intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu tâm lý học kỹ sư: Phần 1

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:67

1
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cuốn sách "Tâm lý học kỹ sư" được biên soạn giúp cho sinh viên các ngành kỹ thuật công nghệ có được những kiến thức cơ bản về tâm lý con người và giúp các em biết ứng dụng các kiến thức của khoa học tâm lý vào việc thiết kế, chế tạo hệ thống kỹ thuật công nghệ sao cho phù hợp với con người để tạo nên sự tương tác tối ưu nhất giữa hệ thống kỹ thuật công nghệ và con người. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung phần 1 dưới đây!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu tâm lý học kỹ sư: Phần 1

  1. ThS. BÙI THỊ BÍCH TÂM LÝ HỌC KỸ SƯ NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2022
  2. 2
  3. LỜI MỞ ĐẦU Chúng ta đang ở vào thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0. Sự kết hợp giữa nhiều ngành khoa học đã làm cho khoa học kỹ thuật công nghệ phát triển ở mức độ tối ưu và những tri thức của nhân loại về khoa học kỹ thuật công nghệ cũng tăng lên không ngừng. Trong sự phát triển của lĩnh vực khoa học kỹ thuật ấy không thể thiếu vắng vai trò của khoa học tâm lý. Tại trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.Hồ Chí Minh, môn Tâm lý học kỹ sư là môn học chung dành cho sinh viên toàn trường. Tài liệu này sẽ giúp cho sinh viên các ngành kỹ thuật công nghệ có được những kiến thức cơ bản về tâm lý con người và giúp các em biết ứng dụng các kiến thức của khoa học tâm lý vào việc thiết kế, chế tạo hệ thống kỹ thuật công nghệ sao cho phù hợp với con người để tạo nên sự tương tác tối ưu nhất giữa hệ thống kỹ thuật công nghệ và con người. Có thể nói, môn tâm lý học kỹ sư là một môn học khá mới trong chương trình đào tạo tại trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.Hồ Chí Minh, nên nguồn tài liệu học tập và sách tham khảo dành cho môn học cũng chưa được đầy đủ và phong phú. Do vậy mà tài liệu này được ra đời với mong muốn giúp các em sinh viên và cả giáo viên có thêm nguồn học liệu, và cho cả những ai quan tâm có thêm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và học tập môn học. Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình biên soạn nhưng tài liệu khó tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả xin trân trọng tiếp thu những ý kiến đóng góp của quý độc giả, nhất là ý kiến của quý thầy cô và các em sinh viên, để có thể hoàn thiện hơn nữa nhằm phục vụ cho việc dạy và học môn tâm lý học kỹ sư một cách hiệu quả nhất. Tác giả 3
  4. 4
  5. MỤC LỤC . Trang LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................3 . MỤC LỤC ................................................................................................5 Chương I: NHẬP MÔN TÂM LÝ HỌC KỸ SƯ...................................7 1.1. KHÁI QUÁT VỀ TÂM LÝ HỌC.......................................................7 . 1.1.1. Khái niệm tâm lý và tâm lý học.................................................7 1.1.2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học . ..................13 1.1.3. Bản chất của các hiện tượng tâm lý người theo quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng (Theo quan điểm Mác-xít) . .....14 1.1.4. Chức năng của các hiện tượng tâm lý . ...................................17 1.1.5. Phân loại các hiện tượng tâm lý...............................................18 1.2. TÂM LÝ HỌC KỸ SƯ......................................................................19 1.2.1. Khái niệm chung......................................................................19 1.2.2. Nội dung nghiên cứu của tâm lý học kỹ sư.............................22 . Chương II: QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC.............................................36 . 2.1. NHẬN THỨC CẢM TÍNH...............................................................36 2.1.1. Cảm giác .................................................................................36 2.1.2. Tri giác ....................................................................................43 2.2. TRÍ NHỚ...........................................................................................48 2.2.1. Khái niệm chung......................................................................48 2.2.2. Các giai đoạn cơ bản của trí nhớ . ...........................................50 2.2.3. Sự quên....................................................................................58 2.3. NHẬN THỨC LÝ TÍNH ..................................................................53 2.3.1. Tư duy......................................................................................54 2.3.2. Tưởng tượng ...........................................................................63 Chương III: CÁC LÝ THUYẾT VÀ QUY LUẬT TÂM LÝ ĐƯỢC ỨNG DỤNG TRONG THIẾT KẾ HỆ THỐNG KỸ THUẬT............68 3.1. Lý thuyết thứ bậc nhu cầu của A. Maslow........................................68 . 