YOMEDIA
ADSENSE
Nghiên cứu Didactic về khái niệm hình và hình vẽ biểu diễn trong hình học
55
lượt xem 5
download
lượt xem 5
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài viết này trình bày một số quan điểm của các nhà Didactic Toán trên hai đối tượng của Hình học là "hình vẽ biểu diễn" và "hình", trong tiếng Anh là "drawing" và "figure", hay trong tiếng Pháp là "dessin" và "figure".
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Nghiên cứu Didactic về khái niệm hình và hình vẽ biểu diễn trong hình học
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017<br />
<br />
<br />
<br />
Nghiên cứu Didactic về khái niệm hình và<br />
hình vẽ biểu diễn trong hình học<br />
Didactic research on concepts of figure and drawing in geometry<br />
<br />
TS. Nguyễn Ái Quốc,<br />
Trường Đại học Sài Gòn<br />
<br />
Nguyen Ai Quoc, Ph.D.,<br />
Saigon University<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Bài báo này trình bày một số quan điểm của các nhà Didactic Toán trên hai đối tượng của Hình học là<br />
"hình vẽ biểu diễn" và "hình", trong tiếng Anh là "drawing" và "figure", hay trong tiếng Pháp là<br />
"dessin" và "figure". Hơn nữa, bài báo cũng đề cập đến một số đối tượng khác liên quan đến hai đối<br />
tượng trên như "mô thức hình học" và "hình vẽ hình học".<br />
Từ khóa: hình vẽ biểu diễn, hình, mô thức, hình hình học.<br />
Abstract<br />
- the two<br />
objects in geometry which are called "dessin" and "figure" respectively in French. Moreover, the paper<br />
refers to some miscellaneous objects in association with two previous objects called "paradigm" and<br />
"geometric drawing".<br />
Keywords: drawing, figure, paradigm, geometric drawing.<br />
<br />
<br />
1. Mô thức hình học phân biệt các thực thể cấu thành của mô<br />
1.1. Mô thức của Kuhn thức tổng thể. Điều này đề cập đến thực<br />
"Từ mô thức, theo phương diện tổng hành của các cá thể của trường môn học<br />
thể, chỉ tập hợp các niềm tin, kỹ thuật và này." [11]<br />
các giá trị mà một nhóm nhà khoa học chia 1.2. Mô thức hình học của<br />
sẽ với nhau. Nó cố định cách thức đúng Houdement – Kuzniak<br />
đắn để đặt ra và thực hiện việc giải quyết "Tốt hơn hết là xem sự tiến triển của<br />
một vấn đề. Theo nghĩa này, Kuhn cũng hình học là một chuỗi đứt gãy không thể<br />
nói đến ma trận môn học, cái mà cho phép hòa hợp được, chúng ta chấp nhận một tầm<br />
nhóm các lý thuyết, và tổng quát hơn, các nhìn thống nhất của hình học nhờ vào ý<br />
kiến thức của một nhóm làm việc trên cùng tưởng tổng hợp biện chứng tiến hóa giữa<br />
một chủ đề. các cực khác nhau…" [9, tr.11]<br />
Theo nghĩa thứ hai, khá thú vị trong "Hình học tự nhiên hay sự lẫn lộn<br />
quan điểm didactic Toán, mô thức nêu lên giữa hình học và thực tế (GI):<br />
đặc trưng các ví dụ có ý nghĩa cho sinh Hình học tự nhiên là nguồn đánh giá<br />
viên để dạy cho họ nhận biết, tách riêng và thế giới thực, cảm nhận được. Nó bao gồm<br />
<br />
29<br />
NGHIÊN CỨU DIDACTIC VỀ KHÁI NI M HÌNH VÀ HÌNH VẼ BIỂU DIỄN TRONG HÌNH HỌC<br />
<br />
<br />
ba phương diện trực quan, kinh nghiệm, Đối với Houdement và Kuzniak, đối<br />
suy diễn, nhưng suy diễn được thực hiện tượng hình học của GII không có nghĩa<br />
chủ yếu trên các đối tượng vật chất nhờ trong lý thuyết vì nó là mô hình của một<br />
trực quan và thao tác các dụng cụ. Điều đối tượng thực. Theo quan điểm này, rõ<br />
này sẽ đặt ra vấn đề về tính hợp thức… ràng là đối tượng thứ nhất là đối tượng<br />
Đây là một bằng chứng rõ ràng trên thực, đối tượng lý thuyết của GII là một<br />
giác quan, không phải trên suy diễn logic mô hình của thực tế. Vai trò của hình vẽ<br />
và trừu tượng thuần túy. Theo nghĩa này, ta biểu diễn trong GII rất phức tạp vì nó là<br />
có thể nói đến một "hình học thực biểu diễn của một đối tượng hình học lý<br />
nghiệm"… thuyết mà bản thân nó chính là mô hình<br />
Việc xây dựng và nhận thức là trái tim của một đối tượng thực.<br />
của hình học tự nhiên kiểu thực nghiệm." 1.3. Mô thức hình học của Parzysz<br />
