ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

----------------------

Đào Ngọc Minh Anh

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ SINH HỌC

CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ VÀ

TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN SIÊU, HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Hà Nội – 2018

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

----------------------

Đào Ngọc Minh Anh

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ SINH HỌC

CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ VÀ

TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN SIÊU, HÀ NỘI

Chuyên ngành: Sinh học thực nghiệm

Mã số: 60420114

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Mai Văn Hưng

PGS.TS. Nguyễn Hữu Nhân

Hà Nội – 2018

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên của luận văn tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và niềm cảm kích sâu sắc

tới PGS.TS. Mai Văn Hưng, thầy đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và định hướng

cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài.

Tiếp theo, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS. Nguyễn Hữu Nhân

đã luôn giúp đỡ, hỗ trợ tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thiện đề tài.

Đồng thời, tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô công tác tại Bộ môn Sinh lý

học và Sinh học người - Khoa Sinh học - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên -

ĐHQGHN đã luôn ủng hộ, tạo điều kiện cho tôi được học tập, nghiên cứu khoa học

một cách tốt nhất.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các giáo viên và học sinh trường

THCS & THPT Nguyễn Siêu, thành phố Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp

đỡ tôi thực hiện nghiên cứu này.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới gia đình, bạn bè là những

người luôn động viên, ủng hộ và sát cánh bên tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên

cứu để tôi hoàn thành tốt luận văn này.

Hà Nội, tháng 12 năm 2018

Tác giả

Đào Ngọc Minh Anh

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các kết quả, các số liệu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được

công bố trong bất kì công trình nào khác.

Hà Nội, tháng 12 năm 2018

Tác giả

Đào Ngọc Minh Anh

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN

BMI : Body mass index (chỉ số khối cơ thể).

Cs : Cộng sự.

: Forced expiratory volume in one second (thể tích khí thở ra tối đa trong FEV1

giây đầu).

GTSH : Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ 90, thế kỷ XX.

HSSH : Hằng số sinh học người Việt Nam.

NXB : Nhà xuất bản.

VC: : Vital capacity (dung tích sống).

THCS : Trung học cơ sở.

THPT : Trung học phổ thông.

WHO : World health organization (Tổ chức Y tế Thế giới).

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1 - TỔNG QUAN ........................................................................................ 3

1.1. Một số vấn đề về chỉ số hình thái .................................................................. 3

1.1.1. Nghiên cứu các chỉ số hình thái trên thế giới ........................................... 3

1.1.2. Nghiên cứu các chỉ số hình thái ở Việt Nam ........................................... 4

1.2. Một số vấn đề về chỉ số chức năng sinh lý .................................................. 10

1.2.1. Nghiên cứu chỉ số chức năng sinh lý trên thế giới ................................. 10

1.2.2. Nghiên cứu chỉ số chức năng sinh lý ở Việt Nam ................................. 11

Chương 2 - ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................... 17

2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 17

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................ 17

2.1.2. Đặc điểm học sinh trường THCS & THPT Nguyễn Siêu, Hà Nội ........ 17

2.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 18

2.2.1. Các chỉ số nghiên cứu ............................................................................ 18

2.2.2. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số hình thái ........................................ 18

2.2.3. Phương pháp nghiên cứu một số chỉ số chức năng sinh lý .................... 20

2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu ...................................................................... 22

Chương 3 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN .................................... 24

Một số chỉ số hình thái của học sinh ........................................................... 24

3.1.

3.1.1. Chiều cao đứng ...................................................................................... 24

3.1.2. Cân nặng ................................................................................................ 28

3.1.3. Vòng đầu ................................................................................................ 31

3.1.4. Vòng ngực bình thường ......................................................................... 34

3.1.5. Vòng eo .................................................................................................. 38

3.1.6. Vòng mông ............................................................................................ 40

3.1.7. BMI ........................................................................................................ 42

Một số chỉ số chức năng sinh lý của học sinh ............................................ 46

3.2.

3.2.1. Các chỉ số chức năng tuần hoàn máu ..................................................... 46

3.2.2. Các chỉ số chức năng thông khí phổi ..................................................... 55

3.3. Mối tương quan giữa một số chỉ số hình thái và chức năng sinh lý của học sinh

............................................................................................................................... 66

3.3.1. Tương quan giữa chiều cao đứng với một số chỉ số chức năng hệ tuần

hoàn ................................................................................................................... 67

3.3.2. Tương quan giữa cân nặng với một số chỉ số chức năng hệ tuần hoàn

......................................................................................................................... ..70

3.3.3. Tương quan giữa vòng ngực bình thường với một số chỉ số chức năng

hệ tuần hoàn…………………………………………………………………..52

3.3.4. Tương quan giữa chiều cao đứng với một số chỉ số chức năng hô hấp.....

........................................................................................................................... 77

3.3.5. Tương quan giữa cân nặng với một số chỉ số chức năng hô hấp ........... 80

3.3.6. Tương quan giữa vòng ngực bình thường với một số chỉ số chức năng hô

hấp ..................................................................................................................... 83

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................ 87

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 89

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Phân loại theo BMI (kg/m2) ...................................................................... 20

Bảng 3.1. Chiều cao đứng (cm) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ................... 24

Bảng 3.2. Chiều cao đứng (cm) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác

nhau ........................................................................................................................... 27

Bảng 3.3. Cân nặng (kg) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính .............................. 28

Bảng 3.4. Cân nặng (kg) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau .. 31

Bảng 3.5. Vòng đầu (cm) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ............................ 32

Bảng 3.6. Vòng đầu (cm) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau..

................................................................................................................................... 34

Bảng 3.7. Vòng ngực bình thường (cm) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ...... 35

Bảng 3.8. Vòng ngực bình thường (cm) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả

khác nhau................................................................................................................... 37

Bảng 3.9. Vòng eo (cm) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính .............................. 38

Bảng 3.10. Vòng eo (cm) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau 40

Bảng 3.11. Vòng mông (cm) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ....................... 40

Bảng 3.12. Vòng mông (cm) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau

................................................................................................................................... 42

Bảng 3.13. BMI (kg/m2) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính .............................. 43

Bảng 3.14. BMI (kg/m2) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau .. 45

Bảng 3.15. Tần số tim (nhịp/phút) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính .............. 46

Bảng 3.16. Tần số tim (nhịp/phút) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau ........................................................................................................................... 48

Bảng 3.17. Huyết áp tâm thu (mmHg) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ........ 49

Bảng 3.18. Huyết áp tâm thu (mmHg) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau................................................................................................................... 51

Bảng 3.19. Huyết áp tâm trương (mmHg) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính .. 52

Bảng 3.20. Huyết áp tâm trương (mmHg) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau ............................................................................................................. 54

Bảng 3.21. Tần số hô hấp (nhịp/phút) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ......... 55

Bảng 3.22. Tần số hô hấp (nhịp/phút) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả

khác nhau................................................................................................................... 57

Bảng 3.23. Dung tích sống (lít) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ................... 58

Bảng 3.24. Dung tích sống (lít) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác

nhau ........................................................................................................................... 60

Bảng 3.25. Thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu (lít) của học sinh theo lứa tuổi và

giới tính ..................................................................................................................... 61

Bảng 3.26. Thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu (lít) của học sinh theo nghiên cứu

của các tác giả khác nhau .......................................................................................... 63

Bảng 3.27. Chỉ số Tiffeneau (%) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ................. 64

Bảng 3.28. Chỉ số Tiffeneau (%) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác

nhau ........................................................................................................................... 66

Bảng 3.29. Phương trình hồi quy của các chỉ số tuần hoàn với chiều cao đứng ...... 67

Bảng 3.30. Phương trình hồi quy của các chỉ số tuần hoàn với cân nặng ................ 70

Bảng 3.31. Phương trình hồi quy của các chỉ số tuần hoàn với vòng ngực bình thường

................................................................................................................................... 74

Bảng 3.32. Phương trình hồi quy của các chỉ số hô hấp với chiều cao đứng ........... 77

Bảng 3.33. Phương trình hồi quy của các chỉ số hô hấp với cân nặng ..................... 80

Bảng 3.34. Phương trình hồi quy của các chỉ số hô hấp với vòng ngực bình thường

................................................................................................................................... 83

DANH MỤC HÌNH

Hình 3.1. Biểu đồ chiều cao đứng của học sinh theo tuổi và giới tính ..................... 25

Hình 3.2. Biểu đồ cân nặng của học sinh theo tuổi và giới tính ............................... 29

Hình 3.3. Biểu đồ vòng đầu của học sinh theo tuổi và giới tính ............................... 33

Hình 3.4. Biểu đồ vòng ngực bình thường của học sinh theo tuổi và giới tính ........ 36

Hình 3.5. Biểu đồ vòng eo của học sinh theo tuổi và giới tính ................................. 39

Hình 3.6. Biểu đồ vòng mông của học sinh theo tuổi và giới tính ........................... 41

Hình 3.7. Biểu đồ BMI của học sinh theo tuổi và giới tính ...................................... 44

Hình 3.8. Biểu đồ tần số tim của học sinh theo tuổi và giới tính .............................. 47

Hình 3.9. Biểu đồ huyết áp tâm thu của học sinh theo tuổi và giới tính ................... 50

Hình 3.10. Biểu đồ huyết áp tâm trương theo tuổi và giới tính ................................ 53

Hình 3.11. Biểu đồ tần số hô hấp của học sinh theo tuổi và giới tính ...................... 56

Hình 3.12. Biểu đồ dung tích sống của học sinh theo tuổi và giới tính .................... 59

Hình 3.13. Biểu đồ thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu theo tuổi và giới tính .. 62

Hình 3.14. Biểu đồ chỉ số Tiffeneau của học sinh theo lứa tuổi và giới tính ........... 65

Hình 3.15. Biểu đồ mối tương quan giữa chiều cao đứng với tần số tim của học sinh

................................................................................................................................... 68

Hình 3.16. Biểu đồ mối tương quan giữa chiều cao đứng với huyết áp tâm thu của

học sinh ..................................................................................................................... 69

Hình 3.17. Biểu đồ mối tương quan giữa chiều cao đứng với huyết áp tâm trương của

học sinh ..................................................................................................................... 70

Hình 3.18. Biểu đồ mối tương quan giữa cân nặng với tần số tim của học sinh ...... 71

Hình 3.19. Biểu đồ mối tương quan giữa cân nặng với huyết áp tâm thu của .......... 72

Hình 3.20. Biểu đồ mối tương quan giữa cân nặng với huyết áp tâm trương của học sinh ............................................................................................................................ 73

Hình 3.21. Biểu đồ tương quan giữa vòng ngực bình thường với tần số tim của ..... 75

Hình 3.22. Biểu đồ tương quan giữa vòng ngực bình thường với huyết áp tâm thu của học sinh ..................................................................................................................... 76

Hình 3.23. Biểu đồ tương quan giữa vòng ngực bình thường với huyết áp tâm trương

của học sinh ............................................................................................................... 77

Hình 3.24. Biểu đồ tương quan giữa chiều cao đứng với tần số hô hấp của học sinh

................................................................................................................................... 78

Hình 3.25. Biểu đồ tương quan giữa chiều cao đứng với dung tích sống ................. 79

Hình 3.26. Biểu đồ tương quan giữa cân nặng với tần số hô hấp của học sinh ........ 81

Hình 3.27. Biểu đồ tương quan giữ cân nặng với dung tích sống của học sinh ....... 82

Hình 3.28. Biểu đồ tương quan giữa cân nặng với thể tích khí thở ra tối đa trong giây

đầu ............................................................................................................................. 83

Hình 3.29. Biểu đồ tương quan giữa vòng ngực bình thường với tần số hô hấp của

học sinh ..................................................................................................................... 84

Hình 3.30. Biểu đồ tương quan giữa vòng ngực bình thường và dung tích sống của

học sinh ..................................................................................................................... 85

Hình 3.31. Biểu đồ tương quan giữa vòng ngực bình thường và thể tích khí thở ra tối

đa trong giây đầu của học sinh .................................................................................. 86

MỞ ĐẦU

Lí do chọn đề tài

Theo bản đồ chiều cao người dân của các nước trên thế giới thì Việt Nam nằm

trong số các nước có chiều cao trung bình thấp nhất trên thế giới, đây là thực trạng

đáng lo ngại vì sự hạn chế về chiều cao là một bất lợi kéo theo sự hạn chế cơ hội phát

triển của từng cá nhân cũng như của cả quốc gia trong các đấu trường quốc tế. Theo

kết quả nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng quốc gia cho thấy chiều cao trung bình của

nam thanh niên 22÷26 tuổi ở Việt Nam là 1,644 m, ở nữ giới là 1,534 m, thấp hơn so

với chuẩn chiều cao của WHO tương ứng là 12,4 cm và 10,3 cm. Nếu xếp hạng trong

khu vực châu Á thì chiều cao của thanh niên Việt Nam ngang với Indonesia,

Philippines nhưng thấp hơn nhiều so với Singapore, Malaysia, Nhật Bản, Hàn Quốc...

Còn thanh niên các nước châu Âu, châu Mỹ và Australia cao hơn nhiều so với các

nước châu Á nói chung và nước ta nói riêng. Những con số này không chỉ phản ánh

chiều cao của người Việt Nam đang ở đâu trên bản đồ thế giới, mà nó còn ảnh hưởng

đến thể lực, trí lực, tâm lý của cả một quốc gia.

Tuy nhiên chúng ta đã đạt được những con số khả quan. Từ năm 1975 đến

2000, chiều cao nam thanh niên tăng chậm, trung bình 1,1 cm mỗi thập kỷ. Nhưng từ

năm 2000 đến nay chiều cao nam đã tăng thêm 2,1 cm, nữ tăng thêm 1 cm. Đây được

coi là mức tăng nhanh khi so với các quốc gia khác trên thế giới. Chính vì vậy, cần

phải tiếp tục nghiên cứu và đánh giá các đặc điểm sinh học cơ bản của người Việt

Nam ở mọi lứa tuổi để có sự can thiệp kịp thời và phù hợp đối với những yếu tố liên

quan, hướng tới mục đích phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam. Đặc biệt là ở

lứa tuổi vị thành niên, là lứa tuổi có sự thay đổi mạnh mẽ về thể chất, các chức năng

sinh lý.

Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về các chỉ số hình thái và chức

năng sinh lý của học sinh Việt Nam. Các công trình nghiên cứu cho thấy, sự khác

nhau của các chỉ số sinh học phụ thuộc vào nhiều yếu tố như di truyền, lứa tuổi, giới

tính, điều kiện sống, thời điểm nghiên cứu,… do vậy, các nghiên cứu về chỉ số sinh

1

học cần được tiến hành thường xuyên. Cụ thể tại Hà Nội, đã có một số các công trình

nghiên cứu về chỉ số hình thái – thể lực và chỉ số chức năng sinh lý của học sinh, tuy

nhiên các nghiên cứu về học sinh học tập tại các trường tư thục còn ít. Xuất phát từ

thực tế trên, đề tài “Nghiên cứu một số chỉ số sinh học của học sinh Trường Trung

học cơ sở và Trung học phổ thông Nguyễn Siêu, Hà Nội” được thực hiện.

Mục tiêu nghiên cứu:

- Đánh giá sự thay đổi một số chỉ số sinh học qua các lớp tuổi và giới tính của

học sinh Trường THCS & THPT Nguyễn Siêu.

- Xác định mối tương quan giữa một số chỉ số hình thái (chiều cao, cân nặng

và vòng ngực bình thường) và các chỉ số sinh lý (tần số tim, huyết áp, tần số hô hấp,

2

dung tích sống và thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu).

Chương 1

TỔNG QUAN

1.1. Một số vấn đề về chỉ số hình thái

1.1.1. Nghiên cứu các chỉ số hình thái trên thế giới

Từ rất sớm, thế kỷ XIII Tenon đã coi cân nặng là một chỉ số quan trọng để

đánh giá thể lực. Sau này, vào thế kỷ XV - XVI, các nhà giải phẫu học kiêm họa sĩ

như Leonard de Vinci, Mikenlangielo, Raphael… đã tìm hiểu chi tiết cấu trúc và mối

tương quan giữa các bộ phận trong cơ thể người trong những tác phẩm hội họa. Các

nhà nhân trắc học Ludman, Nold và Volanski đã nghiên cứu mối quan hệ giữa hình

thái với môi trường sống từ tương đối sớm [17]. Cho đến Rudolf Martin, người đã

đặt nền móng cho nhân trắc học hiện đại qua hai tác phẩm là “Giáo trình về nhân trắc

học" năm 1919 và "Kim chỉ nam đo đạc và xử lý thống kê" năm 1924, ông đã đưa ra

những phương pháp và dụng cụ đo đạc kích thước của cơ thể mà đến nay vẫn được

sử dụng [18].

Trong những năm 60 của thể kỷ XX có rất nhiều công trình nghiên cứu chuyên

sâu và mang lại thành tựu to lớn đối với ngành khoa học này. Năm 1961, hai công

trình nghiên cứu lớn là “Đề tài nghiên cứu ảnh hưởng của địa lý đến sự tăng trưởng

về chiều cao cơ thể” và chứng minh rõ những yếu tố ảnh hưởng đó có thật của Nold

và Volsuski; “Đề tài nghiên cứu thu thập số liệu và chứng minh tình trạng dinh dưỡng,

bệnh tật ảnh hưởng rõ rệt tới sự gia tăng của các kích thước cơ thể, đặc biệt là chiều

cao và cân nặng” của Graef và Cone. Một năm sau đó, vấn đề nhân trắc học còn được

thể hiện qua các công trình của P.N. Baskirov – “Nhân trắc học” năm 1962, ông đưa

ra quy luật phát triển của cơ thể người dưới ảnh hưởng của điều kiện sống. Cùng năm

đó, Baskirop đưa ra “Học thuyết về sự phát triển thể lực con người” [22]. Đến năm

1964, các quy luật phát triển thể lực theo giới tính, lứa tuổi và nghề nghiệp được nhận

xét toàn diện trong cuốn “Nhân trắc học” của Evan Dervael. Ngoài ra, có một số công

3

trình của Bunak và A.M. Uruxon. Và hoàn chỉnh hơn với các công trình của X.

Galperon, Tomiewicz, Tarasov, Tomner, M. Sempé, G. Pédron, M.P. Rog-Perno

[theo 22]. Kết quả của các nghiên cứu đã chỉ rõ có sự liên quan giữa các yếu tố môi

trường đến sự phát triển thể lực của con người qua các lứa tuổi khác nhau.

Một hướng khác, nghiên cứu cắt ngang đi sâu trong quá trình nghiên cứu sự

tăng trưởng về mặt hình thái, đó là nghiên cứu sự tăng trưởng của cơ thể và các đại

lượng có thể đo lường được bằng kỹ thuật nhân trắc [47]. Vào năm 1754, công trình

đầu tiên trên thế giới của Christian Fridrich Jumpert cho thấy sự trưởng thành một

cách hoàn chỉnh ở các lớp tuổi từ 1-25 với phương pháp cắt ngang (cross-sectional

study) [47].

Cũng trong khoảng thời gian này, Philibert Guéneau de Montbeilard thực hiện

nghiên cứu dọc (longitudinal study) đầu tiên về chiều cao từ năm 1759 đến năm 1777

[theo 22]. Sau đó có nhiều công trình khác của Edwin Chadwick ở Anh, Carlschule

ở Đức, H.P. Bowditch ở Mỹ, Paul Godin ở Pháp [theo 22]. Những nghiên cứu này

cho thấy có mối liên quan giữa các chỉ số hình thái với các yếu tố môi trường sống là

tương đối chặt chẽ. Đến năm 1977, Hiệp hội các nhà tăng trưởng học đã được thành

lập, đánh dấu một bước phát triển mới của việc nghiên cứu vấn đề này trên thế giới

[theo 22]. Năm 2007, WHO công bố chuẩn tăng trưởng của trẻ em học đường và

người trưởng thành, đây là một cột mốc quan trọng cho các nghiên cứu ứng dụng các

chỉ số hình thái để đánh giá tình trạng dinh dưỡng và phát triển thể lực của con người

[68].

1.1.2. Nghiên cứu các chỉ số hình thái ở Việt Nam

Tại Việt Nam, các nghiên cứu về chỉ số hình thái xuất hiện muộn hơn so với

các nước trên thế giới. Nghiên cứu đầu tiên về nhân trắc ở Việt Nam được thực hiện

vào năm 1875 do Mondiere thực hiện trên trẻ em [theo 22]. Đến những năm 30 của

thế kỷ XX, nhân trắc học bắt đầu được nghiên cứu tại Ban nhân trắc học thuộc Viện

Viễn đông Bác cổ. Kết quả nghiên cứu đã được công bố trong công trình nghiên cứu

của Viện giải phẫu học, Đại học Y khoa Đông Dương 1936 – 1944, tác phẩm “Những

đặc điểm nhân chủng và sinh học của người Đông Dương” của P. Huard, A. Bigot

4

(1938). Cuốn “Hình thái học Người và giải phẫu thẩm mỹ học” năm 1943 của P.

Huard và Đỗ Xuân Hợp là công trình đầu tiên nghiên cứu về hình thái người Việt

Nam [theo 22].

Từ năm 1975 đến nay, việc nghiên cứu hình thái học được đẩy mạnh và chuyên

môn hóa qua việc thành lập bộ môn hình thái học ở một số trường đại học và viện

nghiên cứu, ngoài ra còn tổ chức các hội nghị về lĩnh vực này, trong đó có nhiều

chương trình cấp Quốc gia và địa phương được thực hiện. Vào năm 1975, Nguyễn

Tấn Gi Trọng chủ biên “Hằng số sinh học người Việt Nam” với đầy đủ các thông số

về hình thái người Việt Nam ở mọi lứa tuổi tại khu vực miền Bắc, đây thực sự là cơ

sở tin cậy cho các nghiên cứu về người Việt Nam sau này [49]. Những năm 1975 và

1976, Nguyễn Quang Quyền và Lê Gia Vinh đã tiến hành nghiên cứu tầm vóc của

2100 người lứa tuổi từ 16 đến 70 theo những kỹ thuật và phương pháp tiêu chuẩn

trong nhân trắc học, các tác giả đã nhận định các biểu hiện của tuổi dậy thì và quy

luật tăng trưởng ở nữ dậy thì sớm hơn ở nam giới [37], [38], [39].

Từ năm 1981 đến năm 1992, Thẩm Thị Hoàng Điệp đã nghiên cứu dọc trên

101 học sinh Hà Nội từ 6 - 17 tuổi, với 31 chỉ tiêu được nghiên cứu, tác giả đã kết

luận: chiều cao của học sinh phát triển mạnh nhất với nữ 11 - 12 tuổi và ở nam 13 -

15 tuổi, còn cân nặng phát triển mạnh nhất với nữ 13 tuổi và nam 15 tuổi [12]. Năm

1991, công trình “Atlas nhân trắc học người Việt Nam trong lứa tuổi lao động” do

Võ Hưng chủ biên với các thông số được thực hiện trên cả nước [23]. Cùng năm đó,

Đào Huy Khuê đã nghiên cứu 36 chỉ tiêu kích thước về sự tăng trưởng và phát triển

cơ thể của 1478 học sinh từ 6-17 tuổi ở Hà Đông, tỉnh Hà Sơn Bình cho thấy, hầu hết

các chỉ số sinh học đều tăng dần theo tuổi nhưng nhịp độ tăng trưởng không đều: tốc

độ tăng trưởng lớn nhất ở nam thường ở lứa tuổi 14 – 16 và của nữ ở lứa tuổi 11 – 15

[26].

Năm 1993, Đoàn Yên và cộng sự trong nghiên cứu của mình đã đưa ra nhận

xét về chiều cao đứng, cân nặng trung bình của người Việt Nam nhỏ hơn so với người

Âu, Mĩ ở mọi lứa tuổi, nhịp độ tăng trưởng chậm. Nữ bước vào thời kì tăng trưởng

và ổn định sớm hơn nam, ở nữ tăng trưởng nhảy vọt về chiều cao xuất hiện lúc 12 -

5

13 tuổi, trong khi đó ở nam là 13 - 16 tuổi; Nhảy vọt cân nặng ở nữ lúc 13 tuổi, còn

ở nam là lúc 15 tuổi [52]. Cũng trong năm này, Nghiêm Xuân Thăng đã tiến hành

nghiên cứu 17 chỉ số hình thái như chiều cao, cân nặng vòng ngực… của người Việt

Nam từ 1 đến 25 tuổi ở một số vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, tác giả đưa ra nhận định các

kích thước của nam đều lớn hơn của nữ ở tất cả các độ tuổi và sự phát triểu chiều cao

ở các độ tuổi ở cư dân vùng Nghệ Tĩnh thấp hơn so với cư dân vùng đồng bằng Bắc

Bộ [48]. Từ năm 1993 - 1997, nhóm tác giả Trần Văn Dần và cộng sự [8] đã nghiên

cứu trên 13747 học sinh từ 8 đến 14 tuổi tại một số tỉnh thành Hà Nội, Vĩnh Phúc,

Thái Bình và nhận thấy sự phát triển chiều cao của trẻ 6 - 16 tuổi tốt hơn so với số

liệu trong “Hằng số sinh học người Việt Nam” [49].

Đến năm 1996, Nguyễn Hữu Chỉnh và cộng sự đã nghiên cứu thấy rằng dân

cư ở Kiến An có các chỉ số nhân trắc tốt hơn so với các dẫn liệu trong “Hằng số sinh

học người Việt Nam”. Các chỉ số nhân trắc của nữ phát triển nhanh hơn của nam ở

thời điểm 10 -11 tuổi, nhưng từ 14 đến 15 tuổi, các kích thước này của nam bắt kịp

và vượt trội hơn so với nữ. Ngoài ra, sự khác biệt về mặt chủng tộc, điều kiện sống

và quá trình rèn luyện thân thể là những yếu tố tác động đến thể lực của thanh niên

[3]. Trong khi đó, Thẩm Thị Hoàng Điệp và cộng sự nghiên cứu về sự phát triển chiều

cao đứng, vòng đầu, vòng ngực của người Việt Nam từ 1 đến 55 tuổi ở 8 tỉnh thành

thuộc 3 miền đất nước, trong đó nhóm tác giả thấy rằng chiều cao ở nam tăng nhanh

đến 18 tuổi, ở nữ tăng nhanh đến 14 tuổi, ngoài ra các tác giả đã cho thấy có sự liên

quan khác nhau giữa các đặc điểm hình thái với môi trường sống của cư dân tại các

vùng miền khác nhau [13]. Nhóm tác giả A. Goran, Nguyễn Công Khanh và cộng sự

nghiên cứu trên học sinh Hà Nội về chiều cao, cân nặng, BMI cho thấy cả 3 chỉ số

này đều tăng theo tuổi [15]. Điều này cũng thể hiện trong các nghiên cứu khác [1],

[25], [30].