3.1.1 Khái niệm nhu cầu ...................................................................68 3.1.2. Lý thuyết thứ bậc nhu cầu của A. Maslow .............................68 3.2. Hiệu ứng Von Restorff ......................................................................72 3.3. Lý thuyết Dao cạo Ockham ..............................................................72 5
  6. 3.4. Luật Hick - Hyman ...........................................................................74 3.5. Định luật Gestalt ...............................................................................75 3.5.1. Luật tương tự hay luật đồng bộ (Law of Similarity). ..............76 . 3.5.2. Luật gần bên (Law of Proximity)............................................77 . 3.5.3. Luật liên tục (Law of Continuation)........................................78 3.5.4. Luật khép kín (Law of Closure)...............................................79 3.5.5. Luật chính – phụ (Law of figure - ground)..............................80 TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................82 6
  7. Chương I NHẬP MÔN TÂM LÝ HỌC KỸ SƯ Mục tiêu: Sau khi học xong chương này, sinh viên có khả năng: - Phân biệt được khái niệm tâm lý học và tâm lý học kỹ sư. - Trình bày được đối tượng và các nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học. - Phân tích được bản chất của hiện tượng tâm lý người theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. - Phân biệt được các loại hiện tượng tâm lý người. - Phân tích được nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học kỹ sư. - Phân tích được khái niệm trường cảm giác và trường vận động. - Phân tích được khái niệm bộ phận chỉ báo và bộ phận điều khiển, và lấy được ví dụ minh hoạ. - Phân tích được những yêu cầu khi thiết kế bộ phận chỉ báo và bộ phận điều khiển và áp dụng để thiết kế một bộ phận chỉ báo hay bộ phận điều khiển cụ thể của một bộ phận máy móc hay hệ thống kỹ thuật. 1.1. KHÁI QUÁT VỀ TÂM LÝ HỌC Tâm lý học đã và đang trở thành một trong những khoa học quan trọng nhất về con người. Khoa học này đi vào mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội và đang trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó đã đem lại những kết quả nghiên cứu cụ thể và ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Trước hết chúng ta cần phân biệt hai khái niệm cơ bản tâm lý và tâm lý học. 1.1.1. Khái niệm tâm lý và tâm lý học a. Khái niệm tâm lý Trong cuộc sống hàng ngày, nhiều người vẫn sử dụng từ “tâm lý” để nói về lòng người, về cách cư xử của con người, về sự hiểu biết ý muốn, nhu cầu thị hiếu của người khác. Chẳng hạn, “Anh A rất tâm lý”, “Chị B là người trò chuyện tâm tình, cởi mở”,… Đôi khi người ta còn dùng từ “tâm lý” như là khả năng chinh phục người khác… Hiểu như thế là đúng, nhưng có lẽ chưa đủ. Thực tế, tâm lý không chỉ là ý muốn, nhu cầu, thị hiếu và cách cư xử của con người, mà nó bao hàm nhiều hiện tượng khác như việc nhận thức để hiểu biết các sự vật, hiện 7
  8. tượng tồn tại xung quanh con người. Sự biểu thị thái độ xúc cảm - tình cảm yêu thích hay không yêu thích đối với các sự vật, hiện tượng mà con người nhận thức được. Vậy nên, thế giới tâm lý của con người vô cùng phong phú, luôn luôn gắn liền với hoạt động của con người. Bất cứ một hoạt động nào từ đơn giản đến phức tạp cũng đều chứa đựng các hiện tượng tâm lý. Có thể hiểu: “Tâm lý là tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền và điều hành mọi hoạt động, hành động của con người”. Theo cách hiểu này thì tâm lý của con người là nhận thức, tình cảm, ý chí, nghị lực, nhu cầu, ý thức, tự ý thức, động cơ, hành vi, hứng thú và cả khả năng sáng tạo của con người. b. Khái niệm tâm lý học Mặc dù tâm lý học là một khoa học non trẻ, tuy nhiên những quan điểm và tư tưởng làm nền móng cho khoa học này đã có từ rất lâu. Khi khoa học chưa được phân ngành cụ thể, tâm lý học gắn liền với triết học và được coi như một bộ phận của triết học. Điều này được thể hiện trong các tác phẩm của một số nhà triết học Hy Lạp cổ đại: Aritstote, Platon, Democrit,… và được coi là những tư tưởng tâm lý học thời cổ đại. Bàn về tâm hồn của Aritstote là tác phẩm có nội dung tâm lý học đầu tiên trên thế giới, ra đời trong khoảng thế kỷ III - IV (TCN). Trong tác phẩm này, ông đã đưa ra những quan điểm hết sức tiến bộ của thời bấy giờ: Có sự tồn tại một mối quan hệ giữa tâm lý và cơ thể với thế giới xung quanh, tâm lý được nảy sinh và phát triển trong cuộc sống, tâm lý là chức năng của cuộc sống có thể quan sát và nghiên cứu được, tuy rất phức tạp. Sau nền văn minh cổ đại, từ khoảng cuối thế kỷ VII (TCN) đến đầu thế kỷ thứ VI, châu Âu bước vào “đêm trường trung cổ” (kéo dài từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ XV). Thời kỳ này, tri thức và trí tuệ của nhân loại bị ảnh hưởng mạnh mẽ của nhà thờ Thiên Chúa giáo, nên những quan niệm về tâm lý còn mang nặng tính chất thần bí. Tiếp theo sau “đêm trường trung cổ”, châu Âu bước vào thời kỳ Phục hưng (thế kỷ XV - XVII). Trong thời kỳ này, tri thức và trí tuệ của xã hội loài người được nâng cao. Tuy nhiên, do nhu cầu phát triển sản xuất và hàng hải nên chỉ có tri thức toán học là được phát triển mạnh mẽ, còn các tri thức khác bao gồm cả tri thức tâm lý học chưa có những chuyển biến nổi bật. Đến thế kỷ XVII, có những biến đổi sâu sắc trong đời sống xã hội ở châu Âu. Với sự tiến bộ chung của khoa học và sự đóng góp của nhiều 8
  9. nhà tư tưởng nên những hiểu biết về tâm lý ngày càng được bổ sung và phong phú hơn. Nhiều phương pháp thực nghiệm lần đầu tiên được đưa vào trong hoạt động nghiên cứu tâm lý con người. Thời kỳ này được đánh dấu bởi quan niệm về tâm lý, về con người của R. Descartes (1596-1650), nhà triết học, toán học, sinh lý học nổi tiếng người Pháp. Ông đại diện cho phái “Nhị nguyên luận” cho rằng vật chất và tâm hồn là hai thực thể song song tồn tại và cơ thể con người là một “cỗ máy” phức tạp. Toàn bộ hoạt động cơ thể với các chức năng tâm lý đơn giản như cảm giác và tri giác được R. Descartes giải thích theo những nguyên tắc cơ học do I. Newton (1642- 1727) đề xướng. Tuy nhiên, phần bản thể tinh thần - tâm lý (suy nghĩ, ý thức, tưởng tượng, ước muốn,…) của con người là điều không thể biết. Ông cũng là người đặt cơ sở cho việc tìm ra cơ chế phản xạ trong hoạt động tâm lý. Bước sang thế kỷ XVIII, lần đầu tiên xuất hiện tên gọi “tâm lý học” khi C. Wolff (1679-1754), nhà triết học người Đức, đã chia nhân chủng học ra thành hai ngành khoa học: khoa học về cơ thể và tâm lý học. Ông cũng đã xuất bản hai cuốn sách Tâm lý học kinh nghiệm vào năm 1732 và Tâm lý học lý trí vào năm 1734. Tên gọi tâm lý học ra đời chính thức từ đó. Tuy nhiên, về thực chất, tâm lý học lúc đó vẫn chỉ được coi như là một bộ phận của triết học. Phải đến thế kỷ XIX, tâm lý học mới tách khỏi triết học và trở thành một khoa học độc lập có đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu riêng. Khoa học tâm lý ra đời gắn liền với sự kiện năm 1879, khi nhà tâm lý học người Đức, W. Wundt (1832-1920) thành lập phòng thí nghiệm tâm lý học đầu tiên trên thế giới tại thành phố Leipzip. Phòng thí nghiệm này một năm sau đó đã trở thành Viện Tâm lý học đầu tiên trên thế giới, là nơi xuất bản các tạp chí tâm lý học và quy tụ các nhà tâm lý học nổi tiếng thế giới. Tuy vậy, về thực chất, lúc này tâm lý học vẫn dựa trên phương pháp duy tâm siêu hình. Cho nên, đến đầu thế kỷ XX, một loạt các trường phái tâm lý học khách quan ra đời tách khỏi trường phái duy tâm. Chẳng hạn như tâm lý học hành vi, tâm lý học Gestalt, phân tâm học,... Đến những năm 30 của thế kỷ XX, trường phái tâm lý học Mác-xít, do các nhà tâm lý học Nga (Liên Xô cũ) sáng lập được ra đời. Trường phái tâm lý học này lấy triết học Mác - Lênin làm cơ sở phương pháp luận, đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử hình thành nền tâm lý học thực sự khoa học và khách quan. 9
  10. Tóm lại, ta có thể hiểu: “Tâm lý học là một khoa học nghiên cứu các hoạt động của đời sống tâm lý, các quy luật nảy sinh, biểu hiện và phát triển của các hiện tượng tâm lý”. c. Một số trường phái (quan điểm) tâm lý học Như đã đề cập ở trên, khi tâm lý học trở thành một khoa học độc lập nhưng vẫn dựa trên phương pháp duy tâm siêu hình, nên ngày càng có nhiều nhà tâm lý học tách ra khỏi trường phái tâm lý học duy tâm để phát triển tâm lý học theo một hướng khác. Sau đây là một số trường phái tâm lý học tiêu biểu. • Tâm lý học hành vi Tâm lý học hành vi do nhà tâm lý học người Mĩ, John Broadus Watson (J. Watson) (1878-1958) sáng lập. Ông cho rằng tâm lý học không mô tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà chỉ nghiên cứu hành vi của cơ thể ở con người cũng như ở động vật. Hành vi được hiểu là tổng số các cử động bên ngoài do cơ thể tạo ra nhằm đáp lại một kích thích nào đó. Toàn bộ hành vi, phản ứng của con người và động vật thể hiện bằng công thức: S - R: Stimulus - Reaction (Kích thích - Phản ứng). Như vậy, J. Watson coi hành vi là do ngoại cảnh quyết định, hành vi có thể quan sát được, nghiên cứu được một cách khách quan, từ đó có thể điều khiển hành vi theo phương pháp “thử - sai”. Tuy vậy, trường phái này đã quan niệm một cách cơ học, máy móc về hành vi, đánh đồng hành vi của con người với hành vi của con vật - chỉ là những phản ứng máy móc nhằm đáp lại kích thích, giúp cho cơ thể thích nghi với môi trường xung quanh. Việc đồng nhất các phản ứng bên ngoài với nội dung tâm lý bên trong đã làm mất đi tính chủ thể, tính xã hội của tâm lý con người. Sau này, các nhà tâm lý học đại diện cho thuyết hành vi mới như: E. Tolman, B. Skinner, O. Mille,… đưa vào công thức S - R những “biến số trung gian” bao hàm một số yếu tố như: nhu cầu, tâm trạng, kinh nghiệm sống của con người,… nhằm đáp lại những kích thích có lợi cho cơ thể. Tuy vậy, về cơ bản chủ nghĩa hành vi mới vẫn mang tính máy móc của chủ nghĩa hành vi cổ điển J. Watson. • Tâm lý học Gestalt Trường phái tâm lý học Gestalt do ba nhà tâm lý học người Đức là Max Wertheimer (1880-1943), Wolfgang Köhler (1887-1967) và Kurt Koffka (1886 -1941) sáng lập ra tại Đức. Gestalt theo tiếng Đức có nghĩa 10
  11. là toàn vẹn (về cấu trúc hay hình thể). Vì thế, tâm lý học Gestalt còn được gọi là tâm lý học cấu trúc hay tâm lý học hình thái. Theo các nhà tâm lý học Gestalt, nhiệm vụ chính của tâm lý học là nghiên cứu cái tổng thể chứ không phải các thành phần. Họ chống lại mọi thuyết yếu tố (thành phần) và chủ trương phải áp dụng phương pháp toàn khối trong việc nghiên cứu ý thức chứ không áp dụng phương pháp phân tử. Họ đã đi sâu vào nghiên cứu các quy luật về tính ổn định và tính trọn vẹn của tri giác, quy luật “bừng sáng” của tư duy. Tâm lý học Gestalt đã tìm ra được cơ sở thần kinh của hiện tượng tâm lý tương ứng, đặc biệt là nghiên cứu cơ chế phản xạ của hiện tượng tâm lý. Đó cũng là hướng nghiên cứu khách quan về các hiện tượng tâm lý người, một sự tiến bộ đáng kể so với kiểu suy luận về các hiện tượng tâm lý của trường phái tâm lý trước đó. Tuy vậy, thông qua thực nghiệm, các nhà tâm lý học Gestalt khẳng định các quy luật của tri giác, tư duy và tâm lý của con người do các cấu trúc tiền định của não quyết định. Họ phủ nhận vai trò của hoạt động thực tiễn, của ngôn ngữ và kinh nghiệm xã hội lịch sử. Như vậy, họ đánh đồng hoạt động trí tuệ giữa người và động vật. Lý giải tâm lý như là một trường đặc biệt kiểu trường từ, trường điện, trường hấp dẫn trong vật lý học và chỉ tính đến sự phát triển tâm lý theo con đường tiến hóa của thế giới động vật. • Phân tâm học Thuyết phân tâm do Sigmund Freud (S. Freud) (1859 - 1939), một bác sĩ người Áo xây dựng nên. Luận điểm cơ bản của S. Freud cho rằng con người được hợp bởi ba khối: cái ấy (cái vô thức), cái tôi và cái siêu tôi. Cái ấy bao gồm các bản năng vô thức như ăn uống, tình dục, tự vệ, trong đó bản năng tình dục giữ vai trò trung tâm quyết định toàn bộ đời sống tâm lý và hành vi của con người. Cái ấy tồn tại theo nguyên tắc thỏa mãn và đòi hỏi. Còn cái tôi chính là con người thường ngày, con người có ý thức tồn tại theo nguyên tắc hiện thực. Theo S. Freud , cái tôi có ý thức là cái tôi bề ngoài của cái nhân lõi bên trong là “cái ấy”. Cuối cùng là cái siêu tôi - “cái tôi lý tưởng” không bao giờ vươn tới được và tồn tại theo nguyên tắc kiểm duyệt, chèn ép. Như vậy, phân tâm học đã đề cao quá đáng cái bản năng vô thức dẫn đến phủ nhận ý thức, phủ nhận bản chất xã hội, lịch sử của tâm lý con người và đồng nhất tâm lý của con người với tâm lý loài vật. Học thuyết S. Freud còn là tiền đề xây dựng nên chủ nghĩa hiện sinh, thể hiện quan điểm sinh vật hoá tâm lý con người. 11