[10, tr.97-98] Nhận xét về mô thức hình học của<br />
"Hình học tiên đề tự nhiên hay hình Houdement và Kuzniak, Parzysz cho rằng:<br />
học như một sơ đồ của thực tế (GII): "Sự nối khớp giữa GI và GII – về mặt<br />
Trong tổng hợp tiên đề Eulide, các bản chất khoa học luận – cơ bản hơn sự nối<br />
phương diện "không chặt chẽ" và các yêu khớp tách đôi GII và GIII… Thực vậy,<br />
cầu trực quan nhường chỗ cho suy diễn trong GI, các đối tượng vẫn còn là đối<br />
logic và chứng minh nằm trong một hệ tượng vật lý lý tưởng nhiều hơn hay ít hơn<br />
thống tiên đề chính xác nhất có thể… các tình huống của "thực tế" (mô hình ngôi<br />
Hình học này không đòi hỏi như hình nhà, hình vẽ một cánh đồng…) và việc<br />
học tự nhiên là một thực tế, nhưng nó khao đánh giá vẫn còn theo bậc nhận thức (dụng<br />
khát là một sơ đồ thực tế." [9, tr.12-13] cụ hóa hay không). Ngược lại, trong GII<br />
"Các tiên đề của nó tương ứng với một cũng như GIII, các đối tượng liên quan là<br />
mô hình không gian thực mang tính địa các yếu tố nằm ngoài thực tế (nhưng được<br />
phương." [10, tr.98] biểu diễn bởi các đối tượng vật lý), việc<br />
"Hình học tiên đề hình thức chủ đánh giá các khẳng định theo bậc suy diễn:<br />
nghĩa hay sự độc lập của Hình học với thực "học sinh được gợi ý từ bỏ một kiểm tra<br />
tế (GIII): mang tính kinh nghiệm chủ nghĩa các<br />
Lần này… dây chằng buộc hình học và tuyên bố của họ vì lợi ích của một kiểm tra<br />
thực tế bị chặt đứt. Các tiên đề không còn bằng phương thức suy luận." [3, tr.32].<br />
được dựa trên tri giác và tính ưu việt của Như vậy, theo Parzysz, sự phân biệt<br />
suy luận logic là cần thiết." [9, tr.11-13] của GII với GI và GIII chủ yếu dựa trên hai<br />
Như vậy, trong GI, học sinh làm việc phương diện:<br />
trên các đối tượng vật chất nhờ vào nhận 1/ GII là một mô hình hóa của không<br />
thức và thao tác các dụng cụ. Các đối gian "vật lý" (nghĩa là GI), trong khi GIII<br />
tượng vật chất này là các đối tượng hình vẽ không còn tham chiếu đến "thực tế" nào<br />
hình học trong trường hợp hình học phẳng. khác;<br />
Trong GII, hình vẽ biểu diễn chỉ là một 2/ GII có thể gọi là một GIII tiên đề<br />
biểu diễn của đối tượng hình học lý thuyết hóa không hoàn toàn, hay tốt hơn là một<br />
và chúng ta làm việc trên chính các đối hình học trong đó các "tiên đề" (có tính<br />
tượng hình học lý thuyết này. kinh điển hay không) ngầm ẩn theo từng<br />
<br />
<br />
30<br />
NGUYỄN ÁI QUỐC<br />
<br />
<br />
phần (có ý thức hay không). Nói chính xác được trình bày ở trên, chúng tôi đề xuất<br />
hơn, GII dựa trên các lập luận suy diễn có một phép thử tổng hợp các mô hình trước<br />
hiệu lực xuất phát từ một số thực tế được đó, đặc biệt bao gồm một sự nối khớp khác<br />
xem xét như "hiển nhiên"; với điều này nó một ít với sự nối khớp được đề xuất của<br />
tương tự với GIII (phiên bản Euclide). Nói Houdement – Kuzniak vì những lý do nêu<br />
chung, ở một vài chỗ, nơi mà GIII bao hàm trên. Các yếu tố mà mô hình này dựa trên,<br />
một tiên đề và có thể cả các định nghĩa và một mặt là bản chất của các đối tượng liên<br />
các định lý bắt nguồn từ nó thì GII đành quan (vật lý với lý thuyết), mặt khác là các<br />
chấp nhận "ta thấy rằng" (thậm chí có thể phương thức đánh giá (nhận thức với suy<br />
ngầm ẩn). Nhận thức vẫn còn hiện diện, diễn logic). Bắt đầu từ "hiện thực", hay "cụ<br />
nhưng nó coi như chỉ phục vụ xây dựng thể" (G0) mà không phải là hình học,<br />
một lý thuyết của không gian nhận thức chúng tôi gây tương phản, một mặt với một<br />
được, và không còn – ít nhất là về nguyên hình học không tiên đề, dựa trên các tình<br />
tắc – để hỗ trợ một luận chứng (ngay cả khi huống cụ thể được lý tưởng hóa để tạo<br />
"chúng ta thấy rằng" mâu thuẫn với nhận thành "không gian – đồ họa" (GI) và mặt<br />
xét này)." [16, tr.100-101] khác với một hình học tiên đề, sự tiên đề<br />
Như vậy, không giống như Houdement hóa có thể tường minh hoàn toàn (GIII)<br />
– Kuzniak làm nổi bật sự liên tục giữa các hay không (GII), và tham chiếu "thực" là<br />
