§¹I HäC QUèC GIA Hµ NéI TR¦êNG §¹I HäC KHOA HäC Tù NHI£N
NguyÔn V¨n S¬n
NGHI£N CøU CHÕ T¹O H¹T B¹C Cã CÊU TRóC NANO TR£N NÒN THAN HO¹T TÝNH Vµ §ÞNH H¦íNG øNG DôNG TRONG Xö Lý M¤I TR¦êNG
LUËN V¡N TH¹C SÜ KHOA HäC
Hµ Néi - n¨m 2012
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Lời Cảm Ơn
Tôi xin gửi lời biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới PGS.TS. Nguyễn Hoàng Hải, người thầy đã tận tâm dạy dỗ, chỉ bảo tôi trong suốt thời gian tôi học tập, nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành tới ThS. Trần Quốc Tuấn, ThS. Lưu Mạnh Quỳnh và tập thể nhóm cán bộ trẻ làm việc ở Trung Tâm Khoa Học Vật Liệu, đại học Khoa Học Tự Nhiên vì những đóng góp, chỉ bảo và tạo điều kiện giúp tôi thực hiện nghiên cứu của mình.
Tôi xin gửi những lời tốt đẹp nhất để cảm tạ ơn dạy dỗ của các thầy, cô giáo công tác tại khoa Vật Lý, đại học Khoa Học Tự Nhiên, những người đã truyền dạy cho tôi đủ kiến thức để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng dành những lời cảm ơn sâu sắc tới cán bộ viện Hóa Học – bộ Quốc Phòng và khoa Sinh Học trường đại học Khoa Học Tự Nhiên vì sự hợp tác, giúp đỡ trong quá trình chế tạo than hoạt tính và các thí nghiệm về khả năng diệt khuẩn của hạt nano bạc.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn vô hạn tới gia đình, những người thân thiết nhất của tôi, những người đã luôn bên cạnh, động viên tôi trong cuộc sống và trong những lúc khó khăn nhất.
Tôi xin cam đoan về tính chân thực và khoa học của luận văn khoa học này. Nếu có bất kỳ sai sót hay thiếu trung thực nào tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 11 năm 2011
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
1
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Lời nói đầu
Hạt nano bạc là vật liệu nano thường được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày.
Do tính chất kháng khuẩn, độ dẫn điện cao và tính chất quang học của nó mà nó có
thể có nhiều ứng dụng khác nhau [1]. Tại kích thước nanomet, hạt bạc có diện tích
bề mặt rất lớn do vậy hoạt tính của nó rất mạnh. Hầu hết các loại vi khuẩn đã phát
triển để kháng lại những loại thuốc kháng sinh. Do đó, có một nhu cầu cao trong
tương lai để phát triển những loại thuốc thay thế cho kháng sinh hiện tại. Hạt nano
bạc là một hướng phát triển hứa hẹn do nó không độc với con người ở nồng độ thấp
hơn thuốc kháng sinh, có phổ kháng khuẩn rộng và không có tác dụng phụ.
Về cơ chế diệt khuẩn của hạt bạc có 2 giả thuyết được đưa ra: - bạc có ái lực rất
mạnh với lưu huỳnh và phốt pho, 2 nguyên tố có nhiều trên màng tế bào. Nên khi có
sự xuất hiện của hạt bạc thì hoạt động tế bào bị ảnh hưởng [2]. – Ion bạc thoát ra từ
hạt bạc nguyên chất, tác dụng với phốt pho có trong DNA của tế bào và làm ức chế
hoạt động của enzyme [3].
Với sự phát triển của nền kinh tế, công nghiệp hóa diễn ra khắp mọi nơi trên đất
nước đã khiến vấn đề môi trường ngày càng trở nên đáng lo ngại. Các nhà máy, khu
công nghiệp, làng nghề đã làm ô nhiễm nguồn nước, bầu không khí một cách nặng
nề. Việc xử lý nước thải, không khí ô nhiễm ở qui mô vừa và nhỏ là rất cần thiết.
Than hoạt tính với đặc tính hấp phụ nổi trội đã được sử dụng rất nhiều trong các quá
trình đó.
Than hoạt tính là một dạng cacbon có độ xốp rất cao với diện tích bề mặt có thể lớn trên 1000 m2/g nên chúng dễ dàng hấp phụ các chất khí, các chất tan trong dung
dịch. Than hoạt tính có nhiều ứng dụng khác nhau trong hóa học, môi trường và y
tế. Cách chế tạo than hoạt tính lại tương đối đơn giản và rẻ tiền. Nguyên liệu đầu
vào rất đa dạng, là các loài thực vật rất phổ biến ở nước ta như tre, gáo dừa, mía,
trấu …và các loại than mỏ có trữ lượng lớn ở trong nước. Với diện tích bề mặt lớn,
than hoạt tính hấp phụ các hóa chất dựa trên lực Van Der Waals lên bề mặt của
chúng [4]. Trong môi trường, than hoạt tính được dùng để làm sạch các dung dịch
Luận văn tốt nghiệp cao học
2
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
điện hóa, làm sạch các khí thải độc hại, lọc sạch nguồn nước nhiễm bẩn…Trong y
tế, người ta dùng than hoạt tính để khử độc, ví dụ khi bị ngộ độc thực phẩm, than
hoạt tính được đổ trực tiếp vào dạ dày với khối lượng khác nhau tùy thuộc khối
lượng người đó để hấp thụ hết chất độc có trong thành dạ dày và thành ruột. Sau khi
hấp thụ xong chất độc, than hoạt tính sẽ được loại bỏ ra ngoài…
Với mong muốn kết hợp 2 tính chất nổi bật của 2 loại vật liệu: tính kháng khuẩn
tốt của hạt nano bạc và khả năng hấp phụ mạnh của than hoạt tính, chúng tôi đã chế
tạo 1 loại vật liệu tổng hợp từ 2 loại vật liệu kể trên để ứng dụng những đặc tính nổi
bật ở trên vào định hướng trong xử lý môi trường.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn tên đề tài nghiên cứu là: “Nghiên cứu chế
tạo hạt bạc có cấu trúc nano trên nền than hoạt tính và định hướng trong xử lý
môi trường”.
Nôi dung luận văn gồm có:
Lời nói đầu
Chương 1: Tổng Quan
Trình bày các tính chất của hạt nano bạc. Trình bày về cấu trúc của than hoạt
tính.
Chương 2: Thực Nghiệm
Trình bày chi tiết quy trình chế tạo và các phép đo nghiên cứu tính chất của hạt
nano bạc.
Trình bày qui trình chế tạo than hoạt tính và các phép đo tính chất của than hoạt
tính. Trình bày cách phân tán hạt nano bạc lên nền than hoạt tính.
Chương 3: Kết quả và thảo luận
Trình bày kết quả các phép đo nghiên cứu tính chất hạt nano bạc, than hoạt tính
và hạt nano bạc phân tán trên nền than hoạt tính.
Luận văn tốt nghiệp cao học
3
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Kết luận
Nêu những kết quả đạt được so với mục tiêu đề ra và những đề xuất để hoàn
thiện phương pháp chế tạo hạt nano bạc. Nêu một số định hướng ứng dụng cho vật
liệu được chế tạo.
Luận văn này là một công trình khoa học liên nghành giữa các cơ quan
nghiên cứu, trong đó phần chế tạo than hoạt tính được thực hiện tại Viện Hóa
Học và Môi Trường – Bộ Quốc Phòng, phần nghiên cứu khả năng diệt và ức chế
vi khuẩn được thực hiện tại Khoa Sinh Học – ĐH KHTN.
Luận văn tốt nghiệp cao học
4
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Mục Lục
Chương 1: Tổng Quan Vật Liệu………………………………………………..…8
I.1.Tính chất cơ bản của hạt nano bạc……………………………………...….8
I.1.1. Tính chất cấu trúc……………………………………………………...8
I.1.2. Tính chất hình thái………………………………………………….…8
I.1.3. Hiệu ứng bề mặt………………………………………………………11
I.1.4. Hiệu ứng kích thước………………………………………………….12
I.1.5. Tính chất quang ……….……………………………………………..13
I.1.5.1. Hiện tượng cộng hưởng plasmon bề mặt……………………….13
I.1.5.3. Lí thuyết Mie và hiện tượng plasmon cộng hưởng…..………...14
I.1.5.4. Tính chất quang của hạt bạc……………………………………15
I.1.6. Tính diệt khuẩn……………………………………………………….17
I.1.6.1. Cấu trúc và hình thái của vi khuẩn………………………….…17
I.1.6.2. Cơ chế tiêu diệt vi khuẩn của hạt bạc…………………………..20
I.2. Than hoạt tính (Activated Carbon - AC)……………………………...…21
I.2.1. Sơ lược về than hoạt tính………………………………………….….21
I.2.2. Cấu trúc của than hoạt tính……………………………………….…22
I.2.2.1. Cấu trúc tinh thể……………………………………………....…22
I.2.2.2. Cấu trúc xốp……………………………………………………...23
I.2.2.3. Cấu trúc bề mặt………………………………………………….25
Luận văn tốt nghiệp cao học
5
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
I.2.2.3.1. Nhóm cacbon – oxy bề mặt……………………………...27
Chương 2: Thực nghiệm………………………………………………………….30
II.1. Chế tạo hạt nano bạc (Silver nanoparticles - AgNP)…………………...30
II.2. Chế tạo than hoạt tính (AC)……………………………………………..33
II.2.1. Than hóa……………………………………………….……………..33
II.2.2. Hoạt hóa……………………………………………………………...33
II.3. Phân tán hạt nano bạc trên nền than hoạt tính (AgAC)…………...…..34
II.4. Khả năng hấp phụ của than hoạt tính (AC) và than hoạt tính tẩm nano
bạc (AgAC)……………………………………………………………………..…35
II.4.1. Hấp phụ xanh mêtylen (MB)………………………………………..35
II.4.2. Hấp phụ Asen……………………………………………………..…37
II.5. Thí nghiệm về khả năng kháng khuẩn………………………………….37
II.5.1 Khả năng diệt khuẩn AgAC…………………………………………38
II.5.2 Nồng độ ức chế tối thiểu của dung dịch nano bạc………………….38
II.6. Các phép đo khảo sát tính chất của hạt nano bạc và than hoạt tính….38
II.6.1. Giản đồ nhiễu xạ tia X………………………………………………38
II.6.2. Ảnh hiển vi điện tử truyền qua……………………………………..39
II.6.3. Phổ hấp thụ - truyền qua....................................................................39
II.6.4. Phổ tán xạ năng lượng tia X...............................................................40
II.6.5. Đo phân bố lỗ và diện tích bề mặt của than hoạt tính (BET).........40
II.6.6. Đo phổ hấp thụ nguyên tử (AAS)......................................................42
Luận văn tốt nghiệp cao học
6
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
II.6.7. Đo thế Zeta…………………………………………………………...43
Chương 3: Kết quả và thảo luận…………………………………………………46
III.1. Cấu trúc, hình thái học và tính chất quang của AgNP, AC và
AgAC………………………………………………………………………………46
III.1.1. Giản đồ nhiễu xạ tia X của AgNP………………………………….46
III.1.2. Ảnh hiển vi điện tử truyền qua của AgNP..………………………48
III.1.3. Phổ hấp thụ - truyền qua của AgNP................................................49
III.1.4. Ảnh hưởng của nồng độ TSC lên kích thước AgNP……………...51
III.1.5. Ảnh hưởng của mật độ dòng điện phân lên kích thước AgNP…..54
III.1.6. Than hoạt tính (Activated Carbon – AC)…………………………55
III.1.7. Than hoạt tính tẩm hạt nano bạc (AgAC)………………………...57
III.2. Nghiên cứu khả năng diệt khuẩn của AgNP và AgAC………………..60
III.2.1. Nghiên cứu định tính khả năng diệt khuẩn của AgNP và AgAC..60
III.2.2. Nghiên cứu định lượng khả năng kháng khuẩn của AgNP - Nồng
độ ức chế tối thiểu (MIC)…………………………………………………………61
III.3. Nghiên cứu khả năng hấp phụ của AC và AgAC……………………...62
III.3.1. Cơ chế hấp phụ MB của AC……………………………………….62
III.3.2. Ảnh hưởng của pH lên khả năng hấp phụ MB của AC………….67
III.3.3. So sánh khả năng hấp phụ của AC và AgAC……………………..68
Kết Luận…………………………………………………………………………..72
Định hướng nghiên cứu tiếp theo………………………………………………..74
Tài liệu tham khảo………………………………………………………………..75
Luận văn tốt nghiệp cao học
7
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Chương 1: Tổng Quan Vật Liệu
I.1.Tính chất cơ bản của hạt nano bạc
I.1.1. Tính chất cấu trúc
Hạt bạc kim loại thường có cấu trúc tinh thể kiểu
mạng lập phương tâm mặt (hình 1.1), với thông số
của ô cơ sở là: a = 4.08Ǻ, b = 4.08 Ǻ, c = 4.08 Ǻ, α
= 90°, β = 90°, γ = 90° [5, 14, 15]. Các nguyên tử
được bố trí tại 8 đỉnh của hình lập phương tương
ứng với tọa độ (000), (100), (110), (010), (001),
(101), (111), (011) và 6 nguyên tử bố trí ở tâm của
6 mặt của ô cơ sở tương ứng có tọa độ (1/2 0 1/2),
(1 1/2 1/2), (1/2 1 1/2), (0 1/2 1/2), (1/2 1/2 0), (1/2
Hình 1.1. Cấu trúc lập phương tâm mặt.
1/2 1). Từ đó ta có số nguyên tử trong 1 ô cơ sở là:
6*1/2+8*1/8=4. Ngoài ra, hạt bạc còn tồn tại cả cấu
trúc lục giác [7, 17, 18].
Giản đồ nhiễu xạ tia X của hạt bạc có cấu trúc lập phương tâm mặt (hình 1.2) xuất hiện các đỉnh đặc trưng ở vị trí 38.140, 44.340, 65.540, 77.470 tương ứng với
Hình 1.2. Giản đồ nhiễu
xạ tia X của hạt bạc có
cấu trúc tinh thể lập
phương tâm mặt [19].
các mặt (111), (200), (220), (311) trong phổ chuẩn nhiễu xạ tia X của hạt bạc. [19]
Luận văn tốt nghiệp cao học
8
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Nhóm không gian của hạt bạc có cấu trúc lập phương tâm mặt và lục giác lần
lượt là P63/mmc(nhóm 194) và Fm -3m (nhóm 225). Nhiều công trình thực nghiệm đã
công bố về phổ tán xạ Raman của hạt bạc, tuỳ điều kiện chế tạo mà trên phổ xuất
hiện các đỉnh tán xạ ở số sóng khác nhau. Đặc biệt đáng chú ý là hiện tượng tăng
cường tán xạ có nguồn gốc từ hiện tượng cộng hưởng plasmon bề mặt.
I.1.2. Tính chất hình thái
Để thỏa mãn nguyên lí năng lượng cực tiểu, tùy điều kiện chế tạo mà hạt bạc có
thể sắp xếp với nhau theo các kiểu khác nhau (hình 1.3) và hình thành nên nhiều
hình dạng của hạt bạc như: hình cầu (sphere), que (rod), đĩa phẳng (plate), tam giác
Hình 1.3. Các kiểu sắp xếp khác nhau của hạt bạc [8].
(triangle), dây (wire), lập phương (cubic), dạng hoa (flower), hạt gạo (rice)...
Hình dạng hay gặp nhất của hạt bạc là hình cầu với đường kính từ vài tới vài
chục nanômét. Hình 1.4 trình bày ảnh TEM của hạt bạc chế tạo bằng phương pháp
hóa khử [6]. Gốc bạc xuất phát từ muối bạc nitrat, được khử bằng chất khử thông
dụng là NaBH4. Quá trình khử hạt bạc diễn ra trên nền micells gồm (18-3(OH)-
18/n-heptane + 1-butanol/H2O) và hạt bạc sinh ra được phân tán trên nền này. Với
môi trường phân tán có hoạt tính bề mặt tốt như vậy, hạt bạc hình thành dưới dạng
Hình 1.4. Ảnh TEM của hạt bạc khử từ muối bạc
nitơrát bằng NaBH4 phân bố trong micell của germini.
Kích thước trung bình của các hạt là 7nm [6].
hình cầu có đường kính trung bình 7nm và có sự phân tách rõ ràng.
Luận văn tốt nghiệp cao học
9
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Dây nano bạc được chế tạo bằng cách khử muối bạc nitrat với ethylenglycol (EG)
trong môi trường có chứa polyvinylpyrolidone (PVP) [8]. PVP đóng vai trò lưới bắt
giữ các tác nhân để điều khiển tốc độ phát triển của các mặt phẳng mạng khác nhau,
do đó tinh thể được phát triển một cách dị hướng trong một môi trường có tính đẳng
Hình 1.5. Ảnh TEM của dây nano bạc chế tạo trên nền PVP[8].
Hình 1.6. Ảnh TEM của đĩa bạc có kích thước 283nm chế tạo với CTAB (a) và mô hình xếp
các phân tử CTAB lên bề mặt hạt bạc (b) [8].
hướng cao, tạo điều kiện để dây nano phát triển (hình 1.5).
Đĩa nano với chiều dày 20 – 30nm và cạnh 40 – 300nm cũng đã chế tạo thành
công bằng cách khử bạc trong môi trường hoạt hóa bề mặt là CTAB [8]. Do sự hấp
thụ các phân tử CTAB ở mặt phẳng mạng (111) là tốt hơn so với các mặt khác nên
những phân tử CTAB bao bọc hạt bạc theo mặt phẳng này và tạo thành đĩa (hình
1.6). Hạt bạc có dạng hình lập phương đã được chế tạo bằng cách khử bạc nitrat
trong môi trường có chứa PVP (hình 1.7) [8]. Các khối hộp có cạnh cỡ 175nm và có
thể thay đổi theo nồng độ muối bạc hay tỉ số mol PVP so với muối bạc.
Luận văn tốt nghiệp cao học
10
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Hạt bạc với hình dáng của bông hoa được chế tạo bằng cách khử bạc nitrat với
Hình 1.7. Ảnh TEM của hạt bạc có dạng hình lập phương [8] và hình bông hoa [9].
axít acôbic (hình 1.7) [9].
I.1.3. Hiệu ứng bề mặt
Hạt bạc cũng như những vật liệu khác, khi chúng có kích thước nano thì các hiệu
ứng liên quan đến bề mặt sẽ trở nên quan trọng, làm cho tính chất của vật liệu khác
biệt so với khi chúng ở dạng khối. Khi vật liệu có kích thước nhỏ thì tỉ số (f) giữa số
nguyên tử trên bề mặt và tổng số nguyên tử của vật liệu gia tăng. Do nguyên tử trên
bề mặt có nhiều tính chất khác biệt so với tính chất của các nguyên tử ở bên trong
lòng vật liệu nên khi kích thước vật liệu giảm đi thì hiệu ứng có liên quan đến các
nguyên tử bề mặt, hay còn gọi là hiệu ứng bề mặt tăng lên do tỉ số f tăng.
