: Hòa thượng Hoằng Đạo, Cư sĩ

Cả Hiền, Hòa thượng Thích Chí Hảo, Ni sư Thích Nữ Như Thuận.

Chùa Long Hoa

Năm 1970, bà Hai Hồng (người làng Mỹ Khoan) xây dựng ngôi chùa

trên đất gia tộc cho ông Phan Văn Phạn trụ trì. Ban đầu là ngôi chùa nhỏ, năm

1972 được trùng tu, đến nay hàng năm kinh phí đều được tăng lên. Từ ngôi

chùa tại gia, các phật tử mộ đạo thường lui tới ngày càng đông, ngôi chùa

được nhiều người biết đến, đến nay chùa đã được Giáo hội Phật giáo Việt

Nam tỉnh Đồng Nai công nhận.

Ngôi chùa nằm kế bên đình Hiệp Phước, bao gồm các hạng mục: Chánh

điện, nhà giảng và nhà bếp nối liền nhau; khung nhà bằng sắt, mái lợp tôn, tường xây, cột bê tông; tổng diện tích 290m2. Chánh điện bài trí đơn giản

gồm: tượng Tam thế Phật bằng xi măng, phía trước có một đại hồng chung,

tạo không gian thoáng đạt cho phật tử lui tới đọc kinh hằng đêm.

Hiện nay, đại đức Thích Huệ Đức 87 tuổi, sức khỏe yếu không còn điều

hành chùa nữa nên giao lại cho người cháu cùng hai cư sĩ trực tiếp chăm lo

hương khói, làm phật sự.

Chùa Phước Quang

85

Chùa thuộc hệ phái Nam tông là ngôi chùa ra đời muộn nhất so với các

ngôi chùa khác trong xã. Trụ trì chùa hiện nay là Đại đức Thích Chơn Quang-

tu học từ nhỏ tại chùa Quang Minh (xã Long An, huyện Long Thành). Năm

1999, được gia đình cho một mảnh đất tại ấp 1, Đại đức đứng ra lập một am

nhỏ để tu luyện, cầu an cho nhân dân trong ấp. Năm 2003, xây dựng thêm nhà

Tổ; hiện đang xin phép để xây dựng chính điện. Năm 2006, chùa được Giáo

hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Đồng Nai công nhận.

Theo thông lệ, hàng năm cứ ngày 17/10 âm lịch, Phật tử gần xa đều đến

dâng y cho quý Chư tăng.

Lễ vật cúng thường đơn giản, gồm thanh bông hoa quả dâng lên Phật tổ,

không cầu kỳ như các chùa ở miền Trung và miền Bắc. Tùy vào chùa, có nơi

có tiến hành các nghi lễ dâng sao giải hạn, cúng trừ tà ma, đây là nét sinh hoạt

mới, các phỏng vấn tại chỗ cho thấy xưa kia, không có các hoạt động nghi lễ

này.

Tại một số chùa, do có dân di cư từ Bắc vào, đã xuất hiện các lễ lên đồng

tại miếu, có nơi tại ngay chùa. Ở phía Bắc, các nghi thức lên đồng thường

được làm trong các điện tư gia hay điện thờ phía sau chùa. Ở Đồng Nai do sự

quản lý khá chặt chẽ của an ninh các ấp, nên dân không được tiến hành tại

nhà, bởi xưa không có, nay có, làm tại nhà, sẽ bị coi là mê tín di đoan, nên tốt

nhất dựa vào các ngày lễ cúng rằm lớn mà tiến hành ngay tại chùa. Các giá

đồng cũng đơn giản, thường chỉ hầu vài giá. Khi có con nhang đệ tử người

miền Bắc cúng lễ trong không gian chùa, sư trụ trì không tham gia.

Các sư trụ trì ở cả 3 xã đều thực hành các nghi lễ cúng khi tang chủ mời,

thực hiện các nghi thức cúng khi nhập quan, cúng đưa tiễn, cúng vong vào các

ngày lễ trọng. Người dân ở đây coi đó là một hình thức dịch vụ tôn giáo tín

ngưỡng, khoán gọn cho nhà chùa với một số tiền nào đó, tùy vào từng thời

điểm.

86

Các chùa đều xây nơi thờ vong như một hình thức dịch vụ để bà con

trong xã và các nơi khác đến gửi tro cốt và ảnh để thờ tự trên chùa. Các chùa

đua nhau xây nơi này khang trang để thu hút các gia đình có người mất đến

ký gửi. Đây là một điểm mới so với trước kia.

2.1.3. Sinh hoạt tôn giáo của nhóm cư dân đạo Cao Đài

Tại thánh thất Ngọc Linh, xã Hiệp Phước, các hoạt động của người dân

theo đạo Cao Đài được tổ chức một cách quy củ, có tổ chức, nghiêm cẩn theo

đúng quy định về mặt lễ tiết.

Năm 1957, một số chức sắc của giáo phái Tiên thiên, Hội thánh Tiên

thiên tòa thánh Châu Minh (xã Tiên Thủy, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre)

về vùng Hiệp Phước chọn địa điểm đặt viên đá đầu tiên xây dựng ngôi Thánh

tịnh, lấy tên là Ngọc Linh thuộc hệ phái Cao Đài Tiên thiên. Từ năm 1958 đến

năm 1960, xây dựng chánh điện Phật mẫu gồm 2 tầng, kế bên là nhà nghỉ của

phái nữ. Năm 1960, đặt viên đá xây dựng đền thờ đức Chí tôn, năm 1962 khởi

công và khánh lạc năm 1964. Năm 2007, sửa lại nhà Tây lang (nhà nghỉ của

phái nữ).

Nguồn gốc của hệ phái Cao Đài Tiên thiên: Năm 1934, một số chức sắc

Cao Đài về Mỹ Tho lập “Cao Đài Thiên thai tịnh” sau chuyển về Bến Tre.

Trong thời kỳ chồng Pháp, phái Cao Đài Tiên thiên tham gia tổ chức “Cao

Đài cứu quốc 12 phái hợp nhất” để động viên chức sắc, tín đồ tham gia kháng

chiến. Năm 1955, Cao Đài Tiên thiên phối hợp với các lực lượng yêu nước

trong các phái khác đấu tranh chống Mỹ - Diệm đòi thi hành hiệp định

Giơnevơ, chống khủng bố đạo Cao Đài. Tòa thánh trung tâm của Cao Đài

Tiên thiên đặt tại tỉnh Bến Tre, các tín đồ tập trung chủ yếu ở Bến Tre, Cần

Thơ, Tp. HCM.

Ban đầu hình thành ở Hiệp Phước, số lượng các tín đồ đạo Cai Đài tương

đối ít; trải qua 50 năm tồn tại, số lượng các tín đồ được nâng lên hàng trăm

87

người chủ yếu là nhân dân trong xã. Các tín đồ trong xã thực hiện việc ăn

chay tùy theo sở thích của mình. Các chức sắc như Lễ sanh phải thực hiện

chay tịnh từ 10 đến 16 ngày trong một tháng. Để gia nhập đạo, khi trẻ một

tuổi phải làm lễ tắm Thánh, khi đủ 18 tuổi mỗi người đều phải thông qua Ban

trị sự, lập đàn làm lễ Nhập môn, đọc kinh giải oan; sau lễ còn có lời thề nhập

môn “nếu sau có phản thầy, phản bạn, thề có ngũ lôi tiêu diệt”.

Hàng ngày các tín đồ đều phải đọc kinh Tứ thời, kinh Nhật tụng, kinh:

Quan, Hôn, Tang, Tế; phải học thuộc để đến các ngày lễ này sử dụng. Họ

làm lễ sớm vào 5h sáng, tối làm lễ, ngày rằm mùng một cúng lớn hơn.

Đối tượng thờ chính của đạo Cao Đài là Tam giáo (Nho, Thánh, Đạo) và

Ngũ chi (Tùng khổ - Hiền đạo, Thọ khổ - Thần đạo, Thắng khổ - Thánh đạo,

Giải khổ - Tiên đạo, Thoát khổ - Phật đạo). Hình thức thờ là Thiên nhãn (mắt

trái - thờ đức Ngọc hoàng Thượng đế). Vào ngày rằm, mùng một hàng tháng,

bốn đạo cúng vía các bậc được thờ. Trong gia đình theo đạo Cao Đài, bàn thờ

đặt Thiên nhãn được dựng trang trọng cùng với ba ly nước trắng và nước trà

dâng cúng tượng trưng cho yếu tố âm dương trong vũ trụ; 3 ly nước thể hiện

ba yếu tố: Tinh, Khí, Thần mà mỗi người theo đạo cần giữ gìn.

Trong bổn đạo có bầu ra Ban cai quản (dạy giáo lý cho các tín đồ), Ban

trị sự (quản lý các tín đồ, lo các việc quan, hôn, tang, tế). Thủ tự có 2 người lo

việc quét dọn, nhang đèn.

Thánh tịnh Ngọc Linh quay về hướng Bắc, tọa lạc trong tổng diện tích 1250 m2, diện tích xây dựng dành cho thờ tự chiếm khoảng 300m2, vật liệu

bằng bê tông với hai tầng lầu, nền gạch bông. Trong kiến trúc có điểm đặc

biệt để phân biệt với lối kiến trúc của Thánh thất (phái Cao Đài Tây Ninh) là:

Thánh tịnh chỉ có một tòa nhà nằm sâu so với trục đường lộ; Thánh thất gồm

hai tòa nhà song song và sát với trục lộ.

88

Tín đồ theo đạo Cao Đài ở Hiệp Phước sống hiền hòa, ít có những tệ nạn

xã hội, ứng xử và giao tiếp theo khuôn mẫu truyền thống, hiếu lễ với ông bà

cha mẹ, tôn trọng thứ bậc trong gia đình và dòng họ.

2.1.4. Sinh hoạt tôn giáo của nhóm cư dân đạo Thiên Chúa

Các cư dân theo đạo Thiên Chúa ở 3 xã thuộc giáo phận Xuân Lộc. Đây

là một giáo phận lớn với hơn 700.000 người của 12 giáo hạt. Thành phố Biên

Hòa có Giáo hạt Biên Hòa, với 13 giáo xứ, 49.429 giáo dân.

(Từ 15/10/2011 đến 14/10/2012, theo lịch của đạo Thiên Chúa)

Các chương trình hoạt động tôn giáo của các giáo xứ diễn ra trong năm

Bảng 31: Chương trình hoạt động của các giáo xứ (trong một năm)

STT

Tên hoạt động Tôn giáo

Thời gian tổ chức

01 Ngày chầu lượt thay giáo phận

30/10/2011

02 Lễ cầu hồn tại nghĩa trang giáo xứ

02/11/2011

03 Lễ kính Đức mẹ Vô Nhiễm Nguyên

08/12/2011

04 Lễ Giáng sinh

Đêm 24/12/2011

05 Lễ kinh Thánh Giuse

19/03/2012

Lễ Phục Sinh

Từ ngày 05/04/2012 đến ngày

06

07/04/2012

07 Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô

10/06/2012

08 Lễ kính Thánh Phêrô và Phaolô

29/06/2012

09 Lễ kính Thánh Đa Minh

08/08/2012

10 Lễ kính Thánh nữ Monica

27/08/2012

11 Thánh lễ kỷ niệm cung hiến nhà thờ

13/10/2012

Hàng ngày, thánh lễ buổi sáng cử hành lúc 4h45 thời lượng lễ 45 phút.

Buổi chiều lúc 18h30 thời lượng lễ 45 phút. Vào chiều thứ Bảy, lễ tiến hành

lúc 18h thời lượng từ 45p đến 60 phút. Sáng và chiều Chủ nhật hàng tuần có

lễ 5h sáng và đến 7h và từ 17h và đến 18h45 có một lễ nữa. Giáo dân có thể đi

lễ vào thứ bảy hoặc chủ nhật tùy thời gian của từng người.

89

Các nghi thức trong nhà thờ bao gồm:

Nghi thức mở đầu: Đây là phần chuẩn bị và tập hợp cộng đoàn (giáo

dân) nhằm mục đích giúp các tín hữu hiệp thông với nhau, chuẩn bị tâm hồn

để lắng nghe Lời chúa và cử hành Thánh lễ cho xứng đáng

- Ca nhập lễ là bài hát đi kèm cuộc rước chủ tế ra bàn thờ, nhằm mục

đích mở đầu thánh lễ, giúp cộng đoàn hiệp nhất với nhau và hướng tâm hồn

họ vào mầu nhiệm sắp được hành trong thánh lễ.

Chủ tế chào bàn thờ qua hai hành động: Cúi mình sâu trước bàn thờ và

hôn bàn thờ, đây là dấu hiệu chỉ sự kính trọng và tôn kính đối với chúa Kitô.

Sau đó ngài đến ghế chủ tọa, chấm dứt hát ca nhập lễ, ngài cùng toàn thể

Cộng đoàn làm dấu thánh giá bắt đầu Thánh lễ.

Trong Thánh lễ có 4 thời điểm chủ tế chào cộng đoàn bằng công thức:

Chúa ở cùng anh chị em (đầu Thánh lễ, đọc Tin Mừng, bắt đầu lời tiền tụng

và kết thúc thánh lễ), còn đọc Tin mừng thì chắp tay như thường lệ.

- Kinh nguyện Thánh thể: bắt đầu từ lời tiền tụng đến hết vinh tụng ca,

nghĩa là đến lúc chủ tế nâng đĩa thánh và chén thánh đọc: “Chính nhờ Người,

với Người và trong Người …”

Nghi thức rước lễ: Bắt đầu kinh Lạy Cha đến hết lời nguyện hiệp lễ.

- Khi chủ tế dâng Thánh lễ (cộng đoàn quỳ - thời gian khoảng 2 đến 3

phút). Vào những Thánh lễ đặc biệt, chủ tế dùng công thức chúc lành long

trọng hay lời nguyện trên dân chúng trước khi kết thúc thanh lễ. Khi ban phép

lành trên dân chúng, chủ tế dang tay chào “Chúa ở cùng anh chị em”, rồi chắp

tay lại, tay trái đặt lên ngực, tay phải đưa lên cao vừa làm dấu thánh giá.

Sau lời giải tán dân chúng và đang lúc chủ tế và đoàn đồng tế bái kính

bàn thờ, tùy nghi, có thể hát các bài thánh ca tạ ơn hay tấu lên những bài ca

chúc tụng diễn tả tâm tình hoặc mầu nhiệm cử hành hôm đó hoặc niềm vui

90

ngày lễ. Nếu sau thánh lễ có cử hành một nghi thức phụng vụ nào khác, thì bỏ

nghi thức kết thúc, tức là lời chào, chúc lành và giải tán.

Giáo dân có 5 phụng vụ gồm: mùa Vọng, mùa Chay, mùa Phục sinh,

mùa Giáng sinh, mùa Thường niên. Tầm quan trọng của các mùa phụng vụ

không giống nhau. Tam nhật vượt qua đứng vượt lên trên tất cả các cử hành

và mùa phụng vụ khác, tâm điểm của Tam nhật là lễ Phục sinh. Lễ Phục sinh

là lễ trọng nhất trong năm phụng vụ.

Các mùa phụng vụ chia làm hai nhóm và tầm quan trọng của hai nhóm

này khác xa nhau: Nhóm 1: gồm 3 mùa: mùa Vọng, mùa Chay, mùa Phục

sinh. Các chủ nhật thuộc nhóm này đứng trên bậc lễ của các lễ trọng trùng với

các chủ nhật này người ta phải dời sang thứ 2 kế tiếp. Nhóm 2 gồm hai mùa

Giáng sinh và Thường niên. Các chủ nhật của nhóm này lại đứng dưới mọi lễ

trọng và lễ Kính Chúa, vì thế khi các lễ trọng và lễ kính Chúa trùng với các

chủ nhật này, thì năm đó không cử hành thánh lễ của chủ nhật Giáng sinh hay

thường niên phải cử hành lễ trọng hay lễ kính Chúa.

Ngoài ra còn có phụng vụ các Bí tích:

- Bí tích Thánh tẩy

- Bí tích Thêm sức

- Bí tích hòa giải

- Bí tích Xức dầu bệnh nhân

- Bí tích Truyền chức

- Bí tích Hôn phối Các giáo dân theo các lịch lễ trên mà tham dự. Sinh hoạt tôn giáo của

giáo dân là công nhân, họ có thể đề nghị công ty có thể cho công nhân về sớm

hơn. Có một anh chị em công nhân vào ngày lễ, để kịp dự lễ họ có thể đến bất

cứ Giáo xứ nào để tham dự lễ cho kịp. Về phía Giáo xứ, họ cũng chấp nhận

con chiên ở địa phương được dự lễ ở các nhà thờ khác miễn là thuận tiện cho

việc hành lễ của họ. Họ có giấy giới thiệu của giáo xứ nơi họ sinh ra, được

91

cha nơi giáo xứ mới tiếp nhận. Khi có việc hôn nhân, tang ma, họ phải học

các quy định của đạo về hôn nhân gia đình, về trách nhiệm của vợ, chồng, với

gia đình, được làm lễ tại nhà thờ bởi cha xứ nơi họ định cư.

2.2. Các nghi lễ tại gia đình

2.2.1. Tang ma

Tang lễ của người Việt ở Đồng Nai cũng được cử hành theo khuôn khổ

các nghi lễ căn cứ theo cuốn Thọ Mai gia lễ của Hồ Sỹ Tân (Tiến sĩ năm

1721, có hiệu là Thọ Mai). Cuốn sách này ghi những thế thức quy định trong

việc quan, hôn, tang, tế trong gia đình. Ông có phỏng theo nghi thức gia lễ

của Chu Văn Công, tức Chu Hy đời Nam Tống và có sửa đổi ít nhiều cho phù

hợp; và sau đó tác phẩm rất được phổ biến.

Trước tiên lấy một chiếc chiếu trải xuống đất, đưa người chết nằm xuống

chiếu một lát rồi đưa trở lên giường. Theo tục lệ, lúc này con cháu (có thể

người ngoài) phải lau rửa cơ thể cho người chết bằng cồn (hoặc rượu). Xưa

kia những nhà giàu có thì lau bằng nước trầm hương. Khi lau rửa xong xuôi

thì thay quần áo mới cho người chết, đặt người chết lên giường, lấy một tờ

giấy trắng đậy mặt người chết hàm ý để khỏi nhìn thấy con cháu buồn khổ,

cũng có ý kiến giải thích là con cháu không nhìn thấy mặt người đã khuất để

đỡ đau lòng hơn. Gia đình cũng phải có người hỏi thầy cúng để xem giờ coi

người nhà đi vào giờ tốt hay xấu, sau đó tiến hành lễ Nhập quan.

Trước khi nhập quan phải qua thủ tục liệm xác, gọi là khâm liệm. Công

việc này cần phải tiến hành sớm, không nên để xác nằm lâu ở ngoài. Vì vậy

người nhà cần phải toan liệu gấp rút. Thường thì gia đình phải nhờ người coi

giờ để làm lễ, việc coi giờ này hiện nay nhiều gia đình vẫn còn chú trọng.

Trước khi đặt tử thi vào quan tài phải chuẩn bị đầy đủ gối đầu, đệm lót hai

bên tai cho đầu được thẳng, một tấm đệm đầu, hai tấm đệm chân, hai tấm đệm

đùi. Những thứ này có thể làm bằng bông, giấy bồi trong có nhồi bấc.

92

Trước khi làm lễ Nhập quan, dưới quan tài phải rải một lớp trà hoặc

bỏng gạo với mục đích để hút nước từ cơ thể rỉ ra và cũng để khử mùi. Lễ

nhập quan được tiến hành ngay sau khi liệm xác. Đặt tử thi đã khâm liệm vào

quan tài, đầu quay ra phía ngoài, chèn xung quanh cho chặt sao cho tử thi

không xê dịch. Đậy nắp quan tài lại, đóng cho chặt, rồi trét sơn ta hoặc dầu

chai cho thật kín. Ngày nay còn ít gia đình theo lệ này, vì thông thường do cơ

sở mai táng lo liệu. Họ lo hòm áo quan, tùy theo chất lượng gỗ. Ngày nay

hòm được sơn vàng, nhiều kiểu dáng thay vì đỏ như truyền thống. Khi có tục

hỏa táng, quan tài gỗ tốt cũng không quan trọng như xưa nữa, miễn là có hình

dáng đẹp.

Sau khi đặt linh cữu đúng vị trí, thân nhân đặt một chén cơm lồng chặt

và một quả trứng luộc, đôi đũa có một đầu gọt sơ bông, cắm thẳng đứng hai

bên quả trứng. Ngày nay, một số nơi đũa không gọt bông, mỗi bên một chiếc.

Theo quan niệm của người dân đó là cơm mời tử thần đến rước linh hồn

người chết về âm phủ, vì có một chén cơm, một quả trứng tròn và hai chiếc

đũa để riêng, tử thần sẽ khó dùng và ăn chậm hơn, không hối thúc linh hồn

người chết về âm phủ sớm được.

Ngày nay, những gia đình theo Phật giáo và thờ cúng ông bà thường mời

nhà sư và một số tăng ni đến tụng kinh. Một số gia đình theo đạo Công giáo

mời linh mục đến làm phép rửa tội và họ hàng thân nhân cùng đọc kinh cho

người đã qua đời, có khi việc đọc kinh kéo dài vài ngày trước khi an táng.

Trong lễ Thành phục, do nhà sư thực hiện các thủ tục cho tang lễ. Trong

lúc này ban nhạc thường theo nhà sư hoặc người làm lễ xướng mà thực hiện

các bài bản trong nhạc lễ. Nghi lễ Thành phục đối với người Đồng Nai rất

quan trọng, được thực hiện long trọng. Nhà sư sau khi khấn xong, mâm tang

lễ phải được chuẩn bị trước, bao nhiêu con cháu thì phát bấy nhiêu khăn tang.

93

Khi phát khăn, ông dùng kéo cắt nhá trên đầu mỗi người một lần, gọi là

cắt tượng trưng. Ngày xưa, khi gia đình có cha mẹ mất, con cái không được

quyền cắt tóc, gội đầu trong thời gian thọ tang. Vì vậy nhà sư khấn và xin

phép cắt nhá để tượng trưng, cho con cháu được quyền cắt tóc, gội đầu trong

thời gian thọ tang. Sau khi làm lễ Thành phục xong thì làm lễ Phát tang.

Lễ cúng cơm áo gồm mỗi ngày cúng ba tuần cơm: Sáng (Chiêu thời),

trưa (Phô thời), chiều (Tịch thời). Ngoài ra, mỗi ngày cũng có ba tuần rượu,

ba tuần trà. Ngày xưa, vào buổi sáng con cháu bưng chậu nước, khăn mặt,

lược, gương và cơi trầu vào chỗ linh sàng khóc ba tiếng rồi rước ảnh ra chỗ

Linh tọa cúng cơm, dâng rượu trà. Buổi chiều, sau khi cúng cơm, dâng rượu,

trà xong, con cháu lại rước hình ảnh vào linh sàng, buông màn. Ngày nay,

thông thường người ta thờ ảnh ngay trước linh cữu, thủ tục cúng cơm cũng

diễn ra tại đây. Tục cúng cơm thực hiện đều đặn cho tới ngày an táng.

Cúng Thổ thần xong, linh cữu mới được hạ huyệt. Trong khi hạ huyệt thì

ban nhạc đàn bài Nam ai, vỗ trống cơm hoặc đổ trống, chiêng liên hồi. Sau

khi lấp huyệt xong, con cháu làm lễ Thành phần (hoàn thành việc lấp mộ).

Những người đi đưa đám cùng vái tạ bốn lạy để từ biệt người quá cố. Ở Đồng

Nai, trong lúc hạ huyệt một số nơi có hát Tuồng với số người hạn chế từ năm

người đến bảy người.

Đám đưa ma về, theo lệ ngày xưa khi đưa đám một đường thì khi về phải

đi đường khác, ngày nay ít người theo lệ này. Về đến nhà, con cháu làm lễ An

vị, việc đưa đám coi như đã hoàn tất.

Các tục lệ sau khi đưa đám, bao gồm Cúng ba ngày, Lễ Mở cửa mả,

Cúng cơm hàng ngày, Cúng Thất thất lai tuần, Giỗ đầu, Giỗ hết vẫn được lưu

giữ, được các gia đình thực hiện đầy đủ và nghiêm cẩn. Riêng đối với nhóm

dân nhập cư, các lễ cúng cơm hàng ngày và sau đó thường ít được tuân thủ

bởi một số là do gia đình gốc đảm nhiệm, hoặc điều kiện làm việc không cho

94

phép. Họ giản tiện phần nghi lễ, có làm thì cúng sơ rồi mời một nhóm bạn,

hàng xóm đến nhậu, không có nhiều ý nghĩa nghi lễ như xưa.

Tại Đồng Nai từ xưa đến nay không có tục cải táng như ở miền Bắc. Gần

đây, do điều kiện đất đai khó khăn, nhiều biến động, một số do điều kiện làm

ăn xa, nhiều người ủng hộ tổ chức hỏa táng, bốc mộ, cho di cốt vào hũ sành

đậy nắp kín gởi ở chùa với tâm niệm rằng vong linh người chết sẽ được

nương nhờ cửa Phật, được ổn định và nhang khói ngày đêm.

Trong các gia đình cư dân tại chỗ, do có người dân nhập cư sinh sống

trong khuôn viên nhà mình, do ở lâu, nên khi gia đình có việc tang, họ cũng

tham gia vào việc tổ chức cỗ bàn, tiếp khách song họ tuyệt nhiên không được

tham gia vào việc nghi lễ. Khi các hộ gia đình người nhập cư là công nhân có

người mất, nếu gia đình ở xa, họ cũng hỏi thăm, gửi đồ phúng viếng; nếu chết

tại chỗ, họ cử người giúp đỡ, có nêu các nghi thức phải làm song đó chỉ là

tham khảo, gia chủ, tùy vào gốc quê hương mà thực hành nghi lễ nhưng rất

giản tiện, thường hỏa táng và mang tro cốt về quê nhà. Dân nhập cư là công

nhân không có điều kiện tổ chức đình đám như ở quê. Sự khác nhau về phong

tục là do nguồn gốc bản quán quyết định. 97.8% cho biết tổ chức tang lễ tại

quê nhà, chỉ có 0.4% tổ chức tang lễ nơi cư trú và 0.6% tổ chức tang lễ ở nơi

khác. Nghĩa là có người đau ốm, sắp mất, họ đưa về quê, không xoay sở kịp,

mới tổ chức tang lễ tại nơi cư trú. Một số đám lo liệu tại bệnh viện, vừa không

bị áp lực bởi theo nghi lễ nào, vừa thuận tiện về phương diện tổ chức.

Một trong những đặc trưng nổi bật trong đời sống tâm linh của mỗi cá

nhân là vấn đề tổ chức thờ cúng, giỗ ông – bà tại nơi ở. Có 35.8% người được

hỏi cho biết họ “có” và 64.2% “không” thờ cúng. Thông tin định lượng cho

thấy có rất nhiều lý do khác nhau, chẳng hạn: đối với người nhập cư, tại nơi ở

mới họ cảm thấy bất tiện vì không gian nhà trọ chật hẹp nên không thuận tiện

cho việc thờ cúng. Nguyên nhân nữa là họ đã thờ cúng, giỗ ông bà ở quê nên

95

bây giờ vào địa phương sinh sống không nhất thiết phải thờ nữa, vì lý do bất

tiện của cảnh nhà trọ chật chội và vì “không thích”. Như vậy, phần lớn cư dân

trong cộng đồng không thờ cúng, giỗ ông bà tại nơi ở.

Bảng 32: Nơi tổ chức tang lễ

Tần số

Tỉ lệ phần trăm

Giá trị

Quê nhà

489

97.8

Nơi cư trú

2

0.4

Khác

3

0.6

Tổng cộng

494

98.8

6

1.2

Không cung cấp thông tin

Tổng cộng

500

100.0

Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.

Về hình thức tổ chức tang lễ, kết quả khảo sát cho thấy:

Bảng 33: Hình thức tổ chức tang lễ

Tần số

Tỉ lệ phần trăm

Theo phong tục

455

91.0

Giá trị

Khác

17

3.4

Tổng cộng

472

94.4

Không cung cấp thông tin

28

5.6

Tổng cộng

500

100.0

Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.

Vậy, 91% người tham gia trả lời cho biết hình thức tổ chức tang lễ là

theo phong tục. Bên cạnh đó, cũng có 3.4% tổ chức tang lễ theo hình thức

khác, chẳng hạn như: hỏa táng, theo dịch vụ, đãi chay… bởi vì, 92% người

tham gia trả lời cho biết, lý do lựa chọn hình thức tổ chức tang lễ là “đúng với

truyền thống”.

2.2.2. Cưới

Trong truyền thống, hôn nhân là một nghi lễ quan trọng của đời người.

Trước những biến động của đời sống, hiện nay ở Đồng Nai nói chung, 3 xã

96

được khảo sát nói riêng, ta vẫn thấy việc hôn nhân có một ý nghĩa quan trọng.

áp lực của tộc họ và cá nhân bắt buộc mỗi người dân trưởng thành phải lập

gia đình, sinh con, khó ai thoát khỏi áp lực đó. Do sự di động xã hội ngày

càng tăng nên việc tìm hiểu, đi tới hôn nhân của họ không còn bó hẹp trong

khuôn khổ làng xã hoặc chỉ do cha mẹ dạm hỏi cho.