mô thức khác nhau, Parzysz nhấn mạnh tùy chọn cho cái thứ nhất (nhưng không<br />
trên sự đứt gãy giữa GI và GII. cho cái thứ hai); trong trường hợp thứ hai,<br />
Parzysz định nghĩa các mô thức hình chúng ta sẽ nói về hình học tiền tiên đề.<br />
học của riêng mình như sau: Tình huống có thể được sơ đồ hóa bằng<br />
"Bằng cách làm theo các phân biệt biểu đồ 1 sau:<br />
<br />
Các Hình học không tiên đề Các Hình học tiên đề<br />
Kiểu "Hình học" Hình học Hình học Hình học<br />
hình học cụ thể (G0) Không gian – đồ họa (GI) tiền tiên đề (GII) tiên đề (GIII)<br />
Đối tượng Vật lý Lý thuyết<br />
Đánh giá Nhận thức Suy diễn<br />
Biểu đồ 1<br />
<br />
Như vậy, nếu xét theo quan điểm - Chuyển từ GII sang GIII: các thuộc<br />
didactic, sự phân biệt giữa các hình học tính được coi là "hiển nhiên". [16, tr.101]<br />
này xuất hiện trong các đứt gãy của hợp Rõ ràng có một vài đặc trưng của các<br />
đồng xảy ra giữa cái này với cái khác, hay mô thức hình học khác nhau có thể được<br />
cụ thể hơn: làm rõ bằng cách so sánh với định nghĩa<br />
- Chuyển từ G0 sang GI: tính vật của Houdement – Kuzniak. Trước hết, kinh<br />
chất của các đối tượng liên quan (gỗ, bìa nghiệm nuôi dưỡng sự duy diễn trong GI<br />
cứng, rơm…) của Houdement – Kuzniak, nhưng trong<br />
- Chuyển từ GI sang GII: độ dày của định nghĩa của Parzysz đó là các đánh giá<br />
nét vẽ, của điểm; kiểm chứng bằng nhận thức kiểu nhận thức. Trong cả hai trường hợp,<br />
<br />
31<br />
NGHIÊN CỨU DIDACTIC VỀ KHÁI NI M HÌNH VÀ HÌNH VẼ BIỂU DIỄN TRONG HÌNH HỌC<br />
<br />
<br />
vấn đề là tác động mang tính vật chất trên một số bài báo của Arsac:<br />
các đối tượng thực của GI. Hành động này, "Theo truyền thống từ thời Plato đã<br />
chúng ta gọi là kinh nghiệm hay đánh giá phân biệt hình được vẽ trên giấy, thường<br />
kiểu nhận thức, có thể thay đổi: đo đạc, vẽ, để chỉ một hình vẽ biểu diễn, với đối tượng<br />
cắt, lật ngược,… Mặt khác, trong GI, hình học mà trên đó thực hiện các chứng<br />
chúng ta có thể đánh giá bằng sự nhận thức minh." [3]<br />
với hay không với dụng cụ. Sau cùng, hai “Về sau, chúng ta phân biệt hình vẽ<br />
định nghĩa dựa trên các yếu tố khác nhau: biểu diễn với hình, hình vẽ biểu diễn để chỉ<br />
trực giác, kinh nghiệm và suy diễn của hình vẽ được vẽ cụ thể trên trang giấy (hay<br />
Houdement – Kuzniak, và bản chất của đối trên cát của Archimede) và hình để chỉ đối<br />
tượng và kiểu đánh giá vận hành ở Parzysz. tượng toán học mà trong đó hình vẽ chỉ là<br />
2. Hình vẽ biểu diễn – đối tượng một sự biểu diễn…Vì thế, hình là một phần<br />
hình học tử của "thế giới toán học" và không phải là<br />
2.1. Hình vẽ biểu diễn – đối tượng phần tử của thế giới cảm tính…” [1, tr.86]<br />
hình học Trong một bài báo, Laborde và<br />
Parzysr (1988) phân biệt hình vẽ biểu Capponi nêu rõ:<br />
diễn với hình trong các biểu diễn đồ họa "Người ta phân biệt các đối tượng hình<br />
trong hình học: hình vẽ biểu diễn là vết vật học và các quan hệ hình học có tính chất lý<br />
chất trên một tờ giấy trong khi hình đề cập thuyết với sự thể hiện ra bên ngoài của<br />
đến đối tượng lý thuyết được biểu diễn. chúng trong các hệ thống biểu đạt khác<br />
Hay nói cách khác, hình vẽ biểu diễn thể nhau. Người ta quan tâm đặc biệt đến các<br />
hiện cho một hình và hình bao gồm các đối thực tế đồ họa không gian (các hình vẽ<br />
tượng hình học trong một mối quan hệ. biểu diễn được tạo ra bằng vết vẽ của chì<br />
Parzysr nhấn mạnh hai quan điểm về trên trang giấy, của một que gỗ trên cát,<br />
hình bằng cách đề cập tính đa nghĩa của từ của các hạt điện tử trên màn hình máy tính)<br />
hình qua việc sử dụng hai từ phân biệt: biểu diễn các đối tượng lý thuyết này." [13]<br />
hình vẽ biểu diễn và đối tượng hình học: Như vậy, hình vẽ biểu diễn được xem<br />
"Trong thực tế, từ này chỉ hoặc là đối là các vết vẽ vật chất trên trang giấy, trên<br />
tượng hình học (lý tưởng, theo nghĩa của bảng, trên cát, trên màn hình máy tính, biểu<br />
Plato) mà các nghiên cứu thực hiện trên đó, diễn cho một đối tượng hình học lý thuyết<br />