  12. • Tâm lý học nhân văn Trường phái tâm lý học nhân văn do hai nhà tâm lý học người Mỹ là Carl Rogers (C.Rogers), (1902-1987) và Abraham Maslow (A. Maslow), (1908-1972) sáng lập. Các nhà tâm lý học nhân văn quan niệm rằng bản chất con người vốn tốt đẹp, con người có lòng vị tha, có tiềm năng kỳ diệu. Năm 1950, A. Maslow đã nghiên cứu và đưa ra 5 nấc thang về nhu cầu cơ bản của con người xét thứ tự từ thấp đến cao: Nhu cầu sinh lý cơ bản, nhu cầu an toàn, nhu cầu về quan hệ xã hội, nhu cầu được tôn trọng, nhu cầu được thể hiện mình. Lý thuyết của ông nhằm giải thích những nhu cầu nhất định của con người cần được đáp ứng như thế nào để một cá nhân hướng đến cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể chất lẫn tinh thần. Còn theo C. Rogers, con người ta cần phải đối xử với nhau một cách tế nhị, cởi mở, biết lắng nghe và chờ đợi cũng như cảm thông với nhau. Tâm lý học cần phải giúp cho con người tìm được bản ngã đích thực của mình, để có thể sống một cách thoải mái, cởi mở, hồn nhiên và sáng tạo. Tuy nhiên, tâm lý học nhân văn đề cao những sự cảm nghiệm, thể nghiệm chủ quan của bản thân mỗi cá nhân, tập trung chú ý tới mặt nhân văn trừu tượng trong con người, tách con người khỏi các mối quan hệ xã hội. Như vậy thiếu vắng con người trong hoạt động thực tiễn. • Tâm lý học nhận thức Hai đại biểu nổi tiếng của tâm lý học nhận thức là Jean Piaget (J. Piaget), (1896-1980) ở Thụy Sĩ và J. Bruner (trước ở Mỹ, sau đó ở Anh). Tâm lý học nhận thức coi hoạt động nhận thức là đối tượng nghiên cứu của mình. Đặc điểm tiến bộ nổi bật của dòng phái tâm lý học này là nghiên cứu tâm lý con người, nhận thức của con người trong mối quan hệ với môi trường, với cơ thể và với não bộ. Vì thế, họ đã phát hiện ra nhiều sự kiện khoa học có giá trị trong các vấn đề tri giác, trí nhớ, tư duy, ngôn ngữ,... làm cho các lĩnh vực nghiên cứu nói trên đạt tới một trình độ mới. Đồng thời, trường phái tâm lý học này cũng đã xây dựng được nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể đóng góp cho khoa học tâm lý ở những năm 50 - 60 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, quan điểm của các nhà tâm lý học nhận thức này cũng có những hạn chế, họ coi nhận thức của con người như là sự nỗ lực của ý chí để đưa đến sự thay đổi vốn kinh nghiệm, vốn tri thức của chủ thể, nhằm thích nghi, cân bằng với thế giới, chưa thấy hết ý nghĩa tích cực, ý nghĩa thực tiễn của hoạt động nhận thức. Tất cả những trường phái tâm lý học nói trên đều có những đóng 12
  13. góp nhất định cho sự hình thành và phát triển của khoa học tâm lý. Song do những hạn chế lịch sử, họ thiếu một cơ sở phương pháp luận khoa học biện chứng, vì vậy họ vẫn chưa có quan điểm đầy đủ và đúng đắn về con người, về hoạt động tâm lý của con người... Sự ra đời của tâm lý học hoạt động đã góp phần đáng kể vào việc khắc phục hạn chế nói trên và tiếp tục đưa tâm lý học phát triển ở một tầm cao. • Tâm lý học hoạt động Đây là trường phái tâm lý học do các nhà tâm lý học Liên Xô cũ sáng lập. Các đại diện tiêu biểu như L.X. Vugotxki (1896-1934), X.L. Rubinstein (1902-1960), A.N. Leonchev (1903-1979), A.R. Luria (1902- 1977)... Trường phái này lấy triết học Mác - Lênin làm cơ sở lý luận và phương pháp luận, xây dựng nền tâm lý học lịch sử người. Họ coi tâm lý là sự phản ánh thế giới khách quan vào não người thông qua hoạt động. Tâm lý người mang tính chủ thể, có bản chất xã hội. Đồng thời, tâm lý người được hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động và trong các mối quan hệ giao lưu của con người trong xã hội. Chính vì thế trường phái này được gọi là trường phái “tâm lý học hoạt động”. 1.1.2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học a. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học là toàn bộ các hiện tượng tâm lý với các đặc điểm, quy luật và cơ chế của nó, những hiện tượng tâm lý này có 2 tính chất sau: - Có cơ sở tự nhiên là hoạt động của hệ thần kinh và hoạt động biến đổi nội tiết (sinh lý). Chẳng hạn, khi sợ tái mét mặt, nổi hết cả da gà, khi lo lắng mất ngủ, hoặc rối loạn tiêu hóa. - Chỉ được nảy sinh và hình thành trong hoạt động, gắn liền với điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể, như: phong tục, tập quán, truyền thống, kinh nghiệm sống… Với hai tính chất cơ bản trên của hiện tượng tâm lý mà khoa học tâm lý học nghiên cứu đã cho ta thấy, tâm lý học không phải là một môn khoa học tự nhiên hay một môn khoa học xã hội đơn thuần, mà tâm lý học vừa là môn khoa học tự nhiên nhưng đồng thời cũng vừa là môn khoa học xã hội. b. Nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học Tâm lý học tập trung nghiên cứu các vấn đề sau: - Bản chất và các quy luật của hoạt động tâm lý. 13