Khi kích thước của vật liệu giảm đến nm thì giá trị f này tăng lên đáng kể. Sự
thay đổi về tính chất có liên quan đến hiệu ứng bề mặt không có tính đột biến theo
sự thay đổi về kích thước vì f tỉ lệ nghịch với bán kính hạt (r) theo một hàm liên tục.
Hiệu ứng bề mặt luôn có tác dụng với tất cả các giá trị của kích thước, hạt càng bé
thì hiệu ứng càng lớn và ngược lại. Ở đây không có giới hạn nào cả, ngay cả vật liệu
khối truyền thống cũng có hiệu ứng bề mặt, chỉ có điều hiệu ứng này nhỏ thường bị
bỏ qua [44].
Luận văn tốt nghiệp cao học
11
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Bảng 1: Số nguyên tử và năng lượng bề mặt của hạt nano hình cầu [44].
Đường kính Số Tỉ số nguyên tử Năng lượng bề Năng lượng bề hạt nano nguyên trên bề mặt mặt/Năng lượng mặt (erg/mol) (nm) tử (%) tổng (%)
10 30 000 20 4.08×1011 7.6
5 4000 40 8.16×1011 14.3
2 250 80 2.04×1012 35.3
1 30 90 9.23×1012 82.2
I.1.4. Hiệu ứng kích thước
Khác với hiệu ứng bề mặt, hiệu ứng kích thước của vật liệu nano đã làm cho vật
liệu này trở nên kì lạ hơn nhiều so với các vật liệu truyền thống. Đối với một vật
liệu, mỗi một tính chất của vật liệu này đều có một độ dài đặc trưng. Độ dài đặc
trưng của rất nhiều các tính chất của vật liệu đều rơi vào kích thước nm.
Ở vật liệu khối, kích thước vật liệu lớn hơn nhiều lần độ dài đặc trưng này dẫn
đến các tính chất vật lí đã biết. Nhưng khi kích thước của vật liệu có thể so sánh
được với độ dài đặc trưng đó thì tính chất có liên quan đến độ dài đặc trưng bị thay
đổi đột ngột, khác hẳn so với tính chất đã biết trước đó. Ở đây không có sự chuyển
tiếp một cách liên tục về tính chất khi đi từ vật liệu khối đến vật liệu nano. Chính vì
vậy, khi nói đến vật liệu nano, chúng ta phải nhắc đến tính chất đi kèm của vật liệu
đó [44].
Luận văn tốt nghiệp cao học
12
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Bảng 2: Sự liên hệ giữa đường kính hạt, mật độ khối lượng và mật độ hạt nano bạc trong dung dịch [50].
Đường kính hạt Mật độ khối lượng Mật độ hạt
(nm) (mg/mL)
10 nm 0.02 mg/mL
20 nm 0.02 mg/mL
40 nm 0.02 mg/mL
60 nm 0.02 mg/mL
100 nm 0.02 mg/mL (số hạt/mL) 3.6x1012 4.5x1011 5.7x1010 1.7x1010 3.6x109
I.1.5. Tính chất quang
Các hạt nano bạc có khả năng hấp thụ và tán xạ ánh sáng đặc biệt rõ rệt. Khác
với nhiều loại chất nhuộm hay sắc tố, nano bạc có màu sắc phụ thuộc vào kích
thước và hình dạng của hạt. Nhờ cộng hưởng plasmon bề mặt mà hạt nano bạc có
những tính chất tán xạ và hấp thụ mạnh một cách khác thường.
I.1.5.1. Hiện tượng cộng hưởng plasmon bề mặt
Hiện tượng cộng hưởng plasmon bề mặt là hiện tượng các hạt nano kim loại hấp
thụ mạnh ánh sáng kích thích khi tần số của ánh sáng kích thích cộng hưởng với tần
số dao động plasma của các điện tử dẫn trên bề mặt hạt kim loại (surface plasmon
Hình 1.8. Quá trình dao động tập thể của các điện tử trên bề mặt hạt kim loại, tương
đương với một lưỡng cực điện dao động [51].
resonance, SPR).
Luận văn tốt nghiệp cao học
13
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Dưới tác dụng của điện trường của sóng ánh sáng chiếu tới, các điện tử trên bề
mặt hạt kim loại sẽ phân bố lại làm cho chúng bị phân cực điện tạo thành lưỡng cực
điện (hình 1.8). Tương tác của các lưỡng cực điện này với điện trường của sóng ánh
sáng đã gây ra hiện tượng cộng hưởng trên [10, 20].
I.1.5.2. Lí thuyết Mie và hiện tượng plasmon cộng hưởng
Lí thuyết Mie được đưa ra vào năm 1908, xem xét tương tác của các hạt dẫn điện
hình cầu trong một môi trường đồng nhất với véctơ cường độ điện trường [10]. Lí
thuyết Mie đã giải một trong số các phương trình của Maxwell để mô tả tương tác
này. Ngày nay, lí thuyết này vẫn giữ vai trò quan trọng trong nghiên cứu các hạt
nano kim loại vì tính đơn giản, và có lời giải chính xác cho phương trình Maxwell.
Trong tính toán của Mie, hàm đặc trưng cho tương tác - hàm điện môi - được coi là
hàm của hai đối số: bán kính R của các quả cầu và tần số góc . Các kết quả tính
Hình 1.9. Sự xuất hiện các bức xạ tương ứng với các dao động bậc cao trong tương tác
với ánh sáng khi kích thước hạt kim loại tăng. a) Tương tác của hạt kim loại với ánh sáng
(hạt có kích thước nhỏ hơn bước sóng ánh sáng). b) Bức xạ lưỡng cực. c) Bức xạ tứ cực
của hạt có kích thước lớn [10].
toán phù hợp với các hiệu ứng liên quan tới kích thước [10, 20].
Khi coi các hạt kim loại có tính đối xứng cầu, chúng ta có thể xem xét điện
trường là một trường đa cực [10, 20] và tìm dao động đa cực (hình 1.9) của các hạt
Luận văn tốt nghiệp cao học
14
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
này trong tương tác với véctơ cường độ điện trường của sóng ánh sáng (lưỡng cực,
tứ cực…). Khi hạt có kích thước càng lớn thì sự phân cực dưới tác động của điện
trường càng không đồng nhất giữa các phần của hạt kim loại, dao động bậc cao
càng trở nên đáng kể (hiệu ứng lệch chuẩn).
Mie giải phương trình Maxwell với điều kiện ánh sáng được xét như sóng phẳng
tán xạ từ hạt nano hình cầu [10]. Ngoại trừ ở bề mặt hạt, ánh sáng được coi như
truyền thẳng trong môi trường đẳng hướng, đồng nhất. Trong trường hợp đó,
phương trình Maxwell có dạng:
Khi = -2εm sẽ xuất hiện đỉnh hấp thụ, tương ứng với cộng hưởng plasmon
bề mặt (SPR). Trong đó: εm là hằng số điện môi của môi trường, ε1 là phần thực của
hàm điện môi của kim loại.
Lí thuyết Mie được áp dụng khi kích thước hạt nhỏ hơn nhiều lần so với bước sóng
của ánh sáng kích thích.
Trong lí thuyết của Mie, vẫn còn một số những thiếu sót, bỏ qua ảnh hưởng của
một số thông số khác tới tính chất quang của hạt kim loại trong dung dịch như: ảnh
hưởng của nồng độ dung dịch tới cường độ hấp thụ (tuân theo định luật Beer -
Lambert), ảnh hưởng của môi trường (độ nhớt) tới hiện tượng cộng hưởng quang,
hiện tượng cộng hưởng quang học khi hạt không có dạng hình cầu,… Những yếu tố
này cũng đã được nghiên cứu trên cơ sở thực nghiệm nhưng chưa có những lí thuyết
tính toán thích ứng.
I.1.5.3. Tính chất quang của hạt bạc
Đối với các hạt kim loại có tính đối xứng cầu, các phương dao động là như nhau
và chỉ cộng hưởng ở một tần số nhất định.
Luận văn tốt nghiệp cao học
15
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Hình 1.10. Đỉnh Plasmon cộng hưởng của hạt bạc [6].
Nhưng hạt nano bạc dạng hình cầu có một tính chất quang độc đáo là bước sóng
ứng với đỉnh cộng hưởng plasmon có thể thay đổi từ 400 nm (ánh sáng tím) cho đến
530 nm (ánh sáng xanh lục nhạt) nếu như ta thay đổi kích thước hạt hoặc chiết suất
môi trường bao quanh bề mặt hạt. Với hình dạng thanh hoặc đĩa, đỉnh cộng hưởng
Hình 1.11. Sự phụ thuộc của vị trí đỉnh plasmon vào kích thước hạt nano theo tính toán
của MiePlot và hạt bạc được khử từ AgNO3 bằng TSC [15].
plasmon của nano bạc có thể dịch chuyển tới tận vùng hồng ngoại [50].
Hình 1.11 chỉ ra sự tăng tuyến tính của vị trí đỉnh cộng hưởng hấp thụ khi kích
thước hạt nano bạc tăng. Một trong các phần mềm đã được xây dựng để tính toán
tương tác giữa các hạt nano kim loại với ánh sáng là MiePlot, dự đoán tương đối
chính xác kết quả thực nghiệm [15].
Luận văn tốt nghiệp cao học
16
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Khi nồng độ dung dịch cao hoặc môi trường kém hoạt động bề mặt, kích thước
hạt tạo thành thường lớn, do đó đỉnh plasmon cộng hưởng bị dịch về bước sóng dài
[10, 20].
Hiện tượng cộng hưởng plasmon này cũng xuất hiện trong phổ tán xạ Raman gây
ra tán xạ Raman tăng cường (enhancement Raman scattering) và là cơ sở để ứng
dụng trong công nghệ chụp ảnh có độ phân giải cao.
I.1.6. Tính diệt khuẩn
I.1.6.1. Cấu trúc và hình thái của vi khuẩn
Vi khuẩn là sinh vật đơn bào, có nhiều hình thái, kích thước và cách sắp xếp khác
nhau. Đường kính của phần lớn vi khuẩn nằm trong khoảng 0.2 đến 2.0 µm, chiều
dài cơ thể khoảng 2.0 đến 8.0 µm [43]. Những hình dạng chủ yếu của vi khuẩn là
hình cầu, hình que, hình dấu phẩy, hình xoắn, hình có cuống, hình có sợi…. Ví dụ như trực khuẩn đại tràng Escherichiacoli (E.Coli) có kích thước 2.5×0.5 µm2 (1 tỷ
Bảng 3. So sánh cấu trúc thành tế bào vi khuẩn Gram dương và Gram âm [43].
vi khuẩn E.Coli nặng 1mg) và thường có dạng hình que.
Thành phần Tỉ lệ %.wt trong thành tế bào (khô)
Gram dương Gram âm
Peptidoglycan 30 – 95 5 – 20
Axit teicoic Cao 0
Lipoit hầu như không có 20
Protein Không có hoặc rất ít Cao
Vì vi khuẩn có kích thước nhỏ bé mà thường trong suốt, nên rất khó soi tươi
(quan sát trực tiếp dưới kính hiển vi). Năm 1884, nhà vi khuẩn học Đan Mạch Hans
Luận văn tốt nghiệp cao học
17
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Christian Gram đã phát minh ra phương pháp nhuộm màu Gram [43]. Với phương
pháp này, người ta đã chia vi khuẩn làm hai nhóm lớn là Gram âm và Gram dương.
Cấu tạo cơ bản của tế bào vi khuẩn gồm có: thành tế bào (cell wall), màng tế bào
chất (cytoplasmic membrane), tế bào chất (cytoplasm), thể nhân (nuclear body), bao
nhầy, tiên mao, khuẩn mao, bào tử [43].
Thành tế bào là lớp ngoài cùng có độ bền nhất định để duy trì hình dạng tế bào,
có khả năng bảo vệ tế bào. Thành phần cấu tạo của thành tế bào rất phức tạp, gồm
có peptidoglycan, axit teicoic, lipoit và protein. Cấu trúc thành tế bào của vi khuẩn
Gram âm và dương là rất khác nhau (bảng 3).
Peptidoglican (PG) là một loại polyme xốp, khá cứng và bền vững, bao quanh
màng tế bào như mạng lưới [43]. Cấu trúc cơ bản của peptidoglycan gồm có ba
thành phần: N- axetylglucozamin (NAG), axit N – axetylmuramic (NAM) và
tetrapeptit. Để tạo thành mạng lưới cứng, tetrapeptit trên mỗi chuỗi PG liên kết chéo
với tetrapeptit trên chuỗi PG khác.
Axit teicoic là một thành phần đặc trưng của tế bào vi khuẩn Gram dương. Axit
teicoic là polime của ribitol và glixerol photphat liên kết với PG hoặc màng tế bào
chất. Do tích điện âm, axit teicoic giúp cho việc vận chuyển các ion dương vào, ra
tế bào để dự trữ photphat.
Lipit được cấu tạo từ các đường và axit béo.
Luận văn tốt nghiệp cao học
18
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Hình 1.12. Cấu trúc đầu và đuôi của photpholipit [43].
Màng tế bào chất hay còn gọi là màng tế bào hay màng chất có chiều dày 4 – 5
nm. CM cấu tạo bởi 2 lớp photpholipit (PL) và các protein. Mỗi phân tử PL có cấu
trúc đầu và đuôi (hình 1.12), chứa một đầu tích điện phân cực, háo nước (photphat)
và một đuôi không tích điện, không phân cực, kị nước (hiđrôcacbon). Các PL làm
hóa lỏng màng tế bào và cho phép các protein di động tự do và rất cần thiết cho các
chức năng của màng.
Tế bào chất là một vùng dịch keo chứa các chất hòa tan trong suốt và các hạt như
riboxom (70%.wt) với khoảng 80% khối lượng riboxom là nước. Trong tế bào chất
có protein, axit nucleic, hidratcacbon, lipit, các ion vô cơ…
Luận văn tốt nghiệp cao học
19
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
I.1.6.2. Cơ chế tiêu diệt vi khuẩn của hạt bạc
Sự tấn công vi khuẩn và virút của các chất diệt khuẩn là do chúng tác động đến
quá trình tồn tại, sinh trưởng hay sinh sản của những vi sinh vật này. Có rất nhiều
giả thuyết khác nhau về cơ chế diệt khuẩn của hạt bạc.
Hạt bạc tấn công và làm phá vỡ cấu trúc của màng tế bào vi khuẩn do tác động cơ
học? Liệu có sự phá vỡ liên kết hóa học khi xảy ra phản ứng giữa hạt bạc với các vị
trí chứa lưu huỳnh và phốtpho trên chuỗi PL của màng tế bào hoặc trong các enzim
bên trong tế bào? Liệu hạt bạc có khả năng gây biến đổi môi trường sống của vi
khuẩn làm chúng không còn điều kiện để sinh trưởng và phát triển? Tất cả những
giả thuyết trên đều đang gây tranh cãi.
Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng tỏ chủ yếu sự tấn công của hạt bạc đến vi
khuẩn tập trung vào lớp peptidoglycan của thành tế bào vi khuẩn [5, 11 - 13]. Do
đó, hạt bạc không có khả năng tấn công đến các tế bào của động vật bậc cao, đặc
biệt là con người. Đây là lí do khiến hạt bạc được sử dụng làm tác nhân diệt khuẩn.
Với các vi khuẩn khác nhau, thành tế bào có chiều dày khác nhau, và thành phần
trên màng tế bào khác nhau ở một số điểm nào đó khiến chúng có thể dễ hay khó bị
tấn công bởi các tác nhân diệt khuẩn như hạt bạc. Hình 1.13 là ảnh chụp TEM cho
thấy sự tấn công của các nguyên tử bạc tới màng tế bào vi khuẩn E.Coli.
Nhiều nghiên cứu khác cũng đã khẳng định sự tấn công vào các enzim bên trong
tế bào chất của vi khuẩn qua phân tích sản phẩm tạo thành xung quanh vi khuẩn sau
khi nó tiếp xúc với hạt bạc. Theo Sondi và Salopek – Sondi, khả năng diệt khuẩn
của hạt bạc tới các vi khuẩn Gram âm là do sự hình thành các “pits” bên trong thành
tế bào vi khuẩn [11]. Sau đó, bạc được gom lại trong màng tế bào làm tế bào trở nên
thẩm thấu tốt tất cả các chất, tức là mất khả năng kháng nguyên và sẽ chết. Theo
Amro [11], hạt kim loại tấn công vào tế bào gây ra sự hình thành các “pits” có hình
dạng lộn xộn ở bên trong màng tế bào và thay đổi khả năng thẩm thấu của nó, và
giải phóng ra các phân tử lipopolisaccarit và protein. Chúng ta có thể tiến hành
kiểm tra sự tăng cường các axit nucleic và protein trong môi trường nuôi vi khuẩn
Luận văn tốt nghiệp cao học
20
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
[11] qua xác định sự tăng cường độ của đỉnh hấp thụ (optical density - OD) ở bước
sóng khoảng 260 nm và 595 nm hoặc sự thay đổi phổ hấp thụ khi các yếu tố vi
lượng được giải phóng khỏi tế bào vi khuẩn. Sự tấn công vào ADN trong các enzym
của tế bào vi khuẩn cũng có thể do bạc nguyên chất bị chuyển hoá thành ion bạc và
Hình 1.13. Ảnh TEM của tế bào vi khuẩn E.Coli không tiếp xúc với hạt bạc (a) và tiếp xúc
với hạt bạc (b) và hình ảnh phóng đại (c và d) [11].
tấn công vào các vị trí chứa phốtpho của ADN và ức chế hoạt động của enzym.
Danilczuk và cộng sự đã khẳng định khả năng diệt khuẩn của hạt bạc là do hình
thành các gốc tự do có gắn hạt bạc (Ag – generated free radicals) qua nghiên cứu
ESR của hạt bạc [12].
Ion bạc cũng được chứng minh là có khả năng diệt khuẩn [13]. Cơ chế diệt khuẩn
của ion bạc được giải thích là do lực hút tĩnh điện của các ion bạc mang điện tích
dương với thành tế bào mang điện tích âm. Theo một nhóm nghiên cứu của Canada,
tác dụng diệt khuẩn của ion bạc trong muối bạc đối với Vibrio cholerae là do sự giải phóng các proton dương H+ [13].
I.2. Than hoạt tính (Activated Carbon - AC)
I.2.1. Sơ lược về than hoạt tính
Than hoạt tính là 1 chất hấp phụ được sử dụng phổ biến. Nó không phải là một
đơn chất mà được mô tả như một nhóm các chất. Thành phần cấu tạo chính của than
Luận văn tốt nghiệp cao học
21
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
hoạt tính là các nguyên tử cacbon. Để tạo nên vật liệu cacbon trong than hoạt tính
phải nhờ quá trình cacbon hóa hay còn gọi là quá trình hoạt hóa. Nung vật liệu
cacbon tới nhiệt độ cao nhưng dưới 800 °C trong điều kiện loại bỏ không khí, quá
trình này được gọi là quá trình than hóa. Quá trình hoạt hóa có thể là quá trình nhiệt,
vật lý, hóa học. Trong suốt quá trình hoạt hóa, trạng thái xốp của vật liệu cacbon
tăng lên. Sự phân bố lỗ cũng bị ảnh hưởng bởi sự tăng độ xốp.