Năm 1998, Nguyễn Kỳ Anh và cs sau khi so sánh các kết quả nghiên cứu của

mình với một số tác giả khác đã đưa ra nhận xét rằng thanh niên Việt Nam lứa tuổi

14 - 18 ở nữ và 16 - 18 ở nam lớn chậm hơn so với các lứa tuổi trước đó [1]. Cùng

thời điểm này, Nguyễn Quang Mai và cs đã nghiên cứu trên nữ sinh các dân tộc ít

6

người cho thấy, chiều cao và cân nặng trung bình của nữ sinh các dân tộc thiểu số

tăng dần theo tuổi. Thời điểm tăng nhanh chiều cao và cân nặng trung bình của nữ

sinh dân tộc thiểu số đến sớm hơn so với dẫn liệu trong cuốn “Hằng số sinh học người

Việt Nam” [33], nhưng muộn hơn so với học sinh Thái Bình và Hà Nội từ 1 đến 2

năm. Trong khi đó, nhóm tác giả Trần Đình Long, Lê Nam Trà, Nguyễn Văn Tường

và cs nghiên cứu trên học sinh ở thị xã Thái Bình thấy rằng, chiều cao đứng, cân nặng

của học sinh thị xã Thái Bình lớn hơn so với số liệu trong “Hằng số sinh học người

Việt Nam”, nhưng thấp hơn so với học sinh quận Hoàn Kiếm [31]. Cùng năm này,

Tạ Thúy Lan, Đàm Phượng Sào đã đưa ra kết quả nghiên cứu sự phát triển thể lực

của học sinh từ 6 – 14 tuổi ở Vân Canh, Hà Tây cho thấy, chiều cao của học sinh tăng

dần từ 6 – 14 tuổi [27].

Năm 2000, Đào Mai Luyến thực hiện nghiên cứu các chỉ số hình thái - thể lực

của người Ê đê và người Kinh định cư ở Đăk Lăk cho thấy các chỉ số hình thái của

người Ê đê tốt hơn của người Kinh. Tác giả cho rằng, đây là điểm khác biệt mang

tính dân tộc và do môi trường sống có ảnh hưởng nhất định tới khả năng tăng trưởng

các chỉ số hình thái [32]. Năm 2001, Đoàn Văn Huyền và cs cũng cho rằng, giữa cơ

thể và môi trường có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Môi trường sống ảnh hưởng

đến trao đổi chất và điều hoà thân nhiệt nên ảnh hưởng đến các chỉ số hình thái của

cá thể [24]. Ngoài ra, theo Nguyễn Văn Mùi, sự rèn luyện thể lực cũng tác động đến

chiều cao, cân nặng và kích thước một số vòng của cơ thể [34]. Các yếu tố xã hội

cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ thể, đặc biệt là ở tuổi dậy thì.

Từ năm 1999 – 2002, Trần Thị Loan đã nghiên cứu trên học sinh 6 đến 17

tuổi tại Hà Nội nhận thấy rằng, các chỉ số hình thái như chiều cao, cân nặng, vòng

ngực của học sinh lớn hơn so với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác từ thập kỷ

80 trở về trước và lớn hơn so với học sinh ở các tỉnh Thái Bình, Hà Tây, ngoại thành

Hải Phòng. Điều này chứng tỏ, điều kiện sống đã ảnh hưởng đến các chỉ số hình thái

của học sinh [29].

Một trong những nghiên cứu tổng thể trên diện rộng mới ở thập niên cuối của

thế kỷ 20 là dự án “Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ 90 thế

7

kỷ XX” của do trường Đại học Y Hà Nội và Bộ Y tế thực hiện trên 3 miền cả nước

bao gồm nông thôn, thành thị, miền núi và đồng bằng đã cho kết quả về các chỉ số

nhân trắc chịu ảnh hưởng của môi trường sống [2].

Năm 2006, trung tâm Tâm lý học và sinh lý lứa tuổi thuộc Viện Chiến lược và

Chương trình giáo dục [51] đã tiến hành nghiên cứu các chỉ số cơ bản về sinh lý và

tâm lý của học sinh phổ thông lứa tuổi từ 8 ÷ 20. Kết quả nghiên cứu chiều cao đứng

ở học sinh nam và nữ ở mọi lứa tuổi 11 ÷ 15 và ở nữ mọi lứa tuổi (trừ 16 và 18) đã

thoát khỏi trạng thái còi cọc. Các số liệu về cân nặng cho thấy sự phân hoá sâu sắc

ngay trong nhóm trẻ cùng độ tuổi, bên cạnh trẻ nhẹ cân đã xuất hiện những trẻ có dấu

hiệu béo phì, đặc biệt là các trẻ ở các thành phố lớn. Có sự tăng trưởng về các giá trị

tuyệt đối trung bình của vòng ngực trong các lứa tuổi. Như vậy là đã có sự chuyển

biến tích cực về mặt hình thể của học sinh trong giai đoạn hiện nay.

Năm 2009, Đỗ Hồng Cường nghiên cứu các chỉ số chiều cao, cân nặng của

các học sinh THCS ở tỉnh Hoà Bình thuộc các dân tộc Mường, Thái, Kinh, Tày và

Dao. Tác giả nhận thấy, các chỉ số này ở học sinh dân tộc Mường, Thái, Kinh cao

hơn so với học sinh dân tộc Tày, Dao. Tác giả cho rằng, sự vượt trội này liên quan

tới nơi cư trú của các em. Học sinh các dân tộc Mường, Thái, Kinh sống ở vùng đồng

bằng, thành phố và thị trấn, còn đa số học sinh các dân tộc Tày, Dao sống ở các vùng

sâu, vùng xa thuộc huyện Đà Bắc, nơi có các điều kiện kinh tế - xã hội kém phát triển

hơn so với thành phố và đồng bằng [4].

Năm 2012, trong đề tài “Nghiên cứu một số chỉ số sinh học tuổi dậy thì của

hoc sinh trung học cơ sở Hà Nội và các định hướng giáo dục trong nhà trường” do

Mai Văn Hưng và các cộng sự thực hiện cho thấy, các chỉ số hình thái cơ bản của học

sinh trung học cơ sở Hà Nội thay đổi mạnh trong giai đoạn dậy thì ở cả nam và nữ,

đồng thời sự thay đổi này diễn ra sớm hơn so với các nghiên cứu trước đó [17].

Cũng theo hướng nghiên cứu này, năm 2013, Trần Long Giang và Mai Văn

Hưng nhận thấy, chiều cao đứng, cân nặng, vòng ngực trung bình, BMI của học sinh

dân tộc Kinh đều lớn hơn so với của học sinh dân tộc Dao, H’Mông và có giá trị tốt

hơn so với các giá trị trong “Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập

8

kỷ 90 – thế kỷ XX” và trong nghiên cứu của các tác giả trước đây nghiên cứu một số

chỉ số hình thái của học sinh từ 6 đến 17 tuổi tại tỉnh Yên Bái [21]. Cũng trong thời

gian này, Nguyễn Thị Bích Ngọc nghiên cứu chiều cao, cân nặng, vòng ngực trung

bình, BMI của học sinh từ 11 ÷ 17 tuổi ở tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ thuộc các dân tộc

Kinh, Mường và Sán Dìu. Kết quả cho thấy các chỉ số hình thái học sinh dân tộc Kinh

lớn hơn so với dân tộc Mường và Sán Dìu. Tác giả cho rằng, điều kiện kinh tế và tình

trạng dinh dưỡng của người dân tộc Kinh cao hơn so với người dân tộc Mường và

Sán Dìu nên ảnh hưởng đến sự phát triển thể lực của mỗi học sinh mỗi dân tộc. Thời

điểm tăng vọt của các chỉ số hình thái ở nữ đến sớm hơn so với nam khoảng 1 đến 2

năm [36].

Năm 2014, Mai Văn Hưng, Trần Văn Thế, Lâm Bá Nam nghiên cứu các chỉ

số nhân trắc người Việt Nam theo vùng sinh thái, các tác giả phân tích ảnh hưởng của

phong tục, tập quán đến các chỉ số nhân trắc học và xác định thực trạng các chỉ số

nhân trắc của người Việt Nam theo từng vùng sinh thái, từ đó tìm hiểu một số quy

luật tăng trưởng các chỉ số nhân trắc đặc trưng cho các vùng sinh thái [22]. Cũng

trong năm này, nghiên cứu hình thái của Trần Thị Thúy đối với học sinh trường THCS

Nam Sơn, huyện Sóc Sơn, Hà Nội cho thấy kích thước hình thái của học sinh 12 – 15

tuổi đều tăng dần theo tuổi, tốc độ tăng trưởng hằng năm không đều và tăng nhanh

trong giai đoạn dậy thì, trong đó giai đoạn tăng nhanh ở học sinh nữ sớm hơn ở nam

1 năm [44]. Đến năm 2015, Mai Văn Hưng nghiên cứu các chỉ số hình thể của người

Việt Nam và các yếu tố liên quan trong nghiên cứu “Morphological and physical

indexes of Vietnamese people” [67] cho thấy có sự ảnh hưởng của các yếu tố môi

trường, di truyền đến các đặc điểm sinh học hình thể người thuộc các vùng miền và

lứa tuổi khác nhau.

Tóm lại, các nghiên cứu gần đây cho thấy các chỉ số học sinh Việt Nam tăng

lên đáng kể so với số liệu trong các nghiên cứu trước. Đồng thời với đó là tình hình

kinh tế, văn hóa, xã hội ở nước ta có nhiều thay đổi tích cực, điều này đã ảnh hưởng

tới tầm vóc của người Việt Nam. Ngoài ra, một số nghiên cứu cho thấy học sinh thành

thị thường có các chỉ số nhân trắc tốt hơn ở nông thôn [7], [8]. Sự khác biệt này cơ

9

bản do sự khác nhau về chất lượng cuộc sống giữa các khu vực, địa bàn nghiên cứu.

1.2. Một số vấn đề về chỉ số chức năng sinh lý

1.2.1. Nghiên cứu chỉ số chức năng sinh lý trên thế giới

1.2.1.1. Nghiên cứu các chỉ số chức năng tuần hoàn

Các chỉ số chức năng tuần hoàn được nghiên cứu thường tập trung vào nhịp

tim và huyết áp. Theo một số tác giả Arshavski và Tur, Waldo và Edmun thì nhịp tim

của trẻ giảm dần theo lứa tuổi, trong đó nhịp tim của trẻ những ngày đầu sau sinh

khoảng 120 ÷ 140 nhịp/phút, ở trẻ đang bú mẹ khoảng 110 ÷ 160 nhịp/phút, ở trẻ

trước tuổi đi học khoảng 85 ÷ 100 nhịp/phút, ở học sinh khoảng 70 ÷ 74 nhịp/phút.

Các tác giả này cho rằng sự giảm nhịp tim trong quá trình phát triển của trẻ do sự

thay đổi mức chuyển hóa và giảm tính hưng phấn ở nút xoang cũng như do tăng ảnh

hưởng trương lực của dây thần kinh X lên tim [5].

Nhiều tác giả đã tiến hành nghiên cứu huyết áp động mạch từ thế kỉ 19 [62],

[63], [65], [66]. Korotkow đã xác định huyết áp động mạch bằng phương pháp đo

gián tiếp, phương pháp này vẫn đang được phổ biến hiện nay [19].

Nhiều công trình cho thấy có sự biến đổi huyết áp theo các giai đoạn khác

nhau trong quá trình phát triển của trẻ. Trong đó, huyết áp tâm thu và huyết áp tâm

trương của trẻ tăng dần theo lứa tuổi, tuy nhiên tăng không đều. Thời điểm huyết áp

tăng nhanh ở nữ là 9 ÷ 12 tuổi, ở nam là 9, 12 và 13 tuổi [5]. Một số tác giả cho thấy

có sự khác biệt về huyết áp theo giới tính trong quá trình phát triển, trong đó huyết

áp động mạch của trẻ nam luôn cao hơn so với trẻ nữ. Các tác giả còn cho biết có sự

khác biệt về huyết áp động mạch của trẻ sống ở những vùng miền khác nhau. Chỉ số

này phụ thuộc vào điều kiện sống và thể lực của từng người. Ngoài ra, kết quả nghiên

cứu của nhiều tác giả cho thấy huyết áp của nam thường cao hơn nữ và huyết áp còn

chịu ảnh hưởng của môi trường con người đang sinh sống [19].

1.2.1.2. Nghiên cứu các chỉ số chức năng hô hấp

Trong nghiên cứu các chức năng hô hấp, các tác giả thường sử dụng thông số

10

như thể tích, dung tích và lưu lượng thở để đánh giá chức năng thông khí phổi. Các

chỉ số này thay đổi qua các giai đoạn phát triển của cơ thể và phụ thuộc vào môi

trường sống.

Sự ra đời của máy hô hấp kế (sprometer) do Hutchinson thiết kế năm 1846 đã

đặt nền móng cho việc xét nghiệm chức năng phổi. Tuy nhiên đến đầu thập kỷ 80 của

thế kỷ trước, việc nghiên chức năng phổi đã có những bước thay đổi về chất [55],

[56], [59], [60]. Giữa thế kỉ 20, có hàng loạt máy đo thể tích phổi ra đời đã cho phép

ghi và tính chính xác các thể tích, dung tích và lưu lượng khí trong thông khí phổi.

Điều này được thể hiện trong các nghiên cứu của các tác giả Bernstein, Camphell và

Cotes [54], [56], [58]. Các chỉ số VC, FVC, FEV1, chỉ số Tiffeneau và các phương

trình hồi quy số đối chiếu của chúng đều được thống nhất và được sử dụng cho đến

ngày nay bằng việc xuất bản toàn văn bộ “Tiêu chuẩn xét nghiệm chức năng phổi”

vào năm 1983 do Cộng đồng than thép Châu Âu đề xuất và được Tổ chức Y tế thế

giới ủng hộ [64].

Các nghiên cứu về chỉ số chức năng phổi cho thấy dung tích sống của trẻ em

phụ thuộc vào sự phát triển của phổi, dung tích sống của trẻ tăng nhanh ở thời kỳ dậy

thì. Thể tích khí lưu thông ở trẻ 11 ÷ 12 tuổi khoảng 280 – 350 ml, ở trẻ 12 ÷ 14 tuổi

khoảng 300 – 460 ml, ở trẻ 15 ÷ 16 tuổi khoảng 300 – 560 ml [57], [58], [64].

Theo đó, một số tác giải cho rằng dung tích sống ở trẻ em tăng mạnh vào thời

kì dậy thì [52]. Dung tích sống khác nhau giữa hai giới tính và chỉ số này ở nam luôn

cao hơn nữ.

1.2.2. Nghiên cứu chỉ số chức năng sinh lý ở Việt Nam

1.2.2.1. Nghiên cứu các chỉ số chức năng tuần hoàn

Các chỉ số chức năng của tim mạch người Việt Nam được nhiều tác giả Việt

Nam nghiên cứu từ rất sớm và liên tục trong nhiều năm cùng các nghiên cứu về hình

thái. Trong cuốn “Hằng số sinh học người Việt Nam” [49], các nhà khoa học đã cho

thấy huyết áp động mạch thay đổi theo lứa tuổi từ 11 – 17 tuổi. Công trình cũng nhận

thấy một số yếu tố làm thay đổi huyết áp như vị trí đo, tư thế đo, thời điểm đo và giới

11

tính. Các tác giả cũng tiến hành đếm mạch cổ tay, ở cổ hoặc nghe tim trong 1 phút và

tính trung bình trong cả cộng đồng các đối tượng nghiên cứu và cho thấy tần số tim

ở nam trưởng thành là 70 - 80 lần/phút và ở nữ trưởng thành là 75 - 85 lần/phút. Tuy

nhiên, sau hai hội nghị vào năm 1967 và 1972, các chỉ số này mới được nghiên cứu

đầy đủ và mở rộng trên dân cư ở mọi miền đất nước [2], [4].

Trịnh Bỉnh Dy nghiên cứu về huyết áp động mạch trên người Việt Nam và

trình bày trong cuốn “Về những thông số sinh học người Việt Nam” cho thấy, huyết

áp của người Việt Nam không những thấp mà còn tăng chậm theo tuổi [9]. Theo tác

giả Phạm Thị Minh Đức huyết áp tối đa bình thường có trị số là 90 - 110 mmHg,

huyết áp tối thiểu bình thường có trị số là từ 50 - 70 mmHg [14].

Năm 1993, Đoàn Yên và cộng sự đã nghiên cứu tần số tim và huyết áp của

người Việt Nam, nhận thấy từ sau khi sinh, tần số tim và huyết áp động mạch biến

đổi có tính chất chu kỳ. Huyết áp động mạch tăng đến 18 tuổi, sau đó ổn định đến 49

tuổi rồi lại tăng dần, còn tần số tim lại giảm dần cho đến 25 tuổi, sau đó ổn định đến

69 tuổi. Thời điểm kết thúc tăng huyết áp tâm trương ở nam lúc 14 tuổi, ở nữ là 15

tuổi. Trẻ em từ 12 tuổi là mốc bắt đầu thể hiện sự phân biệt về giới tính, trong đó tần

số tim ở nữ lớn hơn đối với nam. Huyết áp động mạch trên người Việt Nam ở mọi

lứa tuổi đều thấp hơn so với người Âu, Mỹ [52]. Cũng trong năm này, Nghiêm Xuân

Thăng đã nghiên cứu mối tương quan giữa hoạt động tim mạch và huyết áp với khí

hậu của cư dân vùng Nghệ An, Hà Tĩnh ở hai nhóm tuổi 12 ÷ 15 và 18 ÷ 25. Kết quả

nghiên cứu cho thấy tần số tim và huyết áp ở mọi lứa tuổi đều chịu ảnh hưởng của

khí hậu [43]. Tần số tim tăng theo sự tăng nhiệt độ môi trường và biến đổi theo ngày,

theo mùa, theo mức độ bức xạ. Trong một ngày, tần số tim tăng dần từ sáng đến trưa,

cao nhất lúc12-14 giờ, sau đó giảm dần và thấp nhất lúc 22-24 giờ. Cùng một thời

điểm, tần số tim về mùa hè thường cao hơn mùa đông. Ngoài ra, tần số tim còn bị chi

phối bởi các yếu tố như lao động và trạng thái tâm lý.

Trần Đỗ Trinh và cộng sự [48] đã tiến hành nghiên cứu trị số huyết áp người

Việt Nam tại 20 tỉnh thuộc 7 vùng địa lý trong cả nước từ lứa tuổi 15 trở lên và công

bố trong chương trình nghiên cứu một số chỉ số sinh học người Việt Nam thập kỷ 90.

12

Kết quả cho thấy, trị số huyết áp tăng dần theo tuổi ở cả nam và nữ, mức tăng chậm

nhất ở nhóm tuổi từ 15 ÷ 19. Huyết áp ở nam giới cao hơn so với ở nữ giới, dù chênh

lệch trung bình của hai giới không nhiều, nhưng sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.

Năm 1998, Nguyễn Văn Mùi nghiên cứu trên đối tượng trẻ em từ 7 ÷ 15 tuổi

cho thấy, tần số tim của học sinh giảm dần theo tuổi còn huyết áp tâm thu và tâm

trương tăng dần theo tuổi. Tần số mạch của nam cao hơn so với của nữ ở lứa tuổi từ

7 ÷ 12, còn từ 13 ÷ 15 tuổi không có sự khác biệt giữa nam và nữ về chỉ số này. Huyết

áp tâm thu của nam từ 7 ÷ 9 tuổi cao hơn so với của nữ. Từ 10 ÷ 15 tuổi không có sự

khác biệt chỉ số này theo giới tính. Huyết áp tâm trương của các em nam từ 7 ÷ 13

tuổi cũng lớn hơn so với của nữ [35].

Năm 2002, nghiên cứu của Trần Thị Loan cho thấy ở lớp tuổi học sinh phổ

thông tần số tim giảm dần theo lớp tuổi, sự biến đổi tần số tim của nam và nữ khác

nhau. Huyết áp ở trẻ tăng dần từ 6 ÷ 17 tuổi và không có sự khác biệt về chỉ số huyết

áp so với các tác giả khác [28].

Năm 2006, Trần Trọng Thuỷ và cộng sự [45] đã tiến hành nghiên cứu huyết

áp tối đa và huyết áp tối thiểu của học sinh phổ thông từ 8 đến 20 tuổi. Các tác giả

nhận thấy huyết áp động mạch của học sinh tăng dần theo tuổi và cả hai chỉ số huyết

áp tâm thu và huyết áp tâm trương ở học sinh nông thôn đều cao hơn so với học sinh

thành phố nhưng vẫn thấp hơn so với chuẩn về huyết áp theo độ tuổi của tổ chức Y

tế thế giới.

Đến năm 2009, Đỗ Hồng Cường đưa ra kết luận tần số tim của học sinh THCS

các dân tộc Kinh, Mường, Thái và Tày đều giảm dần theo tuổi. Huyết áp động mạch

tăng dần theo tuổi và huyết áp động mạch của nữ cao hơn của nam [5].

Năm 2011, Hoàng Thu Soan đã cho thấy huyết áp tâm thu của học sinh dân

tộc Kinh ở thành phố và miền núi, dân tộc Nùng ở miền núi Thái Nguyên đều tăng

dần theo tuổi. Trong cùng khu vực miền núi, đa số các học sinh có chỉ số tương tự

nhau. Sự khác biệt về huyết áp tâm trương giữa học sinh thành phố và miền núi, giữa

nam và nữ không có quy luật [41].

Năm 2013, Nguyễn Thị Bích Ngọc nghiên cứu tần số tim và huyết áp ở học

13

sinh lứa tuối 11 ÷ 17 ở các dân tộc Kinh, Mường và Sán Dìu tại Vĩnh Phúc, Phú Thọ.

Kết quả nghiên cứu cho thấy tần số tim của học sinh giảm dần từ 11 ÷ 17 tuổi, huyết

áp tăng dần theo tuổi nhưng tốc độ tăng không đều. Huyết áp động mạch giữa các

dân tộc không khác nhau đáng kể [36].

1.2.2.2. Nghiên cứu các chỉ số chức năng hô hấp

Ở Việt Nam, các tác giả nghiên cứu về các chỉ số chức năng hô hấp thường

quan tâm đến các thông số thông khí phổi như dung tích ống, khí lưu thông, dung tích

sống thở mạnh, dung tích khí thở ra tối đa trong giây đầu... Nhiều nhà nghiên cứu sử

dụng số đối chiếu để đánh giá chức năng phổi trong các bệnh liên quan đến phổi và

nghiên cứu sự biến đổi của các thông số về thông khí phổi trong các quá trình bệnh

lý khác nhau.

Đầu tiên là các nghiên cứu về dung tích sống, sau đó là các chỉ số khác. Năm

1967, các nghiên cứu được tập hợp lại và công bố trong hội nghị “Hằng số

sinh học người Việt Nam” với chỉ số chủ yếu là dung tích sống [49].

Năm 1975, cuốn “Hằng số sinh học người Việt Nam” đã đưa ra 19 chỉ số liên

quan đến đặc điểm sinh lí hô hấp, trong đó dung tích sống đã được các tác giả

nghiên cứu theo giới tính, theo lứa tuổi và theo chiều cao. Tài liệu này cũng cho thấy,

dung tích sống của trẻ em phụ thuộc vào chiều cao và dung tích sống của trẻ em nam

luôn cao hơn trẻ em nữ ở các lứa tuổi [49].

Đến năm 1982, Trịnh Bỉnh Dy, Đỗ Đình Hồ, Phạm Khuê, Nguyễn Quang

Quyền và Lê Thanh Uyên cho rằng người Việt nam có chỉ số phổi cao, đó là số ml

dung tích sống quy về 1 kg cân nặng [9].

Năm 1993, Nghiêm Xuân Thăng nhận thấy, dung tích sống chịu ảnh hưởng

của khí hậu, đạt giá trị cao nhất ở nhiệt độ 30 - 32°C và độ ẩm không khí khoảng 70

- 80%, dung tích sống của nam luôn cao hơn của nữ [43]. Cũng năm này, Đoàn Yên

và cs trong nghiên cứu của mình đưa ra nhận xét, dung tích sống tăng nhanh đến 19

tuổi sau đó ổn định ở cả hai giới. So với ngườii châu Âu và châu Mĩ, dung tích sống

14

của người Việt Nam luôn có giá trị nhỏ hơn [52] .

Năm 1994, Lê Nam Trà, Nguyễn Văn Tường và cộng sự đã nghiên cứu giá trị

bình thường của các chỉ số chức năng phổi của cư dân tại Thanh Trì và Thượng Đình

- Hà Nội trong độ tuổi từ 12 đến 82. Các tác giả cho thấy, có sự khác biệt về các chỉ

số này giữa hai giới trong độ tuổi từ 12 đến 17. Các tác giả đã đưa ra phương trình

hồi quy để tính số chuẩn của người bình thường [46].

Năm 1996, Trịnh Bỉnh Dy, Nguyễn Đình Hường và cộng sự đưa ra 9 chỉ số

thông khí phổi của người Hà Nội từ 11 đến 80 tuổi theo 4 nhóm tuổi với các chỉ số:

dung tích sống thở mạnh, dung tích sống thở chậm, thể tích thở ra tối đa giây đầu, chỉ

số Tiffeneau... Các kết quả nghiên cứu được trích dẫn trong “Kết quả bước đầu nghiên

cứu chỉ tiêu sinh học người Việt Nam” cho thấy, dung tích sống của trẻ em thay đổi

nhiều trong quá trình phát triển cá thể, các chỉ số hô hấp ở nam luôn cao hơn ở nữ

cùng độ tuổi và đến tuổi dậy thì các chỉ số này gần giống như ở người lớn. Các chỉ số

chức năng hô hấp của người Việt Nam đều thấp hơn so với của người châu Âu [10].

Năm 2002, Nguyễn Văn Mùi trong luận án của mình đưa ra kết luận, các

thông số hô hấp của trẻ nam đặc biệt tăng nhanh lúc 14 ÷ 15 tuổi và ở trẻ nữ tăng

nhanh lúc 13 ÷ 14 tuổi [35]. Theo nghiên cứu của Trần Thị Loan trên học sinh Hà

Nội, dung tích sống của học sinh tăng theo tuổi nhưng tốc độ tăng không đều. Lứa

tuổi dung tích sống của học sinh tăng nhanh nhất xảy ra cùng lúc chiều cao của các

em tăng nhanh. Từ 10 ÷ 17 tuổi, dung tích sống của học sinh nam lớn hơn của nữ

ngày càng rõ rệt [29].

Năm 2003, trong cuốn “Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập

kỉ 90 - thế kỉ XX” với đề tài “Nghiên cứu một số chỉ số hô hấp người Việt Nam bình

thường” của Nguyễn Văn Tường và cộng sự đã đưa ra 13 chỉ số chức năng phổi trên

239 trẻ nam và 213 trẻ nữ độ tuổi từ 7 đến 15 [2].

Năm 2013, Nguyễn Thị Bích Ngọc cho thấy học sinh từ 11 ÷ 17 tuổi ở các dân

tộc đều có tần số hô hấp giảm dần, các chỉ số dung tích sống, thể tích khí thở ra trong

giây đầu của học sinh tăng dần theo tuổi. Các chỉ số này ở học sinh nam cao hơn học

15

sinh nữ. Chỉ số Tiffeneau của học sinh nam lớn hơn ở học sinh nữ [36].