  14. - Các quy luật nảy sinh và phát triển tâm lý. - Những cơ sở khách quan và chủ quan tạo ra tâm lý người. - Cơ chế hình thành và biểu hiện của hoạt động tâm lý. - Chức năng vai trò của tâm lý đối với hoạt động của con người. Trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu, tâm lý học sẽ đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho việc hình thành, phát triển tâm lý, sử dụng nhân tố tâm lý trong con người một cách có hiệu quả nhất. 1.1.3. Bản chất của các hiện tượng tâm lý người theo quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng (Theo quan điểm Mác-xít) a. Tâm lý là sản phẩm phản ánh hiện thực khách quan bằng hoạt động của mỗi người. Khi hiện thực khách quan trực tiếp tác động vào giác quan và não con người, sẽ để lại hình ảnh của hiện thực khách quan trên não. Hình ảnh đó gọi là hình ảnh tâm lý. Như vậy, hình ảnh tâm lý là kết quả của quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào não. Tuy nhiên, hình ảnh của phản ánh tâm lý khác xa về chất so với hình ảnh phản ánh của các hình thức phản ánh khác (phản ánh cơ học, vật lý, hóa học, sinh lý, xã hội,…). Sự khác biệt thể hiện của phản ánh tâm lý thông qua những tính chất sau: - Tính tích cực: Chính là kết quả của lần phản ánh trước ảnh hưởng trực tiếp tới lần phản ánh sau. Nhờ đó con người tích lũy được kinh nghiệm trong cuộc sống, là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển. Vậy nên, tục ngữ Việt Nam có câu: Mỗi lần ngã là một lần bớt dại / Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần. - Tính sinh động, sáng tạo: Cùng một hiện thực khách quan tác động, nhưng ở những con người khác nhau và ngay trong cùng một con người thì sự phản ánh khác nhau. Sự phản ánh tâm lý mang tính sinh động, sáng tạo do nhiều yếu tố chi phối: giới tính, hoàn cảnh, thời đại, nền văn hóa, giai cấp, lứa tuổi, giáo dục, đặc điểm giải phẫu sinh lý, trạng thái tâm sinh lý, nghề nghiệp… Nếu các yếu tố này khác nhau thì sự phản ánh sẽ khác nhau. - Tính chủ thể: Là sự phản ánh tâm lý mang đậm màu sắc cá nhân (hay nhóm người) mang hình ảnh tâm lý đó. Nói cách khác, hình ảnh tâm lý là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Tính chủ thể của hình ảnh tâm lý được thể hiện: Mỗi chủ thể, trong khi tạo ra hình ảnh tâm lý về thế 14
  15. giới đã đưa vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, đưa cái riêng của mình (nhu cầu, xu hướng, tính khí, năng lực,…) vào trong hình ảnh đó, làm cho nó mang đậm màu sắc chủ quan. Tuy nhiên, không phải cứ hiện thực khách quan trực tiếp tác động vào giác quan và não là có hình ảnh phản ánh tâm lý. Mà muốn có hình ảnh phản ánh tâm lý phải thông qua con đường gián tiếp hoạt động (cầm, nắm, đo, đếm, sờ, mó,...) của mỗi cá nhân thì thuộc tính của sự vật hiện tượng mới được bộc lộ, con người mới cảm nhận được, mới có hiện tượng phản ánh tâm lý. Qua việc phân tích luận điểm trên của bản chất hiện tượng tâm lý người, ta có thể rút ra một số kết luận cơ bản sau: - Tâm lý người mang tính tích cực, các sản phẩm hay các hệ thống kỹ thuật công nghệ mà người kỹ sư thiết kế cần phải luôn đổi mới sáng tạo để đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển của con người. - Tâm lý người luôn mang tính chủ thể,vậy nên khi thiết kế các hệ thống kỹ thuật công nghệ phục vụ con người, người kỹ sư cần chú ý đáp ứng nét riêng trong tâm lý mỗi người. b. Tâm lý là chức năng của não Mối liên hệ giữa não và tâm lý là một trong những vấn đề cơ bản của việc lý giải cơ sở tự nhiên, cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lý người. Khi có hiện thực khách quan tác động vào não, bộ não tiếp nhận tác động của hiện thực khách quan dưới dạng các xung động thần kinh, cùng với những biến đổi lý hóa ở từng nơ-ron thần kinh, từng xi-náp, các trung khu thần kinh ở bộ phận dưới vỏ và vỏ não, làm cho bộ não hoạt động theo các quy luật thần kinh, tạo nên hiện tượng tâm lý này hay hiện tượng tâm lý khác theo cơ chế phản xạ. Như vậy, tâm lý là kết quả của hệ thống chức năng những hoạt động phản xạ của não. Tuy nhiên, không phải cứ có não và vỏ não là có hiện tượng tâm lý. Đó mới là điều kiện cần, cái quyết định tâm lý là ở chỗ: não phải ở trạng thái hoạt động mới có tâm lý. Và tâm lý cũng không phải do não sinh ra giống như gan tiết ra mật, mà não chỉ quy định hình thức biểu hiện của hiện tượng tâm lý về tốc độ biểu hiện nhanh hay chậm, cường độ mạnh hay yếu. Còn nội dung của hiện tượng tâm lý do hiện thực khách quan, do kinh nghiệm sống, do hoạt động của cá nhân quy định. 15