Than hoạt tính có diện tích bề mặt lớn (từ 500 tới 2500 m2/g). Do diện tích bề
mặt lớn, than hoạt tính có nhiều vị trí có khả năng hấp thụ. Các lỗ trong than hoạt
tính được phân chia thành 3 nhóm chính: nhóm lỗ nhỏ (d <2 nm), nhóm lỗ vừa (2
nm < d < 5 nm) và nhóm lỗ lớn (d > 5 nm) [27].
I.2.2. Cấu trúc của than hoạt tính
I.2.2.1. Cấu trúc tinh thể
Thành phần chủ yếu của than hoạt tính là cacbon, ngoài ra còn có một lượng nhỏ
các oxit kim loại, các oxit này ở dạng tro và hàm lượng của nó phụ thuộc vào
nguyên liệu ban đầu.
Theo các kết quả nghiên cứu nhiễu xạ tia X thì than hoạt tính bao gồm các vi tinh
thể cacbon. Các vi tinh thể này tạo thành lớp, mỗi nguyên tử cacbon ở trạng thái lai
hóa sp2 liên kết với 3 nguyên tử cacbon xung quanh cùng nằm trên 1 lớp. Trong các
lớp, các nguyên tử cacbon sắp xếp thành hình 6 cạnh, các vòng này liên kết với
nhau thành 1 lớp vô tận. Các nguyên tử cacbon khác lớp liên kết với nhau bằng lực
Van Der Waals nên than thường mềm và sờ vào thấy trơn, khoảng cách giữa các
nguyên tử cacbon trong cùng 1 lớp là 1.415 A° và lớn hơn so với liên kết C – C
(1.39 A°) trong vòng benzene, liên kết Π trong than hoạt tính là không ổn định chỗ
trong toàn tinh thể [27].
Luận văn tốt nghiệp cao học
22
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Hình 1.14. Cấu trúc không gian giống mạng Graphite của than hoạt tính [27].
Tuy nhiên so với cấu trúc mạng lưới tinh thể graphite thì trong than hoạt tính các
Hình 1.15. Cấu trúc của 1 lớp than hoạt tính [52].
lớp vi tinh thể sắp xếp lộn xộn không có trật tự.
I.2.2.2. Cấu trúc xốp
Than hoạt tính được đặc trưng bởi cấu trúc xốp đa phân tán, với nhiều phương
thức phân bố thể tích lỗ theo kích thước. Đặc tính cấu trúc xốp của than hoạt tính là
chứa các loại lỗ với kích thước khác nhau.
Than hoạt tính với sự sắp xếp ngẫu nhiên của các vi tinh thể và với liên kết ngang
bền giữa chúng làm cho than hoạt tính có một cấu trúc lỗ xốp khá phát triển. Chúng có tỷ trọng tương đối thấp (nhỏ hơn 2 g/cm3) và mức độ graphit hóa thấp. Cấu trúc
bề mặt này được tạo ra trong quá trình than hóa và phát triển hơn trong quá trình
hoạt hóa. Quá trình hoạt hóa làm tăng thể tích và làm rộng đường kính lỗ. Cấu trúc
Luận văn tốt nghiệp cao học
23
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
lỗ và sự phân bố cấu trúc lỗ của chúng được quyết định chủ yếu từ bản chất nguyên
liệu ban đầu và phương pháp than hóa. Sự hoạt hóa cũng loại bỏ cacbon không phải
trong cấu trúc, làm lộ ra các tinh thể dưới sự hoạt động của các tác nhân hoạt hóa và
cho phép phát triển cấu trúc vi lỗ xốp. Trong pha cuối cùng của phản ứng, sự mở
rộng của các lỗ tồn tại và sự tạo thành các lỗ lớn bằng sự đốt cháy các vách ngăn
giữa các lỗ cạnh nhau được diễn ra. Điều này làm cho các lỗ trống có chức năng vận
chuyển và các lỗ lớn tăng lên, dẫn đến làm giảm thể tích vi lỗ.
Theo Dubinin và Zaveria, than hoạt tính vi lỗ xốp được tạo ra khi mức độ đốt
cháy (burn-off) nhỏ hơn 50% và than hoạt tính lỗ macro khi mức độ đốt cháy là lớn
hơn 75% . Khi mức độ đốt cháy trong khoảng 50 – 75% sản phẩm có hỗn hợp cấu
trúc lỗ xốp chứa tất cả các loại lỗ [52].
Nói chung than hoạt tính có bề mặt riêng phát triển và thường được đặc trưng
bằng cấu trúc nhiều đường mao dẫn phân tán, tạo nên từ các lỗ với kích thước và
hình dạng khác nhau. Người ta khó có thể đưa ra thông tin chính xác về hình dạng
của lỗ xốp. Có vài phương pháp được sử dụng để xác định hình dạng của lỗ, các
phương pháp này đã xác định than hoạt tính thường có dạng mao dẫn mở cả hai đầu
hoặc có một đầu kín, thông thường có dạng rãnh, dạng chữ V và nhiều dạng khác.
Than hoạt tính có lỗ xốp từ 1 nm đến vài nghìn nm. Dubinin đề xuất một cách
phân loại lỗ xốp, các lỗ được chia thành 3 nhóm: lỗ nhỏ, lỗ trung và lỗ lớn.
Lỗ nhỏ (Micropores) có kích thước cỡ phân tử, bán kính hiệu dụng nhỏ hơn 2
nm. Sự hấp phụ trong các lỗ này xảy ra theo cơ chế lấp đầy thể tích lỗ, và không
xảy ra sự ngưng tụ mao quản. Năng lượng hấp phụ trong các lỗ này lớn hơn rất
nhiều so với lỗ trung hay bề mặt không xốp vì sự nhân đôi của lực hấp phụ từ các vách đối diện nhau của vi lỗ. Nói chung chúng có thể tích lỗ từ 0.15 – 0.7 cm3/g.
Diện tích bề mặt riêng của lỗ nhỏ chiếm 95% tổng diện tích bề mặt của than hoạt
tính. Dubinin còn đề xuất thêm rằng cấu trúc vi lỗ có thể chia nhỏ thành 2 cấu trúc
vi lỗ bao gồm các vi lỗ đặc trưng với bán kính hiệu dụng nhỏ hơn 0.6 – 0.7 nm và
Luận văn tốt nghiệp cao học
24
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
siêu vi lỗ với bán kính hiệu dụng từ 0.7 đến 1.6 nm. Cấu trúc vi lỗ của than hoạt
tính được xác định rõ hơn bằng hấp phụ khí và hơi và công nghệ tia X.
Lỗ trung (Mesopore) hay còn gọi là lỗ vận chuyển có bán kính hiệu dụng từ 2 đến 50 nm, thể tích của chúng thường từ 0.1 đến 0.2 cm3/g. Diện tích bề mặt của lỗ
này chiếm không quá 5% tổng diện tích bề mặt của than. Tuy nhiên, bằng phương
pháp đặc biệt người ta có thể tạo ra than hoạt tính có lỗ trung lớn hơn, thể tích của lỗ trung đạt được từ 0.2 – 0.65 cm3/g và diện tích bề mặt của chúng đạt 200 m2/g.
Các lỗ này đặc trưng bằng sự ngưng tụ mao quản của chất hấp phụ với sự tạo thành mặt khum của chất lỏng bị hấp phụ.
Lỗ lớn (Macropore) không có nhiều ý nghĩa trong quá trình hấp phụ của than hoạt tính bởi vì chúng có diện tích bề mặt rất nhỏ và không vượt quá 0.5 m2/g.
Chúng có bán kính hiệu dụng lớn hơn 50 nm và thường trong khoảng 500- 2000 nm với thể tích lỗ từ 0.2 – 0.4 cm3/g. Chúng hoạt động như một kênh cho chất bị hấp
phụ vào trong lỗ nhỏ và lỗ trung. Các lỗ lớn không được lấp đầy bằng sự ngưng tụ
mao quản.
Do đó, cấu trúc lỗ xốp của than hoạt tính có 3 loại bao gồm lỗ nhỏ, lỗ trung và lỗ
lớn. Mỗi nhóm này thể hiện một vai trò nhất định trong quá trình hấp phụ. Lỗ nhỏ
chiếm 1 diện tích bề mặt và thể tích lớn do đó đóng góp lớn vào khả năng hấp phụ
của than hoạt tính, miễn là kích thước phân tử của chất bị hấp phụ không quá lớn để
đi vào lỗ nhỏ. Lỗ nhỏ được lấp đầy ở áp suất hơi tương đối thấp trước khi bắt đầu
ngưng tụ mao quản. Mặt khác, lỗ trung được lấp đầy ở áp suất hơi tương đối cao với
sự xảy ra ngưng tụ mao quản. Lỗ lớn có thể cho phân tử chất bị hấp phụ di chuyển
nhanh tới lỗ nhỏ hơn [52].
I.2.2.3. Cấu trúc bề mặt của than hoạt tính
Cấu trúc tinh thể có tác động đáng kể đến hoạt tính hóa học của than hoạt tính.
Tuy nhiên, hoạt tính hóa học của các tâm ở mặt tinh thể cơ sở ít hơn nhiều so với
tâm ở cạnh hay ở các vị trí khuyết. Do đó, cacbon được graphit hóa cao với bề mặt
đồng nhất chứa chủ yếu mặt cơ sở ít hoạt động hơn cacbon vô định hình. Grisdale
Luận văn tốt nghiệp cao học
25
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
và Hennig thấy rằng tốc độ oxy hóa của nguyên tử cacbon ở tâm nằm ở cạnh lớn
hơn 17 đến 20 lần ở bề mặt cơ sở [52].
Bên cạnh cấu trúc tinh thể và cấu trúc lỗ xốp, than hoạt tính cũng có cấu trúc hóa
học. Khả năng hấp phụ của than hoạt tính được quyết định bởi cấu trúc vật lý và cấu
trúc lỗ xốp của chúng nhưng cũng bị ảnh hưởng mạnh bởi cấu trúc hóa học. Thành
phần quyết định của lực hấp phụ lên bề mặt than là thành phần không tập trung của
lực Van der Walls. Trong graphit, quá trình hấp phụ được quyết định chủ yếu bởi
thành phần phân tán của lực London. Trong trường hợp than hoạt tính, do sự có mặt
của các lớp graphit cháy không hoàn toàn trong cấu trúc tạo nên sự phức tạp của các
cấu trúc vi tinh thể và gây ra biến đổi về sự sắp xếp các electron trong khung
cacbon, kết quả là tạo ra các electron độc thân và hóa trị không bão hòa điều này
ảnh hưởng đến đặc điểm hấp phụ của than hoạt tính đặc biệt là đối với các hợp chất
phân cực và có thể phân cực [52].
Than hoạt tính hầu hết được liên kết với một lượng có thể xác định oxy và hydro.
Các nguyên tử khác loại này được tạo ra từ nguyên liệu ban đầu và trở thành một
phần cấu trúc hóa học là kết quả của quá trình than hóa không hoàn hảo hoặc trở
thành liên kết hóa học với bề mặt trong quá trình hoạt hóa hoặc trong các quá trình
xử lý sau đó. Cũng có trường hợp than đã hấp phụ các loại phân tử xác định như
amin, nitrobenzen, phenol và các loại cation khác.
Nghiên cứu nhiễu xạ tia X cho thấy rằng các nguyên tử khác loại hoặc các loại
phân tử được liên kết với cạnh hoặc góc của các lớp thơm hoặc với các nguyên tử
cacbon ở các vị trí khuyết làm tăng các hợp chất cacbon – oxy, cacbon – hydro,
cacbon – nitrơ, cacbon – lưu huỳnh, cacbon – halogen trên bề mặt, chúng được biết
đến như là các nhóm bề mặt hoặc các phức bề mặt. Các nguyên tử khác loại này có
thể sát nhập trong lớp cacbon tạo ra hệ thống các vòng khác loại. Do các cạnh này
chứa các tâm hấp phụ chính, sự có mặt của các hợp chất bề mặt hay các loại phân tử
làm biến đổi đặc tính bề mặt và đặc điểm của than hoạt tính [52].
Luận văn tốt nghiệp cao học
26
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
I.2.2.3.1. Nhóm cacbon – oxy bề mặt
Nhóm cacbon – oxy bề mặt là những nhóm quan trọng nhất ảnh hưởng đến đặc
trưng bề mặt như tính ưa nước, độ phân cực, tính axit, và đặc điểm hóa lý như khả
năng xúc tác, dẫn điện và khả năng phản ứng của các vật liệu này.
Theo Kipling, các nguyên tử oxy và hydro là những thành phần cần thiết của than
hoạt tính với đặc điểm hấp phụ tốt, và bề mặt của vật liệu này được nghiên cứu như
một bề mặt hydro cacbon biến đổi ở một số tính chất bằng nguyên tử oxy.
Mặc dù việc xác định số lượng và bản chất của các nhóm hóa học bề mặt này bắt
đầu từ hơn 50 năm trước, bản chất chính xác của nhóm chức vẫn còn chưa được
chứng minh đầy đủ. Những chứng cứ đã được đưa ra từ các nghiên cứu khác nhau
sử dụng các công nghệ khác nhau vì bề mặt cacbon là rất phức tạp và khó mô
phỏng. Các nhóm chức bề mặt không thể được xử lý như các chất hữu cơ thông
thường vì chúng tương tác khác nhau trong môi trường khác nhau. Phổ eletron cho
phân tích hóa học cho thấy sự chuyển đổi bất thuận nghịch của chức bề mặt xảy ra
khi các phương pháp hóa học hữu cơ cổ điển được sử dụng để xác định và chứng
minh chúng. Do đó người ta mong rằng việc áp dụng của nhiều công nghệ tinh vi
hơn như phổ FTIR, XPS, NMR và nghiên cứu lượng vết phóng xạ sẽ góp phần quan
trọng để hiểu biết chính xác hơn về các nhóm hóa học bề mặt này.
Than hoạt tính có nhiều xu hướng mở rộng lớp oxy đã được hấp thụ hóa học này
và nhiều các phản ứng của chúng xảy ra do xu hướng này. Ví dụ, than hoạt tính có
thể phân hủy các khí oxy hóa như ozone và oxit của nitơ. Chúng cũng phân hủy
dung dich muối bạc, halogen, sắt(III) clorua, KMnO4, amonipersunfat, axit
nitric…Trong mỗi trường hợp, có sự hấp phụ hóa học oxy và sự tạo thành hợp chất
cacbon – oxy bề mặt.
Than hoạt tính cũng có thể được oxy hóa bằng nhiệt trong không khí, CO2 hoặc
oxy.
Luận văn tốt nghiệp cao học
27
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Bản chất và lượng nhóm oxy - cacbon bề mặt tạo thành từ các sự oxy hóa khác
nhau phụ thuộc vào bản chất bề mặt than và cách tạo ra nó, diện tích bề mặt của nó,
bản chất chất oxy hóa và nhiệt độ quá trình.
Phản ứng của than hoạt tính với oxi ở nhiệt độ dưới 400 °C chủ yếu tạo ra sự hấp
phụ hóa học oxy và sự tạo thành hợp chất cacbon – oxy bề mặt, khi ở nhiệt độ trên
400 °C, sự phân hủy hợp chất bề mặt và khí hóa cacbon là các phản ứng trội hơn
hẳn.
C + O2 → CO (< 400 °C): sự tạo thành hợp chất bề mặt
C + O2 → CO + CO2 (> 400 °C): Sự khí hóa
CO → CO + CO2 (>400 °C): Sự phân hủy hợp chất bề mặt
Trong trường hợp sự oxy hóa xảy ra trong dung dịch, phản ứng chính là sự tạo
thành hợp chất bề mặt, mặc dù một vài quá trình khí hóa cũng có thể xảy ra phụ
thuộc độ mạnh của chất oxy hóa và sự khắc nghiệt của điều kiện thí nghiệm. Sự tạo
thành hợp chất cacbon – oxy bề mặt sử dụng than khác nhau. Than hoạt tính và
muội than sử dụng nhiều cách oxy hóa trong pha khí và pha lỏng đã được nghiên
cứu nhiều hơn.
Đối những than có đặc trưng axit – bazơ, nhiều nhà khoa học đã bỏ công sức
nghiên cứu để góp phần tìm hiểu nguyên nhân và cơ chế than có bản chất axit hay
bazơ. Một vài thuyết, ví dụ thuyết điện hóa học của Burstein và Frumkin, thuyết
oxit của Shilov và trường của ông, thuyết pyron của Voll và Boehm đã được đưa ra
để giải thích cho đặc trưng axit – bazơ của than. Các thuyết này và các nghiên cứu
liên quan đã được xem xét lại một cách kỹ lưỡng và được xem xét trong một vài bài
báo tổng kết. Bây giờ người ta đã chấp nhận rằng đặc trưng axit – bazơ của than là
kết quả của quá trình oxi hóa bề mặt, phụ thuộc vào cách tạo thành và nhiệt độ của
quá trình oxi hóa [52].
Dạng nhóm cacbon – oxy bề mặt (axit, bazơ, trung hòa) đã được xác định, các
nhóm axit bề mặt là rất đặc trưng và được tạo thành khi than được xử lý với oxy ở
Luận văn tốt nghiệp cao học
28
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
nhiệt độ trên 400 °C hoặc bằng phản ứng với dung dịch oxy hóa ở nhiệt độ phòng.
Các nhóm chức này ít bền nhiệt và phân hủy khi xử lý nhiệt trong chân không hoặc trong môi trường khí trơ ở nhiệt độ từ 350 °C đến 750 °C và giải phóng CO2. Các
nhóm chức axit bề mặt này làm cho bề mặt than ưa nước và phân cực, các nhóm
này là caboxylic, lacton, phenol.
Nhóm oxy bazơ trên bề mặt ít đặc trưng hơn và được tạo ra khi một bề mặt than
không còn bất kỳ nhóm oxy bề mặt nào khi xử lý nhiệt trong chân không hoặc trong
môi trường trơ ở nhiệt độ 1000 °C sau đó làm nguội ở nhiệt độ phòng, được tiếp
xúc với khí oxy. Garten và Weiss đề xuất cấu trúc dạng pyron cho nhóm chức bazo,
nhóm chức này cũng được biết như cấu trúc chromene. Cấu trúc này có vòng chứa
oxy với nhóm hoạt hóa – CH2, - CHR. Theo Voll và Boehm, các nguyên tử oxy
trong cấu trúc kiểu pyron được định vị trong hai vòng khác nhau của lớp graphit
[52].
Tuy nhiên, cấu trúc của các nhóm oxy bazơ trên bề mặt cũng đang còn tranh cãi.
Các nhóm oxy trung hòa trên bề mặt được tạo ra do quá trình hấp phụ hóa học
không thuận nghịch oxy ở các tâm không bão hòa dạng etylen có mặt trên bề mặt
than. Các hợp chất bề mặt bị phân hủy thành CO2 khi xử lý nhiệt. Các nhóm trung
hòa trên bề mặt bền hơn so với các nhóm axit và bắt đầu phân hủy trong khoảng
nhiệt độ 500 – 600 °C và bị loại bỏ hoàn toàn ở 950 °C.