Năm 2014, Trần Thị Thúy nghiên cứu chỉ số hô hấp ở học sinh lứa tuổi từ 12

đến 15 ở huyện Sóc Sơn, Hà Nội cho kết quả tần số hô hấp của học sinh giảm dần,

các thông số chức năng hô hấp còn lại tăng dần với thời điểm tăng nhanh là 15 tuổi

với học sinh nam, 14 tuổi với học sinh nữ. Chỉ số Tiffeneau không có sự khác biệt

theo tuổi và giới tính [44].

Tóm lại, các nghiên cứu về các chỉ số hô hấp người Việt Nam cho thấy, các

chỉ số hô hấp của người Việt Nam đều có giá trị thấp hơn so với người châu Âu, các

16

chỉ số này của nam cao hơn so với của nữ và mang đặc điểm chủng tộc.

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là học sinh THCS trong độ tuổi từ 12 đến 15 tuổi học

tập tại Trường Trung học cơ sở và Trung học phổ thông Nguyễn Siêu, Hà Nội. Các

đối tượng nghiên cứu có sức khỏe bình thường, không dị tật về hình thể và tinh thần.

Tuổi của các đối tượng được tính theo quy ước chung của Tổ chức Y tế thế giới [69].

Tổng số đối tượng nghiên cứu bao gồm 270 học sinh, trong đó có 133 học sinh

nam và 137 học sinh nữ. Chia đối tượng thành 4 nhóm tương ứng với 4 độ tuổi khác

nhau.

2.1.2. Đặc điểm học sinh trường THCS & THPT Nguyễn Siêu, Hà Nội

Trường THCS & THPT Nguyễn Siêu là trường tự chủ chất lượng cao tại thành

phố Hà Nội. Trường có vị trí thuận lợi nằm tại khu đô thị mới có dân trí cao thuộc

thành phố Hà Nội, nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển hàng đầu trong cả nước.

Trường thực hiện mô hình đào tạo Chất lượng cao và mô hình Quốc tế của

Trường Đại học Cambridge (Vương quốc Anh), xây dựng theo định hướng phát triển

năng lực, phẩm chất của học sinh. Chính vì vậy, học sinh trường THCS & THPT

Nguyễn Siêu có nhiều điều kiện thuận lợi về học tập và rèn luyện thể chất như: trang

thiết bị học tập hiện đại, cơ sở vật chất có chất lượng cao, nhà trường tổ chức nhiều

hoạt động cho học sinh trải nghiệm và có nhiều câu lạc bộ năng khiếu, thể dục thể

thao dành cho học sinh. Điều kiện dinh dưỡng của học sinh cũng được nhà trường

quan tâm, chú trọng. Học sinh ăn trưa tại trường với thực đơn thay đổi hàng ngày,

món ăn đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm và đầy đủ dinh dưỡng. Thời gian học

tập, vui chơi, ăn và ngủ của học sinh được xây dựng hợp lý.

Ngoài ra, học sinh học tập tại trường THCS & THPT Nguyễn Siêu với nhiều

17

mức học phí khác nhau phụ thuộc vào chương trình học Việt Nam chất lượng cao hay

Song ngữ quốc tế Cambridge, do đó học sinh được nuôi dưỡng và phát triển trong gia

đình có điều kiện kinh tế tốt. Phụ huynh học sinh có trình độ và rất chú trọng đầu tư

phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần cho con.

2.2. Phương pháp nghiên cứu

2.2.1. Các chỉ số nghiên cứu

- Nghiên cứu các chỉ số hình thái của học sinh theo lứa tuổi và giới tính bao

gồm: Chiều cao đứng, cân nặng, vòng đầu, vòng ngực bình thường, vòng eo,

vòng mông; BMI.

- Nghiên cứu một số chỉ số chức năng sinh lý của học sinh:

 Chỉ số hô hấp: tần số thở, dung tích sống, thể tích khí thở ra tối đa trong giây

đầu, chỉ số Tiffeneau.

 Chỉ số tuần hoàn: tần số tim, huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương.

2.2.2. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số hình thái

Các chỉ số hình thái của học sinh được đánh giá bằng phương pháp nghiên cứu

nhân trắc học của Nguyễn Quang Quyền [40].

Thu thập các chỉ số hình thái sau:

- Chiều cao đứng: Chiều cao là một trong những chỉ số cơ bản để đánh giá tầm

vóc và mức độ phát triển thể chất của con người. Chiều cao đứng được xác định bằng

thước đo bằng hợp kim có vạch chính xác đến 0,1 cm. Chiều cao đứng được xác định

ở tư thế đứng thẳng trên nền phẳng, hai gót chân sát nhau, mắt nhìn thẳng, đồng thời

đảm bảo 4 điểm chẩm, lưng, mông và gót chạm vào thước đo. Tư thế đứng thẳng

được xác định khi đuôi mắt và mép trên của vành tai nằm trên cùng đường thẳng nằm

ngang vuông góc với trục cơ thể. Học sinh đứng thẳng, vai và tay buông tự do hai

bên người, đầu gối không chùng, dịch thanh chặn nhẹ nhàng đến khi chạm vào đỉnh

đầu. Khi đọc, tầm mắt người đo phải ngang với thanh chặn của thước đo. Đơn vị đo

là cm.

- Cân nặng: Trọng lượng cơ thể là thông số quan trọng được sử dụng để đánh

18

giá sự phát triển của cơ thể. Sử dụng cân điện tử LAICA của Italia, có độ chính xác

đến 0,1 kg để đo cân nặng. Cân nặng được đặt trên mặt phẳng nằm ngang. Khi đo,

đối tượng mặc quần áo mỏng, không mang giày dép, mũ, nón, cân xa bữa ăn, đối

tượng đứng thẳng trên cân sao cho trọng tâm rơi vào điểm giữa của cân và đọc kết

quả khi chỉ số trên cân dừng lại. Đơn vị tính bằng kg.

- Vòng đầu: Sử dụng thước dây không giãn của Trung Quốc có độ chính xác

đến 0,1 cm. Khi đo, đối tượng đứng thẳng, vòng thước dây quanh đầu, chú ý không

để dây vẹo, lệch hay xoắn, phía trước mép dưới của thước sát cung lông mày, phía

sau qua ụ chẩm. Người đo đứng phía bên người được đo và đọc kết quả. Đơn vị tính

bằng cm.

- Vòng ngực bình thường: Vòng ngực bình thường cùng với chiều cao và trọng

lượng được sử dụng để xác định tình trạng tăng trưởng của cơ thể. Sử dụng thước dây

không giãn của Trung Quốc có độ chính xác đến 0,1 cm. Xác định vòng ngực khi đối

tượng ở tư thế thẳng đứng, hai tay duỗi thẳng dọc hai bên đùi, hít thở bình thường,

vòng dây đo đi qua chân của quầng vú hai bên sao cho mặt phẳng do thước dây tạo

ra song song với mặt đất. Đơn vị đo bằng cm.

- Vòng eo: Sử dụng thước dây không giãn của Trung Quốc có độ chính xác

đến 0,1 cm. Xác định vòng eo khi đối tượng ở tư thế đứng thẳng, bụng để bình thường,

không hóp hoặc không hít căng, vòng thước quanh thắt lưng và hông sao cho độ dài

nhỏ nhất, vị trí giữa mào xương chậu và xương sườn thấp nhất vuông góc với cột

sống. Đơn vị tính bằng cm.

- Vòng mông: Kích thước vòng mông được sử dụng để đánh giá mức độ béo

gầy và thể tạng của cơ thể. Sử dụng thước dây không giãn của Trung Quốc có độ

chính xác đến 0,1 cm. Vòng mông được đo bằng cách vòng thước dây quanh xương

hông song song với mặt đất, phần có kích thước lớn nhất được chọn làm kết quả. Đơn

vị tính bằng cm.

- BMI (Body Mass Index): là chỉ số khối cơ thể, được dùng để đánh giá mức

độ gầy hay béo của một người.

BMI được tính theo công thức sau:

19

BMI = Cân nặng (kg)/ (Chiều cao)2 (m)2

Đánh giá BMI theo FAO:

Bảng 2.1. Phân loại theo BMI (kg/m2)

Phân loại BMI (kg/m2)

Suy dinh dưỡng độ III <16

Suy dinh dưỡng độ II 16 ÷ 17

Suy dinh dưỡng độ I 17 ÷ 18,45

Bình thường 18,5 ÷ 24,99

Thừa cân độ I 25 ÷ 29,99

Thừa cân độ II 30 ÷ 39,99

Thừa cân độ III 40

2.2.3. Phương pháp nghiên cứu một số chỉ số chức năng sinh lý

2.2.3.1. Phương pháp nghiên cứu chỉ số chức năng tuần hoàn

- Tần số tim: được xác định bằng ống nghe. Khi đo đối tượng được ngồi ở tư

thế thoải mái. Người đo đặt ống nghe vào ngực trái của đối tượng, ở vị trí giữa xương

sườn thứ 5 và thứ 6, đếm nhịp tim trong 1 phút và đo 3 lần rồi lấy giá trị trung bình.

Nếu thấy kết quả của 3 lần đo khác nhau nhiều thì cho đối tượng ngồi nghỉ 20 phút

rồi đo lại. Đơn vị đo là nhịp/phút.

- Huyết áp động mạch: được xác định bằng phương pháp Korotkov và đo bằng

huyết áp kế đồng hồ được sản xuất tại Nhật Bản. Khi đo huyết áp động mạch, cánh

tay trái ở tư thế nằm thoải mái và cánh tay đặt ngang tim, lòng bàn tay ngửa. Đo 3 lần

rồi lấy số trung bình cộng của 3 lần đo.

Đặt cánh tay trái ngang tim trong tư thế nằm thoải mái, để lộ vùng cánh tay,

người đo quấn túi cao su của huyết áp kế quanh cánh tay đối tượng vừa đủ chặt rồi

cố định lại, đặt ống nghe trên động mạch cánh tay ngay sát bên dưới túi cao su để

nghe mạch đập, cần đảm bảo toàn bộ bề mặt của loa ống nghe luôn tiếp xúc với da

20

đối tượng và đặt đồng hồ của huyết áp kế trước mắt. Khi đo, vặn chặt ốc ở bóp cao

su rồi từ từ bơm cho đến khi không nghe tiếng đập qua ống nghe thì bắt đầu hạ áp lực

trong bóng cao su bằng cách mở nhẹ ốc cho hơi thoát ra từ từ, đồng thời chú ý nghe

tiếng đập của mạch và quan sát số đo trên mặt đồng hồ. Trị số trên đồng hồ lúc nghe

tiếng đập đầu tiên là chỉ số huyết áp tâm thu và tiếng cuối cùng là chỉ số huyết áp tâm

trương. Trong trường hợp bất thường cần phải đo lại. Đo ba lần và lấy giá trị trung

bình của ba lần đo.

2.2.3.2. Phương pháp nghiên cứu chỉ số chức năng hô hấp

Sử dụng máy phế dung kế Spirolab II để đo tần số hô hấp. Nhập các dữ liệu

về tên, tuổi, giới tính, chiều cao và cân nặng của học sinh.

Hướng dẫn đối tượng ngậm miệng vào ống thở của máy và thở bằng miệng

vào máy, chú ý không để cho khí lọt ra ngoài ống thở, kẹp mũi để đối tượng thở hoàn

toàn vào máy bằng miệng, đồng thời cho máy chạy. Hướng dẫn cho đối tượng hít vào

và thở ra bình thường trong một số chu kỳ thở, để thở từ 1 đến 2 phút. Yêu cầu đối

tượng hít thở đều đặn, không ngắt quãng.

- Đo dung tích sống: Chuyển chế độ đo dung tích sống trong máy, ấn start.

Yêu cầu đối tượng thở nhịp nhàng, bình thường, sau đó ra chỉ thị cho đối tượng hít

vào hết mức có thể, sau đó thở ra hết mức mà không phải gắng sức. Yêu cầu khi hít

vào hết sức cần giữ đường bình nguyên hiển thị trên máy đo 1 giây sau đó thở ra hoàn

toàn và liên tục mà không thở nhanh và mạnh. Khi đối tượng không thở ra nhiều hơn

nữa thì trở về thở bình thường và dừng đo. Thực hiện đo ba lần và lấy giá trị trung

bình. Nếu phép đo thực hiện không tốt, ấn start để đo lại.

- Đo thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu: Chuyển chế độ đo dung tích sống

thở mạnh trong máy, ấn start. Yêu cầu đối tượng thở nhịp nhàng, bình thường, sau đó

ra chỉ thị cho đối tượng hít vào hết mức có thể, sau đó thở ra thật nhanh và mạnh hết

sức có thể trong khoảng 4 – 5 giây. Khi đã thở ra cực đại, yêu cầu đối tượng hít sâu,

khi đối tượng không thể hít vào nhiều hơn nữa thì trở về thở bình thường và dừng đo.

Máy sẽ tự động cho kết quả của thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu. Nếu phép đo

thực hiện không tốt, ấn start để đo lại.

21

- Chỉ số Tiffeneau được xác định bằng tỉ lệ FEV1/VC (%).

2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu

Các dữ liệu được xử lý theo phương pháp thống kê dùng trong y, sinh học.

Nghiên cứu và tính toán thông số theo thuật toán thống kê xác suất để phân tích, đánh

giá kết quả nghiên cứu.

Việc xử lý số liệu được thực hiện bằng phần mềm Microsoft Excel 2016 và

SPSS Statistics 22.

- Lập bảng thống kê số liệu của các chỉ số nghiên cứu.

- Nghiên cứu dùng giá trị tuyệt đối và giá trị tỷ lệ % để mô tả biến phân loại,

các chỉ tiêu được tính là giá trị trung bình (𝑋̅) và độ lệch chuẩn (SD).

+ Giá trị trung bình:

Trong đó: 𝑋̅ là giá trị trung bình

Xi là giá trị của từng quan sát

n là số cá thể ở mẫu nghiên cứu.

+ Độ lệch chuẩn:

(n ≥ 30)

Trong đó: SD là độ lệch chuẩn

là độ lệch của từng giá trị so với giá trị trung bình

n là số cá thể ở mẫu nghiên cứu.

- Mối tương quan giữa các chỉ số được xác định bằng hệ số tương quan Pearson

22

(r) theo công thức:

Trong đó: r là hệ số tương quan giữa hai đại lượng X và Y

Xi là từng giá trị của đại lượng X

Yi là từng giá trị của đại lượng Y

n là số cá thể ở mẫu nghiên cứu.

- Xác định mô hình hồi quy tuyến tính đơn biến.

- So sánh sự sai khác hai giá trị trung bình của hai mẫu nghiên cứu khác nhau

theo phương pháp Student – Fisher, sử dụng kiểm định T-test với mức ý nghĩa α =

23

0,05 [7].

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

3.1. Một số chỉ số hình thái của học sinh

3.1.1. Chiều cao đứng

Chiều cao đứng là chỉ số quan trọng trong nghiên cứu về hình thái người và

có ý nghĩa trong việc đánh giá về thể lực cũng như tầm vóc con người.

Kết quả nghiên cứu chiều cao đứng của học sinh trường THCS & THPT

Nguyễn Siêu được thể hiện ở bảng 3.1 và hình 3.1.

Bảng 3.1. Chiều cao đứng (cm) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính

Chiều cao đứng (cm)

1 -

2 p(1-2)

Nam (1) Nữ (2) Tuổi

n Tăng n Tăng ± SD ± SD

12 31 149,14 ± 4,91 - 39 145,69 ± 6,15 - 3,45 <0,05

13 36 153,85 ± 6,16 4,71 34 153,26 ± 5,57 7,57 0,59 >0,05

14 36 161,54 ± 6,48 7,69 34 158,42 ± 5,07 5,16 3,12 >0,05

15 30 165,90 ± 5,84 4,36 30 159,33 ± 6,10 0,91 6,57 <0,05

Tăng trung bình 5,59 4,55

Số liệu bảng 3.1 cho thấy, từ 12 đến 15 tuổi, chiều cao đứng của học sinh vẫn

tiếp tục tăng. Cụ thể, chiều cao đứng của học sinh nam tăng từ 149,14 cm lúc 12 tuổi

lên 165,90 cm lúc 15 tuổi, mỗi năm tăng trung bình 5,59 cm. Chiều cao học sinh nữ

tăng từ 145,69 cm lúc 12 tuổi lên 159,33 cm lúc 15 tuổi, mỗi năm tăng trung bình

4,55 cm.

Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng chiều cao đứng của học sinh không đồng đều ở

cả hai giới tính. Chiều cao đứng của học sinh nam giai đoạn từ 12 đến 13 tuổi (tăng

4,71 cm) và từ 14 đến 15 tuổi (tăng 4,36 cm), hai giai đoạn này có mức tăng chiều

24

cao chậm hơn so với giai đoạn từ 13 đến 14 tuổi (tăng 7,69 cm). Trong khi đó, chiều

cao đứng của học sinh nữ giai đoạn từ 12 đến 13 tuổi lại tăng nhanh nhất (tăng 7,57

cm) và tăng chậm nhất ở giai đoạn từ 14 đến 15 tuổi (0,91 cm).

Như vậy, từ 12 đến 15 tuổi, chiều cao đứng của học sinh tăng dần. Trung bình

mỗi năm, chiều cao đứng của học sinh nam tăng 5,59 cm, tăng mạnh hơn so với tốc

độ tăng chiều cao đứng của học sinh nữ (tăng 4,55 cm/năm).

Ở các lứa tuổi từ 12 đến 15, tốc độ tăng trưởng chiều cao đứng của học sinh

nam luôn nhanh hơn học sinh nữ có cùng một độ tuổi. Cụ thể, ở tuổi 12, chiều cao

đứng trung bình của học sinh nam là 149,14 cm, của học sinh nữ là 145,69 cm, chênh

lệch là 3,45 cm. Ở tuổi 13, chiều cao đứng có sự chênh lệch ít nhất giữa hai giới tính

là 0,59 cm. Ở tuổi 14, chiều cao đứng trung bình của học sinh nam là 161,54 cm, cao

hơn học sinh nữ là 3,12 cm. Sự chênh lệch về chiều cao giữa hai giới tính lớn nhất ở

độ tuổi 15 là 6,57 cm. Tuy nhiên, sự khác biệt chiều cao đứng của học sinh theo giới

tính chỉ có ý nghĩa thống kê (p<0,05) ở 12 tuổi và 15 tuổi.

Hình 3.1. Biểu đồ chiều cao đứng của học sinh theo tuổi và giới tính

Tốc độ tăng chiều cao đứng theo tuổi của học sinh không đồng đều, chiều cao

đứng của học sinh nam tăng nhanh nhất ở giai đoạn 13 đến 14 tuổi (tăng 7,69

cm/năm). Chiều cao đứng của học sinh nữ tăng nhanh nhất ở giai đoạn 12 đến 13 tuổi

(tăng 7,57 cm/năm). Như vậy, thời kì nhảy vọt về chiều cao của học sinh nam muộn

25

hơn học sinh nữ 1 năm. Điều này cho thấy sự tăng trưởng chiều cao đứng của học

sinh diễn ra trùng với giai đoạn của thời kì dậy thì. Trong giai đoạn dậy thì, do ảnh

hưởng của hormone sinh trưởng và hormone sinh dục khiến chiều dài xương tăng

nhanh, đặc biệt là xương ống. Theo đặc điểm phát triển của cơ thể người, giai đoạn

dậy thì thường diễn ra sớm hơn ở nữ khiến chiều cao đứng ở nữ có thời kỳ nhảy vọt

diễn ra sớm hơn ở học sinh nam. Do vậy, 15 tuổi là lứa tuổi học sinh nam vẫn trong

giai đoạn dậy thì, còn học sinh nữ đã dần chậm lại sự phát triển, nên chiều cao của

học sinh nam chênh lệch nhiều so với học sinh nữ (6,57 cm). Kết quả này phù hợp

với số liệu trong nghiên cứu của Đào Huy Khuê [26], Trần Thị Thúy [44]. Học sinh

trường THCS & THPT Nguyễn Siêu có thời kì nhảy vọt chiều cao đứng của học sinh

nam sớm hơn một năm so với số liệu trong “Hằng số sinh học người Việt Nam” [49],

“Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ 90 – thế kỷ XX” [2], Trần

Thị Loan [29], Trần Long Giang và Mai Văn Hưng [16] và muộn hơn một năm so

với nghiên cứu của Đỗ Hồng Cường. Trong khi đó, thời kì dậy thì của học sinh nữ

trong “Hằng số sinh học người Việt Nam” diễn ra muộn hơn 2 năm. Như vậy, so với

một số nghiên cứu cho thấy, học sinh hiện nay có thời kì dậy thì sớm hơn trước đây.

Điều này là do các điều kiện dinh dưỡng và rèn luyện của học sinh hiện nay tốt hơn

trước đây, vì vậy cơ thể không mất nhiều thời gian để chuẩn bị, tích lũy cho giai đoạn

dậy thì.

Dựa vào bảng 3.2 cho thấy, kết quả về chiều cao đứng của học sinh từ 12 đến

15 tuổi trong nghiên cứu này có giá trị lớn hơn các nghiên cứu kể cả những nghiên

cứu gần đây như số liệu của Đỗ Hồng Cường ở Hòa Bình [5], của Trần Long Giang

và Mai Văn Hưng ở Yên Bái [16], của Trần Thị Thúy ở huyện Sóc Sơn, Hà Nội [44].

Điều này cho thấy, kết quả nghiên cứu về chiều cao đứng của học sinh theo giới tính

trong cùng một độ tuổi có sự khác nhau ở các vùng miền và học sinh ở thành phố Hà

Nội có chiều cao đứng lớn hơn so với học sinh ở các tỉnh miền núi và khu vực lân

cận. Như vậy, sự khác biệt này là do các kết quả nghiên cứu được thực hiện ở những

địa bàn khác nhau. Điều đó chứng tỏ sự tăng trưởng về chiều cao phụ thuộc vào điều

kiện phát triển kinh tế - xã hội, điều kiện dinh dưỡng. Vì vậy, học sinh ở khu vực

26

thành phố có sự phát triển về chiều cao tốt hơn so với khu vực nông thôn và miền núi.

Bên cạnh đó, so sánh với nghiên cứu trên cùng một địa bàn Hà Nội như nghiên cứu

của Trần Thị Loan (2002) [29] hay Trần Thị Thúy (2014) [44] cũng cho giá trị lớn

hơn. Điều này là do học sinh khu vực nội thành Hà Nội có điều kiện phát triển tốt

hơn khu vực ngoại thành, mặt khác, học sinh hiện nay nói chung và học sinh trường

THCS & THPT Nguyễn Siêu nói riêng được cha mẹ và nhà trường quan tâm, chăm

sóc về chế độ dinh dưỡng, có nhiều điều kiện thuận lợi về kinh tế để đầu tư phát triển

về mặt thể chất cũng như tinh thần cho học sinh. Ngoài ra, nghiên cứu này cho thấy,

chiều cao của nam học sinh luôn cao hơn nữ học sinh ở các lứa tuổi. Điều này khác

biệt với các nghiên cứu trước đây. Sự khác biệt này là do đất nước ta ngày càng phát

triển mạnh mẽ hơn, con người có nhận thức tốt và khoa học hơn, chính vì vậy sức

khỏe và thể chất của con người được chú trọng dẫn tới quá trình sinh trưởng của học

sinh ngày nay ổn định hơn so với trước đây. Đồng thời sự tăng trưởng của học sinh

nam bền vững hơn so với học sinh nữ.

Bảng 3.2. Chiều cao đứng (cm) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau

Đào

Đào

Trần

Đỗ

Trần

Trần

Ngọc

Giới

HSSH

Huy

Thị

GTSH

Hồng

Long

Thị

Minh

Tuổi

Khuê

Loan

Cường

Giang

Thúy

tính

(1975)

(2003)

Anh

(1991)

(2002)

(2009)

(2012)

(2014)

(2017)

12

130,92 134,55 141,08 135,01 140,29 140,51 142,15 149,14

13

133,95 138,22 146,04 140,46 147,01 145,30 146,27 153,85

Nam

14

137,51 146,15 150,58 147,73 153,58 151,98 154,86 161,54

15

146,20 151,13 157,94 155,52 159,13 160,01 160,53 165,90

12

130,59 137,34 143,05 137,78 144,02 142,38 142,92 145,69

13

135,02 143,64 149,85 143,11 148,06 149,30 148,98 153,26

Nữ

14

138,95 146,18 153,86 147,64 151,62 153,59 153,53 158,42

15

143,40 150,58 154,67 151,01 152,44 155,55 156,09 159,33

27

Ngoài ra, các số liệu nghiên cứu khác nhau còn phụ thuộc vào thời gian nghiên

cứu. So sánh với các nghiên cứu trước đây như “Hằng số sinh học người Việt Nam”

(1975) [49], Đào Huy Khuê (1991) [26], “Các giá trị sinh học người Việt Nam bình

thường thập kỷ 90 – thế kỷ XX” (2003) [2], thì số liệu trong nghiên cứu này cao hơn

nhiều. Do các nghiên cứu ở giai đoạn trước được thực hiện trong thời kì đất nước còn

hạn chế về điều kiện kinh tế - xã hội, còn bị ảnh hưởng của chiến tranh (1975) và

nghèo đói, chính vì vậy con người thời bấy giờ không có điều kiện về dinh dưỡng và

rèn luyện thể lực tốt như thời nay. Mặt khác, ngay cả khi so sánh với số liệu nghiên

cứu về chiều cao đứng của học sinh trong cùng một địa bàn quận Cầu Giấy, Hà Nội

cách đây 15 năm của Trần Thị Loan năm 2002 thì số liệu trong nghiên cứu này cũng

cho kết quả cao hơn khá nhiều ở cùng một độ tuổi của cả hai giới tính. Như vậy, có

thể khẳng định sự tăng trưởng chiều cao trong các lứa tuổi của học sinh hiện nay tốt

hơn nhiều so với trước đây, tức là tốc độ sinh trưởng và phát triển của học sinh không

phải hằng định mà biến đổi theo thời gian.

3.1.2. Cân nặng

Cân nặng là chỉ số được dùng phổ biến để đánh giá về dinh dưỡng và thể lực

của con người. Cùng với chiều cao, cân nặng là một chỉ số phản ánh sự phát triển về

thể chất. Kết quả nghiên cứu cân nặng của học sinh trường THCS & THPT Nguyễn

Siêu được thể hiện ở bảng 3.3 và hình 3.2.

Bảng 3.3. Cân nặng (kg) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính

Cân nặng (kg)

1 -

2

Nam (1) Nữ (2) Tuổi p(1-2)

n Tăng n Tăng ± SD ± SD

31 44,48 ± 7,7 - 39 38,79 ± 7,39 - 5,69 <0,05 12

36 46,50 ± 6,02 2,02 34 46,13 ± 7,03 7,34 0,37 >0,05 13

36 50,54 ± 7,30 4,04 34 47,46 ± 6,04 1,33 3,08 >0,05 14

30 54,35 ± 8,25 3,81 30 49,77 ± 8,37 2,31 4,58 >0,05 15

28

Tăng trung bình 3,29 3,66

Các số liệu bảng 3.3 cho thấy, cân nặng của học sinh tăng dần từ 12 đến 15

tuổi. Cân nặng của học sinh nam tăng từ 44,48 kg lúc 12 tuổi lên 46,5 kg lúc 13 tuổi,

tiếp tục tăng lên 50,54 kg ở tuổi 14 và đạt 54,35 kg lúc 15 tuổi. Cân nặng của học

sinh nam tăng trung bình 3,29 kg mỗi năm. Trong đó từ 13 đến 14 tuổi, cân nặng của

học sinh nam tăng mạnh nhất (tăng 4,04 kg) và tăng ít nhất từ 12 đến 13 tuổi (tăng

2,02 kg). Từ 12 đến 15 tuổi, cân nặng của học sinh nữ tăng từ 38,79 kg lên 49,77 kg.