Với sự phát triển của nền giáo dục, sự gia tăng các cơ hội tiếp xúc,

thường các đôi nam nữ tự tìm hiểu nhau trước khi quyết định thành vợ thành

chồng, sau đó họ mới về thưa chuyện với cha mẹ để lo chuyện hôn nhân. Sự

trinh tiết của người con gái không bị coi nặng như xưa do sự phổ biến các

kiến thức về tình dục trước hôn nhân được phổ biến cũng như quan niệm của

giới trẻ cũng đã thay đổi. Cuộc điều tra của chúng tôi cho thấy đa số thanh

niên đi theo mô hình "có sự tìm hiểu trước, ba mẹ đồng ý và lo tổ chức đám

cưới cho", chiếm 95,0%. Cha mẹ hai bên phải có trách nhiệm tác thành cho

đôi trai gái đó. Hôn nhân là đại sự của gia tộc hai bên, chứ không phải là việc

của cá nhân đôi trẻ.

Theo tục lệ xứ Đồng Nai, cưới hỏi tiến hành theo: 1/Lễ coi mặt (dạm ngõ); 2/Lễ giáp lời (kết sui); 3/Lễ sơ vấn (đám hỏi); 4/Lễ nạp sinh (nạp tài); 5/Lễ cưới; 6/Lễ phản bái (lại mặt). Khoảng ba bốn năm nay, cưới hỏi chỉ còn hai lễ

chính: Lễ hỏi và Lễ cưới.

Lễ hỏi: Theo đúng ngày được gọi là tốt cho việc hôn nhân, nhà trai gồm

một số bà con (đàn ông) và thanh niên trong bộ lễ phục, thường người lớn

tuổi mặc áo dài gấm, the, thanh niên trong bộ áo comple hoặc áo sơ mi trắng

"đóng thùng", sắp hàng một đến nhà gái. Xưa họ có thể đi ghe thuyền, nay

thuê xe hay đi xe máy nếu gần. Lễ vật gồm vài mâm trái cây gồm: nho, hồng,

cam, nhãn, vải. Có bánh, trà bọc giấy điều, một ít tiền gọi là tiền phụ cỗ, rượu

97

(có rượu Tây, rượu ta - thường là hai chai dán giấy đỏ tượng trưng hai chóe

rượu cưới truyền thống), bánh ngọt (bánh Tây đóng hộp sẵn, gần đây bày

bánh kem theo Tây phương). Nhà giàu thường kèm heo quay (ngày nay, giầu

nghèo gì cũng cố lo đủ, không như xưa). Lễ vật không thể thiếu được là đôi

bông tai (dù nghèo cũng phải có, nhà giàu thì có thêm dây chuyền, lắc, nhẫn,

vải may áo dài cho cô dâu. Ngày nay các đồ này được để chung với các lễ vật

khác, trong một cái khay nhỏ hơn.

Họ hàng nhà gái tụ họp đông đủ bên nhà gái và nghênh tiếp nhà trai. Khi

vào nhà, người con trai đi thẳng vào bàn thờ tổ tiên và lạy, sau đó anh ta lạy

trước họ hàng người con gái. Việc cúi lạy này có ý nghĩa là tổ tiên và gia đình

người thiếu nữ công nhận anh ta là con cháu trong nhà.

Lễ cưới: Trước ngày cưới vài hôm, hai gia đình sửa soạn cho lễ cưới khá

tất bật. Hai nhà đều dựng rạp bằng tre, trên che những tấm bạt, dù. Trước cửa

nhà bao giờ cũng làm cổng kết bằng lá dừa, trên có treo tấm biển Vu quy ở

nhà gái và Tân hôn ở nhà trai, ở đó có kết những đường dây hoa bằng đèn đủ

màu sắc. Các đồ thờ bằng đồng như lư hương, đỉnh, đèn được đem xuống

đánh bóng. Vào ngày này các gia chủ thường mua chiếu mới để rải trên các

bộ phản kê trước bàn thờ và hai bên, bàn, ghế, ly, chén,... được thuê hoặc

mượn của hàng xóm. Việc trang trí nhà khách thường do các thanh niên trong

xóm, người trọ trong nhà hoặc bạn bè cô dâu chú rể tự nguyện đến giúp.

Khi về đến nhà chú rể, hai vợ chồng phải thắp hương và lạy bàn thờ có

các bố đứng sau. Trong lúc đó, khách được mời vào bàn tiệc gọi là thồi. Cô

dâu, chú rể đi vào trong nhà. Đại diện nhà trai tiến lên trước, thắp hai cây đèn

cầy và đưa lên cao khấn vái để trình tổ tiên về dâu mới. Hai vợ chồng lạy tổ

tiên, rồi tiến đến cái chiếu trước mặt, quì hoặc đứng (tuỳ vào qui định của ông

Thân đang đứng bên cạnh chỉ giáo) để lạy ông bà, họ hàng. Chuyện lạy ông

bà tổ tiên hay ông bà cô bác mang ý nghĩa trình diện. Lễ bái xong, hai vợ

98

chồng đi từng bàn mang ý nghĩa tiếp tân, ra mắt. Trong lúc đi từng bàn, bà

con mừng tiền cho hai vợ chồng hoặc những đồ mừng khác. Họ phải đi từng

bàn để chúc tụng, chú rể cầm ly rượu chúc tượng trưng. Trong quá trình đãi

khách cô dâu thường thay hai đến ba bộ váy áo. Lúc đón dâu là váy trắng

hoặc áo dài đỏ khăn xếp kiểu hoàng hậu, sau là váy vàng hoặc hồng. Việc

thay áo váy nhiều để cho chụp ảnh hoặc quay video ghi rõ các kiểu dáng của

cô dâu trong ngày cưới. Bữa tiệc kéo dài đến tối.

Sau khi khách ra về, dọn dẹp xong, cô dâu chú rể được dẫn vào phòng

gọi là lễ nhập phòng. Cô dâu bước vào trước, trong khi chú rể lùi ra sau, để

tránh cho cô dâu đạp bóng chú rể, bởi nếu như vậy thì chú rể sẽ bị cô dâu điều

khiển. Trước khi nhập phòng, có tục cô dâu rót rượu mời cha mẹ chồng, có

khi còn phải rót rượu mời cả anh chị em chồng hàm ý cô dâu tỏ vẻ e ngại

trong gia cảnh mới lạ, mong sự dạy dỗ. Cha mẹ cũng nói vài điều để nhận

thêm một thành viên mới vào gia đình. Hiện nay, lễ nhập phòng này có nhà

làm, có nhà không, thường thì chỉ những gia đình bố mẹ nào nhiều tuổi, có

học mới hướng con cháu chuyện này.

Đối với đám cưới của dân nhập cư, ở các địa bàn thuộc phạm vi khảo sát

của luận án đang trong quá trình công nghiệp hóa – đô thị hóa với sự xuất

hiện của nhiều công ty, xí nghiệp; kéo theo đó là một đội ngũ dân nhập cư ồ

ạt đổ xô lập nghiệp ở địa phương này, phần lớn là thanh niên. Do đó, sự xuất

hiện của những người nhập cư, cũng đã phần nào tác động đến cuộc sống của

người dân tại cộng đồng khi họ mang theo những nếp sống, chuẩn mực, văn

hóa từ các vùng quê đến nơi ở mới.

Như đã nói ở trên, phần lớn thành phần dân nhập cư là thanh niên, và

đây cũng là độ tuổi có nhu cầu kết hôn cao. Vậy, với sự xuất hiện của tầng lớp

thanh niên nhập cư, cách thức tổ chức đám cưới ở các địa bàn nằm trong

99

phạm vi nghiên cứu của luận án có những thay đổi gì? Và những thay đổi đó

đang diễn ra theo hướng nào?

Dựa vào thông tin định tính thu thập được từ các cuộc phỏng vấn sâu

chứng tỏ rằng, đám cưới hiện nay đã thay đổi rất nhiều, linh hoạt hơn với

cuộc sống hiện tại.

Kết quả khảo sát cũng nêu rõ, 98.4% người dân cho biết, đám cưới được

tổ chức theo hình thức “đãi tiệc mặn”. Theo hình thức này, đám cưới hiện nay

được bao trùm thêm bởi nhiều yếu tố: gọn gàng, tiết kiệm, đơn giản. Chính vì

thế, không ngạc nhiên khi yếu tố “thuận tiện” được đặt lên hàng đầu với

54.6%. Sự thuận tiện của hình thức đãi tiệc đám cưới được gắn liền với việc

tổ chức tại các nhà hàng – nơi vừa đảm bảo được thức ăn, bàn tiệc đãi khách

vừa có đầy đủ kịch bản cho buổi lễ cưới bao gồm phần giới thiệu họ hàng hai

bên, phát biểu cảm tưởng, cắt bánh cưới, rót rượu mừng, ca nhạc…

Bảng 34: Nơi tổ chức đám cưới

Tần số

Tỉ lệ phần trăm

Quê nhà

264

52.8

Nhà hàng gần nơi ở

233

46.6

Khác

3

0.6

Tổng cộng

500

100.0

Nguồn: Tác giả, kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010

Kết quả khảo sát cho thấy, có 46.6% cho biết đám cưới hiện nay thường

được tổ chức ở nhà hàng gần nơi ở. Hình thức đám cưới này thường thấy ở

phần đông tầng lớp thanh niên công nhân và một số ít ở người dân tại địa

phương. Song song đó, có 52.8% tổ chức đám cưới ở quê nhà, hình thức đám

cưới này thường gặp ở những người dân tại địa phương và một số thanh niên

công nhân đãi đám cưới chính tại quê nhà, sau đó, vào nơi ở hiện tại, đãi tiệc

nhỏ mời bạn bè đến cùng chung vui.

Bảng 35: Việc tổ chức cưới: Lý do lựa chọn

100

Tần số

Tỉ lệ phần trăm

Giá trị

Thuận tiện

273

54.6

Phù hợp truyền thống

62

12.4

Khác

143

28.6

Tổng cộng

478

95.6

Không cung cấp thông tin

22

4.4

Tổng cộng

500

100.0

Nguồn: Tác giả, kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010

Như đã trình bày ở trên, người nhập cư trên địa bàn chiếm tỉ lệ khá đông

đảo, và đa phần làm công nhân tại các KCN. Họ có tuổi đời từ 18-35 đây

chính là độ tuổi lý tưởng cho việc lập gia đình. Đối với người Việt Nam, lập

gia đình riêng là việc quan trọng của cuộc đời nên ai cũng cố gắng có được

một đám cưới vừa được tổ chức trang trọng, tươm tất, đúng với truyền thống

vừa thuận tiện, phù hợp với hoàn cảnh bản thân. Dựa trên những yếu tố đó,

chúng tôi đặt câu hỏi về sự cần thiết của việc có một nơi tổ chức cưới dành

cho người dân mà đặc biệt là người nhập cư – vốn không có nhiều điều kiện

kinh tế, địa điểm để tổ chức đám cưới.

Bảng 36: Tổ chức đám cưới cho người lao động gần nơi ở

Tần số

Tỉ lệ phần trăm

Giá trị

472

94.4

Không

28

5.6

Tổng cộng

500

100.0

Nguồn: Tác giả, kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010

Có đến 94.4% mong muốn có được một chỗ để tổ chức đám cưới cho

người lao động gần nơi ở. Vì một thực trạng chung, thu nhập của người lao

động (công nhân) thường không khá giả, do đó, để tổ chức một đám cưới sẽ

phải tốn rất nhiều chi phí. Chính vì vậy, việc thành lập một nơi chuyên dành

để tổ chức đám cưới dành cho người dân thì vừa sẽ tiết kiệm chi phí mà vừa

vẫn đúng với phong tục đám cưới truyền thống cho một số trường hợp thuê

101

trung tâm văn hóa xã để tổ chức, người ta không có nhà mà thuê nhà hàng thì

không đủ kinh phí.

2.3. Từ bình diện cá nhân - các hưởng thụ văn hóa trong đời sống

hàng ngày

Trong các cộng đồng đang có những “xáo trộn” lớn về mặt dân số, bị

phân tách thành hai mảng văn hóa của hai nhóm cư dân có những đặc điểm

khác nhau về mặt bản quán, địa vị kinh tế và xã hội, chưa thực sự là một

chỉnh thể hoàn chỉnh nên luận án đã có những nghiên cứu riêng về hai nhóm

dân cư này, với các hưởng thụ văn hóa trong đời sống hàng ngày của nhóm

công nhân và nhóm cư dân tại chỗ. Luận án đã sử dụng các kết quả điều tra do

bản thân tác giả đề tài luận án khảo sát tại 3 xã, cho thấy những diện mạo phát

triển khá đa dạng, nhiều chiều kích trong quá trình hưởng thụ văn hóa của họ.

Theo thống kê, đa số công nhân lao động tại KCN sống tại 3 xã là di cư

vào từ miền Bắc và miền Trung, đến từ các vùng nông thôn, và thường là

những thanh niên nghèo. Vì thế, khả năng mua nhà để định cư lâu dài ngay

khi mới vào là một điều không tưởng đối với họ. Như vậy, một giải pháp khả

thi nhất là ở tạm trong những căn nhà trọ với giá sàn khoảng trên dưới 150

ngàn/1 người/1 phòng có 4 đến 5 người. Một lý do khác, nhưng nhỏ hơn là

việc sống trong loại hình cư trú này, họ thấy thoải mái hơn do nó tương tự với

cách sống ở nơi quê nhà. Trong bối cảnh này, việc tự tổ chức chăm lo đời

sống văn hoá tinh thần tại các khu nhà trọ là vô cùng khó khăn.

Trong đời sống hàng ngày, thời gian của nhóm công nhân được chia ra

thành các hoạt động chủ yếu sau: thời gian làm việc tại các nhà máy, thường

là 8 tiếng, có khi kéo dài thêm do tăng ca, từ 1 đến 2 tiếng, có khi đến 4 tiếng.

Thời gian đi lại, nấu ăn, vệ sinh cá nhân hết 2 đến 3 tiếng, còn lại là thời gian

ngủ để tái sản xuất sức lao động. Do trong các khu nhà trọ không có các

khoảng không gian công cộng để tổ chức các hoạt động thể dục thể thao, vui

102

chơi giải trí, cộng với thời gian hạn hẹp nên họ thường ít tổ chức được các

hoạt động vui chơi giải trí có ý nghĩa tích cực nào. Hoạt động văn hoá thường

xuyên nhất là nghe đài, xem vô tuyến, chơi bài, nhậu, nghĩa là các hoạt động

có tính thụ động và ít tính sáng tạo. Tổ chức sinh nhật cũng đôi khi được làm

nhưng nặng về ý nghĩa ăn nhậu hơn là ý nghĩa văn hoá. Việc đến các thiết chế

văn hoá là hầu như không có.

Các dịp cưới hỏi, giỗ chạp là những dịp để nhóm công nhân có một sự

liên hệ với truyền thống, nghĩa là có cơ hội nghĩ tới gia đình gốc và các mối

liên hệ với cội nguồn nhưng họ hầu như không có thời gian, điều kiện tài

chính để về quê hay tổ chức các lễ trọng này tại các nhà trọ.

Các liên hệ với cộng đồng tại chỗ cũng rất hạn chế. Các giao tiếp chủ

yếu là trong nhóm công nhân cùng khu nhà trọ, có chăng cũng là giao tiếp qua

nhà chủ phòng trọ. Việc thường xuyên đổi chỗ ở cũng là yếu tố hạn chế sự

giao tiếp với cộng đồng tại chỗ. Các thiết chế văn hoá tại chỗ hầu như không

thu hút được công nhân KCN. Chỉ có cư dân tại chỗ là tham dự các hoạt động

văn hoá tại trung tâm văn hoá, các sân chơi thể thao.

Các “gia đình tạm”, nghĩa là loại “gia đình” được tập hợp mang tính cơ

học của một nhóm công nhân cùng quê, cùng họ hay có sự giới thiệu làm

quen, thường tự do trong sinh hoạt, mang nhiều yếu tố tự phát. Do việc sinh

sống trong các khu nhà trọ là những kết hợp mang nhiều tính ngẫu nhiên của

các thanh niên của những miền quê khác nhau, sự quản lý của các chủ nhà trọ

nằm chủ yếu ở việc đảm bảo an ninh, nên việc sinh hoạt văn hóa của những

người ở trọ thường không được định hướng bởi các tổ chức, đoàn thể nhất

định như công đoàn, đoàn thanh niên, lớp học nghề, doanh nghiệp. Xa quê

hương, không ở gần cha mẹ, không bị ràng buộc quá nhiều bởi những khuôn

mẫu truyền thống cũng dẫn đến những sinh hoạt tự do hơn. Những sinh hoạt

tự do có hai mặt tích cực và tiêu cực của nó. Về khía cạnh tích cực, sự tự do

103

mang lại cho đối tượng công nhân trẻ này sự năng động, phát huy tối đa lợi

thế này của thanh niên. Xem xét dưới góc độ tiêu cực thì trẻ tuổi, nghèo, xa

quê, tính vô danh cao khi sinh sống ở đô thị đã khiến cho tệ nạn xã hội có cơ

hội nảy sinh.

Các hình thức giải trí có tính thụ động; các sinh hoạt văn hóa chủ yếu là

với nhóm bạn bè gần phòng, đồng hương, cùng doanh nghiệp, gần giống

nhau về hoàn cảnh sống; dễ lây lan có thói quen xấu do ít bị kiểm soát;

truyền thống văn hóa bị lãng quên là những đặc điểm dễ nhận thấy trong sinh

hoạt văn hoá của các phòng trọ.

Nhận thấy việc cần phải xây dựng các khu dân cư văn minh, tỉnh Đồng

Nai đã phát động phong trào Khu dân cư không có tệ nạn như một phong trào

xã hội rộng khắp trên địa bàn tỉnh. Các khu dân cư này ngoài việc bảo đảm

các vấn đề về an ninh trật tự cho nhóm dân cư tại chỗ mà còn phải rất chú

trọng đến nhóm cư dân nhập cư, vốn xa rời gốc rễ của họ tại nguyên quán, về

vùng đất mới, xây dựng các hộ/gia đình mới, với các chỉ tiêu cụ thể như:

- Không có tệ nạn xã hội nghiêm trọng như trộm cắp, xì ke, cờ bạc…

- Có trật tự vệ sinh công cộng;

- Bảo đảm các chỉ tiêu trong xây dựng gia đình văn hoá, làng/đơn vị

văn hoá;

Cuộc điều tra này có sự tham gia của chính bản thân tác giả luận án và

các kết quả được sử dụng lại dưới đây đã được xử lý lại.

Bảng 37: Tham gia các hoạt động sinh hoạt văn hóa tại nhà máy

Không

Hội diễn văn nghệ

N

789

144

%

84.6

15.4

Tham quan, du lịch

N

578

419

%

58.0

42.0

Tham gia các cuộc thi tìm hiểu

N

799

101

104

%

88.8

11.2

Tham gia thi tay nghề

N

841

51

%

94.3

5.7

Tham gia giải thi đấu thể thao

N

745

191

%

79.6

20.4

Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.

Hoạt động văn hoá được nhiều người tham gia nhất là tham quan và du

lịch. 42% ý kiến cho biết họ đã đi tham quan, du lịch trong năm 2004 ít nhất một

lần. Tiếp đến là hoạt động thi đấu thể thao, 20,4% những người được hỏi cho

biết họ có tham gia thi đấu thể thao trong năm 2004. Một hoạt động văn hóa rất

thiết thực liên quan đến công việc của người lao động là thi tay nghề lại có một

số ít người tham gia, chỉ có 5,7%. Hội diễn văn nghệ có 15,4% những người

được hỏi tham gia. Nhìn chung, các hoạt động trên chưa thu hút được số đông

người tham gia rất nhiều lý do, trong đó chủ yếu là giới chủ chưa thực sự coi đây

là một hoạt động cần phải có để nâng cao hơn nữa chất lượng sống của người

công nhân.

Bảng 38: Nhà máy của anh chị có tổ chức bất kỳ hoạt động văn hóa nào dưới đây

Không tổ

Có tổ chức

Không biết

chức

Hội diễn văn nghệ

N

464

363

738

%

29.6

23.2

47.2

Tham quan, du lịch

N

394

367

804

%

25.2

23.5

51.4

Tham gia các cuộc thi tìm

588

127

850

hiểu

N

%

37.6

8.1

54.3

Thi tay nghề

N

597

120

848

%

38.1

7.7

54.2

Giải thi đấu thể thao

N

443

466

656

105

28.3

%

29.8

41.9

Giao lưu với các đơn vị khác N

555

152

858

35.5

%

9.7

54.8

Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.

Rất nhiều người được hỏi không biết hoặc không rõ về các hoạt động của

nhà máy được tổ chức trong năm những năm gần đây. Những người tham gia

trả lời câu hỏi này là những người đã làm việc ở nhà máy trong năm 2004. Có

54,8% ý kiến những người được hỏi trả lời không biết về việc nhà máy có tổ

chức giao lưu với các đơn vị khác không. Tiếp đến là hội thi tay nghề, 54,3%

cho biết họ không rõ hoặc không biết nhà máy có tổ chức hoạt động này trong

năm 2004 hay không. Có thể nhận thấy là tỷ lệ những người không biết về các

hoạt động có được nhà máy tổ chức hay không rất cao. Đây là một vấn đề cần

được các nhà máy xem xét. Rất có thể hình thức hoặc thể lệ tổ chức các hoạt

động văn hoá tại nhà máy chưa gây được sự chú ý của những người lao động,

hoặc họ thờ ơ không quan tâm đến việc nhà máy có tổ chức hay không.

Điều này phản ánh một thực tế là chăm lo cho đời sống văn hóa tinh

thần của công nhân chưa phải là một phần trong chiến lược phát triển sản

xuất của các doanh nghiệp. Một nền sản xuất dựa vào nhân công rẻ sẽ không

coi công nhân là một thành tố quan trọng trong hệ thống sản xuất.

Bảng 39: Tỷ lệ những người biết đến các hoạt động văn hóa do nhà máy

tổ chức và có tham gia các hoạt động này

Không

N

%

N

%

284

78.2

79

21.8

Tham quan, du lịch

121

33.0

246

67.0

Tham gia các cuộc thi tìm hiểu

70

55.1

57

44.9

Tham gia thi tay nghề

80

66.7

40

33.3

Tham gia giải thi đấu thể thao

326

70.0

140

30.0

Hội diễn văn nghệ

Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.

106

Trong số 363 người biết đến việc nhà máy có tổ chức tham quan du lịch

thì có 21,8% là tham gia hoạt động này, còn lại 78,2% là không tham gia. Có

367 người biết đến các cuộc thi tìm hiểu do nhà máy tổ chức thì có 67% tham

gia. Đây cũng là hoạt động được nhiều người tham gia nhất so với các hoạt

động khác. Trong số 127 người trả lời có biết nhà máy tổ chức cuộc thi tay

nghề thì có 44,9% có tham gia cuộc thi này. 120 người trả lời có biết nhà máy

tổ chức thi đấu thể thao nhưng chỉ có 33,3% là có tham gia hoạt động này của

nhà máy. Trong số 466 người biết về hội diễn văn nghệ của nhà máy nhưng

chỉ có 30% người tham gia. Có thể nói là tỷ lệ người biết đến các hoạt động

của nhà máy chiếm tỷ lệ thấp, nhưng ngay cả chính những người này cũng

không tham gia nhiều vào các hoạt động trên.

Bảng dưới đây sắp xếp các hoạt động giải trí (xem ti vi, đọc báo, tạp chí,

nghe đài, xem video, DVD, đọc sách, tập thể dục thể thao, đọc truyện, sử dụng

Internet) theo các mức độ từ hoạt động được tham gia thường xuyên nhất cho

đến ít thường xuyên nhất.

Bảng 40: Mức độ thường xuyên trong các hoạt động giải trí dưới đây

Tỉ lệ trung bình

Độ lệch chuẩn

Xem ti vi

3.90

1.572

Đọc báo, tạp chí

3.01

1.784

Nghe đài

2.25

2.073

Xem video, DVD

2.04

1.832

Đọc sách

1.82

1.811

Tập thể dục thể thao

1.71

2.092

Đọc truyện

1.40

1.603

Sử dụng Internet

1.06

1.637

(Không bao giờ = 0, Hiếm khi = 1, Một lần một tháng = 2, Vài lần một tháng = 3,

Vài lần một tuần = 4, Hằng ngày = 5)

Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.

107

Có 6 hoạt động giải trí bao gồm xem ti vi, đọc báo chí, nghe đài, xem

video, đọc sách, tập thể dục, đọc truyện và sử dụng Internet được đặt ra nhằm

tìm hiểu mức độ thường xuyên tham gia các hoạt động này từ mức thấp nhất

là không bao giờ cho đến mức thường xuyên nhất là hằng ngày. Ti vi là loại

hình giải trí được người ta xem thường xuyên hơn cả (3,9 gần ở mức vài lần

một tuần). Báo, tạp chí là loại hình giải trí xếp vị trí thứ hai, ít thường xuyên

hơn (3,01 trên mức vài lần một tháng một chút ít). Đài đứng vị trí thứ tư, với

mức độ thường xuyên là 2,25, trên mức một lần một tháng một chút. Tiếp sau

là loại giải trí qua xem video, hoặc DVD là 2,04. Sau nữa là đọc sách, vối

mức điểm trung bình là 1,82 dưới mức một làn một tháng. Các hoạt động sau

có mức độ thường xuyên rất thấp. Điều này thể hiện có rất nhiều người hầu

như không tham gia các hoạt động này, hoặc tham gia không đáng kể.

Bảng 41: Mức độ thường xuyên trong các hoạt động giải trí phân theo giới tính

Tỉ lệ trung bình

Độ lệch chuẩn

Nam

Nữ

Tổng số Nam

Nữ

Tổng số

Xem ti vi

4.14

3.70

3.90

1.407

1.668

1.572

Đọc báo, tạp chí

3.23

2.83

3.01

1.763

1.783

1.784

Nghe đài

2.52

2.03

2.25

2.093

2.032

2.073

Tập thể dục thể thao

2.52

1.05

1.71

2.141

1.801

2.092

Xem video, DVD

2.46

1.70

2.04

1.809

1.778

1.832

Đọc sách

2.12

1.59

1.82

1.854

1.741

1.811

Đọc truyện

1.39

1.40

1.40

1.601

1.606

1.603

Sử dụng Internet

1.21

.94

1.06

1.670

1.600

1.637

(Không bao giờ = 0, Hiếm khi = 1, Một lần một tháng = 2, Vài lần một tháng = 3,

Vài lần một tuần = 4, Hằng ngày = 5)

Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.

Ngay cả trong hoạt động giải trí phụ nữ cũng ít thường xuyên hơn nam

giới. Có lẽ chính phụ nữ cũng cần phải xem lại bản thân mình trong tất cả các

hoạt động từ làm việc, quan hệ tại nơi làm việc, tại cộng đồng, tại nơi ở,...

108

Như trên đã phân tích những người lao động là phụ nữ có xu hướng đánh giá

về các vấn đề nêu trên ít tích cực hơn nam giới. Thêm một bằng chứng nữa

trong tất cả các hoạt động giải trí nêu trên phụ nữ vẫn ít thường xuyên tham

gia hơn so với nam giới. Dưới đây, chúng ta thử tìm hiểu và so sánh nhóm

nam, nữ chưa lập gia đình để xem xét kỹ hơn về nhận định trên.

Bảng 42: Mức độ thường xuyên trong các hoạt động giải trí của nhóm

chưa lập gia đình phân theo giới tính

Tỉ lệ trung bình

Độ lệch chuẩn

Nam

Nữ

Tổng số Nam

Nữ

Tổng số

Xem ti vi

4.00

3.47

3.70

1.424

1.691

1.601

Đọc báo, tạp chí

3.44

3.03

3.21

1.647

1.708

1.693

Nghe đài

2.87

2.28

2.54

2.026

2.046

2.057

Tập thể dục thể thao

2.67

1.11

1.79

2.092

1.820

2.091

Xem video, DVD

2.53

1.64

2.03

1.798

1.750

1.825

Đọc sách

2.37

1.77

2.03

1.841

1.800

1.841

Đọc truyện

1.65

1.64

1.65

1.674

1.676

1.674

Sử dụng Internet

1.56

1.24

1.38

1.726

1.740

1.740

(Không bao giờ=0, Hiếm khi=1, Một lần một tháng=2, Vài lần một tháng=3, Vài lần

một tuần=4, Hằng ngày=5)

Nguồn: Tác giả, kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân năm 2010

Ngay ở nhóm nam, nữ chưa lập gia đình, các cô gái chưa có gia đình vẫn

có khuynh hướng giải trí ít thường xuyên hơn so với nam. Ở tất cả các hình

thức giải trí, các cô gái chưa có gia đình đều có mức độ thường xuyên rất

thấp, thậm chí có tới 5 loại hình giải trí được các cô gái tham gia ở mức gần

như hiếm khi và dưới mức một lần một tháng. Đó là, tập thể dục thể thao,

xem video, đọc sách, đọc truyện và sử dụng Internet. Trong khi đó những

người nam giới chưa có gia đình chỉ có 2 hoạt động dưới mức một lần một

tháng là đọc truyện và sử dụng Internet.