Nhiều nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu để xác định và định lượng các nhóm oxi-
cacbon bề mặt sử dụng các phương pháp vật lý, hóa học và hóa lý để giải hấp lớp
oxit, trung hòa với kiềm, chuẩn độ điện thế, phương pháp phổ như phố IR, X-ray.
Các nghiên cứu này đã chỉ ra sự tồn tại của vài nhóm chức, quan trọng hơn cả là các
nhóm carboxyl, lacton, phenol, quinin và hydroquinon. Tuy nhiên, các phương pháp
này không đưa ra các kết quả có thể so sánh với nhau và nhiều khi không giải thích
được toàn bộ lượng oxi đã kết hợp [52].
Luận văn tốt nghiệp cao học
29
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Chương 2: Thực nghiệm
II.1. Chế tạo hạt nano bạc (Silver nanoparticles - AgNP)
Với mục đích chế tạo hạt bạc có cấu trúc nano phân tán đều trên nền than hoạt
tính với chất lượng tốt, giá thành rẻ, khả năng diệt khuẩn tốt và đặc biệt là không
lẫn các ion độc hại trong sản phẩm cuối cùng, chúng tôi đã lựa chọn phương pháp
chế tạo đơn giản, hiệu suất cao trong nghiên cứu của mình. Điện hoá siêu âm điện
cực tan là phương pháp được chúng tôi lựa chọn. Phương pháp này đã được xây
Dây dẫn
Khung giữ điện cực
Điện cực
Máy tính
Máy phát
Cốc
điều khiển
dòng điện
Bể siêu âm
Nước
TSC
Hình 2.1. Sơ đồ hệ điện hoá siêu âm điện cực tan và ảnh chụp các điện cực (góc trái).
dựng và phát triển tại trung tâm Khoa Học Vật Liệu – ĐH KHTN trước đó.
Xuất phát từ phương pháp khá hiệu quả để chế tạo hạt nano bạc là điện hoá siêu
âm, chúng tôi đã cải tiến thành phương pháp mới này. Hạt nano bạc được tan ra từ
dương cực nhờ dòng điện phân và sau đó phân tán vào dung môi có chứa chất hoạt
động bề mặt nhờ sóng siêu âm.
Bốn điểm mới của phương pháp này so với phương pháp điện hoá siêu âm truyền
thống là:
1. Dùng máy siêu âm công suất nhỏ thay cho máy siêu âm chuyên dụng công
suất lớn. Cải tiến này làm giảm đáng kể giá thành hệ điện hoá siêu âm.
Luận văn tốt nghiệp cao học
30
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
2. Không dùng còi siêu âm làm điện cực mà dùng bản Pt làm điện cực. Cải tiến
này làm cho diện tích của điện cực có thể thay đổi tuỳ ý dẫn đến hiệu suất
tạo hạt nano bạc cao hơn so với phương pháp điện hoá siêu âm thông
thường.
3. Dùng điện cực tan bằng bạc thay cho muối bạc. Cải tiến này giúp giảm giá
thành dung dịch keo bạc vì vật liệu tiền chất là bạc rẻ hơn nhiều tiền chất là
muối bạc. Hơn nữa, sản phẩm cuối cùng không còn chứa các ion của muối
bạc tiền chất nên không cần bước xử lí các ion này.
4. Chọn dung dịch dẫn phù hợp, dung dịch keo bạc không chứa các ion có thể
gây hại cho cơ thể con người.
Tính chất của hạt nano bạc được tạo ra có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như
cường độ dòng điện, công suất và thời gian siêu âm, khoảng cách các điện cực…
nhưng những ưu điểm trên đã cho phép ứng dụng phương pháp này trong chế tạo
hạt nano bạc ở quy mô công nghiệp với năng suất cao (để tạo ra 0.4 g bạc từ bạc
khối cần khoảng 3.5h).
Dung môi dùng để chế tạo hạt nano bạc là nước cất 2 lần do nó có khả năng hoà
tan nhiều chất, hoàn toàn lành tính, lại dễ điều chế. Mặt khác, nước là một môi
trường sóng siêu âm lan truyền rất tốt. Tính phân cực của nước cho phép chúng ta
dùng nước để điều chế mẫu dưới tác dụng của sóng viba.
Để hạn chế tối đa hoá chất trong quá trình điều chế, chúng tôi lựa chọn giải pháp
chế tạo nano bạc từ bạc khối. Không những thế, giá thành của bạc khối lại rất rẻ so
với giá của các tiền chất muối bạc. Nano bạc sinh ra do được ăn mòn từ các khối
bạc nên không bị hao phí. Trong các phương pháp chế tạo, chúng tôi lựa chọn
phương pháp điện phân với hỗ trợ sóng siêu âm để tạo ra hạt nano bạc có kích thước
nano.
Trisodium citrate (TSC) được sử dụng với hai vai trò chất khử và chất hoạt động bề mặt mạnh trong dung môi nước. Các ion Na+ trung tính không ảnh hưởng tới quá
Luận văn tốt nghiệp cao học
31
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
trình khử, và không gây độc tính cho sản phẩm. Gốc citrate khiến TSC vừa là chất khử ion bạc Ag+ vừa là chất hoạt động bề mặt kation. TSC tan rất mạnh trong nước
với độ tan 72g/100g [46]. TSC không gây hại với cơ thể người, trong trường hợp
tiếp xúc trực tiếp với da hoặc mắt với liều lượng lớn mới có thể gây dị ứng.
Cực dương được chế tạo bằng một tấm bạc (1.0*1.0*0.8 cm3), cực âm là một tấm
Platin. Điện cực dương bằng bạc trong dung dịch chứa muối citrate làm cho bạc bị
tan thành các ion trong dung dịch điện hoá. Các ion bạc di chuyển về điện cực âm
bằng Pt, được khử thành bạc bám trên bề mặt điện cực âm ở dạng các hạt nano.
Sóng siêu âm tác dụng làm hạt nano phân tán vào dung dịch điện hoá [45]. Vai trò
của ion citrate là chất dẫn điện và chất hoạt hoá bề mặt giúp hạt nano Ag sau khi tạo
Bảng 4: Hoá chất chế tạo hạt nano bạc bằng phương pháp điện hoá siêu âm điện cực tan
thành có thể phân tán tốt trong dung dịch mà không bị kết tụ.
STT Tên CTPT KLPT Xuất xứ
Bạc khối Ag 108 C.ty SJC 1
Trisodiumcitrát 275 Merck 2 Na3(C6H5O7).2H2O
Nước cất 2 lần 18 ĐHKHTN 3 H2O
Thời gian chế tạo được khống chế cho đến khi nồng độ hạt nano bạc trong dung
dịch đạt đến nồng độ yêu cầu. Dung dịch hạt nano bạc sau khi chế tạo chỉ gồm các
hạt nano bạc, ion bạc và ion citrate trong nước. Sự kết hợp giữa hiện tượng điện
phân với sóng siêu âm đã tạo ra một phương pháp mới trong chế tạo vật liệu là điện
hoá siêu âm điện cực tan. Nguồn siêu âm được sử dụng là bể rửa siêu âm thông
thường, có tần số 15kHz, nhãn hiệu Shizuki. Hình 2.1 trình bày sơ đồ hệ điện hoá
siêu âm điện cực tan.
Thể tích dung dịch là 200 mL có chứa TSC. Hai điện cực đặt cách nhau 5mm, có diện tích bằng nhau và bằng 1cm2. Mật độ dòng điện được điều chỉnh từ 10 đến 50
Luận văn tốt nghiệp cao học
32
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
mA/cm2. Nồng độ của TSC được thay đổi từ 0.5 đến 3.5 g/l. Thời gian bật, tắt xung
dòng điện đều là 0.5 s, thời gian chế tạo mẫu là 2 h.
II.2. Chế tạo than hoạt tính - AC (Thực hiện tại Viện Hóa Học và Môi Trường
– Bộ Quốc Phòng)
Yêu cầu đối với than hoạt tính đượng sử dụng để làm vật liệu hấp phụ là có hoạt
độ tĩnh học cao và độ hấp phụ lớn. Yêu cầu này đều liên quan đến độ phát triển của
lỗ nhỏ và lỗ trung ở trong than.
Than hoạt tính được sản xuất theo trình tự than hóa và hoạt hóa các vật liệu chứa
cacbon.
II.2.1. Than hóa
Than tre hoặc gáo dừa được đốt yếm khí bằng lò điện ở nhiệt độ 350 °C tới 500
°C. Tre được cắt đoạn nguyên cây hoặc cắt thành những thanh dài từ 30 cm tới 50 cm, gáo dừa được bóc vỏ và đặp nhỏ với kích thước 5 * 5 cm2. Nguyên liệu được
chất vào lò và đốt trong khoảng thời gian từ 1 tới 2 h đồng hồ (khi hết khói trắng
bay ra). Khi than đã cháy hết, lấy than ra làm nguội trong thùng kín. Hiệu suất than
hóa được xác định bằng công thức:
𝑚 2 𝑚 1
H = ∗ 100%
Trong đó: m1 là khối lượng nguyên liệu cho vào lò
m2 là khối lượng than thu được sau khi đốt
II.2.2. Hoạt hóa
Hoạt hóa là quá trình cho cacbon tác dụng với tác nhân hoạt hóa (CO2, Oxy, hơi
nước) để tạo ra hệ thống lỗ xốp trong thể tích than. Sản phẩm than hóa được đập
nhỏ với kích thước phù hợp và tiến hành hoạt hóa trong lò quay nằm ngang SRJK-
5-95 của Trung Quốc. Tốc độ quay trung bình là 4 vòng/phút với tác nhân hoạt hóa
là hơi nước ở nhiệt độ 750 °C.
Luận văn tốt nghiệp cao học
33
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
nC + H2O CO + (n-1) C +H2 + Q (Q = 31000 cal/mol)
Hơi nước được tạo ra bằng thiết bị như hình (2.2). Tốc độ hơi nước phụ thuộc
vào cường độ dòng điện và được điều chỉnh bằng biến áp 4. Đường chuẩn sự phụ
thuộc giữa tốc độ hơi nước vào cường độ dòng điện được xây dựng trước khi hoạt
Hình 2.2. Sơ đồ thiết bị chuẩn hơi nước hoạt hóa
hóa.
II.3. Phân tán hạt nano bạc trên nền than hoạt tính (AgAC)
Dựa vào đặc tính hấp phụ rất tốt của than hoạt tính và kích thước cỡ nanomet của
các hạt bạc được chế tạo, chúng tôi đã phân tán hạt bạc nano trên nền than hoạt tính
bằng cách: khi chế tạo thành công dung dịch hạt bạc nano, chúng tôi cho than hoạt
tính vào dung dịch nano bạc, dùng khuấy từ khuấy cho phân tán đều kết hợp với
rung siêu âm hệ mẫu. Thời gian khuấy và rung siêu âm là 1 h, sản phẩm thu được đem sấy ở 750 C cho tỷ lệ khối lượng hạt bạc trên than hoạt tính là 1%.
Luận văn tốt nghiệp cao học
34
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Hình 2.3. Dung dịch nano bạc trước và sau khi cho than hoạt tính vào hấp phụ.
II.4. Khả năng hấp phụ của than hoạt tính (AC) và than hoạt tính tẩm
nano bạc (AgAC)
II.4.1. Hấp phụ xanh mêtylen (MB)
Để quan sát trực quan khả năng hấp phụ của than hoạt tính, chúng tôi sử dụng
xanh mêtylen (Methylene Blue – MB) làm chất bị hấp phụ. Theo thời gian, lượng
Hình 2.4. Công thức cấu tạo của Methylene Blue – MB: C16H18N3SCl
MB bị hấp phụ ngày càng tăng làm cho dung dịch nhạt dần và mất màu.
Nhìn phổ UV-vis của MB ta thấy có hai đỉnh hấp thụ tại lân cận bước sóng 620
nm là bước sóng của ánh sáng màu vàng đỏ và 660 nm là bước sóng của ánh sáng
đỏ. Điều này, chứng tỏ MB hấp thụ dải hẹp ánh sáng đỏ.
Luận văn tốt nghiệp cao học
35
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Hình 2.5. Phổ UV-Vis của Methylene Blue
Theo Thomas Young và Prăng thì 3 mầu cơ bản là đỏ + lục + lam = trắng. Mà
MB hấp thụ màu đỏ nên sẽ tán xạ màu lục và màu lam nên khi quan sát ta sẽ thấy
MB có màu là tổng hợp của hai màu mà nó tán xạ tức là xanh da trời. Ngoài ra, màu
sắc của MB còn phụ thuộc vào cấu tạo hóa học của MB, nó phụ thuộc vào nhóm
nguyên tử đặc biệt có trong phân tử gọi là nhóm mang màu như -N=N-, -CH=CH-, -
N=, C=N-, =C=O… và nhóm trợ màu như -NH2, -SH, -NR2, -OH, -NCH3…
Thực hiện đo phổ hấp thụ - truyền qua của dung dịch MB theo thời gian khi cho
200 mg AC và AgAC vào hấp phụ lượng MB khác nhau (200 mL dung dịch MB có
nồng độ 100 mg/L, 200 mg/L, 300 mg/L, 400 mg/L, 500 mg/L), khuấy với tốc độ
120 vòng/phút ở nhiệt độ phòng trong thời gian 360 phút, chúng tôi có thể xác định
được một số thông số về tính chất của AC và AgAC.
Luận văn tốt nghiệp cao học
36
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Hình 2.6. Sự mất màu theo thời gian của dung dịch MB
II.4.2. Hấp phụ Asen
Dung dịch chứa Asen được chuẩn bị bằng cách pha 1.0 mg As2O5 với 1 lít nước
cất hai lần. Quá trình hấp phụ được chỉ ra bằng cách khuấy 100 mg AC hoặc AgAC
trong 50 mL dung dịch Asen trong 3 h. Sau đó chất hấp phụ được loại bỏ bằng cách
quay li tâm. Nồng độ Asen trong dung dịch còn lại được đánh giá bằng phổ hấp thụ
nguyên tử AAS.
II.5. Thí nghiệm về khả năng kháng khuẩn (được thực hiện tại khoa Sinh
Học – ĐH KHTN)
Chúng tôi đã tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu khả năng diệt và kháng khuẩn
của các vật liệu trên. Tính chất diệt khuẩn của AgAC được được nghiên cứu định
tính thông qua khả năng ức chế sự phát triển của vi khuẩn Escherichia coli (E.coli)
DH5α trên môi trường thạch Luria - Bertani (LB) 1,5%, trong khi đó các nghiên
cứu định lượng được thực hiện trên môi trường dung dịch LB (10 g tryptone, 4 g
yeast extract, 10 b NaCl hòa với nước để thu được 1 lít dung dịch).
Bình thường khi không có các tác nhân kháng khuẩn, E.coli sẽ phát triển rất
nhanh trên bề mặt đĩa thạch và ta có thể nhận biết điều này thông qua sự biến sang
màu trắng ở bề mặt đĩa thạch [11, 12].
Luận văn tốt nghiệp cao học
37
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
II.5.1. Khả năng diệt khuẩn AgAC
Thí nghiệm kiểm tra định tính khả năng diệt khuẩn của AgAC: sau khi môi
trường LB đông đặc lại, E.coli được đánh dấu giống nhau trên 3 đĩa (A- môi trường
thạch, B- môi trường thạch có thêm 0.15 g AC, C- môi trường thạch có thêm 0.15 g AC có 1% hạt nano bạc) và được ủ tại 37 °C trong 24 h. Sự phát triển của vi khuẩn
được quan sát qua các đốm trắng xuất hiện trên bề mặt các đĩa.
II.5.2. Nồng độ ức chế tối thiểu của dung dịch nano bạc
Chúng tôi đã chuẩn bị các mẫu dung dịch như sau:
Chỉ có nước LB (đối chứng âm)
LB có chứa 120 dung dịch TSC (đối chứng TSC)
LB có chứa hạt nano bạc (để kiểm tra khả năng diệt khuẩn của hạt nano Ag)
Mỗi mẫu dung dịch trên có thể tích 2mL được chứa trong 1 ống tuýp.
Lượng nano Ag trong các mẫu được điều chỉnh trong khoảng .
Một đám vi khuẩn E. Coli DH5 đã được nuôi tới khi đạt mật độ
. Sau đó lấy 1μl vi khuẩn đó cho vào trong các ống đựng mẫu dung
dịch đã chuẩn bị. Mật độ vi khuẩn E. coli DH5 đạt được lúc này là
. Các ống tuýp này được giữ ở nhiệt độ trong 24 giờ. Khả
năng phát triển của vi khuẩn và mật độ vi khuẩn sẽ được đo bằng mật độ quang học
ở sau 4, 8, 24, và 30 giờ.
II.6. Các phép đo khảo sát tính chất của hạt nano bạc và than hoạt tính
II.6.1. Giản đồ nhiễu xạ tia X
Để xác định cấu trúc mẫu chế tạo, chúng tôi thực hiện đo giản đồ nhiễu xạ tia X
trên máy SIEMENS D5005 tại khoa Vật lí - Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguồn phát xạ là CuK với bước sóng 1.54056A0. Phép đo được thực hiện ở nhiệt độ phòng với góc quét 2 từ 20 tới 800. Dựa vào số lượng, vị trí,
Luận văn tốt nghiệp cao học
38
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
cường độ tương đối của các đỉnh nhiễu xạ chúng ta có thể xác định được chất, loại
cấu trúc tinh thể cũng như các thông số của ô cơ sở. Kích thước hạt nano bạc được
xác định từ độ bán rộng của các đỉnh nhiễu xạ theo công thức Scherrer.
II.6.2. Ảnh hiển vi điện tử truyền qua
Hình dạng và kích thước của hạt nano bạc được xác định qua phép chụp ảnh kính
hiển vi điện tử truyền qua (TEM) trên máy JEM 1010-JEOL đặt tại Viện Vệ sinh
Dịch tễ Trung ương. Sự so sánh giữa các thông tin từ ảnh kính hiển vi điện tử sẽ
khẳng định thêm những kết quả thu được từ giản đồ nhiễu xạ tia X.
Chúng tôi xác định kích thước hạt dựa trên phần mềm ImagieJ 1.37v của Wayne
Rasband (Nationnal Institues of Heath, USA). Dựa trên độ tương phản sáng tối giữa
vùng có hạt và vùng không có hạt, phần mềm cho phép xác định vùng diện tích hạt
bị chiếm. Phần mềm cho phép định nghĩa một khoảng với độ dài có giá trị chuẩn và
tiến hành đo đường kính các hạt nano bạc trên hình. Phần mềm còn cho phép ta
phóng to ảnh để xác định chính xác bán kính hạt.
Để đảm bảo tính thống kê, phép đếm được tiến hành với nhiều đám hạt khác
nhau, tổng số hạt từ 100 tới 400. Sau đó đưa số liệu vào phần mềm Origin 8.0 phân
tích tần suất xuất hiện các kích thước hạt, đưa ra phân bố kích thước hạt và tính kích
thước hạt trung bình. Kết quả sẽ chính xác hơn nếu các hạt xuất hiện trên ảnh TEM
có sự phân tách rõ ràng.