Mỗi năm cân nặng của học sinh nữ tăng trung bình 3,66 kg. Ngược lại với mức tăng

trọng lượng cơ thể của học sinh nam, học sinh nữ tăng cân nhiều nhất ở độ tuổi từ 12

đến 13 (tăng 7,34 kg) và tăng ít nhất từ 13 đến 14 tuổi (tăng 1,33 kg).

Như vậy, từ 12 đến 15 tuổi, cân nặng của học sinh tăng liên tục theo tuổi. Tuy

nhiên tốc độ tăng cân nặng của học sinh nam và học sinh nữ khác nhau không nhiều

(tăng trung bình 3,29 kg/năm ở nam và 3,66 kg/năm ở nữ).

Hình 3.2. Biểu đồ cân nặng của học sinh theo tuổi và giới tính

Ngoài ra, học sinh nam luôn nặng hơn học sinh nữ trong cùng một độ tuổi.

Tuy nhiên sự chênh lệch không đồng đều ở các độ tuổi. Cụ thể, ở tuổi 12, trung bình

cân nặng của học sinh nam là 44,48 kg, học sinh nữ là 38,79 kg, do vậy có sự chênh

lệch lớn giữa cân nặng của học sinh nam với học sinh nữ (5,69 kg) và sự khác biệt

29

này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Ở tuổi 13 có mức chênh lệch ít nhất về cân nặng

giữa học sinh nam và học sinh nữ, hơn trung bình là 0,37 kg, tuy nhiên sự chênh lệch

này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Còn ở tuổi 14 và 15, sự chênh lệch về cân

nặng trung bình giữa học sinh nam và học sinh nữ lần lượt là 3,08 kg và 4,58 kg. Mức

chênh lệch về cân nặng trung bình giữa hai giới tính ở hai lứa tuổi này không có ý

nghĩa thống kê (p>0,05).

Số liệu của nghiên cứu cho thấy, tốc độ tăng cân nặng của học sinh không

đồng đều theo lứa tuổi. Cân nặng của học sinh nam tăng nhiều nhất ở giai đoạn 13

đến 14 tuổi (tăng 4,04 kg) và của học sinh nữ ở giai đoạn 12 đến 13 tuổi (tăng 7,34

kg). Như vậy, học sinh nữ có thời điểm tăng cân nhảy vọt sớm hơn học sinh nam 1

năm và thời điểm cân nặng của học sinh tăng nhanh trùng với thời điểm chiều cao

đứng tăng nhanh. Điều này được lý giải trong giai đoạn dậy thì, cơ thể có sự chuyển

hóa chất mạnh dẫn tới tăng trưởng mạnh về cân nặng và chiều cao của học sinh. So

sánh với một số nghiên cứu trong bảng 3.4, thấy rằng nghiên cứu của Đỗ Hồng Cường

(2009) [5] cho kết quả tương ứng ở cả hai giới tính, các nghiên cứu còn lại đều có

thời điểm nhảy vọt về cân nặng của học sinh nam muộn hơn số liệu trong nghiên cứu

này 1 năm và khác biệt ở học sinh nữ từ 1 – 2 năm. Như vậy, học sinh trường THCS

& THPT Nguyễn Siêu có giai đoạn dậy thì diễn ra sớm hơn hầu hết các nghiên cứu

trước đây. Điều này là do học sinh hiện nay có chế độ dinh tưỡng tốt nên trẻ có đầy

đủ chất dinh dưỡng để bước vào dậy thì sớm hơn.

Dựa vào bảng 3.4 thấy rằng, chỉ số cân nặng của học sinh trong nghiên cứu

này có giá trị lớn hơn so với các kết quả nghiên khác. Trong các nghiên cứu gần đây

đều cho thấy, cân nặng của trẻ em hiện nay tăng nhiều so với trước đây. So với 42

năm trước trong “Hằng số sinh học người Việt Nam” (1975) [49], mức chênh lệch

khoảng 19 kg đối với học sinh nam và 16 kg đối với học sinh nữ. Sự khác biệt này là

do chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao, học sinh có điều kiện về dinh

dưỡng và rèn luyện tốt hơn. Bên cạnh đó, học sinh ở Hà Nội nói chung và học sinh

trường THCS & THPT Nguyễn Siêu nói riêng, có điều kiện sống tốt hơn, đặc biệt là

chế độ dinh dưỡng và rèn luyện sức khỏe được quan tâm và cải thiện đã ảnh hưởng

30

tích cực tới sự phát triển thể lực của học sinh. Điều này cho thấy, cân nặng của trẻ

chịu ảnh hưởng bởi điều kiện sống và có khuynh hướng thế tục. Điều đó dẫn tới chỉ

số cân nặng của học sinh nam trường THCS & THPT Nguyễn Siêu luôn cao hơn cân

nặng của học sinh nữ trong cùng một độ tuổi. Kết quả này là khác biệt so với các

nghiên cứu trước đây. Điều này chứng tỏ tốc độ tăng trưởng cân nặng của học sinh

nam trường Nguyễn Siêu nhanh hơn và bền vững hơn học sinh nữ.

Bảng 3.4. Cân nặng (kg) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau

Đào

Đào

Trần

Đỗ

Trần

Trần

Ngọc

Giới

HSSH

Huy

Thị

GTSH

Hồng

Long

Thị

Tuổi

Minh

tính

(1975)

Khuê

Loan

(2003)

Cường

Giang

Thúy

Anh

(1991)

(2002)

(2009)

(2013)

(2014)

(2017)

12 25,51 26,86 33,09 27,63 31,32 33,98 36,51 44,48

13 27,77 29,60 35,32 30,92 34,88 36,60 38,87 46,50 Nam 14 29,84 32,28 38,00 35,47 41,56 39,53 42,11 50,54

15 34,91 37,49 44,32 40,92 45,50 45,91 48,14 54,35

12 25,77 28,83 33,09 28,74 33,28 34,05 36,87 38,79

13 28,19 32,85 36,23 32,53 37,22 37,81 39,29 46,13 Nữ 14 30,76 35,36 41,75 36,35 40,13 42,66 44,38 47,46

15 34,16 38,83 42,90 40,19 42,11 44,33 46,43 49,77

3.1.3. Vòng đầu

Kết quả nghiên cứu vòng đầu của học sinh trường THCS & THPT Nguyễn

31

Siêu được thể hiện ở bảng 3.5 và hình 3.3.

Bảng 3.5. Vòng đầu (cm) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính

Vòng đầu (cm)

1 -

2

Nam (1) Nữ (2) Tuổi p(1-2)

n Tăng n Tăng ± SD ± SD

12 31 53,62 ± 1,09 - 39 53,35 ± 1,48 - 0,28 >0,05

13 36 54,58 ± 1,24 0,96 34 54,48 ± 1,07 1,13 0,1 >0,05

14 36 55,02 ± 0,94 0,44 34 54,85 ± 1,49 0,37 0,17 >0,05

15 30 55,53 ± 1,29 0,51 30 55,28 ± 1,66 0,43 0,25 >0,05

Tăng trung bình 0,64 0,64

Từ số liệu trên bảng 3.5 cho thấy kích thước vòng đầu của học sinh nam tăng

từ 53,62 cm lúc 12 tuổi lên 55,53 cm lúc 15 tuổi, tăng thêm 1,91 cm. Mỗi năm vòng

đầu của học sinh nam tăng trung bình 0,64 cm. Vòng đầu của học sinh nữ tăng dần

từ 12 đến 15 tuổi. Trong đó, ở tuổi 12 học sinh nữ có kích thước vòng đầu trung bình

là 53,35 cm và tăng thêm 1,93 cm, đạt 55,28 cm ở tuổi 15. Trung bình mỗi năm, vòng

đầu tăng 0,64 cm ở học sinh nữ.

Như vậy, từ 12 đến 15 tuổi, vòng đầu của học sinh tăng dần theo tuổi. Tuy

nhiên, tốc độ tăng kích thước vòng đầu của học sinh không đều. Ở giai đoạn từ 12 đến

13 tuổi, vòng đầu của học sinh tăng nhiều nhất, cụ thể tăng trung bình là 0,96 cm ở

nam và 1,13 cm ở nữ. Ở giai đoạn từ 13 đến 14 tuổi, vòng đầu của học sinh tăng ít

nhất, tăng 0,44 cm ở nam và 0,37 cm ở nữ. Mỗi giai đoạn từ 12 đến 15 tuổi, tốc độ

tăng kích thước vòng đầu ở học sinh nam đồng đều hơn so với học sinh nữ. Tuy nhiên,

trung bình mỗi năm tốc độ tăng vòng đầu ở cả hai giới tính là như nhau (0,64

cm/năm). Qua phân tích trên thấy rằng, thời điểm tăng nhảy vọt của học sinh nam và

học sinh nữ là trùng nhau (giai đoạn 12 đến 13 tuổi). Thời điểm này tương tự ở học

sinh nam trong nghiên cứu của Trần Đình Long [30] và sớm hơn 1 năm với nghiên

cứu của Thẩm Hoàng Điệp [11], Nguyễn Hữu Chỉnh [3] ở cả hai giới tính, ở học sinh

32

nữ với số liệu của Trần Đình Long [30]. Như vậy, điều kiện kinh tế gia đình và xã

hội tốt hơn, điều kiện dinh dưỡng được chú trọng hơn thì kích thước vòng đầu của

học sinh hiện nay cũng phát triển và hoàn thiện sớm hơn trước đây.

Hình 3.3. Biểu đồ vòng đầu của học sinh theo tuổi và giới tính

Trong giai đoạn từ 12 đến 15 tuổi, học sinh nam có vòng đầu lớn hơn học sinh

nữ ở cùng lứa tuổi. Sự chênh lệch dao động từ 0,1 – 0,28 cm. Ở 12 tuổi, sự chênh

lệch giữa vòng đầu ở nam và nữ là lớn nhất (0,28 cm). Ở 13 tuổi, sự chênh lệch vòng

đầu giữa hai giới tính là nhỏ nhất (0,1 cm). Điều này cho thấy, sự chênh lệch kích

thước vòng đầu giữa hai giới tính là không đáng kể và sự khác biệt này không có ý

nghĩa thống kê (p>0,05). Như vậy, trong cùng một độ tuổi, học sinh nam trường

THCS – THPT Nguyễn Siêu luôn có kích thước vòng đầu lớn hơn học sinh nữ, kết

quả này tương tự trong nghiên cứu của Thẩm Hoàng Điệp (1989) [11] trên học sinh

ba miền Bắc, Trung, Nam và Nguyễn Hữu Chỉnh (1996) [3] với học sinh Hải Phòng.

Mặt khác, điều này khác biệt so với kết quả của Trần Đình Long (1994) [30] đối với

học sinh sinh sống tại quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Tuy nhiên, sự khác biệt này là không

đáng kể và không có ý nghĩa thống kê. Vậy vòng đầu là chỉ số không đặc trưng cho

sự phát triển theo giới tính và lứa tuổi.

So sánh với kết quả của một số nghiên cứu cho thấy, kích thước vòng đầu của

33

nghiên cứu này hầu hết lớn hơn kết quả của Thẩm Hoàng Điệp (1989) [11] và có giá

trị cao hơn so với số liệu của Trần Đình Long (1994) [30] và Nguyễn Hữu Chỉnh

(1996) [3]. Điều này cho thấy, kích thước vòng đầu của học sinh lớn hơn so với trước

đây.

Bảng 3.6. Vòng đầu (cm) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau

Thẩm Trần Nguyễn Đào Ngọc Giới Tuổi Hoàng Điệp Đình Long Hữu Chỉnh Minh Anh tính (1989) (1994) (1996) (2017)

12 53,67 52,17 51,7 53,62

13 53,98 53,00 52,1 54,58 Nam 14 54,74 53,84 52,90 55,02

15 55,11 54,46 53,00 55,53

12 53,18 52,48 51,4 53,35

13 53,54 53,06 51,90 54,48 Nữ 14 54,11 53,68 52,60 54,85

15 54,49 52,22 52,90 55,28

Tóm lại, cùng với các chỉ số về thể lực là chiều cao và cân nặng, chỉ số vòng

đầu của học sinh cũng tăng dần theo tuổi. Điều này cho thấy, khi kích thước cơ thể

tăng, sự phát triển của chiều cao và cân nặng khiến kích thước vòng đầu của cơ thể

cũng tăng. Tuy nhiên mức độ tăng về kích thước vòng đầu là không đáng kể. Khi so

sánh về kích thước vòng đầu trong từng lứa tuổi thì không thấy có sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê, điều đó chứng tỏ trong giai đoạn này vòng đầu của học sinh đã có sự

ổn định về hình thái hộp sọ. Đồng thời kích thước vòng đầu của học sinh nam lớn

hơn học sinh nữ là phù hợp với đặc điểm phát triển của cơ thể người.

3.1.4. Vòng ngực bình thường

Vòng ngực bình thường cùng với chiều cao và cân nặng được sử dụng để xác

định sự tăng trưởng của cơ thể. Vòng ngực còn được coi là một trong những chỉ số

phản ánh chức năng sống của cơ thể, đặc biệt là chức năng thông khí của phổi cũng

34

như sự khỏe mạnh của hệ hô hấp.

Kết quả nghiên cứu vòng ngực bình thường của học sinh trường THCS &

THPT Nguyễn Siêu được thể hiện ở bảng 3.7 và hình 3.4.

Bảng 3.7. Vòng ngực bình thường (cm) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính

Vòng ngực bình thường (cm)

1 -

2 p(1-2)

Nam (1) Nữ (2) Tuổi

n Tăng n Tăng ± SD ± SD

12 31 75,60 ± 6,7 - 39 71,59 ± 7,21 - 4,01 >0,05

13 36 75,90 ± 6,14 0,3 34 74,92 ± 4,36 3,33 0.98 >0,05

14 36 79,69 ± 5,67 3,79 34 78,85 ± 4,17 3,93 0,84 >0,05

15 30 81,85 ± 8,49 2,16 30 80,90 ± 6,74 2,05 0,95 >0,05

Tăng trung bình 2,08 3,10

Số liệu bảng 3.7 cho thấy vòng ngực bình thường của học sinh nam và học

sinh nữ tăng dần theo lứa tuổi. Học sinh nam ở 12 tuổi có kích thước trung bình của

vòng ngực là 75,6 cm, tăng lên 75,9 cm ở 13 tuổi, tiếp tục tăng đến 79,69 cm ở tuổi

14 và đạt 81,85 cm ở tuổi 15. Mỗi năm vòng ngực bình thường của học sinh nam tăng

trung bình 2,08 cm. Tuy nhiên tốc độ tăng vòng ngực bình thường của học sinh nam

ở từng giai đoạn là không đồng đều. Cụ thể, giai đoạn từ 12 đến 13 tuổi, vòng ngực

bình thường của học sinh nam tăng chậm nhất là 0,3 cm và giai đoạn từ 13 đến 14

tuổi, vòng ngực bình thường tăng mạnh nhất là 3,79 cm.

Từ 12 đến 15 tuổi, vòng ngực bình thường của học sinh nữ tăng từ 71,59 cm

lên đến 80,9 cm, chênh lệch 9,31 cm và mỗi năm tăng trung bình 3,1 cm. Tốc độ tăng

kích thước vòng ngực bình thường của học sinh nữ đồng đều hơn so với học sinh nam

theo lứa tuổi, mức chênh lệch từ 2,05 đến 3,93 cm.

Như vậy, vòng ngực bình thường ở cả hai giới tính đều có cùng một thời điểm

tăng nhảy vọt là giai đoạn từ 13 đến 14 tuổi. Thời điểm này diễn ra trùng với thời

điểm nhảy vọt của cân nặng và chiều cao ở học sinh nam, tuy nhiên muộn hơn 1 năm

35

ở học sinh nữ. Điều này được lý giải bởi giai đoạn dậy thì của học sinh nam diễn ra

từ từ, còn ở học sinh nữ có sự chênh lệch lớn. Đồng thời, học sinh nữ có thời điểm

tăng nhảy vọt của cân nặng sớm hơn để tích lũy mỡ chuẩn bị nguyên liệu cho sản

xuất hormone sinh dục, nguyên liệu cho quá trình kéo dài xương, tăng cơ ngực và

tăng kích thước lồng ngực. Do đó, học sinh nữ có thời điểm tăng nhảy vọt vòng ngực

bình thường muộn hơn chỉ số cân nặng. Thời điểm này ở học sinh nữ tương tự với

kết quả trong các nghiên cứu của Thẩm Hoàng Điệp [11], Trần Thị Loan [29], “Các

giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ 90 - thế kỷ XX” [2], Trần Long

Giang [16] và Trần Thị Thúy [44], diễn ra muộn hơn 1 năm với kết quả của tác giả

Đỗ Hồng Cường [5] và sớm hơn 1 năm so với “Hằng số sinh học người Việt Nam”

[49]. So sánh với kết quả của học sinh nam ở hầu hết các nghiên cứu đều cho số liệu

muộn hơn học sinh nam trường THCS & THPT Nguyễn Siêu 1 năm.

Như vậy, từ 12 đến 15 tuổi, vòng ngực bình thường của học sinh tăng dần theo

tuổi. Tuy nhiên trong từng độ tuổi, vòng ngực bình thường của học sinh nam luôn lớn

hơn học sinh nữ. Ở 12 tuổi, mức chênh lệch về vòng ngực bình thường của nam học

sinh với nữ học sinh là lớn nhất (4,01 cm). Ở những lứa tuổi còn lại, mức chênh lệch

không nhiều từ 0,84 – 0,98 cm. Sự khác biệt về vòng ngực bình thường theo giới tính

không có ý nghĩa thống kê ở các lứa tuổi (p>0,05).

36

Hình 3.4. Biểu đồ vòng ngực bình thường của học sinh theo tuổi và giới tính

Bảng 3.8. Vòng ngực bình thường (cm) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau

Đào

Thẩm

Trần

Đỗ

Trần

Trần

Ngọc

Giới

HSSH

Hoàng

Thị

GTSH

Hồng

Long

Thị

Minh

Tuổi

tính

(1975)

Điệp

Loan

(2003)

Cường

Giang

Thúy

Anh

(1989)

(2002)

(2009)

(2013)

(2014)

(2017)

12 61,79 61,48 64,55 61,18 64,22 64,98 67,62 75,60

13 63,08 64,47 67,02 63,30 67,13 66,67 69,03 75,90 Nam 14 64,17 67,35 69,48 66,07 71,15 68,53 72,05 79,69

15 67,2 71,60 72,07 68,92 74,53 71,99 76,59 81,85

12 59,92 63,20 61,68 60,54 65,89 62,03 66,06 71,59

13 61,15 67,16 64,52 62,89 70,03 64,97 68,04 74,92 Nữ 14 62,66 71,17 69,79 65,20 73,16 70,04 72,41 78,85

15 64,75 73,49 72,04 67,54 74,22 73,10 76,53 80,90

So sánh với kết quả của học sinh từ 12 đến 15 tuổi trong “Hằng số sinh học

người Việt Nam” (1975) [49], của Thẩm Hoàng Điệp (1989) [11], “Các giá trị sinh

học người Việt Nam thập kỷ 90 thế kỷ XX” của Lê Nam Trà, Đỗ Hồng Cường (2009)

[2], Trần Long Giang (2013) [16] thấy rằng, kết quả trong nghiên cứu này có giá trị

cao hơn hẳn. Bên cạnh đó, khi so sánh với số liệu của học sinh tại Hà Nội như Trần

Thị Loan (2002) [29] hay Trần Thị Thúy (2014) [44] thì vòng ngực bình thường của

học sinh trường THCS & THPT Nguyễn Siêu có giá trị lớn hơn. Nguyên nhân có thể

do đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội cũng như thời điểm nghiên cứu ở các địa bàn

nghiên cứu khác nhau. Thành phố Hà Nội có sự phát triển mạnh về kinh tế - xã hội,

do đó điều kiện sống của trẻ em tốt hơn, dẫn tới sự phát triển thể chất của học sinh

tốt hơn với các chỉ số có giá trị cao hơn. Ngoài ra, nghiên cứu này cho thấy học sinh

nam luôn có kích thước vòng ngực bình thường lớn hơn học sinh nữ trong cùng một

37

lứa tuổi. Đây là điểm khác biệt với các nghiên cứu khác. Tuy nhiên, sự khác biệt này

không có ý nghĩa thống kê và tương ứng với sự phát triển về chiều cao, cân nặng

trong nghiên cứu về học sinh trường THCS & THPT Nguyễn Siêu.

Từ các số liệu nghiên cứu về chiều cao và vòng ngực bình thường của học sinh

trường THCS & THPT Nguyễn siêu cho thấy, kết quả này hoàn toàn phù hợp với tính

quy luật tăng trưởng chiều cao, vì sự tăng trưởng vòng ngực và chiều cao có tương

quan tỉ lệ thuận với nhau trong quá trình tăng trưởng hình thái cơ thể người bình

thường.

3.1.5. Vòng eo

Kết quả nghiên cứu vòng eo của học sinh trường THCS & THPT Nguyễn Siêu

được thể hiện ở bảng 3.9 và hình 3.5.

Bảng 3.9. Vòng eo (cm) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính

Vòng eo (cm)

1 -

2 p(1-2)

Nam (1) Nữ (2) Tuổi

n Tăng n Tăng ± SD ± SD

12 21 69,45 ± 8,56 - 39 61,98 ± 6,49 - 7,47 <0,05

13 26 67,89 ± 6,90 -1,56 34 64,75 ± 5,24 2,77 3,14 >0,05

14 26 68,85 ± 7,07 0,96 34 64,90 ± 4,70 0,15 3,95 <0,05

15 20 68,95 ± 9,03 0,1 30 66,33 ± 6,03 1,43 2,62 >0,05

Tăng trung bình -0,17 1,45

Số liệu bảng 3.9 cho thấy vòng eo của học sinh nam có sự biến thiên theo lứa

tuổi. Ở 12 tuổi, học sinh nam có vòng eo trung bình là 69,45 cm, đến 13 tuổi kích

thước vòng eo là 67,89 cm. Chỉ số này ở 14 tuổi là 68,85 cm và đạt 68,95 cm lúc 15

tuổi. Như vậy, giai đoạn từ 12 đến 13 tuổi, vòng eo trung bình của học sinh nam giảm

1,56 cm. Tuy nhiên chỉ số này lại tăng nhanh ở giai đoạn 13 đến 14 tuổi (tăng 0,96

38

cm) và tăng nhẹ ở giai đoạn 14 đến 15 tuổi (tăng 0,1 cm).

Hình 3.5. Biểu đồ vòng eo của học sinh theo tuổi và giới tính

Trong khi đó, vòng eo trung bình của học sinh nữ tăng dần theo tuổi. Cụ thể,

học sinh nữ có vòng eo là 61,98 cm lúc 12 tuổi; 64,75 cm lúc 13 tuổi; ở 14 tuổi, chỉ

số này là 64,90 cm và đạt đến 66,33 cm lúc 15 tuổi. Mỗi năm, vòng eo của học sinh

nữ tăng trung bình 1,45 cm. Như vậy, giai đoạn từ 12 đến 13 tuổi, vòng eo của học

sinh nữ tăng nhanh nhất (tăng 2,77 cm) và tăng ít nhất ở giai đoạn từ 13 đến 14 tuổi

(0,15 cm). Điều này ngược lại với sự chênh lệch về vòng eo của học sinh nam trong

các giai đoạn tuổi tương ứng.

Ngoài ra, số liệu của bảng còn cho thấy vòng eo của học sinh nam luôn lớn

hơn học sinh nữ. Sự khác biệt này là lớn nhất ở 12 tuổi (7,47 cm), tiếp theo là chênh

lệch 3,95 cm ở tuổi 14, vòng eo của học sinh nam lớn hơn học sinh nữ 3,14 cm ở 13

tuổi và lớn hơn 2,62 cm ở 15 tuổi. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê ở 12 và 14

tuổi (p<0,05), không có ý nghĩa thống kê ở hai lứa tuổi còn lại (p>0,05).

So sánh với chỉ số vòng eo trong nghiên cứu của Trần Anh Tuấn [50] thấy

rằng vòng eo của học sinh trường THCS-THPT Nguyễn Siêu có giá trị lớn hơn. Điều

này được lý giải do giá trị chiều cao đứng và cân nặng trong nghiên cứu này lớn hơn

số liệu của Trần Anh Tuấn, do đó kéo theo kích thước vòng eo của học sinh có giá trị

39

cao hơn, tương ứng với sự phát triển của các chỉ số hình thái khác.

Bảng 3.10. Vòng eo (cm) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau

Giới tính Tuổi Trần Anh Tuấn (2014) Đào Ngọc Minh Anh (2017)

12 59,27 69,45

13 61,01 67,89 Nam 14 62,11 68,85

15 64,64 68,95

12 59,79 61,98

13 61,03 64,75 Nữ 14 63,23 64,90

15 65,23 66,33

3.1.6. Vòng mông

Kết quả nghiên cứu vòng mông của học sinh trường THCS & THPT Nguyễn

Siêu được thể hiện ở bảng 3.11 và hình 3.6.

Bảng 3.11. Vòng mông (cm) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính

Vòng mông (cm)

1 -

2 p(1-2)

Nam (1) Nữ (2) Tuổi

n Tăng n Tăng ± SD ± SD

12 31 83,31 ± 6,15 - 39 80,83 ± 6,60 - 2,48 >0,05

13 36 83,54 ± 5,41 0,23 34 88,17 ± 5,78 7,34 -4,63 <0,05

14 36 88,02 ± 3,73 4,48 34 88,44 ± 4,58 0,27 -0,42 >0,05

15 30 88,43 ± 6,06 0,41 30 91,42 ± 6,16 2,98 -2,99 >0,05

Tăng trung bình 1,71 3,53

Từ số liệu trên bảng 3.11 cho thấy, vòng mông của học sinh tăng dần theo lứa

tuổi. Vòng mông của học sinh nam tăng từ 83,31 cm lúc 12 tuổi lên 88,43 cm lúc 15

40

tuổi, tăng thêm 5,12 cm, trung bình mỗi năm tăng 1,71 cm. Vòng mông của học sinh

nữ là 80,83 cm lúc 12 tuổi và đạt 91,42 cm lúc 15 tuổi, tăng thêm 10,59 cm, mỗi năm

tăng trung bình 3,53 cm. Điều đó cho thấy, tốc độ tăng vòng mông của học sinh nữ

cao hơn học sinh nam, mức chênh lệch là 1,82 cm.