109

Bảng 43: Số lần bình quân/người/lần đến các điểm văn hóa dưới đây

Tỉ lệ trung bình

Độ lệch chuẩn

Nam Nữ

Tổng số Nam

Nữ

Tổng số

3.71 18.270 18.004

18.119

Nhà thờ

3.92

3.54

Chùa

1.69

3.54

2.71

3.881

6.889

5.815

Khu vui chơi, giải trí

1.70

1.25

1.45

4.600

4.880

4.761

Các danh lam thắng cảnh

.64

.36

.49

1.668

.980

1.339

Nhà hát

.64

.33

.47

1.928

.962

1.482

Thư viện

.59

.29

.42

2.176

1.605

1.887

Sân vận động/Nhà thi đấu TT

.69

.12

.37

2.243

.647

1.599

Rạp chiếu phim

.47

.21

.33

2.122

.871

1.564

Cung văn hoá

.32

.31

.32

2.130

3.932

3.252

Nhà bảo tàng

.35

.15

.24

1.262

.672

.985

Các di tích lịch sử, văn hoá

.35

.13

.23

1.048

.548

.818

Đình

.33

.12

.21

1.371

.715

1.064

Câu lạc bộ

.31

.07

.18

1.476

.681

1.115

Đền

.14

.09

.11

.804

.963

.896

Nguồn: Tác giả, kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân năm 2010

Các điểm văn hoá được đến nhiều nhất lần lượt là: nhà thờ, chùa, khu vui

chơi giải trí, các danh lam thắng cảnh, nhà hát, thư viện, sân vận động/nhà thi

đấu thể thao, rạp chiếu phim, cung văn hóa, nhà bảo tàng, các di tích lịch sử,

đình, câu lâu bộ, đền. Số lần trung bình/người/năm đến nhà thờ là 3,71. Số lần

bình quân/người/năm đến chùa là 2,71. Số lần trung bình/người/năm đến các

khu vui chơi giải trí là 1,45. Đó là 3 điểm mà người ta đi nhiều nhất, tất cả các

điểm còn lại số lần đến rất thấp. Số lần đến các điểm văn hóa của nam giới

đều cao hơn nữ, chỉ riêng đi chùa thì nữ đi nhiều hơn nam.

Nam có số lần đến các điểm văn hóa là 12,14, còn nữ có số lần đến là

10,5 lần ít hơn nam 1,46 lần đi. Xem xét theo nơi xuất phát của người lao

động có thể thấy những người tại chỗ có số lần đến các điểm văn hóa cao nhất

110

với số lần trung bình là 15,12 lần đi. Những người lao động đến từ Tây

Nguyên đứng ở vị trí thứ hai với số lần đi trung bình là 13,19. Bốn nơi có số

lần đi đến các điểm văn hóa thấp hơn cả lần lượt là Tây Bắc, đồng bằng sông

Cửu Long, duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Bắc và Trung du đồng bằng Bắc

Bộ với các lần đi trung bình lần lượt là 6,75, 8,07, 8,48, 8,85, 9,42.

Diện mạo tiêu dùng văn hóa của nhóm cư dân địa phương lại có những

điểm khác so với các nhóm cư dân là công nhân KCN, bởi họ có một nền tảng

kinh tế xã hội khác, khi mà đa phần dân số đều có các trang thiết bị cho các

sinh hoạt văn hóa như vô tuyến, đài, internet, điện thoại, có những phương

tiện vận chuyển để không những phục vụ sinh hoạt cho đời sống hàng ngày

mà còn là dịp để tăng cường trao đổi giao lưu, học hỏi. Ở ba xã, các số liệu

thống kê đều cho thấy rõ điều này.

Bảng 44: Các trang thiết bị chủ yếu trong các gia đình cư dân tại chỗ xã Long Thọ

Đơn vị: cái

STT

Trang thiết bị

2010

2000

2005

Ô tô

1

15

7

Xe máy

2

2822

1220

2022

Điện thoại

3

636

50

359

Tủ lạnh

4

615

10

434

Đầu Video

5

920

36

420

TV màu

6

2509

850

1533

Dàn nghe nhạc các loại

7

302

-

-

Máy vi tính

8

380

-

116

Máy điều hòa nhiệt độ

9

120

-

20

Máy giặt

10

536

46

120

-

-

Internet

11

110

Nguồn: UBND xã Long Thọ, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa năm

2010

111

Bảng 45: Các trang thiết bị chủ yếu trong các gia đình cư dân tại chỗ xã Hiệp Phước

Đơn vị: cái

STT

Trang thiết bị

2005

2000

2010

Ô tô

1

356

112

16

Xe máy

2

10427

8618

6089

Điện thoại

3

9678

5180

3676

Tủ lạnh

4

4970

2810

1178

Đầu Video

5

5160

3102

618

TV màu

6

5160

3102

763

Dàn nghe nhạc các loại

7

3087

1189

698

Máy vi tính

8

2779

1018

312

Máy điều hòa nhiệt độ

9

1027

815

538

10

Máy giặt

1320

797

513

11

Internet

2371

996

618

Nguồn: UBND xã Hiệp Phước, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa năm 2010

Bảng 46: Các trang thiết bị chủ yếu trong các gia đình cư dân tại chỗ xã Thạnh Phú

Đơn vị: cái

STT

Trang thiết bị

2010

2005

2000

Ô tô

1

25

10

-

Xe máy

2

7052

4172

1543

Điện thoại

3

6170

960

450

Tủ lạnh

4

-

-

-

Đầu Video

5

-

-

-

TV màu

6

-

-

-

7

-

-

-

Dàn nghe nhạc các loại

8

-

-

-

Máy vi tính

9

-

-

-

Máy điều hòa nhiệt độ

-

-

-

10

Máy giặt

--

-

-

11

Internet

Nguồn: UBND xã Thạnh Phú, Thống kê biển đổi diện tích, cơ cấu kinh tế-xã hội và văn hóa năm 2010

112

Đây là cơ sở nền tảng để người dân tại chỗ có một mức hưởng thụ văn

hóa nhiều hơn các cư dân nhập cư là công nhân KCN, ở đó, họ đều có đi công

viên, nhà văn hóa, phòng đọc sách, bưu điện văn hóa xã (đọc sách các loại và

các tài liệu về về pháp lý), trung tâm giáo dục thường xuyên, tham dự các

hoạt động tại trường học, với nhiều hoạt động văn hóa-xã hội phong phú.

Đến các điểm xem ca nhạc, sân khấu ở rạp hát là hoạt động giải trí ít

được xem nhất, do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là nguồn cung cấp

hạn chế và khả năng chi trả của dân cư thấp.

Bảng 47: Khu sinh hoạt văn hóa, giáo dục, thông tin

Số lượng

Phần trăm

Thiết chế

Công viên

116

11.5

Rạp hát

25

2.4

Nhà văn hóa

485

48

Phòng đọc sách

143

14.1

Bưu điện văn hóa xã

580

57

Trường học

833

83

Trung tâm giáo dục thường xuyên

127

12.6

Không tham dự

34

3.3

Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.

Trong khi đó, xem phim trên truyền hình lại là một hình thức sinh hoạt

văn hóa được ưa thích nhất. Khảo sát 3 cộng đồng cho thấy 98,3% số hộ

được hỏi đều xác nhận có xem các phim trên ti vi, trong đó, phim sau chương

trình thời sự trên VTV là được ưa thích nhất, 79,9% xác nhận thích xem phim

Việt Nam, phần lớn giới trẻ thích phim Hàn Quốc (81,9%), phim phương

Tây, chủ yếu là phim Mỹ, chiếm 61,3% số người được hỏi. Các kênh phim

thường được xem là trên VTV, VTC, các phim phát trên đài Đồng Nai, Bình

Dương ít được xem hơn.

113

Bảng 48: Tham gia hoạt động văn hóa không

Số lượng

Phần trăm

Xem phim

41

415

Sinh hoạt tại nhà văn hóa

9.2

93

Các điểm giải trí

6.5

66

Đến phòng đọc

5.8

59

Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.

Các hoạt động thể thao ít được tham gia bởi những hạn chế bởi sân bãi

và thói quen tập thể dục thể thao vẫn chưa thịnh hành. Nhóm có thói quen

thực hành các hoạt động thể dục chủ yếu là nhóm công chức xã, huyện, tỉnh.

Với nhóm dân thường, chủ yếu là những người trung tuổi, từ trên 55 với nữ

và trên 60 với nam, số người trên 75 tham gia thể dục là rất ít.

Bảng 49: Tham gia các hoạt động thể thao

Số lượng

Phần trăm

143

14.1

Bóng đá

9.1

92

Bóng chuyền

1.7

17

Bóng bàn

9

90

Cầu lông

0.3

3

Võ thuật

9.1

92

Khác

57.3

574

Không trả lời

Nguồn: Kết quả Điều tra xã hội học 500 hộ dân 2010 của tác giả.

Với loại hình du lịch, chỉ có khoảng 1/3 số người được hỏi xác nhận có

đi tham quan các di tích lịch sử, các lễ hội truyền thống, danh lam thắng cảnh

và ra nước ngoài, trong đó loại hình du lịch tôn giáo tín ngưỡng, danh lam

thắng cảnh trong nước là cao nhất, đi du lịch nước ngoài là ít nhất. Điều này

phản ánh đúng thực trạng về mức sống và sự phân hóa mức sống trong dân cư.

114

Tiểu kết

Các biến đổi trong đời sống văn hóa của các cộng đồng dân cư KCN, ba

xã được khảo sát sâu đã phản ánh những động thái phát triển của tỉnh và vùng

Đông Nam Bộ từ thập niên 90 cho đến nay, đó là sự phát triển các KCN như

một yếu tố động lực phát triển vùng và mỗi cộng đồng dân cư. Đi kèm với

tiến trình này là làn sóng di dân và sự biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội của chính

bản thân mỗi cộng đồng theo hướng ĐTH, HĐH, với các chỉ báo thay đổi về

cơ cấu kinh tế; cơ cấu dân số; kết cấu cơ sở hạ tầng làm thay đổi kết cấu

không gian làng quê cổ truyền; gia tăng mức thu nhập từ công nghiệp - dịch

vụ, thay vì chủ yếu từ nông nghiệp như trước những năm 2000; hiện đại hóa

nhà ở và trang thiết bị, tiện nghi sinh hoạt; di động xã hội lớn hơn bởi quá

trình chuyển dịch nghề nghiệp diễn ra nhanh và mạnh hơn trước. Các quá

trình này đặt một nền tảng mới của những biến đổi văn hóa tinh thần của cư

dân các xã bị lấy đất xây dựng KCN.

Quá trình này đã làm biến đổi sâu sắc đời sống văn hóa tinh thần khiến

cho 3 cộng đồng không còn là các cộng đồng nông thôn – nông dân thuần túy

như trước đó nữa. Về cơ bản, đó là sự đan xen giữa các hình thái văn hóa cũ

và mới, truyền thống và hiện đại, trong nước và quốc tế. Ở đây chưa phát triển

thành các cộng đồng đô thị - công nghiệp, nhưng phân hóa một cách rõ nét,

với các bộ phận cư dân tại chỗ và dân nhập cư. Văn hóa truyền thống đã và

đang là nội dung văn hóa chủ yếu song trong từng hình thái văn hóa, đã có

những biến đổi cho phù hợp với cuộc sống hiện tại, nhiều yếu tố mới đã nảy

sinh và trở thành một bộ phận tất yếu của người dân. Quá trình này chủ yếu là

do các yếu tố chuyển đổi cơ cấu lao động – nghề nghiệp, sự xuất cư và nhập

cư gia tăng, sự cải thiện về mức sống và điều kiện sinh hoạt… tác động lên cơ

cấu văn hóa của 3 làng nói riêng, các cộng đồng có KCN nói chung.

115

Sự biến đổi văn hóa, ở các cộng đồng có KCN, trong hơn 20 năm qua,

với ba bình diện: cộng đồng, gia đình và cá nhân. Các loại hình sinh hoạt văn

hóa truyền thống/dân gian đã và đang được bảo lưu trong đời sống cộng đồng.

Đó là một tiến trình bảo lưu mang tính tự nhiên, được các tổ chức trong cộng

đồng và nhóm người cao tuổi bảo lưu và gìn giữ. Khi xuất hiện những thành

phần cư dân mới, sự biến đổi của các hoạt động văn hóa là có, thể hiện sự

cộng cư bởi các quan hệ kinh tế - xã hội và nhờ đó, các hoạt động văn hóa

tinh thần được ảnh hưởng qua lại, song đó mới chỉ là tác động vào vỏ bề

ngoài (giản tiện, gộp các hoạt động), hạt nhân là các nghi lễ, về cơ bản, vẫn

được lưu giữ, với ý nghĩa tinh thần là cố kết cộng đồng, thể hiện sức mạnh và

bản sắc (trong các sinh hoạt văn hóa cộng đồng); bảo lưu giá trị gia đình và

dòng họ, biết ơn tổ tiên, sự kính trọng người cao tuổi (trong các sinh hoạt văn

hóa ở gia đình); xuất hiện các động thái tiêu dùng văn hóa mới (ở bình diện cá

nhân).

Tiến trình tiêu dùng văn hóa của cư dân, với những xu hướng và động

thái phát triển khá đa dạng và phức tạp, thể hiện những động thái đương đại

của sự phát triển: hạn chế sinh hoạt văn hóa tại thiết chế văn hóa; tập trung

chủ yếu tại nhà, qua vô tuyến là chủ yếu; loại hình văn hóa đại chúng/bình

dân là chính; văn hóa trong nước được ưa thích. Các động thái này thể hiện

một mức sống tuy đã có cải thiện, song chưa phải là phát triển ở một tầm mức

cao để chuyển sang các khuôn mẫu văn hóa đô thị - công nghiệp.

116

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG

VĂN HÓA CHO CÁC CỘNG ĐỒNG NÔNG THÔN TRONG CÁC

KHU CÔNG NGHIỆP

3.1. Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời sống văn

hóa cho các cộng đòng nông thôn trong các KCN

Sau hơn 20 năm thực hiện đường đối đổi mới, nông nghiệp, nông dân,

nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp

tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao

năng suất, chất lượng và hiệu quả; một số mặt hàng xuất khẩu chiếm vị thế

cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng

công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi

mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng

nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các

vùng nông thôn ngày càng được cải thiện.

Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi

thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền

vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa

phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa

học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ

cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ

biến vẫn là sản xuất nhỏ phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều

mặt hàng thấp. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu

hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực

thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh

thần của người dân nông thôn còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng

117

bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và

thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.

Quá trình phát triển các KCN trên địa bàn nông thôn vẫn được coi là giải

pháp để CNH, HĐH nông nghiệp - nông thôn trên phương hướng tăng cường

nào? Tiếp tục phát triển các KCN với những tồn tại không cần khắc phục hay

phải nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư các KCN, chú trọng gắn kết phát

triển bên trong KCN với các địa bàn nông thôn – nông dân? Trong bối cảnh

đó, việc xây dựng và phát triển đời sống văn hóa tinh thần cho cư dân các

cộng đồng nông thôn KCN sẽ có một ý nghĩa quan trọng.

Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển các

KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 [106], trong đó

xác định: Mục tiêu phát triển các KCN tại Việt Nam đến năm 2015 và định

hướng đến năm 2020 là hình thành hệ thống các KCN chủ đạo có vai trò dẫn

dắt sự phát triển công nghiệp quốc gia, đồng thời hình thành các KCN có quy

mô hợp lý để tạo điều kiện phát triển công nghiệp, nhằm chuyển dịch cơ cấu

kinh tế tại những địa phương có tỷ trọng công nghiệp trong GDP thấp. Đưa tỷ

lệ đóng góp của các KCN vào tổng giá trị sản xuất công nghiệp từ trên 24%

hiện nay lên khoảng 39 - 40% vào năm 2010 và tới trên 60% vào giai đoạn

tiếp theo. Tăng tỷ lệ xuất khẩu hàng công nghiệp của các KCN từ 19,2% giá

trị xuất khẩu toàn quốc hiện nay lên khoảng 40% vào năm 2010 và cao hơn

vào các giai đoạn tiếp theo.

Năm 2008, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) đã

ban hành Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn [27], với các tư

tưởng chỉ đạo cụ thể sau:

- Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp

CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để

phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an

118

ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi

trường sinh thái của đất nước.

- Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết

đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. CNH, HĐH nông

nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình CNH,

HĐH đất nước. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và

nông thôn; thì nông dân là chủ thể của quá trình xây dựng, phát triển nông

thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị

theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, HĐH nông nghiệp là then chốt.

- Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh

thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng

và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai,

rừng và biển; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc

tế cho phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy

cao nội lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng

nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông

thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân.

- Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả

hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu nước,

tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn

định, hoà thuận, dân chủ, có đời sống văn hoá phong phú, đậm đà bản sắc dân

tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới,

nâng cao đời sống nông dân.

Nghị quyết đã đề ra mục tiêu tổng quát phát triển nông nghiệp, nông dân

và nông thôn là: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân

cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các

119

vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang

bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai

trò làm chủ nông thôn mới. Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện

theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất

lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh

lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng nông thôn mới có kết

cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức

sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ,

đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân

tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ.

Nghị quyết cũng đã xác định các chỉ tiêu đến năm 2020 liên quan trực

tiếp đến văn hóa:

- Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt 3,5 - 4%/năm; sử dựng đất

nông nghiệp tiết kiệm và hiệu quả; duy trì diện tích đất lúa đảm bảo vững

chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài. Phát triển nông nghiệp

kết hợp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải

quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp trên 2,5

lần so với hiện nay.

- Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỉ lệ lao động

nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới

khoảng 50%.

- Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, nhằm

đảm bảo cơ bản điều kiện học tập chữa bệnh, sinh hoạt văn hoá, thể dục thể

thao ở hầu hết các vùng nông thôn tiến gần tới mức các đô thị trung bình.

- Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có

hiệu quả, bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo; nâng cao trình độ giác

120

ngộ và vị thế chính trị của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham

gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình CNH, HĐH đất nước.

Một văn bản rất quan trọng nữa có liên quan tới chủ đề của luận án, đó là

Quyết định số 491/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ [107], ban hành "Bộ

tiêu chí quốc gia về nông thôn" mới bao gồm 19 tiêu chí và được chia thành 5

nhóm cụ thể: nhóm tiêu chí về quy hoạch, về hạ tầng kinh tế - xã hội, về kinh

tế và tổ chức sản xuất, về văn hóa - xã hội - môi trường và về hệ thống chính

trị. Các tiêu chí này là cơ sở để đánh giá mức độ phát triển của các cộng đồng

nông thôn trên con đường CNH, HĐH.

Ở bình diện lãnh đạo cấp tỉnh, Nghị quyết Đại hội đảng bộ lần thứ IX

tỉnh Đồng Nai năm 2010 đã xác định các nhiệm vụ và giải pháp lớn liên quan

tới phát triển văn hóa, cụ thể là:

Tiếp tục giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc ở địa phương.

Nâng cao mức hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của nhân dân. Triển khai đồng

bộ và hiệu quả đề án phát triển văn hóa nông thôn đến năm 2015, định hướng

đến năm 2020 theo Quyết định số 22/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ

[108]. Tập trung mở rộng và phát triển nhanh mạng lưới y tế, nâng cao chất

lượng khám chữa bệnh, chất lượng các dịch vụ y tế và bảo vệ sức khỏe cộng

đồng. Tiếp tục tạo chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực việc làm, đào tạo

nghề, nâng cao thu nhập người lao động và bảo đảm an sinh xã hội, giảm

nghèo bền vững.

Phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, xây

dựng gia đình văn hoá điển hình, mẫu mực ở nông thôn. Đẩy mạnh phong

trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu, thực

chất và hiệu quả. Tiếp tục đầu tư xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên, di

tích, các công trình văn hóa lịch sử và thiết chế văn hóa, thể thao ngang tầm

với mục tiêu phát triển bền vững. Tăng đầu tư nhà nước, đồng thời đẩy mạnh

121

xã hội hoá để phát triển các hoạt động văn hoá. Củng cố và nâng cao chất

lượng hoạt động phát thanh, truyền hình, báo chí, xuất bản nhằm nâng cao

chất lượng thông tin truyền hình. Phát triển rộng, mạnh phong trào “Toàn dân

rèn luyện sức khoẻ theo gương Bác Hồ vĩ đại” và đẩy mạnh xã hội hoá hoạt

động thể dục thể thao.

Gắn phát triển văn hóa nông thôn với phát triển nông nghiệp, xây dựng

nông thôn mới theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành

Trung ương Đảng (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và phong

trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.

Phát triển văn hóa nông thôn theo phương châm phát huy vai trò chủ

động của cộng đồng dân cư địa phương là chính. Nhà nước đóng vai trò

hướng dẫn và hỗ trợ; đồng thời có cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư, thu

hút các nguồn lực xã hội, huy động đóng góp của nhân dân để phát triển văn

hóa. Nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật và các quy định về văn

hóa của người dân ở nông thôn; xây dựng, củng cố và phát triển hệ thống thiết

chế văn hóa, thể thao cơ sở, tạo điều kiện để người dân ở nông thôn nâng cao

mức hưởng thụ, tham gia hoạt động và sáng tạo văn hóa; nâng cao chất lượng

phong trào xây dựng gia đình văn hóa, ấp văn hóa, thực hiện các tiêu chí phát

triển văn hóa nông thôn mới cấp xã, tạo nền tảng vững chắc để phát triển văn

hóa nông thôn mới trên địa bàn xã; xây dựng con người, gia đình, cộng đồng

nông thôn và môi trường văn hóa nông thôn lành mạnh, phong phú, giàu bản

sắc văn hóa dân tộc, tạo động lực thúc đẩy phát triển nông nghiệp và xã hội

nông thôn mới.

Các chỉ tiêu cụ thể đến năm 2015 đối với các xã đồng bằng:

- 70% người dân ở nông thôn tham gia thường xuyên vào các hoạt động

văn hóa, thể thao, trong đó hơn 30% dân số nông thôn luyện tập thể dục, thể

thao thường xuyên;

122

- 100% xã có Trung tâm Văn hóa, thể thao, trong đó Trung tâm Văn hóa,

thể thao đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là

80%;

- 98% "Gia đình đạt chuẩn văn hóa; trong đó, trên 70% gia đình giữ

vững và phát huy danh hiệu "Gia đình đạt chuẩn văn hóa” và trên 20% gia

đình văn hóa ở nông thôn làm giàu từ sản xuất nông nghiệp hàng hóa;

- 90% "Ấp đạt chuẩn văn hóa; trong đó, trên 70% ấp giữ vững và phát

huy danh hiệu "Ấp đạt chuẩn văn hóa và trên 50% ấp văn hóa đạt chuẩn cơ sở

vật chất, hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn mới;

- 90% nông dân được phổ biến pháp luật và các quy định về văn hóa;

- 100% cán bộ văn hóa, thể thao ở nông thôn được đào tạo, bồi dưỡng,

tập huấn về nghiệp vụ.

Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết trên, tỉnh Đồng Nai đã ban hành Đề án:

Phát triển văn hóa nông thôn tỉnh Đồng Nai đến năm 2015, định hướng đến

năm 2020, trong đó nhấn mạnh: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí

chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở

và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn

định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn

hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.

Các văn bản có tính chất định hướng trên cho thấy cần phải xây dựng các

quan điểm chỉ đạo cơ bản sau, gắn các quá trình định hướng sự biến đổi của

các cộng đồng nông nghiệp, nông dân và nông thôn khi bị các KCN tác động,

đó là:

- Gắn phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, coi đây vừa là

nền tảng, vừa là một bộ phận không thể tách rời của tiến trình phát triển văn

hóa mỗi cộng đồng. Không có phát triển kinh tế xã hội, không có quá trình gia

123

tăng mức sống, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động – việc làm, không thể có

cơ sở và nền tảng để phát triển văn hóa trong giai đoạn hiện nay.

- Các KCN là động lực, là “đầu tàu” để cho các tiến trình ở trên phát

triển. Như một thực thể “lai ghép”, “cấy” vào trong các cộng đồng nông thôn,

nó cần phải có thời gian và những định hướng chính sách để cùng với cộng

đồng nông thôn phát triển một cách hài hòa, bảo đảm các lợi ích của doanh

nghiệp cũng như lợi ích của cộng đồng địa phương. Cần phải coi các doanh

nghiệp và văn hóa doanh nghiệp của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn là

một bộ phận không thể tách rời của cơ cấu văn hóa nông thôn mới. Nó có thể

là một bộ phận chưa ăn nhập lắm vào đời sống văn hóa nông thôn trong thời

gian đầu, song về lâu dài, cùng với “mạch” nối là các công nhân KCN, doanh

nghiệp và văn hóa doanh nghiệp phải trở thành một bộ phận trong cơ cấu văn

hóa cộng đồng.

- Vai trò của chủ thể văn hóa, của các tổ chức văn hóa và thiết chế văn

hóa truyền thống, của cá nhân mỗi người dân là rất quan trọng trong tiến trình

xây dựng cơ cấu văn hóa mới cũng như tổ chức xây dựng đời sống văn hóa

nông thôn. Phát huy vai trò của cộng đồng cùng với sự định hướng và hỗ trợ

của Nhà nước là hai mặt của một tiến trình định hướng chính sách nhất quán

cho các cộng đồng nông thôn trong bối cảnh CNH, HĐH.

- Văn hóa doanh nghiệp và văn hóa cộng đồng nông thôn sẽ “hợp tác”

như thế nào, đó là một câu hỏi cần có sự nghiên cứu và xây dựng các mô hình

hợp tác. Thông qua doanh nghiệp và văn hóa doanh nghiệp, các cộng đồng

nông thôn – nông dân tiếp thu được các khía cạnh văn minh của đời sống văn

hóa, các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các cách tổ chức đời sống văn hóa kiểu

mới; trong khi đó, các cộng đồng nông thôn vừa là cái nôi chung của toàn bộ

tổng thể văn hóa cộng đồng, vừa là nơi bảo tồn vốn văn hóa truyền thống, nơi

trao truyền các khuôn mẫu văn hóa trong sinh hoạt cho người dân, một không

124

gian văn hóa cần có cho tất cả mọi người. Trên tinh thần đó, cần có các mô

hình tổ chức đời sống văn hóa khác nhau, đáp ứng nhu cầu chung của nhiều

nhóm xã hội trong cộng đồng nông thôn đang biến đổi.

3.2. Xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách ở tầm vĩ mô

Một hệ thống cơ chế chính sách ở tầm vĩ mô, vượt ra khỏi khuôn khổ

của một tỉnh, sẽ là một khung chính sách chung cho việc phát triển văn hóa

cho các cộng đồng dân cư có KCN. Đây là một hệ thống chính sách phản ánh

các nỗ lực gắn KCN với cộng đồng dân cư tại chỗ, gắn hoạt động nhà nước

với hoạt động của người dân, gắn phát triển kinh tế - xã hội với phát triển đời

sống tinh thần.

* Nhóm các chính sách

Quy hoạch KCN và doanh nghiệp: Quy hoạch là sự thể hiện tầm nhìn và

kế hoạch dự liệu đi trước cho mỗi hoạt động trong KCN. Liên quan tới đời

sống văn hoá, các quy hoạch sau đây sẽ rất cần thiết cho việc phát triển một

đời sống văn hoá tại KCN và cộng đồng dân cư, đó là:

Quy hoạch về hệ thống cơ sở hạ tầng dành cho văn hoá - nghệ thuật,

trong đó trước hết là quy hoạch về các quảng trường nhỏ, công viên nhỏ, các

giao lộ phục vụ các sinh hoạt động văn hoá công cộng, các lễ hội, …

Quy hoạch về hệ thống các thiết chế văn hoá công cộng như nhà văn hoá

(câu lạc bộ), các khu vui chơi giải trí tổng hợp hay chuyên dụng;

Quy hoạch về các không gian công cộng trong các khu vực ở, trong mỗi

công sở nhằm phát triển các không gian xanh, các không gian chuyển tiếp

giữa nơi ở với các hệ thống giao thông, bảo đảm mối quan hệ giữa con người

và thiên nhiên nơi sinh sống, các khu vực nghỉ ngơi, giải trí nhỏ cho mỗi khu

nhà, tạo ra một môi trường làm việc “thân thiện” với môi trường tự nhiên.

Luật pháp: Các điều luật liên quan đến hệ thống giao thông, bảo đảm

các dòng lưu thông trong nội bộ đô thị và với các vùng xung quanh, giảm các

125

ách tắc giao thông, phản ánh tính chất văn minh của đô thị hiện đại và khả

năng quản lý các dòng di chuyển không ngừng nghỉ vốn là một đặc trưng của

xã hội đô thị. Các điều luật quy định các sinh hoạt nơi công cộng, bảo đảm vệ

sinh, trật tự, để các cá nhân, nhóm xã hội có thể thể hiện tiếng nói nhưng

không phá vỡ những quy định chung của đời sống công cộng;

Bổ sung và phát triển các điều luật và quy định trong thiết kế, xây dựng

các thiết chế cơ sở văn hoá trong KCN, các khu vực vui chơi giải trí, có tính

đến các nhu cầu sinh hoạt của người tàn tật là công nhân KCN (chỗ ngồi,

đường di chuyển, hệ thống vệ sinh…)

Xây dựng chính sách về đất đai cho các tụ điểm văn hoá công cộng như

dành quỹ đất cho các khu vực công cộng tại KCN và mỗi doanh nghiệp; quỹ

đất xây dựng các thiết chế văn hoá công cộng tại khu dân cư như nhà văn hoá

(câu lạc bộ), các khu vui chơi giải trí tổng hợp hay chuyên dụng; quỹ đất cho

việc xây dựng các không gian công cộng trong các khu vực ở, trong mỗi công

sở, nhà xưởng, ấp;

* Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách kinh tế - tài chính

Bao gồm các chính sách như: Chính sách về giảm thuế cho các doanh

nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội đối với công nhân, bao gồm các phúc

lợi xã hội và chăm lo đời sống văn hoá tinh thần cho công nhân, xây dựng các

thiết chế văn hoá, có các hoạt động cộng đồng; Chính sách về thuế đất cho

các cơ sở văn hoá trên cơ sở phân loại các loại hình văn hoá để có chính sách

ưu tiên cho các cơ sở văn hoá công ích, thuế kinh doanh cho các doanh

nghiệp văn hoá có chương trình phục vụ công nhân KCN. Cũng cần xây dựng

chính sách về giảm thuế, không đánh thuế cho các hình thức dịch vụ như tổ

chức cưới, du lịch, các lễ hội, các hoạt động văn hoá văn nghệ khác phục vụ

công nhân. Các chính sách thu hút đầu tư của khu vực tư nhân vào hạ tầng xã

hội phục vụ các KCN, bên cạnh các chính sách về đầu tư xây dựng nhà ở đã

126

ban hành, đó là các chính sách về xây dựng các khu vui chơi giải trí đa chức

năng, các công viên xanh, hồ bơi, sân thể thao…, thực hiện chính sách “xã hội

hoá” VHTT của Đảng và Nhà nước.