Độ tròn của hạt được tính bằng công thức sau: . Trong đó σ là độ tròn
của hạt, S là diện tích của hạt, P là chu vi của hạt. Hình tròn thì độ tròn là 1, hình
vuông thì độ tròn là pi/4 (gần 0,8).
II.6.3. Phổ hấp thụ - truyền qua
Tính chất quang của hạt nano bạc được nghiên cứu bằng máy Shimadzu UV-
2450, đặt tại Khoa Vật lý - Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Phép đo được thực hiện với cuvét thạch anh, dải sóng đo từ 300nm tới 800nm.
Luận văn tốt nghiệp cao học
39
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Phổ hấp thụ là phép đo cho nhiều thông tin về mẫu, dễ thực hiện, nên chúng tôi
tiến hành đo với tất cả các mẫu đã chế tạo. Với các mẫu dung dịch kim loại, phổ hấp
thụ thường xuất hiện đỉnh cộng hưởng plasmon bề mặt đặc trưng [6-10, 13-15, 20].
Phân tích vị trí, độ bán rộng đỉnh hấp thụ plasmon đặc trưng sẽ cho phép dự đoán
mẫu chế tạo được có phải hạt nano bạc không, hạt nano bạc có hình dạng gì, có kích
thước bao nhiêu, phân bố kích thước hạt như thế nào? [10, 16]. Những thông tin này
sẽ được khẳng định lại thông qua hai phép đo đã nói ở trên.
II.6.4. Phổ tán xạ năng lượng tia X
Hạt nano bạc sau khi được phân tán đều trên nền than hoạt tính được đem đi đo
EDS (Energy-dispersive X-ray spectroscopy) để xác định thông tin thành phần các
nguyên tố trong mẫu.
Tia X phát ra từ vật rắn (do tương tác với chùm điện tử) sẽ có năng lượng biến
thiên trong dải rộng, sẽ được đưa đến hệ tán sắc và ghi nhận (năng lượng) nhờ
detector dịch chuyển được làm lạnh bằng nitơ lỏng là một con chip nhỏ tạo ra điện
tử thứ cấp do tương tác với tia X, rồi được lái vào một anốt nhỏ. Cường độ tia X tỉ
lệ với tỉ phần nguyên tố có mặt trong mẫu. Độ phân giải của phép phân tích phụ
thuộc vào kích cỡ chùm điện tử và độ nhạy của detector (vùng hoạt động tích cực
của detector).
Độ chính xác của EDX ở cấp độ một vài phần trăm (thông thường ghi nhận được
sự có mặt của các nguyên tố có tỉ phần cỡ 3-5% trở lên). Tuy nhiên, EDX tỏ ra
không hiệu quả với các nguyên tố nhẹ (ví dụ B, C...) và thường xuất hiện hiệu ứng
trồng chập các đỉnh tia X của các nguyên tố khác nhau (một nguyên tố thường phát
ra nhiều đỉnh đặc trưng Kα, Kβ..., và các đỉnh của các nguyên tố khác nhau có thể
chồng chập lên nhau gây khó khăn cho phân tích) [47].
II.6.5. Đo phân bố lỗ và diện tích bề mặt của than hoạt tính (BET)
Hấp phụ là hiện tượng bề mặt, chứa các chất khí hoặc chất tan trên bề mặt phân
cách hai pha, trên bề mặt vật rắn hay lỏng [45]. Than hoạt tính là một chất có khả
năng hấp phụ mạnh. Trong lòng khối than hoạt tính, các phần tử chịu tương tác từ
Luận văn tốt nghiệp cao học
40
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
mọi hướng cân bằng với nhau trong khi các phần tử trên bề mặt chịu tương tác
không cân bằng. Do đó có sự chênh lệch nồng độ của chất lưu (khí/lỏng) và chúng
bị di chuyển vào bên trong lòng than hoạt tính.
Do là hiện tượng bề mặt, khả năng hấp phụ của than hoạt tính càng lớn khi diện
tích bề mặt càng lớn. Diện tích bề mặt của than hoạt tính rất lớn, có thể lên đến hàng nghìn m2/g [55].
Để biết thông tin về diện tích bề mặt của than hoạt tính và phân bố lỗ trong than,
chúng tôi đem mẫu than đi đo BET (Brunaur-Emmett-Teller). Phương pháp BET
được ứng dụng rất phổ biến để xác định bề mặt riêng của chất hấp phụ rắn. Nguyên
tắc của phương pháp được xây dựng trên thuyết hấp phụ đa phân tử BET. Phương
trình BET thể hiện sự phụ thuộc của thể tích của chất hấp phụ với áp suất dòng chất
lưu bị hấp phụ (chỉ chính xác với tỉ số P/PS >0.3):
= + × 𝑃 𝑉(𝑃𝑆 − 𝑃) 1 𝐶𝑉𝑚 𝐶 − 1 𝐶𝑉𝑚 𝑃 𝑃𝑆
Trong đó:
C: nồng độ của chất tan trong dung dịch ở trạng thái cân bằng.
P: áp suất chất lưu ở trạng thái cân bằng. PS: áp suất bão hoà của chất lưu.
V: thể tích chất bị hấp phụ ở các áp suất khác nhau (cm3 /g). Vm: thể tích của
chất bị hấp phụ tương ứng với một lớp hấp phụ đơn phân tử đặc khít trên bề mặt vật rắn (cm3 /g).
Bằng thực nghiệm, chúng ta xác định sự tăng tuyến tính của P/(V.(PS-P)) vào tỉ
số P/PS ở một nhiệt độ nhất định. Độ dốc của đường tuyến tính tanα = (C-1)/(C.Vm)
cho phép ta tính được thể tích của chất bị hấp phụ với một lớp Vm. Diện tích bề mặt
của than hoạt tính tỉ lệ thuận với diện tích ngang của chất lưu bị hấp phụ và thể tích
Vm. Trong thực tế, chất lưu thường được sử dụng là khí nitơ có diện tích ngang là 0.162nm2 nên diện tích bề mặt của than được tính theo biểu thức:
Luận văn tốt nghiệp cao học
41
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
SBET = 4.35*Vm (m2/g).
Than hoạt tính là chất hấp phụ xốp, đường kính lỗ xốp thường chỉ cỡ vài chục A0.
Cấu trúc lỗ xốp này giúp tăng cường khả năng hấp phụ của than hoạt tính lên nhiều
lần, vì quá trình hấp phụ không chỉ xảy ra ở bề mặt mà cả bên trong lòng than hoạt
tính do hiện tượng ngưng tụ mao quản [45]. Hiện tượng ngưng tụ mao quản là hiện
tượng các lớp hấp phụ sẽ chuyển thành chất lỏng có mặt khum trong mao quản khi
áp suất của chất bị hấp phụ tăng đến một giá trị nhất định (tuỳ kích thước mao
quản).
II.6.6. Đo phổ hấp thụ nguyên tử (AAS)
Cơ sở lí thuyết của phép đo AAS là sự hấp thụ năng lượng (bức xạ đơn sắc) của
nguyên tử tự do ở trạng thái hơi (khí) khi chiếu chùm tia bức xạ qua đám hơi của
nguyên tố ấy trong môi trường hấp thụ. Vì vậy muốn thực hiện được phép đo phổ
hấp thụ nguyên tử cần phải có các quá trình sau:
+ Chọn các điều kiện và một loại thiết bị phù hợp để chuyển mẫu phân tích
từ trạng thái ban đầu (rắn hay dung dịch) thành trạng thái hơi của các nguyên tử tự
do. Đó là quá trình nguyên tử hoá mẫu. Những thiết bị để thực hiện quá trình này
gọi là hệ thống nguyên tử hoá mẫu.
+ Chiếu chùm tia sáng phát xạ của nguyên tố cần phân tích qua đám hơi
nguyên tử vừa điều chế được ở trên. Các nguyên tử của nguyên tố cần xác định
trong đám hơi sẽ hấp thụ những tia bức xạ nhất định và tạo ra phổ hấp thụ của nó. ở
đây, một phần cường độ của chùm sáng đã bị một loại nguyên tử hấp thụ và phụ
thuộc vào nồng độ của nguyên tố trong môi trường hấp thụ. Nguồn cung cấp chùm
tia sáng phát xạ của nguyên tố cần xác định gọi là nguồn bức xạ đơn sắc.
Với máy đo AAS 6800 do hãng Shimazdu - Nhật Bản chế tạo có thể nguyên tử
hóa mẫu bằng ngọn lửa hoặc không ngọn lửa (sử dụng lò graphit) có độ nhạy rất
cao có khi gấp hàng trăm đến hàng nghìn lần phép đo trong ngọn lửa nên có thể xác
định được các nguyên tố vết với nồng độ rất nhỏ [48].
Luận văn tốt nghiệp cao học
42
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Hình 2.7. Sơ đồ nguyên lý hoạt động
của máy đo phổ hấp thụ nguyên tử AAS
6800 [48].
II.6.7. Đo thế Zeta
Hình 2.8. Mô hình sự phân bố của ion quanh hạt keo trong dung dịch [53].
Hạt keo trong môi trường lỏng thường có cấu tạo phức tạp, tùy thuộc vào điều kiện chế tạo nó. Ngày nay người ta coi hạt keo là một mixen trung hòa điện bao gồm một nhân (hạt keo hay hạt phân tán) ở giữa và một lớp điện kép bao quanh nó. Trong dung dịch, sự tích điện trên bề mặt hạt keo có liên quan trực tiếp đến sự phân bố các ion xung quanh hạt. Chúng tạo thành lớp điện kép bao gồm: phần ion hấp phụ trực tiếp trên bề mặt hạt keo, làm cho bề mặt hạt keo tích điện, trong trường hợp này ta gọi là lớp ion quyết định thế hiệu. Nhưng hạt keo phải đảm bảo tính trung hòa điện, nên bề ngoài phải tồn tại lớp ion trái dấu để bù trừ lớp điện tích gọi là lớp ion nghịch. Lớp này được chia làm 2 phần, 1 phần gắn chặt với lớp ion quyết định thế hiệu được gọi là lớp hấp phụ (lớp Stern), còn 1 phần gắn lỏng lẻo hơn ở ngoài cùng gọi là lớp khuếch tán.
Luận văn tốt nghiệp cao học
43
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Khi có sự di chuyển hạt keo trong dung dịch (do sự khuếch tán hoặc dưới tác động của điện trường), thì lớp ion cũng dịch chuyển theo. Nhưng khi cách hạt keo một khoảng cách giới hạn nào đó thì lớp ion không dịch chuyển cùng hạt keo. Khoảng cách này gọi là bề mặt trượt và giá trị thế đo được tại đó gọi là thế Zeta [53].
Thế Zeta là đại lượng đặc trưng cho khả năng bền vững của hệ keo trong hệ. Để hệ keo bền vững thì lực đẩy giữa các hạt keo phải lớn, tức là thế Zeta càng lớn thì hạt keo càng bền. Khi thế Zeta càng nhỏ thì các hạt keo trong hệ có xu hướng kết cụm. Bằng thực nghiệm chứng tỏ rằng hệ keo có xu hướng bền vững khi thế Zeta > 25 mV.
Trong thực tế khi đề cập tới giá trị thế Zeta mà không kèm theo giá trị pH của dung dịch thì đại lượng này không còn ý nghĩa. Nói một cách khác, với các hệ phân tán của các hệ vật liệu, khi biểu diễn sự phụ thuộc của thế Zeta vào pH, ta sẽ tìm được một điểm tại một giá trị pH xác định mà thế Zeta bằng 0, điểm đó gọi là điểm đẳng điện (isoelectric point). Tại đó, hệ phân tán ở trạng thái không bền và có xu hướng kết cụm cao.
𝟒𝜫𝜼
Dùng phương pháp điện di để xác định thế Zeta, khi đặt hệ keo vào một điện trường thì các hạt keo tích điện sẽ di chuyển về một cực, đó là hiện tượng điện di (phần hạt di chuyển bao gồm: nhân cùng lớp ion quyết định thế hiệu và lớp hấp phụ của ion nghịch). Dựa trên phương pháp đo tốc độ dịch chuyển của hạt (v) trong điện trường được xác định nhờ thiết bị kính siêu vi ta có thể tính được thế Zeta của hệ keo theo công thức của Smoluschowski [54].
𝜺
𝒗
Ζ = * U *1000
U = 𝑽/𝑳
Trong đó:
Z là thế zeta (mV), η là độ nhớt môi trường
ε là hằng số điện môi
U là linh độ điện li
v là tốc độ chuyển động của hạt (cm/s)
V là thế điện áp vào hệ đo (V)
L là khoảng cách giữa 2 điện cực (cm).
Luận văn tốt nghiệp cao học
44
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Hình 2.9. Mô hình của phép đo điện di [54].
Luận văn tốt nghiệp cao học
45
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Chương 3: Kết quả và thảo luận
III.1. Cấu trúc, hình thái học và tính chất quang của AgNP, AC và AgAC
III.1.1. Giản đồ nhiễu xạ tia X của AgNP
Hình 3.1 trình bày giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu chế tạo bằng phương pháp
điện hoá siêu âm điện cực tan. Trên giản đồ nhiễu xạ tia X xuất hiện ba đỉnh nhiễu
xạ tại vị trí góc 2θ là 38.10, 44.28 và 64.46 tương ứng với các mặt tinh thể (111),
(200), (220) của mạng lập phương tâm mặt của tinh thể bạc. Cường độ tương đối
giữa các đỉnh là 1:0.50:0.24. Kết quả cho thấy các đỉnh nhiễu xạ xuất hiện có vị trí
và cường độ tương đối trùng với các đỉnh chuẩn (số pdf 04 -0783) của hạt nano bạc
có cấu trúc lập phương tâm mặt.
Kết luận 1: Như vậy vật liệu chúng tôi chế tạo được chính là các hạt nano bạc
Hình 3.1. Giản đồ nhiễu xạ tia X của hạt nano bạc chế tạo bằng phương pháp điện hoá siêu âm với nồng độ TSC c = 1.5 g/l, mật độ dòng điện phân J=50 mA/ cm2,
thời gian tạo mẫu 2h.
với cấu trúc tinh thể lập phương tâm mặt.
Luận văn tốt nghiệp cao học
46
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Khoảng cách các mặt tinh thể và hằng số mạng được tính từ định luật nhiễu xạ
Bragg và định lý mạng đảo [41, 42]:
2dhkl.sin = nλ
a = dhkl.(h2+k2+l2)1/2
Bảng 5 trình bày kết quả tính toán khoảng cách các mặt phẳng mạng và kích
thước ô mạng cơ sở. Từ các giá trị tính toán được ta có giá trị trung bình của hằng
Bảng 5: Phân tích các thông số khoảng cách các mặt tinh thể và hằng số mạng của hạt
nano bạc chế tạo bằng phương pháp điện hoá siêu âm điện cực tan.
số mạng: a = 4.0877 Ao.
h2+k2+l2
STT Góc θ d (Ao) (hkl) a (Ao) Xấp xỉ Chính xác
3 (111) 1
3.00 4.01 4 (200) 2 4.0871 4.0876
8.01 8 (220) 3 19.05 22.14 32.23 2.3599 2.0438 1.4443 4.0885
Độ bán rộng của các đỉnh nhiễu xạ cho phép chúng ta tính được kích thước hạt
theo công thức Scherer: D = 𝟎. 𝟗𝟒 ∗ 𝝀 𝝎 ∗ 𝐜𝐨𝐬(𝜽)
Trong đó: D là kích thước hạt tinh tinh thể, d là khoảng cách các mặt phẳng
mạng, là góc nhiễu xạ, = 1.54056 Ao là bước sóng kích thích của Cu Kα và là
độ bán rộng được xác định từ vị trí mà cường độ nhiễu xạ bằng ½ đỉnh.
Bảng 6 trình bày kết quả phân tích độ bán rộng của các đỉnh nhiễu xạ và kích
thước hạt tương ứng bằng phần mềm Origin. Kích thước hạt trung bình tính toán
được từ giản đồ nhiễu xạ tia X là D = 24 nm.
Luận văn tốt nghiệp cao học
47
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Bảng 6: Phân tích các thông số độ bán rộng và cường độ đỉnh nhiễu xạ của hạt nano
bạc chế tạo bằng phương pháp điện hoá siêu âm điện cực tan.
STT 2θ Độ bán rộng Cường độ (hkl) D (nm)
1 38.10 0.31 1 111 28.4
2 44.28 0.42 0.48 200 21.3
3 64.46 0.44 0.24 220 22.3
Kết luận 2: Từ kết quả tính kích thước hạt tính theo công thức Scherer D=24 nm,
chúng ta có kết luận hạt bạc tồn tại ở kích thước nano.
III.1.2. Ảnh hiển vi điện tử truyền qua của AgNP
Ảnh hiển vi điện tử truyền qua của hạt nano bạc trên hình 3.2 cho thấy hạt nano
bạc có dạng gần hình cầu, kích thước hạt từ 10 – 35 nm. Các hạt phân tách nhau rõ
ràng, không kết tụ lại với nhau nhờ sự có mặt của TSC có vai trò như một chất hoạt
Hình 3.3. Phân bố kích thước của hạt nano
Hình 3.2. Ảnh kính hiển vi điện tử truyền
bạc chế tạo bằng phương pháp điện hoá
qua của hạt nano bạc chế tạo bằng phương
siêu âm điện cực tan.
pháp điện hoá siêu âm điện cực tan.
hoá bề mặt.
Luận văn tốt nghiệp cao học
48
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Phân bố kích thước hạt được trình bày trong hình 3.3 phân tích từ phần mềm
ImageJ cho thấy kích thước hạt trung bình khoảng 23 nm, rất gần với kích thước thu
được từ phổ X-ray (d = 24 nm). Kích thước hạt xác định từ phổ X-ray là kích thước
tinh thể trong khi kích thước hạt xác định từ ảnh TEM là kích thước hình thái. Hai
giá trị này là tương đương nhau, điều đó cho thấy rằng hạt bạc được chế tạo đã kết
tinh tốt.
Kết luận 3: Từ phổ X-ray sắc nét của hạt nano bạc (hình 3.1) và giá trị xấp xỉ
nhau của kích thước hạt nano bạc tính từ phổ X-ray và từ ảnh hiển vi điện tử truyền
qua, chúng tôi có thể khẳng định hạt nano bạc được tạo ra kết tinh rất tốt, độ tinh
khiết cao và đơn pha. Điều này khẳng định tính ưu việt của phương pháp điện hoá
siêu âm điện cực tan dùng để chế tạo hạt nano bạc: độ sạch cao và không độc.
III.1.3. Phổ hấp thụ - truyền qua của AgNP
Qua quan sát màu sắc của mẫu nano bạc chế tạo với nồng độ TSC c = 1.5 g/l, mật độ dòng điện phân J = 15 mA/cm2 theo thời gian chúng tôi nhận thấy màu sắc của
dung dịch nano bạc bắt đầu chuyển từ trong suốt sang vàng tại thời điểm 15 phút kể
từ khi chế tạo và đậm dần khi thời gian chế tạo mẫu tăng lên. Phổ hấp thụ của mẫu
này được trình bày trên hình 3.4.