  16. c. Tâm lý là kinh nghiệm xã hội, lịch sử của loài người biến thành cái riêng của từng người Tâm lý người bao giờ cũng phản ánh hiện thực khách quan, mang bản chất xã hội, mang tính lịch sử của những điều kiện mà con người là một thành viên sống và hoạt động. Do đó, tâm lý người bao giờ cũng mang bản chất xã hội và mang tính lịch sử. • Bản chất xã hội của hiện tượng tâm lý Bản chất xã hội của hiện tượng tâm lý người được thể hiện cụ thể ở nguồn gốc xã hội và nội dung xã hội. - Nguồn gốc xã hội: Tâm lý người có nguồn gốc là hiện thực khách quan (thế giới tự nhiên, thế giới xã hội). Trong đó, nguồn gốc xã hội là cái quyết định tâm lý con người, thể hiện qua các mối quan hệ xã hội: đó là quan hệ đạo đức, pháp quyền, quan hệ giữa con người với con người, quan hệ gia đình, làng xóm, cộng đồng,... Các quan hệ này quyết định bản chất tâm lý người. Nếu thoát ly khỏi các quan hệ này thì tâm lý con người sẽ mất bản tính con người, hoặc rối loạn, hoặc phát triển không bình thường. Trong thực tế, người ta đã tìm được những đứa trẻ bị thú nuôi. Ở những đứa trẻ này, về cấu tạo, hình hài là một con người, nhưng không có các phẩm chất tâm lý người. Chúng không có dáng đứng thẳng và không đi bằng hai chân, không có khả năng tư duy bằng ngôn ngữ, không có khả năng lao động sáng tạo... - Nội dung xã hội: Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao lưu của con người trong các mối quan hệ xã hội. Vì thế, tâm lý người mang đầy đủ dấu ấn xã hội - lịch sử của loài người mà họ là một thành viên sống và hoạt động trong xã hội đó. • Tính lịch sử của hiện tượng tâm lý Tâm lý của mỗi người được hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự phát triển của lịch sử cá nhân, lịch sử dân tộc và cộng đồng. Do vậy, tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình tiếp thu và lĩnh hội vốn kinh nghiệm xã hội, nền văn hóa xã hội thông qua hoạt động và giao tiếp mà ở đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo. Trong tất cả các yếu tố trên, hoạt động của con người và mối quan hệ giao tiếp của con người trong xã hội có tính quyết định. Chính vì thế, tâm lý của mỗi cá nhân vừa mang những nét chung, đặc trưng lịch sử - xã hội, vừa mang nét riêng tạo nên bản sắc của mỗi cá nhân. 16
  17. Kết luận: Thông qua ba luận điểm trên giúp chúng ta hiểu một cách khoa học về bản chất của hiện tượng tâm lý người: Tâm lý người là hiện tượng tinh thần do hiện thực khách quan tác động vào giác quan và não một con người cụ thể mà có. Tâm lý người có tính xã hội - lịch sử, tính giai cấp, tính dân tộc, mang màu sắc riêng của bản thân mỗi người. Đây cũng chính là cơ sở để người kỹ sư khi thiết kế và chế tạo bất kỳ một sản phẩm hay hệ thống kỹ thuật đều phải tính đến. Sản phẩm không chỉ đáp ứng nhu cầu sở thích của mỗi cá nhân mà còn phải phù hợp với nền văn hóa xã hội và các mối quan hệ xã hội trong cùng thời đại mà con người sống và hoạt động. 1.1.4. Chức năng của các hiện tượng tâm lý Như đã đề cập, hiện thực khách quan là nguồn gốc và có thể quyết định tâm lý con người. Nhưng chính tâm lý con người lại tác động trở lại hiện thực khách quan bằng tính năng động, sáng tạo của nó thông qua hoạt động, hành động và hành vi của con người. Mỗi hoạt động, hành động của con người đều do “cái tâm lý” chi phối. Đó chính là những chức năng cơ bản của các hiện tượng tâm lý, được thể hiện ở các mặt sau đây: - Chức năng chung của các hiện tượng tâm lý là định hướng cho hoạt động. Sự định hướng ấy thông qua vai trò của động cơ, mục đích của hoạt động. Động cơ có thể là một nhu cầu được nhận thức, hứng thú, lý tưởng, niềm tin, lương tâm, danh vọng... - Các hiện tượng tâm lý có thể thúc đẩy, lôi cuốn con người hoạt động, khắc phục mọi khó khăn vươn tới mục đích đã đề ra hoặc kìm hãm, hạn chế hoạt động của con người. - Các hiện tượng tâm lý điều khiển, kiểm tra quá trình hoạt động bằng chương trình, kế hoạch, phương pháp, phương thức tiến hành hoạt động, làm cho hoạt động của con người trở nên có ý thức, đem lại hiệu quả nhất định. - Cuối cùng, các hiện tượng tâm lý giúp con người điều chỉnh hoạt động cho phù hợp với mục tiêu đã xác định, đồng thời phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế cho phép. Nhờ có các chức năng định hướng, điều khiển, điều chỉnh nói trên mà tâm lý giúp con người không chỉ thích ứng với hoàn cảnh khách quan, mà còn nhận thức, cải tạo và sáng tạo ra thế giới, và chính trong quá trình đó con người nhận thức, cải tạo chính bản thân mình. 17