Sử dụng có hiệu quả và phát triển thiết chế văn hoá: Xây dựng các kế

hoạch hàng năm và dài hơn cho hệ thống các thiết chế VHTT trên địa bàn tỉnh

phục vụ công nhân KCN nhằm sử dụng sức mạnh tổng hợp của cả ngành, gắn

kết các hoạt động VHTT phục vụ công nhân, tăng mức hưởng thụ văn hoá của

công nhân. Đặc biệt chú ý sử dụng hệ thống trung tâm văn hoá huyện/thị và

xã phường vì đó là nơi nắm bắt rõ các nhu cầu của công nhân trên từng địa

bàn.

Nâng cao năng lực của các trung tâm VHTT xã/phường có nhiều công

nhân KCN sinh sống bằng việc đầu tư trang thiết bị, chương trình, hướng dẫn

nghiệp vụ, đào tạo để họ có thể tự tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ

phục vụ công nhân, huy động dân cư tại chỗ và cư dân là công nhân tham gia

các hoạt động này.

Phát triển các tổ hợp văn hoá đa năng phục vụ nhiều loại hình văn hoá,

các dịch vụ thương mại, hội nghị, vui chơi giải trí hiện đại…;

Phát triển một số thiết chế văn hoá có tính đặc thù phục vụ một số nhu

cầu và sở thích của những nhóm đặc thù như các nhóm thanh thiếu niên ưa

thích các trò chơi mạo hiểm, tốc độ, các trung tâm giải trí công nghệ cao, các

khu du lịch văn hoá phục vụ cho các nhóm sở thích có tiền, các trung tâm sinh

hoạt văn hoá cho người già, cho giới nữ…;

Phát triển một số trung tâm văn hoá phục vụ các nhóm thiệt thòi, những

người khuyết tật, trẻ em cơ nhỡ, trẻ em nghèo vốn là các nhóm sẽ có tỷ lệ gia

tăng cao trong đời sống đô thị và khả năng hoà nhập xã hội bị hạn chế.

127

Phát triển các trung tâm vui chơi giải trí công nghệ cao, các khu văn hoá

thể thao phục vụ tầng lớp thanh niên, đáp ứng nhu cầu tìm tòi, giải trí, tính

năng động của tuổi trẻ.

* Nhóm giải pháp tăng cường sự tham gia

Phát huy vai trò của các tổ chức cấp cơ sở, các tổ chức tự quản tại khu

dân cư như đoàn thanh niên, các hội phụ nữ, mặt trận, cựu chiến binh, các tổ

dân phố trong các việc tổ chức các hoạt động văn hoá hàng ngày, các phong

trào, đợt sinh hoạt văn hoá do trên đưa xuống;

Duy trì an ninh trật tự, vệ sinh nơi ở, nếp sống văn minh bởi các tổ chức

tự quản, các tổ, đội của các đoàn thể cấp cơ sở tại các khu dân cư là công nhân.

Huy động sự tham gia tài trợ của các Mạnh thường quân, các nhân vật xã

hội nổi tiếng vào các hoạt động văn hoá nghệ thuật ở đô thị thông qua các

hình thức hội chợ, hội diễn, các phiên bán đấu giá các tác phẩm văn học nghệ

thuật, trên các “shows” diễn nhằm huy động các nhà hảo tâm, những người

yêu thích văn hoá nghệ thuật;

Huy động sự tham gia của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,

các tổ chức văn hoá quốc tế và các quỹ, tổ chức văn hoá ở nước ngoài tham

gia vào việc tổ chức các hoạt động văn hoá ở KCN nhằm huy động không

những nguồn vốn mà quan trọng hơn là học tập các cách tiếp cận mới, những

phương pháp, kỹ năng tổ chức và xây dựng các hoạt động văn hoá cho mỗi tổ

chức văn hoá, nghệ thuật vốn đang là một điểm yếu của các tổ chức văn hoá

nghệ thuật của chúng ta trong môi trường công nghiệp - đô thị;

Xây dựng một mạng liên kết các nhà tài trợ, các Mạnh thường quân cho

văn hoá nghệ thuật nhằm liên kết các nhu cầu, các lợi ích, các phương pháp

làm việc, các kế hoạch tổ chức các hoạt động văn hoá nghệ thuật vốn vừa

thừa, vừa thiếu các hoạt động văn hoá nghệ thuật.

3.3. Xây dựng các mô hình phát triển văn hóa

128

Thuật ngữ mô hình ở đây không có nghĩa là gắn với các “nhà” (các thiết

chế văn hoá như trung tâm văn hoá, điểm sinh hoạt văn hoá …) mà là một

khung tổ chức các hoạt động phục vụ công nhân các KCN được vận hành trên

một số nguyên tắc, mục tiêu được xác định trong khoảng thời gian xác định,

trong những không gian nhất định, nhằm cung cấp những ý tưởng mới về tổ

chức đời sống văn hoá cho các cộng đồng nông thôn có KCN, các cơ chế vận

hành, các hoạt động, các trách nhiệm cho từng cá nhân và tổ chức, các đánh

giá kèm theo.

Đặc điểm chung của mô hình ở đây là tính động của nó. Hai điểm triển

khai là mô hình tại doanh nghiệp và mô hình tại khu dân cư chỉ là các mô

hình thực tế của mô hình lý thuyết này, có gắn với những địa chỉ cụ thể,

chúng được thể hiện rõ trong một kịch bản thể hiện các loại hình hoạt động,

cách tổ chức, thời gian, địa điểm, các tổ chức và cá nhân chịu trách nhiệm sau

khi có những thảo luận giữa chương trình khảo sát với các cơ sở, các cơ quan

chuyên môn.

Mô hình này lấy định nghĩa văn hoá theo nghĩa rộng, nghĩa là nó không

chỉ khuôn hẹp trong các hoạt động văn nghệ mà còn là các hoạt động thể dục

thể thao, các hoạt động phúc lợi xã hội, từ thiện, các hoạt động vệ sinh môi

trường…, các hoạt động học tập nâng cao kiến thức và kỹ năng sống và kỹ

năng nghề nghiệp, tổ chức các các khu phố, dãy nhà trọ văn minh... Khuôn

khổ này mới có thể cho phép bao phủ các khía cạnh của đời sống văn hoá của

một doanh nghiệp, một địa bàn dân cư có công nhân KCN sinh sống.

Mục tiêu của các mô hình tổ chức đời sống văn hóa cho các cộng đồng

dân cư có KCN là: Cung cấp một phương thức tổ chức đời sống văn hoá cho

các cộng đồng dân cư có KCN theo nguyên tắc phát triển bền vững, tăng

cường sự tham gia từ dưới lên, đáp ứng nhu cầu của công nhân KCN và

người dân tại chỗ, đa dạng các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục thể

129

thao, du lịch, từ đây xây dựng năng lực quản lý cho các doanh nghiệp và các

thiết chế, điểm văn hoá trên địa bàn dân cư để họ có thể tự tổ chức đời sống

văn hoá.

Các mô hình này được vận hành trên nguyên tắc: (1) Phát triển bền

vững: Các hoạt động trong giai đoạn triển khai thí điểm phải được duy trì bằng

những can thiệp nhằm duy trì khả năng tự quản lý của các điểm được can thiệp;

(2) Tăng cường sự tham gia từ dưới lên: sự tham gia của cộng đồng và doanh

nghiệp sẽ là yếu tố quyết định cho sự duy trì và phát triển của các mô hình, trên

tinh thần tự nguyện, tự tổ chức, tự quản lý; (3) Đáp ứng đúng nhu cầu: các hoạt

động được xây dựng trên cơ sở nhu cầu của công nhân, trên phương châm là

chọn lựa các ưu tiên và khả năng nguồn lực mà tổ chức các hoạt động vào những

thời điểm thích hợp; (4) Đa dạng hóa các loại hình hoạt động: nhằm bảo đảm

khả năng giao lưu giữa các điểm văn hoá, các doanh nghiệp trong và ngoài

KCN, giữa chúng với các hoạt động của các đơn vị thuộc ngành VHTT, các

ngành khác trong tỉnh đưa văn hoá đến cơ sở; (5) Xã hội hoá: Huy động các

nguồn lực tại chỗ, của các lực lượng xã hội, các cá nhân vào việc tổ chức các

hoạt động văn hoá phục vụ công nhân KCN, bao gồm tiền, công sức, các ý

tưởng, các sáng kiến, các hình thức đóng góp bằng vật chất và tinh thần khác; (6)

Có sự giám sát: nhằm bảo đảm các hoạt động được triển khai trên tinh thần minh

bạch, hiệu quả, thiết thực. Hình thức giám sát có thể là do cộng đồng tự tổ chức

hay do các tổ chức chính trị xã hội tiến hành. Các hoạt động giám sát là nhằm

thúc đẩy các hoạt động tại các điểm triển khai mô hình, chứ không phải là hoạt

động kiểm tra, kiểm soát.

Phương châm của các mô hình là tăng tính chất nghi lễ, trang trọng trong

các hoạt động của văn hoá tại doanh nghiệp, bảo tồn tốt các nghi lễ truyền thống;

tăng tính chất giải trí, nghệ thuật, tính dân gian trong các hoạt động văn hoá

tại cộng đồng thay vì các tính chất hành chính vốn ít thu hút người dân.

130

Để thực hiện tốt mục tiêu và phương châm trên, một loạt các hoạt động,

bao gồm các hoạt động tại chỗ và từ trên đưa xuống, các hoạt động thường

xuyên và các hoạt động theo dịp lễ tết, cần được tổ chức, cụ thể là:

- Các hoạt động giao lưu: Giao lưu giữa các doanh nghiệp có nhiều

công nhân nữ với doanh nghiệp có nhiều công nhân nam; giao lưu giữa doanh

nghiệp với địa bàn dân cư; giao lưu giữa công nhân nữ với bộ đội; các hình

thức giao lưu khác.

- Các hoạt động văn hóa văn nghệ: Hội diễn/hội thi nhân các dịp lễ kỷ

niệm; các câu lạc bộ hát dân ca, cùng nhau hát, nhảy; các hoạt động xây dựng

tủ sách, đọc sách báo/thi kể chuyện, hùng biện; các hoạt động giáo dục truyền

thống như xây dựng phòng trưng bày truyền thống doanh nghiệp, triển lãm; tổ

chức các Festival mang tính tổng hợp với nhiều hình thức văn nghệ, trò chơi,

thi nấu ăn, phụ nữ duyên dáng thanh lịch, thi bé khoẻ, bé ngoan cho con em

công nhân, thi đố vui; các hoạt động tổ chức các tour du lịch ngắn cho công

nhân vào những ngày cuối tuần; tổ chức các buổi chiếu phim có bình luận từ

phía người xem.

- Các hoạt động học tập, phổ biến kiến thức (có thể là các lớp học và

thông qua các hình thức sinh hoạt văn hóa văn nghệ khác để tăng sức thu hút):

Tổ chức các lớp về sức khỏe sinh sản, kế hoạch hoá gia đình; tổ chức các lớp,

các buổi nói chuyện về tình bạn - tình yêu, hôn nhân và gia đình; tổ chức các

hình thức tuyên truyền pháp luật, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp và Luật công

đoàn; tổ chức các hình thức phổ biến kỹ năng sống trong môi trường công

nghiệp - đô thị;

- Các hoạt động thể thao, trò chơi: Các trò chơi dân gian; các trò chơi của

các nước (chú trọng trò chơi của nước đầu tư); các trò chơi hiện đại; các

chương trình luyện tập bóng chuyền, bóng đá, cờ tướng, đá cầu, bóng bàn, thể

hình…; các chương trình thi đấu TDTT (tại chỗ và giao lưu);

131

- Các hoạt động an sinh xã hội, hoạt động cộng đồng: Các hoạt động xây

dựng nhà tình thương, ủng hộ người nghèo, vệ sinh đường phố…; tổ chức các lễ

cưới, ăn tết cho công nhân; tổ chức lễ cưới cho các cặp công nhân;

Tổ chức các hoạt động văn hoá cho công nhân không về quê ăn tết gắn

với cộng đồng dân cư.

Các mô hình này cần có một số điều kiện xây dựng mô hình: Có

sự đồng thuận của Chủ doanh nghiệp/công đoàn, đoàn thanh niên; của đảng

uỷ, chính quyền, các đoàn thể tại xã/phường, các tổ chức văn hóa truyền

thống vốn gắn chặt với đình, chùa, miếu…, tạo nên sức mạnh chung của cả

cộng đồng; các doanh nghiệp, điểm dân cư đã tổ chức một số hoạt động

VHTT phục vụ công nhân những còn có những điểm chưa được hoàn chỉnh.

Không cộng tác với những điểm quá hoàn chỉnh hoặc chưa có năng lực tổ

chức các hoạt động văn hoá phục vụ công nhân KCN; có sự hỗ trợ từ trên

xuống; tự tổ chức để bảo đảm nguyên tắc tham dự; có cơ sở vật chất như sân

bãi, hội trường, kinh phí.

Các hoạt động trên được tổ chức vào các thời điểm tổ chức:

- Tết dương lịch;

- Tết âm lịch;

- Valentine;

- Ngày 8/3 (hoặc ngày 20/10);

- Ngày lễ 30/4 và 1/5;

- Tết thiếu nhi 1/6;

- Rằm tháng Tám;

- Quốc khánh 2/9;

- Noel;

- Ngày thành lập công ty;

- Ngày Hội văn hóa thể thao;

132

- Cưới;

- Lễ hội cúng đình.

Các kịch bản cho hai mô hình: Các kịch bản này cho phép có được một

cấu trúc các hoạt động cần phải làm tại doanh nghiệp và địa bàn dân cư, với

hai loại hoạt động: hoạt động tại chỗ và các hoạt động can thiệp từ trên đưa

xuống. Các hoạt hoạt động này bổ sung cho nhau bởi cần có sự tổng hợp các

nguồn lực, các loại hình, các cách thức tổ chức hoạt động.

Tại doanh nghiệp:

Bảng 50: Tổ chức các hoạt động văn hoá trong các dịp lễ, các sự kiện

STT

Sự kiện

Hoạt động

1.

Tết dương

Tổ chức Festival tổng hợp hay theo một chủ đề

lịch

2.

Tết âm lịch

Tổ chức Festival tổng hợp hay theo một chủ đề

Tổ chức ăn tết cho công nhân không về quê ăn tết

3.

Valentine

Tổ chức hội trại thanh niên, có các hoạt động nói chuyện, vui

chơi, giao lưu

4.

Ngày lễ 30/4

Tổ chức hoạt động triển lãm về ngày 30/4 do công nhân sưu tầm

và 1/5

trên báo chí và trưng bày với sự hướng dẫn nghiệp vụ của Bảo

tàng tỉnh;

Trưng bày các cụm Panô tuyên truyền ngày truyền thống 30/4 và

1/5 kèm theo các hoạt động thông tin cổ động;

Tổ chức các tour du lịch ngắn ngày;

Mở hội thi nấu ăn

5.

Tết thiếu nhi

Thi bé khoẻ, bé ngoan cho con em công nhân (trong nhà máy)

1/6

6.

Rằm tháng

Tổ chức thi vẽ tranh, chơi trò chơi cho con em công nhân tại sân

Tám

chơi khu dân cư

7.

Quốc khánh

Nói chuyện truyền thống, giao lưu với các lão thành cách mạng

2/9

8.

Noel

Tổ chức hoạt động văn hoá cho nhóm công nhân theo đạo Thiên

133

chúa, Tin lành

9.

Ngày thành

Tổ chức hội trại của Cty: có hoạt động khen thưởng, biểu dương

lập công ty

thành tích, có hoạt động văn nghệ, có tổ chức các trò chơi

10. Ngày hội

Tập trung vào các hoạt động thể thao có thưởng

văn hóa thể

thao

11.

Tổ chức

Tổ chức một đám cưới cho một đôi công nhân cùng làm tại nhà

cưới

máy, có sự tham gia của công đoàn, đoàn thanh niên, theo nghi

thức đám cưới đời sống mới

12.

Tổ chức các

Tổ chức các tour du lịch dã ngoại có sự phối hợp giữa Công đoàn,

tour du lịch

các Cty du lịch

ngắn ngày

13.

Các hoạt

Tổ chức các chương trình từ thiện, các chương trình xã hội trong

động cộng

các cộng đồng dân cư có nhiều công nhân của nhà máy sinh sống

đồng

14.

Các hoạt

Giao lưu giữa các doanh nghiệp

động giao

Giao lưu giữa doanh nghiệp với các ban ngành đoàn thể, các địa

lưu

phương

Bảng 51: Tổ chức các hoạt động văn hoá thường xuyên

STT Sự kiện

Hoạt động

1.

Các hoạt động luyện

Tổ chức các hoạt động luyện tập bóng bàn

tập thể dục thể thao:

Tổ chức các hoạt động luyện tập cầu lông

gồm các hoạt động

Tổ chức các hoạt động luyện tập cờ tướng

chịu ít kinh phí đầu

Tổ chức các hoạt động luyện tập đá cầu

tư, không đòi hỏi

Tổ chức các đội/nhóm TDTT

đội/nhóm lớn; các

đội/nhóm có thể thi

đấu giao lưu, tranh

giải

134

2.

Tổ chức các hoạt

Thi đấu bóng đá

động thi đấu thể thao

Thi đấu bóng chuyền

giữa doanh nghiệp

Thi đấu cờ tướng

với nhau, giữa doanh

Các thi đấu TDTT khác

nghiệp với địa bàn

dân cư

3.

Các hoạt động đọc

Xây dựng thư viện/phòng đọc sách báo/góc đọc sách

sách báo

Duy trì các hoạt động cho muợn sách báo

Tổ chức các cuộc thi đọc sách, kể chuyện

Hoạt động trao đổi sách báo với hệ thống thư viện tỉnh

4.

Các hoạt động giải trí Xây dựng khu giải trí hiện đại (góc giải trí) tại điểm văn

hoá của doanh nghiệp trên phương tiện truyền thông mới

Tổ chức và duy trì các khu trò chơi (dân gian và hiện đại)

5.

Các hoạt động thông

Xây dựng (hoặc hoàn chỉnh) các cụm thông tin cổ động

tin cổ động

tuyên truyền trong địa bàn dân cư và tại các khu công

nhân sinh sống

Tổ chức các hoạt động tuyên truyền tại địa bàn dân cư và

tại các khu công nhân sinh sống

6.

Các hoạt động văn

Xây dựng các hạt nhân văn nghệ, các nhóm văn nghệ

Duy trì các hoạt động luyện tập, duy trì đội nhóm

nghệ

7.

Các hoạt động cộng

Thành lập và duy trì các loại quỹ tương trợ, tương thân

đồng

tương ái trong công nhân

Xây dựng các chương trình xã hội tại cộng đồng như nhà

tình thương, nhà tình nghĩa, xoá đói giảm nghèo…

Bảng 52: Tổ chức các hoạt động can thiệp từ trên xuống

STT

Sự kiện

Hoạt động

1.

Các hoạt động xây

Phổ biến quy chế xây dựng khu dân cư an toàn, đăng ký

dựng thể chế

thực hiện quy chế

Xây dựng các quy chế (thư viện, trung tâm sinh hoạt văn

135

hoá và các quy chế khác)

2.

Các hoạt động đào

Đào tạo kỹ năng xây dựng đội nhóm

tạo

Đào tạo kỹ năng tuyên truyền, vận động

Đào tạo kỹ năng văn nghệ

3.

Các hoạt động biểu

Đưa các hoạt động ca múa nhạc mới xuống doanh nghiệp

diễn nghệ thuật

Đưa các hoạt động văn nghệ truyền thống xuống doanh

nghiệp

Đưa các hoạt động chiếu bóng xuống doanh nghiệp có sự

tham dự của khán giả (bình luận của công nhân sau khi

xem phim)

4.

Các luân chuyển sách Luân chuyển sách báo

Tổ chức giới thiệu, thi kể chuyện

5.

Các hoạt động giáo

Hỗ trợ tổ chức đợt triển lãm truyền thống 30/4 và Nói

dục truyền thống

chuyện truyền thống vào 2/9

Hỗ trợ xây dựng góc/phòng truyền thống của doanh

nghiệp

6.

Các hoạt động thông

Hỗ trợ việc xây dựng các cụm thông tin tuyên truyền

tin cổ động

trong doanh nghiệp

Hỗ trợ các hoạt động tuyên truyền

7.

Hỗ trợ về trang thiết

Hỗ trợ các trang thiết bị âm thanh

bị, tài chính

Hỗ trợ các trang thiết bị trong triển lãm, tổ chức

Festival…

Hỗ trợ về tài chính

8.

Xây dựng chương

Các chuyên mục phổ biến kiến thức và pháp luật cho

trình phục vụ công

công nhân

nhân KCN của Đài

Các chương trình ca múa nhạc của công nhân

PTTH tỉnh (chung

Các chương trình trò chơi, thi đố vui

cho cả doanh nghiệp

Các chương trình TDTT

và Khu dân cư)

136

Tại địa bàn dân cư:

Bảng 53 : Tổ chức tại Trung tâm VHTT xã/phường

STT

Sự kiện

Hoạt động

1.

Tết dương lịch

Tổ chức Festival tổng hợp hay theo một chủ đề

2.

Tết âm lịch

Tổ chức ăn tết cho công nhân không về quê ăn tết tại một

khu dân cư trong xã/phường

3.

Ngày lễ 30/4 và 1/5

Tổ chức hoạt động triển lãm về ngày 30/4 do công nhân

sưu tầm trên báo chí và trưng bày với sự hướng dẫn

nghiệp vụ của Bảo tàng tỉnh;

Trưng bày các cụm Panô tuyên truyền ngày truyền thống

30/4 và 1/5 kèm theo các hoạt động thông tin cổ động;

Mở một hội thi (văn hóa văn nghệ, trò chơi, ẩm thực…)

4.

Tết thiếu nhi 1/6

Thi bé khoẻ, bé ngoan cho con em công nhân các nhà máy

đóng trên địa bàn phường xã

5.

Rằm tháng Tám

Tổ chức thi vẽ tranh, chơi trò chơi cho con em công nhân

tại sân chơi khu dân cư

6.

Quốc khánh 2/9

Nói chuyện truyền thống, giao lưu với các lão thành cách

mạng

7.

Noel

Tổ chức hoạt động văn hoá cho nhóm công nhân theo đạo

Thiên chúa, Tin lành với cộng đồng tôn giáo trong

xã/phường

8.

Ngày hội VHTT

Tập trung vào các hoạt động thể thao có thưởng

9.

Tổ chức cưới

Tổ chức một mô hình tổ chức đám cưới công nhân có sự

tham gia của các doanh nghiệp, theo phương châm giá cả

phải chăng, chu đáo, trang trọng, tiết kiệm, theo nghi thức

đám cưới đời sống mới

10.

Các hoạt động cộng

Tổ chức các chương trình từ thiện, các chương trình xã hội

đồng

trong các cộng đồng dân cư có nhiều công nhân của nhà

máy sinh sống

11.

Các hoạt động giao

Giao lưu giữa các doanh nghiệp

lưu

Giao lưu giữa doanh nghiệp với các ban ngành đoàn thể,

137

các địa phương

12.

Luyện tập TDTT cho

Các hoạt động luyện tập theo từng loại hình câu lạc bộ

các cá nhân và xây

Các hoạt động thi đấu, tranh giải

dựng các đội/nhóm

có thể thi đấu giao

lưu, tranh giải

13.

Các hoạt động đọc

Xây dựng thư viện/phòng đọc sách báo/góc đọc sách

sách báo

Duy trì các hoạt động cho muợn sách báo

Tổ chức các cuộc thi đọc sách, kể chuyện

Hoạt động trao đổi sách báo với hệ thống thư viện tỉnh

Bảng 54: Tổ chức tại các khu dân cư có công nhân sinh sống

STT Sự kiện

Hoạt động

1.

Các hoạt động xây

Phổ biến các quy định về khu dân cư an toàn bằng các loa

dựng khu dân cư an

truyền thành, các pano dán tại các nhà trọ, các hoạt động

toàn

đăng ký của các công nhân ở nhà trọ

2.

Các hoạt động thông

Tuyên truyền về nếp sống văn minh, vệ sinh nơi cư trú

tin tuyên truyền qua

Tuyên truyền về sức khỏe sinh sản, kế hoạch hoá gia đình

đài phát thanh

Thông tin về thời sự hàng ngày

xã/phường

3.

Các hoạt động thông

Quảng cáo về vệ sinh an toàn thực phẩm, về phòng chống

tin cổ động

HIV/AIDS, về vệ sinh văn minh ngõ xóm, về xây dựng

khu dân cư an toàn bằng các cụm pano, áp phích…

Xây dựng một số Bảng tin tại Khu nhà trọ để làm nơi

thông tin cho công nhân

Xây dựng một số đội tuyên truyền viên từ công nhân các

khu nhà trọ

4.

Các hoạt động giải trí Tổ chức một vài sân chơi nhỏ để công nhân sau giờ lao

động có chỗ tập TDTT, chơi

Tổ chức một số CLB sinh hoạt văn hoá tại Khu nhà trọ

138

5.

Các hoạt động văn

Tổ chức Rằm tháng 8 tại Khu nhà trọ

nghệ

6.

Các hoạt động cộng

Thành lập và duy trì các loại quỹ tương trợ, tương thân

tương ái trong công nhân

đồng

Xây dựng các chương trình xã hội tại cộng đồng như nhà

tình thương, nhà tình nghĩa, xoá đói giảm nghèo…

Bảng 55: Các hoạt động can thiệp từ trên xuống

STT Sự kiện

Hoạt động

1.

Các hoạt động xây

Xây dựng quy chế phối hợp giữa Doanh nghiệp, các ban

dựng thể chế

ngành với xã phường về xây dựng đời sống văn hoá cho

công nhân tại khu dân cư

Phổ biến quy chế xây dựng khu dân cư an toàn, đăng ký

thực hiện quy chế tại các khu nhà trọ, chung cư

2.

Các hoạt động đào

Đào tạo kỹ năng xây dựng đội nhóm

tạo

Đào tạo kỹ năng tuyên truyền, vận động

Đào tạo kỹ năng văn nghệ

3.

Các hoạt động biểu

Đưa các hoạt động ca múa nhạc mới phục vụ công nhân ở

diễn nghệ thuật

khu dân cư

Đưa các hoạt động văn nghệ truyền thống phục vụ công

nhân ở khu dân cư

Đưa các hoạt động chiếu bóng phục vụ công nhân ở khu

dân cư

4.

Các hoạt động giao

Giao lưu văn hoá giữa thanh niên công nhân và thanh niên

lưu, thăm hỏi

tại chỗ

Thăm hỏi và động viên các gia đình diện chính sách là

công nhân KCN

Các hoạt động xã hội khác.

5.

Các hoạt động thông

Cung cấp các tài liệu tuyên truyền xuống cơ sở

tin cổ động

Giúp trang thiết bị tuyên truyền

139

Giúp phương pháp tuyên truyền

6.

Hỗ trợ về trang thiết

Hỗ trợ các trang thiết bị âm thanh

bị, tài chính

Hỗ trợ các trang thiết bị trong triển lãm, tổ chức

Festival…

Hỗ trợ về tài chính

7.

Các hoạt động giám

Giám sát theo tháng bằng hình thức họp giao ban giúp

sát

kinh nghiệm

Giám sát theo quý để sơ kết việc thực hiện, điều chỉnh kế

hoạch

Tổng kết cộng đồng can thiệp, đánh giá sự phối hợp xây

dựng mô hình

Với các mô hình trên, chúng ta có thể thấy một số điều kiện thuận lợi và

khó khăn sau:

Ngoài khu vực tư nhân, các khu vực kinh tế nhà nước và đầu tư nước

ngoài đã có những nhân tố để có thể triển khai các mô hình của chương trình

khảo sát. Điều đó có nghĩa là các mô hình của chúng ta không phải “treo” trên

mảnh đất trắng mà là từ các nhân tố tích cực của thực tiễn cũng như những

điểm còn hạn chế mà tổng kết, xây dựng mô hình thí điểm.

Đã có một số doanh nghiệp tổ chức được các hoạt động văn hoá tinh

thần phục vụ công nhân KCN, có thể dựa trên mô hình của họ, nghiên cứu,

đúc kết các điểm mạnh, yếu để cùng có thể cùng họ bàn bạc cùng nhau xây

dựng một mô hình thí điểm chung. Đó là các công ty Vedan, công ty

Changshin; công ty Taiwan Vina....

Sự quan tâm của cấp uỷ Đảng, chính quyền, của giới chủ; có hạt nhân để

tổ chức phong trào là tổ chức công đoàn hay các cá nhân cụ thể là hai yếu tố

cực kỳ quan trọng để có thể tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ cho

công nhân.

140

Có sự ủng hộ tích cực của chính quyền cấp cơ sở, của người dân trên địa

bàn. Với sự ủng họ này, các doanh nghiệp đã có một cơ sở để nối công nhân

của doanh nghiệp với cộng đồng dân cư, có địa bàn để triển khai các hoạt

động văn hóa và phúc lợi xã hội ngoài doanh nghiệp, tăng nguồn lực đầu tư,

khả năng tổ chức sự kiện và hoạt động.

Tìm sự đồng thuận của các chủ doanh nghiệp vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ.