Kết quả cho thấy, phổ xuất hiện một đỉnh hấp thụ cộng hưởng plasmon đặc trưng
của hạt nano bạc ở lân cận 410 nm trải rộng. Điều đó cho thấy mẫu chế tạo được là
hạt bạc có kích thước nanomet [6 - 10], phù hợp với kết quả thu được từ giản đồ
nhiễu xạ tia X và ảnh kính hiển vi điện tử truyền qua.
Chúng tôi đã tiến hành theo dõi màu sắc của dung dịch trong 180 phút và đo phổ
hấp thụ với những thời gian tạo mẫu khác nhau: 15, 30, 45, 60, 75, 90, 105, 120,
135, 150, 165, 180 phút (hình 3.5).
Luận văn tốt nghiệp cao học
49
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Hình 3.4. Phổ hấp thụ của dung dịch nano bạc khi thời gian điện hóa tăng lên
Sự chuyển sang màu nâu đỏ và đậm màu dần của dung dịch chứng tỏ nồng độ hạt
nano bạc trong dung dịch tăng theo quá trình điện hoá. Điều này được khẳng định
dựa trên sự tăng tuyến tính của cường độ đỉnh hấp thụ trong phổ hấp thụ của hạt
nano bạc theo thời gian (hình 3.6). Quy luật hàm tuyến tính thu được từ kết quả fit linear bằng Origin là I(t) = 0.00346*t - 0.04268 với hệ số tương quan R2 = 0.987
(thời gian được tính bằng đơn vị phút).
Vị trí đỉnh hấp thụ không thay đổi theo thời gian (413nm). Điều này chứng tỏ
kích thước hạt nano bạc là không đổi khi thời gian điện hóa tăng lên.
Bản thân dung dịch trong suốt (không chứa hạt nano bạc) cũng hấp thụ ánh sáng,
để loại bỏ ảnh hưởng này chúng ta cần điều chỉnh đường cong chuẩn sao cho nó đi
qua gốc toạ độ. Nói cách khác, tại thời điểm ban đầu, nồng độ dung dịch bạc phải
bằng không. Sự hiệu chỉnh này không ảnh hưởng tới việc xem xét tốc độ tăng nồng
độ của dung dịch hạt bạc.
Luận văn tốt nghiệp cao học
50
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Hình 3.5. Sự thay đổi màu sắc của hạt nano
Hình 3.6. Sự tăng tuyến tính của cường độ
bạc theo thời gian chế tạo.
đỉnh hấp thụ theo thời gian chế tạo.
, cường độ hấp thụ D Theo định luật hấp thụ ánh sáng Beer - Lambert: I = I0.e-k.l.C
= lg(I/I0) = k.l.C sẽ phụ thuộc tuyến tính vào nồng độ C khi k (hệ số hấp thụ phân tử
đặc trưng cho Ag) và bề dày dung dịch l giữ không đổi. Điều này chỉ ra rằng tốc độ
tạo hạt nano bạc là không đổi theo thời gian hay nồng độ hạt nano bạc tăng tuyến
tính theo thời gian chế tạo mẫu.
Kết luận 4: Từ phổ hấp thụ - truyền qua của mẫu bạc chế tạo với nồng độ TSC c = 1.5 g/l, mật độ dòng điện phân J = 15 mA/cm2 chúng ta thấy rằng: tốc độ tạo hạt
nano bạc không phụ thuộc vào thời gian tạo mẫu, kích thước hạt không thay đổi khi
thời gian tạo mẫu tăng lên.
III.1.4. Ảnh hưởng của nồng độ TSC lên kích thước AgNP
Kích thước của hạt nano bạc có thể bị thay đổi theo nhiều yếu tố như cường độ
dòng điện, nồng độ dung dịch TSC, nhiệt độ của chất điện phân, cường độ sóng siêu
âm, diện tích và khoảng cách giữa hai bản cực. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã cố định diện tích bề mặt bản cực là 1 cm2, khoảng cách giữa hai bản cực là 5 mm,
thời gian điện phân là 2h, nhiệt độ là nhiệt độ phòng và thay đổi nồng độ (g/l) của
TSC trong dung dịch, cường độ dòng điện để thu được các hạt nano bạc có kích
thước khác nhau.
Luận văn tốt nghiệp cao học
51
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Để khảo sát sự thay đổi kích thước hạt theo nồng độ TSC trong dung dịch, chúng tôi tiếp tục cố định mật độ dòng điện phân (J = 15 mA/cm2) và chỉ thay đổi nồng độ
TSC (c = 0.5, 1, 1.5, 2, 2.5, 3, 3.5, 4).
Khi tan trong dung dịch chất điện phân TSC đóng vai trò là chất khử, chất dẫn
điện. Khi nồng độ TSC trong dung dịch tăng lên sẽ làm tăng quá trình vận chuyển các ion Ag+ từ cực dương sang cực âm, đồng nghĩa với việc tạo ra các hạt nano bạc
có kích thước lớn hơn. Thực tế, kết quả thực nghiệm lại chỉ ra đường kính hạt nano
bạc tỷ lệ nghịch với nồng độ TSC trong dung dịch. Có được kết quả thực nghiệm
này là do TSC không chỉ là tác nhân khử mà còn là chất hoạt hóa bề mặt giúp các hạt nano phân tán trong dung dịch. Khả năng khử Ag+ Ag° chỉ cao ở 90 °C
nhưng lại thấp ở nhiệt độ phòng [29, 46]. Vì vậy khi chế tạo hạt nano bạc bằng
phương pháp điện hóa siêu âm ở nhiệt độ phòng thì TSC đóng vai trò như một chất
hoạt hóa bề mặt quan trọng hơn là tác nhân khử nên các hạt bạc không thể kết đám
Hình 3.7. a, Phổ UV- Vis của hạt nano bạc chế tạo bằng phương pháp điện hóa siêu âm với điều kiện J = 15 mA/cm2, c = 0.5 và 4 g/l.
b, Sự phụ thuộc của đỉnh phổ hấp thụ λmax vào nồng độ TSC.
lại với nhau, hay khi nồng độ dung dịch TSC tăng thì kích thước hạt nano bạc giảm.
Hình 3.7.a chỉ ra sự dịch đỉnh phổ hấp thụ của hạt nano bạc được chế tạo khi
nồng độ TSC trong dung dịch thay đổi. Trong một khoảng giá trị nào đó thì sự phụ
Luận văn tốt nghiệp cao học
52
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
thuộc của đỉnh phổ hấp thụ vào nồng độ TSC trong dung dịch là một hàm tuyến
Bảng 7: Sự phụ thuộc của vị trí đỉnh hấp thụ của hạt nano bạc vào nồng độ TSC trong
dung dịch.
tính, nó được thể hiện trong hình 3.7.b và trong bảng 7.
Nồng độ TSC 1 0.5 1.5 2 2.5 3 3.5 4 (g/l)
Vị trí đỉnh
415 414 413 412 409.5 407.5 407 406 hấp thụ (nm)
Khi nồng độ TSC tăng thì đỉnh phổ dịch về phía bước sóng ngắn, có nghĩa kích
thước hạt nano bạc giảm và ngược lại khi nồng độ giảm thì đỉnh phổ dịch về phía
bước sóng dài, có nghĩa kích thước hạt tăng [7, 30-32]. Kết quả này hoàn toàn phù
Hình 3.8. Ảnh TEM của hạt nano bạc khi c = 0.5 g/l, J = 15 mA/cm2
Hình 3.9. Ảnh TEM của hạt nano bạc khi c= 3.5 g/l, J = 15 mA/cm2
hợp với kết quả ảnh TEM ở hình 3.8 và hình 3.9.
Khi nồng độ TSC tăng thì độ bán rộng của hàm phân bố kích thước fit theo hàm
Gauss cũng tăng từ 1.2 – 4.8 nm. Điều này có nghĩa: đối với dung dịch TSC có
nồng độ càng lớn thì sẽ tạo ra hạt nano bạc với càng nhiều kích thước khác nhau,
hay độ đồng đều về kích thước giảm đi (bảng 6).
Luận văn tốt nghiệp cao học
53
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Kết luận 5: Khi thay đổi nồng độ TSC trong dung dịch, kích thước hạt nano bạc
được tạo ra cũng thay đổi. Nồng độ TSC tăng thì kích thước hạt nano bạc giảm và
ngược lại, điều này cũng thể hiện tính chất hoạt hóa bề mặt nổi bật của TSC, chống
sự kết đám của các hạt nano bạc trong dung dịch.
III.1.5. Ảnh hưởng của mật độ dòng điện phân lên kích thước AgNP
Để khảo sát sự thay đổi kích thước hạt theo mật độ dòng điện phân, chúng tôi cố
định các yếu tố có thể dẫn tới sự thay đổi kích thước hạt nano bạc đã được kể ở trên
và cố định thêm nồng độ TSC trong dung dịch.
Trong thí nghiệm này chúng tôi giữ nguyên nồng độ TSC là c=1.5 g/l và thay đổi mật độ dòng điện phân J từ 15 mA/cm2 tới 50 mA/cm2. Kích thước của hạt nano bạc
Bảng 8: Sự phụ thuộc của kích thước hạt và đồ thị phân bố kích thước theo mật độ dòng
điện phân J và nồng độ TSC c.
tăng tương ứng từ 6.0 nm đến 22.9 nm.
J(mA/cm2) c (g/l) d (nm) σ (nm)
15 0.5 4.0 1.2
15 1.5 6.0 2.6
15 3.5 12.8 4.8
30 1.5 18.9 7.5
50 1.5 22.9 9.8
Bảng 8 cho thấy sự thay đổi kích thước hạt nano bạc khi thay đổi mật độ dòng
điện phân và nồng độ TSC trong dung dịch. Ta thấy khi mật độ dòng điện tăng thì
kích thước hạt nano bạc tăng và ngược lại. Sự phụ thuộc này có thể được giải thích do mật độ dòng điện tỉ lệ với lượng ion Ag+ di chuyển từ cực dương tới cực âm.
Trong cùng một thời gian điện phân, mật độ dòng điện phân lớn hơn thì tạo ra các
hạt nano có kích thước lớn hơn và tốc độ hình thành hạt nhanh hơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
54
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Tốc độ hình thành của hạt nano bạc tại J = 50 mA/cm2 là nhanh hơn tại J = 15 mA/cm2, để thu được cùng một lượng các hạt bạc, thông thường khoảng 400
µg/mL, thì phải điện phân trong khoảng thời gian 40 phút đối với trường hợp đầu và 120 phút với trường hợp sau. Bởi vậy chúng tôi áp dụng J = 50 mA/cm2 và c = 1.5
g/l cho các nghiên cứu sau này, gồm có kết quả phổ X-ray được trình bày trong hình
3.1. Từ kết quả này ta có thể tính được tốc độ tạo thành hạt nano bạc với trường hợp c = 1.5 g/l và J = 50 mA/cm2 là 2 mg/min.
Nhìn vào bảng 8 chúng ta cũng thấy độ bán rộng phổ (σ) trong sự phân bố kích
thước hạt nano bạc tăng lên khi mật độ dòng điện phân tăng. Điều này có nghĩa là
khi mật độ dòng điện phân tăng lên thì hạt nano bạc càng có thêm nhiều kích thước
khác nhau hay độ đồng đều về kích thước của mẫu giảm đi.
Kết luận 6: Khi mật độ dòng điện phân thay đổi thì kích thước hạt nano bạc được
tạo thành cũng thay đổi theo. Mật độ dòng điện phân J tăng thì kích thước hạt d
tăng, độ đồng đều về kích thước giảm và ngược lại. Tốc độ tạo thành hạt nano bạc ứng với trường hợp hợp c = 1.5 g/l và J = 50 mA/cm2 là 2 mg/min.
III.1.6. Than hoạt tính (Activated Carbon – AC)
Để nghiên cứu cấu trúc xốp của than hoạt tính (AC) chúng tôi sử dụng phương
pháp phân tích Brunaur-Elemmett-Teller (BET). Phương pháp này cung cấp thông
tin về diện tích bề mặt và thể tích và phân bố các lỗ hổng trong than hoạt tính.
Phương pháp này cho biết tổng diện tích bề mặt và thể tích các lỗ hổng phụ thuộc
vào thời gian hoạt hóa (hình 3.8 trái).
Diện tích bề mặt của than hoạt tính gần như tăng tuyến tính với thời gian hoạt hóa từ khoảng 200 m2 đối với thời gian ủ là 2h đến một giá trị tối đa là 890 m2/g đối
với thời gian ủ là 5h, sau đó sẽ giảm nếu thời gian ủ dài hơn. Tương tự, thể tích của
các lỗ hổng của than hoạt tính tăng gần như tuyến tính với thời gian hoạt hóa và đạt được giá trị tối đa 0.45 cm3/g với mẫu có thời gian là 5h. Thời gian hoạt hóa phải đủ
để sọ dừa được đốt thành than hoàn toàn, nếu thời gian quá dài than dễ vỡ có thể sẽ
Luận văn tốt nghiệp cao học
55
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
bịt các lỗ hổng bên trong. Do đó, thời gian tối ưu cho quá trình hoạt hóa là 5h.
Hình 3.8. Sự phụ thuộc của tổng diện tích bề mặt và thể tích lỗ hổng theo thời gian hoạt hóa (trái) và đường hấp phụ - giải hấp phụ (phải) phân tích bằng phương pháp BET
Chúng tôi đã tẩm hạt bạc lên than hoạt tính được hoạt hóa trong 5h.
Đường đẳng hấp phụ của than hoạt tính cho thấy đoạn dốc xảy ra hiện tượng trễ
khi tỉ số áp suất là P/Po= 0.45 (hình 3.8 phải). Điểm sai khác giữa đường hấp phụ và
đường giải hấp phụ lớn hơn có thể do cấu trúc gãy vụn của than hoạt tính. Điều này
Hình 3.9. Ảnh SEM bề mặt than hoạt tính. Hinh 3.10. Phân bố kích thước lỗ trong than
hoạt tính.
làm các lỗ hổng bị chặn và cuối cùng sai số tại áp suất khí nitơ cao hơn.
Luận văn tốt nghiệp cao học
56
Khoa Vật Lý Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Từ ảnh SEM bề mặt than hoạt tính (hình 3.9) chúng ta có thể quan sát thấy sự
xuất hiện của các lỗ nhỏ, chính những lỗ nhỏ này tạo nên độ xốp và diện tích bề mặt
rất lớn của than hoạt tính.
Hình 3.10 đưa ra giản đồ phân bố kích thước lỗ trong than hoạt tính. Có một sự tập trung rất lớn các lỗ với kích thước d từ 20 Ao tới 50 Ao, điều này chứng tỏ than
hoạt tính chúng tôi chế tạo là vật liệu mao quản trung bình (Mesoporous material, 2
nm < d < 5 nm) [27].
Kết luận 7: Từ phương pháp phân tích BET chỉ ra rằng than hoạt tính chúng tôi
chế tạo là vật liệu mao quản trung bình (2 nm gian hoạt hóa chỉ ra thời gian hoạt hóa tối ưu của than sọ dừa là 5 h và quá trình hấp phụ - giải hấp phụ là một quá trình bất thuận nghịch. III.1.7. Than hoạt tính tẩm hạt nano bạc (AgAC) Hạt nano bạc và than hoạt tính sau khi được chế tạo thành công, chúng tôi tiến hành phân tán hạt nano bạc lên nền than hoạt tính với tỷ lệ 1% về khối lượng. Hình 3.11 chỉ ra giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu than hoạt tính và than hoạt tính được tẩm nano bạc. Trên hình 3.11a xuất hiện các đỉnh chuẩn của hạt nano bạc có cấu trúc lập
phương tâm mặt. Trên hình 3.11b xuất hiện các đỉnh trải rộng ở 22o và 44o, chúng thể hiện cấu trúc vô định hình của than hoạt tính. Trên hình 3.11 c xuất hiện cả đỉnh trải rộng của than hoạt tính và đỉnh nhọn sắc nét của hạt nano bạc. Điều này khẳng định hạt nano bạc đã được phân tán trên nền than hoạt tính. Trong phổ X- ray chúng ta cũng thấy độ bán rộng của đỉnh lớn nhất (111) của hạt nano bạc không thay đổi trước và sau khi phân tán lên nền than hoạt tính, điều này chứng tỏ kích thước của hạt nano bạc không thay đổi. 57 a, Phổ X-ray của hạt nano bạc (AgNP) b, Phổ X-ray của than hoạt tính (AC) c, Phổ X-ray của than hoạt tính tẩm hạt
nano bạc (AgAC) Hình 3.11. Phổ X-ray của mẫu nano bạc và than hoạt tính trước và sau khi trộn vào nhau Để có được sự quan sát trực quan về sự phân tán của hạt nano bạc trên nền than hoạt tính, chúng tôi đem mẫu than hoạt tính và than hoạt tính tẩm hạt nano bạc đi đo Hình 3.12. Ảnh FE-SEM của than hoạt tính Hình 3.13. Ảnh FE-SEM của than hoạt tính (AC) tẩm hạt nano bạc (AgAC) SEM và phân tích EDS. Hình ảnh SEM của AC và AgAC được trình bày ở hình 3.12 và hình 3.13. Mẫu than hoạt tính bao gồm nhiều hạt với hình dạng và kích thước ngẫu nhiên từ hàng trăm nm đến vài µm. Cấu trúc xốp của than hoạt tính được thể hiện bởi rất nhiều lỗ có kích thước cỡ vài chục nm. 58 Về cơ bản, sự có mặt của hạt nano bạc không làm thay đổi hình thái bề mặt của than hoạt tính. Tuy nhiên, sự tồn tại của các hạt nano bạc trên mẫu than hoạt tính được nhận ra bởi các đốm sáng nhỏ trên ảnh SEM, hoặc cũng có thể khẳng định được nhờ phổ tán sắc năng lượng EDS (hình 3.14), trong đó có các tín hiệu chỉ ra sự có mặt của C và Ag. Phổ EDS một lần nữa cũng khẳng định lại các mẫu “sạch” không lẫn tạp bằng việc không quan sát thấy phổ của bất kỳ nguyên tố nào khác ngoài C và Ag. Để quan sát một cách chi tiết hơn Hình 3.14. Phổ EDS của mẫu than hoạt tính nữa về sự phân tán của hạt nano bạc tẩm hạt nano bạc (AgAC) trên nền than hoạt tính, các mẫu được mang đi quan sát ảnh TEM. Hình 3.15 và hình 3.16 là ảnh TEM của mẫu AC và AgAC. Sự xuất hiện của các chấm đen trên nền mờ hơn của than hoạt tính chỉ ra sự có mặt của hạt nano bạc, các chấm đen này có kích thước trung bình khoảng 30 nm tới 40 nm. Từ kết quả này Hình 3.15. Ảnh TEM của mẫu than hoạt Hình 3.16. Ảnh TEM của mẫu than hoạt tính (AC) tính có tẩm nano bạc (AgAC) cho chúng ta thấy khả năng phân tán hạt nano bạc vào nền than hoạt tính là rất tốt. 59 Kết luận 8: Từ kết quả các phép đo đối với mẫu than hoạt tính và than hoạt tính tẩm nano bạc chúng ta có thể thấy các mẫu vật liệu được chế tạo có độ sạch cao, hạt nano bạc phân tán tốt trên nền than hoạt tính và không bị thay đổi kích thước so với ban đầu. III.2.1. Nghiên cứu định tính khả năng diệt khuẩn của AgNP và AgAC Kết quả nghiên cứu định tính khả năng diệt khuẩn của than hoạt tính được tẩm Hình 3.17. Nghiên cứu khả năng diệt khuẩn của vật liệu: (A) đối chứng âm, (B) than hoạt
tính, (C) than hoạt tính tẩm hạt nano bạc hạt bạc trên đĩa thạch LB (mục II.5.1) được trình bày trong hình 3.17. Kết quả của đĩa (A- môi trường thạch) được chỉ ra trên hình 3.17 A cho thấy sự phát triển bình thường của vi khuẩn E.coli do sự có mặt của các đốm trắng trên bề mặt đĩa thạch. Hình 3.17 B là kết quả của đĩa (B- môi trường thạch có thêm 0.15 g than hoạt tính) cũng cho thấy sự phát triển bình thường của vi khuẩn E.coli. Điều này chỉ ra rằng than hoạt tính không ngăn chặn được sự phát triển của E.coli hay không có tác dụng diệt khuẩn. Ngược lại, trên bề mặt đĩa (C- môi trường thạch có thêm 0.15 g than hoạt tính tẩm hạt nano bạc với tỷ lệ 1%) không quan sát thấy các đám vi khuẩn E.coli (hình 3.17 C). Việc tẩm thêm hạt nano bạc vào 0.15 g than hoạt tính với tỷ lệ 1% tương đương với việc cung cấp 1.5 mg hạt nano bạc có tính kháng khuẩn mạnh. Thể tích của đĩa 60 thạch LB trên Petri là 15 mL, ta có thể suy ra nồng độ hạt nano trên đĩa Petri là 1.5 mg/15 mL hay 100 µg/mL. Kết luận 9: Từ thí nghiệm nghiên cứu khả năng diệt khuẩn của than hoạt tính và than hoạt tính tẩm hạt nano bạc ở trên, chúng ta thấy than hoạt tính có khả năng hấp phụ tốt nhưng lại không có tác dụng diệt khuẩn, việc tẩm thêm hạt nano bạc có tác dụng diệt khuẩn mạnh vào than hoạt tính làm cho vật liệu mới này ngoài tác dụng hấp phụ tốt còn có thêm đặc tính diệt khuẩn mạnh. Đây hứa hẹn là 1 loại vật liệu có khả năng ứng dụng cao vào rộng rãi trong thực tế. III.2.2. Nghiên cứu định lượng khả năng kháng khuẩn của AgNP - Nồng độ ức Hình 3.18. Biểu đồ sự phát triển theo thời gian của vi khuẩn E. Coli trong các môi trường đối chứng âm, đối chứng TSC và môi trường dung dịch nano bạc có nồng độ thay đổi. chế tối thiểu (MIC) Biểu đồ trong hình 3.18 biểu thị mật độ vi khuẩn E. coli trong những mẫu dung
dịch khác nhau theo thời gian lần lượt là 4, 8, 24 và 30 giờ. Trong mẫu đối chứng
âm (chỉ chứa dung dịch LB) và đối chứng TSC (dung dịch LB chứa thêm 120 μl
dung dịch TSC nồng độ 3 g/l) E. Coli phát triển bình thường. Mật độ vi khuẩn E.