Từ 12 đến 15 tuổi, vòng mông của học sinh tăng dần theo tuổi, tuy nhiên tốc

độ tăng vòng mông của học sinh không đều. Vòng mông của học sinh nam tăng nhanh

ở giai đoạn từ 13 đến 14 tuổi (tăng 4,48 cm), tuy nhiên đây lại là giai đoạn tăng chậm

nhất ở học sinh nữ (0,27 cm). Tương tự, giai đoạn từ 12 đến 13 tuổi là giai đoạn vòng

mông của học sinh nam tăng chậm nhất (0,23 cm), trong khi đó giai đoạn này vòng

mông của học sinh nữ tăng mạnh nhất là 7,34 cm. Điều này phù hợp với thời kỳ dậy

thì của học sinh nam và học sinh nữ, là thời kỳ các chỉ số về thể lực của học sinh tăng

mạnh dẫn tới sự nhảy vọt về chỉ số vòng mông. Giai đoạn dậy thì của học sinh nữ

thường đến sớm hơn học sinh nam nên sự gia tăng về kích thước vòng mông của học

sinh nữ diễn ra sớm hơn.

Hình 3.6. Biểu đồ vòng mông của học sinh theo tuổi và giới tính

Vòng mông của học sinh nam và học sinh nữ có sự khác biệt trong cùng một

độ tuổi. Ở 12 tuổi, học sinh nam có vòng mông lớn hơn học sinh nữ 2,48 cm. Trong

các giai đoạn từ 13 đến 15 tuổi, vòng mông của học sinh nam nhỏ hơn học sinh nữ ở

41

cùng một độ tuổi, tuy nhiên sự chênh lệch này là không đồng đều. Ở tuổi 13, vòng

mông của học sinh nữ lớn hơn học sinh nam nhiều nhất là 4,63 cm; ở lứa tuổi 14, sự

khác biệt này là ít nhất (0,42 cm). Sự khác biệt về vòng mông theo giới tính nam và

nữ có ý nghĩa thống kê ở tuổi 13 (p<0,05), các lứa tuổi còn lại sự khác biệt không có

ý nghĩa thống kê (p>0,05). Như vậy, sự khác biệt này phản ánh xu hướng tăng trưởng

vòng mông phù hợp với giới tính. Vòng mông của học sinh nữ lớn hơn nam học sinh

nhằm thích nghi với khả năng sinh con của giới tính nữ.

Chỉ số vòng mông của học sinh trong nghiên cứu này có giá trị cao hơn với

kết quả nghiên cứu của Trần Thị Thúy (2014) [44] trên cùng đối tượng học sinh và

trên cùng địa bàn Hà Nội. Điều này được giải thích bởi sự khác biệt về thời gian tiến

hành của hai nghiên cứu khác nhau. Ngoài ra, cho thấy vòng mông chịu sự ảnh hưởng

của điều kiện sống như tình trạng dinh dưỡng của học sinh tại khu vực trung tâm Hà

Nội được quan tâm và có điều kiện cơ sở vật chất cho các em học tập, rèn luyện tốt

hơn khu vực ngoại thành.

Bảng 3.12. Vòng mông (cm) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau

Giới tính Tuổi Trần Thị Thúy (2014) Đào Ngọc Minh Anh (2017)

12 70,79 83,31

13 73,01 83,54 Nam 14 74,93 88,02

15 77,66 88,43

12 71,86 80,83

13 73,59 88,17 Nữ 14 76,19 88,44

15 78,15 91,42

3.1.7. BMI

BMI là một chỉ số nhân trắc thể lực quan trọng để xác định sự phát triển hình

42

thái của con người. Dựa trên mối quan hệ giữa chiều cao và trọng lượng của cơ thể

để mô tả tình trạng dinh dưỡng của cơ thể. Kết quả nghiên cứu BMI của học sinh

trường THCS & THPT Nguyễn Siêu được thể hiện ở bảng 3.13 và hình 3.7.

Bảng 3.13. BMI (kg/m2) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính

BMI (kg/m2)

1 -

2 p(1-2)

Nam (1) Nữ (2) Tuổi

n Tăng n Tăng ± SD ± SD

12 31 19,92 ± 2,75 - 39 18,19 ± 2,68 - 1,73 <0,05

13 36 19,65 ± 2,39 -0,27 34 19,61 ± 2,60 1,42 0,04 >0,05

14 36 19,32 ± 2,22 -0,33 34 18,88 ± 1,96 -0,73 0,44 >0,05

15 30 19,67 ± 3,08 0,35 30 19,53 ± 2,46 0,65 0,14 >0,05

Tăng trung bình -0,08 0,45

Số liệu ở bảng 3.13 cho thấy BMI của học sinh nam lúc 12 tuổi là 19,92 kg/m2,

lúc 13 tuổi là 19,65 kg/m2, BMI ở 14 tuổi là 19,32 kg/m2 và đạt 19,67kg/m2 lúc 15

tuổi. Như vậy, BMI của học sinh nam từ 12 đến 14 tuổi giảm dần. Giai đoạn từ 13

đến 14 tuổi, học sinh nam có BMI giảm nhiều nhất là 0,33 kg/m2. Tuy nhiên BMI của

học sinh nam từ 14 đến 15 tuổi tăng từ 19,32 kg/m2 lên 19,67 kg/m2, tăng thêm 0,35

kg/m2. Mỗi năm BMI của học sinh nam giảm trung bình 0,08 kg/m2. Điều đó chứng

tỏ giai đoạn từ 12 đến 15 tuổi, học sinh nam có tỷ lệ tăng chiều cao đứng cao hơn tỷ

lệ tăng cân nặng.

BMI của học sinh nữ trung bình mỗi năm tăng 0,45 kg/m2. Tuy nhiên chỉ số

này có sự biến thiên theo lứa tuổi. Học sinh nữ có BMI là 18,19 kg/m2 lúc 12 tuổi và

19,61 kg/m2 lúc 13 tuổi, trong giai đoạn này BMI của học sinh nữ tăng nhiều nhất là

1,42 kg/m2. Đến 14 tuổi, BMI của học sinh nữ giảm 0,73 kg/m2 còn 18,88 kg/m2. Ở

15 tuổi, chỉ số này đạt 19,53 kg/m2, tăng 0,65 kg/m2 so với 14 tuổi. Như vậy, so với

học sinh nam thì tỷ lệ tăng chiều cao đứng của học sinh nữ thấp hơn với tỷ lệ cân

43

nặng.

Hình 3.7. Biểu đồ BMI của học sinh theo tuổi và giới tính

Giai đoạn BMI tăng nhanh nhất ở học sinh nam là 14 đến 15 tuổi (tăng

0,35kg/m2) và ở học sinh nữ là 12 đến 13 tuổi (tăng 1,42 kg/m2). Như vậy thời điểm

tăng nhanh của BMI ở học sinh nam diễn ra muộn hơn học sinh nữ. Bên cạnh đó, thời

điểm tăng nhanh BMI của học sinh nam diễn ra muộn hơn thời kì nhảy vọt của chiều

cao và cân nặng. Đối với học sinh nữ, thời điểm BMI tăng nhanh diễn ra cùng với

giai đoạn tăng nhanh về chiều cao và cân nặng. Điều này được lý giải bởi giai đoạn

dậy thì trước 14 ÷ 15 tuổi ở nam là giai đoạn có sự tăng trưởng về xương, tức là tăng

nhanh về chiều cao, nên dù cân nặng cũng tăng nhưng vẫn cho BMI có giá trị thấp.

Tuy nhiên, khi đến giai đoạn ổn định của tuổi dậy thì, tốc độ tăng trưởng chiều cao

giảm trong khi sự tăng trưởng cân nặng vẫn ổn định, do đó cho kết quả BMI tăng lên.

Thời kì tăng nhảy vọt về BMI của học sinh nam trong nghiên cứu này phù hợp với

các số liệu trong “Hằng số sinh học người Việt Nam” [49], nghiên cứu của Trần Thị

Loan [29], Trần Đình Long [30], Trần Long Giang và Mai Văn Hưng [16], Trần Thị

Thúy [44]. Tuy nhiên, thời kì này diễn ra muộn hơn 1 năm so với kết quả trong “Các

giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ 90 – thế kỷ XX” [2] và nghiên

cứu của Đỗ Hồng Cường [5]. Trong khi đó, thời kì tăng nhanh BMI của học sinh nữ

44

diễn ra sớm hơn các nghiên cứu trên.

Như vậy, từ 12 đến 15 tuổi BMI của học sinh nam và nữ có nhiều biến động.

Tuy nhiên, số liệu cho thấy BMI của học sinh nam luôn cao hơn học sinh nữ có cùng

lứa tuổi. Cụ thể, ở 12 tuổi, học sinh nam có BMI lớn hơn học sinh nữ là 1,73 kg/m2,

đây là giai đoạn có sự chênh lệch lớn nhất và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê

(p<0,05). Học sinh nam có BMI chênh lệch ít nhất với học sinh nữ là 0,04 kg/m2 lúc

13 tuổi, lúc 14 tuổi sự chênh lệch này là 0,44 kg/m2 và lúc 15 tuổi là 0,14 kg/m2. Sự

khác biệt về BMI của học sinh giữa hai giới tính theo lứa tuổi 13, 14 và 15 không có

ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Bảng 3.14. BMI (kg/m2) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau

Đào

Trần

Trần

Đỗ

Trần

Trần

Ngọc

Giới

HSSH

Đình

Thị

GTSH

Hồng

Long

Thị

Tuổi

Minh

tính

(1975)

Long

Loan

(2003)

Cường

Giang

Thúy

Anh

(1996)

(2002)

(2009)

(2013)

(2014)

(2017)

12

15,17

16,00

16,85

15,17

15,89

17,19

18,06

19,92

13

15,60

16,10

16,78

15,60

16,09

17,33

18,17

19,65

Nam

14

16,25

16,70

16,78

16,25

17,47

17,12

17,56

19,32

15

16,98

17,60

17,45

16,98

17,99

17,93

18,68

19,67

12

15,15

15,70

16,24

15,15

15,99

16,71

18,04

18,19

13

15,95

16,20

16,57

15,95

16,85

16,91

17,70

19,61

Nữ

14

16,72

17,80

17,58

16,72

17,43

17,94

18,84

18,88

15

17,63

17,70

17,96

17,63

18,15

18,28

19,05

19,53

BMI của học sinh từ 12 đến 15 tuổi của trường THCS & THPT Nguyễn Siêu

đều có thể trạng bình thường ở cả hai giới tính. So sánh với kết quả của một số nghiên

cứu từ năm 1975 đến năm 2014 thì BMI trong nghiên cứu của này có giá trị lớn hơn

hẳn. Điều này cho thấy thể trạng của học sinh phụ thuộc vào điều kiện dinh dưỡng và

sự phát triển của kinh tế - xã hội tại địa bàn nghiên cứu. Trong đó, học sinh khu vực

45

thành phố, thị xã có thể trạng tốt hơn các vùng núi, học sinh khu vực trung tâm Hà

Nội có thể chất tốt hơn các khu vực ngoại thành. Bên cạnh đó, so sánh với kết quả

của các nghiên cứu cùng tại địa bàn Hà Nội nhưng ở những thời điểm khác nhau như

Trần Thị Loan (2002) [29] và Trần thị Thúy (2014) [44] cho thấy thể trạng của học

sinh trong nghiên cứu này tốt hơn. Điều đó chứng tỏ thể trạng của học sinh đang được

cải thiện tích cực.

3.2. Một số chỉ số chức năng sinh lý của học sinh

3.2.1. Các chỉ số chức năng tuần hoàn máu

3.2.1.1. Tần số tim

Kết quả nghiên cứu tần số tim của học sinh trường THCS & THPT Nguyễn

Siêu được thể hiện ở bảng 3.15 và hình 3.8.

Bảng 3.15. Tần số tim (nhịp/phút) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính

Tần số tim (nhịp/phút)

1 -

2 p(1-2)

Nam (1) Nữ (2) Tuổi

n Tăng n Tăng ± SD ± SD

12 31 90,10 ± 9,38 - 39 93,72 ± 7,53 - -3,62 >0,05

13 36 85,85 ± 8,58 -4,25 34 93,54 ± 9,88 -0,18 -7,69 <0,05

14 36 84,12 ± 7,77 -1,73 34 89,67 ± 9,99 -3,87 -5,55 <0,05

15 30 84,00 ± 8,48 -0,12 30 86,43 ± 7,44 -3,24 -2,43 >0,05

Tăng trung bình -2,03 -2,43

Số liệu bảng 3.15 cho thấy tần số tim của học sinh giảm dần theo tuổi. Tần số

tim của học sinh nam giảm từ 90,10 nhịp/phút ở 12 tuổi đến trung bình 84 nhịp/phút

lúc 15 tuổi, giảm 6,1 nhịp/phút. Giai đoạn từ 12 đến 13 tuổi, tần số tim của học sinh

nam có tốc độ giảm nhanh nhất là 4,25 nhịp/phút, chỉ số này đạt 85,85 nhịp/phút lúc

13 tuổi. Giai đoạn từ 14 đến 15 tuổi, học sinh nam có tần số tim giảm chậm nhất là

0,12 nhịp/phút. Trung bình mỗi năm tần số tim của học sinh nam giảm 2,03 nhịp/phút.

46

Tương tự, học sinh nữ có tần số tim lúc 12 tuổi là 93,72 nhịp/phút và 86,43 nhịp/phút

lúc 15 tuổi, giảm 7,29 nhịp/phút. Trong đó, giai đoạn từ 13 đến 14 tuổi, tần số tim

của học sinh nữ giảm nhanh nhất là 3,87 nhịp/phút. Tốc độ giảm của tần số tim chậm

nhất ở giai đoạn từ 13 đến 14 tuổi (giảm 0,18 nhịp/phút). Mỗi năm, tần số tim của

học sinh nữ giảm 2,43 nhịp/phút. Điều này có thể được lý giải khi còn nhỏ, trẻ đang

trong thời kỳ phát triển mạnh mẽ, lượng dinh dưỡng và dưỡng khí trẻ cần cao hơn

nhiều so với người lớn, những chất dinh dưỡng này đều do máu đem tới. Vì thế, tim

phải đập nhanh mới có thể bảo đảm cho trẻ phát triển bình thường. Hơn nữa, do kích

thước cơ thể tỉ lệ nghịch với tần số tim. Khi kích thước cơ thể tăng, cùng sự phát triển

và hoàn thiện về các chỉ số hình thái thì cấu trúc và chức năng của tim cũng ngày

càng hoàn thiện, buồng tim to hơn, cơ tim ngày càng khỏe, sức chứa máu của tim

tăng lên, lực co tim mạnh nên tần số tim có xu hướng giảm. Chính vì vậy, khi dần tới

tuổi trưởng thành thì tần số tim sẽ giảm. Các số liệu trên cho thấy, từ 12 đến 15 tuổi,

tốc độ giảm tần số tim của học sinh nữ nhanh hơn học sinh nam.

Hình 3.8. Biểu đồ tần số tim của học sinh theo tuổi và giới tính

Như vậy, tần số tim của học sinh giảm dần theo lứa tuổi, tuy nhiên tốc độ giảm

không đồng đều. Sự khác biệt này là do sự phát triển không đồng đều về kích thước

cơ thể của học sinh nam và học sinh nữ trong giai đoạn tuổi dậy thì. Ngoài ra, trong

cùng một lứa tuổi, học sinh nữ có tần số tim cao hơn học sinh nam. Điều này là do

47

tần số tim tỷ lệ nghịch với khối lượng cơ thể. Cụ thể, học sinh nam và học sinh nữ có

sự chênh lệch về tần số tim cao nhất ở tuổi 13 là 7,69 nhịp/phút, tiếp theo là lứa tuổi

14, nữ học sinh có tần số tim nhanh hơn nam học sinh là 5,55 nhịp/phút. Sự khác biệt

về tần số tim của học sinh theo giới tính ở hai lứa tuổi này có ý nghĩa thống kê

(p<0,05). Ở 12 tuổi và 15 tuổi, tần số tim của học sinh nữ và nam có sự chênh lệch ít

hơn, trong đó sự khác biệt là ít nhất ở 15 tuổi (2,43 nhịp/phút). Sự chênh lệch về tần

số tim theo giới tính ở 12 và 15 tuổi không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Kết quả này

phù hợp với kết quả nghiên cứu của Đoàn Yên [52] và Trần Thị Loan [29]. Tuy nhiên,

nghiên cứu của Đỗ Hồng Cường [5] cho kết quả tần số tim của học sinh nữ thấp hơn

học sinh nam, còn kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Ngọc [36] có sự chênh

lệch tần số tim của học sinh nam và học sinh nữ không theo xu hướng cụ thể. Như

vậy, chỉ số tần số tim không đặc trưng cho giới trong lứa tuổi này.

Bảng 3.16. Tần số tim (nhịp/phút) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau

Đoàn Trần Thị Đào Ngọc Đỗ Hồng Nguyễn Thị Giới Yên và Loan Minh Anh Cường Bích Ngọc Tuổi cs tính (2009) (2013) (2002) (2017) (1993)

79,3 12 81,00 82,85 78,61 90,10

79,9 13 79,10 81,29 75,69 85,85 Nam 75,3 14 76,20 78,69 73,92 84,12

76,1 15 75,00 76,82 73,05 84,00

85,1 12 83,90 82,67 78,62 93,72

84,6 13 81,30 79,98 76,65 93,54 Nữ 80,4 14 79,10 77,68 75,15 89,67

81,1 15 78,00 76,52 74,15 86,43

So sánh với kết quả của Đoàn Yên (1993) [52], Trần Thị Loan (2002) [29], Đỗ

Hồng Cường (2009) [5] và Nguyễn Thị Bích Ngọc (2013) [36] cho thấy, kết quả của

48

nghiên cứu này có giá trị cao hơn hẳn. Điều này là do chỉ số chiều cao và cân nặng

trong nghiên cứu này có giá trị cao hơn các nghiên cứu trên, cơ thể trẻ đang trong giai

đoạn tăng trưởng nên tim vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện. Bên cạnh đó, ở tuổi

dậy thì cơ thể trẻ đang có biến chuyển mạnh trong hoạt động của các cơ quan, đòi hỏi

hệ tim mạch phải tăng cường chức năng để đáp ứng nhu cầu biến động đó, vì vậy tần

số tim vẫn tăng so với các nghiên cứu trước đây.

3.2.1.2. Huyết áp tâm thu

Kết quả nghiên cứu huyết áp tâm thu của học sinh trường THCS & THPT

Nguyễn Siêu được thể hiện ở bảng 3.17 và hình 3.9.

Bảng 3.17. Huyết áp tâm thu (mmHg) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính

Huyết áp tâm thu (mmHg)

1 -

2 p(1-2)

Nam (1) Nữ (2) Tuổi

n Tăng n Tăng ± SD ± SD

12 31 101,05 ± 6,63 - 39 100,55 ± 5,64 - 0,5 >0,05

13 36 103,04 ± 8,91 1,99 34 102,88 ± 8,07 2,33 0,16 >0,05

14 36 106,15 ± 8,52 3,11 34 105,58 ± 9,35 2,7 0,57 >0,05

15 30 109,35 ± 8,79 3,2 30 108,07 ± 8,91 2,49 1,28 >0,05

Tăng trung bình 2,77 2,51

Dựa vào số liệu bảng 3.17, thấy rằng huyết áp tâm thu của học sinh tăng theo

tuổi. Học sinh nam có huyết áp tâm thu trung bình là 101,05 nhịp/phút lúc 12 tuổi,

103,04 nhịp/phút lúc 13 tuổi, học sinh nam 14 tuổi có huyết áp tâm thu là 106,15

nhịp/phút và đạt 109,35 nhịp/phút lúc 15 tuổi. Vậy, giai đoạn từ 14 đến 15 tuổi, huyết

áp tâm thu của học sinh nam tăng mạnh nhất là 3,2 nhịp/phút; còn giai đoạn từ 12 đến

13 tuổi có huyết áp tâm thu tăng ít nhất là 1,99 nhịp/phút. Số liệu về huyết áp tâm thu

của học sinh nữ cho thấy tốc độ tăng đồng đều hơn so với học sinh nam. Cụ thể, học

sinh nữ có huyết áp tâm thu trung bình là 100,55 nhịp/phút lúc 12 tuổi và 108,07

nhịp/phút lúc 15 tuổi. Huyết áp tâm thu của học sinh nữ từ 12 đến 15 tuổi tăng 7,52

49

nhịp/phút. Giai đoạn huyết áp tâm thu của học sinh nữ tăng mạnh nhất là từ 13 đến

14 tuổi (tăng 2,7 nhịp/phút). Từ 12 đến 13 tuổi, huyết áp tâm thu của học sinh nữ tăng

chậm nhất là 2,33 nhịp/phút.

Như vậy, trung bình mỗi năm huyết áp tâm thu của học sinh nam tăng 2,77

nhịp/phút, học sinh nữ tăng trung bình 2,51 nhịp/phút. Điều này cho thấy, huyết áp

tâm thu của học sinh nữ tăng chậm hơn so với học sinh nam trong giai đoạn từ 12 đến

15 tuổi.

Vậy, từ 12 đến 15 tuổi, huyết áp tâm thu của học sinh tiếp tục tăng. Huyết áp

tâm thu của học sinh nam luôn cao hơn học sinh nữ trong cùng một tuổi với biên độ

chênh lệch từ 0,16 đến 1,28 nhịp/phút. Trong đó, ở tuổi 13, sự chênh lệch về huyết

áp tâm thu của học sinh nam với học sinh nữ là thấp nhất và ở 15 tuổi, sự khác biệt

giữa 2 giới tính là lớn nhất. Trong các lứa tuổi nghiên cứu, Sự khác biệt về huyết áp

tâm thu theo giới tính không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Hình 3.9. Biểu đồ huyết áp tâm thu của học sinh theo tuổi và giới tính

So với các nghiên cứu khác thấy rằng, nghiên cứu này và nghiên cứu của Đỗ

Hồng Cường [5], Hoàng Thu Soan [41] đều cho kết quả huyết áp tâm thu của học

sinh nam có tốc độ tăng nhanh nhất trong giai đoạn từ 14 đến 15 tuổi. Những nghiên

cứu khác đều có giai đoạn này sớm hơn 1 đến 2 năm. Nghiên cứu này có kết quả về

bước tăng nhảy vọt của huyết áp tâm thu ở học sinh nữ tương tự với kết quả của Trần

50

Thị Loan [29] (giai đoạn 13 đến 14 tuổi), sớm hơn 1 năm so với nghiên cứu của Đoàn

Yên [52], Đỗ Hồng Cường [5] và muộn hơn 1 năm so với nghiên cứu của Hoàng Thu

Soan [41], Nguyễn Thị Bích Ngọc [36]. Điều này cho thấy sự tăng trưởng về hình thể

cũng như các chỉ số sinh lý tuần hoàn của học sinh nam muộn hơn học sinh nữ, điều

này phù hợp với xu hướng phát triển chiều cao và cân nặng của học sinh trường THCS

& THPT Nguyễn Siêu.

Bảng 3.18. Huyết áp tâm thu (mmHg) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau

Hoàng Đoàn Trần Đỗ Nguyễn Đào Ngọc

Thu Yên và Thị Hồng Thị Bích Minh Giới Tuổi Soan tính cs Loan Cường Ngọc Anh

(1993) (2002) (2009) (2013) (2017) (2011)

12 94,90 97,25 110,94 106,24 99,81 101,05

13 97,70 101,97 111,03 107,06 101,33 103,04 Nam 14 107,40 103,92 113,36 106,34 104,52 106,15

15 108,60 106,28 118,17 111,50 106,18 109,35

12 107,05 101,78 109,77 104,50 101,88 100,55

13 109,10 104,02 111,63 107,20 105,09 102,88 Nữ 14 104,60 106,69 114,37 105,83 106,38 105,58

15 110,00 108,13 117,53 108,13 107,75 108,07

So sánh chỉ số huyết áp tâm thu của học sinh trường Nguyễn Siêu với học sinh

trong cùng khu vực quận Cầu Giấy 15 năm trước, thấy rằng có sự khác biệt giữa học

sinh nam và nữ trong hai nghiên cứu. Trong đó, huyết áp tâm thu của học sinh nam

trường THCS & THPT Nguyễn Siêu có giá trị cao hơn, số liệu của học sinh nữ lại có

giá trị thấp hơn dù không đáng kể. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cho kết quả huyết áp

tâm thu của học sinh nam luôn cao hơn học sinh nữ trong các lứa tuổi, tuy nhiên sự

khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu của Đoàn Yên và cộng sự [52],

51

Đỗ Hồng Cường [5], Hoàng Thu Soan [41] cho kết quả biến động về sự khác biệt

huyết áp tâm thu giữa hai giới tính, các nghiên cứu khác cho kết quả huyết áp tâm thu

ở học sinh nam thấp hơn học sinh nữ. Như vậy, chỉ số huyết áp không đặc trưng cho

giới trong lứa tuổi này.

Như vậy, các kết quả nghiên cứu cho thấy tuổi càng tăng thì huyết áp càng

tăng. Huyết áp phụ thuộc vào nhịp tim và lực co của tim, độ đàn hồi của thành mạch

hay sức cản của mạch máu. Trong quá trình phát triển, sức đẩy của tim tăng dần, nhịp

tim và lưu lượng tim tăng dần, đồng thời cấu trúc của thành mạch thay đổi. Tuổi tăng

thì thành mạch dày hơn, sức đàn hồi giảm dần chính vì vậy huyết áp tăng dần theo

tuổi. Cũng vì lý do này nên tần số tim của học sinh trường THCS & THPT Nguyễn

Siêu cao hơn những nghiên cứu khác khiến cho huyết áp cũng có sự khác biệt tương

tự.

3.2.1.3. Huyết áp tâm trương

Kết quả nghiên cứu huyết áp tâm trương của học sinh trường THCS – THPT

Nguyễn Siêu được thể hiện ở bảng 3.19 và hình 3.10.

Bảng 3.19. Huyết áp tâm trương (mmHg) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính

Huyết áp tâm trương (mmHg)

1 -

2 p(1-2)

Nam (1) Nữ (2) Tuổi

n Tăng n Tăng ± SD ± SD

12 31 61,95 ± 3,15 - 39 60,83 ± 3,98 - 1,12 >0,05

13 36 62,77 ± 3,67 0,82 34 62,54 ± 3,97 1,71 0,23 >0,05

14 36 65,96 ± 3,90 3,19 34 65,21 ± 4,77 2,67 0,75 >0,05

15 30 69,05 ± 6,21 3,09 30 67,07 ± 6,80 1,86 1,98 >0,05

Tăng trung bình 2,37 2,08

Số liệu bảng 3.19 cho thấy, huyết áp tâm trương của học sinh tăng dần theo

tuổi ở cả hai giới tính. Học sinh nam có huyết áp tâm trương là 61,95 nhịp/phút lúc

12 tuổi, tăng thêm 7,1 nhịp/phút và đạt 69,05 nhịp/phút lúc 15 tuổi. Huyết áp tâm

52

trương của học sinh nam tăng không đồng đều. Giai đoạn từ 12 đến 13 tuổi có tốc độ

tăng huyết áp tâm trương thấp nhất là 0,82 nhịp/phút và tốc độ tăng nhanh nhất là giai

đoạn từ 13 đến 14 tuổi, tăng 3,19 nhịp/phút. Mỗi năm, huyết áp tâm trương của học

sinh nam tăng trung bình 2,37 nhịp/phút.