Tình hình này rất khác với các địa bàn dân cư tại chỗ, khi mà các tổ chức văn

hóa truyền thống vẫn được duy trì, bởi chúng ta chưa có một khung pháp lý

nào cụ thể quy định trách nhiệm của họ trong việc tổ chức đời sống văn hoá

tinh thần cho công nhân cũng như việc chưa có một quan niệm coi việc đầu tư

này là đầu tư lâu dài, cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Tuy

nhiên, gần đây, khi giới chủ nhận thấy nếu không chăm lo các vấn đề an sinh

xã hội, trong đó có các vấn đề văn hóa tinh thần, thì sẽ không thu hút được

công nhân gắn bó lâu dài với doanh nghiệp. Trong quá trình chuyển đổi về

nhận thức và tư duy này, họ thấy cần phải gắn doanh nghiệp với các cộng

đồng nông thôn hơn nữa.

Cách thức triển khai hoạt động văn hoá từ dưới lên, tăng sự tham gia là

những phương thức hoạt động mới mẻ, đòi hỏi một sự phối hợp tổ chức đồng

bộ, có sự quyết tâm cao từ nhiều phía. Đó là một thách thức khi chúng ta còn

thiếu kinh nghiệm trong vấn đề này. Thêm nữa, việc huy động nguồn lực tại

chỗ cũng là một câu hỏi chưa có sự trả lời rõ ràng do những lý do hạn chế về

nguồn ngân sách của cấp cơ sở cũng như các rào cản do quan niệm vẫn còn

hạn chế của các chủ doanh nghiệp.

Điểm yếu chung của các mô hình tổ chức thực tiễn này là thiếu thường

xuyên, chưa huy động được công nhân tham gia một cách tích cực vào các

hoạt động văn hoá văn nghệ, thiếu các điều kiện tổ chức như thời gian tổ

chức, kinh phí, nhân lực, cơ sở hạ tầng. Thiếu một mạng lưới liên kết giữa các

141

doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với các địa phương, giữa các địa phương

với nhau trong việc tổ chức các hoạt động. Thiếu các hỗ trợ từ trên xuống,

nghĩa là các can thiệp từ ngành văn hóa thông tin xuống các địa phương, các

doanh nghiệp, do đó vừa thiếu sự chỉ đạo nghiệp vụ cụ thể, vừa thiếu các hoạt

động từ trên xuống phục vụ cơ sở để cho nó đủ mạnh, có các hoạt động

thường xuyên hơn.

3.4. Các biện pháp tăng cường phát triển văn hóa tại các cộng đồng

dân cư có KCN ở bình diện tỉnh Đồng Nai

3.3.1. Tham mưu xây dựng cơ chế chính sách, kết hợp nguồn lực

nhà nước với nguồn lực xã hội hoá, xây dựng các thiết chế văn hóa

Dựa trên quy hoạch của ngành và yêu cầu thực tế, tham mưu cho

UBND tỉnh đầu tư kết hợp phương thức vận động xã hội đóng góp trùng tu

tôn tạo nhiều di tích lịch sử, nhiều công trình văn hoá có ý nghĩa giáo dục

truyền thống, giáo dục lịch sử và văn hoá, tổ chức các hoạt động lễ hội nhằm

giáo dục lòng yêu nước, yêu quê hương, phát huy giá trị các di sản này. Trong

các xã có KCN, khi xây dựng các KCN, cần bảo tồn và không lấy các khu đất

có dân cư sinh sống lâu đời, có những thiết chế văn hóa truyền thống.

Trong quy hoạch KCN và quy hoạch văn hóa nông thôn, cần

gắn với quy hoạch phát triển các thiết chế văn hoá để đảm bảo phát triển hài

hoà kinh tế và văn hoá; sản xuất và an sinh dân cư. Có thể đầu tư xây dựng

Trung tâm văn hoá thể thao liên phường, liên xã để nâng cao chất lượng hoạt

động. Trong hoạt động của các Trung tâm văn hóa ở cơ sở nên thử nghiệm

mô hình tổ chức đám cưới cho cư dân tại chỗ vì thiết chế văn hóa này có đủ

điều kiện để phối hợp tổ chức. Đặc biệt cần đầu tư xây dựng một số nhà sinh

hoạt cộng đồng để tổ chức các cuộc họp, các đám cưới, các sinh hoạt văn

nghệ tại nơi cư dân tập trung. Hiện nay toàn tỉnh có 1007 trụ sở làm việc của

ấp, khu phố trong khi nhân dân vẫn thiếu nơi sinh hoạt, sáng tạo văn hóa.

142

Trong khuôn khổ hẹp một ấp, khu phố; đề nghị gắn kết, đầu tư cho các trụ sở

này với các hoạt động văn hoá khác trở thành nhà văn hoá ấp, khu phố để có

thể tận dụng các thiết chế có sẵn, tạo thuận lợi cho nhân dân đến sinh hoạt,

đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trên địa

bàn dân cư và hưởng thụ, sáng tạo các giá trị văn hóa.

Để tạo điều kiện nâng cao tính chủ động, hiệu quả hoạt động văn

hoá đưa văn hoá thể dục thể thao về cơ sở, nâng cao nhận thức chính trị,

văn hoá cho công nhân, nhất là công nhân các KCN tập trung. Vừa qua

tỉnh đã tổ chức thành công mô hình Ngày hội văn hóa công nhân, Ngày

hội công nhân ăn tết xa quê, Liên hoan Tiếng hát xã viên Hợp tác xã và

kinh tế tập thể.

Hình thành “Quỹ phát triển đời sống văn hoá công nhân” bằng

hình thức xã hội hoá thì có nhiều điều kiện hơn để duy trì, phát triển

hình thức hoạt động văn hóa thể thao cho công nhân, người lao động các

khu vực tập trung (bởi ngân sách nhà nước còn hạn chế), đồng thời cũng

là nâng cao trách nhiệm của các nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp sử dụng

lao động với đời sống văn hoá công nhân.

Kết nối hoạt động nhịp nhàng cùng với Trung tâm văn hoá 11 huyện,

thị xã, thành phố, Trung tâm Văn hóa tỉnh, Nhà Thiếu nhi tỉnh thành một hệ

thống chặt chẽ. Bằng các phương tiện cổ động trực quan, bằng các chương

trình hội, hội diễn (thông tin lưu động, với chủ đề bám sát chủ trương đường

lối của Đảng, Nhà nước, phòng chống tệ nạn xã hội, an toàn giao thông…).

Các trung tâm văn hoá, nhà văn hoá xã, văn hoá dân tộc vừa là nơi sinh hoạt

văn hoá, thể thao của nhân dân khu vực, nơi giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc,

truyền nghề và đào tạo năng khiếu cho lớp trẻ.

Nâng mức đầu tư cho hoạt động của các thiết chế hiện nay được Nhà

nước đầu tư xây dựng. Đồng thời chú trọng đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ

143

quản lý, tổ chức hoạt động văn hóa thể thao và có cơ chế chính sách cho cán

bộ văn hóa ở cơ sở để ổn định và phát triển được mạng lưới thiết chế này ở cơ

sở. Tuy nhiên trước yêu cầu phát triển phong phú và rất nhanh của tốc độ

ĐTH vẫn còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu như việc tăng cường đầu tư trang

thiết bị, nguồn nhân lực quản lý điều hành, xã hội hóa kinh phí hoạt động…1

Đảm bảo diện tích đất sử dụng theo đúng quy hoạch phát triển hệ thống

thiết chế văn hóa cơ sở; từng bước xây dựng các thiết chế: Đài Truyền thanh,

Thư viện, phòng Thông tin, các Câu lạc bộ, Trung tâm Học tập cộng đồng,

Nhà tập luyện và thi đấu thể thao, sân tập ngoài trời thuộc Trung tâm Văn

hóa, thể thao xã; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khai thác, quản lý

và phát huy hiệu quả Trung tâm Văn hóa, thể thao xã.

Xây dựng nhà văn hóa, khu thể thao cấp ấp: Phát triển nhà văn hóa, khu

thể thao ở cấp ấp gắn với phong trào xây dựng ấp văn hóa; Xây dựng hạt nhân

văn hóa, thể thao làm nòng cốt để duy trì thường xuyên các hoạt động của nhà

văn hóa, khu thể thao cấp ấp.

3.3.2. Đẩy mạnh phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống

văn hoá và xây dựng gia đình hạnh phúc, phòng chống bạo lực gia đình

Toàn tỉnh đã có 86 % ấp, khu phố được công nhận đủ chuẩn ấp, khu phố

văn hoá, trên 94% hộ gia đình đủ chuẩn hộ gia đình văn hoá (số liệu 2009).

Ngành đã triển khai Luật phòng chống bạo lực gia đình, các mục tiêu về gia

đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và cùng phát triển bền vững đến

từng xã, phường thuộc 11 huyện, thị xã Long Khánh, thành phố Biên Hoà; đã

1 Tỉnh cấp kinh phí xây dựng 600 triệu đồng cho mỗi Trung tâm Văn hóa xây dựng mới; (còn lại do cấp huyện và cơ sở vận động); và kinh phí hoạt động vẫn do ngân sách cấp hàng năm (bình quân mỗi Trung tâm Văn hóa được cấp kinh phí hoạt động 30 triệu đồng/năm; riêng huyện Trảng Bom cấp cho mỗi Trung tâm Văn hóa cơ sở từ 80 đến 90 triệu đồng/năm; ngoài ra thực hiện thu chi theo Nghị định 43/NĐ - CP). Biên chế mỗi Trung tâm Văn hóa cơ sở được 1 kiêm nhiệm và từ 1 - 5 hợp đồng.

xây dựng được 230 Câu lạc bộ gia đình hạnh phúc, với gần 6.000 hội viên. Để

144

củng cố hoạt động này, UBND tỉnh giao nhiệm vụ Thường trực Ban chỉ đạo

phong trào toàn dân đoàn kết dựng đời sống văn hóa, ngành văn hóa phối hợp

chặt chẽ cùng Mặt trận Tổ quốc tỉnh và các ngành, đoàn thể liên quan triển

khai phong trào sâu rộng và có chất lượng tới tận xã ấp, khu phố, từng gia

đình.

Tiến hành đánh giá thường xuyên trên cơ sở xây dựng các tiêu chí đánh

giá cho phong trào này, trong đó chú trọng vào các cộng đồng dân cư có

KCN, trong đó chú trọng vào các khía cạnh: (1) Gắn hoạt động văn hóa nghệ

thuật với các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội khác; (2) Phát huy vai trò

của chủ thể văn hóa, với các nhóm xã hội trong cộng đồng, trong đó vai trò

chủ chốt là người cao tuổi, các trí thức trong cộng đồng; (3) Tạo lập các hoạt

động văn hóa giữa các nhà máy thuộc KCN với cộng đồng bản địa; (4) Gắn

bó chặt chẽ giữa hai khối dân cư, bảo đảm cho dân nhập cư hòa nhập được

vào đời sống văn hóa cộng đồng tại chỗ.

Nâng cao nhận thức của người dân về văn hóa gia đình, tiêu chuẩn công

nhận danh hiệu gia đình văn hóa, ý thức tự nguyện, tự giác của các gia đình

trong việc xây dựng, giữ vững và phát huy danh hiệu "Gia đình đạt chuẩn văn

hóa”; phổ biến nhân rộng mô hình gia đình văn hóa ở nông thôn làm giàu từ

sản xuất nông nghiệp hàng hóa và dịch vụ nông thôn.

Xây dựng gia đình văn hóa điển hình, mẫu mực ở nông thôn: Hòa thuận,

bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, kỷ cương, nề nếp, có đời sống kinh tế ổn định

và phát triển, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình

Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội

phát triển, có tinh thần tương thân, tương ái, tính tự quản, dân chủ và năng lực

làm chủ trong sinh hoạt cộng đồng.

Nâng cao chất lượng ấp đạt chuẩn văn hóa, trong đó, nâng cao nhận thức

của người dân về ý nghĩa văn hóa ấp, tiêu chuẩn công nhận ấp văn hóa, ý thức

145

và vai trò tự quản của các cộng đồng dân cư trong việc xây dựng, giữ vững và

phát huy danh hiệu "Ấp đạt chuẩn văn hóa”; phổ biến nhân rộng mô hình ấp

văn hóa chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển ngành nghề phụ; huy động được

nội lực của người dân nông thôn xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng kinh tế - xã

hội nông thôn mới;

Xây dựng ấp văn hóa bền vững, thực sự là những điểm sáng về văn hóa

ở nông thôn: Thực hiện tốt nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ

hội; bài trừ tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan; nâng cao mức hưởng thụ về văn hóa,

thu hút người dân nông thôn tham gia vào các hoạt động văn hóa, thể thao

trên địa bàn; xây dựng cộng đồng nông thôn ổn định về chính trị, dân chủ, hòa

thuận, nhân ái giàu bản sắc dân tộc, có môi trường xanh - sạch - đẹp - an toàn.

Thực hiện tiêu chí phát triển văn hóa nông thôn mới cấp xã: (1) Nhà văn

hóa và Trung tâm Văn hóa thể thao xã đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn

hóa, Thể thao và Du lịch; (2) Có từ 90% số ấp trở lên đạt tiêu chuẩn ấp văn

hóa theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; (3) 50% ấp có nhà

văn hóa và khu thể thao đạt quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;

Xã đạt danh hiệu lành mạnh không có tệ nạn xã hội; (4) Môi trường đạt chuẩn

theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường; (5) Thực hiện tốt quy chế

dân chủ ở cơ sở, giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ tốt di tích

lịch sử, văn hóa, cảnh quan thiên nhiên và các di sản văn hóa dân tộc.

3.3.3. Phát triển mạnh phong trào văn hoá văn nghệ quần chúng, thể

dục thể thao quần chúng trong các cộng đồng dân cư KCN

Tuỳ theo từng đối tượng, đặc điểm lao động, tâm sinh lý, ngành tổ

chức các hội thi, hội diễn quần chúng phù hợp, vừa góp phần nâng cao đời

sống văn hoá tinh thần cho các tầng lớp giai cấp, vừa tạo điều kiện cho quần

chúng sáng tạo trong văn học nghệ thuật. Các hội thi Hoa phượng đỏ, Tiếng

hát sinh viên học sinh, Tiếng hát quê hương, Tiếng hát xã viên và người lao

146

động trong khu vực tập thể, Tiếng hát công nhân, làng ca hát làng vui chơi,

Làng kháng chiến thi tài; liên hoan văn hoá văn nghệ, thể thao công nhân,

công nhân ăn tết xa quê, hội thi hội thao cấp ngành, cấp tỉnh…góp phần tạo

không khí vui tươi trong lao động học tập, sản xuất.

Phát động và duy trì phong trào toàn dân rèn luyện thân thể theo gương

Bác Hồ vĩ đại tiếp tục phát triển, số người tập thể dục đạt 29%. Tổ chức thành

công đại hội thể dục thể thao cấp cơ sở và cấp tỉnh; nhiều lần đạt huy chương

vàng bóng đá U17, U19, U21 toàn quốc; đạt nhiều huy chương vàng các môn

thể thao cấp quốc tế, quốc gia, khu vực.

Tăng cường các hoạt động sáng tác và phổ biến các tác phẩm văn hóa -

nghệ thuật, các chương trình tuyên truyền về đề tài nông nghiệp, nông dân,

nông thôn; tăng cường hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa Nhà nước,

đưa các chương trình hoạt động văn hóa, nghệ thuật phục vụ đồng bào vùng

sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đào tạo, tập huấn về nghiệp vụ

cho cán bộ văn hóa - xã hội cấp xã và hạt nhân văn hóa cơ sở cấp ấp; tạo điều

kiện để người dân ở nông thôn tham gia sáng tạo, bảo tồn và truyền dạy các

loại hình văn nghệ dân gian truyền thống.

3.3.4. Phối hợp với Hội VHNT tỉnh tổ chức các cuộc liên hoan văn

nghệ, triển lãm, thi sáng tác văn học, mỹ thuật

Các cuộc thi nhiếp ảnh Nhịp sống Đồng Nai, cảnh đẹp Đồng Nai, mỹ

thuật Đồng Nai, sáng tác văn học (giải Trịnh Hoài Đức), nhiếp ảnh khu vực,

triển lãm mỹ thuật (hội hoạ, điêu khắc mỹ thuật…) miền Đông, tạo điều kiện

cho các tác giả trong tỉnh và trong khu vực miền Đông Nam Bộ có điều kiện

giao lưu học thuật, đưa các tác phẩm nghệ thuật đến với công chúng trong và

ngoài tỉnh.

Xây dựng những chương trình nghệ thuật có chất lượng đáp ứng yêu cầu

thưởng thức nghệ thuật của công chúng, phục vụ nhiệm vụ chính trị. Hai đoàn

147

nghệ thuật của tỉnh do ngành quản lý không ngừng đổi mới trong hoạt động,

tăng cường đội ngũ diễn viên, nghệ sĩ, ca sĩ dàn dựng nhiều chương trình

nghệ thuật có chất lượng tham gia các lễ hội, phục vụ các ngày lễ lớn kỷ niệm

của dân tộc và cách mạng. Giao chỉ tiêu cao hơn cho hai đoàn hàng năm phục

vụ vùng sâu vùng xa, vùng có KCN trên 200 buổi diễn phục vụ nhân dân.

Tiểu kết

Các định hướng và giải pháp phát triển văn hóa cho các cộng đồng dân

cư KCN được phát triển trên các nền tảng lý luận và thực tiễn của gần 20 năm

phát triển các KCN, đó là đường lối CNH, HĐH đất nước, của các định

hướng phát triển nông nghiệp - nông dân - nông thôn, của đường lối phát triển

văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc chung trong cả nước và

tỉnh Đồng Nai. Các cơ sở thực tiễn của các định hướng này là thành tựu và

những hạn chế của quá trình phát triển KCN trong cả nước, các tỉnh Đông

Nam Bộ và riêng tỉnh Đồng Nai trong gần 20 năm qua.

Các định hướng phát triển văn hóa dân cư KCN của tỉnh Đồng Nai nói

riêng, cả nước nói chung hướng vào việc hài hòa giữa phát triển kinh tế và

phát triển văn hóa, coi sự phát triển đời sống văn hóa tinh thần của cư dân các

cộng đồng KCN vừa là mục tiêu vừa là động lực. Sự phát triển này tạo ra một

chất lượng sống tốt hơn, gắn các KCN với các cộng đồng nông thôn địa

phương, vừa giúp các cộng đồng địa phương và KCN cùng nhau phát triển.

Các hệ thống chính sách ở tầm vĩ mô, vượt ra khỏi khuôn khổ của một

tỉnh sẽ là cơ sở và nền tảng cho sự phát triển văn hóa của các cộng đồng nông

thôn bị lấy đất xây dựng KCN. Ở bình diện một tỉnh, cũng cần xây dựng một

hệ thống các giải pháp mang tính hành động và kế hoạch hóa. Hai hệ thống

chính sách này bảo đảm tính hệ thống và hỗ trợ cho nhau

Các giải pháp phát triển đời sống văn hóa các cộng đồng nông thôn KCN

bao gồm các giải pháp về cơ chế chính sách, nâng cao năng lực quản lý và tự

148

quản của người dân, xây dựng thiết chế văn hóa, tổ chức các hoạt động văn

hóa văn nghệ tại chỗ, đưa văn hóa về KCN và cộng đồng địa phương tại chỗ.

Đây là các giải pháp đồng bộ và mang tính lên kết với nhau, tạo động lực

chung cho phát triển văn hóa các cộng đồng địa phương KCN.

Các mô hình tổ chức hoạt động trong chương này là một cách hiện thực

hóa các mục tiêu, nguyên tắc và phương châm tổ chức đời sống văn hóa cho

các cộng đồng dân cư có KCN, bao gồm hai mô hình tổ chức hoạt động tại

doanh nghiệp và tại cộng đồng dân cư, hai mô hình này được thiết kế trên tư

tưởng là các hoạt động được tổ chức trên tinh thần doanh nghiệp và cộng đồng

dân cư là một thể thống nhất, văn hóa doanh nghiệp và văn hóa nông nghiệp -

nông thôn là hai thực thể của một chỉnh thể thống nhất hữu cơ, trong văn hóa

các cộng đồng nông thôn có KCN là có văn hóa của các doanh nghiệp. Hai mô

hình này bao gồm nhiều nội dung hoạt động, bao trùm nhiều khía cạnh của đời

sống văn hóa, do đó, cần phải có việc nâng cao năng lực tổ chức và tạo các

điều kiện về cơ chế chính sách cho nó triển khai trong thực tiễn.

149

KẾT LUẬN

1. Quá trình CNH, HĐH đất nước đã hình thành ở nước ta những KCN,

trong đó tập trung vào trọng điểm kinh tế phía Nam với các tỉnh Đông Nam

Bộ vốn đã có những tiềm lực công nghiệp như Bình Dương, Tp. HCM, Đồng

Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu,.. từ các mô hình này, các KCN đã được mở rộng ra

các khu vực Trung và Bắc Bộ.

Các KCN này tạo nên một sức phát triển mới về sức sản xuất, góp phần

đưa nước ta tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế theo hướng

chuyên môn hoá và tập trung hoá. Phương thức này cho phép khai thác tốt

nhất tài nguyên, nguồn lực lao động, sử dụng vốn, khoa học công nghệ, trình

độ tổ chức quản lý,... của các nước tiên tiến vào quá trình sản xuất kinh doanh

và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Ở bình diện các tỉnh, việc quy

hoạch và phát triển các KCN trên các địa phương đang được xem như yếu tố

cơ bản nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại

hóa trên địa bàn,..

Về mặt xã hội và văn hoá, việc hình thành các KCN đã tạo nên những

luồng di cư mới từ nông thôn ra đô thị, từ các tỉnh có nền kinh tế chậm phát

triển đến các vùng nông thôn của các tỉnh có nền kinh tế phát triển hơn, hình

thành ở các địa phương có KCN những vấn đề văn hóa xã hội mới: tốc độ đô

thị hoá tăng vọt, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội được tăng cường hơn nhiều

so với trước, mức sống dân cư được cải thiện đáng kể. Bên cạnh đó, quá trình

này cũng tạo ra những phức tạp trong quản lý xã hội, một số tệ nạn xã hội

phát triển, đời sống văn hoá tinh thần của các cư dân vốn cư trú trong các

cộng đồng làng xã bị các luồng dân di cư làm xáo trộn... Đó là một thực tiễn

phát triển đa diện và phức tạp hơn nhiều so với những làng quê nông nghiệp

thuần túy.

150

2. Cùng với các chuyển đổi kinh tế xã hội là những biến đổi văn hoá của

các cộng đồng nông thôn có KCN. Đó là sự thay đổi trong lối sống, từ nếp ăn,

ở, mặc cho đến các sinh hoạt văn hoá như phong tục tập quán trong tang ma,

cưới xin, giỗ chạp, hệ thống niềm tin và tôn giáo… Một quá trình chuyển đổi

cơ cấu văn hóa tinh thần đang diễn ra do những biến đổi kinh tế xã hội, với sự

xuất hiện của các KCN.

Sự thay đổi trong đời sống văn hóa tinh thần của các cộng đồng dân cư

có KCN đang diễn ra được luận án chỉ ra rằng: phụ thuộc vào mức độ, quy

mô CNH và HĐH của từng cộng đồng. Với 3 cộng đồng được khảo sát, Hiệp

Phước là cộng đồng có mức biến đổi nhanh nhất, mạnh mẽ nhất, kế đến là

Thạnh Phú và cuối cùng là Long Thọ. Tuy nhiên, cả 3 mẫu nghiên cứu này

đều thể hiện một điểm chung là các nghi lễ và phong tục truyền thống vẫn

được bảo lưu và gìn giữ như những giá trị cốt lõi của các cộng đồng nông

thôn. Sự thay đổi thấy rõ nhất ở khía cạnh tiêu dùng văn hóa, ở bình diện cá

nhân và một phần nào đó ở bình diện gia đình. Nền tảng của sự biến đổi là các

cộng đồng nông thôn này chưa biến trở thành một loại cộng đồng đô thị (làng

lên phố) mà chỉ là cộng đồng bị CNH, ĐTH mạnh, chưa có những thay đổi

mang tính đột biến để trở thành các cộng đồng đô thị.

Quá trình biến đổi này cũng có những hệ, đó là sự xuất hiện những lệch

chuẩn của một bộ phận dân cư. Nhiều xáo trộn gây nên những lo lắng cho

những giới quản lý. Đó là sự mất đất và tình trạng không nghề nghiệp của một

bộ phận nông dân; một số tệ nạn xã hội, tâm lý sính tiêu dùng văn hóa vượt

quá khả năng chi trả.

3. Về mặt quản lý nhà nước, quản lý các cộng đồng nông thôn nông dân

trong tiến trình ĐTH, CNH tại chỗ như luận án đã nghiên cứu đòi hỏi phải đặt

trên nền tảng hai chiến lược: (1) Chiến lược phát triển văn hoá đô thị như một

ưu tiên phát triển chính sách của Đảng và Nhà nước về mặt văn hoá đáp ứng

151

quá trình đô thị hoá, hiện đại hoá đã và sẽ được đẩy mạnh ở nước ta cũng như

tỷ trọng khu vực đô thị và KCN sẽ gia tăng mạnh hơn trong thời gian tới,

nhằm khắc phục tình trạng hiện tại là chiến lược phát triển văn hoá luôn đi

sau chiến lược kinh tế và xã hội, kèm theo đó xác lập các mô hình văn hoá đô

thị và mô hình quản lý văn hoá đô thị; (2) Chiến lược phát triển văn hóa nông

thôn để đáp ứng nhu cầu bảo tồn, lưu giữ các giá trị văn hóa, đón trước và dự

báo được những xu hướng phát triển của nó để làm tốt chức năng quản lý nhà

nước về văn hóa.

Ở bình diện tỉnh Đồng Nai, sự chủ động đi trước một bước bằng các

nghiên cứu thực tiễn và xây dựng mô hình văn hóa dựa vào khu dân cư, vào

doanh nghiệp vẫn đang là một quá trình tìm tòi, vận dụng, tháo gỡ từng bước

những khó khăn. Cơ sở của việc nâng cao hơn nữa chất lượng đời sống vật

chất và tinh thần cho cộng đồng dân cư KCN là quyết tâm chính trị của Đảng

bộ, chính quyền và các đoàn thể của tỉnh, là các đầu tư và tổ chức nhiều

chương trình, đề án phát triển cho các cộng đồng này. Tuy nhiên, quá trình

này không phải không có những thách thức; và có những vấn đề chế độ chính

sách thuộc thẩm quyền của Chính phủ và các Bộ ngành trung ương. Song sự

quyết tâm chính trị đi kèm với những dự án phát triển cụ thể sẽ là cơ sở để ra

đời các mô hình văn hóa cho cộng đồng dân cư KCN, bao gồm cả dân cư tại

chỗ và dân nhập cư, để họ có cơ hội, điều kiện sinh sống ổn định và thực hiện

quyền văn hóa của mình.

Ở tầm mức của sự sáng tạo văn hoá, của sự thay đổi hệ giá trị, chuẩn

mực văn hóa, trong phạm vi của luận án, luận án chưa đủ cơ sở dữ liệu để

chứng minh và phân tích, do những hạn chế về nguồn tư liệu và khả năng của

nghiên cứu sinh. Song đó là những chủ đề cần được tiếp tục nghiên cứu tiếp

theo của công tác mà tác giả luận án sẽ phải tiếp tục nghiên cứu.

152

4. Các khuyến nghị dưới đây là các vấn đề cần ưu tiên đặc biệt trong thời

gian tới, đó là:

- Các ngành hữu quan ở TƯ cần gấp rút nghiên cứu đệ trình Chính phủ

về việc sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Khuyến khích đầu tư trong

nước, trong đó phải quy định rõ trách nhiệm của chủ doanh nghiệp trong việc

chăm lo đời sống văn hoá tinh thần cho công nhân, làm cơ sở pháp lý cho các

doanh nghiệp thực hiện.

- Vấn đề về xây dựng đời sống văn hóa cho các cộng đồng dân cư nông

thôn có KCN phải trở thành một nội dung của Chiến lược phát triển văn hóa

nông thôn trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Chiến lược này cần

phải được gấp rút xây dựng trong thời gian tới để gắn kết nông thôn với tiến

trình CNH, HĐH, tận dụng được các lợi thế của tiến trình này, khắc phục

được những bất cập trong thời gian qua khi xây dựng các KCN.

- Phát triển hệ thống luật trong lĩnh vực văn hoá nhằm khắc phục tình

trạng nhiều hoạt động văn hoá được triển khai trong đời sống văn hoá KCN

nhưng không có khung pháp lý, đặc biệt là các hoạt động kinh doanh văn hoá

- nghệ thuật do các thành phần kinh tế phi nhà nước tham gia; các luật thuế

trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật cũng sớm được phát triển nhằm đáp ứng

nhu cầu của các tổ chức, cá nhân tham gia vào tổ chức các hoạt động văn hoá

- nghệ thuật;

- Cần có một Chiến lược phát triển văn hoá KCN như một ưu tiên phát

triển chính sách của Đảng và Nhà nước về mặt văn hoá đáp ứng quá trình đô

thị hoá, hiện đại hoá đã và sẽ được đẩy mạnh ở nước ta cũng như tỷ trọng khu

vực đô thị và KCN sẽ gia tăng mạnh hơn trong thời gian tới, nhằm khắc phục

tình trạng hiện tại là chiến lược phát triển văn hoá luôn đi sau chiến lược kinh

tế và xã hội;

153

- Cần nghiên cứu, phát triển các mô hình tổ chức đời sống văn hoá tinh

thần cho công nhân KCN, cho các cộng đồng dân cư có KCN trên cơ sở

nghiên cứu kỹ các yếu tố tác động và điều kiện phát triển. Các mô hình này

phải bảo đảm được các cân bằng sinh thái, xã hội và con người, cho nhiều loại

hình đô thị có chức năng và quy mô phát triển khác nhau;

- Đưa vấn đề xây dựng đời sống văn hoá công nhân của KCN thành một

vấn đề cần phải giải quyết trong quá trình phát triển KCN, phải coi đầu tư cho

văn hoá là đầu tư cho nguồn lực con người, thay vì một chiến lược chạy theo,

giải quyết các vấn đề tình thế như hiện nay;

- Nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình, hướng tới các

chương trình có tính trí tuệ, có sức thu hút khán thính giả thay vì chỉ đầu tư

vào các chương trình giải trí có thị hiếu thấp. Phát triển và quản lý các

phương tiện truyền thông mới, đẩy mạnh hoạt động truyền bá sách báo và

phát triển văn hoá đọc cho các tầng lớp dân cư đang ĐTH, CNH.