hoặc là một hình vẽ biểu diễn của đối trong thế giới cảm tính, và đối tượng hình<br />
tượng này." [15, tr.13] học lý thuyết này được gọi là hình (xem<br />
Một giải thích khác về hình cũng được biểu đồ 2). Đối tượng hình học lý thuyết<br />
trình bày trong [14, tr. 80]: được xem xét dưới hai quan điểm, như<br />
“Hình hình học là đối tượng hình học Parzysz đã đề cập: một đối tượng được<br />
được mô tả bằng văn bản định nghĩa, một ý định nghĩa bởi một lý thuyết, chẳng hạn<br />
tưởng, một sự sáng tạo của trí tuệ trong khi hình học Euclide, từ các định nghĩa, các<br />
hình vẽ biểu diễn là một sự biểu diễn cho tiên đề,… và do đó hoàn toàn thuộc thế<br />
đối tượng hình học đó.” giới toán học hay nói đúng hơn là một đối<br />
Ngoài ra, chúng tôi cũng tìm thấy sự tượng lý tưởng theo nghĩa của Plato, như<br />
phân biệt hình vẽ biểu diễn và hình trong Arsac đã nhắc lại:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
32<br />
NGUYỄN ÁI QUỐC<br />
<br />
<br />
<br />
Hình vẽ biểu diễn Đối tượng hình học lý thuyết<br />
Vết vẽ vật chất Đối tượng được định nghĩa<br />
trên một giá vẽ, bởi một lý thuyết hình học.<br />
thực tế đồ họa. Đối tượng lý tưởng.<br />
không gian<br />
<br />
Biểu đồ 2<br />
<br />
“Các thành phần của hình (điểm, đoạn) xem xét ở cấp độ này là xem hình vẽ biểu<br />
có thể được xem như có một trạng thái của diễn như hình vẽ hình học trước bất kỳ sự<br />
các đối tượng lý tưởng (theo quan điểm Hy diễn giải, suy luận và suy diễn nào. Chúng<br />
lạp) hay được định nghĩa đơn giản bằng ta có thể bổ sung quan điểm này bằng sự<br />
các tiên đề (theo quan điểm hiện đại)…” phân loại việc xử lý hình vẽ của Duval:<br />
[1, tr.86] "Sự lĩnh hội nhận thức… cho phép<br />
2.2. Hình vẽ hình học ngay lập tức nhận dạng hay nhận biết một<br />
Hình vẽ hình học được Parzysz nói hình dạng, hay một đối tượng, hoặc trong<br />
đến trong việc mô tả GI: mặt phẳng, hoặc trong không gian. Quá<br />
"GI là một hình học trong đó các đối trình nhận dạng một hình dạng 2D hay 3D<br />
tượng vật lý đã trải qua sự khởi đầu của được thực hiện theo các quy tắc được gọi là<br />
việc lý tưởng hóa, theo nghĩa chỉ có một số "những nhà tổng hình học" của tổ chức hay<br />
đặc tính của đối tượng vật chất được giữ lại theo các thông số cấu hình… ví dụ sự khác<br />
thỏa đáng (ví dụ màu của các nét vẽ trên biệt về kích thước hay định hướng."<br />
một trang giấy hay một màn hình máy tính, [6, tr.123]<br />
vật liệu mà một mô hình được thực hiện Mặc dù Duval nói đến hình (ông<br />
trên đó sẽ không được tính đến). Nghĩa là không phân biệt hình và hình vẽ biểu diễn)<br />
cái nhìn trên các đối tượng đã có một ít ở đây nhưng chúng ta vẫn xem hình vẽ<br />
trừu tượng và được đơn giản hóa so với biểu diễn theo nghĩa sự lĩnh hội nhận thức<br />
hiện thực (mô hình, vết vẽ trên trang giấy, xảy ra trên đối tượng vật lý, vết vẽ trên<br />
trên màn hình máy tính)." [17] giấy,…, được xem xét như một hình vẽ<br />
Như vậy, hình vẽ hình học không còn hình học.<br />
là một đối tượng vật lý "thô" nữa, mà là 2.3. Hình vẽ biểu diễn của đối tượng<br />
một đối tượng đã trải qua quá trình chuyển hình học lý thuyết<br />
đổi trí tuệ và diễn giải để tạo ra một hình Thực tế cho thấy, mối quan hệ giữa<br />
vẽ hình học. Thực tế, người đọc có thể đối tượng hình học lý thuyết và biểu diễn<br />
hoặc không thể xem hình vẽ như một đối của nó rất phức tạp. Labord và Capponi<br />
tượng hình học. [13] đặc biệt xem xét một số khía cạnh của<br />
Tùy thuộc vào ngữ cảnh, hình vẽ biểu tính phức tạp này.<br />
diễn trở thành hình vẽ hình học kể từ lúc 2.3.1. Đa diễn giải<br />
người đọc quyết định nó, chẳng hạn hình Việc biểu diễn một đối tượng hình học<br />
vẽ biểu diễn này nằm trên bảng của lớp học lý thuyết dễ dẫn đến nhiều diễn giải khác<br />
toán hay trên một trang sách giáo khoa nhau. Mặc dù cùng một việc đọc hình học,<br />
toán. Hành động duy nhất của chủ thể được nhưng diễn giải lại phụ thuộc vào tri thức<br />
<br />
33<br />
NGHIÊN CỨU DIDACTIC VỀ KHÁI NI M HÌNH VÀ HÌNH VẼ BIỂU DIỄN TRONG HÌNH HỌC<br />