Huyết áp tâm trương của học sinh nữ tăng từ 60,83 nhịp/phút lúc 12 tuổi lên

67,07 nhịp/phút lúc 15 tuổi. Trong đó, giai đoạn từ 12 đến 13 tuổi, huyết áp tâm

trương có tốc độ tăng chậm nhất là 1,71 nhịp/phút và tăng nhanh nhất từ 13 đến 14

tuổi là 2,67 nhịp/phút. Giai đoạn từ 12 đến 15 tuổi, huyết áp tâm trương của học sinh

nữ tăng thêm 6,24 nhịp/phút và trung bình tăng 2,08 nhịp/phút mỗi năm.

Như vậy từ 12 đến 15 tuổi, huyết áp tâm trương của học sinh nam tăng nhanh

hơn học sinh nữ. Trong đó giai đoạn từ 12 đến 13 tuổi ở cả hai giới tính đều có huyết

áp tâm trương tăng chậm nhất (tăng 0,82 nhịp/phút ở nam và 1,71 nhịp/phút ở nữ) và

chỉ số này tăng nhanh nhất ở giai đoạn từ 13 đến 14 tuổi (tăng 3,19 nhịp/phút ở nam

và 2,67 nhịp/phút ở nữ). Điều này là khác biệt so với thời điểm tăng nhanh huyết áp

tâm thu ở nam.

Hình 3.10. Biểu đồ huyết áp tâm trương theo tuổi và giới tính

Dựa vào số liệu trên thấy rằng, huyết áp tâm trương của học sinh nam luôn cao

hơn học sinh nữ ở cùng một độ tuổi, mức chênh lệch từ 0,23 đến 1,98 nhịp/phút. Cụ

53

thể ở 13 tuổi, học sinh nam có huyết áp tâm trương mức chênh lệch với hơn học sinh

nữ là ít nhất (0,23 nhịp/phút), ở 15 tuổi, đây là lứa tuổi có sự chênh lệch cao nhất là

1,98 nhịp/phút. Sự khác biệt về huyết áp tâm trương theo giới tính và lứa tuổi không

có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Bảng 3.20. Huyết áp tâm trương (mmHg) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau

Đỗ Đoàn Trần Thị Nguyễn Thị Đào Ngọc Giới Hồng Tuổi Yên và Loan Bích Ngọc Minh Anh tính Cường cs (1993) (2002) (2013) (2017) (2009)

12 57,60 57,52 61,10 59,64 61,95

13 57,90 60,48 63,38 61,98 62,77 Nam 14 65,50 64,25 65,92 64,16 65,96

15 64,80 66,72 69,48 65,63 69,05

12 63,20 63,27 64,68 62,37 60,83

13 62,70 64,78 67,81 65,09 62,54 Nữ 14 65,00 66,37 70,74 66,15 65,21

15 69,10 68,68 72,86 67,36 67,07

Dựa vào số liệu bảng 3.20 cho thấy, thời điểm huyết áp tâm trương của học

sinh nam trong nghiên cứu này tăng nhanh tương tự với nghiên cứu của Đoàn Yên

[52], Trần Thị Loan [29], muộn hơn 1 năm so với Nguyễn Thị Bích Ngọc [36] và

sớm hơn 1 năm so với nghiên cứu của Đỗ Hồng Cường [5]. Trong khi đó, thời điểm

tăng nhanh huyết áp tâm trương ở học sinh nữ trong nghiên cứu này diễn ra sớm hơn

1 năm so với Đoàn Yên [52] và Trần Thị Loan [29], muộn hơn 1 năm so với Đỗ Hồng

Cường [5] và Nguyễn Thị Bích Ngọc [36]. Bên cạnh đó, huyết áp tâm trương của học

sinh nam trường Nguyễn Siêu luôn cao hơn học sinh nữ trong cùng một lứa tuổi, tuy

nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Trong khi đó, kết quả của các tác giả

54

khác cho kết quả ngược lại, ngoại trừ số liệu nghiên cứu của Đoàn Yên và cộng sự

[52] có sự biến động chênh lệch giữa hai giới tính. Điều này lý giải tương tự huyết áp

tâm thu của học sinh giữa các nghiên cứu. Như vậy, sự khác biệt của huyết áp tâm

trương giữa hai giới tính không đặc trưng cho các nhóm tuổi này.

3.2.2. Các chỉ số chức năng thông khí phổi

3.2.2.1. Tần số hô hấp

Kết quả nghiên cứu tần số hô hấp của học sinh trường THCS & THPT Nguyễn

Siêu được thể hiện ở bảng 3.21 và hình 3.11.

Bảng 3.21. Tần số hô hấp (nhịp/phút) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính

Tần số hô hấp (nhịp/phút)

1 -

2 p(1-2)

Nam (1) Nữ (2) Tuổi

n Tăng n Tăng ± SD ± SD

12 31 20,38 ± 2,46 - 39 20,95 ± 3,52 - -0,57 >0,05

13 36 20,13 ± 3,30 -0,25 34 20,88 ± 2,97 -0,07 -0,75 >0,05

14 36 19,71 ± 3,45 -0,42 34 19,81 ± 3,11 -1,07 -0,1 >0,05

15 30 19,17 ± 2,86 -0,54 30 19,25 ± 2,83 -0,56 -0,08 >0,05

Tăng trung bình -0,40 -0,57

Số liệu bảng 3.21 cho thấy, từ 12 đến 15 tuổi, tần số hô hấp của học sinh giảm

dần. Cụ thể là tần số hô hấp của học sinh nam giảm từ 20,38 nhịp/phút lúc 12 tuổi

xuống 19,17 nhịp/phút lúc 15 tuổi, mỗi năm giảm trung bình 0,4 nhịp/phút. Tần số hô

hấp của học sinh nữ giảm từ 20,95 nhịp/phút lúc 12 tuổi xuống 19,25 nhịp/phút lúc 15

tuổi, mỗi năm giảm trung bình 0,57 nhịp/phút.

Tuy nhiên, tốc độ giảm tần số hô hấp của học sinh không đồng đều ở cả hai

giới tính. Tần số hô hấp của học sinh nam giảm ít nhất trong giai đoạn từ 12 đến 13

tuổi (giảm 0,25 nhịp/phút) và từ 14 đến 15 tuổi là giai đoạn có tần số hô hấp giảm

mạnh nhất (giảm 0,54 nhịp/phút). Tương tự tần số hô hấp của học sinh nam, trong

55

giai đoạn 12 đến 13 tuổi ở học sinh nữ có tần số hô hấp giảm chậm nhất là 0,07

nhịp/phút. Trong khi đó, tần số hô hấp của học sinh nữ giai đoạn 13 đến 14 tuổi lại

giảm nhanh nhất (giảm 1,07 nhịp/phút).

Hình 3.11. Biểu đồ tần số hô hấp của học sinh theo tuổi và giới tính

Như vậy, từ 12 đến 15 tuổi, tần số hô hấp của học sinh giảm dần. Trung bình

mỗi năm, tần số hô hấp của học sinh nữ giảm 0,57 nhịp/phút, giảm mạnh hơn so với

tốc độ giảm tần số hô hấp của học sinh nam (giảm 0,4 nhịp/phút). Điều này được lý

giải do thể tích phổi càng tăng khi trẻ càng lớn, cơ hoành và cơ liên sườn của trẻ ngày

càng hoàn thiện, thể tích lưu thông khí tăng lên, trong khi nhu cầu oxy giảm dần là

nguyên nhân dẫn đến tần số hô hấp giảm dần theo tuổi (Trần Long Giang 2012 [16]).

Kết quả này phù hợp với số liệu nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Ngọc (2013) [36]

và Trần Thị Thúy (2014) [44]. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sự giảm nhanh về tần số

hô hấp của học sinh nam trong giai đoạn 14 đến 15 tuổi, ở học sinh nữ là giai đoạn

13 đến 14 tuổi. Vậy thời điểm giảm nhanh về tần số hô hấp ở học sinh nữ diễn ra sớm

hơn học sinh nam một năm. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của Trần Thị Thúy

[44].

Ở các lứa tuổi từ 12 đến 15, tần số hô hấp của học sinh nữ luôn cao hơn học

sinh nam có cùng một độ tuổi. Cụ thể, ở tuổi 12, tần số hô hấp trung bình của học

56

sinh nam là 20,38 nhịp/phút, của học sinh nữ là 20,95 nhịp/phút, chênh lệch là 0,57

nhịp/phút. Ở tuổi 13, tần số hô hấp có sự chênh lệch giữa hai giới tính là 0,75

nhịp/phút, đây là lứa tuổi có sự khác biệt lớn nhất về tần số hô hấp. Ở tuổi 14, tần số

hô hấp trung bình của học sinh nam là 19,71 nhịp/phút, thấp hơn học sinh nữ là 0,1

nhịp/phút. Sự chênh lệch về tần số hô hấp giữa hai giới tính ít nhất ở độ tuổi 15, là

0,08 nhịp/phút. Tuy nhiên, sự khác biệt về tần số hô hấp của học sinh theo giới tính

không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Điều này khác biệt với số liệu nghiên cứu của

Nguyễn Thị Bích Ngọc [36] và Trần Thị Thúy [44].

Bảng 3.22. Tần số hô hấp (nhịp/phút) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau

Nguyễn Thị Trần Thị Thúy Đào Ngọc

(2014) Bích Ngọc Minh Anh Giới tính Tuổi

(2013) (2017)

12 21,86 20,38 21,45

13 21,41 20,13 21,03 Nam 14 20,48 19,71 20,48

15 20,16 19,17 19,52

12 22,12 20,95 22,04

13 21,95 20,88 21,55 Nữ 14 20,56 19,81 20,11

15 19,47 19,25 19,10

So sánh tần số hô hấp của học sinh trong nghiên cứu này với các nghiên cứu

trước đây thấy rằng tần số hô hấp của học sinh trường Nguyễn Siêu có giá trị thấp

hơn các nghiên cứu khác, điều này phù hợp với sự khác biệt về chỉ số hình thái trong

nghiên cứu này với các tác giả khác. Mối liên quan giữa tần số hô hấp và chỉ số hình

thái cơ thể trong các nghiên cứu cho thấy chỉ số hình thái của học sinh hiện nay có

giá trị cao hơn so với các nghiên cứu trước đây, đồng thời tần số hô hấp của học sinh

57

giảm dần qua các năm. Mặc dù sự thay đổi này là không đáng kể.

3.2.2.2. Dung tích sống

Kết quả nghiên cứu dung tích sống của học sinh trường THCS & THPT

Nguyễn Siêu được thể hiện ở bảng 3.23 và hình 3.12.

Bảng 3.23. Dung tích sống (lít) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính

Dung tích sống (lít)

1 -

2 p(1-2)

Nam (1) Nữ (2) Tuổi

n Tăng n Tăng ± SD ± SD

12 31 2,70 ± 0,22 - 39 2,36 ± 0,29 - 0,34 <0,05

13 36 2,91 ± 0,39 0,21 34 2,72 ± 0,25 0,36 0,19 <0,05

14 36 3,26 ± 0,53 0,35 34 3,14 ± 0,38 0,42 0,12 >0,05

15 30 3,85 ± 0,45 0,59 30 3,23 ± 0,34 0,09 0,62 <0,05

Tăng trung bình 0,38 0,29

Các số liệu bảng 3.23 cho thấy, dung tích sống của học sinh tăng dần từ 12 đến

15 tuổi. Dung tích sống của học sinh nam tăng từ 2,70 lít lúc 12 tuổi lên 2,91 lít lúc

13 tuổi, tiếp tục tăng lên 3,26 lít ở tuổi 14 và đạt 3,85 lít lúc 15 tuổi. Dung tích sống

của học sinh nam tăng trung bình 0,38 lít mỗi năm. Trong đó, từ 12 đến 13 tuổi học

sinh nam có dung tích sống tăng chậm nhất là 0,21 lít và tăng mạnh nhất là 0,59 lít

trong giai đoạn từ 14 đến 15 tuổi. Từ 12 tuổi đến 15 tuổi, dung tích sống của học sinh

nữ tăng từ 2,36 lít lên 3,23 lít kg, trung bình mỗi năm dung tích sống tăng 0,29 lít.

Ngược lại với mức tăng dung tích sống của học sinh nam, học sinh nữ tăng dung tích

sống nhiều nhất ở độ tuổi từ 13 đến 14 (tăng 0,42 lít) và tăng ít nhất từ 14 đến 15 tuổi

(tăng 0,09 lít). Như vậy, thời điểm dung tích sống tăng nhanh nhất ở học sinh nữ sớm

hơn ở nam một năm. Điều này là phù hợp với thời điểm dậy thì của học sinh nữ diễn

ra sớm hơn ở học sinh nam. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của Trần Thị Thúy

58

[44] và muộn hơn hầu hết các nghiên cứu khác một đến hai năm [2], [5], [29], [36].

Hình 3.12. Biểu đồ dung tích sống của học sinh theo tuổi và giới tính

Như vậy, từ 12 đến 15 tuổi, dung tích sống của học sinh tăng liên tục theo tuổi.

Điều này được lý giải bởi sự tăng trưởng của cơ thể trong lứa tuổi này. Các chỉ số

hình thái phát triển, các cơ quan cũng lớn lên và dần hoàn thiện, điều này khiến cho

thể tích phổi của học sinh tăng, do đó dung tích sống phổi cũng tăng. Tuy nhiên, tốc

độ tăng dung tích sống của học sinh qua các lứa tuổi chênh lệch không nhiều (tăng

trung bình 0,38 lít/năm ở nam và 0,29 lít/năm ở nữ) và tốc độ tăng dung tích sống của

học sinh nam nhanh hơn học sinh nữ, nhưng mức chênh lệch không đáng kể.

Ngoài ra, số liệu còn cho thấy học sinh nam luôn có dung tích phổi lớn hơn

học sinh nữ trong cùng một độ tuổi. Tuy nhiên sự chênh lệch không đồng đều ở các

độ tuổi. Cụ thể, ở tuổi 12, trung bình dung tích sống của học sinh nam là 2,7 lít, của

học sinh nữ là 2,36 lít, do vậy học sinh nam có dung tích sống lớn hơn học sinh nữ là

0,34 lít và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Ở tuổi 13 có mức chênh

lệch ít hơn về dung tích sống giữa hai giới tính (0,19 lít), sự chênh lệch này có ý nghĩa

thống kê (p<0,05). Ở 14 tuổi, học sinh nam và học sinh nữ có sự chênh lệch ít nhất

về dung tích sống trung bình là 0,12 lít, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa

59

thống kê (p>0,05). Điều này có thể do thời điểm dậy thì của học sinh nữ diễn ra sớm

hơn ở học sinh nam, vì vậy các kích thước của cơ thể tăng như chiều cao, vòng ngực

làm cho dung tích sống của học sinh ở lứa tuổi này tăng nhanh, do đó sự chênh lệch

về dung tích sống của học sinh nam và học sinh nữ giảm. Dung tích sống trung bình

của học sinh nam lớn hơn học sinh nữ nhiều nhất là ở tuổi 15 (0,62 lít) và sự khác

biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Kết quả của các nghiên cứu khác được so sánh

trong bảng 3.24 cho kết quả tương tự.

Bảng 3.24. Dung tích sống (lít) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau

Nguyễn Trần Trần Thị Đỗ Hồng Đào Ngọc GTSH Thị Bích Thị Giới Loan Cường Minh Anh Tuổi Ngọc Thúy tính (2003) (2002) (2009) (2017) (2013) (2014)

12 1,87 2,16 2,20 2,17 2,39 2,70

13 2,19 2,90 2,57 2,47 2,64 2,91 Nam 14 2,64 3,21 3,02 2,94 3,01 3,26

15 3,14 3,26 3,27 3,26 3,49 3,85

12 1,51 2,28 2,12 2,04 2,10 2,36

13 1,87 2,55 2,51 2,48 2,38 2,72 Nữ 14 2,00 2,79 2,72 2,85 2,79 3,14

15 2,17 2,87 2,85 2,89 2,92 3,23

So sánh với kết quả nghiên cứu của Trần Thị Loan (2002) [29], “Các giá trị

sinh học người Việt Nam thập kỷ 90 thế kỷ 20” (2003) [2], Đỗ Hồng Cường (2009)

[5], Nguyễn Thị Bích Ngọc (2013) [36] và Trần Thị Thúy (2014) [44] thì số liệu dung

tích sống trong nghiên cứu này có giá trị lớn hơn ở cả hai giới tính. Điều có thể được

lý giải bởi sự khác biệt về thời gian nghiên cứu, đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội ở

các địa bàn nghiên cứu khác nhau, dẫn tới điều kiện rèn luyện thể chất cũng như chế

độ dinh dưỡng của học sinh ở các khu vực nghiên cứu là khác nhau. Mặt khác, học

sinh trường THCS – THPT Nguyễn Siêu được học tập và rèn luyện trong môi trường

60

có nhiều thuận lợi và được phụ huynh quan tâm, chăm sóc, vì vậy các chỉ số về chiều

cao, cân nặng, số đo các vòng cũng như dung tích sống của học sinh cao hơn ở những

nghiên cứu trước đây.

So sánh dung tích sống của học sinh trong nghiên cứu này với kết quả nghiên

cứu 15 năm trước đây của Trần Thị Loan (2002) [29] trên cùng đối tượng học sinh

với cùng lứa tuổi trong cùng một khu vực nghiên cứu (Quận Cầu Giấy – Hà Nội) thấy

rằng dung tích sống của học sinh có giá trị lớn hơn khoảng 0,85 lít. Mặt khác, so sánh

với số liệu nghiên cứu tại Huyện Sóc Sơn, Hà Nội của Trần Thị Thúy [44] cách đây

3 năm thì kết quả của nghiên cứu này cũng cao hơn. Điều này cho thấy các đặc điểm

về hình thể của học sinh đang được cải thiện rõ rệt so với trước đây.

3.2.2.3. Thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu

Kết quả nghiên cứu thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu của học sinh trường

THCS & THPT Nguyễn Siêu được thể hiện ở bảng 3.25 và hình 3.13.

Bảng 3.25. Thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu (lít) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính

Thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu (lít)

1 -

2 p(1-2)

Nam (1) Nữ (2) Tuổi

n Tăng n Tăng ± SD ± SD

12 31 2,36 ± 0,18 - 39 2,11 ± 0,26 - 0,26 <0,05

13 36 2,55 ± 0,36 0,19 34 2,44 ± 0,23 0,33 0,11 >0,05

14 36 2,82 ± 0,44 0,27 34 2,73 ± 0,35 0,29 0,09 >0,05

15 30 3,32 ± 0,38 0,5 30 2,83 ± 0,28 0,1 0,49 <0,05

Tăng trung bình 0,32 0,24

Dựa vào số liệu bảng 3.25 thấy rằng, thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu

của học sinh tăng dần theo tuổi. Từ 12 đến 15 tuổi, học sinh nam có thể tích khí thở

ra tối đa trong giây đầu tăng từ 2,36 lít lúc 12 tuổi lên 3,32 lít lúc 15 tuổi, tăng thêm

0,96 lít. Học sinh nữ có thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu tăng ít hơn học sinh

61

nam là 0,72 lít từ 12 đến 15 tuổi. Tuy nhiên, tốc độ tăng thể tích khí thở ra tối đa trong

giây đầu của học sinh nam và nữ không đều qua các lứa tuổi. Ở học sinh nam có mức

độ tăng dao động từ 0,19 đến 0,5 lít và mức dao động này là 0,1 đến 0,33 lít đối với

học sinh nữ. Điều này cho thấy tốc độ tăng thể tích khí thở ra trong giây đầu của học

sinh tăng không nhiều trong giai đoạn từ 12 đến 15 tuổi. Đối với học sinh nam, thời

điểm FEV1 tăng nhanh là lúc 15 tuổi, tăng hơn mức trung bình, đạt 0,5 lít/năm. Đối

với học sinh nữ, thời điểm FEV1 tăng nhanh nhất đạt 0,33 lít ở 13 tuổi, sớm hơn học

sinh nam 2 năm. Điều này cho thấy thời điểm FEV1 tăng nhanh ở học sinh nữ trùng

với thời điểm nhảy vọt về chiều cao đứng còn ở học sinh nam diễn ra muộn hơn 1

năm so với thời điểm tăng nhanh về chiều cao đứng.

Mỗi năm, học sinh nam có thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu tăng trung

bình 0,32 lít, học sinh nữ tăng trung bình 0,24 lít. Như vậy, từ 12 đến 15 tuổi, học

sinh nam có tốc độ tăng thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu nhanh hơn học sinh

nữ. Tuy nhiên mức chênh lệch này không đáng kể.

Hình 3.13. Biểu đồ thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu theo tuổi và giới tính

Ngoài ra, thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu của học sinh nam luôn lớn

hơn học sinh nữ trong cùng một độ tuổi, mức chênh lệch là 0,09 đến 0,49 lít. Sự khác

biệt này là ít nhất ở 14 tuổi và nhiều nhất ở 15 tuổi. Tuy nhiên, sự chênh lệch về thể

tích khí thở ra tối đa trong giây đầu theo giới tính chỉ có ý nghĩa thống kê ở lứa tuổi

62

12 và 15 (p<0,05). Hai lứa tuổi còn lại có sự khác biệt theo giới tính không có ý nghĩa

thống kê (p>0,05). Điều này là do thời điểm diễn ra khác nhau của giai đoạn dậy thì,

học sinh nữ có thời kỳ dậy thì đến sớm hơn học sinh nam, do vậy khi các đặc điểm

về hình thể của học sinh nữ dần hoàn thiện thì học sinh nam lại có sự thay đổi mạnh

mẽ về hình thái và thể chất như chiều cao đứng và kích thước lồng ngực, chính vì vậy

tạo nên sự khác biệt ít về FEV1 ở tuổi 14 và sự chênh lệch lớn ở tuổi 15. Số liệu

nghiên cứu của Trần Thị Thúy [44] cũng cho kết quả tương tự.

Bảng 3.26. Thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu (lít) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau

Đỗ Hồng Nguyễn Thị Trần Thị Đào Ngọc GTSH Giới Cường Bích Ngọc Thúy Minh Anh Tuổi tính (2003) (2009) (2013) (2014) (2017)

1,98 12 1,81 1,79 2,08 2,36

2,55 13 2,13 2,06 2,30 2,55 Nam 2,83 14 2,60 2,43 2,64 2,82

3,20 15 2,80 2,76 3,01 3,32

2,11 12 1,80 1,68 1,78 2,11

2,38 13 2,08 2,10 2,02 2,44 Nữ 2,55 14 2,28 2,35 2,40 2,73

2,56 15 2,42 2,43 2,47 2,83

So sánh với số liệu FEV1 của học sinh từ 12 đến 15 tuổi trong nghiên cứu của

Đỗ Hồng Cường (2009) [5], Nguyễn Thị Bích Ngọc (2013) [36] và Trần Thị Thúy

(2014) [44] thì giá trị FEV1 trong nghiên cứu này đều có giá trị lớn hơn. Điều này cho

thấy điều kiện chăm sóc sức khỏe và phát triển hình thể của học sinh ngày càng tốt

hơn. Đặc biệt đối với học sinh sinh sống tại khu vực thành phố Hà Nội có nhiều thuận

lợi hơn khu vực ngoại thành Hà Nội và các địa bàn nghiên cứu khác trong khu vực

miền Bắc. Tuy nhiên, so sánh với kết quả nghiên cứu về FEV1 của Bộ Y tế [2] thấy

63

rằng, chỉ số FEV1 trong nghiên cứu này có giá trị tương đương ở lứa tuổi 13, 14, 15

đối với học sinh nam và lứa tuổi 12 ở học sinh nữ. Các kết quả FEV1 ở những lứa

tuổi khác đều có giá trị lớn hơn. Điều này chứng tỏ thể tích khí thở ra tối đa trong

giây đầu của trẻ không thay đổi nhiều so với trước đây. Tuy nhiên, vẫn cần thực hiện

nghiên cứu trên những đối tượng lớn hơn để kiểm chứng lại nhận định này.

3.2.2.4. Chỉ số Tiffeneau

Kết quả nghiên cứu chỉ số Tiffeneau của học sinh trường THCS & THPT

Nguyễn Siêu được thể hiện ở bảng 3.27 và hình 3.14.

Bảng 3.27. Chỉ số Tiffeneau (%) của học sinh theo lứa tuổi và giới tính

Chỉ số Tiffeneau (%)

1 -

2 p(1-2)

Nam (1) Nữ (2) Tuổi

n Tăng n Tăng ± SD ± SD

12 31 89,18 ± 0,86 - 39 90,36 ± 1,94 - -1,18 <0,05

13 36 89,19 ± 2,01 0,01 34 90,68 ± 1,95 0,32 -1,49 <0,05

14 36 87,95 ± 0,89 -1,24 34 87,63 ± 0,89 -3,05 0,32 >0,05

15 30 87,23 ± 1,06 -0,72 30 88,13 ± 1,80 0,5 -0,9 <0,05

Tăng trung bình -0,65 -0,74

Các số liệu trên bảng 3.27 cho thấy, chỉ số Tiffeneau của học sinh có sự biến

động theo lứa tuổi. Tuy nhiên hầu như không có sự khác biệt nhiều giữa các nhóm

tuổi trong cùng một giới. Chỉ số này của học sinh nam thay đổi trong khoảng từ

87,23% đến 89,19%, trong đó, chỉ số Tiffeneau cao nhất ở 13 tuổi và thấp nhất ở 15

tuổi. Từ 12 đến 13 tuổi, học sinh nam có chỉ số Tiffeneau tăng không đáng kể là

0,01%. Ở các giai đoạn còn lại chỉ số Tiffeneau giảm, trong đó giai đoạn 13 đến 14

tuổi giảm nhiều nhất là 1,24%. Chỉ số Tiffeneau của học sinh nam giảm trung bình

0,65% mỗi năm. Từ 12 đến 15 tuổi, chỉ số Tiffeneau ở học sinh nữ dao động từ

88,13% đến 90,68%. Tương tự như học sinh nam, chỉ số này của học sinh nữ cao nhất

ở 13 tuổi và thấp nhất ở 15 tuổi. Giai đoạn từ 12 đến 13 tuổi và giai đoạn từ 14 đến

64

15 tuổi, học sinh nữ có chỉ số Tiffeneau tăng, trong đó tăng nhiều nhất là giai đoạn từ

14 đến 15 tuổi (tăng 0,5%). Chỉ số Tiffeneau của học sinh nữ giảm trong giai đoạn từ

13 đến 14 tuổi là 3,05%. Trung bình mỗi năm chỉ số này giảm 0,74% ở học sinh nữ.

Như vậy trong giai đoạn từ 12 đến 15 tuổi, chỉ số Tiffeneau trung bình của học

sinh nữ giảm nhiều hơn học sinh nam, tuy nhiên sự chênh lệch không đáng kể (giảm

0,74%/năm ở học sinh nữ và 0,65%/năm ở học sinh nam).

Trong cùng một độ tuổi, học sinh nam cũng có sự khác biệt với học sinh nữ.