  18. 1.1.5. Phân loại các hiện tượng tâm lý Có nhiều cách phân loại hiện tượng tâm lý. Tuy nhiên, cách phân loại phổ biến là dựa theo thời gian tồn tại và vị trí tương đối của chúng trong nhân cách. Theo cách này, các hiện tượng tâm lý được chia thành ba loại chính sau đây. a. Các quá trình tâm lý Là những hiện tượng tâm lý diễn ra có mở đầu, có diễn biến và có kết thúc. Quá trình tâm lý thường diễn ra trong một thời gian ngắn, kết thúc tương đối rõ ràng, bao gồm: • Quá trình nhận thức: Là quá trình phản ánh bản thân các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan. Dựa vào lý luận nhận thức của triết học Mark, có các quá trình nhận thức sau: - Nhận thức cảm tính: Phản ánh những thuộc tính bên ngoài không bản chất của sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan. Nhận thức cảm tính giúp con người hiểu biết về thế giới khách quan, và được diễn ra với hai giai đoạn: Cảm giác và Tri giác. - Nhận thức trung gian: Phản ánh thuộc tính khái quát bên ngoài không bản chất của một nhóm sự vật, hiện tượng cùng loại; giúp con người lưu giữ được hình ảnh của sự vật, hiện tượng khi chúng thôi không còn trực tiếp tác động. Đó là quá trình Trí nhớ. • Nhận thức lý tính: Phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng mà trước đó, con người chưa biết. Nhận thức lý tính giúp con người cải tạo được thế giới khách quan, và được diễn ra với hai giai đoạn: Tư duy và Tưởng tượng. • Quá trình xúc cảm: Là sự biểu thị thái độ của con người đối với đối tượng mà con người nhận thức được như: sự hài lòng, phấn khởi, buồn phiền, thất vọng, lo âu, chán nản,… • Quá trình ý chí và hành động ý chí: Là quá trình con người tác động vào thế giới khách quan nhằm cải tạo thế giới khách quan. c. Các trạng thái tâm lý Là hiện tượng tâm lý diễn ra trong một thời gian dài, việc mở đầu và kết thúc thường không rõ ràng, chẳng hạn: Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn (Xuân Diệu). Các trạng thái tâm lý thường gặp: bâng khuâng, do dự, hồi hộp, lo lắng, chú ý,… 18
  19. d. Các thuộc tính tâm lý Là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định, khó hình thành và khó mất đi, tạo thành những nét riêng của nhân cách, chi phối các quá trình tâm lý và trạng thái tâm lý của con người. Chúng ta có các thuộc tính tâm lý như: Xu hướng - Mặt chỉ đạo của nhân cách; Tính cách - Mặt bản chất của nhân cách; Khí chất - Sắc thái biểu hiện của nhân cách; Năng lực - Khả năng hiện thực của một nhân cách. Có thể nói, thế giới tâm lý của con người vô cùng đa dạng, phong phú và phức tạp. Có nhiều loại hiện tượng tâm lý, có nhiều mức độ khác nhau và chúng có mối liên hệ mật thiết, biện chứng với nhau. CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ NGƯỜI Các quá Các Các trình trạng thuộc tâm lý thái tâm tính lý tâm lý Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lý người [7]. 1.2. TÂM LÝ HỌC KỸ SƯ 1.2.1. Khái niệm chung a. Khái niệm tâm lý học kỹ sư Tâm lý học kỹ sư là một chuyên ngành của tâm lý học, nghiên cứu mối quan hệ giữa con người với các hệ thống kỹ thuật và công nghệ (máy móc, thiết bị, phương tiện kỹ thuật,…) b. Nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lý học kỹ sư Tâm lý học kỹ sư tập trung nghiên cứu sâu về mối liên hệ tồn tại giữa con người và máy móc, thiết bị và công nghệ. Mối liên hệ này chặt chẽ tới 19
  20. mức tạo thành một hệ thống thống nhất “Người - Máy” (Sơ đồ 1.2). Và trong hệ thống này, mỗi thành tố lại được coi là một hệ thống riêng biệt chứa đựng các tiểu hệ thống trong nó. Chẳng hạn, hệ thống con người, hệ thống máy móc,... Trong hệ thống Người - Máy, sự hoạt động máy móc phụ thuộc vào hành động của con người, và ngược lại hành động của con người phụ thuộc vào sự hoạt động của máy móc. Do đó, con người cần phải học cách sử dụng máy móc nhưng máy móc cũng cần phải được thiết kế, chế tạo sao cho con người có thể sử dụng nó một cách chính xác, thuận lợi nhất. Bộ phận điều khiển Con người Máy móc Bộ phận chỉ báo Sơ đồ 1.2: Sự tác động qua lại giữa con người và máy móc trong hệ thống thống nhất [5]. Trong hệ thống “Người - Máy”, con người là khâu chủ đạo. Trong đó, hoạt động của con người rất phức tạp bao gồm 4 giai đoạn: - Giai đoạn nhận những thông tin cơ bản về hoạt động của máy - Giai đoạn đánh giá thông tin. - Giai đoạn ra quyết định về những hành động cần thiết trên cơ sở phân tích các thông tin. - Giai đoạn thực hiện quyết định. Chúng ta có thể hiểu rõ về hoạt động của con người qua sơ đồ 1.3. Trong đó, giai đoạn nhận những thông tin về hoạt động của máy móc dựa vào hệ thống các giác quan như: tầm nhìn, thính giác hay xúc giác (cảm nhận về nhiệt độ). Ở giai đoạn đánh giá thông tin và giai đoạn ra quyết định hành động sẽ do hệ thần kinh trung ương đảm nhận. Ở giai đoạn cuối cùng, thực hiện quyết định do hệ thống các cơ quan vận động đảm nhận như: Cánh tay, chân, toàn thân hay các ngón tay, ngón chân,... cùng nhiều những hệ thống hỗ trợ khác. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2