Coli sau 30 giờ trong đối chứng TSC (OD595=2.5) cao hơn trong đối chứng âm
(OD595=1.5). Điều này giả thiết rằng TSC không độc với E. Coli mà thậm chí kích 61 thích sự phát triển của chúng. Tình trạng sẽ khác đi với sự có mặt của hạt nano bạc, bởi tính chất diệt khuẩn của kim loại này [5,11-13,16]. Khi nồng độ hạt nano bạc là
2 µg/mL, kết quả tương đương với kết quả trên mẫu đối chứng âm bởi vì lượng nano bạc quá thấp không đủ ức chế sự phát triển của E. Coli. Khi nồng độ nano bạc cao hơn, tác dụng ức chế xảy ra tới 8h ngay tại nồng độ nano bạc là 4 µg/mL, giá trị
này nhỏ hơn 2 lần so với giá trị ngưỡng 8 µg/mL được công bố với hạt nano bạc trong các nghiên cứu khác [28]. Trong vi sinh, nồng độ ức chế tối thiểu (The Minimal Inhibitory Concentration - MIC) là nồng độ thấp nhất của một kháng sinh mà sẽ ức chế sự phát triển của vi sinh vật có thể quan sát sau một thời gian đủ dài thường là ủ qua đêm (24 h hoặc 30 h). E. Coli vẫn phát triển trong các ống có nồng độ nano bạc ≤ 12 µg/mL và bị ức chế trong các ống có nồng độ nano bạc ≥ 16 µg/mL. Do vậy nồng độ tác dụng tối thiểu (MIC) của hạt nano bạc đối với vi khuẩn E. Coli là 16 µg/mL, nằm trong khoảng nồng độ tác dụng tối thiểu của các loại kháng sinh thông dụng đối với E. Coli (biến đổi từ 1÷16 µg/mL) [40, 49]. Kết luận 10: Kết quả thí nghiệm trên cho ta giá trị đinh lượng chính xác khả năng ức chế vi khuẩn của hạt nano bạc MIC=16 µg/mL, kết quả này khá tương đồng với khả năng ức chế vi khuẩn tối thiểu của các loại kháng sinh. Nó chỉ ra hướng ứng dụng ức chế vi khuẩn của hạt nano bạc trong y sinh và môi trường như một vật liệu tiềm năng mà vi khuẩn không có khả năng kháng lại. III.3.1. Cơ chế hấp phụ MB của AC Khả năng hấp phụ của than hoạt tính (AC) được kiểm tra bởi sự hấp phụ Methylene Blue (MB) trong 5 h. Từ phổ UV – vis, cường độ đỉnh hấp phụ cực đại tại 664 nm tỷ lệ tuyến tính với nồng độ MB, do vậy đỉnh này được chọn để xác định nồng độ MB trong dung dịch. Lượng MB được hấp phụ trên một đơn vị khối lượng của AC q (mg/g) phụ thuộc vào nồng độ ban đầu của MB C0 (mg/L), nồng độ của MB C (mg/L) tại thời điểm t, thể tích dung dịch V (l), khối lượng AC được sử dụng m (g) theo công thức: 62 q = Giá trị của q và C là một hàm của thời gian. Khi thời gian tương tác đủ dài, sự hấp phụ MB trên bề mặt AC cân bằng với quá trình giải hấp, sự cân bằng động được tạo nên và q → qe , C → Ce . Khả năng loại bỏ MB tại trạng thái cân bằng phụ thuộc mạnh vào diện tích bề mặt của AC, pH của dung dịch, nhiệt độ T và cơ chế của quá trình hấp phụ. Để giải thích cơ chế hấp phụ MB của AC, mô hình động học và mô hình đường đẳng nhiệt được đưa ra. Với mô hình động học, có 3 mô hình thường được sử dụng là: giả thuyết thứ nhất (The pseudo – first – order model), giả thuyết thứ hai (Ho’s pseudo – second – order model) và mô hình Elovich (Elovich model). Các phương trình tương ứng mô tả cho đúng cho những mô hình này là: (1) (2) (3) Trong đó: qe là lượng chất hấp bị hấp phụ (MB) trên một đơn vị chất hấp phụ (AC) tại trạng thái cân bằng. k1 là hằng số tốc độ của giả thuyết hấp phụ thứ nhất. k2 là hằng số tốc độ của giả thuyết hấp phụ thứ hai. a là tốc độ hấp phụ ban đầu. b là hằng số của giải hấp phụ. Khớp dữ liệu thực nghiệm với các phương trình của các mô hình tương ứng sẽ đưa ra cơ chế của quá trình hấp phụ [21, 23, 24, 26]. Với mô hình đường đẳng nhiệt, có một số mô hình được sử dụng nhưng 2 mô hình được sử dụng phổ biến nhất là mô hình Langmuir và mô hình Freundlich. 63 Mô hình Langmuir đưa ra giả thiết: trên bề mặt chất hấp phụ tất cả các vị trí là như nhau và có năng lượng tương đồng. Điều này ngụ ý rằng mỗi vị trí có thể giữ một phân tử chất bị hấp phụ, sự hấp phụ chỉ xảy ra tại đơn lớp. Khả năng một phân tử bị hấp phụ tại một vị trí nhất định là độc lập với sự chiếm giữ tại các vị trí lân cận, hay sẽ không có tương tác giữa các phân tử liền kề trên bề mặt và sự hấp phụ là thụ động, tức là sự luân chuyển của chất bị hấp phụ trên các lớp của bề mặt chất hấp phụ được loại trừ [21, 24]. Mô hình Freundlich giả thiết: năng lượng bề mặt không đồng nhất, trong đó thuật ngữ năng lượng trong mô hình Langmuir thay đổi như một hàm của bề mặt hấp phụ [23]. Sự không đồng nhất của bề mặt là do sự có mặt của những nhóm chức khác nhau trên bề mặt và tồn tại một số tương tác giữa chất bị hấp phụ và chất hấp phụ [26]. Phương trình đường đẳng nhiệt tương ứng với 2 mô hình Langmuir và Freundlich có dạng: (4) (5) Trong đó: qm là dung lượng hấp phụ tối đa (qe) của một đơn lớp. ka là hằng số hấp phụ tại trạng thái cân bằng. kF là hằng số hấp phụ Freundlich. 1/n là giá trị cường độ hấp phụ. Ce nồng độ dung dịch tai trạng thái cân bằng (mg/L). Hình 3.19 chỉ ra lượng MB bị hấp phụ bởi AC như một hàm của thời gian (phút). Điều kiện của những thí nghiệm là nồng độ ban đầu của dung dịch MB là C0 = 100÷500 (mg/L), lượng AC là 0.2 g/200 mL, nhiệt độ phòng. 64 Tất cả các đường chỉ ra sự hấp phụ tại khoảng thời gian đầu tăng nhanh. Điều này là do tồn tại một số lượng lớn các vị trống rỗng khả dĩ cho sự hấp phụ tại giai đoạn ban đầu. Do đó xuất hiện một gradient nồng độ lớn giữa chất chất bị hấp phụ Hình 3.19. So sánh giữa kết quả thực nghiệm (các điểm rời rạc) và giả thuyết động học thứ 2 (các đường cong liền nét). (MB) trong dung dịch và trong lòng chất hấp phụ (AC) [38, 39]. Trong khoảng 20 phút đầu tiên, khoảng 70% phân tử MB bị hấp phụ, sau đó số lượng vị trí trống khả dĩ giảm dần và quá trình hấp phụ dần đi tới trạng thái bão hòa. Khớp số liệu thực nghiệm với 3 mô hình động học chỉ ra rằng: giả thuyết động học
thứ 2 là tốt nhất cho việc mô tả cơ chế hấp phụ MB của AC. Hệ số tương quan R2 là cao hơn 0.998. Giá trị qe tính toán liên hệ với giá trị qe thực nghiệm được chỉ ra trong bảng 9. Khớp số liệu thực nghiệm với các mô hình động học khác cho ta hệ số tương quan thấp hơn 0.8. Đặc trưng tương tự cũng thu được với AC chế tạo bằng phương pháp khác [23, 25, 26]. Phương trình động học của giả thuyết hấp phụ thứ 2 là qui luật phổ biến mô Bảng 9: Khớp thông số với phương trình động học thứ 2 c0 (mg/L) (mg/g) (mg/g) 100 89.8 89.4 2.4 1.00 200 171.5 174.8 0.4 0.998 300 190.6 198.4 0.4 0.999 400 201.8 207.5 0.4 0.998 500 237.5 245.1 0.5 0.999 tả tốc độ của một phản ứng hóa học [37]. 65 Áp dụng cho nghiên cứu này, tốc độ hấp phụ MB được quyết định bởi khả năng hấp phụ của những vị trí trên bề mặt AC hơn là nồng độ của của MB. Để xác định được các hệ số theo 2 mô hình Langmuir và Freundlich, ta đưa 2 phương trình tương ứng về dạng đường thẳng: (6) Hình 3.20. Mô hình đẳng nhiệt Langmuir (a) và mô hình đẳng nhiệt Freundlich (b) áp
dụng cho việc hấp phụ MB trên AC. (7) Hình 3.20 chỉ ra sự so sánh giữa số liệu thực nghiệm với mô hình lý thuyết đường đẳng nhiệt tại giá trị pH trung tính. Hệ số tương quan R2 được chỉ ra cho mô hình Langmuir và mô hình Freundlich tương ứng là 0.98 và 0.79. Từ đây ta thấy rằng mô hình Langmuir là phù hợp hơn mô hình Freudlich trong việc miêu tả cơ chế hấp phụ của AC và 240 mg/g là giá trị thu được cho khả năng hấp phụ tối đa của một đơn lớp (qm) theo mô hình Langmuir. Giá trị này là khá cao so với kết quả mà một số bài báo công bố là khoảng 200 mg/g [26, 33-36]. 66 Kết luận 11: Qua việc nghiên cứu cơ chế hấp phụ MB của mẫu AC chế tạo, chúng ta thấy rằng: sự hấp phụ MB của AC được quyết định bởi khả năng hấp phụ của những vị trí trên bề mặt AC hơn là nồng độ của của MB và khả năng hấp phụ tối đa của một đơn lớp (qm) là 240 mg/g. III.3.2. Ảnh hưởng của pH lên khả năng hấp phụ MB của AC Độ pH của dung dịch là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới quá trình hấp phụ, đặc biệt là khả năng hấp phụ. Tại các giá trị pH thấp các cation thường khó bị hấp phụ vào các vị trí trên bề mặt tích điện âm và ngược lại tại các giá trị pH cao các cation này dễ dàng bị hấp phụ [22, 23, 26]. Để nghiên cứu ảnh hưởng của pH dung dịch lên sự hấp thụ MB, thí nghiệm được tiến hành với nồng độ MB ban đầu là 500 mg/L, 200 mg than hoạt tính, 200 mL dung dịch ở nhiệt độ 25 °C. Khi tan trong nước, MB chính là các cation do chúng phân ly trong nước và mất
đi anion Cl-. Chúng ta hy vọng sẽ tăng khả năng hấp phụ MB khi độ pH của dung dịch tăng lên. Kết quả được chỉ ra trong hình 3.21, lượng MB bị hấp thụ tại giá trị cân bằng tăng từ 170 mg/g lên 240 mg/g khi pH dung dịch tăng từ 1 lên tới 5. Khi pH tăng từ 5 tới 7 có thể nói giá trị qe thay đổi hầu như không đáng kể. Kết quả tương tự cũng được quan sát trong một số bài báo được công bố [22, 23, 26]. Giả thiết rằng việc tăng sự hấp phụ phụ thuộc vào tính chất bề mặt của chất hấp phụ (AC) và cấu trúc chất bị hấp phụ (MB). Khi dung dịch có pH thấp, nồng độ ion
H+ trong dung dịch là rất lớn, lúc này các ion H+ tham gia “ tranh chấp” các vị trí hấp phụ mang điện tích âm trên bề mặt than hoạt tính [22, 23, 26]. Chính điều này làm giảm khả năng hấp thụ các cation MB trong dung dịch. Khi pH dung dịch lân cận giá trị trung tính (pH = 7) thì thực chất nồng độ H+ là
rất thấp (10-5 tới 10-7 ion H+/l), với nồng độ H+ nhỏ như vậy thì chúng ít có khả 67 năng “ tranh chấp” các vị trí hấp phụ trên bề mặt AC nên ở khoảng pH này lượng Hình 3.21. Khả năng hấp phụ MB của AC phụ thuộc vào độ pH của dung dịch và sự phụ thuộc của thế Zeta vào độ pH. hấp phụ MB của AC là gần như không đổi. Để chứng minh cách giải thích định tính bên trên, chúng tôi đã đo thế Zeta bề mặt của AC tại các giá trị pH khác nhau. Thế Zeta chỉ ra điện tích bề mặt của AC thay đổi tại giá trị pH = 3.2. Điều đó có nghĩa là tại giá trị pH < 3.2, điện tích bề mặt của AC là dương, điều này dẫn tới giá trị qe thấp. Tại giá trị pH > 3.2, điện tích bề mặt AC là âm, do đó một số lượng lớn cation MB được hấp phụ trên bề mặt AC. Sự bão hòa của giá trị qe tại giá trị pH cao còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như diện tích bề mặt, cơ chế hấp phụ… Kết luận 12: Việc thay đổi độ pH của dung dịch đã làm điện tích bề mặt của AC biến đổi, điều này làm cho khả năng hấp phụ MB của AC cũng thay đổi theo. Sự thay đổi này là khác nhau với những khoảng pH khác nhau, pH càng thấp thì sự thay đổi càng lớn, và không có sự khác biệt nhiều về khả năng hấp phụ của AC khi pH ở mức trung tính. III.3.3. So sánh khả năng hấp phụ của AC và AgAC Khả năng hấp phụ của AC phụ thuộc mạnh vào tính chất bề mặt của nó, sự xuất hiện AgNP trên nền AC có thể tạo ra một sự thay đổi lên quá trình hấp phụ của vật liệu. 68 Chúng tôi đã kiểm tra khả năng hấp phụ MB của AC và AgAC với nồng độ MB Hình 3.22 a. So sánh khả năng hấp phụ Hình 3.22 b. Đường hấp phụ và giải hấp phụ MB của AC và AgAC. của AC và AgAC. ban đầu là C0 = 200 mg/L. Kết quả được trình bày trong hình 3.22 a. Chúng ta không tìm thấy sự khác biệt rõ rệt giữa 2 đường hấp phụ MB của AC và AgAC trong hình 3.22 a. Điều này chứng tỏ sự có mặt của AgNP với tỷ lệ 1% không gây ra ảnh hưởng đáng kể lên khả năng hấp phụ MB cũng như tính chất bề mặt của AC. Sự tương đồng giữa đường hấp phụ - giải hấp phụ của AC và AgAC trong hình 3.22 b một lần nữa xác nhận kết luận trên. Khả năng hấp phụ của AC và AgAC là khác nhau khi chất bị hấp phụ là Asen (As). Tại trạng thái cân bằng, khả năng hấp phụ As của AC và AgAC được nghiên cứu dưới cùng điều kiện với thời gian khuấy là 3 h, nồng độ dung dịch Asen là 1.0 mg/L. Kết quả chi ra rằng với 2 g AC và AgAC trên 1 lít dung dịch pH trung tính, AC làm giảm lượng As đi 5.5% trong khi AgAC làm giảm lượng As đi 17.1%. Đã có
một sự cải tiến trong khả năng loại bỏ ion As+ khi AgNP được phân tán trên nền AC. 69 Sự xuất hiện của hạt nano bạc trên nền than hoạt tính làm tăng khả năng hấp phụ Asen thông qua các tương tác hóa học. Điều này có thể được giải thích từ giá trị năng lượng tự do trong mô hình đường đẳng nhiệt Dubini – Radushkevich (D-R): lnqe = lnqm – γε2 Trong đó: qe là khả năng hấp phụ tại trạng thái cân bằng qm là khả năng hấp phụ bão hòa lý thuyết (mol.g-1) γ là hằng số liên quan đến năng lượng tự do của quá trình hấp phụ trên 1 mol chất bị
hấp phụ (mol2.J-2) ε là thế Polanyi, được tính theo công thức: ε = RTln(1 + 1/Ce) Trong đó: R là hằng số khí (8.314 J-1.mol-1.K) Ce là nồng độ chất bị hấp phụ trong dung dịch tại trạng thái cân bằng (mol.L-1) T là nhiệt độ tuyệt đối (K) Năng lượng tự do E (kJ.mol-1) của quá trình hấp phụ trên 1 mol của chất bị hấp phụ khi nó được chuyển tới bề mặt chất hấp phụ từ môi trường dung dịch ban đầu được tính theo công thức: E = 1/ 2 ε Giá trị này đưa ra thông tin về cơ chế của quá trình hấp phụ là trao đổi ion hay thuần vật lý. Nếu E < 8 kJ.mol-1 thì quá trình hấp phụ là thuần vật lý. 70 Nếu giá trị E nằm trong khoảng từ 8 tới 16 kJ.mol-1 thì quá trình hấp phụ là trao đổi ion. Nếu E nằm ở giá trị cao hơn (24.7 ± 3.2 kJ.mol-1) chỉ ra sự hình thành một liên kết hóa học mạnh giữa chất hấp phụ và chất bị hấp phụ. Giá trị năng lượng tự do của quá trình hấp phụ Asen của than là 12.909 kJ.mol-1, và