- Đầu tư phát triển hệ thống thiết chế văn hoá công cộng, chú ý các mô

hình thiết chế đa năng, quy mô vừa và nhỏ bên cạnh đầu tư các mô hình

chuyên hoá về chức năng, lớn về quy mô. Vấn đề quỹ đất cho phát triển các

thiết chế văn hoá công cộng, đầu tư xây dựng nó và vấn đề nâng cao năng lực

- Cần phát triển một chương trình nghiên cứu chuyên sâu về văn hoá - xã

quản lý các thiết chế văn hoá là hai vấn đề cần phải tiến hành song song.

hội khu vực KCN, bởi trong khu vực này đã và đang diễn ra các quá trình

phát triển hết sức phức tạp về mặt văn hoá - xã hội, với nhiều động thái rất

khác so với trước đó. Ở đây không những thể hiện những vấn đề của xã hội

đô thị mà còn thể hiện rõ nét quan hệ nông thôn - đô thị, giữa xã hội đô thị với

cả nước và quốc tế.

154

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Sách:

1. (2005), “Nhạc lễ Nam Bộ - nghi thức và nhạc lễ trong cúng đình, tang

ma của người Việt ở Đồng Nai” viết chương I; IV, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.

Tạp chí:

2. (2007), “Phát triển khu công nghiệp gắn với xây dựng các thiết chế

văn hóa”, chuyên đề cơ sở Tạp chí cộng sản, số 8, tr. 25 - 28

3. (2007), “Tình hình đời sống công nhân ở các khu công nghiệp tỉnh

Đồng Nai”, trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quy hoach kiến trúc các đô thị

vùng phát triển công nghiệp, Hội kiến trúc sư Việt Nam. Đồng Nai, tr. 97-

105.

4. (2011), “Ngôi nhà truyền thống trên đất Đồng Nai”, Tạp chí Văn hóa

Nghệ thuật, số 328, tr. 21 - 26.

5. (2012), “Các biến đổi trong đời sống văn hóa của cộng đồng dân cư khu

công nghiệp”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 342, tr. 23 – 26.

155

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1.

Phan Sĩ Anh (2011), “Mục tiêu và những định hướng chủ yếu để thực hiện

công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Đồng Nai”, tham luận tại Hội thảo

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng

Nai.

2.

Ban chấp hành Trung ương Đảng (2010), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp

hành Trung ương (khoá X) tại Đại hội XI, Hà Nội.

3.

Bảo tàng Đồng Nai (1997), Tài liệu điền dã, khảo sát của Phòng Di sản văn

hóa.

4.

Mai Sông Bé (2009), Đồng Nai từ mở cõi đến mở cửa, Nxb Đồng Nai, Đồng

Nai.

5.

Nguyễn Chí Bền (1999), Văn hoá dân gian Việt Nam, những suy nghĩ, Nxb

Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.

6.

Nguyễn Chí Bền (2004), “Bảo tàng với việc bảo tồn và phát huy các di sản

văn hoá phi vật thể”, Tạp chí Di sản văn hoá, số 7, tr. 24 - 26.

7.

Nguyễn Chí Bền (2006), Văn hoá Việt Nam, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn,

Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

8.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng cục Thống kê (2009), Tổng quan kinh tế - xã

hội Việt Nam (2006 - 2010), Hà Nội.

9.

Bộ Xây dựng (1992), Cẩm nang đô thị hóa toàn quốc, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

10.

Bộ Xây dựng (1999), Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt

Nam đến năm 2020, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

11.

Brian Van Arkadie, Raymond Mallon (2004), Việt Nam - Con hổ đang

chuyển mình, Sách điện tử xuất bản trên trang Ebook của TT Thư viện, Nxb

Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

12.

Nguyễn Thị Cành (2009), “Kinh tế Việt Nam qua các chỉ số phát triển và

những tác động của quá trình hội nhập”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 219,

156

tr. 21 – 30.

13.

Nguyễn Phương Châm (2011), Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay

(trường hợp làng Đồng Kỵ, Trang Liệt và Đình Bảng thuộc huyện Từ Sơn,

tỉnh Bắc Ninh), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

14.

Nguyễn Từ Chi (1989), “Nhận xét bước đầu về gia đình người Việt”, Tạp

chí Xã hội học, số 2, tr. 16 - 24.

15.

Nguyễn Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc người,

NxbVăn hoá Dân tộc, Hà Nội.

16.

Nguyễn Văn Chính (2002), “Di dân nội địa ở Việt Nam - các chiến lược sinh

tồn và những khuôn mẫu đang thay đổi”, trong Phát triển đô thị bền vững,

Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

17.

Nguyễn Văn Chính (2008), Di dân, đô thị hoá và đói nghèo đô thị: Nghiên

cứu trường hợp một xóm liều ở Hà Nội, Hội thảo quốc tế về di dân, Tp Hồ

Chí Minh.

18.

Cục Bảo tồn Bảo tàng, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (1998), Bảo tàng với

sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (kỷ yếu Hội thảo khoa

học tại Quảng Bình, tháng 8 năm 1997), Nxb Hà Nội, Hà Nội.

19.

Phạm Hùng Cường (2005), “Đặc điểm của quá trình đô thị hoá tại Việt Nam

(qua thực tiễn ở vùng ven đô Hà Nội)”, trong Đô thị hoá và vấn đề giảm

nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

20.

Nguyễn Văn Dân (2011), Con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi

mới và hội nhập, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội.

21.

Phan Đại Doãn (2006), Làng Việt Nam đa nguyên và chặt, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

22.

Đinh Xuân Dũng (2000), Xã hội hóa hoạt động văn hóa - Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn, Ban Tư tưởng, Văn hóa Trung ương, Hà Nội.

23.

Nguyễn Hữu Dũng, Patrick Gubry, Phạm Thuý Hương (2004), Dân số và

phát triển ở Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.

157

24.

Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (2010), “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng

bộ tỉnh khoá VIII tại Đại hội đại biểu lần thứ IX, nhiệm kỳ 2010 – 2015” tại

Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ IX.

25.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

26.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

27.

Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8

năm 2008 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông

dân, nông thôn.

28.

Nguyễn Tấn Đắc (1997), “Lược qua tiến trình diễn tiến của đô thị ở Việt

Nam”, trong Môi trường nhân văn và đô thị hoá tại Việt Nam, Đông Nam Á

và Nhật Bản, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Tp HCM.

29.

Nguyễn Khoa Điềm (Chủ biên) (2001), Xây dựng và phát triển nền văn hóa

Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

30.

Mạc Đường (2002), Dân tộc học - đô thị và vấn đề đô thị hoá, Nxb Trẻ, Tp

HCM.

31.

Huỳnh Thị Gấm (2011), “Về phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Đồng Nai”,

tham luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những

vấn đề đặt ra, Đồng Nai.

32.

Phan Tuấn Giang (2011), Định hướng chính để phát triển KCN, Trang tin điện

tử Tạp chí KCN Việt Nam của Bộ Kế hoạch và Đầu

http://www.khucongnghiep.com.vn/

33.

Lê Thế Giới (2005), Những giải pháp thu hút đầu tư và nâng cao hiệu quả

hoạt động của các khu công nghiệp ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung,

Đề tài NCKH cấp Bộ trọng điểm (B2003-III-21-TĐ).

34.

Gunter. Endrweit, Gisela Trommsdorff (2002), Từ điển xã hội học, (Người

dịch: Ngụy Hữu Tâm, Nguyễn Hoài Bão), Nxb Thế giới, Hà Nội

35.

Phạm Minh Hạc, Phạm Thành Nghị (2007), “Thái độ của người dân đối với

158

nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 1, tr

19 - 25.

36.

Trần Quang Hải (2011), “Vai trò, tầm quan trọng và những giải pháp chủ

yếu để phát huy hiệu quả các khu công nghiệp trong tiến trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước”, tham luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.

37.

Trần Ngọc Hiên, Trần Văn Chử (Đồng chủ biên) (1998), Đô thị hóa và chính

sách phát triển đô thị trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38.

Diệp Đình Hoa (1995), Làng Bến Gỗ xưa và nay, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.

39.

Diệp Đình Hoa (1998), Làng Bến Cá xưa và nay, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.

40.

Lê Thị Cát Hoa (2011), “Đánh thức tiềm năng kinh tế - xã hội để phát triển

công nghiệp, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đồng Nai”, tham

luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những vấn

đề đặt ra, Đồng Nai.

41.

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2005), Lý luận văn hoá và đường

lối văn hoá của Đảng, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

42.

Hồ Chí Minh Toàn tập (1996), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

43.

Tô Duy Hợp (2000), Sự biến đổi của làng xã Việt Nam ngày nay (ở đồng

bằng sông Hồng), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

44.

Tô Duy Hợp (2005), Thực trạng hưởng thụ và tiếp nhận văn hoá của một

khu công nghiệp ở tỉnh Đồng Nai, Chuyên đề nghiên cứu.

45.

Phạm Quang Huấn (1994), “Về phát triển kinh tế nước ta trong những năm

90”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế,

46.

Nguyễn Văn Huyên (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập II,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

47.

Nguyễn Văn Huyên (2003), “Lối sống người Việt Nam dưới tác động của

toàn cầu hoá hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 12, tr 29 - 34.

48.

Trần Đình Hượu (1991), “Về truyền thống gia đình Việt Nam”, trong Những

159

nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

49.

Lương Văn Hy (Bản dịch tóm tắt của Lương Hồng Quang) (1992), Cuộc

cách mạng trong làng: Truyền thống và biến đổi của một xã hội đang

chuyển đổi ở Bắc Việt Nam, từ 1925 đến 1988, University of Hawaiii Press.

50.

Lương Văn Hy, Ngô Văn Lệ (2010), Hiện đại và động thái của truyền thống

ở Việt Nam: những cách tiếp cận nhân học, Nxb. Đại học Quốc gia Tp Hồ

Chí Minh, Tp HCM.

51.

Vũ Ngọc Khánh (2006), “Cần cái nhìn văn hoá làng trong phương hướng

kiến trúc cho đô thị hoá nông thôn”, Tạp chí Kiến trúc Việt Nam, số 4, tr 28 -

31.

52.

Chu Khắc (1993), Vấn đề nhà ở và lối sống đô thị, Nxb Văn hoá Thông tin,

Hà Nội.

53.

Tương Lai (1997), Xã hội học và những vấn đề của sự biến đổi xã hội, Nxb.

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

54.

Vũ Ngọc Lân (2004), Kinh tế tri thức ở Việt Nam quan điểm giải pháp và

phát triển, Nxb Khoa học Kĩ thuật, Hà Nội.

55.

Lê Ngọc Lân, Nguyễn Thanh Tâm (1999), “Tìm hiểu một số đặc điểm trong

quan hệ gia đình hiện nay”, Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, số 1, tr 1 - 6.

56.

Vũ Tự Lập (Chủ biên) (1991), Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Hồng,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

57.

Lê Xuân Lập, Trần Ngọc Tuấn (2001), Doanh nhân doanh nghiệp Đồng Nai,

Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.

58.

Chang Hee Lee (2006), Quan hệ lao động và giải quyết tranh chấp lao động

tại Việt Nam, http://www.ilo.org

59.

Nguyễn Đình Lê (Chủ biên) (2004), Biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam

thế kỷ XX, Đề tài khoa học trọng điểm Đại học Quốc gia Hà Nội Mã số

QGTĐ.01.04.

60.

Phan Huy Lê (Chủ nhiệm tuyển chọn và chỉnh lý) (2002), Các nhà Việt Nam

học nước ngoài viết về Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.

160

61.

Hoàng Văn Lễ (2011), “Nhơn Trạch (Đồng Nai), đột phá công nghiệp hóa

trên địa bàn thuần nông giáp cửa biển”, tham luận tại Hội thảo Công nghiệp

hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.

62.

Ngô Văn Lệ (2010), Văn hoá tộc người, truyền thống và biến đổi, Nxb Đại

học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tp HCM.

63.

Ngô Văn Lệ (2011), Đặc trưng tín ngưỡng tôn giáo và sinh hoạt văn hóa

của các cộng đồng cư dân Nam Bộ, đề tài cấp Nhà nước.

64.

Ngô Văn Lệ, Nguyễn Minh Hoà (Đồng chủ biên), Trương Thị Kim Chuyên

(2003), Giảm nghèo đô thị: Tài liệu giảng dạy Đại học, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

65.

Nguyễn Văn Long (2011), “Vị trí, tầm quan trọng của sự nghiệp công

nghiệp hóa đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở Đồng Nai”, tham

luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những vấn

đề đặt ra, Đồng Nai.

66.

Trịnh Duy Luân (2004), Xã hội học đô thị, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

67.

Trịnh Duy Luân, Helle Rydstrom, Wil Burghoorn (Đồng chủ biên) (2008),

Gia đình nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi, Nxb Khoa học Xã hội, Hà

Nội.

68.

Michel Bassand (chủ biên) (2001), Đô thị hoá - khủng hoảng sinh thái và

phát triển bền vững, Nxb Trẻ, Tp HCM.

69.

Ngô Quang Minh, Phạm Văn Sáng, Nguyễn Hữu Thắng (2005), Xây dựng lộ

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế Đồng Nai đến năm 2020,

Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

70.

Nguyễn Hữu Minh, Nguyễn Xuân Mai (2005), “Đô thị hoá và nghèo khó đô

thị ở Việt Nam: một số đặc điểm cơ bản”, trong Đô thị hoá và vấn đề giảm

nghèo ở thành phố Hồ Chí Minh lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

71.

Nguyễn Hữu Nguyên (2011), “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và

những thách thức từ ô nhiễm môi trường nước”, tham luận tại Hội thảo Công

161

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.

72.

Trương Minh Nhựt (2011), “Vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở các khu

công nghiệp tỉnh Đồng Nai trong tình hình hiện nay”, tham luận tại Hội thảo

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng

Nai.

73.

Nguyễn Hồng Phong (1989), “Đô thị cổ và vấn đề đô thị hoá ở Việt Nam”,

trong Đô thị cổ Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

74.

Trần Minh Phúc, Võ Thanh Lập, Phạm Xuân Nam (2005), Tổng kết quá

trình xây dựng phát triển các khu công nghiệp và thu hút đầu tư trên địa bàn

tỉnh Đồng Nai 1991-2004, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.

75.

Vũ Văn Phúc (2011), “Thấm nhuần Nghị quyết Đại hội XI phấn đấu hoàn

thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Đồng Nai vào năm 2015”, tham

luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những vấn

đề đặt ra, Đồng Nai.

76.

David Popenoe (1991), “Đời sống đô thị và sự biến đổi”, Tạp chí Xã hội học,

số 3, tr 82 - 87.

77.

Đình Quang (Chủ biên) (2005), Đời sống văn hóa đô thị và khu công nghiệp

Việt Nam, NxbVăn hóa Thông tin, Hà Nội.

78.

Lương Hồng Quang (1997), Văn hóa cộng đồng làng vùng đồng bằng sông

Cửu Long thập kỷ 80 – 90 (qua trường hợp Bình Phú - Cai Lậy - Tiền

Giang), Nxb.Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

79.

Lương Hồng Quang (1997-1999), Văn hoá nông thôn trong phát triển, Viện

Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

80.

Lương Hồng Quang (1999), Dân trí và sự hình thành văn hóa cá nhân, Nxb

Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

81.

Lương Hồng Quang và cộng sự (2005/06), Khảo sát đời sống văn hoá tinh

thần công nhân các KCN ở Đồng Nai, Viện Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam,

Hà Nội.

82.

Lương Hồng Quang (2011), Câu chuyện làng Giang (các khuynh hướng, giá

162

trị và khuôn mẫu trong một xã hội đang chuyển đổi, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội, Hà Nội.

83.

Ronald Inglehart, Wayne E. Baker (2000), Hiện đại hoá, biến đổi văn hoá và

sự duy trì những giá trị văn hoá truyền thống, Bùi Lưu Phi Khanh dịch, Đại

học Princeton.

84.

Lê Thanh Sang (2008), Đô thị hoá và cấu trúc đô thị Việt Nam trước và sau

đổi mới 1979 - 1989 và 1989 - 1999, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

85.

Phạm Văn Sáng (2003), Phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông

thôn tỉnh Đồng Nai, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội.

86.

Phạm Văn Sáng (2011), “Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục

vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”,

tham luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những

vấn đề đặt ra, Đồng Nai.

87.

Sở Giao thông Vận tải Đồng Nai (2011),“Một số giải pháp chủ yếu phát

triển hạ tầng giao thông phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở

Đồng Nai”, tham luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng

Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.

88.

Jang Jung Min Sunoo (2007), Một số giải pháp phòng ngừa đình công tại

các doanh nghiệp ở Việt Nam, http://www.ilo/hanoi

89.

Lê Quốc Sử (1998), Một số vấn đề về lịch sử kinh tế Việt Nam, Nxb. Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

90.

Dương Thanh Tân, Nguyễn Văn Long, Phẩm An Ninh (2005), Công tác tư

tưởng chính trị trong giai cấp công nhân Đồng Nai thực trạng và giải pháp,

Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội.

91.

Phương Ngọc Thạch (2011), “Hoạt động các khu công nghiệp Đồng Nai vấn

đề và giải pháp”, tham luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở

Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.

92.

Phạm Văn Thanh (2011), “Vai trò của khu công nghiệp tập trung và một số

đề xuất mang tính giải pháp góp phần phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh

163

Đồng Nai”, tham luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng

Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.

93.

Tô Ngọc Thanh, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Chí Bền (1997), Giữ gìn và

phát huy tài sản văn hoá các dân tộc ở Đông Nam Bộ, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

94.

Hà Huy Thành (2002), Đô thị hoá - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt

Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

95.

Trần Đình Thành, Võ Văn Một, Nguyễn Đức Đạt (2004), Tình hình phân

phối và phân hoá giàu nghèo trên địa bàn Đồng Nai, Nxb. Đồng Nai, Đồng

Nai.

96.

Đinh Thị Phương Thảo (2003), “Tìm hiểu quan hệ dòng họ trong hoạt động

cúng giỗ ở nông thôn (Qua khảo sát việc thực thao lễ giỗ tại làng Đại Kim,

xã Đồng Tiến, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên)”, Tạp chí Xã hội học, số

1, tr 65 - 71.

97.

Bùi Quang Thắng (1999), Vai trò hệ thống truyền thông đại chúng trong

việc phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Viện

Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

98.

Võ Văn Thắng (2006), Xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay (từ góc độ

văn hoá truyền thống dân tộc), Nxb Văn hoá Thông tin và Viện Văn hoá, Hà

Nội.

99.

Mai Thanh Thế (2006), “Bước đầu tìm hiểu về tác động của đô thị hoá đến

tâm lý người nông dân ven các đô thị”, Tạp chí Tâm lý học, số 4, tr 26 - 33.

100. Lê Thi (2002), Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

101. Lê Thi (2007), “Đặc điểm của các thế hệ Việt Nam hiện nay và con đường

chung sống hòa hợp”, Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 3, tr 23 - 30.

102. Nguyễn Thị Thiềng, Phạm Thúy Hương, Patrick Gubry, Franck Castiglioni,

Jean-Michel Cusset (2006), Đô thị Việt Nam trong thời kỳ quá độ, Nxb Thế

giới, Hà Nội.

164

103. Đỗ Kim Thịnh (1993), Lối sống đô thị và vấn đề giáo dục thẩm mỹ cho trẻ

em, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

104. Lê Duy Thống (2011), “Những lợi thế của tỉnh Đồng Nai trong phát triển

nguồn nhân lực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa

phương”, tham luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai

và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.

105. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21 tháng 8

năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc Quy hoạch phát triển các khu

công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020.

106. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4

năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành bộ tiêu chí quốc gia

về nông thôn mới.

107. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 22/QĐ-TTg ngày 05 tháng 01

năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt đề án “Phát triển văn

hóa nông thôn đến năm 2015, định hướng đến năm 2020”.

108. Phan Trọng Thưởng (2000), Phóng sự Việt Nam 1932 – 1945, Nxb Văn học,

Hà Nội.

109. Tỉnh Ủy Đồng Nai (2010), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai

lần thứ IX nhiệm kỳ 2010 – 2015, Đồng Nai.

110. Trần Quang Toại (2004), Đồng Nai di tích lịch sử văn hoá, Nxb Đồng Nai,

Đồng Nai.

111. Trần Toản (1994), Sự hình thành và phát triển của đội ngũ công nhân cao su

Đồng Nai qua các thời kỳ lịch sử (1906-1991), Luận án Phó Tiến sĩ khoa học

Lịch sử, Tp. HCM.

112. Huỳnh Văn Tới (1996), Những sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng dân gian của

cư dân Việt ở Đồng Nai, Luận án Phó Tiến sĩ khoa học Lịch sử, Hà Nội.

113. Huỳnh Văn Tới, Bùi Quang Huy, Trần Hiếu Thuận (2001), Địa chí Đồng

Nai, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.

114. Huỳnh Văn Tới, Phan Đình Dũng, Phan Xuân Biên (2005), Văn hoá Đồng

165

Nai, Nxb. Đồng Nai, Đồng Nai.

115. Huỳnh Văn Tới, Phan Đình Dũng (2008), Truyện kể người Mạ Đồng Nai,

Nxb. Đồng Nai, Đồng Nai.

116. Huỳnh Ngọc Trảng (1998), Vè Nam Bộ, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.

117. Huỳnh Ngọc Trảng, Trường Ngọc Tường (1999), Đình Nam Bộ xưa và nay,

Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.

118. Tôn Nữ Quỳnh Trân cùng các đồng nghiệp (1999), Văn hoá làng xã trước

thách thức của đô thị hoá tại thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, Tp HCM.

119. Nguyễn Chơn Trung, Trương Giang Long (2004), Phát triển các khu công

nghiệp, khu chế xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

120. Trương Xuân Trường (2003), “Một số biến đổi kinh tế - xã hội ở nông thôn

vùng châu thổ sông Hồng hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, số 3, tr 28 - 41.

121. Nguyễn Thiện Trưởng (2004), Dân số và phát triển bền vững ở Việt Nam,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

122. Nguyễn Đình Tuấn (2007), “Một số biến đổi trong quan hệ ứng xử và sử

dụng thời gian của người dân vùng chuyển đổi từ xã lên phường”, Tạp chí

Nghiên cứu Con người, số 4, tr 34 - 40.

123. Nguyễn Ngọc Tuấn (2003), Những vấn đề kinh tế - xã hội và môi trường

vùng ven các đô thị lớn trong quá trình phát triển bền vững, Nxb Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

124. Nguyễn Quốc Tuấn (2011), “Sự phát triển tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt

Nam về công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước”, tham luận tại Hội thảo

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng

Nai.

125. Nguyễn Thanh Tuấn (2008), Biến đổi văn hóa đô thị Việt Nam hiện nay,

Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

126. Trương Ngọc Tường (2006), “Nhà cổ Nam Bộ”, Tạp chí Xưa và nay, số 253-

254, tr. 46 – 47.

166

127. UBND tỉnh Đồng Nai (2002), Chương trình phát triển kinh tế - xã hội, an

ninh – quốc phòng tỉnh Đồng Nai (giai đoạn 2001 – 2005), Tài liệu lưu hành

nội bộ, Đồng Nai.

128. UBND tỉnh Đồng Nai (2002), Đồng Nai 25 năm xây dựng và phát triển kinh

tế - xã hội, Đồng Nai.

129. UBND tỉnh Đồng Nai (2005), Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm xây dựng và

phát triển, Đồng Nai.

130. UBND tỉnh Đồng Nai (2004), Phát triển KCN, khu chế xuất ở Việt Nam

trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học.

131. UBND tỉnh Đồng Nai (2007), Những nghiên cứu xã hội học trong thời kỳ

chuyển đổi, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

132. Nguyễn Mạnh Văn (2011), “Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ các khu công

nghiệp ở tỉnh Đồng Nai”, tham luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại

hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.

133. Viện Nghiên cứu Chiến lược (2002), Chính sách công nghiệp, Chiến lược,

chính sách công nghiệp, Nxb Thế giới, Hà Nội.

134. Viện Nghiên cứu Văn hoá (2007), Biến đổi văn hoá làng xã trong quá trình

đô thị hoá và công nghiệp hoá, đề tài cấp Bộ, Hà Nội.

135. Viện Văn hoá (1986), Khái niệm và quan niệm về văn hoá, Nxb. Văn hoá

Thông tin, Hà Nội.

136. Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam (2009), Báo cáo về Đời sống văn hoá đô

thị & Khu công nghiệp Việt Nam, Thư viện Viện Văn hoá Nghệ thuật Việt

Nam, Hà Nội.

137. Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam và Viện Văn hóa và Du lịch Hàn Quốc

(2010), Nghiên cứu các giải pháp nhằm giảm thiểu xung đột giữa chủ Hàn

Quốc và công nhân Việt Nam tại Việt Nam, Thư viện Viện Văn hoá Nghệ

thuật Việt Nam, Hà Nội.

138. Hồ Cao Việt (2011),“Công nghiệp hóa và sự biến đổi sinh kế - Đời sống của

hộ nông dân ở Đồng Nai”, tham luận tại Hội thảo Công nghiệp hóa, hiện đại

167

hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.

139. Vũ Quang Việt (1999), Tình hình phát triển kinh tế Việt Nam 1989- 1995,

Nxb Hà Nội, Hà Nội.

140. Hồ Sĩ Vịnh (chủ biên) (1993), Tìm về bản sắc dân tộc của văn hóa, Tạp chí

Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.

141. Vụ Văn hóa Dân tộc, Miền núi - Bộ Văn hóa Thông tin (1996), Xây dựng

đời sống văn hóa ở các tỉnh phía Nam, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

142. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2005), Cơ sở văn hoá Việt Nam, tái bản, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

143. Đinh Thu Xuân (2011), “Vai trò các khu công nghiệp trong sự nghiệp Công

nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai”, tham luận tại Hội thảo Công nghiệp

hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai và những vấn đề đặt ra, Đồng Nai.

144. Trần Thanh Xuân (2005), Tăng cường công tác thanh tra hoạt động thương

mại của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Lấy số liệu thực tế trên

địa bàn tỉnh Đồng Nai, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội.

Tiếng Anh

146. Chang Hee Lee (2006), Industrial Relations and Dispute Settlement in

Vietnam (Mối quan lao động và các cuộc đình công ở Việt Nam), ILO.

147. Hy V. Luong

(1992), Revolution

in

the Village: Tradition and

Transformation in North Vietnam, 1925-1988 (Cuộc cách mạng ở làng:

Truyền thống và sự biến đổi ở miền Bắc Việt Nam, 1925 – 1988), Honolulu:

University of Hawaii Press.

148. Hy V. Luong (edited) (2003), Postwar Vietnam: dynamics of a Transforming

society (Việt Nam sau chiến tranh: động thái của một xã hội đang chuyển đổi),

Institute of Southeast Asian Studies, Singapore and Rowman & Littlefield

Publishers. Inc.

149. Jan Sunoo (1998), 23 Frequently Asked Questions about Industrial Relations

168

in Vietnam (Hai mươi ba câu hỏi về quan hệ lao động ở Việt Nam). ILO

150. Jang Jung Min Sunoo (2007), Understanding and Minimizing Risk for Strikes

in Vietnam (Nhận biết và giảm thiểu các nguy cơ từ đình công tại Việt Nam),

ILO.

151. Lê Thế Giới (2005), Clustering, total competitiveness and Japanese ODA:

How industrial parks, supporting industries and government in Vietnam need

for supports from Japanese intellectual cooperation (phân nhóm, cạnh tranh

và viện trợ phát triển của Nhật Bản: các khu công nghiệp nào, công nghiệp

hỗ trợ, và chính phủ Việt nam cần làm gì từ sự hỗ trợ hợp tác trị thức của

Nhật Bản), Annual Buletin of The Institute for Industrial Research of Obirin

University (Tokyo, Japan).

152. Polly Ulichny (1997), The mismanagement of misunderstandings in cross

(Quản lý kém những xung đột), Cultural interactions Journal of Pragmatics

27.