<br />
<br />
của người đọc. Chẳng hạn, hình vẽ biểu hình thoi, hay hình vuông hay có thể là một<br />
diễn (hình 1) trong hệ trục tọa độ vuông mặt phẳng.<br />
góc Oxy, có thể được diễn giải như một<br />
đường tròn hay một hình tròn tâm O(0; 0),<br />
bán kính bằng 1 ở học sinh lớp 10, hay tập<br />
hợp các điểm M(x; y) biểu diễn cho số Hình 3<br />
phức z = x+iy trong mặt phẳng phức thỏa Hay nói cách khác, cùng một hình vẽ<br />
mãn hệ thức ở học sinh lớp 12, có thể đề cập đến các đối tượng hình học lý<br />
thuyết khác nhau.<br />
hay như một quả cầu đóng tâm O(0; 0) và 2.3.2. Miền hoạt động bị giới hạn<br />
bán kính 1 ở sinh viên toán năm 2 của Miền hoạt động của một đối tượng<br />
trường đại học. hình học lý thuyết được định nghĩa như<br />
sau:<br />
"Như là biểu đạt của một đối tượng<br />
hình học lý thuyết, hình vẽ biểu diễn trình<br />
bày các tính chất của đối tượng này nhưng<br />
chỉ thực hiện được từng phần. Người ta có<br />
thể gắn liền một miền hoạt động với hình<br />
vẽ biểu diễn (là tập hợp các tính chất hình<br />
học được biểu diễn bởi một số tính chất<br />
không gian của hình vẽ biểu diễn)." [13,<br />
tr.171]<br />
Đối tượng hình học lý thuyết có một<br />
Hình 1<br />
số tính chất có thể không thấy được trên<br />
Diễn giải này cũng phụ thuộc vào ngữ hình vẽ biểu diễn. Miền hoạt động là miền<br />
cảnh. Cùng một học sinh cấp trung học cơ trong đó hình vẽ biểu diễn có khả năng<br />
sở sẽ xem hình vẽ biểu diễn (hình 2) như cung cấp các thông tin thỏa đáng. Bởi vì<br />
một đường tròn hay một hình tròn tùy theo hình vẽ biểu diễn không nói được hết tất cả<br />
học sinh đó đang quan tâm đến chu vi hay mọi thứ của đối tượng hình học lý thuyết,<br />
là diện tích hình. do đó cần thiết phải có văn bản mô tả.<br />
Chẳng hạn, trong hình 4, làm thế nào biết<br />
hình vẽ biểu diễn một đoạn thẳng hay một<br />
đường thẳng? Chúng ta có thể lưu ý rằng,<br />
từ một văn bản mô tả, có thể thực hiện một<br />
hình vẽ biểu diễn, thậm chí là nhiều hơn, vì<br />
đối tượng hình học lý thuyết hoàn toàn<br />
Hình 2 được xác định bởi một văn bản mô tả,<br />
nhưng từ một hình vẽ biểu diễn, không thể<br />
Diễn giải này cũng phụ thuộc vào các<br />
tái tạo lại văn bản mô tả và do đó không<br />
ràng buộc của thể chế dạy học. Chẳng hạn,<br />
thể xác định được đối tượng hình học lý<br />
trong hình biểu diễn ở hình 3, một học sinh<br />
thuyết một cách chắc chắn.<br />
trung học cơ sở có thể xem là hình bình<br />
hành, nhưng một học sinh trung học phổ<br />
thông có thể xem là một hình chữ nhật, hay Hình 4<br />
<br />
34<br />
NGUYỄN ÁI QUỐC<br />
<br />
<br />
2.3.3. Miền diễn giải bị giới hạn diễn và tập hợp các đối tượng hình học lý<br />
"Tất cả các tính chất của hình vẽ biểu thuyết bởi vì cùng một hình vẽ biểu diễn có<br />
diễn không thể được diễn giải như đề cập thể tương ứng với nhiều đối tượng hình<br />
đến các thuộc tính của đối tượng, do đó có học lý thuyết, chẳng hạn trường hợp hình<br />
một miền diễn giải gắn liền với hình vẽ vuông và quả cầu trong mục 2.2.1., và<br />
biểu diễn. Chẳng hạn, vị trí của hình vẽ ngược lại nhiều hình vẽ biểu diễn có thể<br />
biểu diễn trong trang giấy nằm ngoài miền tương ứng với cùng một đối tượng hình<br />
diễn giải của các hình vẽ như các biểu đạt học lý tưởng, chẳng hạn nhiều hình vẽ biểu<br />
của các đối tượng của hình học Euclide. diễn thể hiện cho một tam giác bất kỳ. Từ<br />
Một số vấn đề học sinh gặp phải cho thấy đó, không thể xác định đối tượng hình học<br />
chính xác rằng họ hoạt động với một miền lý thuyết bằng một hình vẽ và cần thiết<br />
diễn giải khác với miền diễn giải của hình phải có một mô tả suy lý logic để:<br />
học Euclide." [13, tr.172] tháo gỡ các nhập nhằng gắn kết với<br />
Thực tế cho thấy học sinh cấp trung hình vẽ biểu diễn<br />
học phổ thông dễ dàng sử dụng các biểu "Một mô tả suy lý logic nêu đặc trưng<br />
thức kiểu "ở phía trên", "ở trên", "bên đối tượng hình học lý thuyết là cần thiết để<br />
phải", "ngang", "thẳng đứng",… mà không tháo gỡ các nhập nhằng gắn kết với hình vẽ<br />