của than chứa bạc là 22.360 kJ.mol-1 [39]. Số liệu này chỉ ra rằng quá trình hấp phụ Asen của AgAC là một tương tác hóa học mạnh, chính điều này đã dẫn tới khả năng hấp phụ Asen vợt trội của AgAC so với AC. Kết luận 13: Khả năng hấp phụ của AC và AgAC là không có sự khác biệt lớn khi chất bị hấp phụ là MB do diên tích bề mặt của 2 vật liệu là gần như nhau hay lượng AgNP phân tán vào AC không làm thay đổi đáng kể tính chất bề mặt của AC. Nhưng khả năng hấp phụ của 2 vật liệu này là khác nhau khi chất bị hấp phụ là Asen. AgAC là vật liệu có khả năng hấp phụ Asen tốt hơn, từ đây mở ra khả năng ứng dụng của vật liệu này vào lĩnh vực diệt khuẩn và xử lý môi trường. 71 Sau thời gian thực hiện luận văn với tên gọi: “Nghiên cứu chế tạo hạt bạc có cấu trúc nano trên nền than hoạt tính và định hướng trong xử lý môi trường” tại bộ môn Vật Lý Chất Rắn, khoa Vật Lý, trường đại học Khoa Học Tự Nhiên, chúng tôi đã thu được những kết quả sau: 1. Chế tạo thành công hạt nano bạc bằng phương pháp điện hóa siêu âm điện cực tan. Hạt bạc có cấu trúc lập phương tâm mặt, kết tinh tốt, có kích thước nano với đường kính từ 4 nm tới 40 nm. 2. Điều khiển được kích thước hạt nano bạc nhờ thay đổi các tác nhân nồng độ TSC và cường độ dòng điện, khi nồng độ TSC tăng thì kích thước hạt nano bạc giảm và khi cường độ dòng điện tăng thì kích thước hạt nano bạc tăng. 3. Thí nghiệm diệt khuẩn được thực hiện cùng sự hợp tác với các cán bộ khoa Sinh Học, trường đại học Khoa Học Tự Nhiên chứng minh hạt nano bạc được chế tạo có khả năng diệt khuẩn tốt, làm mất màu đĩa thạch có nuôi cấy vi khuẩn E. Coli. Tìm ra được nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của dung dịch hạt nano bạc là 16 µg/mL.( Hạt nano bạc cũng đã được ứng dụng trong bông gạc y tế cho hiệu quả diệt và ức chế vi khuẩn tốt – trong khóa luận khác). 4. Than hoạt tính được hợp tác chế tạo cùng viện Hóa Học – Bộ Quốc Phòng có
diện tích bề mặt lớn (890 m2/g), phân bố lỗ tập trung ở vùng lỗ nhỏ và lỗ trung, có khả năng hấp phụ tốt Xanh Mêtylen (MB). 5. Mô tả được cơ chế được hấp phụ MB của than hoạt tính theo mô hình động học và mô hình bão hòa. Với lượng MB hấp phụ bão hòa trên một đơn vị khối lượng AC là 240 mg/g. Khẳng định được tốc độ hấp phụ phụ thuộc vào vị trí hấp phụ hơn nồng độ dung dịch theo giả thuyết động học thứ hai. 6. Hạt nano bạc được phân tán đều trên nền than hoạt tính với tỷ lệ 1% về khối lượng có khả năng diệt khuẩn tốt, không ảnh hưởng tới khả năng hấp phụ MB và làm tăng khả năng hấp phụ Asen của AC, từ đây cho thấy hướng ứng 72 dụng của vật liệu AgAC vào việc xử lý Asen trong nước, làm khẩu trang lọc bụi bẩn và khí độc (đã chế tạo và đưa ra thực tế). 7. Một phần của luận văn là bài báo được đăng trên tạp chí khoa học quốc tế Journal of Hazardous Materials với tên gọi: Preparation and properties of silver nanoparticles loaded in activated carbon for biological and environmental applications. 73 1. Nghiên cứu khả năng chế tạo hạt nano bạc với bản cực lớn, ứng dụng cho qui mô sản xuất lớn. 2. Nghiên cứu khả năng ứng dụng hạt nano bạc để chế tạo đồ dùng cá nhân có khả năng diệt khuẩn hoặc các thiết bị y tế dùng một lần. 3. Nghiên cứu khả năng ứng dụng hạt nano bạc được phân tán trên than hoạt tính vào chế tạo các dụng cụ khử mùi, khử độc, khử khuẩn, ứng dụng trong hệ thống lọc nước uống. 4. Nghiên cứu khả năng chế tạo các loại vật liệu khác có khả năng hấp phụ và phân tán tốt trên nền than hoạt tính vào việc xử lý môi trường, rác thải ví dụ như : các oxit nano sắt Fe3O4, Fe2O3 vô định hình (đã nghiên cứu và chế tạo thành công)… 74 1. Ivan Sondi and Branka Salopek-Sondi, Silver nanoparticles as antimicrobial agent: a case study on E. coli as a model for Gram-negative bacteria, Journal of Colloid and Interface Science 275 (2004) 177–182
2. Woo Kyung Jung, Hye Cheong Koo, Ki Woo Kim, Sook Shin, So Hyun Kim, and Yong Ho Park: Antibacterial Activity and Mechanism of Action of the Silver Ion in Staphylococcus aureus and Escherichia coli, Appl Environ Microbiol. 2008 April; 74(7): 2171–2178 3. Virender K. Sharma, Ria A. Yngard, Yekaterina Li, Silver nanoparticles,Green synthesis and their antimicrobial activities, Advances in Colloid and Interface Science 145 (2009) 83–96 4. T.D. Reynolds, P. A. Richards, Unit Operations and Processes in Environment Enginneering, 2nd ed. Publishing Co, p.25. 5. Nelson Durán, Priscyla D. Marcato, Roseli De Conti, Oswaldo L. Alves, Fabio T. M. Costa, Marcelo Brocchi; Potential use of Silver Nanoparticles on pathogenic bacteria, their toxicity and possible mechanisms of action; J. Braz. Chem. Soc. 21 (2010) No. 6, 949-959. 6. JianXu, XiaHan, HonglaiLiu,YingHu, Synthesis and optical properties of silver nanoparticles stabilized by gemini surfactant, Colloids and Surfaces A: Physicochem. Eng. Aspects 273 (2006) 179–183. 7. D. Jain, H. Kumar Daima, S. Kachhwaha, S. L. Kothari; Synthesis of plant – mediated silver nanoparticles using papaya fruit extract and evaluation of their antimicrobial activities; Digest Journal of Nanomaterials and Biostructures 4 (2009) No. 3,p. 557 – 563. 8. Chang Chen, Li Wang, Guohua Jiang and Haojie Yu; Chemical preparation of special – shaped metal nanomaterials through encasulation or inducement in soft solution; Rev. Adv. Mater. Sci. 11 (2006) 1 – 18. 75 9. Hongyan Liang, Zhipeng Li, Wenzhong Wang, Youshi Wu, and Hongxing Xu; Highly Surface-roughened ‘‘Flower-like’’ Silver Nanoparticles for Extremely Sensitive Substrates of Surface-enhanced Raman Scattering; Adv. Mater 21 (2009) p4614–4618. 10. David Bl´azquez S´anchez; The Surface Plasmon Resonance of Supported Noble Metal Nanoparticles: Characterization, Laser Tailoring, and SERS Application; PhD Thesis, Department of Chemistry, University of the Kassel von 2007. 11. Dhermendra K. Tiwari1, J. Behari, P. Sen; Time and dose-dependent antimicrobial potential of Ag nanoparticles synthesized by top-down approach; CURRENT SCIENCE 95 (2008) No. 5, p 647 – 655. 12. Jun Sung Kim, Eunye Kuk, Kyeong Nam Yu, Jong-Ho Kim, Sung Jin Park, Hu Jang Lee, So Hyun Kim, Young Kyung Park, Yong Ho Park, Cheol-Yong Hwang, Yong-Kwon Kim, Yoon-Sik Lee, Dae Hong Jeong, Myung-Haing Cho; Antimicrobial effects of silver nanoparticles; Nanomedicine: Nanotechnology, Biology, and Medicine 3 (2007) 95– 101. 13. Pavel Dibrov, Judith Dzioba, Khoosheh K. Gosink, Claudia C. Hase;
Chemiosmotic Mechanism of Antimicrobial Activity of Ag+ in Vibrio cholerae; Antimicrobial Agents and Chemotherapy 46 (2002) No.8, p2668 – 2670. 14. AngshumanPal, SunilShah, SurekhaDevi, Microwave-assisted synthesis of silver nanoparticles using ethanol as a reducing agent, Material chemistry and physics 114 (2009) 530–532. 15. Zheng Min, Ang Zuo-shan, Zhu Ya-we; Preparation of silver nanoparticles via active template under ultrasonic; Trans. Nonferrous Met. SOC. China 16 (2006) 1348-1352. 16. SukdebPal, YuKyungTak, JoonMyongSong, Does the Antibacterial Activity of Silver Nanoparticles Depend on the Shape of the Nanoparticle? Astudy of the Gram-Negative, Bacterium Escherichiacoli; Applied and environmental microbiology 73 (2007) 1712–1720. 76 17. H. Hofmeister, G.L. Tan, M. Dubiel; Shape and internal structure of silver nanoparticles embedded in glass; J. Mater. Res. Vol. 20, No. 6, Jun 2005. 18. Hongyan Liang, Huaixin Yang, Wenzhong Wang, Jianqi Li, Hongxing Xu; High-Yield Uniform Synthesis and Microstructure Determination of Rice- Shaped Silver Nanocrystals; J. Am. Chem. Soc., 2009, 131 (17), 6068- 6069. 19. Hy e o n g - H o Pa r k , Xin Z hang, Yong-June C hoi, Hy u n g - H o Pa r k , and Ross H. Hill, Synthesis of Ag Nanostructures by Photochemical Reduction Using Citrate-Capped Pt Seeds, Journal of Nanomaterials Volume 2011, Article ID 265287,7 pages, doi:10.1155/2011/265287 20. Jorge Pérez – Juste, Isabel Pastoriza – Santos, Luis M.Liz – Marzán, Paul Mulvaney; Gold nanorods: Synthesis, characterization and applications; Coordination Chemistry Reviews 249 (2005) 1870 – 1901. 21. V. Zawani Z, Luqman Chuah A, Thomas S. Y. Choong, Equilibrium, Kinetics and Thermodynamic Studies: Adsorption of Remazol Black 5 on Scientific Research ISSN 1450-216X Vol.37 No.1 (2009), pp.67-76. the Palm Kernel Shell Activated Carbon (PKS-AC), European Journal of 22. T. Santhi, S. Manonmani, Removal of Methylene blue from aqueous solution by bioadsorption onto Ricinus communis epicarp activated carbon, Chemical Engineering Research Bulletin 14 (2010) 11-18. 23. B.H.Hameed *, R.R. Krishni, S.A. Sata: A novel agrcultural waste adsorbent for removal of cationic dye from aqueous solutions, Journal of Hazardous Materials 162 (2009) 305–311. 24. I.A.W. Tan, A.L. Ahmad, B.H. Hameed: Adsorption of basic dye on high- surface-area activated carbon prepared from coconut husk: Equilibrium, kinetic and thermodynamic studies, Journal of Hazardous Materials 154 (2008) 337–346. 25. B. H Hameed, A. T. M. Din, A. L. Ahmad: Adsorption of methylene blue onto bamboo- based active carbon: kinetics and equibrium studies, Journal of Hazardous Materials 141 (2007) 819–825. 77 26. B. H. Hameed, M. I. El – Khaiary: Equilibrium, Kinetics and mechanism of malachite green adsoption on activated carbon prepared from bamboo by Hazardous Materials 157 (2008) 344–351 K2CO3 activation and subsequent gasification with CO2, Journal of 27. Master of Science thesis in process technology by Bjørnar Jensen, Department of Physics and Technology University of Bergen, Norway Activated Carbon November 2009: Modeling Trapping Mechanism for PCB Adsorption on 28. S. Pal, Y.K. Tak, J. Joardar, W. Kim, J.E. Lee, M.S. Han, J.M. Song, Nanocrystalline silver supported on activated carbon matrix from hydrosol: antibacterial mechanism under prolonged incubation conditions, J. Nanosci. Nanotechnol. 9(2009) 2092–2103 29. P.C. Lee, D. Meisel, Adsorption and surface-enhanced raman of dyes on silver and gold sols, J. Phys. Chem. 86 (1982) 3391–3395 30. V.I. Klimov (Ed.), Semiconductor and Metal Nanocrystals: Synthesis and Electronic and Optical Properties, Marcel Dekker, New York, 2004.. 31. R.A. Alvarez-Puebla, D.J. Ross, G.-A. Nazri, R.F. Aroca, Surface- enhanced Raman scattering on nanoshells with tunable surface plasmon resonance, Langmuir 21 (2005) 10504–10508. 32. S. Link, M.A. El-Sayed, Shape and size dependence of radiative, non- radiative and photothermal properties of gold nanocrystals, Int. Rev. Phys. Chem. 19 (2000) 409–453 33. G. Crini, H. Peindy, F. Gimbert, C. Robert, Removal of c.i. basic green 4 (malachite green) from aqueous solutions by adsorption using cyclodextrinbased adsorbent: kinetic and equilibrium studies, Sep. Purif. Technol. 53 (2007) 97–110 34. R. Malik, D. Ramteke, S. Wate, Adsorption of malachite green on ground- nut shell waste based powdered activated carbon, Waste Manage. 27 (2007) 1129–1138. 35. C.A. Basar, Applicability of the various adsorption models of three dyes 78 adsorption onto activated carbon prepared waste apricot, J. Hazard. Mater. 135 (2006) 232–241. 36. I.D. Mall, V.C. Srivastava, N.K. Agarwal, I.M. Mishra, Adsorptive removal of malachite green dye from aqueous solution by bagasse fly ash and activated carbon-kinetic study and equilibrium isotherm analyses, Colloids Surf. A 264 (2005) 17–28. 37. Y. Liu, New insights into pseudo-second-order kinetic equation for adsorption, Colloids Surf., A 320 (2008) 275–278. 38. D. Kavitha, C. Namasivayam, Experimental and kinetic studies on methylene blue adsorption by coir pith carbon, Bioresour. Technol. 98 (2007) 14–21 39. R. Selvakumar, N.A. Jothi, V. Jayavignesh, K. Karthikaiselvi, G.I. Antony, P. Sharmila, S. Kavitha, K. Swaminathan, As(V) removal using carbonized yeast cells containing silver nanoparticles, Water Res. 45 (2011) 583–592. 40. S. Kim, S.S. Kim, Y.J. Bang, S.J. Kim, B.J. Lee, In vitro activities of native and designed peptide antibiotics against drug sensitive and resistant tumor cell lines, Peptides 24 (2003) 945–953. 41. Nguyễn Thế Khôi, Nguyễn Hữu Mình, Giáo trình Vật lí chất rắn, Nhà xuất bản giáo dục, 1992 42. Nguyễn Ngọc Long, Giáo trình Vật lý chất rắn, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia, 2008 43. Nguyễn Lân Dũng, Nguyễn Đình Quyến, Phạm Văn Ty, Vi sinh vật học, Nhà xuất bản giáo dục, 2009 44. Nguyễn Văn Hùng, Giáo trình Vật lí tia X. 45. Nguyễn Thị Thu, Giáo trình hoá keo, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm 2002. 79 46. PGS.TS. Đỗ Đình Rãng, PGS.TS. Đặng Đình Bạch, PGS.TS. Lê Thị Anh Đào, THs. Nguyễn Mạnh Hà, TS. Nguyễn Thị Thanh Phong, Hoá học hữu cơ 3, Nhà xuất bản giáo dục 1999. 47. http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%95_t%C3%A1n_s%E1%BA%A Fc_n%C4%83ng_l%C6%B0%E1%BB%A3ng_tia_X 48. http://www.hus.edu.vn/Dmthietbi/?f=noidung/setad23.htm/ 49. http://www.nihe.org.vn/new-vn/thuong-quy-va-huong-dan-ky- thuat/937/Qui-trinh-xac-dinh-nong-do-khang-sinh-toi-thieu-uc-che-vi- khuan-MIC.vhtm 50. http://www.sigmaaldrich.com/materials-science/nanomaterials/silver- nanoparticles. 51. http://willets.cm.utexas.edu/LSPR.htmL 52. http://www.crcpress.com/product/isbn/9780824753443 Roop Chand Bansal, Punjab University, Chandigarh, India; Meenakshi Goyal, Punjab University, Chandigarh, India, Activated Carbon Adsorption, May 24, 2005 by CRC Press - 520 Pages 53. http://www.malvern.com/LabEng/technology/zeta_potential/zeta_potential _LDE.htm 54. http://zeta-potential.sourceforge.net/zeta-potential.shtml 55. http://en.wikipedia.org/wiki/Activated_carbon 80 81 82 83Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
III.2. Nghiên cứu khả năng diệt khuẩn của AgNP và AgAC
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
III.3. Nghiên cứu khả năng hấp phụ của AC và AgAC
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
(𝑪𝟎 − 𝑪)𝑽
𝒎
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Kết Luận
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Định hướng nghiên cứu tiếp theo
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Tài liệu tham khảo
Tài liệu tiếng anh
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Tài Liệu tiếng Việt
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Websize
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học
Khoa Vật Lý
Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên
Nguyễn Văn Sơn
Luận văn tốt nghiệp cao học