Cụ thể, ở các lứa tuổi 12, 13 và 15 tuổi, học sinh nam có chỉ số Tiffeneau thấp hơn

học sinh nữ trong biên độ từ 0,9 đến 1,49%. Sự khác biệt này theo giới tính có ý nghĩa

thống kê ở 12, 13 và 15 tuổi (p<0,05). Chỉ số Tiffeneau của học sinh nam và học sinh

nữ ở 14 tuổi không có sự khác biệt (p>0,05).

Hình 3.14. Biểu đồ chỉ số Tiffeneau của học sinh theo lứa tuổi và giới tính

So sánh với số liệu trong “Các giá trị sinh học người Việt Nam thập kỷ 90 thế

kỷ 20” [2] thấy rằng, chỉ số Tiffeneau của học sinh trong nghiên cứu này hầu hết có

giá trị thấp hơn. Điều này là do giá trị FEV1 của học sinh tương đương trong cả hai

nghiên cứu, mặt khác, giá trị dung tích sống trong nghiên cứu này có giá trị cao hơn.

So với kết quả trong nghiên cứu của Đồ Hồng Cường (2009) [5], Nguyễn Thị Bích

Ngọc (2013) [36] và Trần Thị Thúy (2014) [44] thì chỉ số Tiffeneau trong nghiên cứu

này có giá trị cao hơn do sự khác biệt phụ thuộc giá trị dung tích sống và thể tích khí

65

thở ra tối đa trong giây đầu của các nghiên cứu khác nhau.

Bảng 3.28. Chỉ số Tiffeneau (%) của học sinh theo nghiên cứu của các tác giả khác nhau

Đỗ Hồng Trần Thị Nguyễn Thị Đào Ngọc Giới GTSH Cường Thúy Tuổi Bích Ngọc Minh Anh tính (2003) (2013) (2017) (2009) (2014)

12 91,51 84,15 83,13 87,13 89,18

13 88,23 83,45 83,48 87,19 89,19 Nam 14 88,30 86,34 82,63 87,71 87,95

15 88,44 85,72 84,72 86,22 87,23

12 92,81 85,20 82,52 84,79 90,36

13 92,24 82,49 84,71 84,84 90,68 Nữ 14 91,19 83,97 82,55 86,02 87,63

15 90,43 84,75 84,43 84,56 88,13

3.3. Mối tương quan giữa một số chỉ số hình thái và chức năng sinh lý của học

sinh

Cơ thể con người là một khối thống nhất, toàn vẹn. Vì vậy, giữa các chỉ số

hình thái và sinh lý có mối tương quan với nhau. Nghiên cứu này tiến hành xác định

mối tương quan giữa ba chỉ số hình thái là chiều cao đứng, cân nặng và vòng ngực

bình thường với ba chỉ số chức năng của hệ tuần hoàn là tần số tim, huyết áp tâm thu,

huyết táp tâm trương, cùng với ba chỉ số chức năng thông khí phổi là tần số hô hấp,

dung tích sống VC và thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu FEV1.

Mối tương quan giữa một số chỉ số hình thái và chức năng sinh lý của học sinh

được xác định thông qua hệ số tương quan Pearson (r) và phương trình hồi quy có

dạng: y = ax + b. Trong đó: y là biến phụ thuộc, x là biến độc lập và b là hằng số của

66

đường hồi quy. Dựa vào các số liệu nghiên cứu, xác định phương trình hồi quy thể

hiện mối tương quan của mỗi chỉ số hình thái và chức năng sinh lý của học sinh như

sau:

- Mối tương quan giữa chỉ số chiều cao đứng và chức năng sinh lý của học

sinh được xác định với phương trình: y = aH + b, trong đó H là biến chiều cao đứng.

- Mối tương quan giữa chỉ số cân nặng và chức năng sinh lý của học sinh được

xác định với phương trình: y = aW + b, trong đó W là biến cân nặng.

- Mối tương quan giữa chỉ số vòng ngực bình thường và chức năng sinh lý của

học sinh được xác định với phương trình: y = aT + b, trong đó T là biến vòng ngực

bình thường.

Đồng thời xác định R2 Linear để đánh giá mức độ phù hợp của mô hình xây

dựng với tập dữ liệu nghiên cứu.

3.3.1. Tương quan giữa chiều cao đứng với một số chỉ số chức năng hệ tuần

hoàn

Kết quả nghiên cứu hệ số tương quan và phương trình hồi quy thể hiện sự

tương quan giữa chiều cao đứng với một số chỉ số chức năng tuần hoàn của học sinh

nam và nữ trường THCS & THPT Nguyễn Siêu được thể hiện trong bảng 3.29.

Bảng 3.29. Phương trình hồi quy của các chỉ số tuần hoàn với chiều cao đứng

Nam Nữ Chỉ số Phương trình hồi quy r Phương trình hồi quy r

Tần số tim -2,386H + 362,827 -0,903 -1,500H + 290,448 -0,835

Huyết áp tâm 2,053H – 57,775 0,991 1,816H – 35,203 0,947 thu

Huyết áp tâm 2,266H + 10,467 0,977 2,135H + 17,701 0,946 trương

Dựa vào các phương trình hồi quy trong bảng 3.29 cho thấy, các giá trị hệ số

chiều cao đứng ở học sinh nam cao hơn ở học sinh nữ. Điều này chứng tỏ các giá trị

chức năng hệ tuần hoàn ở học sinh nam liên quan với chiều cao đứng nhiều hơn so

67

với học sinh nữ.

3.3.1.1. Tương quan giữa chiều cao đứng với tần số tim

Kết quả nghiên cứu cho thấy, hệ số tương quan giữa chiều cao đứng với tần số

tim của học sinh có giá trị âm (r = -0,798). Điều này chứng tỏ, đây là mối tương quan

nghịch (r < 0), nghĩa là khi chiều cao đứng của học sinh tăng thì tần số tim có xu

hướng giảm. Hệ số tương quan nằm trong khoảng 0,6 ≤ | r | ≤ 0,8, vậy mối tương

quan giữa chiều cao đứng và tần số tim ở mức mạnh và có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Điều này phù hợp với sự phát triển, hoàn thiện về các chỉ số hình thái thì cấu trúc và

chức năng của tim cũng hoàn thiện, buồng tim to hơn, cơ tim ngày càng khỏe, sức

chứa máu của tim tăng lên, lực co tim mạnh nên tần số tim có xu hướng giảm. Hơn

nữa, mối tương quan này chặt chẽ, do đó sự gia tăng về chiều cao đứng có tương quan

mật thiết với sự giảm của tần số tim. Chiều cao đứng giải thích được 63,7% (R2 =

0,637) sự thay đổi về tần số tim.

Ngoài ra, số liệu bảng 3.29 cho thấy, mức độ tương quan giữa chiều cao đứng

của học sinh nam và tần số tim (r = -0,903) mạnh hơn ở học sinh nữ (r = -0,835).

Hình 3.15. Biểu đồ mối tương quan giữa chiều cao đứng với tần số tim của học sinh

68

3.3.1.2. Tương quan giữa chiều cao đứng với huyết áp tâm thu

Hình 3.16. Biểu đồ mối tương quan giữa chiều cao đứng với huyết áp tâm thu của học sinh

Kết quả nghiên cứu cho thấy, hệ số tương quan giữa chiều cao đứng với huyết

áp tâm thu của học sinh có giá trị r = 0,958, đây là mối tương quan thuận (r > 0). Điều

này cho thấy, học sinh từ 12 đến 15 tuổi có mức độ tăng trưởng chiều cao lớn thì

huyết áp tâm thu cũng cao. Khi kích thước cơ thể tăng, tim và các chỉ số chức năng

của hệ tuần hoàn cũng phát triển, do đó cơ tim khỏe, buồng tim rộng, lưu lượng máu

tăng nên lượng máu chảy vào động mạch tăng dẫn đến huyết áp tăng. Hơn nữa, sự

tương quan tuyến tính giữa chiều cao đứng và huyết áp tâm thu là rất chặt (| r | > 0,8)

và có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Do vậy, 91,8% khác biệt về huyết áp tâm thu có thể

được giải thích bởi chiều cao đứng của học sinh.

Mức độ tương quan giữa chiều cao đứng của học sinh nam với huyết áp tâm

thu mạnh hơn học sinh nữ.

3.3.1.3. Tương quan giữa chiều cao đứng với huyết áp tâm trương

Kết quả nghiên cứu mối tương quan giữa chiều cao đứng với huyết áp tâm

trương của học sinh trường THCS & THPT Nguyễn Siêu được thể hiện qua biểu đồ

hình 3.17. Số liệu qua nghiên cứu cho thấy, hệ số tương quan giữa chiều cao đứng và

huyết áp tâm trương có giá trị dương, r = 0,962. Điều này chứng tỏ đây là mối tương

69

quan thuận (r > 0) và ở mức mạnh (| r | > 0,8). Do vậy, từ 12 đến 15 tuổi, chiều cao

đứng của học sinh tăng thì huyết áp tâm trương cũng có xu hướng tăng. Điều này

được giải thích tương tự trong mối tương quan giữa huyết áp tâm thu và chiều cao

đứng của học sinh. Nghiên cứu xác định được R2 Linear = 0,925, vậy mô hình hồi

quy tuyến tính được xây dựng phù hợp với tập dữ liệu đến mức 92,5% và sự tương

quan này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). So sánh giữa học sinh nàm và học sinh nữ

cho thấy tần số tim của học sinh nam liên quan nhiều với chiều cao hơn học sinh nữ.

Hình 3.17. Biểu đồ mối tương quan giữa chiều cao đứng với huyết áp tâm trương của học sinh

3.3.2. Tương quan giữa cân nặng với một số chỉ số chức năng hệ tuần hoàn

Kết quả nghiên cứu sự tương quan giữa cân nặng với một số chỉ số chức năng

tuần hoàn của học sinh nam và nữ trường THCS & THPT Nguyễn Siêu được thể hiện

trong bảng 3.30.

Số liệu bảng 3.30 cho thấy, tần số tim ở nữ có giá trị phụ liên quan với cân

nặng nhiều hơn ở nam. Giá trị hệ số cân nặng ở phương trình tuyến tính với hai chỉ

số huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương ở học sinh nam đều cho kết quả cao hơn

học sinh nữ. Vì vậy, học sinh nam có cân nặng và chỉ số huyết áp tương quan chặt

chẽ với nhau hơn học sinh nữ.

70

Bảng 3.30. Phương trình hồi quy của các chỉ số tuần hoàn với cân nặng

Nam Nữ Chỉ số Phương trình hồi quy r Phương trình hồi quy r

Tần số tim -0,551W + 112,976 -0,847 -0,574W + 116,984 -0,782

Huyết áp tâm 0,829W + 64,324 0,999 0,635W + 75,338 0,924 thu

Huyết áp tâm 0,736W + 28,871 0,996 0,531W + 39,727 0,909 trương

3.3.2.1. Tương quan giữa cân nặng với tần số tim

Hình 3.18. Biểu đồ mối tương quan giữa cân nặng với tần số tim của học sinh

Kết quả nghiên cứu cho thấy, hệ số tương quan giữa cân nặng với tần số tim

của học sinh có giá trị âm (r = -0,82). Điều này chứng tỏ, đây là mối quan nghịch (r

< 0), vậy cân nặng của học sinh càng tăng thì tần số tim có xu hướng càng giảm. Hệ

số tương quan có giá trị | r | > 0,8, do đó cân nặng và tần số tim có mối tương quan

mạnh và có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Như vậy, trong giai đoạn từ 12 đến 15 tuổi,

tốc độ tăng trưởng cân nặng của học sinh càng nhanh thì tần số tim giảm càng nhiều.

Tương tự với sự lý giải mối tương quan giữa chiều cao đứng với tần số tim, tuy nhiên

71

chiều cao đứng chỉ giải thích được 63,7% sự khác biệt về tần số tim giữa các cá thể

nghiên cứu, còn mối liên quan giữa cân nặng và tần số tim được xây dựng có sự phù

hợp hơn với tập dữ liệu là 67,2%.

Học sinh nam có mức độ tương quan rất chặt chẽ giữa cân nặng và tần số tim

(r = -0,847), trong khi mức tương quan này là tương đối chặt (r = -0,782) ở học sinh

nữ.

3.3.2.2. Tương quan giữa cân nặng với huyết áp tâm thu

Kết quả nghiên cứu thể hiện trong biểu đồ 3.19 cho thấy, hệ số tương quan

giữa cân nặng với huyết áp tâm thu của học sinh có giá trị r = 0,916, đây là mối tương

quan thuận (r > 0). Đồng thời, đây là mối tương quan mạnh (| r | > 0,8) và có ý nghĩa

thống kê (p<0,05). Điều này cho thấy, học sinh từ 12 đến 15 tuổi có mức độ tăng

trưởng cân nặng cao thì huyết áp tâm thu cũng tăng cao. Do trong quá trình phát triển

của trẻ, khối lượng cơ thể tăng, sức bóp cơ tim càng lớn thì huyết áp tâm thu càng

tăng. Hơn nữa, hệ số được xác định R2 = 0,839, cho thấy sự khác biệt của tần số tim

được giải thích bởi cân nặng lên tới 83,9%.

Hình 3.19. Biểu đồ mối tương quan giữa cân nặng với huyết áp tâm thu của học sinh

Tần số tim ở học sinh nam và học sinh nữ đều có mức độ tương quan cao với

cân nặng. Tuy nhiên, mức độ tương quan ở học sinh nam chặt hơn học sinh nữ với

72

phương trình tuyến tính lần lượt là: y = 0,829W + 64,324 và y = 0,635W + 75,338.

3.3.2.3. Tương quan giữa cân nặng với huyết áp tâm trương

Kết quả nghiên cứu mối tương quan giữa cân nặng với huyết áp tâm trương

của học sinh trường THCS & THPT Nguyễn Siêu được thể hiện qua biểu đồ hình

3.20. Số liệu qua nghiên cứu cho thấy, hệ số tương quan giữa cân nặng và huyết áp

tâm trương có giá trị dương, r = 0,93. Điều này chứng tỏ đây là mối tương quan thuận

(r > 0) và ở mức mạnh (| r | > 0,8). Do vậy, từ 12 đến 15 tuổi, cân nặng của học sinh

tăng thì huyết áp tâm trương cũng có xu hướng tăng. Điều này có thể do cân nặng cơ

thể tăng, sức bóp cơ tim càng lớn, sức cản thành mạch hay sức đàn hồi thành mạch

càng lớn thì huyết áp tâm trương càng tăng. Mối tương quan giữa cân nặng và huyết

áp tâm trương là rất mạnh và có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Đồng thời mô hình tuyến

tính được xây dựng phù hợp với tập dữ liệu đến mức 86,5%, sự khác biệt giữa các cá

thể về huyết áp tâm trương được giải thích bởi cân nặng chặt chẽ hơn là huyết áp tâm

thu (83,9%).

Phương trình tuyến tính giữa cân nặng và huyết áp tâm trương của học sinh

nam và nữ lần lượt là 0,736W + 28,871 và 0,531W + 39,727.

73

Hình 3.20. Biểu đồ mối tương quan giữa cân nặng với huyết áp tâm trương của học sinh

3.3.3. Tương quan giữa vòng ngực bình thường với một số chỉ số chức năng hệ

tuần hoàn

Kết quả nghiên cứu sự tương quan giữa vòng ngực bình thường với một số chỉ

số chức năng tuần hoàn của học sinh trường THCS & THPT Nguyễn Siêu được thể

hiện trong bảng 3.31.

Bảng 3.31. Phương trình hồi quy của các chỉ số tuần hoàn với vòng ngực bình thường

Nam Nữ Chỉ số Phương trình hồi quy r Phương trình hồi quy r

Tần số tim -0,740T + 143,965 -0,788 -0,788 + 151,176 -0,937

Huyết áp tâm 1,175T + 12,973 0,980 0,782T + 44,381 0,993 thu

Huyết áp tâm 1,961T – 18,110 0,992 0,665T + 12,970 0,994 trương

Số liệu bảng 3.31 cho thấy, tần số tim ở nữ có giá trị liên quan với vòng ngực

bình thường nhiều hơn ở nam. Giá trị hệ số vòng ngực bình thường ở phương trình

tuyến tính với hai chỉ số huyết áp ở học sinh nam đều cho kết quả cao hơn học sinh

nữ. Vì vậy, học sinh nam có vòng ngực bình thường và chỉ số huyết áp tương quan

chặt chẽ với nhau hơn học sinh nữ.

3.3.3.1. Tương quan giữa vòng ngực bình thường với tần số tim

Kết quả nghiên cứu cho thấy, hệ số tương quan giữa vòng ngực bình thường

với tần số tim của học sinh có giá trị âm (r = -0,811). Điều này chứng tỏ, đây là mối

quan nghịch (r < 0), vậy vòng ngực bình thường của học sinh càng tăng thì tần số tim

có xu hướng càng giảm. Hệ số tương quan có giá trị | r | > 0,8, do vậy, vòng ngực

bình thường và tần số tim có mối tương quan mạnh và có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Như vậy, trong giai đoạn từ 12 đến 15 tuổi, vòng ngực bình thường của học sinh càng

tăng thì tần số tim giảm càng nhiều. Điều này cho thấy cùng với chiều cao đứng và

khối lượng cơ thể tăng thì vòng ngực bình thường của học sinh cũng tăng, khi đó kích

74

thước lồng ngực lớn hơn để chứa được tim phát triển, làm thay đổi kích thước vòng

ngực bình thường. Như vậy vậy, các chỉ số hình thái hoàn thiện về cấu trúc thì chức

năng của tim hoàn thiện hơn, dó đó tần số tim có xu hướng giảm. Ngoài ra, nghiên

cứu xác định được R2 = 0,658, nghĩa là 65,8% sự khác biệt về tần số tim giữa các cá

thể có thể được giải thích bởi vòng ngực bình thường.

Hệ số tương quan ở học sinh nam r = -0,788 và ở nữ là -0,937, điều này cho

thấy mức độ tương quan giữa vòng ngực bình thường và tần số tim ở nữ mạnh hơn

so với học sinh nam.

Hình 3.21. Biểu đồ tương quan giữa vòng ngực bình thường với tần số tim của học sinh

3.3.3.2. Tương quan giữa vòng ngực bình thường với huyết áp tâm thu

Kết quả nghiên cứu thể hiện trong biểu đồ 3.21 cho thấy, hệ số tương quan

giữa vòng ngực bình thường với huyết áp tâm thu của học sinh có giá trị r = 0,955,

đây là mối tương quan thuận (r > 0). Vòng ngực bình thường và huyết áp tâm thu có

mối tương quan mạnh (| r | > 0,8) và có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Điều này cho thấy,

học sinh từ 12 đến 15 tuổi có mức độ tăng trưởng vòng ngực bình thường cao thì

huyết áp tâm thu cũng tăng cao. Điều này tương tự với sự tăng lên về chiều cao đứng

75

và cân nặng của học sinh.

Phương trình tuyến tính giữa huyết áp tâm thu và vòng ngực bình thường của

học sinh nam là y = 1,175T + 12,973 và học sinh nữ là y = 0,782T + 44,381. Điều

này cho thấy huyết áp tâm thu của học sinh nữ ít liên quan với vòng ngực bình thường

hơn học sinh nam.

Hình 3.22. Biểu đồ tương quan giữa vòng ngực bình thường với huyết áp tâm thu của học sinh

3.3.3.3. Tương quan giữa vòng ngực bình thường với huyết áp tâm trương

Kết quả nghiên cứu mối tương quan giữa vòng ngực bình thường và huyết áp

tâm trương của học sinh trường THCS – THPT Nguyễn Siêu được thể hiện qua biểu

đồ hình 3.23. Số liệu qua nghiên cứu cho thấy, hệ số tương quan giữa vòng ngực bình

thường và huyết áp tâm trương có giá trị dương, r = 0,966. Điều này chứng tỏ đây là

mối tương quan thuận và rất chặt chẽ (r >0, | r | > 0,8). Do vậy, từ 12 đến 15 tuổi,

vòng ngực bình thường của học sinh tăng thì huyết áp tâm trương cũng có xu hướng

tăng. Mối tương quan này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Điều này tương tự như mối

76

tương quan giữa huyết áp tâm thu và vòng ngực bình thường.

Hình 3.23. Biểu đồ tương quan giữa vòng ngực bình thường với huyết áp tâm trương của học sinh

3.3.4. Tương quan giữa chiều cao đứng với một số chỉ số chức năng hô hấp

Kết quả nghiên cứu hệ số tương quan và phương trình hồi quy thể hiện sự

tương quan giữa chiều cao đứng với một số chỉ số chức năng hô hấp của học sinh

trường THCS & THPT Nguyễn Siêu được thể hiện trong bảng 3.32.

Bảng 3.32. Phương trình hồi quy của các chỉ số hô hấp với chiều cao đứng

Nam Nữ Chỉ số Phương trình hồi quy r Phương trình hồi quy r

Tần số hô hấp -13,942H + 434,328 -0,981 -6,517H + 285,964 -0,867

VC 0,064H – 6,968 0,964 0,064H – 6,941 0,990

0,053H – 5,631 0,962 0,051H – 5,405 0,994 FEV1

Số liệu bảng 3.32 cho thấy, các phương trình hồi quy giữa các chỉ số chức

năng hô hấp với chiều cao đứng ở học sinh nam đều có giá trị hệ số lớn hơn ở nữ.

Điều này chứng tỏ các chỉ số chức năng hô hấp ở học sinh nam liên quan với chiều

77

cao đứng nhiều hơn học sinh nữ.

3.3.4.1. Tương quan giữa chiều cao đứng với tần số hô hấp

Kết quả nghiên cứu cho thấy, hệ số tương quan giữa chiều cao đứng với tần số

hô hấp của học sinh có giá trị âm (r = -0,883). Điều này chứng tỏ, đây là mối tương

quan nghịch (r < 0), vậy chiều cao đứng của học sinh càng tăng thì tần số hô hấp có

xu hướng càng giảm. Hệ số tương quan có giá trị | r | > 0,8, do vậy, chiều cao đứng

và tần số hô hấp có mối tương quan mạnh và có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Như vậy,

trong giai đoạn từ 12 đến 15 tuổi, chiều cao đứng của học sinh càng tăng thì tần số

hô hấp càng giảm. Điều này được lý giải do thể tích phổi càng tăng khi trẻ càng lớn,

cơ hoành và cơ liên sườn ngày càng hoàn thiện, thể tích lưu thông khí tăng lên, trong

khi nhu cầu oxy giảm dần là nguyên nhân dẫn đến tần số hô hấp giảm dần. Hơn nữa,

nghiên cứu xác định được khoảng 78% khác biệt về tần số hô hấp giữa các đối tượng

có thể giải thích qua chiều cao đứng.

Số liệu bảng 3.32 cho thấy mức độ tương quan giữa tần số hô hấp và chiều cao

đứng ở học sinh nam(| r | = 0,981) chặt chẽ hơn ở học sinh nữ (| r | = 0,867).

Hình 3.24. Biểu đồ tương quan giữa chiều cao đứng với tần số hô hấp của học sinh

3.3.4.2. Tương quan giữa chiều cao đứng với dung tích sống

Kết quả nghiên cứu thể hiện trong biểu đồ 3.25 cho thấy, hệ số tương quan

giữa chiều cao đứng với dung tích sống của học sinh có giá trị r = 0,97, đây là mối

78

tương quan thuận (r > 0). Chiều cao đứng và dung tích sống có mối tương quan mạnh

(| r | > 0,8) và có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Điều này cho thấy, học sinh từ 12 đến 15

tuổi có mức độ tăng trưởng chiều cao nhiều thì dung tích sống cũng lớn. Kết quả này

là do các chỉ số hình thái phát triển, các cơ quan cũng lớn lên và dần hoàn thiện, điều

này khiến cho thể tích phổi của học sinh tăng, do đó dung tích sống phổi cũng tăng.

Số liệu bảng 3.32 cho thấy mức độ tương quan giữa tần số hô hấp và chiều cao

đứng ở học sinh nam(| r | = 0,929) kém chặt hơn ở học sinh nữ (| r | = 0,979).

Hình 3.25. Biểu đồ tương quan giữa chiều cao đứng với dung tích sống

3.3.4.3. Tương quan giữa chiều cao đứng và thể tích khí thở ra tối đa trong

giây đầu

Kết quả nghiên cứu mối tương quan giữa chiều cao đứng và thể tích khí thở ra

tối đa trong giây đầu của học sinh trường THCS & THPT Nguyễn Siêu được thể hiện

qua biểu đồ hình 3.26. Số liệu qua nghiên cứu cho thấy, hệ số tương quan giữa chiều

cao đứng và thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu có giá trị dương, r = 0,974. Điều

này chứng tỏ đây là mối tương quan thuận (r > 0) và ở mức mạnh (| r | > 0,8). Do vậy,

từ 12 đến 15 tuổi, chiều cao đứng của học sinh tăng thì thể tích khí thở ra tối đa trong

giây đầu cũng có xu hướng tăng. Điều này tương tự tương quan giữa chiều cao đứng

và dung tích sống. Mối tương quan này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Có R2 = 0,949,

79

nghĩa là mô hình tuyến tính được xây dựng phù hợp với tập dữ liệu đến 94,9%.

Hình 3.26. Biểu đồ tương quan giữa chiều cao đứng với thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu của học sinh

3.3.5. Tương quan giữa cân nặng với một số chỉ số chức năng hô hấp

Kết quả nghiên cứu sự tương quan giữa cân nặng với một số chỉ số chức năng

hô hấp của học sinh nam và học sinh nữ trường THCS – THPT Nguyễn Siêu được

thể hiện trong bảng 3.33.

Bảng 3.33. Phương trình hồi quy của các chỉ số hô hấp với cân nặng

Nam Nữ Chỉ số Phương trình hồi quy r Phương trình hồi quy r

Tần số hô hấp -0,121W + 25,748 -0,998 -0,140W + 26,584 -0,796

VC 0,114W – 2,384 0,991 0,08W – 0,778 0,943

FEV1 0,094W – 1,841 0,989 0,066W – 0,465 0,963

Số liệu bảng 3.33 cho thấy, phương trình hồi quy giữa tần số hô hấp với cân

nặng ở học sinh nam và nữ đều có giá trị hệ số âm. Điều này chứng tỏ tần số hô hấp

80

có mối tương quan nghịch với cân nặng của học sinh. Ngược lại, dung tích sống và

thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu đều có tương quan thuận với cân nặng của

học sinh nam và nữ.

3.3.5.1. Tương quan giữa cân nặng với tần số hô hấp

Kết quả nghiên cứu cho thấy, hệ số tương quan giữa cân nặng với tần số hô

hấp của học sinh có giá trị âm (r = -0,869). Điều này chứng tỏ, đây là mối quan

nghịch (r < 0), vậy cân nặng của học sinh càng tăng thì tần số hô hấp có xu hướng

càng giảm. Hệ số tương quan có giá trị | r | > 0,8, do vậy, cân nặng và tần số hô hấp

có mối tương quan mạnh và có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Như vậy, trong giai đoạn

từ 12 đến 15 tuổi, cân nặng của học sinh càng tăng thì tần số hô hấp càng giảm. Sự

khác biệt của tần số hô hấp giữa các đối tượng nghiên cứu được giải thích 75,5% qua

cân nặng. Tuy nhiên sự khác biệt này có sự chênh lệch giữa hai giới tính. Dựa vào

bảng 3.33 thấy rằng mức độ phù hợp giữa mô hình hồi quy được xây dựng và tập dự

liệu ở học sinh nam (R2 = 0,995) cao hơn ở học sinh nữ (R2 = 0,634).