phải là một phần của "miền diễn giải các biểu diễn." [13, tr.171]<br />
hình vẽ biểu diễn như biểu đạt của các đối lựa chọn đối tượng được biểu diễn:<br />
tượng của hình học Euclide." "Một hình chỉ có thể biểu diễn một<br />
Chẳng hạn, trong hình 5, một điểm tình huống hình học trong một phạm vi mà<br />
thuộc miền 3 có thể được học sinh diễn giải ý nghĩa của một số đơn vị biểu trưng và<br />
nằm phía dưới mặt phẳng và một điểm một số quan hệ của chúng được cố định<br />
thuộc miền 4 có thể được học sinh diễn giải tường minh ngay từ đầu… cùng một hình<br />
nằm phía trên mặt phẳng. Các diễn giải này vẽ có thể biểu diễn nhiều tình huống toán<br />
bắt nguồn từ xu hướng của học sinh mở học rất khác nhau và như vậy phục vụ hỗ<br />
rộng mặt phẳng theo phương nằm ngang trợ trực quan cho các suy luận khác nhau.<br />
nhiều hơn so với phương thẳng đứng. Do đó cần phải có một sự chỉ dẫn bằng lời<br />
nói để cố định hình vẽ như sự biểu diễn<br />
cho đối tượng toán học nào đó." [7, tr.188]<br />
hay chỉ đơn giản định nghĩa đối<br />
tượng này:<br />
"Hình là đối tượng hình học được mô<br />
tả bằng văn bản định nghĩa cho nó."<br />
[14, tr.80]<br />
2.4. Hình vẽ biểu diễn – đối tượng<br />
của hình học<br />
Hình 5<br />
Đối với học sinh tiểu học và trung học<br />
2.3.4. Vắng bóng đẳng cấu và mô tả cơ sở, trong giai đoạn đầu khi học hình<br />
suy lý logic học, đối tượng hình học lý thuyết là một<br />
Tính phức tạp của diễn giải hình vẽ đối tượng tư duy không thể tiếp cận được.<br />
biểu diễn cho thấy rõ sự vắng bóng của Khi đó, hình vẽ biểu diễn là đối tượng hình<br />
"đẳng cấu" giữa tập hợp các hình vẽ biểu học mà học sinh làm việc trên đó. Học sinh<br />
<br />
<br />
35<br />
NGHIÊN CỨU DIDACTIC VỀ KHÁI NI M HÌNH VÀ HÌNH VẼ BIỂU DIỄN TRONG HÌNH HỌC<br />
<br />
<br />
trước hết trích ra các tính chất bằng tri tâm đến đối tượng hình học lý thuyết.<br />
giác, sau đó dẫn đến việc sử dụng các dụng Chẳng hạn, trong một bài tập được trích ra<br />
cụ hình học để kiểm chứng các giả thuyết từ Sách giáo khoa Toán của Pháp Maths<br />
được phát biểu. Do đó, các hoạt động hình CM1 [5, tr.79], tương đương lớp 4 của Việt<br />
học được thực hiện trực tiếp trên các hình Nam, học sinh được yêu cầu dựng lại một<br />
vẽ hình học mà không tham chiếu đến một hình với các số đo thực trên giấy kẻ ô lưới<br />
đối tượng hình học lý thuyết. Mục đích 1cmx1cm với các dụng cụ hình học từ một<br />
chính của các hoạt động này là cho phép sơ đồ vẽ bằng tay cho trước trên đó có ghi<br />
học sinh làm quen với các đối tượng của số đo của các cạnh (Hình 7).<br />
mặt phẳng và của không gian và chuyển<br />
dần dần từ một hình học trong đó các đối<br />
tượng và các tính chất của chúng được<br />
kiểm tra bằng tri giác sang một hình học<br />
trong đó họ nhờ đến các công cụ và kiến<br />
thức về một số tính chất của đối tượng hình<br />
học lý thuyết. Chẳng hạn, ở bài tập 13,<br />
trang 79, Sách giáo khoa Toán 6, tập hai Hình 7<br />
[18], học sinh được yêu cầu đo các góc Sơ sồ trong hình 7 có thể được diễn<br />
, , ở hình 6: giải như một biểu diễn của một đối tượng<br />
vật lý hay một đối tượng lý thuyết, nhưng<br />
nó không được quan tâm trong bài tập này.<br />
Hoạt động của học sinh trong trường hợp<br />
này là giải mã sơ đồ trong 7 để thực hiện<br />
dựng hình. Việc dựng hình ở đây được<br />
xem xét đơn giản là tạo ra một hình vẽ hình<br />
học tương ứng với mô tả bằng mã hóa. Do<br />
đó, đối tượng làm việc ở đây là hình vẽ mà<br />
Hình 6 trên đó học sinh cần đo độ dài các cạnh, sử<br />
dụng thước êke,…<br />
Việc xác định số đo của ba góc trong 3. Hình<br />
tam giác IKL được học sinh thực hiện bằng 3.1. Hình là hình vẽ biểu diễn<br />
cách sử dụng thước đo độ thao tác trực tiếp Duval định nghĩa hình theo nghĩa vết<br />
trên hình vẽ biểu diễn để đo các góc. Trong vẽ vật chất trên trang giấy, hay nói cách<br />
trường hợp này, đối với học sinh, hình vẽ khác, Duval sử dụng từ hình cho cái mà<br />
biểu diễn tam giác IKL được xem là đối chúng ta gọi là hình vẽ biểu diễn hay hình<br />