169

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM

-----------------------

NGUYỄN VĂN QUYẾT

NGHIÊN CỨU SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG NÔNG NGHIỆP-NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP (Thông qua nghiên cứu trường hợp tỉnh Đồng Nai)

PHỤ LỤC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

Hà Nội, 2013

170

MỤC LỤC PHỤ LỤC

Trang

Phụ lục 1

Bản đồ

170

Phụ lục 2

Thống kê xã Hiệp Phước, xã Thạnh Phú, xã

174

Long Thọ

Phụ lục 3

Một số hình ảnh

186

Phụ lục 4

Mẫu phiếu điều tra

191

Phụ lục 5

Danh sách phỏng vấn

206

171

Phụ lục 1 Bản đồ hành chính tỉnh Đồng Nai

172

Bản đồ hành chính xã Long Thọ

173

Bản đồ hành chính xã Hiệp Phước

174

Bản đồ hành chính xã Thạnh Phú

Phụ lục 2

BẢNG THỐNG KÊ

175

TÌNH HÌNH BIỂN ĐỔI DIỆN TÍCH, CƠ CẤU KINH TẾ, XÃ HỘI

VÀ VĂN HÓA DÂN CƯ Ở XÃ HIỆP PHƯỚC THÀNH PHỐ NHƠN TRẠCH

1 Tổng diện tích đất qua các thời kỳ: (ha)

Loại đất

2010 552,48 107,31 - - 1223 -

STT 1 2 3 4 5 6

Đất canh tác Đất thổ cư Diện tích mặt nước Đất dự trữ Khác Tổng

2005 500,27 91,50 - - 1221 -

2000 1615,12 52,98 - - 145,43 -

2. Biến động đất đai qua các thời kỳ: (ha)

Diện tích đất

2010 1882,94 552,48 432,34 271,59 249,02 1330,46 107,31 107,31 - 1200,24

2005 1813,58 500,27 418,31 327,49 276,14 1313,31 91,50 91,50 - 1190,90

2000 1813,58 1615,12 1141,99 406,23 326,70 195,25 52,98 52,98 - 105,33

3,85

0,81

0,26

- -

- 0,20

- -

1,51

0,21

0,71

Tổng diện tích tự nhiên Đất nông nghiệp Đất sản xuất nông nghiệp Đất trồng cây hàng năm Đất trồng lúa Đất phi nông nghiệp Đất ở Đất ở tại nông thôn Đất ở tại đô thị Đất chuyên dùng Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp Đất quốc phòng Đất an ninh Đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp

131,52

89,56

63,15

3,95 7,51

2,80 11,07

1,99 12,77

11,45

17,04

17,09

Đất có mục đích công cộng Đất tôn giáo tín ngưỡng Đất nghĩa trang, nghĩa địa Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng Đất phi nông nghiệp khác Đất chưa sử dụng Đất bằng chưa sử dụng

- - -

- - -

3,09 3,21 3,21

3. Diện tích đất bị thu hồi, dành cho khu công nghiệp, qua các năm: (ha)

Diện tích

2010

2009 2008 2007 2006 2005 2004 2003 2002 2001 2000

176

1882

1882 1813 1813 1813 1813 1813 1813 1813 1813 1813

49

-

-

-

-

420

-

-

-

-

450

đất Tổng diện tích tự nhiên Đất bị thu hồi

4. Thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ: (triệu đồng)

2010

Thu nhập

2005

2000

25,2

18

11

Thu nhập bình quân (triệu đ/năm/người)

5. Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ: (hộ)

2010

2005

2000

Hộ

STT

1 Hộ nông nghiệp 2 Hộ hỗn hợp 3 Hộ phi nông nghiệp 4

Tổng

Hộ 1063 2897 1408 5368

% 19,8 54,0 26,2 100

Hộ 1965 2018 610 4593

% 42,7 44,0 13,3 100

Hộ 2010 1279 18 3307

% 60,8 39,0 0,2 100

6. Quy mô hộ gia đình ở xã: (hộ)

Số người trong hộ

Số hộ hiện có

Tỷ lệ (%)

Số hộ có từ 1 đến 3 người Số hộ có 4 người Số hộ có 5 người Số hộ có từ 6 người trở lên Tổng

918 1013 2278 1159 5368

Tổng số hộ toàn xã đến hết năm 2010 5368 5368 5368 - 16104

- - - - -

7. Nhân khẩu của xã qua các thời kỳ: (người)

Dân số

STT 1

2010 22150

2005 11097

2000 10613

2

8

14

20

3

Tổng số dân toàn xã Diện tích bình quân đầu người (m2/ người) Tổng số dân nhập cư là công nhân (KT2/3, chưa đăng ký)

5762

1980

488

177

8. Thống kê dân nhập cư qua các thời kỳ: (người)

2005

2000

STT

Dân cư

2010 Người %

Người

%

Người

%

13919

100

9547

100

6732

100

Tổng số dân nhập cư 1 (KT2/3, chưa đăng ký) 2 Từ miền Tây Nam bộ 3 Từ miền Trung 4 Từ miền Bắc

5617 5273 3029

40,3 37,9 21,7

3770 3189 2588

39,5 33,4 27,1

2128 1986 2618

31,6 29,5 38,8

9. Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ: (người)

2005

2000

STT

2010 Người % 32,3 5230 4,7 763

Người 4891 812

% 35,1 5,8

Người 5150 898

% 48,8 8,5

3

3790

23,4

2850

20,5

2005

19

4

3616

22,3

1853

13,3

1360

12,9

Dân cư 1 Học sinh, sinh viên 2 Công nhân, viên chức, hưu trí Kinh doanh, buôn bán nhỏ (bán hàng tại nhà, buôn bán vỉa hè, cho thuê nhà….) Thủ công nghiệp (làm giầy da, dệt len, làm mộc, thợ đục, thợ may…) Nghề tự do (Nội trợ, làm thuê, giúp việc, xây dựng, xe ôm...)

5 6 Tổng dân số toàn xã

2780 16179

17,1 100

3510 13916

25,2 100

1130 10543

10,7 100

10. Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư: (người)

2005

STT

Dân cư

2010 Người % 8,8 1230 0,6 87

Người 610 67

% 4,3 0,5

2000 Người % 7,7 0,6

815 61

3

2120

15,2

1976

14,1

1783

16,9

4

7613

54,6

6382

45,8

6616

62,8

1 Học sinh, sinh viên 2 Công nhân, viên chức, hưu trí Kinh doanh, buôn bán nhỏ (bán hàng tại nhà, buôn bán vỉa hè, cho thuê nhà….) Thủ công nghiệp (làm giầy da, dệt len, làm mộc, thợ đục, thợ may…) Nghề tự do (Nội trợ, làm thuê, giúp việc, xây dựng, xe 5 ôm...) 6 Tổng

2869 13919

20,6 100

4881 13916

35 100

1268 10543

12 100

178

11. Cơ cấu nhà ở phân theo các thời kỳ: (nhà)

2005

2000

STT

Nhà ở

1 2 3 4

Nhà kiên cố Nhà bán kiên cố Nhà tạm Tổng

2010 Số lượng % 68,3 31,4 0,002 100

3669 1688 11 5368

Số lượng 2918 1655 20 4593

% 63,5 36 0,004 100

Số lượng 2618 634 55 3307

% 79,1 19,1 0,16 100

12. Công năng của các loại hình nhà của xã năm 2010

Loại hình nhà

Số lượng

Nhà biệt thự Nhà ống nhiều tấm Nhà đúc 1 tấm Nhà kiên cố nhưng lợp ngói/ tôn Nhà tạm (vách gỗ, lá, lợp lá, tôn) Tổng

Văn phòng - 21 - - - 21

Công năng Để ở 18 06 11 3991 03 4029

Cho thuê trọ - - - 1310 8 1318

- - - - - -

13. Số lượng các trang thiết bị chủ yếu trong gia đình: (cái/chiếc)

2005

2000

2010

STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

Trang thiết bị Ô tô Xe máy Điện thoại Tủ lạnh Đầu Video TV màu Dàn nghe nhạc các loại Máy vi tính Máy điều hòa nhiệt độ Máy giặt Internet

356 10427 9678 4970 5160 5160 3087 2779 1027 1320 2371

112 8618 5180 2810 3102 3102 1189 1018 815 797 996

16 6089 3676 1178 618 763 698 312 538 513 618

179

BẢNG THỐNG KÊ

TÌNH HÌNH BIỂN ĐỔI DIỆN TÍCH, CƠ CẤU KINH TẾ, XÃ HỘI

VÀ VĂN HÓA DÂN CƯ Ở XÃ THẠNH PHÚ HUYỆN VĨNH CỬU

1. Tổng diện tích đất qua các thời kỳ: (ha)

Loại đất

2010 876.29 158.95 26.26 - -

2005 993.87 83.27 14.28 - -

2000 1209.16 45.3 5.14 - -

STT 1 2 3 4 5

Đất canh tác Đất thổ cư Diện tích mặt nước Đất dự trữ Khác

2. Biến động đất đai qua các thời kỳ: (ha)

Diện tích đất

2010 1405.42 876.29 818.38 555.27 302.09 529 158.83 158.83 - 3.403.814

2005 1436.21 993.87 909.31 713.15 446.69 442.34 83.27 83.27 - 318.87

2000 1436.21 1209.16 1067.92 415.82 358.80 209.04 45.30 45.30 - 115.42

Tổng diện tích tự nhiên Đất nông nghiệp Đất sản xuất nông nghiệp Đất trồng cây hàng năm Đất trồng lúa Đất phi nông nghiệp Đất ở Đất ở tại nông thôn Đất ở tại đô thị Đất chuyên dùng

-

-

-

6.71 -

7.5 -

-

Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp Đất quốc phòng Đất an ninh

78.68

254.90

237.67

Đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp

77.8

71.91

39/61

1.96 12.81

2.1 12.35

2.1 19.24

Đất có mục đích công cộng Đất tôn giáo tín ngưỡng Đất nghĩa trang, nghĩa địa

14.99

25.75

25.75

-

-

-

-

-

-

Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng Đất phi nông nghiệp khác Đất chưa sử dụng Đất bằng chưa sử dụng

180

3. Diện tích đất bị thu hồi dành cho khu công nghiệp, qua các năm: (ha)

Diện tích đất

Tổng diện tích tự nhiên 1405 Đất bị thu hồi

2010 2009 2008 2007 2006 2005 2004 2003 2002 2001 2000 1436 1436 0 34

- -

- -

- -

- -

- -

- -

- -

- -

82

4. Thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ: (triệu đồng)

2010

Thu nhập

2005

2000

15

10

5

Thu nhập bình quân (triệu đ/năm/người)

5. Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ: (hộ)

2010

2005

2000

Hộ

STT

1 Hộ nông nghiệp 2 Hộ hỗn hợp 3 Hộ phi nông nghiệp 4 Tổng

Hộ 824 1652 1050 3526

% 23.36 46.85 29.77 100

Hộ 1793 143 150 2086

% 85.95 6.85 7.19 100

Hộ 1697 30 41 1768

% 95.98 1.69 2.3 100

6. Quy mô hộ gia đình ở xã: (hộ)

Số người trong hộ

Số hộ hiện có

Tỷ lệ (%)

Số hộ có từ 1 đến 3 người Số hộ có 4 người Số hộ có 5 người Số hộ có từ 6 người trở lên Tổng

529 1040 1252 705 3526

Tổng số hộ toàn xã đến hết năm 2010 3526 3526 3526 3526 3526

15 29.29 35.5 19.99 100

7. Nhân khẩu của xã qua các thời kỳ: (người)

Dân số

STT 1 2

2010 22150 11053

2005 11097 484

2000 10613 216

3

8

14

20

Tổng số dân toàn xã Tỷ lệ phát triển dân số Diện tích bình quân đầu người (m2/ người) Tổng số sân nhập cư (KT2/3, chưa đăng ký)

4

5762

1980

488

181

8. Thống kê dân nhập cư qua các thời kỳ: (người)

2000

Dân cư

2005

STT

2010 Người %

Người

Người

%

% 100

1980

Tổng số dân nhập cư (KT2/3, chưa đăng ký) 1 2 Từ miền Tây Nam bộ 3 Từ miền Trung 4 Từ miền Bắc

5762 3270 1009 1483

100 56,7 17,5 25,7

634 32 733 39 613 30,9

100 16,5 39,5 43,8

488 81 193 214

9. Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ: (người)

2005

2000

STT

Dân cư

2010 Người % 3540

1 Học sinh, sinh viên 15,98 2 Công nhân, viên chức, hưu trí 15890 71,73

Người 1435 7524

% 12,93 67,8

Người 930 5520

% 8,76 52,01

3

890

4,42

450

4,05

208

1,95

4

789

3,56

658

5,92

243

2,28

Kinh doanh, buôn bán nhỏ (bán hàng tại nhà, buôn bán vỉa hè, cho thuê nhà….) Thủ công nghiệp (làm giầy da, dệt len, làm mộc, thợ đục, thợ may…) Nghề tự do (Nội trợ, làm thuê, giúp việc, xây dựng, xe ôm...) 5 6 Tổng

1041 22150

4,69

1030

9,28

3712 10613

34,97

10. Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư: (người)

2005

STT

2010 Người % 1,77 89,55

102 5160

Người 35 1675

% 1,76 84,59

2000 Người % 0,81 7,99

4 390

3

60

1,04

16

0,8

5

1,02

4

230

3,99

60

3,03

9

1,84

Dân cư 1 Học sinh, sinh viên 2 Công nhân, viên chức, hưu trí Kinh doanh, buôn bán nhỏ (bán hàng tại nhà, buôn bán vỉa hè, cho thuê nhà….) Thủ công nghiệp (làm giầy da, dệt len, làm mộc, thợ đục, thợ may…) Nghề tự do (Nội trợ, làm thuê, giúp việc, xây dựng, xe 5 ôm...) 6 Tổng

210 5762

3,64 100

194 1980

9,79 100

80 488

16,39 100

182

11. Công năng của các loại hình nhà của xã năm 2010

Loại hình nhà

Số lượng

Văn phòng - - - - - -

Nhà biệt thự Nhà ống nhiều tấm Nhà đúc 1 tấm Nhà kiên cố nhưng lợp ngói/ tôn Nhà tạm (vách gỗ, lá, lợp lá, tôn) Tổng

Công năng Để ở 4 - - - - -

Cho thuê trọ - - - - - -

4 - - - 0 -

12. Số lượng các trang thiết bị chủ yếu trong gia đình: (đơn vị: cái/chiếc)

2010

2000

2005

25 7052 6170 - - - - - - - --

- 1543 450 - - - - - - - -

10 4172 960 - - - - - - - -

STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

Trang thiết bị Ô tô Xe máy Điện thoại Tủ lạnh Đầu Video TV màu Dàn nghe nhạc các loại Máy vi tính Máy điều hòa nhiệt độ Máy giặt Internet

183

BẢNG THỐNG KÊ

TÌNH HÌNH BIỂN ĐỔI DIỆN TÍCH, CƠ CẤU KINH TẾ, XÃ HỘI

VÀ VĂN HÓA DÂN CƯ Ở XÃ LONG THỌ THÀNH PHỐ NHƠN TRẠCH

1. Tổng diện tích đất qua các thời kỳ: (ha)

Loại đất

STT 1 2 3 4 5 6

Đất canh tác Đất thổ cư Diện tích mặt nước Đất dự trữ Khác Tổng

2010 904,52 209,11 59,65 - - -

2005 994,54 297,62 59,77 - - -

2000 2153,13 34,71 - - - -

2. Biến động đất đai qua các thời kỳ: (ha)

Diện tích đất

2010 2427,51 904,52 481,27 258,98 155,44 1522,98 209,11 35,62 173,49 1142,30

2005 2427,51 1546,03 994,54 305,13 172,30 881,48 297,62 34,71 262,91 432,16

2000 2427,51 2153,13 1605,24 - - 223,70 34,71 - - 46,97

7,82

0,63

-

- -

- -

- -

7,71

360,90

-

Tổng diện tích tự nhiên Đất nông nghiệp Đất sản xuất nông nghiệp Đất trồng cây hàng năm Đất trồng lúa Đất phi nông nghiệp Đất ở Đất ở tại nông thôn Đất ở tại đô thị Đất chuyên dùng Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp Đất quốc phòng Đất an ninh Đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp

426,87

70,63

-

2,23 29,48

2,23 9,61

3,29 8,84

139,86

139,86

139,86

Đất có mục đích công cộng Đất tôn giáo tín ngưỡng Đất nghĩa trang, nghĩa địa Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng Đất phi nông nghiệp khác Đất chưa sử dụng Đất bằng chưa sử dụng

- - -

- - -

- - -

184

3. Diện tích đất bị thu hồi dành cho khu công nghiệp, qua các năm: (ha)

Diện tích đất

Tổng diện tích tự nhiên 2427 47 Đất bị thu hồi

2010 2009 2008 2007 2006 2005 2004 2003 2002 2001 2000 2427 2427 0 339

- 250

- 110

- 333

- 212

- 11

- 3

- -

- -

4. Thu nhập bình quân đầu người qua các thời kỳ: (triệu đồng)

Thu nhập Thu nhập bình quân (triệu đ/năm/người)

2010 15

2005 8

2000 4

5. Cơ cấu hộ gia đình phân theo nghề qua các thời kỳ: (hộ)

2010

2005

2000

STT

Hộ

1 Hộ nông nghiệp 2 Hộ hỗn hợp 3 Hộ phi nông nghiệp 4 Tổng

Hộ 405 - - 2025

% 20 - - 100

Hộ 416 - - 1775

% 24 - - 100

Hộ - - - -

% - - - -

6. Quy mô hộ gia đình ở xã: (hộ)

Số người trong hộ

Số hộ hiện có

Tỷ lệ (%)

Số hộ có từ 1 đến 3 người Số hộ có 4 người Số hộ có 5 người Số hộ có từ 6 người trở lên

450 697 719 304

Tổng số hộ toàn xã đến hết năm 2010 405 607 709 392

90 87 98,6 128

7. Nhân khẩu của xã qua các thời kỳ: (người)

Dân số

STT 1 2

2010 8210 1,1

2005 6824 1,1

2000 6244

-

-

-

3

-

-

-

Tổng số dân toàn xã Tỷ lệ phát triển dân số Diện tích bình quân đầu người (m2/ người) Tổng số sân nhập cư (KT2/3, chưa đăng ký)

4

8. Thống kê dân nhập cư qua các thời kỳ: (người)

2005

2000

STT

Dân cư

2010 Người %

Người

%

Người

%

185

100

Tổng số dân nhập cư 1 (KT2/3, chưa đăng ký) 2 Từ miền Tây Nam bộ 3 Từ miền Trung 4 Từ miền Bắc

4353 1088 1305 1960

100 24,9 29,9 45

1302 225 390 582

17,3 30 44,7

905 227 270 408

100 25 29,8 45

9. Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm cư dân tại chỗ: (người)

2005

2000

STT

Dân cư

2010 Người % 14,4 1 Học sinh, sinh viên 1184 56,9 2 Công nhân, viên chức, hưu trí 4679

Người 1300 3520

% 19 51,6

Người 1100 800

% 18,2 13,2

3

2052

25

1569

23

500

0,08

4

25

0,003

25

0,003

620

10,3

Kinh doanh, buôn bán nhỏ (bán hàng tại nhà, buôn bán vỉa hè, cho thuê nhà….) Thủ công nghiệp (làm giầy da, dệt len, làm mộc, thợ đục, thợ may…) Nghề tự do (Nội trợ, làm thuê, giúp việc, xây dựng, xe 5 ôm...) 6 Tổng

270 8210

0,32 100

410 6824

0,06 100

3020 6040

53 100

10. Cơ cấu nghề nghiệp của nhóm dân nhập cư: (người)

2005

STT

Dân cư

1 2

2010 Người % 0,03 69,8

130 3047

Người 39 911

% 0,03 70

2000 Người % 0,03 70,1

27 635

3

125

0,03

30

0,02

26

0,03

4

609

13,9

182

0,06

126

14

5

452

10,4

140

10,8

91

10

6

Học sinh, sinh viên Công nhân, viên chức, hưu trí Kinh doanh, buôn bán nhỏ (bán hàng tại nhà, buôn bán vỉa hè, cho thuê nhà….) Thủ công nghiệp (làm giầy da, dệt len, làm mộc, thợ đục, thợ may…) Nghề tự do (Nội trợ, làm thuê, giúp việc, xây dựng, xe ôm...) Tổng

4363

100

1302

100

905

100

11. Cơ cấu nhà ở phân theo các thời kỳ: (nhà)

2005

2000

STT

Nhà ở

1

Nhà kiên cố

2010 Số lượng % 3,2

66

Số lượng 32

% 1,8

Số lượng -

% -

186

2 3 4

Nhà bán kiên cố Nhà tạm Tổng

1945 14 2025

96,4 0,69 100

1400 243 1675

78,8 13,7 100

- - -

- - -

12. Công năng của các loại hình nhà của xã năm 2010

Loại hình nhà

Số lượng

Nhà biệt thự Nhà ống nhiều tấm Nhà đúc 1 tấm Nhà kiên cố nhưng lợp ngói/ tôn Nhà tạm (vách gỗ, lá, lợp lá, tôn) Tổng

Văn phòng - - - - - -

Công năng Để ở 10 0 56 1915 0 1981

Cho thuê trọ - - 10 30 - 40

- - - - - -

13. Số lượng các trang thiết bị chủ yếu trong gia đình (cái/chiếc)

2010

2005

2000

7 2022 359 434 420 1533 - 116 20 120 -

1220 50 10 36 850 - - - 46 -

STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

Trang thiết bị Ô tô Xe máy Điện thoại Tủ lạnh Đầu Video TV màu Dàn nghe nhạc các loại Máy vi tính Máy điều hòa nhiệt độ Máy giặt Internet

15 2822 636 615 920 2509 302 380 120 536 110

187

Phụ lục 3 Một số hình ảnh

Ảnh: Cổng chào ấp văn hóa Long Thọ, Nguồn: tác giả, 2011

Ảnh: Đình Mỹ Khoan, Xã Hiệp Phước Nguồn: tác giả, 2011

188

Ảnh: Đám rước ở đình Phú Trạch, Thạnh Phú Nguồn: tác giả, 2009

Ảnh: Nhà cổ xã Long Thọ Nguồn: tác giả, 2011

189

Ảnh: Khu nhà trọ của công nhân xã Hiệp Phước Nguồn: tác giả, 2011

Ảnh: Nhà trọ công nhân xã Thạnh Phú Nguồn: tác giả, 2011

190

Ảnh: Liên hoan tiếng hát công nhân KCN tổ chức trên địa bàn khu dân cư Nguồn: tác giả, 2011

Ảnh: Sân bóng đá xã Long Thọ Nguồn: tác giả, 2011

191

Ảnh: Tiệm bi-a ở xã Hiệp Phước Nguồn: tác giả, 2011

Ảnh: Trung tâm văn hóa thể thao xã Hiệp Phước Nguồn: tác giả, 2011 Phụ lục 4

192

Mẫu phiếu điều tra

Mẫu A: CÁ NHÂN

PHIẾU KHẢO SÁT THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA KHU CƯ DÂN CÔNG NGHIỆP ĐỒNG NAI

Ngày phỏng vấn………tháng……..năm 20….

I. SƠ LƯỢC BẢN THÂN:

1. Giới tính:

Nữ

Anh (chị) cho biết một số thông tin về bản thân: Nam 

2. Năm sinh: .....................................................................................................................................

3. Nơi sinh:........................................................................................................................................

4. Dân tộc: ........................................................................................................................................

5. Tôn giáo: .......................................................................................................................................

6. Trình độ học vấn: ...........................................................................................................................

7. Tên cơ quan đang làm việc:..............................................................................................................

8. Địa chỉ cơ quan:.............................................................................................................................

9. Chỗ ở hiện nay: ..............................................................................................................................

........................................................................................................................................................

II. PHẦN KHẢO SÁT:

Anh (chị) vui lòng nghiên cứu Bảng câu hỏi, cho biết một số thông tin liên quan đến bản thân, công việc đang làm, các thiết chế và nhu cầu hưởng thụ văn hóa nghệ thuật - thể dục thể thao tại nơi ở và nơi làm việc của anh (chị) bằng cách đánh dấu chéo (x) hoặc điền vào ô (…..) ở Bảng trả lời.

STT

BẢNG CÂU HỎI

BẢNG TRẢ LỜI

1.

Tháng _______ năm _________

Anh (chị) đến làm việc tại cơ quan, đơn vị hiện nay từ tháng năm nào?

- Người địa phương - Người các tỉnh khác

 

2.

Anh (chị) là người địa phương hay ở các tỉnh khác, nếu ở các tỉnh khác thì anh (chị) cho biết đã đến tỉnh Đồng Nai vào năm nào?

+ Tỉnh:................................................. + Năm đến ĐN:....................................

Trước khi đến và làm việc ở

đây, anh (chị) đã làm việc gì?

3.

- Học sinh phổ thông - Học trường dạy nghề - Sinh viên CĐ, ĐH

  

193

    

- Chưa có việc làm - Bộ đội xuất ngũ - CB công nhân viên chức - Nông dân - Buôn bán - Khác: ……………………………………

Trình độ chuyên môn kỹ thuật

4.

hiện nay mà anh (chị) đạt được.

- Công nhân kỹ thuật - Bậc thợ ______/7 - Không có trình độ CMKT - Trung cấp kỹ thuật - Cao đẳng - Đại học - Trên đại học

    

Anh (chị) đang làm việc theo

5.

giờ hành chính hay theo ca.

- Giờ hành chính - Ca cố định - Ca không cố định

  

6.

  

Ngoài giờ làm việc tại cơ quan, đơn vị, anh (chị) có làm thêm để tăng thu nhập không?

- Không - Có - Thất thường - Số giờ /tuần _____________

Tổng thu nhập bình quân hàng

7.

tháng của anh (chị) là bao nhiêu?

- Dưới 300.000 đ - Từ 300.000 đ - 500.000 đ - Từ 500.000 đ - 1.000.000 đ - Từ 1.000.000 - 1.500.000 đ - Trên 1.500.000 đ

    

8.

Nhà ở của anh (chị) hiện nay?

  

- Nhà riêng - Nhà thuê - Nhà tập thể của đơn vị - Khác: …………………………………….

9.

Anh (chị) có dành thời gian để học tập nâng cao trình độ chuyên môn - kỹ thuật, ngoại ngữ, tin học không?

- Học tập chuyên môn - kỹ thuật - Học tập ngoại ngữ - Học tập tin học - Không học

   

B

Trình độ ngoại ngữ hiện nay

10.

của anh (chị)?

A C CĐ ĐH Trình độ:      - Anh văn      - Hoa văn      - Pháp văn      - Nga văn      - Nhật      - Đức - Khác     

11.

Tại nơi anh (chị) ở có các khu sinh hoạt văn hóa, giáo dục, thông

- Công viên - Rạp hát

 

194

tin không?

    

- Nhà văn hóa - Thư viện - Bưu điện - Trường học - Trung tâm giáo dục thường xuyên - Khác: ……………………………………. ……………………………………………..

- Xem phim tại rạp:

+ T/xuyên (cid:0)

Không t/xuyên 

- Sinh hoạt tại nhà văn hóa:

+ T/xuyên (cid:0)

Không t/xuyên  - Sinh hoạt tại các tụ điểm văn hoá (ca, múa, nhạc, kịch…)

12.

Không t/xuyên 

Anh (chị) có dành thời gian cho các hoạt động văn hóa hay không?

Không t/xuyên  

+ T/xuyên (cid:0) - Đến thư viện + T/xuyên (cid:0) - Không sinh hoạt - Các hoạt động khác ............................................... ..............................................................................

Nơi anh (chị) ở có các khu sinh

13.

hoạt thể thao giải trí không?

 - Sân bóng đá  - Bóng chuyền  - Bóng bàn  - Tennis  - Cầu lông - Võ thuật  - Các sân chơi khác...................................................... ....................................................................................

14.

Anh (chị) thường dành thời gian cho các hoạt động thể thao nào?

- Môn thể thao: ......................................................... ................................................................................. - Không chơi thể thao

- Các khu du lịch văn hóa:

+ T/xuyên (cid:0)

Không t/xuyên

- Các di tích lịch sử văn hóa:

+ T/xuyên (cid:0)

Không t/xuyên 

- Lễ hội truyền thống:

15.

Anh (chị) có thường xuyên đi tham quan hay không? (dưới 24 giờ)

+ T/xuyên (cid:0)

Không t/xuyên 

- Dã ngoại (picnic):

+ T/xuyên (cid:0)

- Không đi

Không t/xuyên  

- Các khu du lịch văn hóa:

+ T/xuyên (cid:0)

Không t/xuyên

Anh (chị) có thường xuyên đi

16.

- Các di tích lịch sử văn hóa:

du lịch hay không? (trên 24 giờ)

+ T/xuyên (cid:0)

Không t/xuyên 

- Lễ hội truyền thống:

195

+ T/xuyên (cid:0)

Không t/xuyên 

- Các danh lam thắng cảnh

Không t/xuyên 

+ T/xuyên (cid:0)

- Nước ngoài

+ T/xuyên (cid:0)

Không t/xuyên 

Không đi

- Văn hoá:

17.

+ Công viên + Phòng xem phim  + Sân khấu (ca, múa, nhạc…) + Thư Viện (phòng đọc)  + Hội trường sinh hoạt tập thể + Các thiết chế khác: ................................................

…………………………………………...

Trong cơ quan anh (chị) hiện nay đã có những thiết chế văn hóa, thể thao gì cho công nhân, nhân viên sinh hoạt?

- Thể dục - Thể thao

+ Sân chơi các bộ môn thể dục: …………

……………………………………………..

+ Sân chơi các bộ môn thể thao :...............................

………………………………………………..

- Hoạt động văn hóa văn nghệ:

+ T/xuyên 

Không t/xuyên

- Hoạt động thể dục thể thao:

18.

+ T/xuyên (cid:0)

Không t/xuyên 

- Hoạt động xã hội:

Anh (chị) có thường xuyên tham gia các hoạt động xã hội, VHVN - TDTT do cơ quan đơn vị tổ chức?

Không t/xuyên  

+ T/xuyên (cid:0) - Không tham gia

19.

- Thiết thực - Không thiết thực - Không ý kiến

  

Theo anh (chị) việc xây dựng và nâng cấp các khu sinh hoạt văn hóa - thể thao tại cơ quan anh (chị) là việc làm:

20.