Hình 3.26. Biểu đồ tương quan giữa cân nặng với tần số hô hấp của học sinh

3.3.5.2. Tương quan giữa cân nặng với dung tích sống

Kết quả nghiên cứu thể hiện trong biểu đồ 3.28 cho thấy, hệ số tương quan

81

giữa cân nặng với dung tích sống của học sinh có giá trị r = 0,963, đây là mối tương

quan thuận (r > 0). Cân nặng và dung tích sống có mối tương quan mạnh (| r | > 0,8)

và có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Điều này cho thấy, học sinh từ 12 đến 15 tuổi có

mức độ tăng cân nặng nhiều thì dung tích sống cũng lớn và khoảng 92,7% sự khác

biệt về dung tích sống giữa các cá thể có thể giải thích qua cân nặng.

Bảng 3.33 cho thấy giá trị hệ số trong phương trình hồi quy tuyến tính ở học

sinh nam (a = 0,114) cao hơn học sinh nữ (a = 0,08), điều này chứng tỏ dung tích

sống của học sinh nam liên quan cân nặng nhiều hơn học sinh nữ.

Hình 3.27. Biểu đồ tương quan giữ cân nặng với dung tích sống của học sinh

3.3.5.3. Tương quan giữa cân nặng và thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu

Kết quả nghiên cứu mối tương quan giữa cân nặng và thể tích khí thở ra tối đa

trong giây đầu của học sinh trường THCS & THPT Nguyễn Siêu được thể hiện qua

biểu đồ hình 3.29. Số liệu qua nghiên cứu cho thấy, hệ số tương quan giữa cân nặng

và thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu có giá trị dương, r = 0,967. Điều này chứng

tỏ đây là mối tương quan thuận (r > 0) và ở mức mạnh (| r | > 0,8). Do vậy, từ 12 đến

15 tuổi, cân nặng của học sinh tăng thì thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu cũng

có xu hướng tăng. Mối tương quan này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Điều này tương

82

tự mối tương quan giữa chiều cao đứng với thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu.

Đồng thời số liệu cho kết quả cân nặng giải thích khoảng 93,5% sự khác biệt về FEV1

giữa các cá thể nghiên cứu.

Hình 3.28. Biểu đồ tương quan giữa cân nặng với thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu

3.3.6. Tương quan giữa vòng ngực bình thường với một số chỉ số chức năng hô

hấp

Kết quả nghiên cứu sự tương quan giữa vòng ngực bình thường với một số chỉ

số chức năng hô hấp của học sinh nam và học sinh nữ trường THCS – THPT Nguyễn

Siêu được thể hiện trong bảng 3.34.

Bảng 3.34. Phương trình hồi quy của các chỉ số hô hấp với vòng ngực bình thường

Nam Nữ Chỉ số Phương trình hồi quy r Phương trình hồi quy r

Tần số hô hấp -0,740T + 143,965 -0,788 -0,788 + 151,176 -0,937

VC 1,175T + 12,973 0,980 0,782T + 44,381 0,993

1,961T – 18,110 0,992 0,665T + 12,970 0,994 FEV1

Số liệu bảng 3.34 cho thấy, phương trình hồi quy giữa tần số hô hấp với cân

83

nặng ở học sinh nam và nữ đều có giá trị hệ số âm. Điều này chứng tỏ tần số hô hấp

có mối tương quan nghịch với vòng ngực bình thường của học sinh. Ngược lại, dung

tích sống và thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu đều có tương quan thuận với

vòng ngực bình thưởng của học sinh ở cả hai giới tính.

3.3.6.1. Tương quan giữa vòng ngực bình thường với tần số hô hấp

Kết quả nghiên cứu cho thấy, hệ số tương quan giữa vòng ngực bình thường

với tần số hô hấp của học sinh có giá trị âm (r = -0,962). Điều này chứng tỏ, đây là

mối quan nghịch (r < 0), vậy vòng ngực bình thường của học sinh càng tăng thì tần

số hô hấp có xu hướng càng giảm. Hệ số tương quan có giá trị | r | > 0,8, do vậy, vòng

ngực bình thường và tần số hô hấp có mối tương quan mạnh và có ý nghĩa thống kê

(p<0,05). Như vậy, trong giai đoạn từ 12 đến 15 tuổi, vòng ngực bình thường của học

sinh càng tăng thì tần số hô hấp càng giảm và sự khác biệt về tần số hô hấp giữa các

cá thể nghiên cứu được giải thích qua vòng ngực bình thường khoảng 92,5%. Điều

này là do kích thước vòng ngực tăng cùng với sự tăng lên về thể tích phổi, do vậy tần

số hô hấp giảm.

Hình 3.29. Biểu đồ tương quan giữa vòng ngực bình thường với tần số hô hấp của học sinh

Phương trình hồi quy tuyến tính ở học sinh nam là y = -0,171T + 33,219, ở

84

học sinh nữ là y = -0,192T + 34,889.

3.3.6.2. Tương quan giữa vòng ngực bình thường với dung tích sống

Kết quả nghiên cứu thể hiện trong biểu đồ 3.28 cho thấy, hệ số tương quan

giữa vòng ngực bình thường với dung tích sống của học sinh có giá trị r = 0,945, đây

là mối tương quan thuận (r > 0). Vòng ngực bình thường và dung tích sống có mối

tương quan mạnh (| r | > 0,8) và có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Trong đó học sinh nam

có r = 0,969, học sinh nữ có r = 0,993. Điều này cho thấy, học sinh từ 12 đến 15 tuổi

có kích thước vòng ngực bình thường lớn thì dung tích sống cũng lớn. Như vậy, vòng

ngực bình thường tăng kích thước, thể tích phổi tăng do đó dung tích sống của cơ thể

tăng. Nghiên cứu này xác định được mức độ phù hợp cao giữa mô hình xây dựng và

tệp dữ liệu với R2 = 0,893.

Hình 3.30. Biểu đồ tương quan giữa vòng ngực bình thường và dung tích sống của học sinh

3.3.6.3. Tương quan giữa vòng ngực bình thường và thể tích khí thở ra tối đa

trong giây đầu

Kết quả nghiên cứu mối tương quan giữa vòng ngực bình thường và thể tích

khí thở ra tối đa trong giây đầu của học sinh trường THCS & THPT Nguyễn Siêu

được thể hiện qua biểu đồ hình 3.32. Số liệu qua nghiên cứu cho thấy, hệ số tương

quan giữa vòng ngực bình thường và thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu có giá

85

trị dương, r = 0,943. Điều này chứng tỏ đây là mối tương quan thuận (r > 0) và ở mức

mạnh (| r | > 0,8). Do vậy, từ 12 đến 15 tuổi, vòng ngực bình thường của học sinh

tăng thì thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu cũng có xu hướng tăng. Điều này lý

giải tương tự mối tương quan giữa vòng ngực bình thường và dung tích sống, thể tích

khí phổi tăng thì lượng khí thở ra tối đa trong giây đầu cũng tăng lên. Mối tương quan

này có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Phương trình hồi quy ở học sinh nam và nữ tương ứng lần lượt là y = 0,133T

– 7,612 và y = 0,078T – 3,415.

86

Hình 3.31. Biểu đồ tương quan giữa vòng ngực bình thường và thể tích khí thở ra tối đa trong giây đầu của học sinh

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Kết luận

Học sinh từ 12 đến 15 tuổi có các chỉ số hình thái và chức năng sinh lý hầu

hết tăng dần theo tuổi. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng không đều qua các lứa tuổi.

Thời điểm tăng nhảy vọt ở học sinh nữ thường xuất hiện sớm hơn ở học sinh nam.

1. Một số chỉ số sinh học của học sinh theo lớp tuổi và giới tính:

Chiều cao đứng và cân nặng của học sinh tăng dần theo tuổi. Thời điểm tăng

nhảy vọt chiều cao đứng và cân nặng ở học sinh nam là giai đoạn từ 13 đến 14 tuổi,

muộn hơn học sinh nữ 1 năm.

Các chỉ số vòng đầu, vòng ngực bình thường và vòng mông của học sinh tăng

dần từ 12 đến 15 tuổi. Ngoại trừ vòng mông, các chỉ số vòng đầu, vòng eo, vòng ngực

bình thường ở học sinh nam có giá trị cao hơn học sinh nữ ở cùng lứa tuổi.

Tần số tim của học sinh giảm dần theo lứa tuổi và học sinh nữ có chỉ số này

cao hơn học sinh nam trong một độ tuổi. Huyết áp động mạch của học sinh tăng dần

theo tuổi. Không có sự khác biệt về huyết áp giữa nam và nữ ở các nhóm tuổi.

Tần số hô hấp của học sinh giảm dần theo lứa tuổi và học sinh nữ có chỉ số

này cao hơn học sinh nam trong một độ tuổi. VC và FEV1 của học sinh tăng dần từ

12 đến 15 tuổi. Các thông số này ở học sinh nam có giá trị cao hơn học sinh nữ trong

cùng độ tuổi. Chỉ số Tiffeneau có sự biến động theo lứa tuổi.

2. Mối tương quan giữa các chỉ số hình thái và sinh lý:

Giữa các chỉ số hình thái (chiều cao đứng, cân nặng và vòng ngực bình

thường) với các chỉ số chức năng sinh lý (huyết áp, VC và FEV1) đều có mối tương

quan thuận và rất chặt chẽ (0,8 ≤ | r |≤ 1).

Các chỉ số hình thái nghiên cứu với tần số tim và tần số hô hấp đều có mối

tương quan nghịch (r < 0). Ngoài mối tương quan giữa chiều cao đứng và tần số tim

là mạnh (0,6 < | r |≤ 0,8), mối tương quan giữa các chỉ số còn lại đều rất mạnh (0,8 <

87

| r |≤ 1).

Kiến nghị

Từ kết quả nghiên cứu ở trên, chúng tôi xin đưa ra một số đề nghị sau:

1. Kết quả nghiên cứu các chỉ số hình thái của học sinh từ 12 đến 15 tuổi tại

trường THCS & THPT Nguyễn Siêu tốt hơn so với các nghiên cứu trước đây trong

cùng địa bàn và khác khu vực nghiên cứu. Chính vì vậy cần tăng cường chăm sóc sức

khỏe của học sinh bằng những phương pháp rèn luyện thể dục thể thao và chế độ dinh

dưỡng phù hợp tại nhà trường và gia đình, tạo điều kiện cho trẻ phát triển toàn diện

về thể lực và tinh thần trong lứa tuổi này nói riêng và con người Việt Nam nói chung.

2. Cần có thêm nhiều công trình nghiên cứu để đánh giá thường xuyên các chỉ

số sinh học của trẻ và nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng. Từ đó bổ sung thêm dữ liệu

về sự phát triển của con người Việt Nam trong từng thời kì và tại nhiều khu vực.

Đồng thời là cơ sở đề xuất các chính sách, biện pháp giáo dục nhằm nâng cao chất

88

lượng cuộc sống và sự phát triển thể chất của trẻ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Nguyễn Kỳ Anh (1998), “Một số nhận xét về sự phát triển chiều cao,

cân nặng của học sinh phổ thông Việt Nam trong những năm qua”,

Tuyển tập nghiên cứu khoa học Giáo dục thể chất, sức khoẻ trong

trường học các cấp, NXB Thể dục thể thao, Hà Nội, tr.184-187.

2. Bộ Y tế (2003), Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ 90 thế

kỉ XX, Nxb Y học, Hà Nội.

3. Nguyễn Hữu Chỉnh và cs (1996), “Báo cáo thực hiện điều tra một số chỉ tiêu nhân

trắc ở người Việt Nam trên 7 tuổi ở Hải Phòng”, Chương trình điều tra cơ

bản đặc điểm người Việt Nam thập kỷ 90, Trường Đại học Y Hà Nội.

4. Đỗ Hồng Cường (2007), “Nghiên cứu một số chỉ số sinh lý tuần hoàn và nhóm

máu của học sinh trung học cơ sở các dân tộc thuộc tỉnh Hòa Bình”, Tạp chí

Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 1, tr. 71-75.

5. Đỗ Hồng Cường (2009), Nghiên cứu một số chỉ số sinh học của học sinh THCS các

dân tộc ở tỉnh Hòa Bình, Luận án tiến sĩ sinh học, Đại học Sư phạm Hà Nội.

6. Nguyễn Lân Cường, Bùi Hữu Tiến (2011), Nhân học hình thể.

7. Trần Văn Dần và cs (1996), “Các chỉ tiêu hình thái ở trẻ em lứa tuổi

học sinh”, Những kết quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học

người Việt Nam, NXB Y học, Hà Nội.

8. Trần Văn Dần và cs (1997), “Một số nhận xét về sự phát triển thể lực của học

sinh lứa tuổi 8-14 trên một số vùng dân cư miền Bắc Việt Nam trong thập kỷ

90”, Bàn về đặc điểm tăng trưởng người Việt Nam, Đề tài KN – 07 – 07, Hà

Nội, tr.480-490.

9. Trịnh Bỉnh Dy, Đỗ Đình Hồ, Phạm Khuê, Nguyễn Quang Quyền, Lê Thành Uyên

(1982), Về những thông số sinh học người Việt Nam, NXB khoa học và kỹ

89

thuật, Hà Nội, tr.11-13.

10. Trịnh Bỉnh Dy, Nguyễn Đình Hường, Nguyễn Văn Tường (1996), Nghiên cứu

chức năng phổi từ sau hội nghị hằng số 1972, Kết quả bước đầu nghiên cứu

một số chỉ tiêu sinh học người Việt Nam, NXB Y học, Hà Nội, tr. 134-139.

11. Thẩm Thị Hoàng Điệp và cs (1989), Một số nhận xét về sự phát triển chiều cao,

vòng đầu, vòng ngực của người Việt Nam từ 1 – 55 tuổi, NXB Y học, Hà Nội,

tr. 68 – 71.

12. Thẩm Thị Hoàng Điệp (1992), Đặc điểm hình thái và thể lực của học sinh một

trường phổ thông cơ sở ở Hà Nội, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Y dược, Đại

học Y khoa Hà Nội.

13. Thẩm Thị Hoàng Điệp, Nguyễn Quang Quyền, Vũ Huy Khôi và cs (1996), “Một

số nhận xét về chiều cao, vòng đầu, vòng ngực của người Việt Nam từ 1 đến

55 tuổi”, Kết quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người Việt

Nam, NXB y học, Hà Nội, tr.68-71.

14. Phạm Thị Minh Đức (1998), “Huyết áp động mạch”, Chuyên đề sinh lý học Bộ

môn Sinh lý học trường Đại học Y Hà Nội, NXB Y học, Hà Nội, tr.51-61.

15. Goran A, Nguyễn Công Khanh và cs (1996), “Các chỉ tiêu hình thái trẻ

em lứa tuổi học sinh trường Thành Công A, Đống Đa, Hà Nội”, Kết

quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người Việt Nam,

NXB Y học, Hà Nội, tr.26.

16. Trần Long Giang, Mai Văn Hưng (2012), “Đặc điểm các dấu hiệu dậy thì của hoc

sinh theo vùng sinh thái”. Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, tập 28,

số 1, 2012.

17. Trần Long Giang, Mai Văn Hưng (2012), “Nghiên cứu một số chỉ số sinh học

trung học cơ sở Hà Nội và những định hướng giáo dục trong nhà trường”, Đề

tài khoa học cấp thành phố Hà Nội.

18. Nguyễn Đức Hồng (1996), “Đặc điểm nhân trắc hình thái người Việt trong lớp

tuổi lao động giai đoạn 1981-1985”, Kết quả bước đầu nghiên cứu một số chỉ

90

tiêu sinh học người Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội, tr.63-67.

19. Mai Văn Hưng (2003), Nghiên cứu một số chỉ số sinh học và năng lực

trí tuệ của sinh viên ở một số trường đại học phía bắc Việt Nam, Luận

án Tiến sĩ Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

20. Mai Văn Hưng, Ngô Thị Phương Thanh, Hà Thị Hương (2012), “Nghiên cứu một

số đặc điểm hình thái tuổi dậy thì của học sinh Trung học cơ sở tại Hà Nội”,

Tạp chí khoa học. ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28, Số 1S (2012)

tr. 98-104.

21. Mai Văn Hưng và cs (2013), “Nghiên cứu một số chỉ số hình thái của học sinh từ

6 đến 17 tuổi tại tỉnh Yên Bái”, Tạp chí Y học Việt Nam, tập 411, số đặc

biệt/2013.

22. Mai Văn Hưng, Trần Văn Thế, Lâm Bá Nam (2014), “Nghiên cứu các chỉ số

nhân trắc của người Việt Nam theo vùng sinh thái”, đề tài số IV 1.3-2011.24.

23. Võ Hưng (chủ biên) (1991), Atlas nhân trắc học người Việt Nam trong lứa tuổi

lao động, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

24. Đoàn Văn Huyền, Phạm Thị Minh Đức, Nguyễn Văn Khoan và cs (2001) “Nghiên

cứu về nhiệt độ thoải mái và đáp ứng của cơ thể người khi thay đổi nhiệt độ

môi trường”. Tạp chí Sinh lý học, (5), N03 12/2001, tr.38-46.

25. Nguyễn Khải và cs (1978), “Tình hình thể lực của học sinh phổ thông,

thành phố Huế (từ 16-18 tuổi)”, Hình thái học, tập 9, (1), tr.1-28.

26. Đào Huy Khuê (1991), Đặc điểm về kích thước hình thái, về sự tăng trưởng và

phát triển cơ thể của học sinh phổ thông 6 – 17 tuổi (thị xã Hà Đông, tỉnh Hà

Sơn Bình), Luận án Phó tiến sĩ Sinh học, Đại học Tổng hợp Hà Nội.

27. Tạ Thúy Lan, Đàm Thị Sào (1998), “Sự phát triển thể lực của học sinh một số

trường tiểu học và trung học cơ sở ở Hà Tây”, Thông báo khoa học, Trường

Đại học Sư phạm, Đại học Quốc Gia Hà Nội, (6), tr.91-96.

28. Trần Thị Loan (2001), “Nghiên cứu nhịp tim của học sinh tại một số trường phổ

91

thông thuộc thành phố Hà Nội”, Tạp chí Sinh học số 4, tập 3b, tr. 155-158.

29. Trần Thị Loan (2002), Nghiên cứu chỉ số thể lực và năng lực trí tuệ của học sinh

từ 6 – 17 tuổi tại quận Cầu Giấy – Hà Nội, Luận án tiến sỹ Sinh học, trường

Đại học Sư phạm Hà Nội.

30. Trần Đình Long và cs (1996), “Nghiên cứu sự phát triển cơ thể lứa tuổi

đến trường phổ thông (6 - 18 tuổi)”, Đề tài thuộc nhánh dự án “Nghiên

cứu các chỉ số sinh học người Việt Nam thập kỷ 90”.

31. Trần Đình Long và cs (1998), “Nghiên cứu đặc điểm sự phát triển cơ thể thanh

thiếu niên”, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học, Tập 1, NXB Y học, Hà

Nội.

32. Đào Mai Luyến (2001), Nghiên cứu một số chỉ số sinh học của người Êđê và

người kinh định cư ở Đắc Lắc, Luận án Tiến sĩ Y học, Học viện Quân Y Hà

Nội.

33. Nguyễn Quang Mai, Nguyễn Thị Lan (1998), Nghiên cứu một số chỉ tiêu về thể

lực và sinh lý tuổi dậy thì của các em trai, gái thuộc một số dân tộc ít người

tại Vĩnh Phúc và Phú Thọ - Đề tài cấp Bộ, mã số:CHI2.00032-H,1998,TR.17.

34. Nguyễn Văn Mùi, Tô Như Khuê (2001), “Nghiên cứu một số chỉ số hình thái thể

lực của vận động viên các đội tuyển bóng đá Hải Phòng”, Tạp chí sinh lí học,

(5), N03 12/2001, tr.46-52.

35. Nguyễn Văn Mùi (2002), Nghiên cứu hình thái – thể lực và chức năng một số cơ

quan ở vận động viên thành tích cao tại Hải Phòng, Luận án Tiến sĩ Y học,

học viện Quân y, Hà Nội.

36. Nguyễn Thị Bích Ngọc (2013), Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học và năng lực

trí tuệ của học sinh miền núi từ 11 đến 17 tuổi tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ,

Luận án Tiến sĩ Sinh học, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.

37. Nguyễn Quang Quyền, Lê Gia Vinh (1975), “Nghiên cứu các kích

thước và chỉ số thể lực của cư dân một xã đồng bằng tỉnh Hà Tây”, Y

92

học Việt Nam, (3), tr.22-32.

38. Nguyễn Quang Quyền, Lê Gia Vinh (1975), “Sự tương quan giữa các

chỉ số thể lực Pignet và QVC với khối mỡ, khối nạc và một số kích

thước khác”, Y học Việt Nam, (4),tr.8-13.

39. Nguyễn Quang Quyền, Lê Gia Vinh và cs (1976), “Tình hình thể lực

nông dân xã Duyên Thái (Hà Tây)”, Một số công trình điều tra cơ bản

về sức khoẻ người Việt Nam, Trường Đại học Y khoa Hà Nội, tr.32-48.

40. Nguyễn Quang Quyền (1984), Nhân trắc học và sự ứng dụng nghiên cứu trên

người Việt Nam, nhà xuất bản Y học Hà Nội.

41. Hoàng Thu Soan (2011), Nghiên cứu một số chỉ số sinh học của học sinh lứa tuổi

12 đến 16 ở Thái Nguyên năm 2010 – 2013, Luận án Tiến sĩ Y học, Học viện

Quân Y.

42. Hoàng Quý Tỉnh, Nghiên cứu đặc điểm nhân trắc của học sinh dân tộc thiểu số

tỉnh Yên Bái, Luận án tiến sĩ Sinh học.

43. Nghiêm Xuân Thăng (1993), Ảnh hưởng của môi trường nóng khô và nóng ẩm

lên một số chỉ tiêu sinh lý ở người và động vật, Luận án Phó tiến sĩ Sinh học,

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

44. Trần Thị Thúy (2014), Nghiên cứu một số chỉ số hình thái và hô hấp của học sinh

trường trung học cơ sở Nam Sơn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, Luận

văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.

45. Trần Trọng Thuỷ chủ biên (2006), Các chỉ số cơ bản về sinh lý và tâm lý học sinh

phổ thông hiện nay, Trung tâm Tâm lý học và Sinh lý lứa tuổi, Viện Chiến

lược và Chương trình Giáo dục, NXB Giáo dục, Hà Nội.

46. Lê Nam Trà, Nguyễn Văn Tường và cs (1994), Bàn về đặc điểm sinh thể con

người Việt Nam, Đề tài KX-07-07, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

47. Lê Nam Trà, Trần Đình Long (1997), “Tăng trưởng trẻ em”, Bàn về đặc điểm

93

tăng trưởng người Việt Nam, Đề tài KX-07-07, Hà Nội, tr.6-36.

48. Trần Đỗ Trinh (1996), “Trị số huyết áp động mạch người Việt Nam”, Kết quả

bước đầu nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người Việt Nam, NXB Y học,

Hà Nội, tr.146-150.

49. Nguyễn Tấn Gi Trọng, Vũ Triệu An, Trần Thị Ân và cs (1975), Hằng số sinh học

người Việt Nam, Nhà xuất bản Y học.

50. Trần Anh Tuấn (2014), Nghiên cứu hình thái, cảm xúc và chỉ số vượt khó của học

sinh hai trường THCS, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, Luận văn thạc sĩ,

Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – ĐHQGHN.

51. Viện Nghiên Chiến lược và chương trình giáo dục (2006), Các chỉ số cơ bản về

sinh lí và tâm lý học sinh phổ thông hiện nay, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

52. Đoàn Yên, Trịnh Bỉnh Dy và cs (1993), Biến động một số thông số hình thái và

sinh lý trong quá trình phát triển cá thể, Kỷ yếu về lão khoa, Viện Bảo vệ sức

khỏe người cao tuổi, Hà Nội, tr.491-518.

53. Nguyễn Yên và cs (1997), Nghiên cứu đặc trưng hình thái, sự tăng trưởng và

phát triển cơ thể của người Việt Nam (người Kinh và một số dân tộc ít người)

và mối quan hệ giữa họ với môi trường sinh thái (ở các tỉnh phía Bắc), Đề tài

KX-07-07, Bàn về đặc điểm tăng trưởng người Việt Nam, NXB Khoa học và

Kỹ thuật, tr. 504-510.

Tiếng Anh

54. Berstein L., D’silva J. L & Meldel, D. (1952), “The effect of rate of breathing on

the maxcimun breathing capacity detemined with a new spirometer”, Thorax,

7, pp. 225.

55. Bernstein L. (1967), “Respiration”, Am. Rev. Physiol, (29), pp.29-34.

56. Camphell E.J.M. (1968), “Respiration”, Am. Rev. Physiol, (30), pp.105-119.

57. Cardoso HF, Caninas M. (2010), “Secular trends in social class differences of

height, weight and BMI of boys from two schools in Lisbon, Portugal” (1910-

94

2000), Econ Hum Biol, 8(1), pp. 111-20.

58. Cotes J.E. (1968), “Lung funtion Assessment and Application in Medicine”, 2nd

edition, Balckwell Scientific Publication, Oxford and Edinburgh.

59. Gannong W.F. (1999), Review of Medical Physiology, 9th ed, San Fracisco

Appleton & Langer.

60. Guyton A.C. (1996), Textbook of Medical Physiology, 9th ed, Philadenphia, W.B

Sauders Company.

61. Lucky A.W, Biro F.M, Huster G.A,morrison J.A, Elder N(1991) “Acne vulgaris

in early adolescent boys.Correlations with pubertal maturation and age”

Arch Dermatol; 127, pp : 210-216.

62. Mc Donald, D.A (1974). Blood flow in arterries. 2nd Edition, Vol 2. Williams &

Wilkins, Bantimore.

63. Miller, G.J (1993). Hypertension and hypercoaguability. Progress in lipit

research, (32), pp.61-69.

64. Norris A.H., Shock N.W, Landowne M. & Falzon J.A. Jr (1956), “Age difference

in lung volume and bellow function”, Journal Geront, 11, pp. 379.

65. Prentice, R.L (1982). Peripheral blood pressure measurements and cardivascula

dissease in Japanes cohort. Am. J. of epidemiology, (119), pp.1-28.

66. Rodkiewicz, CM (1983), Arteries and arterial blood flow, Springer – Verlag, New

York.

67. Van Hung Mai (2015), “Morphological and physical indexes of Vietnamese

people”, Lambert Academic Publishing, Germany.

68. World Health Organization (2007), “WHO Global Database on Child Growth and

Malnutrition”, Methods and Development, Geneva.

69. WHO Multicentre Growth Reference Study Group (2006), “WHO Child Growth

Standards: Length/height-for-age, weigth-for-age, weight-for length, weight-

95

for height and body mas index-for-age”, Methods and Development, Geneva.