tượng hình học và không được xem là hình vẽ hình học, đối tượng hình học hay biểu<br />
vẽ biểu diễn cho đối tượng hình học lý diễn của một đối tượng hình học lý thuyết.<br />
thuyết. 3.2. Hình là đối tượng hình học lý<br />
Trong tất cả các trường hợp như trên, thuyết<br />
đối tượng làm việc là hình vẽ, không có bất Theo quan điểm cổ điển của Arsac và<br />
cứ sự mã hóa cũng như mô tả suy lý logic Parzysz, từ hình để chỉ một số đối tượng<br />
nào cho phép xem xét một đối tượng hình hình học lý thuyết.<br />
học lý thuyết. Tuy nhiên, việc đưa vào mã "…chúng tôi dành riêng (là một quy<br />
hóa không có nghĩa là người ta cần quan ước, có thể tranh luận như mọi quy ước<br />
<br />
36<br />
NGUYỄN ÁI QUỐC<br />
<br />
<br />
khác) từ HÌNH cho bản thể hình học, trong đường tròn ngoại tiếp của nó.<br />
khi chúng tôi sử dụng từ HÌNH VẼ BIỂU Labord và Capponi phát triển khái<br />
DIỄN cho một biểu diễn đồ họa (mặt niệm lớp tương đương theo cách phức tạp<br />
phẳng) của hình này." [15, tr.14] hơn: đưa khái niệm hình vào trong tam<br />
Tuy nhiên, trong thực tế, từ hình được giác cái biểu đạt – cái được biểu đạt – cái<br />
sử dụng để chỉ một đối tượng phức tạp hơn quy chiếu. Hình vẽ biểu diễn là cái biểu<br />
các đối tượng của hình vẽ biểu diễn hay đạt, sự biểu diễn; đối tượng hình học lý<br />
của đối tượng hình học lý thuyết. thuyết là quy chiếu, đối tượng được biểu<br />
3.3. Hình là lớp tương đương các diễn.<br />
hình vẽ biểu diễn "Hình hình học bao gồm sự ghép cặp<br />
Arsac, trong một số trường hợp, xem một quy chiếu cho trước với tất cả các hình<br />
xét hình như một lớp tương đương các hình vẽ biểu diễn, do đó nó được định nghĩa như<br />
vẽ biểu diễn cùng một đối tượng hình học tập hợp các cặp được hình thành từ hai từ,<br />
lý thuyết. Chính là cái mà Arsac gọi là từ thứ nhất là quy chiếu, từ thứ hai là một<br />
quan điểm toán học trên hình. trong các hình vẽ biểu diễn; từ thứ hai<br />
"Một hình xuất hiện như một lớp tương được lấy từ trong không gian tất cả các<br />
đương: cụ thể, hai hình vẽ biểu diễn cùng hình vẽ biểu diễn có thể của quy chiếu.<br />
một hình khi chúng đồng dạng và đẳng cự Trong sự chấp nhận này, từ hình hình học<br />
(tùy theo loại thuộc tính mà chúng ta muốn phản chiếu việc thiết lập một quan hệ giữa<br />
nghiên cứu) hay thậm chí chúng tương ứng một đối tượng hình học và các biểu diễn có<br />
trong một phép biến đổi affine." [2, tr.174] thể có của nó. Trong cách tiếp cận này, các<br />
Trong trường hợp của hai hình vẽ biểu mối liên quan giữa hình vẽ biểu diễn và<br />
diễn trong hình 8, không tồn tại một phép quy chiếu của nó được xây dựng bởi một<br />
biến đổi affine biến hình vẽ biểu diễn này chủ thể, người đọc hay người tạo ra hình vẽ<br />
thành hình vẽ biểu diễn kia. biểu diễn, bao gồm cái được biểu đạt của<br />
hình hình học liên kết với chủ thể này. Cái<br />
được biểu đạt này tương ứng với cái mà<br />
Fischbein (1993) gọi là khái niệm hình."<br />
[12, tr.168]<br />
4. Kết luận<br />
Việc làm rõ các quan điểm về hình và<br />
Hình 8 hình vẽ biểu diễn cũng như mối quan hệ<br />
Tuy nhiên, nếu xét từ một quan điểm giữa chúng là điều cần được quan tâm<br />
khác, chúng biểu diễn cùng một đối tượng trong công tác đào tạo giáo viên Toán bậc<br />
hình học : một tứ giác bất kỳ và đường tròn phổ thông từ tiểu học đến trung học phổ<br />
ngoại tiếp của nó. Vậy chúng ta có thể mở thông.<br />
rộng định nghĩa ở trên của Arsac và xem Sự phân biệt giữa hai đối tượng hình<br />
xét hình như tập hợp tất cả các hình vẽ biểu và hình vẽ biểu diễn mở ra một miền rộng<br />
diễn của một đối tượng hình học được định lớn cho các nghiên cứu liên quan đến<br />
nghĩa bằng một phát biểu mô tả các đối chúng. Các đặc trưng của mối quan hệ giữa<br />
tượng, các thuộc tính, các mối quan hệ: hai đối tượng này trong hình học phẳng đã<br />
một tứ giác bất kỳ, nghĩa là không có góc được nhiều nhà didactic toán làm rõ trong<br />
vuông, không có hai cạnh song song và các công trình nghiên cứu của họ.<br />
<br />
<br />
37<br />