- Thiết thực - Không thiết thực - Không ý kiến

  

Theo anh (chị) việc xây dựng và nâng cấp các khu sinh hoạt văn hóa - thể thao tại xã, phường của các anh (chị) đang ở là việc làm:

- Văn hoá - Văn nghệ:

Theo anh (chị) cần xây dựng thêm và nâng cấp các khu sinh hoạt văn hóa Văn nghệ - Thể dục thể thao gì tại các xã, phường nơi các anh (chị) đang sinh sống?

21.

   

(cid:0)anh chị vui lòng đánh dấu (X) và điền tên các khu sinh hoạt văn hoá, bộ môn thể dục thể thao mà anh chị cảm thấy cần xây dựng và nâng cấp)

+ Công viên + Nhà Văn hoá + Rạp chiếu bóng + Bưu điện + Thư viện, phòng đọc sách + Các tụ điểm ca, múa, nhạc, kịch ( + Khác: .................................................................... .................................................................................... - Thể dục thể thao

196

+ Sân chơi các bộ môn thể dục.................................. .................................................................................... + Sân chơi các bộ môn thể thao: ............................... ....................................................................................

- Văn hoá:

Theo anh (chị) cần xây dựng và nâng cấp các khu sinh hoạt văn hóa văn nghệ - Thể dục thể thao gì tại cơ quan, đơn vị anh chị đang công tác?

22.

+ Công viên  + Phòng xem phim  + Sân khấu (ca, múa, nhạc…)  + Thư Viện  + Hội trường sinh hoạt tập thể  + Khác: ....................................................................

…………………………………………...

- Thể dục - Thể thao

+ Sân chơi các bộ môn thể dục: ………… ………………………………………………..

(cid:0)anh chị vui lòng đánh dấu (X) và điền tên các khu sinh hoạt văn hoá, bộ môn thể dục thể thao mà anh chị cảm thấy cần xây dựng và nâng cấp)

+ Sân chơi các bộ môn thể thao :...............................

……………………………………………….

23.

   

Anh (chị) có nhu cầu thành lập, tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ không?

- Ban nhạc - Đội múa - Aâm nhạc - Kịch nói - Khác : ...................................................................... ……………………………………………….

Anh (chị) thích nghe loại nhạc

24.

nào nhất?

- Nhạc nước ngoài - Nhạc trẻ - Nhạc tiền chiến - Nhạc cách mạng - Nhạc vàng - Dân ca - Cải lương - Không thích nghe nhạc

       

25.

Anh (chị) thích xem phim tại rạp hay ở nhà và thích xem phim gì?

     

- Tại rạp - Tại nhà - Phim hình sự - Phim tình cảm - Phim tâm lý xã hội - Phim lịch sử - Các loại phim khác: ………………………

Trong các ngày nghỉ lễ, anh

26.

(chị) thường làm gì?

- Về quê - Thăm hỏi bạn bè - Sinh hoạt truyền thống - Đi tham quan - Đi du lịch - Nghỉ tại nhà

     

197

- Khác: ........................................................................ ....................................................................................

Tại khu vực anh (chị) ở có dịch

27.

vụ internet không?

- Có - Không

 

28.

Anh (chị) có thường sử dụng Internet không và với mục đích gì?

- Thường xuyên - Không thường xuyên - Mục đích: + giải trí (cid:0) - Không sử dụng

  + Thông tin  

29

   

Theo anh (chị) việc tham gia các hoạt động Văn hoá văn nghệ vào những khoảng thời gian nào trong ngày là thích hợp, số giờ tham gia?

- Buổi sáng sớm - Buổi trưa - Buổi chiều - Buổi tối - Ý kiến khác……………………………….. - Số giờ có thể tham gia trong ngày ……….

30

   

Theo anh (chị) việc tham gia các hoạt động Thể dục thể thao vào những khoảng thời gian nào trong ngày là thích hợp, số giờ tham gia?

- Buổi sáng sớm - Buổi trưa - Buổi chiều - Buổi tối - Ý kiến khác……………………………….. - Số giờ có thể tham gia trong ngày ……….

31

- Từ 5000đ - 10.000đ  - Từ 10.000đ - 20.000đ  - Ý kiến khác ………………………………. ……………………………………………..

Theo anh (chị) một số hoạt động Văn hoá văn nghệ - Thể dục thể thao tại nơi anh chị cư trú nếu có bán vé thì giá vé khoảng bao nhiêu là phù hợp với anh chị?

198

Mẫu B: Cơ quan, đơn vị

PHIẾU KHẢO SÁT

THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA KHU CƯ DÂN

CÔNG NGHIỆP ĐỒNG NAI

Ngày khảo sát ……… tháng ………… năm 200……

I. SƠ LƯỢC VỀ CƠ QUAN, ĐƠN VỊ :

1. Tên cơ quan, đơn vị : .............................................................................................................

2. Năm thành lập : ....................................................................................................................

3. Sản phẩm : ...........................................................................................................................

4. Số lượng công nhân, nhân viên : ...........................................................................................

II. PHẦN KHẢO SÁT :

Ông (bà) vui lòng nghiên cứu Bảng câu hỏi, cho biết một số thông tin liên quan đến các thiết chế và các hoạt động văn hóa văn nghệ – thể dục thể thao của cơ quan dành cho nhân viên, công nhân bằng cách đánh dấu chéo (x) hoặc điền vào ô (…) ở Bảng trả lời.

Côngviệc: ………………………………………………………………… Chức vụ: ………………………………………………………………………

BẢNG CÂU HỎI BẢNG TRẢ LỜI 1. Ông (bà) vui lòng cho biết công việc chính và chức vụ hiện nay.

2. Cơ quan, đơn vị của Ông (bà) là cơ quan.

- Liên doanh  - 100% vốn nước ngoài  - Nhà nước  - Tư nhân trong nước  Có Không - Nhân viên   - Công nhân  

Có Không Trong nước   Tỷ lệ % : …………………………………………… Nước ngoài   Tỷ lệ % : ……………………………………………

- Tổ chức Thường xuyên  Không T/xuyên  - Tỷ lệ %: ………………………………………………………… - Không tổ chức 

3. Cơ quan, đơn vị của Ông (bà) có nhà ở tập thể cho nhân viên, công nhân không? 4. Cơ quan, đơn vị của Ông (bà) có cho nhân viên đi học nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn? 5. Cơ quan, đơn vị của Ông (bà) có tổ chức học tập nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn cho đội ngũ công nhân tại cơ quan, đơn vị?

199

Thường xuyên  Không thường xuyên  Không tổ chức 

6. Cơ quan, đơn vị Ông (bà) có thường xuyên tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, thời sự cho đội ngũ công nhân, nhân viên?

Phòng đọc  Sân khấu (ca, múa, nhạc)  Công viên  Hội trường sinh hoạt tập thể  Phòng xem phim  Khác : ……………………………………………………………………

7. Hiện nay trong cơ quan, đơn vị Ông (bà) đã có những địa điểm sinh hoạt văn hoá gì cho công nhân ?

…………………………………………………………………………………… - Thể dục:

8. Hiện nay trong cơ quan đơn vị Ông (bà) đã có những sân chơi thể dục thể thao gì cho công nhân, nhân viên ?

Thể dục thể hình  Thể dục thẩm mỹ  Thể dục dụng cụ  Khác: …………………………………………………………………………… - Thể thao: Sân bóng đá  Sân bóng chuyền  Phòng bóng bàn  Phòng cầu lông  Sân Tennis  Hồ bơi  Khác : ……………………………………………………………………………

9. Cơ quan Ông (bà) có tổ chức các hoạt động văn hoá văn nghệ : (Tổ chức các cuộc thi, tổ chức đêm diễn cho công nhân, nhân viên xem). 10. Các hoạt động văn hoá văn nghệ có được tổ chức thường xuyên?

11. Hàng năm cơ quan Ông (bà) có tổ chức các cuộc thi TDTT cho nhân viên – công nhân ?

- Ca, múa, nhạc  - Diễn kịch  - Thi tìm hiểu  - Thi sáng tác  - Không tổ chức  - Các hình thức khác : ………………………………………… …………………………………………………………………………………………… - Thường xuyên  - Không thường xuyên  - Nhân các dịp lễ, kỷ niệm  - Thể dục Môn : ………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… - Thể thao : Môn : …………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………… - Các trò chơi dân gian  - Không tổ chức  Thể dục : Thường xuyên  Không T/ xuyên  Thể thao :

12. Hoạt động TDTT có được tổ chức thường xuyên ?

Thường xuyên  Không T/ xuyên 

200

Tổ chức hội thao nhân

các dịp lễ, kỷ niệm : 

13. Trong cơ quan, đơn vị của ông (bà) đã thành lập được:

14. Cơ quan anh (chị) đã thành lập các tổ chức.

Không tổ chức  - Đội công tác xã hội  - Đội văn nghệ : Ca  Múa  Kịch  - Ban nhạc  - Khác : ………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… - Công đoàn  - Đoàn thanh niên  - Không  - Đoàn thanh niên : ……………………………% - Công đoàn : ……………………………%

15. Có bao nhiêu % công nhân, nhân viên tham gia vào các tổ chức.

16. Cơ quan của ông (bà) có tổ chức giao lưu văn hoá thể thao với các cơ quan đơn vị khác.

Thường xuyên Không thường xuyên - Học tập, tìm hiểu   - Văn hoá, văn nghệ   - T dục T Thao   - Không tổ chức  Nên tổ chức  Không nên  Loại hình : ……………………………………………………………………… …………………………………………………………………… Không ý kiến 

- Tác phong sinh hoạt  - Tác phong giao tiếp  - Tác phong làm việc  - Giờ giấc làm việc  - Khác : ………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………

Tính cần cù  Tính sáng tạo  Tính cộng đồng  Khác : …………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………

- Các di tích lịch sử văn hoá. Số lần : …………………/năm. - Các khu du lịch văn hoá.

17. Theo ông, cơ quan có nên tổ chức giao lưu văn hoá - văn nghệ – thể dục – thể thao giữa công nhân Việt Nam với nhân viên – công nhân nước ngoài không, loại hình gì cho phù hợp? 18. Theo ông (bà) nhân viên – công nhân khi làm việc trong môi trường công nghiệp hiện nay thì cần phải khắc phục những gì ? 19. Theo ông (bà) nhân viên, công nhân người Việt khi làm việc cho các Công ty, nhà máy, đơn vị trong và ngoài nước có những ưu điểm gì ? 20. Hàng năm cơ quan ông (bà) có tổ chức cho nhân

201

viên, công nhân đi tham quan (dưới 24giờ).

Số lần : …………………./năm. - Các lễ hội truyền thống. Số lần : …………………./năm. - Khác : ………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………… - Không tổ chức  - Tổ chức số lần : …………………./năm. - Địa điểm thường đi : …………………………………………… …………………………………………………………………………………………… - Không tổ chức 

21. Hàng năm cơ quan ông (bà) có tổ chức cho công nhân – nhân viên đi du lịch, nghỉ mát (đi trên 24 giờ).

22. Theo ông (bà) cơ quan, đơn vị cần xây dựng mới và cải tạo các khu sinh hoạt văn hoá, thông tin gì cho công nhân, nhân viên.

23. Theo ông (bà) cơ quan, đơn vị cần xây dựng mới và nâng cấp các sân chơi TDTT gì cho đội ngũ công nhân, nhân viên.

24. Ông (bà) cho biết các khu sinh hoạt văn hoá văn nghệ TDTT tại cơ quan đơn vị có đáp ứng được nhu cầu của công nhân, nhân viên.

- Trạm bưu điện  - Nhà văn hoá  - Công viên  - Phòng xem phim  - Phòng Karaoke  - Dịch vụ Internet  - Phòng đọc  - Khác : ………………………………………………………………………… …………………………………………………………………… - Thể dục : Môn : …………………………………………………………………… ………………………………………………………………………… - Thể thao : Môn : …………………………………………………………………… …………………………………………………………………… Văn hoá, văn nghệ. Đầy đủ  Tương đối  Chưa đủ  Thể dục thể thao. Đầy đủ  Tương đối  Chưa đủ  - Buổi sáng  - Buổi trưa  - Buổi chiều  - Buổi tối 

25. Ông (bà) có thể cho biết nhu cầu giải trí của công nhân, nhân viên của cơ quan, đơn vị vào khỏang thời gian nào trong ngày?

202

Mẫu C: Xã hội

PHIẾU KHẢO SÁT THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA KHU CƯ DÂN CÔNG NGHIỆP ĐỒNG NAI

Ông (bà) vui lòng nghiên cứu Bảng câu hỏi, cho biết các thông tin về các thiết chế

BẢNG TRẢ LỜI - Công việc : ………………………………………………… - Chức vụ : ……………………………………………………… - Dân số : ………………………………………………………… - Mật độ : …………………………………………………………

- Ấp văn hoá : ……………/………………. - Gia đình văn hoá: ………… /…………….

Ngày Khảo sát ………….. tháng…….. năm 200….. Tên xã, phường :…………………………………………….. Huyện:……………………………………………………………. và nhu cầu hưởng thụ văn hoá, văn nghệ, Thể dục thể thao của cư dân trên địa bàn phường, xã của ông (bà) bằng cách đánh dấu (x) hoặc điền vào ô ( …………) ở Bảng Trả lời. BẢNG CÂU HỎI 1. Ông (bà) vui lòng cho biết công việc chính và chức vụ hiện nay. 2. Dân số và mật độ dân cư trên địa bàn xã, phường hiện nay (mật độ người/km2). 3. Trên địa bàn xã, phường nhà có bao nhiêu ấp, gia đình đạt tiêu chuẩn văn hoá ? (Ông (bà) vui lòng cho biết rõ số ấp khu phố văn hoá/tổng số ấp (khu phố) trên địa bàn : Số hộ gia đình văn hoá/tổng số hộ gia đình).

4. Ông (bà) vui lòng cho biết trên địa bàn xã, phường nhà đã có những thiết chế văn hoá do nhà nước xây dựng?; hoạt động của những thiết chế đó có thường xuyên không ?

5. Trên địa bàn xã, phường nhà đã có những trường học, trung tâm đào tạo.

Thường xuyên Không T/xuyên - Thư viện   - Nhà văn hoá   - Khu vui chơi, giải trí   - Công viên   - Rạp chiếu bóng   - Sân khấu (ca, múa, nhạc)   - Sân chơi tập thể   - Bưu điện   - Các thiết chế khác …………………………………………   ……………………………………………  Cấp I  Cấp II  Cấp III  Trung tâm ngoại ngữ & tin học  Trường dạy nghề  Khác : ……………………………………………………………………

203

6. Ông (bà) có thể nhận xét các thiết chế văn hoá trên địa bàn xã phường nhà.

7. Theo ông (bà) cần xây dựng thêm và cải tạo, nâng cấp các thiết chế văn hoá gì cho phù hợp với tình hình hiện nay trên địa bàn phường, xã nhà?

8. Trên địa bàn xã, phường đã có những khu sinh hoạt TDTT hoạt động của các sân chơi này như thế nào ?

9. Ông (bà) có nhận xét về các địa điểm sinh hoạt TDTT trên địa bàn xã, phường nhà.

10. Theo quan điểm của ông(bà), nhà nước cần đầu tư xây dựng thêm và cải tạo, nâng cấp các khu sinh hoạt TDTT gì cho phù hợp với tình hình hiện nay trên địa bàn xã, phường nhà?

- Đáp ứng đủ nhu cầu  - Chưa đáp ứng đủ nhu cầu  - Phù hợp  - Chưa phù hợp  - Ý kiến khác : …………………………………………………. ………………………………………………………………………………….. - Bưu điện  - Thư viện (phòng đọc)  - Nhà văn hoá  - Công viên  - Rạp chiếu phim  - Sâu khấu (ca, múa, nhạc, kịch)  - Sân chơi sinh hoạt tập thể  - Khác : ………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………... Thường xuyên Không T/xuyên Thể dục : Thể dục thể hình   Thể dục thẩm mỹ   Khác : ………………………………  ………………………………  ………………………………  Sân chơi thể thao : Thường xuyên Không t/xuyên Bóng đá   Bóng chuyền   Bóng bàn   Tennis   Cầu lông   Hồ bơi   Khác : ………………………………   ………………………………   ………………………………   - Chưa đáp ứng đủ nhu cầu  - Đáp ứng đủ nhu cầu  - Phù hợp  - Không phù hợp  - Ý kiến khác : ………………………….……………………… ………………………………………………………………………………… Sân chơi thể dục : Thể dục thể hình  Thể dục thẩm mỹ  Thể dục nhịp điệu  Khác : …………………………………………………………… …………………………………………………………… Sân chơi thể thao : Bóng đá  Bóng chuyền 

204

11. Tại xã, phường hiện nay đã có những thiết chế văn hoá tôn giáo, tín ngưỡng. (Nếu có thể xin ông (bà) cho biết cụ thể số lượng).

12. Hoạt động của các thiết chế trên.

13. Các lễ hội và những ngày lễ lớn trong năm của các thiết chế trên. Ông (bà) cho biết tên các lễ, hội, ngày diễn ra, âm lịch hoặc dương lịch.

14. Theo ông (bà) các thiết chế văn hoá trên có phù hợp với nhu cầu về tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân trên địa bàn xã, phường nhà.

15. Trên địa bàn của xã, phường nhà đã có những tụ điểm sinh hoạt văn hoá của tư nhân, hoạt động của các địa điểm này như thế nào ?

Bóng bàn  Tennis  Võ thuật  Cầu lông  Các sân chơi khác :……………………………… …………………………………………………………………………… Số lượng Đình : ……………………………………… Chùa : ……………………………………… Nhà thờ : - Thiên chúa giáo ……………………………………… - Tin lành ……………………………………… Miếu : ………………………………………… Thánh thất ………………………………………… Thường xuyên Không t/xuyên Đình   Chùa   Nhà thờ Thiên chúa giáo   Tin lành   Miếu   Thánh thất   Đình : ……………………………………………………………… ……………………………………………………………… Chùa : ……………………………………………………………… ……………………………………………………………… Nhà thờ : - Thiên chúa giáo:…………………………………………… ……………………………………………………………… - Tin lành ……………………………………………………………… ……………………………………………………………… Miếu : ……………………………………………………………… ……………………………………………………………… Các lễ hội khác : ……………………………………………… ……………………………………………………………… Phù hợp  Không phù hợp  Ý kiến khác : ……………………………………………………… ……………………………………………………………… Thường xuyên Không T/xuyên Đại lý Bưu điện   Điểm cho thuê video   Điểm chiếu phim   Karaoke   Tụ điểm ca nhạc   Quán càfe   Thường xuyên Không T/xuyên Thể dục :

16. Trên địa bàn của xã, phường nhà đã có

205

những khu vực vui chơi thể thao, thể dục của tư nhân, hoạt động của các địa điểm này như thế nào ?

17. Theo ông (bà) những tụ điểm sinh hoạt văn hoá văn nghệ thể dục thể thao của tư nhân có phù hợp với nhu cầu của cư dân.

18. Tại địa phương đã thành lập được các đội, ban văn hoá, văn nghệ.

19. Hoạt động của những đội này như thế nào ?

20. Nguồn kinh phí thu chi của các đội, ban này.

21. Tại địa phương đã thành lập được các đội Thể dục thể thao:

Thể hình   Thẩm mỹ   Nhịp điệu   …………………………………  …………………………………..  Thể thao : Bóng đá   Bóng bàn   Bóng chuyền   Tennis   Cầu lông   Võ thuật   Hồ bơi   …………………………………  …………………………………  …………………………………  - Phù hợp  - Chưa phù hợp  - Bình thường  - Ý kiến khác : ……………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………… - Ban nhạc  - Đội nhạc kèn  - Đội múa  - Đội thông tin cổ động  - Các ban đội khác : ……………………………………… ……………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… - Biểu diễn  - Giao lưu với các xã phường khác  - Không hoạt động  - Hoạt động không thường xuyên  - Hoạt động thường xuyên  Khác : …………………………………………………………… …………………………………………………………… - Tự thu chi  - Được cơ quan, đơn vị tài trợ  - Tư nhân tài trợ  - Khác : …………………………………………………………… ……………………………………………………………… Thể dục : Thể hình  Thẩm mỹ  ……………………………………………………………… ……………………………………………………………… Thể thao : Bóng đá  Bóng chuyền  Bóng bàn 

206

22. Hoạt động của các đội Thể dục thể thao này như thế nào ?

23. Nguồn kinh phí hoạt động của các đội này.

Tennis  Võ thuật  ……………………………………………………………… ……………………………………………………………… ……………………………………………………………… Thường xuyên Không T/xuyên Luyện tập   Thi đấu   Giao hữu   Khác : ……………………………………………………………… ……………………………………………………………… Tự thu chi  Cơ quan, đợn vị tài trợ  Tư nhân tài trợ  Khác : ……………………………………………………………… ……………………………………………………………… - Tăng nhanh  - Tăng chậm  - Không tăng  - Loại hình : + Đa dạng  + Không thay đổi  + Khác : ………………………………………………………… …………………………………………………………

24. Xin ông (bà) cho biết từ sau quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc tuần làm việc 40 giờ thì nhu cầu hưởng thụ văn hoá, văn nghệ. Thể dục thể thao của cư dân ở đây như thế nào ? Loại hình như thế nào ?

25. Đối tượng hưởng thụ các loại hình văn hoá, văn nghệ – TDTT tại địa phương là những đối tượng gì? những đối tượng nào chủ yếu.

- Người lao động tại các KCN  - Cư dân địa phương và các khu dân cư  - Khách vãng lai  - Đối tượng chủ yếu : ……………………………………… ………………………………………………………………

207

Phụ lục 5

DANH SÁCH PHỎNG VẤN

1. Tỉnh Đồng Nai:

- Ông Huỳnh Văn Tới, Ủy viên Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

(2008 - 2009 - 2011)

- Ông Nguyễn Thành Trí, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh (2012);

- Ông Huỳnh Tấn Kiệt, Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch Liên đoàn Lao

động tỉnh (2009 – 2011 - 2012);

- Ông Huỳnh Văn Tịnh - Tỉnh ủy viên, nguyên Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao

động tỉnh (2010).

2. Thành phố Biên Hòa:

- Ông Nguyễn Phú Cường, Ủy viên Trung ương Đảng dự khuyết, Bí thư

Thành ủy Biên Hòa (2012);

- Ông Trần Tuấn Liêm, Chủ tịch UBND thành phố Biên Hòa (2011 - 2012);

- Linh mục Philippe Lê Văn Năng, Chánh xứ Biên Hòa (2012).

3. Huyện Nhơn Trạch:

- Ông Nguyễn Văn Đức, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy (2011 - 2012);

- Ông Lê Vân Chính, Phó Chủ tịch UBND huyện Nhơn Trạch (2011).

4. Huyện Vĩnh Cửu:

- Ông Thái Văn Ri, Phó Bí thư Huyện ủy (2011 - 2012);

- Ông Trần Văn Phước, Trưởng phòng Văn hóa Thông tin (2012).

5. Phỏng vấn tại ba xã:

Xã Thạnh Phú (huyện Vĩnh Cửu):

- Mai Mỹ Duyên, phó Chủ tịch UBND xã (2012);

- Mai Văn Đức - Trưởng ban Văn hóa - Thông tin xã (2012);

- Linh mục Thomas Lâm Văn King - Chánh xứ Tân Triều (2011).

- Huỳnh Văn Cư, sinh 1955, trưởng ấp 1 (2012);

- Phan Văn Châu, sinh 1963, trưởng ấp 2 (2012);

208

- Nguyễn Như Lộc, sinh 1963, trưởng ấp 5(2012);

- Lê Văn Bé, sinh 1948, Địa chỉ, 57A tổ 10 ấp 1 (Trưởng Ban quý tế Đình

Thần Phú trạch ấp 2 xã Thạnh Phú) (2012);

- Trần Thị Ngọc Kiều, sinh 1962, cạnh chùa Lâm Bửu, ấp 2 (2010);

- Trần Thị Ngọc Mai, sinh 1976, cạnh chùa Lâm Bửu, ấp 2 (2011);

- Bùi Thị Bảy, sinh 1960 cạnh chùa Tân Sơn, ấp 6 (2012);

- Chủ nhà trọ Đoàn Hữu Hạnh, sinh 1956, khu nhà trọ, 48A tổ 12 ấp 1, Thạnh

Phú - Vĩnh Cửu (2012);

- Chủ nhà trọ Mạch Văn Chuyển ấp 5, khu nhà trọ, 48A tổ 12 ấp 1 - Thạnh

Phú - Vĩnh Cửu (2010 - 2012);

- Vạn Ngọc Thoáng, sinh 1984, huyện Ninh Phước - Ninh Thuận (2012);

- Phú Thị Ngọc Thuốc, sinh 1984, huyện Thuận Nam - Ninh Thuận (2012);

- Nguyễn Văn Nhuận, huyện Mỹ Tú, Sóc Trăng, công nhân nhà máy

Changshin (2012);

- Trần Thị Kim Hoa sinh 1980, thị trấn Vĩnh An, công nhân nhà máy

Changshin (2012);

- Thập Ngọc Văn Trung sinh 1983, quê Ninh Thuận (2012);

- Nguyễn Minh Toàn sinh 1988, quê Kiên Giang (2012);

- Phạm Thị Nhung sinh 1989, quê Nghệ An (2012).

Xã Hiệp Phước (thành phố Nhơn Trạch):

- Đoàn Văn Trúng, Chủ tịch UBND xã (2012);

- Trương Văn Dũng, Phó Chủ tịch UBND xã (2012);

- Phạm Minh Phước, Chủ tịch Công đoàn công ty TNHH bao bì Việt Long

(2012).

- Anh Kiệt, Chủ tịch Công đoàn công ty Dona Quế Bằng (2011);

- Chú Chương, phó Giám đốc Công ty Dona Quế Bằng (2012);

- Đinh Văn Huyền, phụ trách Văn hóa - Xã hội xã (2012);

- Nguyễn Minh Tới, phụ trách Tôn giáo dân tộc (2009 – 2010 - 2012);

- Phạm Tiến Dũng, phó Giám đốc Trung tâm Văn hóa xã (2012);

209

- Trần Văn Bảy, trưởng ấp 1 (2011 - 2012);

- Nguyễn Ngọc Tân, trưởng ấp 2 (2011 - 2012);

- Đoàn Văn Tường, trưởng ấp 5 (2011 -2012);

- Phan Văn Cải, sinh 1947, ấp 2 xã Hiệp Phước, Trưởng Ban quý tế Đình thần

Phước Kiểng (2011 - 2012);

- Phạm Tiến Dũng, phó Giám đốc Trung tâm Văn hóa xã (2012);;

- Nguyễn Ngọc Quang, chủ nhà trọ ấp 1 (2012);

- Công nhân Nguyễn Hữu Hải, quê Quảng Bình ở trọ ấp 1 (2012);

- Công nhân Nguyễn thị Thanh Thảo, quê Nghệ An ở trọ ấp 2 (2012);

- Công nhân Trần Thanh Minh, ở trọ ấp 3 (2012);

- Nguyễn Văn Tấn, chủ khu nhà trọ ấp 2 (2011 - 2012);

- Huỳnh Thị Trúc, 37 tuổi, Châu Đốc An Giang.

- Tống Thanh Phong, sinh 1967, Tân Châu, An Giang (2012);.

- Tống Thị Quỳnh Như, 26 tuối, sinh An Giang, công ty JUNNGANG VINA

(2012);

- Võ Hoàng Vũ, 34 tuổi, Phú Tân, An Giang, Công

ty HUALON

COORPORATION (2012);.

- Huỳnh Thị Bé Ba, 34 tuổi, quê Phong Điền, Cần Thơ (2012);

Xã Long Thọ (thành phố Nhơn Trạch):

- Ông Võ Văn Tính – Chủ tịch UBND xã (2011 - 2012);;

- Ông Huỳnh Thế Vinh – Phó Chủ tịch UBND xã (2011 - 2012);;

- Ông Nguyễn Tấn Phát, Phó Chủ tịch UBND xã phụ trách khối Văn hóa-Xã

hội kiêm Giám đốc Trung tâm Văn hóa xã (2012);;

Ông Nguyễn Đức Tự, nguyên Phó Chủ tịch UBND xã phụ trách khối Văn hóa

-Xã hội (2011);

- Nguyễn Thông Huyền Vũ, 26 tuổi, cán bộ Ban Văn hóa – Thông tin xã

(2011 - 2012);

- Nữ tu Phan Thị Lệ, 60 tuổi, trụ trì chùa Phước Thạnh (2009 - 2012);

- Nguyễn Văn Xuân, 40 tuổi, trưởng ấp 4 (2011 - 2012);

210

- Mai Văn Dỉ, 73 tuổi, ấp 4 (2008 - 2012);

- Mai Văn Thượng, 73 tuổi, ấp 4 (2011);

- Trần Văn Hoàng, 55 tuổi, ấp 3 (2011);

- Nguyễn Văn Sách, 60 tuổi, chủ nhà trọ ấp 2 (2011 - 2012);

- Nguyễn Thị Thu Sang, 36 tuổi, chủ nhà trọ ấp 1 (2012);

- Mai Sơn Tuyên, 24 tuổi, quê Triệu Sơn, Thanh Hóa, nhân viên bảo vệ Công ty

HUD (2012);

- Lê Văn Tâm, 24 tuổi, quê Triệu Sơn, Thanh Hóa, nhân viên bảo vệ Công ty

HUD (2012);

- Trần Hoàng Phụng, 31 tuổi, xã Phước Minh, Gò Quao, Kiên Giang (2012);

- Nguyễn Ngợi Duyên, 31 tuổi, xã Phước Minh, Gò Quao, Kiên Giang (2012);

- Lê Thị Hồng, 19 tuổi, quê Quảng Bình (2012);