NGHIÊN CỨU DIDACTIC VỀ KHÁI NI M HÌNH VÀ HÌNH VẼ BIỂU DIỄN TRONG HÌNH HỌC<br />
<br />
<br />
Thực tế dạy học cho thấy trong hình 10. Houdement, C., & Kuzniak, A. (2000):<br />
học không gian, mối quan hệ giữa hình và Formation des maitres et paradigmes<br />
géométriques. Recherches en Didactique des<br />
hình vẽ biểu diễn rất phức tạp vì vấn đề Mathematiques. Vol. 20. n01. P 89-116. Ed.<br />
biểu diễn một đối tượng hình học lý thuyết La Pensée Sauvage. Grenoble.<br />
của không gian 3D trong không gian 2D 11. Kuhn, T. (1977). The Essential Tension: Selected<br />
được thực hiện qua phép chiếu song song Studies in Scientific Tradition and Change.<br />
và việc chọn lựa một môi trường làm việc Chicago: University of Chicago Press.<br />
trên đó, môi trường giấy-bút chì hay máy 12. Labord, C., & Capponi, B. (1994): Cabri-<br />
tính, sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến mối quan Géometre constituant d’un milieu pour<br />
hệ này. l’apprentissage de la notion de figure<br />
géometrique. Recherches en Didactique des<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO mathematiques. Vol. 14. n01.2. p165-210. Ed.<br />
1. Arsac, G., (1989): La construction du concept La Pensée Sauvage. Grenoble.<br />
de figure chez des éleves de 12 ans. Actes de 13. Labord, C., & Capponi, B. (1995):<br />
la 13ème conference PME. Paris. P85-92. Modelisation à double sens. Actes de la 8ème<br />
Artigue M., Rogalski J. et Vergnaud G. Ecole d’éte de Didactique des mathematiques.<br />
2. Arsac, G., & al. (1992): Initiation au Saint Sauves d’Auvergne. Aout 1995. Ed.<br />
raisonnement déductif au college. Ed. Presses IREM de Clemont-Ferrand.<br />
Universitaires de Lyon. 14. Parzysz, B. (1988): "Knowing" vs "seeing".<br />
3. Arsac, G., (2004): Bases élementaires de Problems of the plane representation of space<br />
l’étude de la démonstration mathematique. geometry figures. Educational Studies in<br />
Séminaire de Didactique, Histoire et Mathematics. n019. P79-92. Ed. Kluwer<br />
Épistemologie des Mathematiques, des Academic Publishers.<br />
Sciences et des Techniques du PREMST. 15. Parzysz, B. (1989): Représentations planes et<br />
IUFM de Lyon. 28 janvier 2004. enseignement de la géométrie de l’espace au<br />
4. Berthelot, R., & Salin, M. (1992): Espace et lycée. Contribution à l’étude de la relation<br />
géométrie dans la scolarite obligatoire. Thèse voir/savoir. Thèse de doctorat. Université<br />
de doctorat. Université de Bordeaux 1. Paris-7. Ed. IREM Paris-7.<br />
5. Charney, R., & Combier, G., & Dussuc M. P. 16. Parzysz, B. (2002): Articulation entre<br />
(2003): Cap Maths. CM1. Ed. Hatier. perception et déduction dans une démarche<br />
géometrique en PÉ. Actes du 28ème colloque<br />
6. Duval, R. (1994): Les differents Inter-IREM des formateurs et professeurs<br />
fonctionnements d’une figure dans une chargés de la formation des maitres. Tours.<br />
démarche géometrique. Reperes IREM. n017. Mai 2001. P.99-110. Ed. Presses<br />
P121-138. Ed. IREM de Grenoble. Universitaires d’Orléans.<br />
7. Duval, R. (1995): Sémiosis et pensée 17. Parzysz, B. (2004): Preuve perceptive ou<br />
humaine. Ed. Springer. Berne. démonstration? Le rapport des PE1 à la<br />
8. Fischbein, E. (1993): The theory of figural géometrie, étudie à travers leur discours<br />
concepts. Educational Studies in "méta". Actes du 31ème colloque Inter-IREM<br />
Mathematics. Vol. 24. n02. P139-162. Ed. des formateur et professeurs charges de la<br />
Kluwer Academic Publishers. formation des maitres. Foix. Mai 2004. Ed.<br />
9. Houdement, C., & Kuzniak, A. (1999.3): IREM de Toulouse.<br />
Géométrie et paradigmes géométriques. Petit 18. Phan Đức Chính, Tôn Thân, Phạm Gia Đức (2012),<br />
x. n0 51. P5-21. Ed. IREM de Grenoble. Toán 6 – tập hai, Nxb Giáo Dục Việt Nam.<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 02/9/2017 Biên tập xong: 15/10/2017 Duyệt đăng: 20/10/2017<br />
<br />
<br />
<br />
38<br />
ADSENSE
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn