BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI *************************
PHAN LÊ SƠN
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ CỦA KỸ THUẬT SIÊU ÂM HÚT TẾ BÀO TRỨNG BÒ ĐỂ TẠO PHÔI TRONG ỐNG NGHIỆM
LUẬN ÁN TIẾN SỸ NÔNG NGHIỆP
HÀ NỘI- 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI *************************
PHAN LÊ SƠN
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ CỦA KỸ THUẬT SIÊU ÂM HÚT TẾ BÀO TRỨNG BÒ ĐỂ TẠO PHÔI TRONG ỐNG NGHIỆM
Chuyên ngành: Sinh sản và bệnh sinh sản gia súc Mã số: 62 64 01 06
LUẬN ÁN TIẾN SỸ NÔNG NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. GS.TSKH. CÙ XUÂN DẦN 2. PGS.TS. HOÀNG KIM GIAO
HÀ NỘI- 2013
LỜI CAM ĐOAN
- Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
- Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được ghi nhận và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Nghiên cứu sinh
Phan Lê Sơn
Lêi c¶m ¬n Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy giáo, cô giáo Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, không những đã giảng dạy và dìu dắt tôi trong suốt gần 5 năm học đại học mà còn tạo điều kiện để tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án này. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công nhân viên Viện Chăn nuôi, cơ quan chủ quản, nơi tôi công tác, trưởng thành, tạo điều kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn thành nhiệm vụ, được học tập và hoàn thành công trình nghiên cứu của mình.
Tôi xin cảm ơn chân thành các đơn vị sau đây đã nhiệt tình giúp đỡ để tôi
có thể hoàn thành luận án này. - Khoa Thú Y, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Bộ môn Hóa sinh, Sinh lý động vật, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội - Bộ môn Sinh lý, Sinh hóa và Tập tính vật nuôi, Viện Chăn nuôi - Trạm kiểm nghiệm và Bảo tồn vật nuôi, Viện Chăn nuôi
Để hoàn thành bản luận án này tôi cũng xin gửi tới thầy giáo người hướng dẫn khoa học GS.TSKH. Cù Xuân Dần và PGS.TS. Hoàng Kim Giao lòng biết ơn sâu sắc về sự tận tình giúp đỡ, động viên, dìu dắt tôi trong cuộc sống cũng như trong suốt quá trình hoàn thành luận án. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS.TS. Đặng Thái Hải luôn động viên, dạy bảo, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành được luận án này.
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Ths. Lưu Công Khánh, TS. Nguyễn Văn Lý, Ths. Nguyễn Thị Thoa, TS. Phan Văn Kiểm, TS. Đào Đức Thà, TS. Nguyễn Thạc Hòa và các bạn đồng nghiệp.
Xin cảm ơn gia đình và người thân đã động viên, tạo điều kiện cho tôi
trong suốt quá trình công tác cũng như hoàn thành bản luận án này. Hà Nội, năm 2013 Nghiên cứu sinh
Phan Lê Sơn
MỤC LỤC
Trang
I Lời cam đoan…………………………………………………………..
II Lời cảm ơn……………………………………………………………..
Mục lục………………………………………………………………... III
Danh mục các từ viết tắt………………………………………………. VI
Danh mục các bảng……………………………………………………. VII
Danh mục các hình……………………………………………………. IX
1 MỞ ĐẦU………………………………………………………………
1. Đặt vấn đề………………………………………………………….. 1
2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………. 2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài…………………………… 2
4. Những đóng góp mới của luận án về học thuật và lý luận…………. 3
5 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC
1.1. Buồng trứng………………………………………………………. 5
1.2. Tế bào trứng………………………………………………………. 7
1.2.1. Sự hình thành tế bào mầm nguyên thủy……………………… 7
1.2.2. Sự phát triển của tế bào mầm nguyên thủy thành túi noãn…… 8
1.2.3. Sự phát triển của túi noãn thành tế bào trứng………………… 9
1.3. Nang trứng………………………………………………………... 10
1.3.1. Sự hình thành nang trứng nguyên thủy………………………. 10
1.3.2. Sự phát triển của nang trứng………………………………….. 11
1.3.3. Chức năng của nang trứng……………………………………. 14
1.3.4. Sự hình thành sóng nang……………………………………… 15
1.4. Hormone………………………………………………………….. 16
1.4.1. Cơ chế điều khiển của hormone đến sự phát triển nang trứng 16
1.4.2. Vai trò của FSH ……………………………………………… 17
1.5. Thu tế bào trứng………………………………………………….. 19
1.5.1. Thu tế bào trứng từ buồng trứng lò mổ………………………. 19
1.5.2. Thu tế bào trứng từ bò sống………………………………….. 20
1.5.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến số lượng số lượng, chất lượng tế
bào trứng và kết quả tạo phôi in vitro khi siêu âm hút tế bào trứng….. 23
1.6. Nuôi tế bào trứng in vitro………………………………………… 32
1.6.1. Nuôi thành thục tế bào trứng in vitro………………………… 32
1.6.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả nuôi thành thục tế bào
trứng…………………………………………………………………… 35
1.7. Tạo phôi in vitro………………………………………………….. 43
1.7.1. Thụ tinh in vitro……………………………………………… 43
1.7.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thụ tinh của tế bào 46
trứng……………………………………………………………………
1.8. Nuôi phôi in vitro…………………………………………………. 48
1.8.1. Môi trường nuôi phôi……………………………………… 48
1.8.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của phôi……….. 50
1.9. Ảnh hưởng của kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng đến kết quả
nuôi thành thục, thụ tinh và tạo phôi in vitro…………………………. 53
56 CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU…
2.1.Vật liệu, nội dung và phương pháp nghiên cứu…………………… 56
2.1.1.Vật liệu……………………………………………………….. 56
2.1.2. Nội dung nghiên cứu………………………………………… 56
2.1.3.Phương pháp nghiên cứu…………………………………….. 56
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu……………………………….. 64
66 CHƯƠNG 3. KÊT QUẢ VÀ THẢO LUẬN………………………..
3.1. Ảnh hưởng của áp lực hút …………………………………........... 66
3.2. Ảnh hưởng của tần suất siêu âm hút tế bào trứng ……………….. 76
3.3. Ảnh hưởng của kích thước nang trứng ………………………….. 84
3.4. Ảnh hưởng của pha nang trứng phát triển và pha nang trứng trội.. 91
3.5. Ảnh hưởng của liều lượng FSH ………………………………….. 96
3.6. Ảnh hưởng của giống bò…………………………………………. 104
3.7. Ảnh hưởng của tuổi bò cho tế bào trứng…………………………. 109
3.8. Ảnh hưởng của mùa vụ…………………………………………… 113
120 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ………………………………………….
122
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN……………………………………………………………………..
123 TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………
123 TIẾNG VIỆT…………………………………………………………
124 TIẾNG ANH………………………………………………………….
148 PHỤ LỤC……………………………………………………………..
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
: Bovine Serum Albumin BSA
: Holstein Friesian x Lai Sind F3
: Foetal Calf serum FCS
: Follicle Stimulating Hormone FSH
GnRH : Gonadotropin Releasing Hormone
HEPES : N-(2 Hydroxyethyl) piperazine-N’-(2-ethanesulforic acid)
: Holstein Friesian HF
: Luteinizing Hormone LH
: Minimum Essential Medium MEM
: Prostaglandin F2α PGF2α
SOF : Synthetic oviduct fluid
TCM-199 : Tisue culture medium 199
DANH MỤC BẢNG
Tên bảng Bảng Trang
1.1 Đặc điểm phát triển của nang trứng bò ở giai đoạn đầu 14
1.2 Số lượng tế bào trứng và tỉ lệ phôi nang thu được ở các
giống bò khác nhau 29
1.3 Số lượng tế bào trứng và phôi nang thu được của bò ở các
độ tuổi khác nhau 31
37 1.4 Đánh giá chất lượng tế bào trứng ở 6 mức độ khác nhau
1.5 Mối quan hệ giữa đặc điểm tế bào chất và chất lượng tế bào
trứng 40
3.1 Số lượng nang trứng được hút và ảnh hưởng của áp lực hút
đến số lượng tế bào trứng thu được 66
3.2 Ảnh hưởng của áp lực hút đến chất lượng tế bào trứng 69
3.3 Ảnh hưởng của áp lực hút đến sự phân chia của hợp tử,
phôi dâu và phôi nang 72
3.4 Ảnh hưởng của tần suất siêu âm hút tế bào trứng đến số
lượng nang trứng được hút và số lượng tế bào trứng thu
được 76
3.5 Ảnh hưởng của tần suất siêu âm hút tế bào trứng đến chất
lượng tế bào trứng 79
3.6 Ảnh hưởng của tần suất siêu âm hút tế bào trứng đến sự
phân chia của hợp tử, phôi dâu và phôi nang 80
3.7 Ảnh hưởng của kích thước nang trứng đến số lượng nang
trứng được hút và số lượng tế bào trứng thu được 85
3.8 Ảnh hưởng của kích thước nang trứng đến chất lượng tế
bào trứng 86
3.9 Ảnh hưởng của kích thước nang trứng đến sự phân chia của 88
hợp tử, phôi dâu và phôi nang
3.10 Ảnh hưởng của pha nang trứng phát triển và pha nang trứng
trội đến số lượng nang trứng được hút và số lượng tế bào
trứng thu được 91
3.11 Ảnh hưởng pha nang trứng phát triển và pha nang trứng trội
đến chất lượng tế bào trứng 93
3.12 Ảnh hưởng của các liều lượng FSH đến số lượng nang
trứng được hút và số lượng tế bào trứng thu được 96
3.13 Ảnh hưởng của liều lượng FSH đến chất lượng tế bào trứng 98
3.14 Ảnh hưởng của liều lượng FSH đến sự phân chia của hợp
tử, phôi dâu và phôi nang 100
3.15 Ảnh hưởng của giống bò cho tế bào trứng đến số lượng
nang trứng được hút và số lượng tế bào trứng thu được 105
3.16 Ảnh hưởng của giống bò cho tế bào trứng đến chất lượng tế
bào trứng 105
3.17 Ảnh hưởng của giống bò cho tế bào trứng đến sự phân chia
của hợp tử, phôi dâu và phôi nang 106
3.18 Ảnh hưởng của tuổi bò cho tế bào trứng đến số lượng nang
trứng được hút và số lượng tế bào trứng thu được 109
3.19 Ảnh hưởng của tuổi bò cho tế bào trứng đến chất lượng tế
bào trứng 110
3.20 Ảnh hưởng của tuổi bò cho tế bào trứng đến sự phân chia
của hợp tử, phôi dâu và phôi nang 111
3.21 Ảnh hưởng của mùa vụ đến số lượng nang trứng được hút
và số lượng tế bào trứng thu được 114
3.22 Ảnh hưởng của mùa vụ đến chất lượng tế bào trứng 115
3.23 Ảnh hưởng của mùa vụ đến sự phân chia của hợp tử, phôi
dâu và phôi nang 115
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Tên hình Trang Hình
1.1 Cấu tạo của buồng trứng 7
1.2 Sơ đồ tóm tắt quá trình phát triển nang trứng 11
1.3 Phương pháp thu tế bào trứng từ buồng trứng lò mổ 20
1.4 Hệ thống siêu âm hút tế bào trứng 21
1.5 Các hình ảnh thu được khi đầu dò siêu âm ở các vị trí khác
nhau trên buồng trứng 22
1.6 Khả năng thao tác và quan sát buồng trứng của 2 loại đầu dò 24
1.7 Phân chia chất lượng hợp tử 51
1.8 Hợp tử 52
3.1 Tế bào trứng có chất lượng A, B, C và D 70
3.2 Biểu đồ đánh giá số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng,
hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được ở 4 mức
độ áp suất khác nhau 73
3.3 Phương pháp cố định buồng trứng bằng bốn ngón tay 75
3.4 Phương pháp cố định buồng trứng bằng ngón tay trỏ và ngón
tay cái 75
3.5 Nang trứng quan sát được ở tần suất 2 tuần, 1 tuần và ½
tuần/lần 77
3.6 Biểu đồ đánh giá số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng,
hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được ở ba tần
suất khác nhau 83
3.7 Đếm và đo kích thước của các nang trứng 85
3.8 Biểu đồ đánh giá số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng,
hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được ở 3 mức
độ kích thước khác nhau 90
3.9 Buồng trứng ở pha nang trội 92
3.10 Tế bào trứng trước và sau khi nuôi 93
3.11 Biểu đồ đánh giá số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng,
hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được ở hai pha
sóng nang 95
3.12 Một số phôi dâu và phôi nang thu được có chất lượng khác
nhau 101
3.13 Biểu đồ đánh giá số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng,
hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được ở 6 liều
lượng FSH khác nhau 104
3.14 Biểu đồ đánh giá số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng,
hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được ở hai
giống bò cho tế bào trứng khác nhau 108
3.15 Biểu đồ đánh giá số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng,
hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được ở bò 3 tuổi
và bò 6 tuổi 112
3.16 Biểu đồ đánh giá số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng,
hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được ở vụ đông
– xuân và vụ hè - thu 117
3.17 Ảnh hưởng của stress nhiệt lên chất lượng tế bào trứng 119
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Tạo ra đàn bò sữa có năng suất cao, chất lượng sữa tốt, thích nghi với
điều kiện khí hậu nước ta, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ sữa trong nước và giảm
lượng sữa nhập khẩu đang là nhu cầu cấp thiết. Do vậy, công nghệ cấy truyền
phôi đang được các nhà khoa học nước ta quan tâm nghiên cứu để nâng cao
được cường độ chọn lọc, đẩy nhanh được tiến độ di truyền, khai thác được tối
đa tiềm năng sinh sản của bò cái có giá trị di truyền cao (theo Erickson,
1966a) buồng trứng bò trưởng thành có khoảng 70.000 nang trứng nguyên
thủy có thể phát triển, thụ tinh và tạo phôi trong ống nghiệm), rút ngắn được
khoảng cách thế hệ, tăng khả năng thích nghi của đời con sinh ra. Năm 1986,
con bê đầu tiên ở nước ta đã ra đời từ công nghệ cấy truyền phôi. Tiếp theo sự
thành công đó, bê thụ tinh trong ống nghiệm, cắt phôi, xác định giới tính cũng
lần lượt được sinh ra. Song khả năng ứng dụng rộng rãi vào thực tế sản xuất
vẫn còn nhiều hạn chế. Có rất nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những
nguyên nhân chính là do giá thành phôi in vivo còn cao, do sử dụng hormone
ngoại nhập để gây rụng trứng nhiều. Phôi in vitro có giá thành thấp, song chất
lượng chưa cao, do sử dụng tế bào trứng được thu từ buồng trứng lò mổ để
tạo phôi trong ống nghiệm. Vì vậy muốn giải quyết được điều đó chúng ta cần
làm chủ được nguồn cung cấp tế bào trứng có chất lượng tốt để tạo phôi trong
ống nghiệm. Năm 2005, kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng trên bò sống để tạo
phôi trong ống nghiệm bắt đầu được nghiên cứu tại Viện Chăn nuôi, mở ra
một bước ngoặt và triển vọng mới trong việc ứng dụng công nghệ cấy truyền
phôi vào thực tế sản xuất. Kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng trên bò sống cho
phép thu được rất nhiều tế bào trứng từ bê, bò có độ tuổi khác nhau, bò cạn
sữa, bò đang vắt sữa, bò chậm sinh và thậm chí bò đang mang thai tháng thứ 3
thứ 4, với tần suất lên đến 2 lần/tuần và thậm chí 2 - 3 ngày một lần (Galli và
cs., 2003). Do vậy số phôi thu được lên đến 200 phôi/bò/năm và 100 bê sinh
được sinh ra khi số phôi này được cấy chuyển cho bò nhận phôi (Merton và
cs., 2003), cao hơn nhiều so với kỹ thuật gây rụng trứng nhiều (50
phôi/bò/năm, số bê sinh ra khi cấy là 30 bê). Ngoài các tiềm năng đó kỹ thuật
siêu âm hút tế bào trứng thành công cũng góp phần nâng cao hiệu quả và khả
năng ứng dụng của các công nghệ như: cloning, chuyển gen, vi tiêm, bảo tồn
nguồn gen dưới dạng tế bào trứng,…
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến số lượng nang trứng được hút, số
lượng, chất lượng tế bào trứng, phôi dâu và phôi nang thu được khi tiến hành
siêu âm hút tế bào trứng bò để tạo phôi trong ống nghiệm như: Giống, tuổi,
mùa vụ, tần suất hút, các giai đoạn phát triển của đợt sóng nang, áp lực hút,
kích thước nang trứng và rất nhiều yếu tố khác. Chính vì lẽ đó chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài "Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả
của kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng bò để tạo phôi trong ống nghiệm"
2. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá được sự ảnh hưởng các yếu tố đến hiệu quả của kỹ thuật
siêu âm hút tế bào trứng bò để tạo phôi trong ống nghiệm.
- Xác định được các yếu tố phù hợp, tăng số lượng nang trứng được
hút, số lượng tế bào trứng thu được, hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang
thu được.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Đây là một kỹ thuật mới, lần đầu tiên được nghiên cứu và ứng dụng ở
nước ta vào năm 2005. Là kỹ thuật có giá trị kinh tế cao, mở ra một triển vọng
mới trong việc sản xuất và thương mại hóa phôi trong ống nghiệm.
- Nâng cao được chất lượng, số lượng tế bào trứng, từ đó tăng số lượng,
chất lượng phôi dâu và phôi nang. Hạ được giá thành của phôi, tăng khả năng
ứng dụng vào thực tế sản xuất ở nước ta.
- Cho phép thu tế bào trứng liên tục 2 lần/tuần ở bê, bò trưởng thành,
bò chậm sinh và thậm chí bò mang thai trong 3 tháng đầu mà không cần sử
dụng hormone để kích thích.
- Siêu âm hút tế bào trứng không làm ảnh hưởng đến quá trình tiết sữa.
Bò cho tế bào trứng sẽ động dục và sinh sản bình thường sau khi ngừng siêu
âm hút tế bào trứng 7 – 10 ngày.
- Cho phép tạo ra nhiều phôi và bê trên một cá thể bò mẹ có giá trị di
truyền cao.
- Cung cấp tế bào trứng có chất lượng cho các nghiên cứu cơ bản như:
Đông lạnh tế bào trứng, xác định giới tính, cloning, chuyển gen, bảo tồn quỹ
gen dưới dạng tế bào trứng.
- Chủ động được thời gian và số lượng tế bào trứng.
4. Những đóng góp mới của luận án về học thuật và lý luận
- Cơ sở khoa học, phương pháp và kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng là
tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, giảng dạy và học tập.
- Ứng dụng kỹ thuật siêu âm cho phép mở ra một hướng mới trong việc
nghiên cứu quá trình sinh sản, tình trạng sinh sản của bò thông qua việc đánh
giá cấu trúc và hoạt động của buồng trứng. Chẩn đoán bệnh của cơ quan sinh
dục, giới tính thai, điều khiển chu kỳ động dục, đánh giá tình trạng sinh sản
của đàn, điều trị bênh u nang buồng trứng, kiểm tra năng suất bò đực giống từ
những con bê được sinh ra/cùng một cặp bố mẹ.
- Siêu âm hút tế bào trứng có thể thực hiện 2 tuần/lần mà không làm
ảnh hưởng đến chức năng của buồng trứng, sự phát triển của các nang trứng,
số lượng, chất lượng, khả năng thành thục, khả năng thụ tinh, hợp tử phân
chia, khả năng phát triển đến giai đoạn phôi dâu và phôi nang ở bò HF và bò
lai HF được chăm sóc và nuôi dưỡng ở điều kiện nước ta.
- Các tế bào trứng thu được từ nang trứng kích thước 2 mm trở lên có
chất lượng tốt đều có thể thành thục, thụ tinh và phát triển đến giai đoạn phôi
dâu và phôi nang.
- Bò cho tế bào trứng sẽ động dục sau khi ngừng siêu âm hút tế bào
trứng từ 8 - 10 ngày.
- Sau khi siêu âm hút tất cả các nang trứng có kích thước từ 2 mm trở
lên, trong khoảng thời gian 2 ngày một đợt nang trứng có kích thước từ 2 mm
trở lên lại xuất hiện.
- Sử dụng FSH để kích thích trước khi siêu âm hút tế bào trứng làm
tăng số lượng các nang trứng có kích thước từ 2 mm trở lên, làm tăng chất
lượng tế bào trứng do FSH tăng cường sự phát triển các tế bào hạt và tăng
cường sự chuyển hóa của các nang trứng ở các giai đoạn khác nhau.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Buồng trứng
Buồng trứng bò được hình thành khi các gò tuyến sinh dục phát triển
do có sự dày lên của khoang biểu mô ở mặt giữa của trung thận (Dyce và cs.,
1966) và tạo sự liên kết với các mô trung thận bởi rất nhiều tế bào được gọi là
màng sợi giới tính nguyên thủy (Byskov và Hoyer, 1994). Ở gò tuyến sinh
dục, túi noãn hoàng được bao quanh bởi các sợi tế bào mầm (ovigerous) và
được hình thành do có sự bao bọc xung quanh bởi các sợi tế bào mầm, tạo nên
một tổ hợp bao gồm tế bào biểu mô, túi noãn. Các tế bào biểu mô hay các tế
bào soma là các tế bào có nguồn gốc từ khoang biểu mô, có hình lập phương
hay nhân tế bào hình cầu và là tiền thân của các tế bào nang trứng (Hirshfield
và Desanti, 1995). Trung mô hay tế bào cơ chất là tế bào có nguồn gốc từ sự
phân tầng phần mặt ngoài trung thận, nhân kéo dài ra và có sự xuất hiện của
các nguyên bào sợi và làm cho các tế bào mô vỏ (theca cells) tăng lên. Ở phần
cơ sở, các sợi tế bào mầm được liên kết với nhau bởi mô trung thận và ở bề
mặt chúng được liên kết với biểu mô sinh dục. Ở bò gò tuyến sinh dục được
biến đổi thành buồng trứng ở ngày thứ 40 của bào thai. Với sự phân rã của
các sợi tế bào nguyên thủy, buồng trứng phân ra thành phần vỏ và phần tủy
(Erickson, 1966a).
Buồng trứng bò là cơ quan sinh sản của gia súc cái, sản sinh ra tế bào
trứng và các hormone sinh sản của gia súc cái (oestrogen và progestins).
Trong tự nhiên, số lượng tế bào trứng rụng, thụ thai và số con được sinh ra
khác nhau giữa các loài, như: trâu, bò, ngựa,…mỗi chu kỳ động dục chỉ rụng
một tế bào trứng, cá biệt có hai tế bào. Song dê, lợn,…mỗi chu kỳ động dục
lại rụng nhiều tế bào trứng, số lượng tế bào trứng rụng ở lợn lên tới 25 tế bào.
Buồng trứng bò được cấu tạo bao gồm miền tủy bên trong và miền vỏ
bên ngoài, hai miền đó được cấu tạo bằng lớp mô liên kết sợi xốp. Miền tủy
có nhiều mạch máu, thần kinh và mô liên kết. Miền vỏ gồm các tế bào và các
lớp mô có nhiệm vụ tạo ra tế bào trứng, xảy ra quá trình trứng chín, rụng
trứng và tạo ra các hormone (Hình 1.1). Trong cơ thể, buồng trứng được treo
ở cạnh trước dây chằng rộng, nằm trong xoang chậu. Ở bò chúng ta có thể xác
định được bằng tay khi khám qua trực tràng. Buồng trứng thường có hình
ovan dẹt, song hình dáng và kích thước của buồng trứng sẽ bị thay đổi và biến
dạng do sự phát triển của nang trứng và sự tồn tại của thể vàng . Kích thước
của buồng trứng to hay nhỏ phụ thuộc rất nhiều vào giống, tuổi của bò. Kích
thước bình quân của buồng trứng ở bò Lai Sind là 23,45 x 16,50 x 11,55 mm
và ở bò sữa 35 x 25 x 15 mm (Bearden và Fuquay, 2000) và 4 x 2 x 1,5 cm
(Dyce và cs., 1987). Buồng trứng được xem như một tuyến nội tiết của con
cái, làm nhiệm vụ nuôi dưỡng cho trứng chín, tiết ra các hormone sinh dục,
tác động đến chức năng của tử cung và làm thay đổi tính biệt giữa con đực và
con cái.
Khi buồng trứng có các nang trứng thành thục, các tế bào hạt trong biểu
mô nang trứng tiết ra nhiều oestrogen, oestrogen có chức năng tới đặc tính
sinh dục thứ cấp của gia súc cái làm âm đạo tiết ra nhiều dịch nhầy, âm hộ
xung huyết đỏ, sừng tử cung và ống dẫn trứng dinh dưỡng được tăng cường,
tuyến vú phát triển, vỏ não hưng phấn con vật xuất hiện động dục. Đồng thời
tiết ra hormone progesterone từ thể vàng đi vào máu sau khi rụng trứng, có
tác dụng kích thích niêm mạc tử cung, tăng cường dinh dưỡng, màng nhầy
phát triển để trứng được thụ tinh về nơi làm tổ, đồng thời còn tác dụng tới tế
bào biểu mô màng nhầy tử cung tiết ra nhiều glycogen và các chất dinh dưỡng
nuôi phôi, giúp phôi bám chặt vào thành tử cung và phát triển. Progesterone
còn ức chế nang trứng chín trên buồng trứng, thông qua sự ức chế của FSH ức
chế cơ trơn tử cung làm giảm co bóp, giảm hormone thùy sau tuyến yên làm
cho tử cung yên tĩnh trong thời gian mang thai. Ngoài ra progesterone còn
kích thích tuyến vú phát triển. Lớp ngoài cùng của miền vỏ buồng trứng là
biểu mô bề mặt. Ngay bên dưới biểu mổ bề mặt là một lớp mỏng, dày đặc các
mô liên kết, phía dưới lớp mô dày đặc là nhu mô có chứa nang trứng và các tế
bào phân tiết hormone buồng trứng. Sự hình thành của chức năng buồng trứng
phụ thuộc vào: Giai đoạn đầu của phân bào giảm nhiễm, quá trình hình thành
nang trứng và sự khác nhau của các tế bào sản sinh steroid.
Nang trứng nguyên thủy
Nang trứng sắp rụng
Nang trứng rụng
Tế bào trứng
Nang trứng Đang phát triển (Tertiary)
Nang trứng thứ cấp
Thể huyết
Nang trứng thoái hóa
Thể vàng
Thể bạch
Hình 1.1. Cấu tạo của buồng trứng (Nguồn: Bearden và Fuquay, 2000)
1.2. Tế bào trứng
1.2.1. Sự hình thành tế bào mầm nguyên thủy
Nguồn gốc của tế bào trứng là tế bào mầm nguyên thủy. Tế bào mầm
nguyên thủy được hình thành từ nội bì của túi noãn hoàng ở thời kỳ phôi thai
(Byskov và Hoyer, 1994; Senger, 1997). Tế bào mầm nguyên thủy di chuyển
theo kiểu amip từ biểu mô của túi noãn hoàng theo đường mặt lưng màng treo
ruột của đoạn cuối ruột phôi và di chuyển đến các gò tuyến sinh dục (Senger,
1997) khi bào thai được 35 - 36 ngày tuổi ở bò (Erickson, 1966b). Các gò
tuyến sinh dục là túi sinh dục chưa được phân hóa và được hình thành ở ngày
thứ 32 của bào thai bò (Erickson, 1966b). Các yếu tố giúp cho tế bào mầm
nguyên thủy di chuyển được đến gò tuyến sinh dục vẫn chưa được hiểu rõ
ràng. Tuy nhiên khi nghiên cứu in vivo (French-Constant và cs., 1991) và
nghiên cứu in vitro (Alvarez và Merchan, 1986) đều thấy có sự tham gia của
fibronectin, fibronectin có mặt trên đường đi từ biểu mô của túi noãn hoàng
đến gò tuyến sinh để tạo nên sự di chuyển của tế bào mầm nguyên thủy
(French-Constant và cs., 1991). Nghiên cứu in vitro trên chuột cho thấy rằng
yếu tố sinh trưởng biến đổi β1 (Transforming growth factor β1) được tạo ra
bởi tuyến sinh dục liên quan đến dãy hóa chất (Godin và Wylie, 1991), ảnh
hưởng đến tế bào mầm nguyên thủy làm cho chúng di chuyển theo một
phương hướng nhất định. Cũng nghiên cứu trên chuột (De Felici và Pesce,
1994) thấy rằng bộ giao tử (Kit Gland) cần thiết cho sự sống sót và sự phát
triển của tế bào mầm nguyên thủy khi di chuyển (Kit Ligand cũng được gọi là
yếu tố tế bào mầm hay yếu tố tế bào lớn). Kit Ligand kích thích lên mô xôma
của phôi chuột dọc theo đường di chuyển của tế bào mầm và ở các gò tuyến
sinh dục. Ảnh hưởng qua lại giữa tế bào mầm nguyên thủy và Kit Ligand thúc
đẩy sự di chuyển của tế bào mầm nguyên thủy và tăng nhanh sự phát triển của
tế bào mầm nguyên thủy thông qua quá trình ngăn chặn tế bào chết theo
chương trình (De Felici và Pesce, 1994).
1.2.2. Sự phát triển của tế bào mầm nguyên thủy thành túi noãn
Các tế bào mầm nguyên thủy trải qua một sự giới hạn về số lượng của
các quá trình phân chia nguyên nhiễm khi đang di chuyển cũng như khi đến
gò tuyến sinh dục (Russe, 1983; Smitz và Cortvrindt, 2002). Quá trình phân
chia nguyên nhiễm xảy ra ở gò tuyến sinh dục thường xuyên hơn so với khi
chúng đang trên đường di chuyển đến gò tuyến sinh dục. Ở bò có sự tăng lên
đột ngột về số lượng phân chia nguyên nhiễm ở mỗi buồng trứng bắt đầu ở
ngày thứ 60 của bào thai (304 lần gián phân/ngày so với 13 lần/ngày ở ngày
thứ 50) (Erickson, 1966b). Ở thời kỳ này cường độ phân chia nguyên nhiễm
rất mạnh. Khi tế bào mầm nguyên thủy ngừng di chuyển và cố định vào gò
tuyến sinh dục để phân chia thì chúng được gọi là túi noãn (Russe, 1983;
Smitz và Cortvrindt, 2002). Có thể được phân biệt túi noãn với tế bào mầm
nguyên thủy dựa vào mức độ tế bào, do túi noãn có nhiều cơ quan tế bào, đặc
biệt là màng lưới nội chất và các ống có chứa các ty lạp thể. Các ty lạp thể có
chứa ATP và các enzim liên quan đến các hoạt động của tế bào (Russe, 1983).
Các tế bào mầm di chuyển đến gò tuyến sinh dục trong một khoảng
thời gian nhất định, do vậy chúng được tìm thấy ở các chu kỳ nguyên nhiễm
khác nhau trong các nhóm tế bào mầm phân chia. Trong quá trình buồng
trứng phát triển các tế bào mầm nguyên thủy di chuyển trước sẽ trưởng thành
sớm hơn, các tế bào mầm nguyên thủy di chuyển đến muộn và nằm ở phần
sâu của tuyến sinh dục phát triển. Phần ngoại vi của tế bào mầm nguyên thủy
hoạt động như các tế bào gốc để tạo ra các túi noãn mới (Russe, 1983).
1.2.3. Sự phát triển của túi noãn thành tế bào trứng
Quá trình phân chia nguyên phân của túi noãn dừng lại vào khoảng
ngày thứ 150 của bào thai, ấn định số lượng tế bào mầm của bò cái. Số lượng
tế bào mầm giữa 2 buồng trứng phải và trái chỉ có sự khác nhau khoảng 10 %.
(Erickson, 1966b).
Ở bò, sự phân bào giảm nhiễm của túi noãn bắt đầu sau khi bào thai
được 75 - 80 ngày tuổi, các tế bào mầm của túi noãn tăng lên sau khi bắt đầu
quá trình phân bào giảm nhiễm và được xem như tế bào trứng sơ cấp (Byskov
và Hoyer, 1994). Sự phân bào giảm nhiễm của tế bào trứng sơ cấp không tiếp
tục vượt quá giai đoạn sợi dày của tiền kỳ phân bào I (Erickson, 1965). Ở giai
đoạn sợi dày của tiền kỳ phân bào I, các nhiễm sắc thể tập hợp lại, được gói
vào trong nhân tế bào trứng và được gọi là túi mầm. Các tế bào trứng tương
đối sáng và dễ nhận biết vì có sự tăng lên về kích thước tế bào do tăng lên của
tế bào chất và sự phồng lên của nhân (Russe, 1983).
1.3. Nang trứng
1.3.1. Sự hình thành nang trứng nguyên thủy
Sự hình thành nang trứng nguyên thủy được bắt đầu khi một lớp màng
bao gồm các tế bào biểu mô dẹt tập hợp lại xung quanh tế bào trứng và bao
bọc các tế bào trứng lại thành nang trứng nguyên thủy. Các tế bào trứng và
các tế bào nang trứng phụ thuộc lẫn nhau. Tế bào trứng cần phải có các tế bào
hạt để phát triển và sống sót (Picton, 2001). Ở giai đoạn này có sự xuất hiện
các tế bào theca, sự có mặt của tế bào theca có thể là sự bắt đầu cho quá trình
phát triển của nang trứng. Các tế bào theca có mặt trong nang trứng nguyên
thủy và nang trứng sơ cấp ở thỏ (Hirshfield, 1991). Do vậy có thể sự tương tác
giữa các tế bào hạt và tế bào theca có thể đóng vai trò điều chỉnh sự phát triển
và biệt hóa các nang trứng ở tất cả các giai đoạn hình thành nang.
Khi bào thai được khoảng 18 - 22 tuần, lớp vỏ của buồng trứng có số
lượng nang trứng nguyên thủy cao nhất, bình quân khoảng 300.000 nang
trứng nguyên thủy, song phụ thuộc vào từng cá thể khác nhau mà số lượng
nang trứng nguyên thủy biến động từ 25.000 đến 2,5 triệu. Nang trứng
nguyên thủy chứa tế bào trứng chưa trưởng thành và được bao quanh bởi tế
bào hạt dẹt. Nhưng số lượng nang trứng này giảm dần trước khi sinh và đến
tuổi thành thục về tính chỉ còn khoảng 180.000, biến động 25.000 đến 1,5
triệu nang trứng nguyên thủy do túi noãn trải qua giai đoạn tiền kỳ giảm
nhiễm làm túi noãn bị tổn thương dẫn đến thoái hóa và nhiều túi noãn bị mất
đi trong quá trình này (Russe, 1983). Các tế bào trứng không bị thoái hóa
được một lớp màng đơn của các tế bào biểu mô dẹt tập hợp lại xung quanh và
bao quanh chúng tạo thành nang trứng nguyên thủy. Ở bò cái sau khi sinh có
khoảng 133.000 nang trứng nguyên thủy và các nang trứng này từ từ phát
triển thành thục (rụng trứng và thoái hóa cho đến hết khi bò khoảng 15 - 20
tuổi (Erickson, 1966b).
1.3.2. Sự phát triển của nang trứng
Từ nang trứng nguyên thủy, sự phát triển của nang rứng trải qua quá
trình hồi phục, phát triển sau một giai đoạn dài yên lặng. Bao gồm thay đổi
của các chuỗi tế bào, sự thay đổi các thành phần khác nhau của nang trứng,
đảm bảo cho sự phát triển của các nang trứng đến khi rụng trứng và giải
phóng một hay nhiều tế bào trứng trưởng thành ở khoảng cách được ấn định
từ đầu đến khi kết thúc vòng đời sinh sản của con cái. Từ nang trứng nguyên
thủy để đạt đến kích thước rụng trứng trải qua 3 giai đoạn: Sơ cấp, thứ cấp và
nang trứng ở giai đoạn phát triển (Hình 1.2).
Nang trứng đã hình thành xoang
Nang trứng thứ cấp
Nang trứng sắp rụng
Rụng trứng
Nang trứng sơ cấp
Nang trứng nguyên thủy
Tế bào trứng Tách nhau ra
Xoang
Màng tế bào Theca
Ổ trứng
Vành phóng xạ
Thể vàng
Các tế bào cumulus
Tế bào trứng
Các tế bào hạt hình trụ
Các tế bào hạt dẹt
Tế bào trứng
Tiền tế bào hạt
Các tế bào thể vàng
Hình 1.2. Sơ đồ tóm tắt quá trình phát triển nang trứng
(Nguồn: Hernandez-Ochoa và cs., 2009)
Sự phát triển của nang trứng bắt đầu ngay sau khi nang trứng nguyên
thủy hoạt hóa và sự biệt hóa của tiền các tế bào hạt thành tế bào hạt. Sự phát
triển đầu tiên của tế bào trứng được thể hiện thông qua sự phát triển của vùng
Golgi, do các nang bao quanh tế bào và sự lan rộng dần của Golgi về phía
ngoại vi. Sự phát triển của nang trứng được tạo thành do số lượng lớp màng tế
bào hạt tăng lên xung quanh tế bào trứng cùng với sự tăng lên về kích thước
tế bào trứng và hình thành vòng trong suốt. Sự tích tụ của vùng Golgi trong tế
bào trứng cho thấy có sự tham gia của tế bào trứng cho sự hình thành vòng
trong suốt. Trong quá trình hình thành vòng trong suốt, sự bao quanh của các
tế bào hạt làm chúng liên kết lại với nhau bởi các tiểu thể nối gian bào. Các tế
bào hạt được gọi là tế bào vành phóng xạ. Cùng với độ dày của màng vòng
trong suốt tăng lên các tế bào vành phóng xạ cần phát triển để liên kết tế bào
trứng và vòng trong suốt lại với nhau (Russe, 1983; Adashi, 1996). Mạng lưới
mao mạch bên ngoài nang trứng là cơ sở để màng tăng lên trong quá trình
nang trứng phát triển. Các mao mạch xuất hiện trong giai đoạn nang trứng
nguyên thủy và một số tĩnh mạch xuất hiện khi nang trứng phát triển đến giai
đoạn thứ cấp (Tanaca và cs., 2001). Trong giai đoạn nang trứng nguyên thủy
các mao mạch được phát hiện xung quanh nang trứng cùng với sự liên kết
đồng tâm và sự biệt hóa của tế bào cơ chất thành tế bào mô vỏ (theca) bên
trong. Sự phát triển của nang trứng cho đến giai đoạn này thì được xem như
nang trứng nang trứng thứ cấp (preantral). Nang trứng tiếp tục phát triển, các
túi dịch của dịch nang trứng xuất hiện trong màng tế bào hạt. Khi 5 - 8 lớp
màng tế bào hạt được hình thành, các túi dịch vỡ ra hình thành một xoang và
sau đó nang trứng phát triển, được gọi là nang trứng phát triển (nang antral
hay nang Graff), bao gồm các nang trứng từ giai đoạn thứ cấp đến nang trứng
trước khi rụng trứng (Lundy và cs., 1999). Toàn bộ quá trình phát triển
của nang trứng từ giai đoạn tế bào trứng nguyên thủy (kích thước 50 -
60 µm) đến giai đoạn rụng trứng (kích thước 10 - 15 mm) mất khoảng 180
ngày (Lussier và cs., 1987). Thời gian từ khi nang trứng nguyên thủy hoạt hóa
để đạt được kích thước rụng trứng mất 80 đến 100 ngày, do vậy nang trứng
thứ cấp cuối cùng sẽ mất hai chu kỳ động dục để đạt được kích thước rụng
trứng (Lussier và cs., 1987). Khoảng thời gian này cho phép hình thành vòng
trong suốt (vòng trong suốt là glycoprotein bao bọc xung quanh màng tế bào
trứng, bắt đầu xuất hiện ở thời kỳ tế bào trứng nguyên thủy, rất quan trọng
cho sự sống của tế bào trứng, sự tích lũy các sản phẩm cần thiết cho quá trình
thụ tinh, quá trình thụ tinh và phôi phát triển giai đoạn đầu).
Nang trứng ở giai đoạn nang trứng phát triển phát triển và hình thành
các xoang trong nang trứng. Các xoang chứa đầy dịch nang trứng. Các xoang
bắt đầu xuất hiện trong nang trứng bò có kích thước 0,12 và 0,28 mm (Lussier
và cs., 1987; Monniaux và cs., 1997). Các xoang bắt đầu xuất hiện trong bào
thai bê khoảng 230 ngày tuổi (Russe, 1983). Nang trứng ở giai đoạn phát triển
có mạng lưới lỗ hổng rộng rãi cho phép vận chuyển dinh dưỡng và điều chỉnh
thông tin giữa tế bào trứng và các tế bào hạt (Espey, 1994). Các tế bào hạt có
được cơ quan thụ cảm LH khi nang trứng có kích thước 8 - 9 mm (Ireland và
Roche, 1983). Một khoảng trống riêng biệt được tạo thành giữa tế bào trứng
và màng trong suốt ngay trước khi rụng trứng. Máu cung cấp của màng theca
thay đổi đột ngột trong giai đoạn cuối của nang trứng trưởng thành và phát
triển thành hệ thống mạch máu bên trong tế bào theca và một hệ thống mạch
máu bên ngoài có nguồn gốc từ mao mạch mô đệm (Yamada và cs., 1995).
Nang trứng tiếp tục được huy động cho đến khi kho dự trữ bị cạn kiệt.
Số lượng nang trứng ở bò được phân chia tương đối đều giữa hai buồng trứng.
Nang trứng bò phát triển gấp 300 - 400 về kích thước, từ giai đoạn tế bào
trứng sơ cấp (kích thước 50 µm) đến trước giai đoạn rụng trứng (kích thước
15- 20 mm) (Rajakoski, 1960).
Các nang trứng ở các giai đoạn khác nhau có cấu tạo, kích thước khác
nhau. Nghiên cứu về các giai đoạn phát triển của nang trứng (Braw-Tal và
Yossefi, 1997) ở bò cho thấy có sự khác nhau (Bảng 1.1).
Nang trứng
Lớp tế bào hạt
Kích thước nang trứng (µm)
Kích thước tế bào trứng (µm)
Số lượng tế bào hạt (dao động)
Sự xuất hiện của vòng trong suốt
1
< 40
29,7 ± 0,3
-
Nguyên thủy
Sơ cấp
1- 1,5
40 – 80
31,1± 0,4
-
< 10 (hình dẹt) 10 - 40 (hình khối)
2 – 3
41 – 100
81 – 130
49,5 ± 2,4
-
4 – 6
101 – 250
131 – 250
68,6 ± 2,8
+
> 6
> 250
250 – 500
92,9 ± 4,5
++
Nang sơ cấp nhỏ Nang sơ cấp lớn Nang Graff nhỏ
Bảng 1.1. Đặc điểm phát triển của nang trứng bò ở giai đoạn đầu
Nguồn: Braw-Tal và Yossefi (1997).
1.3.3. Chức năng của nang trứng
Nang trứng là một khối thống nhất chặt chẽ, có nhiều loại tế bào riêng
biệt. Nang trứng bao gồm một số lớp tế bào xôma bao quanh, bên trong chứa
đầy dịch, trong dịch có chứa tế bào trứng. Dịch trong xoang của nang trứng
được gọi là dịch nang trứng. Nang trứng cung cấp tiểu môi trường để tế bào
trứng phát triển từ giai đoạn nguyên thủy đến giai đoạn tiền rụng trứng và
chịu trách nhiệm sản suất ra các hormone (Gordon, 1994). Lớp vỏ của nang
trứng tiền rụng trứng bao gồm màng tế bào hạt, tế bào theca interna và tế bào
theca externa. Các tế bào hạt là các tế bào có nguồn gốc từ các tế bào biểu
mô, rất cần thiết cho quá trình phát triển và sự sống sót của tế bào trứng. Các
tế bào hạt không phải là các mô đồng nhất mà là các tập hợp con đặc biệt bao
gồm vành phóng xạ, tế bào cumulus và các tế bào hạt của nang phát triển. Tế
bào cumulus là tập hợp con của tế bào hạt bao bọc xung quanh tế bào trứng.
Các tế bào cumulus có mối liên kết chặt chẽ với tế bào trứng và được biết đến
như vành phóng xạ. Chúng liên kết chặt chẽ với các tế bào trứng qua khe liên
kết của tế bào chất qua vòng trong suốt (zona pellucida). Vành phóng xạ liên
kết tế bào trứng với các tế bào cumulus khác qua chỗ nối các khe hở vì thế tạo
nên dòng điện hợp bào sinh học (De loos và cs., 1991). Các tế bào cumulus
nuôi dưỡng tế bào trứng và tham gia hình thành vòng trong suốt (Buccione và
cs., 1990). Ngoài ra các tế bào cumulus cũng tham gia vào sự điều chế hay tạo
ra chất ức chế sự phát triển của tế bào trứng (Eppig và Downs, 1984).
1.3.4. Sự hình thành sóng nang
Ở bò và một số loài động vật có vú khác, kiểu phát triển của các nang
trứng trong giai đoạn trưởng thành có đặc điểm như làn sóng, sóng này theo
chu kỳ và phát triển đồng thời của một nhóm nang trứng (Adams, 1999). Các
nghiên cứu gần đây cho thấy các nang trứng có kích thước 1 - 3 mm cũng
phát triển theo kiểu sóng. Các kiểu nang trứng phát triển theo sóng ở bê được
nghiên cứu cách đây hàng chục năm (Rajakoski, 1960) sử dụng số liệu mô
học của buồng trứng lấy từ các con bê khác nhau ở các ngày khác nhau của
chu kỳ. Tuy nhiên gần đây các kiểu nang trứng phát triển theo sóng được xác
nhận sử dụng máy siêu âm để siêu âm các nang trứng.
Ở bò có 2 - 3 đợt sóng nang phát triển trong một chu kỳ tính. Trong
mỗi sóng có một nang trứng phát triển nhanh hơn các nang trứng khác và trở
thành nang trội. Mặc dù nang trội của mỗi đợt sóng nang có khả năng phát
triển đến rụng trứng, nhưng do bị progesterone của thể vàng ức chế nên không
phát triển đến giai đoạn rụng trứng mà bị thoái hóa, chỉ có một nang trội của
đợt sóng nang cuối cùng phát triển đến giai đoạn rụng trứng. Nang trứng của
đợt sóng nang cuối cùng phát triển đến giai đoạn rụng trứng do progesterone
giảm do thể vàng thoái hóa. Sự có mặt của progesterone ở pha thể vàng làm
cho các nang trứng trội bị thoái hóa và đợt sóng nang mới lại xuất hiện.
Độ dài pha thể vàng của chu kỳ động dục sử dụng progesterone ngoại
sinh làm kéo dài chu kỳ động dục và tạo ra sự luân chuyển của nang trội.
Nồng độ progesterone cao hơn ức chế sự liên tục của sóng LH (Luteinising
Hormone), hormone hoàng thể hóa do tuyến yên tiết ra, có tác dụng kích thích
rụng trứng và phát triển thể vàng ở con cái làm cho nang trội có thời gian
sống ngắn hơn. Progesterone ức chế sự ảnh hưởng lên sự phát triển của pha
nang trội do vậy các mức độ progesterone của thể vàng bình thường thúc đẩy
sự thoái hóa của các nang trội và tạo ra sóng nang mới (Adams và cs., 1992).
Tăng tính liên tục của nhịp LH kéo dài sự phát triển của nang trội và tạo ra
các cơ chất để tổng hợp estradiol, tăng nồng độ estradiol trong máu từ nang
trội. Nồng độ estradiol trong máu cao ức chế các sóng FSH và làm cho các
nang trứng 5mm hay lớn hơn không xuất hiện và hình thành các nang trội mới
(Sirois và Fortune, 1990).
Ở chu kỳ động dục thường có 2 đợt sóng nang, các nang trứng rụng
phát triển ở trong trạng thái progesterone cao trong 7 ngày so với chu kỳ có 3
đợt sóng nang. Thêm vào đó sự phát triển nang trứng rụng ở chu kỳ động dục
có 2 đợt sóng nang, trong khoảng thời gian lâu hơn chu kỳ động dục có 3 đợt
sóng nang ( 11 ngày so với 7 ngày) và do vậy nang trứng rụng ở chu kỳ động
dục có 2 đợt sóng nang có kích thước to hơn (17mm so với 14mm) (Ginther
và cs., 1989). Do thời gian phát triển của nang trứng ở chu kỳ động dục có 2
đợt sóng nang dài hơn chu kỳ động dục có 3 đợt sóng nang do vậy các nhà
nghiên cứu đã nghiên cứu và so sánh tỉ lệ có chửa và một số các tác giả cho
rằng ở chu kỳ có hai đợt sóng nang tỉ lệ có chửa thấp hơn ( Townson và cs.,
2002), song một số tác giả khác lại cho thấy không có sự khác nhau (Ahmad
và cs., 1997) về tỉ lệ có chửa ở bò có hai đợt sóng nang trong chu kỳ động
dục.
1.4. Hormone
1.4.1. Cơ chế điều khiển của hormone đến sự phát triển nang trứng
Hypothalamus tiết hormone giải phóng GnRH (Gonadotropin
Releasing Hormone) vào hệ thống động mạch vùng dưới đồi - tuyến yên làm
thùy trước tuyến yên tăng tiết FSH và LH, kích thích sự phát triển nang trứng.
Trong hàng loạt các nang phát triển xuất hiện nang trứng phát triển nhanh hơn
trở thành nang trội. Estradiol và Inhibin được tổng hợp từ các tế bào hạt của
nang trội, tạo ra một hàm lượng estradiol và Inhibin tăng cao. Estradiol tác
động ngược dương tính vào hypothalamus, kích thích hàm lượng LH tăng cao
kích thích nang trội giải phóng tế bào trứng. Insulin tác động ngược âm tính
làm giảm hàm hàm lượng FSH dưới ngưỡng cần thiết đối với sự tồn tại của
các nang còn lại làm thoái hóa các nang trứng còn lại. Song ở hàm lượng FSH
thấp nang trội vẫn có khả năng phát triển và rụng trứng do nang trội có sự
mẫn cảm với FSH nhờ sự có mặt của IGF-1 (Insulin liked Growth Factor-1:
Yếu tố sinh trưởng giống Insulin) trong tế bào với hàm lượng cao hơn và
nang trội có cơ quan thụ thể để tiếp nhận LH trên các tế bào hạt sớm hơn các
nang khác và do vậy khả năng sống của nang trội dưới các nồng độ FSH cơ sở
(Campbell và cs., 1995) nên nang trội phát triển đến giai đoạn rụng trứng mà
không bị thoái hóa trong điều kiện FSH thấp.
1.4.2. Vai trò của FSH
FSH là một glycoprotein tìm thấy ở người và các động vật khác nhau,
được tổng hợp và tiết ra bởi các tế bào nội tiết của thùy trước tuyến yên. FSH
có chức năng điều hòa quá trình sinh trưởng, phát triển, thành thục về tính và
các quá trình sinh sản của cơ thể. FSH hoạt động thông qua sự liên kết vào
các receptor đặc trưng, được định vị vào một nơi riêng biệt trên tế bào hạt của
nang trứng và các tế bào hạt trên buồng trứng là vị trí đích để FSH hoạt động.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng FSH rất cần thiết cho tất cả các giai
đoạn phát triển của nang trứng như: Chuyển hóa tiền các tế bào hạt dẹt thành
các tế bào hình lập phương, phát triển các nang trứng thứ cấp và chuyển hóa
nang trứng từ nang trứng thứ cấp thành nang trứng phát triển do FSH ảnh
hưởng trực tiếp lên sự hình thành nang.
Vai trò của FSH trong sự điều khiển phát triển các nang trứng nhỏ (< 1
mm) được rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và đến nay vẫn có
nhiều quan điểm trái ngược nhau. Một số tác giả cho rằng FSH không có chức
năng đối với các nang trứng ở trước giai đoạn nang trứng thứ cấp ở bò cũng
như các loài động vật có vú khác (Wandij và cs., 1992; Tanaka và cs., 2001).
Song một số tác giả gần đây nghiên cứu cho thấy, FSH đóng vai trò trong sự
phát triển của nang trứng giai đoạn đầu, thiếu lượng FSH tối thiểu có thể làm
giảm tỉ lệ phát triển của nang trứng nhỏ do kéo dài thời gian cần thiết để các
tế bào hạt phát triển (Govan and Black, 1975; Lussier và cs., 1987). FSH là
yếu tố đầu tiên điều khiển quá trình phát triển của nang trứng ở tất cả các giai
đoạn khác nhau. Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa sự xuất hiện của nang
trứng trong giai đầu của thời kỳ mang thai và hàm lượng FSH trong huyết
thanh của bào thai cái, thấy rằng trong thai cũng như ở bò trưởng thành, số
lượng của các nang trứng và các giai đoạn phát triển của nang trứng được
đánh giá thông qua sự thay đổi nồng độ FSH (Tanaka và cs., 2001). Ở bò
ngay sau khi các nang trứng nguyên thủy được hoạt hóa, thụ thể FSH (FSH
receptor) được thể hiện lên các màng tế bào hạt. Nghiên cứu ở loài gặm nhấm
cho thấy rằng FSH cần thiết cho quá trình thành thục của tiền các tế bào hạt
dẹt thành các tế bào hạt hình lập phương (Lintern, 1977), các tế bào hình lập
phương này đánh dấu cho sự chuyển đổi của quá trình hoạt hóa nang trứng
nguyên thủy thành nang trứng sơ cấp. Sự ức chế của FSH hạn chế quá trình
hoạt hóa nang trứng nguyên thủy thành nang trứng sơ cấp. Như vậy chúng ta
có thể thấy rằng FSH cần thiết cho tất cả các giai đoạn phát triển của nang
trứng như: Chuyển hóa các tế bào hạt thành các tế bào hạt hình lập phương,
phát triển các nang trứng giai đoạn thứ cấp, chuyển hóa nang trứng từ giai
đoạn thứ cấp thành nang trứng phát triển và phát triển đến khi rụng trứng, qua
đó ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành các xoang của nang trứng.
Sự phát triển của các nang trứng ở giai đoạn phát triển, có kích thước >
1mm phụ thuộc vào nồng độ FSH trong hệ thống tuần hoàn. Trước khi rụng
trứng nồng độ FSH của nang trứng có kích thước 4 - 5 mm lặp đi lặp lại giống
như sóng và hàm lượng FSH bắt đầu giảm sau khi nang trứng lớn hơn 5 mm.
Estradiol và inhibin từ nang trứng 4 - 5 mm dần tăng tiết tạo ra sự phản hồi
âm tính cho FSH ở trục dưới đồi tuyến yên (Adams và cs., 1992). Sự suy
giảm FSH đến hàm lượng cơ sở xảy ra đồng thời với sự lựa chọn một nang
trội. Ở bê duy trì nồng độ FSH khi xử lý gây rụng trứng nhiều, làm ức chế quá
trình lựa chọn nang trội làm cho nhiều nang trứng phát triển.
1.5. Thu tế bào trứng
1.5.1. Thu tế bào trứng từ buồng trứng lò mổ
Buồng trứng được thu từ lò mổ đóng một vai trò quan trọng, liên quan
mật thiết đến chất lượng và khả năng phát triển về sau, vì vậy buồng trứng bò
sau khi giết mổ được rửa sạch sẽ và bảo quản trong dung dịch NaCL 0,9%, bổ
sung 100.000 IU penicillin/ml và 100 µg streptomycin/ml (Nguyễn Văn Lý,
2006) hoặc trong môi trường mDPBS (Yang và Lu., 1990), duy trì ở nhiệt độ 20 – 37 0C và đưa về phòng thí nghiệm trong khoảng thời gian 2 – 6 h để thu
tế bào trứng. Ngay sau khi buồng trứng được mang về từ lò mổ, tiến hành
khai thác tế bào trứng bằng phương pháp giải phẫu nang trứng hoặc hút dịch
nang trứng (Hình 1.3)
Phương pháp phẫu thuật là phương pháp sử dụng dao vô trùng để rạch
các nang trứng quan sát được, dùng dịch mDPBS có bổ sung100.000 IU
penicillin/ml và 100 µg streptomycin/ml để rửa. Phương pháp này thường cho
số lượng tế bào trứng cao hơn phương pháp hút nhưng chất lượng tế bào
trứng thấp hơn do một số nang trứng bé không mong muốn cũng bị rạch, khả
năng vô trùng thấp và tốn nhiều thời gian hơn. Do vậy hiện nay phương pháp
thường được sử dụng là sử dụng kim để hút các nang trứng quan sát được sử
dụng áp lực của xi lanh do tay tạo ra hoặc một số tác giả sử dụng máy siêu âm
để hút, phương pháp này nhanh hơn 4.3 lần so với phương pháp rạch nang
trứng (Wahid và cs., 1992). Hamano và kawajama. (1993) thu được 30 tế bào
trứng/buồng trứng/lần khi sử dụng phương pháp rạch nang trứng. Nhìn chung
kết quả nghiên cứu còn nhiều biến động giữa hai phương pháp. Tuy nhiên
thực tế cho thấy rằng, phương pháp sử dụng kim để thu tế bào trứng cho phép
chủ động thu được những nang trứng có chất lượng tốt hơn, do hạn chế sự
Phương pháp rạch Phương pháp hút
tiếp xúc của tế bào trứng với môi trường xung quanh.
Hình 1.3. Phương pháp thu tế bào trứng từ buồng trứng lò mổ
1.5.2. Thu tế bào trứng từ bò sống
Thành công của kỹ thuật thu tế bào trứng từ bò sống đã mở ra một triển
vọng mới trong công nghệ cấy truyền phôi cũng như các kỹ thuật khác sử
dụng tế bào trứng. Có nhiều phương pháp khác nhau được sử dụng để thu tế
bào trứng từ bò sống như: Phương pháp mổ bụng, phương pháp nội soi
(Holland và cs., 1981; Lambert và cs., 1983; Schellander, 1989), phương pháp
phẫu thuật mở âm đạo (Callesen và cs., 1987). Các phương pháp trên hầu hết
có nhiều nhược điểm, như sự viêm nhiễm, viêm dính màng bụng, số lượng tế
bào trứng ít, chất lượng tế bào trứng thấp và tốn kém. Để khắc phục được các
nhược điểm đó Pieterse và cs. (1988) đã nghiên cứu thành công phương pháp
siêu âm hút tế bào trứng trên bò sống và hiện nay được ứng dụng rộng rãi. Sử
dụng hệ thống máy siêu âm hút tế bào trứng bao gồm nhiều bộ phận (Hình
1.4) như: Màn hình siêu âm, đầu dò siêu âm được gắn với hệ thống dẫn kim,
máy tạo áp lực chân không, bộ phận ổn nhiệt, hệ thống dây dẫn, ống đựng
dịch,… Ống dẫn dịch hút nang trứng
Đầu dò siêu âm
Màn hình siêu âm
Bình ổn nhiệt
Các phím chức năng
Máy tạo áp lực
Hình 1.4. Hệ thống siêu âm hút tế bào trứng
Để quan sát được số lượng, kích thước và hút được tế bào trứng. Đầu
dò siêu âm giống như lưỡi dao cắt ngang buồng trứng, hình ảnh quan sát được
là hình ảnh có được trên đường đi của lát cắt đó. Khi quan sát chúng ta phải
dịch chuyển buồng trứng theo nhiều vị trí khác nhau để quan sát toàn diện
được các chi tiết của buồng trứng, mỗi lần dịch chuyển buồng trứng sẽ có lát
cắt khác nhau và thu được hình ảnh tương ứng với mỗi vị trí. Khi buồng trứng
được cắt vào bờ nhỏ ta thu được mặt cắt nhỏ và khi đầu dò vào vị trí lớn nhất
của buồng trứng ta thu được mặt cắt lớn nhất của buồng trứng. Tương tự các
nang trứng và thể vàng cũng thu được kích thước tương tự khi vị trí của đầu
dò ở các vị trí khác nhau. Do cấu tạo của buồng trứng gồm miền vỏ và miền
tủy nên khi khi đầu dò siêu âm ở vào vị trí lớn nhất của buồng trứng chúng ta
sẽ không thấy nang trứng hay thể vàng ở phần giữa lát cắt (Hình 1.5).
Sau khi Pieterse và cs. (1988) thành công, Siêu âm hút tế bào trứng trên
bò sống được rất nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Một
bước ngoặt mới trong nghiên cứu và sản xuất phôi bò in vitro đã được mở ra.
Thay thế nguồn tế nguồn tế bào trứng được khai thác từ buồng trứng được thu
từ lò mổ. Sự khác biệt về giá trị và khoa học là rất lớn, bởi việc khai thác tế
bào trứng từ lò mổ mất nhiều công sức, số lượng tế bào trứng không chủ
động, bò giết thịt có chất lượng kém, sức khỏe và lý lịch không rõ ràng. Bên
cạnh đó chất lượng tế bào trứng, tỉ lệ phôi dâu và phôi nang thu được thấp. Do
có sự khác nhau của nhiều yếu tố mà kết quả nghiên cứu của các nhà khoa
học trên thế giới có nhiều sự khác nhau về số lượng, chất lượng tế bào trứng,
tỉ lệ phôi dâu và phôi nang thu được giữa nhiều nhóm tác giả và các quốc gia
khác nhau.
Hình ảnh thu được khi đầu dò ở các vị trí khác nhau
Thể vàng
Nang trứng
“Vị trí cắt ngang” là hình ảnh thu được trên màn hình siêu âm
Đường trung tâm
Vị trí cắt
Hình ảnh quan sát được
Buồng trứng
Hình 1.5. Các hình ảnh thu được khi đầu dò siêu âm ở các vị trí khác nhau
trên buồng trứng
Ở nước ta kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng ở bò lần đầu tiên được
nhóm tác giả Nguyễn Văn Lý và cs. (2007) thực hiện năm 2005. Với kết quả
ban đầu thu được bình quân 4,03 tế bào trứng/buồng trứng. Tế bào trứng đủ
tiêu chuẩn đem vào nuôi thành thục (loại A,B) 69,06% tế bào, tỉ lệ tế bào
trứng thành thục đạt 71,2% và tỉ lệ phôi dâu, tỉ lệ tế bào trứng thụ tinh đạt
43,75%, tỉ lệ hợp tử phân chia đạt 38,41% và tỉ lệ phôi dâu và phôi nang thu
được là 28,38%. Có 20 phôi được đem cấy cho bò nhận phôi và đã có 5 bê
được sinh ra. So sanh với kết quả thu được của nhiều tác giả trên thế giới, kết
quả này thực sự còn nhiều hạn chế. Do điều kiện con người, hệ thống thiết bị,
vị trí địa lý, khí hậu, sinh lý sinh sản bò được nuôi dưỡng và chăm sóc ở điều
kiện nước ta có nhiều sự khác biệt. Vì vậy để nâng cao được kết quả này
chúng ta cần đi sâu nghiên cứu những yếu tố đó.
1.5.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến số lượng số lượng, chất lượng tế bào
trứng và kết quả tạo phôi in vitro khi siêu âm hút tế bào trứng.
1.5.3.1. Đầu dò siêu âm
Hashimoto và cs. (1998) tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của tần số
đầu dò lên kết quả thu tế bào trứng thấy rằng, quan sát và xác định kích thước
của nang trứng ở bò sống khi siêu âm hút tế bào trứng đóng vai trò hết sức
quan trọng. Kết quả quan sát nang trứng cho thấy, hình ảnh siêu âm được tạo
ra bởi đầu dò 7,5 MHz có khả năng quan sát toàn bộ buồng trứng tốt hơn, các
nang trứng có kích thước 3 - 5 mm rõ nét hơn, số lượng nang trứng có màng
cumulus chặt chẽ được hút nhiều hơn và số lượng tế bào trứng thu được nhiều
hơn so với đầu dò 5,0 MHz.
Bên cạnh tần số, cấu tạo đầu dò cũng đóng một vai trò quan trọng khi
quan sát, xác định kích thươc và thu tế bào trứng. Cấu tạo đầu dò khác nhau
cho kết quả khác nhau. Nghiên cứu so sánh 2 loại đầu dò siêu âm (Bols và cs.,
2003), cho thấy với nang trứng có kích thước trên 5 mm hình ảnh quan sát
được không có sự khác nhau giữa đầu dò Esaote/Pie Medical ‘Linear aray’(di
chuyển buồng trứng theo một hướng nhất định) và Esaote/Pie Medical
‘Annular Array Multi Angle’ (di chuyển buồng trứng theo nhiều góc độ khác
nhau). Song khi quan sát nang trứng có kích thước < 5 mm đầu dò Esaote/Pie
Medical ‘Annular Array Multi Angle’ cho hình ảnh tốt hơn do buồng trứng dễ
dàng di chuyển theo nhiều góc độ khác nhau trong phạm vi của đầu dò. Ngoài
ra đầu dò Esaote/Pie Medical ‘Annular Array Multi Angle’ có mặt quét rộng
hơn, cho phép di chuyển buồng trứng ở vị trí mà tay khó di chuyển, hạn chế
Esaote/Pie Medical Esaote/Pie Medical
tối đa tổn thương của buồng trứng và dây chằng buồng trứng (Hình 1.8).
‘Linear aray’ Annular Array Multi Angle’
Hình 1.6. Khả năng thao tác và quan sát buồng trứng của 2 loại đầu dò
1.5.3.2. Áp lực hút
Để thu được tế bào trứng nằm trong nang trứng, cần phải có một áp lực
hút nhất định để hút được dịch nang trứng ra ngoài. Áp lực hút có được nhờ
máy tạo áp lực của hệ thống siêu ấm hút tế bào trứng tạo nên. Mức độ mạnh
yếu của áp lực phụ thuộc vào sự điều chỉnh nút chức năng lớn nhỏ của người
kỹ thuật. Tuy nhiên áp lực thực tế lại phụ thuộc rất lớn vào cấu tạo, độ dài và
kích thước của ống dẫn dịch, kim hút tế bào trứng và kích cỡ của ống đựng
dịch nang trứng. Chính vì vậy khi siêu âm hút tế bào trứng các nhà khoa học
luôn nghiên cứu tìm ra một áp lực hút thích hợp với hệ thống thiết bị siêu âm
hút tế bào trứng của mình. Nếu sử dụng áp lực hút quá yếu sẽ không hút được
hết được dịch nang trứng, nhưng nếu sử dụng một áp lực hút quá mạnh sẽ làm
tổn thương đến tế bào cumulus, khối tế bào chất và các chức năng khác của tế
bào trứng. Do vậy mà áp lực hút có sự biến động rất lớn giữa các nhà khoa
học trên thế giới, dao động từ 40 - 400 mmHg. Moreno (1993) sử dụng áp lực
hút 120 mmHg, Gibbons (1994) sử dụng áp lực hút 75 mmHg và Ward và cs.
(2000) sử dụng áp suất 90 mmHg tá. Các tác giả đều có kết luận rằng, ở các
mức độ áp lực khác nhau, thấy rằng có mối quan hệ tuyến tính giữa các áp lực
hút được sử dụng và số lượng dịch hút ra trong mỗi phút, số lượng trứng và
phôi thu được rất khác nhau.
1.5.3.3. Tần suất hút
Khi siêu âm hút tế bào trứng, các nang trứng ở các mức độ kích thước
khác nhau được hút ra. Qua trình này đã làm thay đổi về mặt số lượng và kích
thước của các nang trứng có mặt trên buồng trứng. Bên cạnh đó, buồng trứng
cũng bị tổ thương do các vết thương do kim hút tế bào trứng gây nên làm thay
đổi sự phát triển bình thường của sinh lý sinh sản, đặc biệt là sự hoạt động của
buồng trứng và sự phát triển của các nang trứng. Với tần suất hút khác nhau
có sự khác nhau hay không và kết quả ở các tần suất hút có khác nhau hay
không,… được nhiều nhà khoa học trên thể giới quan tâm nghiên cứu. Nhìn
chúng kết quả vẫn còn nhiều biến động giữa các nhà khoa học và giữa các
nhóm bò thí nghiệm, song các tác giả (Gibbons và cs., 1994; Kruip và cs.,
1994; Garcia và Salaheddine, 1998) đều có chung kết luận có sự ảnh hưởng
tần suất đến số lượng, chất lượng trứng, hợp tử, phôi dâu và phôi nang thu
được thu. Merton và cs. (2003) đã nghiên cứu và thấy rằng khoảng cách giữa
các lần lấy ảnh hưởng rất lớn đến tỉ lệ phôi thu được. Số lượng tế bào trứng
thu được ở khoảng cách 7 ngày cao hơn 3 - 4 ngày, nhưng mật độ tế bào
cumulus lại cao nhất khi khoảng cách lấy là 3 ngày, tương tự số lượng phôi
nang thu được cũng khác nhau ở các khoảng cách khác nhau, cao nhất khi
khoảng cách là 3 ngày và thấp nhất là 5 ngày. Viana và cs. (2004) lại có kết
luận rằng, không có sự khác nhau về kích thước và số lượng nang trứng ở tần
suất ½ tuần/lần và 1 tuần/lần (P < 0,05), tỉ lệ tế bào trứng loại A ở tần suất ½
tuần/lần cao hơn tần suất 1 tuần/lần (P < 0,01), tỉ lệ phân chia không có sự
khác nhau giữa hai tần suất, nhưng tỉ lệ phôi nang thu được ở tần suất ½
tuần/lần cao hơn tần suất 1 tuần/lần (p < 0,01; tương ứng: 31,8% so với
21,6%).
1.5.3.4. Kích thước nang trứng
Kích thước nang trứng có sự liên quan mật thiết với các giai đoạn phát
triển của nang trứng và tế bào trứng. Do vậy ảnh hưởng kích thước nang trứng
lên khả năng phát triển của tế bào trứng được nhiều nhà khoa học nghiên cứu,
song các kết quả giữa các nghiên cứu khác nhau rất nhiều. Một số nhà khoa
học công bố rằng tế bào trứng thu từ nang trứng có kích thước lớn (4 - 6 hay 8
mm) cho tỉ lệ phôi nang cao hơn các nang trứng có kích thước nhỏ hơn.
Blondin và Sirard (1995), lại thấy rằng không có sự khác nhau nhiều về khả
năng phát triển giữa các tế bào trứng thu từ nang trứng có kích thước 3 - 5
mm và nang trứng có kích thước từ 5 mm trở lên. Tương tự, Hagemann và cs.
(1999), cũng không tìm thấy sự khác nhau về khả năng phát triển giữa tế bào
trứng thu được từ nang trứng có kích thước 3 - 5mm và nang trứng có kích
thước 6 - 8mm. Khả năng phát triển của tế bào trứng ở các nang trứng có kích
thước 2 mm trở lên không có sự khác nhau về sự phân chia và phôi nang
(Yang và cs., 1998). Song Lonergan và cs. (1994) đã báo cáo rằng tỉ lệ phôi
nang thu được là 66% ở các nang trứng có kích thước từ 6mm trở lên, trong
khi đó nang trứng có kích thước từ 2 - 6 mm cho tỉ lệ phôi nang thu được chỉ
có 34% và các nang trứng có kích thước 6 mm trở lên.
Như vậy có thể nói kích thước nang trứng có sự ảnh hưởng đến kết quả
siêu âm hút tế bào trứng và tạo phôi in vitro.
1.5.3.5. Pha nang trứng phát triển và pha nang trứng trội
Ở các pha phát triển của nang trứng trong một đợt sóng nang ảnh
hưởng rất lớn đến số lượng và chất lượng tế bào trứng thu được. Hendriksen
và cs. (2004), đã nghiên cứu thấy rằng có sự ảnh hưởng của pha nang trứng
phát triển và pha nang trứng trội lên khả năng phát triển của tế bào trứng sau
khi thụ tinh in vitro, phát triển đến giai đoạn phôi nang tương đối cao ở ngày
thứ 2 và ngày thứ 5 của sóng nang tương ứng 27 và 29% và thấp hơn ở ngày
thứ 8 (15%). Machatkova và cs. (2000), gây động dục bằng cách tiêm PGF2α
và siêu âm hút tế bào trứng tất cả các ngày thứ 1, 2 và 3 của chu kỳ (ngày
động dục ngày 0), thấy rằng tỉ lệ phôi nang ở ngày thứ 1 thấp hơn ngày thứ 2
và 3 ( tương ứng 12,8% so với 27,8% và 27,5%). Điều này được Machatkova
và cs. (2000) giải thích là do số lượng nang trứng ở ngày thứ 1 vẫn còn bị ức
chế bởi nang trội.
1.5.3.6. Ảnh hưởng của FSH
Nghiên cứu sử dụng FSH để kích thích sự phát triển nang trứng trước
khi tiến hành siêu âm hút tế bào trứng bò, được nhiều nhà khoa học trên thế
giới nghiên cứu thành công và thu được nhiều kết quả khả quan. Goodhand và
cs. (2000) đã nghiên cứu, sử dụng FSH để kích thích sự phát triển của nang
trứng trước khi tiến hành siêu âm hút tế bào trứng trên bò sống và tạo phôi
trong ống nghiệm. Kết quả cho thấy tổng số nang trứng ở thời điểm siêu âm
hút tế bào trứng tăng từ 17,7 nang ở bò không sử dụng FSH lên 23,6 nang ở
bò được sử dụng FSH. Số lượng nang trứng được hút ra theo mức độ sử dụng
FSH (không sử dụng FSH 9,7 nang, tiêm 1 liều trước khi siêu âm hút tế bào
trứng 13,6 nang và tiêm nhiều liều FSH là 17,3 nang). Số lượng tế bào trứng
bình quân thu được hàng tuần cũng tăng lên (không sử dụng FSH 4,1 tế bào
trứng, tiêm một liều trước khi siêu âm hút tế bào trứng 5,3 tế bào trứng và
tiêm nhiều liều FSH trước khi siêu âm hút tế bào trứng là 5,9 tế bào trứng).
Nghiên cứu của tác giả cũng cho thấy rằng, không có sự khác nhau về tỉ lệ tạo
phôi hay số phôi đủ tiêu chuẩn cấy, nhưng số phôi thu được khi sử dụng FSH
là lớn nhất.
Khác với nghiên cứu trên Goodhand và cs. (1999) đã tiến hành nghiên
cứu siêu âm hút tế bào trứng trên bò sống và tạo phôi trong ống nghiệm ở các
tần suất khác nhau sử dụng FSH để kích thích. Ông và cộng sự tiến hành thí
nghiệm ở 24 bê Simmental với các tần suất: 1) 1 lần/tuần; 2) 2 lần/tuần và 3)
siêu âm hút tế bào trứng 1 lần/tuần có sử dụng FSH để kích thích 3 ngày nang
trứng phát triển trước khi siêu âm hút tế bào trứng. Số lượng nang
trứng/bê/tuần có mặt ở buồng trứng khi siêu âm hút tế bào trứng ở bê siêu âm
hút tế bào trứng 1 lần/tuần (14,7 nang) thấp hơn nhiều so với bê siêu âm hút tế
bào trứng 2 lần/tuần (27, 4) và 1 lần/tuần có sử dụng FSH để kích thích
(23,1). Ở bê có sử dụng FSH cho chất lượng tế bào trứng tốt hơn, số lượng tế
bào trứng có 4 lớp màng cumulus trở lên cao hơn. Số lượng phôi dâu và phôi
nang/bê/tuần thu được ở tần suất siêu âm 2 lần/tuần và 1 lần/tuần sử dụng
FSH để kích thích lớn hơn bê siêu âm hút tế bào trứng 1 lần/tuần, tương ứng
2,4 phôi, 2,1 phôi và 1,0 phôi.
1.5.3.7. Giống bò
Ảnh hưởng của giống lên khả năng phát triển của tế bào trứng và phôi
thể hiện rất rõ ở một số loài động vật. Ở một số giống chuột, phôi in vitro phát
triển đến giai đoạn phôi nang, trong khi phôi từ một số giống khác lại chỉ phát
triển đến giai đoạn 1 và 2 tế bào (Goddard và Pratt, 1993). Sự khác nhau này
có thể là do nguyên nhân một số yếu tố gen trưởng thành hoặc tế bào chất
(Bavister, 1996).
Ở bò, nguồn tế bào trứng cả ở bò sữa và bò thịt ảnh hưởng đến tỉ lệ
phôi nang thu được (Fischer và cs., 2000). Ảnh hưởng của giống bò lên chất
lượng tế bào trứng trở nên rõ ràng khi đánh giá ở các điều kiện môi trường
khác nhau. Liên quan đến stress nhiệt thì tỉ lệ phôi nang giảm cả ở giống bò
sữa thuần và giống bò Brahman. Ở giống bò có u có khả năng cao về điều
chỉnh nhiệt độ cơ thể tốt hơn ở bò sữa thuần (Block và cs., 2002; Paula và cs.,
2003). Đặc trưng này có thể do sự thích nghi về mặt di truyền ở mức độ tế
bào, cho phép giống bò có u sống sót tốt hơn ở khí hậu nóng (Paula Lopes và
cs., 2003), vì vậy khả năng phát triển của tế bào trứng cao hơn giống bò sữa
thuần (không có u) khi nuôi trong điều kiện môi nắng nóng.
Bảng 1.2. Số lượng tế bào trứng và tỉ lệ phôi nang thu được ở các giống
Tác giả
Giống
Tế bào trứng thu được (trứng/lần)
Tỉ lệ phôi nang thu được (%)
Bò sữa thuần
17,2
39,5
Bò xanh Bỉ
4,1
17,0
Bò lai Angus
3,9
21,0
6,0 4,3
28,0 25,0
7,3
45,9
Bò sữa thuần Giống bò đỏ và trắng Murrah lai với Brahmann (12 tháng tuổi)
German Simental
8,7
18,9
bò khác nhau
Roth và cs., (2008) De Roover và cs., (2008) Chaubal và cs., (2006) Lopez và cs., (2006) (Su và cs., 2009) Machado và cs., (2006)
Ảnh hưởng của ưu thế lai lên sản xuất phôi in vitro được đánh giá bằng
cách sử dụng giao tử từ giống bò có U và bò không có U (Fischer và cs.,
2000). Cho thấy tỉ lệ phôi nang thu được ở bò không có U thuần chủng hơn
bò có U và bò lai. Điều này cho thấy một số đối kháng bộ di truyền giữa
giống bò có U và giống bò không có U làm giảm sự phát triển của những phôi
được sản xuất in vitro. Như vậy cũng có nghĩa là sử dụng phôi được sản xuất
in vitro có thể kém hiệu quả hơn ở giống bò có U và bò F1. Tuy nhiên sản
xuất phôi ở Brazil lại cho thấy phôi nang thu được ở giống bò có U cao hơn
bò sữa (Camargo và cs., 2006) và sử dụng tinh bò sữa để sản xuất phôi từ tế
bào trứng của bò có U thu được tỉ lệ phôi nang 27,3%. Như vậy có thể nói
rằng, có sự biến động giữa các giống bò về số lượng tế bào trứng và tỉ lệ phôi
nang thu được (Bảng 1.4).
1.5.3.8. Tuổi bò
Tất cả các loài động vật có vú đều có sự liên quan mật thiết giữa tuổi và
khả năng sinh sản trong tự nhiên và quá trình sản xuất phôi in vivo và in vitro.
Sự hạn chế kết quả sản xuất phôi dâu và phôi nang trong quá trình sản
xuất phôi in vitro là do sự biến động về chất lượng tế bào trứng. Các nghiên
cứu gần đây cho thấy, chất lượng tế bào trứng là yếu tố chính, ảnh hưởng đến
số lượng phôi nang thu được. Trong đó, yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tế
bào trứng là tình trạng sinh lý sinh sản của bò cho tế bào trứng. Các nghiên
cứu cho thấy, bò cho số lượng tế bào trứng ít hơn bê tơ. Nghiên cứu về ảnh
hưởng của tuổi bò cho tế bào trứng lên số lượng phôi nang thu được sau khi
thụ tinh in vitro của Mermillod và cs. (1992) thấy rằng, bê cho tế bào trứng
cho có độ tuổi 1 - 3 cho kết quả phôi nang thu được cao hơn bò trưởng thành.
Khả năng phát triển của tế bào trứng từ bê chưa trưởng thành được nâng lên
theo độ tuổi và đặc biệt tăng khả năng phân chia ở giữa tháng thứ 7 và tháng
thứ 9 (Yang và cs., 1998). Khi gây rụng trứng nhiều ở bò già kết quả cho thấy
kích thước các nang trứng < 6 mm, 9 – 11 mm và > 12 mm ít hơn so với bò ít
tuổi hơn (Mahl và cs., 2008). Kết quả nghiên cứu của Rizos và cs. (2005) cho
thấy, số lượng nang trứng được hút ở bê cao hơn ở bò ở giai đoạn đầu của chu
kỳ vắt sữa (tương ứng: 10,4 và 7,8) và số lượng phôi nang thu được ở bê cũng
cao hơn (tương ứng: 4,7 và 2,8 phôi). So sánh khả năng phát triển in vitro của
tế bào trứng thu được ở bò non có độ tuổi 12 tháng tuổi, bò 7 - 8 tuổi và bò
già có độ tuổi từ 5 tuổi trở lên (Su và cs., 2009) cho thấy, tỉ lệ phân chia và tỉ
lệ phôi nang thu được cao nhất ở bò non, tiếp đến là bò 7 - 8 tuổi và thấp nhất
là bò già. Mức độ progesterone trong huyết thanh ở bò non thấp hơn ở bò già
trong suốt chu kỳ động dục khi không tiến hành siêu âm hút tế bào trứng cũng
như trong suốt quá trình siêu âm hút tế bào trứng. Tác giả Roth và cs. (2008)
đã nghiên cứu khả năng phát triển của các tế bào trứng bò thu ở các độ tuổi
khác nhau thấy rằng, không có sự khác nhau về số lượng tế bào trứng thu
được, tỉ lệ phân chia và phôi nang thu được ở bê sữa và bò đẻ nhiều lứa ở thời
gian đầu hay cuối chu kỳ vắt sữa khi siêu âm hút tế bào trứng (Bảng 1.5).
Bảng 1.3. Số lượng tế bào trứng và phôi nang thu được của bò ở các độ
tuổi khác nhau
Tế bào trứng thu
Tỉ lệ phôi nang
Tác giả
Tuổi
được (trứng)
thu được (%)
Bê sữa (HF)
13,2
32,5
Bò sữa (HF)
17,2
39,5
Roth và cs., (2008)
Bò sữa (HF)
16,0
22,8
Bê sữa (HF)
4,1
17,0
Rizos và cs., (2005)
Bò sữa (HF)
2,8
8,1
Murrah lai với
7,3
45,9
Brahmann 12 tháng tuổi
Su và cs., (2009)
7 – 8 tuổi
6,1
30,2
> 15 tuổi
4,7
13,5
1.5.3.9. Mùa vụ
Sự thay đổi khí hậu giữa các mùa trong năm dẫn đến sự thay đổi về
nhiệt độ, độ ẩm và lượng mưa. Chúng tác động trực tiếp cũng như gián tiếp
lên sự sinh trưởng, phát triển và năng suất vật nuôi, đặc biệt là tập tính cũng
như khả năng sinh sản. Chính vì vậy ảnh hưởng của mùa vụ lên khả năng sinh
sản của bò được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tác động của nhiệt độ và
độ ẩm môi trường lên số lượng và chất lượng tế bào trứng với các mức độ
khác nhau. Phụ thuộc vào giống bò mà stress nhiệt ảnh hưởng đến tế bào
trứng bò và phôi (AI - Katanani và cs., 1999). Khả năng sinh sản của bò HF ở
mùa thu thấp hơn mùa đông, nguyên nhân có thể là do ảnh hưởng muộn của
nhiệt độ nắng nóng ở mùa hè (Wolfenson và cs., 2000). Tương tự, những tế
bào trứng thu vào thời điểm đầu mùa thu có chất lượng thấp, chất lượng này
được nâng lên khi bước sang mùa đông (Roth và cs., 2001). Thậm chí giữ cho
bò ở nhiệt độ thấp trong thời gian 42 ngày sau khi bị stress nhiệt cũng không
làm nâng cao được kết quả sản xuất phôi in vitro (AI - Katanani và cs., 2002).
Rocha và cs. (1998) đã nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ môi trường
và độ ẩm lên chất lượng và khả năng phát triển của tế bào trứng thấy rằng,
nhiệt độ môi trường ảnh hưởng đến chất lượng tế bào trứng. Thí nghiệm được
tiến hành siêu âm hút tế bào trứng trên bò sữa Holstein và bò lai Angus (giống bò không có U) vào 2 mùa nóng (22 - 36 0C) và mùa lạnh (-1 - 16 0C) kết quả
thu được cho thấy mùa lạnh tỉ lệ tế bào trứng bình thường cao hơn mùa hè
(tương ứng: 75,9 và 41,0 %), tỉ lệ phôi phát triển đến giai đoạn phôi dâu cũng
cao hơn (tương ứng: 46,6 và 6,0 %). Trong một thí nghiệm khác ông thấy
rằng vào mùa nóng bò sữa Holstein cho tỉ lệ tế bào trứng bình thường thấp
hơn rất nhiều so với bò Brahman (giống bò có U) tương ứng là 24,5 và 80,0
%, và tương tự tỉ lệ phôi nang thu được ở bò sữa Holstein vào mùa nóng là
bằng 0, bên cạnh đó ở bò Brahman là 41,3 %. Như vậy ta thấy rằng mùa vụ có
sự ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng tế bào trứng nhưng Takuma và cs.
(2010) khi nghiên cứu sự ảnh hưởng của mùa nóng và mùa lạnh lại có kết
luận rằng không có sự khác nhau giữa mùa nóng và mùa lạnh lên số lượng,
chất lượng tế bào trứng và số lượng phôi thu được.
1.6. Nuôi tế bào trứng In vitro
1.6.1. Nuôi thành thục tế bào trứng in vitro
Để đảm bảo cho quá trình thụ tinh, tế bào trứng sau khi được hút ra
bằng kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng được soi tìm, đánh giá và phân loại.
Các tế bào trứng loại A, B được đưa vào nuôi thành thục, thụ tinh ống nghiệm
và tạo phôi in vitro.
Edward. (1965) lần đầu đầu tiên thấy các tế bào trứng nguyên thủy của
bò thu được từ các nang trứng không rụng trứng có thể tiếp tục phân bào giảm
nhiễm và phát triển hoàn toàn đến giai đoạn pha giữa I của thời kỳ phân bào
in vitro. Nghiên cứu của Sirard và cs. (1988) về nuôi thành thục tế bào trứng
in vitro cũng cho thấy rằng các tế bào trứng nguyên thủy chưa thành thục
được hút từ các nang trứng bò ở giai đoạn phát triển mà không biết giai đoạn
nào của chu kỳ có thể thành thục và thụ tinh in vitro để tạo ra thế hệ đời con.
Với khả năng phát triển của các kỹ thuật nuôi thành thục in vitro cho
thấy, tế bào trứng thành thục trong thực tế là một quá trình phức tạp bao gồm
sự thành thục của nhân và tế bào chất. Khả năng một tế bào trứng phục hồi lại
quá trình phân bào giảm nhiễm và phát triển đến giai đoạn pha giữa II của
thời kỳ phân bào không nói lên khả năng thụ tinh hay khả năng phát triển của
tế bào trứng đó. Có nghĩa sự thành thục của nhân và tế bào chất thực tế là hai
quá trình riêng biệt. Sự thành thục của tế bào chất trong thực tế cho thấy bao
gồm nhiều sự kiện sinh lý và sinh học có thể liên quan hoặc không liên quan
đến sự thành thục của nhân, nhưng có sự ảnh hưởng đáng kể sự thụ tinh và
phát triển của phôi (Hunter, 1985). Sự thành thục không hoàn toàn của tế bào
chất thực sự là nguyên nhân làm giảm khả năng phát triển khi sản xuất phôi
động vật có vú.
Tế bào trứng của động vật có vú ở giai đoạn túi mầm sẽ được phân bào
giảm nhiễm, túi mầm bị hỏng khi cho vào môi trường biến động. Huyết thanh,
các gonadotropin như LH, FSH có sự ảnh hưởng tích cực đến sự thành thục
của tế bào trứng, sự dãn nở của màng cumulus và sự thụ tinh của tế bào trứng.
FSH và LH không ảnh hưởng đến tỉ lệ tế bào trứng phát triển đến giai đoạn
phân bào II sau 24h nhưng làm tăng tỉ lệ thành thục của nhân khi thiếu hụt
huyết thanh. Các tế bào trứng phát triển đến giai đoạn pha giữa II của thời kỳ
phân bào sau khi thành thục 16 h có khả năng phát triển cao hơn các tế bào
trứng phát triển đến giai đoạn pha giữa II của thời kỳ phân bào ở thời gian
thành thục 20 hay 24h.
Sự thành công khi nuôi thành thục tế bào trứng phụ thuộc vào sự
nguyên vẹn của các tế bào cumulus. Các tế bào cumulus cung cấp năng lượng
cho tế bào trứng như các amino acid, pyruvat và lactate (Sirard và cs., 1988).
Ngoài ra, tế bào cumulus bảo vệ sự xơ cứng của màng vòng trong suốt. Chỉ có
các tế bào trứng có vài lớp màng cumulus nguyên vẹn trở lên mới được lựa
chọn để nuôi thành thục, sự phát triển của phôi sau này liên quan đến số
lượng màng cumulus bao quanh tế bào trứng. Sau khi nuôi thành thục các tế
bào cumulus phát triển thành một khối hình cầu và khối tế bào cumulus
dường như nổi lên trong đĩa nuôi phôi (Hensleigh và Hunter, 1983).
Sự có mặt của các tế bào hạt làm tăng sự thành thục, sự khả năng thụ
tinh và khả năng phát triển của tế bào trứng bò (Fukui và Ono, 1989). Vì vậy
một số tác giả đã bổ sung vào môi trường nuôi thành thục tế bào trứng tế bào
hạt nhằm tạo môi trường nuôi in vitro giống với môi trường in vivo. Có nhiều
nghiên cứu gần đây cho thấy rằng, mức độ phôi dâu và phôi nang thu được
nhiều khi nuôi thành thục tế bào trứng trong môi trường có các tế bào hạt
(Edward và cs., 1997).
Nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới cũng như ở nước ta cho
thấy, sự thành thục tế bào trứng bò in vitro được nâng lên khi nuôi với các
yếu tố phát triển nhất định. Bổ sung yếu tố phát triển biểu bì vào môi trường
nuôi thành thục tế bào trứng bò, huyết thanh hay các gonadotropin làm tăng
khả năng kích thích sự phân bào và tăng đáng kể tỉ lệ tế bào trứng phát triển
đến giai đoạn pha giữa II của thời kỳ phân bào, màng cumulus giãn nở, tỉ lệ
thụ tinh và sự phát triển của phôi. Sự thành thục của tế bào trứng bò với yếu
tố phát triển biểu bì I cũng làm tăng tỉ lệ tế bào trứng phát triển đến giai đoạn
pha giữa II của thời kỳ phân bào, nhưng không làm ảnh hưởng đến sự giãn nở
của các tế bào cumulus. Sự thành thục của tế bào trứng với yếu tố phát triển
biểu bì α cũng kích thích sự giãn nở của tế bào cumulus và khả năng thụ tinh
của tế bào trứng thành thục. Hormone sinh trưởng làm tăng sự thụ tinh của tế
bào trứng bò. Yếu tố phát triển giống insulin B, yếu tố sinh trưởng biến đổi β1
không làm ảnh hưởng đến sự giãn nở của màng cumulus.
Quá trình thành thục của nhân ở tế bào trứng bắt đầu từ sự phân rã của
túi mầm. Sau khi túi mầm phân rã, sự phân bào giảm nhiễm của tế bào trứng
được hồi phục và phát triển qua giai đoạn pha giữa của giai phân bào I, kỳ sau
của phân bào I và kỳ cuối của phân bào I, dẫn đến sự xuất hiện của thể cực
thứ nhất. Tế bào trứng sau đó lại ngừng lại ở giai đoạn pha giữa của phân bào
giảm nhiễm II. Ở giai đoạn pha giữa của phân bào giảm nhiễm II, các tế bào
trứng sẵn sàng cho quá trình thụ tinh.
Hầu hết các tác giả nuôi tế bào trứng thành thục trong môi trường
TCM-199 với 5 hoặc 10 % huyết thanh bê mới sinh, sodium pyruvate (0,2
mM) FSH, LH và estradiol 17β (0,1µg/ml), kháng sinh 100.000 iu
penicillin/ml và streptomycin 100 µg (Bavister, 1996; Saitoh và cs., 1995).
Sau khi được rửa sạch trong môi trường TCM-199, 20 tế bào trứng được
nuôi/giọt được nuôi thành thục trong thời gian 20 h trong các môi trường trên, với, nhiệt độ 38,50 C, CO2 5%, pH khoảng 7,3 - 7,4 và độ ẩm tối đa. Các giọt
nuôi phôi được phủ dầu khoáng.
1.6.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả nuôi thành thục tế bào trứng
Báo cáo về nuôi thành thục tế bào trứng in vitro của các nhà khoa học
cho thấy thấy, khả năng phát triển của các tế bào trứng giảm sau khi nuôi in
vitro. Tuy nhiên, chất lượng tế bào trứng tốt kết hợp với cải tiến được điều
kiện và chất lượng môi trường nuôi có thể nâng cao được khả năng phát triển
của tế bào trứng khi bổ sung các thành phần quan trọng như: Bổ sung huyết
thanh, hormone và các chất bổ sung khác (Gordon và Lu, 1990).
1.6.2.1. Chất lượng tế bào trứng
Chất lượng tế bào trứng đóng vai trò quan trọng đến sự thành thục, thụ
tinh và sự phát triển của phôi, vì vậy được rất nhiều nhà khoa học trên thế giới
quan tâm nghiên cứu, hầu hết các nhà khoa học đều đánh giá chất lượng tế
bào trứng trên kinh hiển vi soi nổi, dựa vào đặc điểm, hình thái như kích
thước tế bào trứng, hình dạng, màu sắc, vòng trong suốt và màng cumulus.
De Loos và cs. (1989) đánh giá chất lượng tế bào trứng dưới kính hiển vi soi
nổi, dựa vào sự chặt chẽ và sự trong suốt của màng cumulus bao quanh tế bào
trứng. Sự đồng nhất và trong suốt của của khối tế bào chất với 4 cấp độ từ tốt
đến xấu: 1) Có nhiều lớp màng cumulus chặt chẽ, tế bào chất đồng nhất, khối
tế bào cumulus sáng và trong suốt; 2) Có nhiều lớp tế bào cumulus chặt chẽ,
tế bào chất đồng nhất nhưng có những vùng tối phía ngoài tế bào trứng, khối
tế bào cumulus ít sáng và ít trong suốt hơn loại 1; 3) Có ít lớp cumulus bao
quanh tế bào trứng hơn loại 1, khối tế bào chất không đều, có các đám đen và
khối tế bào cumulus tối hơn loại 1 và loại 2; 4) Không có hoặc các lớp
cumulus giãn nở, các tế bào cumulus tụ tập lại thành từng đám tối, khối tế bào
cumulus tối và không đều.
Goodhand và cs. (1999) đánh giá chất lượng tế bào trứng theo 4 mức
độ A, B, C và D khác nhau dựa vào hình dạng, sự đồng nhất của tế bào chất
và đặc biệt là màng cumulus. A) có 4 lớp màng cumulus trở lên, phân bố rõ
ràng, liên kết chặt chẽ và tế bào chất đồng nhất; B) có 1 lớp màng tế bào
cumulus trở lên, liên kết chặt chẽ và tế bào chất đồng nhất; C) một số phần
cumulus bị lột trần, tế bào chất co lại không đều; D) tế bào trứng hoàn toàn bị
lột trần và tế bào chất co lại không đều.
Nghiên cứu về ảnh hưởng của chất lượng tế bào trứng lên khả năng
phát triển (Sylvie Bilodeau-Goeseels và Paul Panich, 2001) đã phân chia chất
lượng tế bào trứng thành 6 loại, dựa vào đặc điểm của các lớp màng cumulus
và đặc điểm của khối tế bào chất. Kết quả cho thấy, không có sự khác nhau
đáng kể về tỉ lệ phân chia và phôi nang thu được ở tế bào trứng có chất lượng
loại I và loại II, tương ứng 13,9 và 13,7 %. Song có sự khác nhau giữa tế bào
trứng chất lượng loại I và II so với các nhóm còn lại và thấp nhất là nhóm V
và nhóm VI chỉ đạt 0,3 và 1,9 % (Bảng 1.2).
Younis và cs. (1989) đánh giá chất lượng tế bào trứng thành hai loại,
dựa vào tế bào chất và màng cumulus. Tế bào trứng được sử dụng nuôi cấy
(loại 1) là tế bào trứng đồng nhất, các tế bào cumulus chặt chẽ và gắn chặt với
màng trong suốt. Tế bào trứng không được sử dụng (loại 2) là tế bào có tế bào
cumulus không chặt chẽ, trứng không đồng nhất.
Loại Số lượng màng
Đặc điểm của các lớp màng
Đặc điểm của khối tế bào
cumulus
cumulus
chất
I
≥ 5
Liên kết với nhau chặt chẽ
Đồng nhất
II
≥ 5
Hơi giãn nở
Hơi kết thành từng đám
III
< 5
Chặt chẽ hoặc hơi giãn nở
Đồng nhất
IV
< 5
Chặt chẽ hoặc hơi giãn nở
Kết thành từng đám
V
0
Không có màng cumulus
Biến đổi
VI
≥
Giãn nở, từng đám đen tụ lại Kết thành rất nhiều đám
Bảng 1.4. Đánh giá chất lượng tế bào trứng ở 6 mức độ khác nhau
(Nguồn Sylvie Bilodeau-Goeseels và Paul Panich, 2001)
Ảnh hưởng chất lượng hình thái học của tế bào trứng chưa thành thục
cũng được Khurana và Niemann. (2000) nghiên cứu và đưa ra kết luận rằng,
chất lượng hình thái học của tế bào trứng ảnh hưởng đến khả năng thành thục
khi nuôi in vitro, thụ tinh, phân chia và phôi dâu và phôi nang thu được. Với
tế bào trứng loại 1 (loại tốt nhất) tỉ lệ phôi dâu và phôi nang thu được cao nhất
33,9%, trong khi đó loại 2 là 13,1%, còn loại 3 và loại 4 không thu được.
1.6.2.2. Màng cumulus
Cumulus có rất nhiều chức năng quan trọng trong quá trình phát triển
và thụ tinh của tế bào trứng. Bảo vệ tế bào trứng dưới sự tác động của quá
trình tự thoái hóa của nang trứng (meiotic arrest), tham gia vào quá trình khôi
phục quá trình phân bào giảm nhiễm, hỗ trợ sự thành thục của tế bào chất, thu
hút và bẫy hay lựa chọn tinh trùng, tạo thuận lợi cho tinh trùng thâm nhập vào
trong tế bào trứng, ngăn cản sự chai cứng sớm của vòng trong suốt.
Phương pháp đầu tiên quan sát để xác định có hay không có khả năng
phát triển của tế bào trứng đó là hình thái học của cumulus. Các tế bào
cumulus có nguồn gốc của các tế bào hạt buồng trứng có chức năng riêng
biệt. Tầm quan trọng của tế bào cumulus là cung cấp dinh dưỡng cho tế bào
trứng trong quá trình phát triển, tham gia hình thành vòng trong suốt và sóng
LH, tổng hợp các thành phần protein tử cung và axít hyaluronic cần thiết cho
sự vận chuyển và bẫy tinh trùng (Bedford và Kim, 1993). Các tế bào cumulus
hình thành lên vành phóng xạ, là màng gần nhất với tế bào trứng và thông
thường có sự tiếp xúc chặt chẽ, sử dụng sự giãn nở của tế bào chất qua vòng
trong suốt và phía ngoài của cumulus liên kết với vành phóng xạ qua khe liên
kết (Gap junction hay khe kết là một loại gian bào đặc biệt liên kết giữa các
loại tế bào với nhau. Liên kết trực tiếp tế bào chất với 2 tế bào với nhau và
cho phép các phân tử tự do qua lại giữa các tế bào (De Loose, 1991). Độ dày
của màng cumulus thay đổi phụ thuộc vào kích thước nang trứng. Sự nguyên
vẹn của tế bào cumulus cũng thay đổi qua tình trạng sức khỏe của nang trứng
(Leibfried và First, 1979). Trong thời gian nang trứng thoái hóa phía ngoài
cumulus ít chặt chẽ vì phần giữa các tế bào cả ở bên trong và bên ngoài
cumulus giảm (Leibfried và First, 1979; De Loos và cs., 1989). Một số nghiên
cứu đã đánh giá mức độ chặt chẽ hình thái cumulus sau khi phát triển (Younis
và cs., 1989; Gordon và Lu, 1990; De Loos và cs., 1991; Lonergan, 1992).
Khi tế bào trứng chưa trưởng thành được phân loại dựa vào số lượng màng
cumulus bao quanh tế bào trứng sau khi hút ra, cumulus có độ dày nhiều hơn
cho sự phát triển tốt hơn (Lonergan, 1992). Số lượng màng cumulus giảm có
thể do quá trình hút tế bào trứng và cũng có thể giảm số lượng màng cumulus
do quá trình thoái hóa sớm của nang trứng. Có một mối quan hệ quan sát
được giữa sự thoái hóa của cumulus và sự thoái hóa của nang trứng (Blondin
và Sirard, 1995). Có nhiều cumulus chặt chẽ là nguồn gốc nang trứng khỏe
hơn so với nang trứng thoái hóa. Sự có mặt của tế bào cumulus trong thời
gian thành thục là cần thiết cho hầu hết các tế bào trứng để tăng nhanh khả
năng phát triển (Sirard và cs., 1988).
Ở bò tác động làm giảm màng cumulus trước khi nuôi chín in vitro làm
ảnh hưởng đến khả năng thành thục của tế nào trứng (Fukui và Sakuma,
1980). Các tế bào trứng không có màng cumulus không có khả năng thụ tinh
(Van Soom và cs., 2002). Các tế bào cumulus đóng vai trò quan trọng trong
sự thành thục của tế bào trứng: Kìm hãm quá trình giảm phân của tế bào
trứng, hồi phục của quá trình giảm phân và hỗ trợ sự trưởng thành của tế bào
chất.
1.6.2.3. Tế bào chất
Bên cạnh màng cumulus, chất lượng của tế bào chất cũng ảnh hưởng
đến tỉ lệ phát triển của tế bào trứng, sự phát triển của hợp tử đến giai đoạn
phôi dâu và phôi nang (Goovaerts và cs., 2010). Sự đồng nhất được đánh giá
dưới kính hiển vi soi nổi, là phương pháp phổ biến nhất để phân loại chất
lượng tế bào trứng (Bảng 1.3).
Ngoài ra, một số tác giả đã sử dụng phương pháp nhuộm Brilliant
Cresyl Blue (Rodriguez-Gonzalez và cs., 2002; Manjunatha và cs., 2008) để
đánh giá sự phát triển của của tế bào chất. Nhuộm Brilliant Cresyl Blue không
làm tổn thương đến tế bào. Cơ sở để đánh giá là dựa vào mức độ hoạt động
của G6PDH (Glucose-6-phosphate-Dehydrogenase). G6PDH là protein được
tổng hợp trong tế bào trứng chưa thành thục, làm đổi màu của Brilliant Cresyl
Blue thành chất không màu. G6PDH là một enzym chứa đường đơn đóng vai
trò cung cấp năng lượng cho tế bào, đặc biệt là hoạt động trong sự phát triển
của tế bào trứng và giảm hoàn toàn hoạt động này khi tế bào trứng kết thúc
giai đoạn phát triển. Khi G6PDH hoạt động thuốc nhuộm Brilliant Cresyl
Blue bị giảm màu, do đó có thể xác định được hoạt động bên trong tế bào của
G6PDH. Các tế bào trứng đã thành thục hoàn toàn hoạt động của G6PDH
giảm, tế bào chất được nhuộm Brilliant Cresyl Blue sẽ có màu xanh và khi
các tế bào trứng đang ở giai đoạn phát triển tế bào chất được nhuộm Brilliant
Cresyl Blue sẽ không có màu. Kết quả nghiên cứu của các tác giả cho thấy,
các tế bào trứng xuất hiện màu xanh có kích thước tế bào trứng lớn hơn, khả
năng phát triển tốt hơn, sau khi nuôi thành thục tỉ lệ tế bào trứng phát triển
đến giai đoạn metapha II cao hơn và tỉ lệ tế bào trứng phát triển đến giai đoạn
phôi nang sau khi thụ tinh cao hơn.
Ảnh hưởng của khối tế bào chất lên chất lượng tế bào trứng và khả
năng phát triển cũng được quan tâm nghiên cứu (Nagano và cs., 2007). Kết
quả nghiên cứu cho thấy chất lượng bên trong của tế bào trứng là yếu tố chìa
khóa để xác định khả năng phát triển đến giai đoạn phôi nang. Một thay đổi
nhỏ về siêu cấu trúc xảy ra khi tế bào trứng phát triển đều có sự liên quan chặt
chẽ với khả năng phát triển. Sự liên quan giữa khả năng phát triển của tế bào
trứng và vi cấu trúc của khối tế bào chất đặc điểm dưới kính hiển vi thành 7
nhóm khác nhau (Bảng 1.3)
Nhóm tế
Các đặc điểm của tế bào chất
Khả năng
bào trứng
phát triển
Màu nâu và đồng nhất
1
Tốt
Màu nâu và đồng nhất, có màu đen ở khu vực ngoài
2
Tốt
Màu nâu và đồng nhất, có các đám đen
3
Tốt
Nhợt nhạt và đồng nhất
4
Kém
Nhợt nhạt và đồng nhất, có các đám đen
5
Kém
Đen và đồng nhất
6
Kém
Tế bào chất biến đổi và kích thước của tế bào trứng < 115µm
7
Kém
Bảng 1.5. Mối quan hệ giữa đặc điểm tế bào chất và chất lượng tế bào trứng
Tế bào chất đóng vai trò quan trọng trong khả năng sinh sản của tế bào
mầm, điều tiết quá trình giảm phân và cũng là yếu tố làm rối loạn quá trình
sinh sản. Tế bào trứng có số lượng lớn các tế bào chất chứa rất nhiều protein
và cơ quan tế bào, ti lạp thể, các cơ quan tế bào chất mang thông tin di truyền.
Tế bào chất của tế bào trứng liên quan đến sự thành công của quá trình thụ
tinh in vitro.
1.6.2.4. Môi trường nuôi
Môi trường sử dụng để nuôi thành thục tế bào trứng không những ảnh
hưởng đến sự thành thục của tế bào trứng mà còn có thể ảnh hưởng rất lớn
khả năng thụ tinh và sự phát triển của phôi về sau (Rose và Bavister, 1992).
Có nhiều loại môi trường được sử dụng để nuôi thành thục tế bào trứng, từ
các môi trường có chức năng sinh lý đơn giản đến môi trường phức tạp có
chứa các amino axít, các vitamin, purine và các hợp chất quan trọng để nuôi
tế bào trứng. Tỉ lệ thành thục của nhân có thể thu được ở hầu hết các môi
trường, nhưng môi trường TCM-199 được sử dụng rộng rãi nhất để nuôi
thành thục tế bào trứng bò (Smetanina và cs., 2000; Mao và cs., 2002). Môi
trường TCM-199 với các bicacbonat hoặc HEPES, bổ sung các loại huyết
thanh khác nhau và các gonadotropin (như FSH và LH) hoặc các steroid
hormone (như estradiol-17β) được sử dụng phổ biến nhất để nuôi thành thục
tế bào trứng bò và thu được sự thành công khi nuôi thành thục tế bào trứng,
thụ tinh và nuôi phôi in vitro.
Một số loại môi trường trên thị trường như Ham’s F-12 hay
Weymouth’s medium MB 752/1 cho thấy kết quả thụ tinh và sự phát triển của
phôi giảm đáng kể so với môi trường TCM-199 hay MEM (Rose và Bavister,
1992). Lý do cơ bản để lựa chọn một môi trường thích hợp xuất phát từ các
phương pháp nuôi các loại tế bào khác nhau hoặc từ các thử nghiệm. Xác định
các nhu cầu trao đổi chất và các điều kiện nuôi tối ưu được quan tâm nhiều
hơn. Các nghiên cứu cho thấy rằng, không có sự khác nhau đáng kể giữa các
môi trường TCM-199, Menezo’s B2, CRlaa, môi trường Colorado và môi
trường dịch ống dẫn trứng tổng hợp lên nuôi thành thục (Arlotto và cs., 1999).
Sirard và Coenon (1993) cũng cho thấy không có sự khác nhau giữa môi
trường nuôi thành thục tế bào trứng TCM - 199 và môi trường dịch ống dẫn
trứng tổng hợp. Tuy nhiên môi trường nuôi thành thục tế bào trứng TCM-199
lại tốt hơn Ham’s F-10 (Bavister và cs., 1992; Pawshe và cs., 1996;
Smetanina và cs., 2000).
1.6.2.5. Hormone và huyết thanh
Các nang trứng sắp rụng ở bò cho thấy, có sự thay đổi về môi trường
của các gonadotropin, steroid, các yếu tố phát triển và các loại tế bào khác.
Các yếu tố này hoạt động riêng biệt hay có sự phôi hợp với nhau có thể ảnh
hưởng đến sự thành thục tế bào chất của tế bào trứng. Để đạt được sự thành
thục đầy đủ in vitro của tế bào trứng, một số yếu tố quan trọng như: Bổ sung
các loại hormone, các yếu tố phát triển và huyết thanh vào môi trường nuôi
được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Hầu hết các
nghiên cứu nuôi thành thục tế bào trứng đều sử dụng môi trường cơ bản bổ
sung huyết thanh hoặc albumin kết tinh. Huyết thanh thai bê, huyết thanh bò
động dục và albumin huyết thanh bò đều cho thấy kết quả tốt. Bổ sung protein
vào môi trường nuôi thành thục tế bào trứng có thể ảnh hưởng rất lớn đến tỉ lệ
kết quả của toàn bộ kỹ thuật (Ali và cs., 2004). Huyết thanh thai bê hỗ trợ tỉ lệ
thành thục của nhân tế bào trứng bò tốt hơn albumin huyết thanh bò
(Leibfried và Rutledge và cs., 1989). Huyết thanh bò động dục có khả năng
nâng cao tỉ lệ phát triển và thụ tinh in vitro của tế bào trứng bò (Sanbuissho
và Threfall, 1985).
Huyết thanh bò động dục cho kết quả nuôi thành thục và thụ tinh in
vitro tốt hơn huyết thanh thai bê (Schellander và cs., 1990) và huyết thanh bò
ở thời điểm bắt đầu động dục tốt hơn huyết thanh bò sau khi động dục
(Sanbuissho và Threfall, 1985). Bên cạnh ảnh hưởng của các huyết thanh lên
sự thành thục của tế bào trứng thì sự có mặt của LH, FSH và estradiol 17β
trong môi trường nuôi làm tăng sự thành thục của tế bào trứng và sự phát triển
của phôi sau khi thụ tinh in vitro (Brackett và Oliphan, 1975). Song Fukui
(1989) lại cho thấy, không có sự ảnh hưởng của hormone lên sự thành thục
của tế bào trứng và khả năng phát triển của phôi đến giai đoạn phôi nang.
1.7. Tạo phôi In vitro
1.7.1. Thụ tinh in vitro
Để tạo phôi in vitro, các tế bào trứng sau khi nuôi thành thục được tiến
hành thụ tinh in vitro với tinh trùng đã được hoạt hóa. Những nghiên cứu đầu
tiên để sản xuất phôi bò in vitro cho thấy, phôi thụ tinh in vitro có thể phát
triển đến giai đoạn phôi nang và có thể sống được trong tử cung (Sirard và cs.,
1988). Tuy nhiên vẫn có nhiều báo cáo cho thấy, có một số vấn đề không bình
thường về siêu cấu trúc ở phôi được nuôi thành thục và thụ tinh in vitro so với
phôi thành thục và thụ tinh in vivo. Những bất thường thường thấy như chậm
phát triển và sự phát triển không bình thường của tiền nhân, đa tinh trùng.
Chính vì vậy các nhà khoa học trên thế giới không ngừng nghiên cứu về
phương pháp thụ tinh in vitro và đặc biệt là nghiên cứu về môi trường nuôi
thành thục tế bào trứng, môi trường thụ tinh và môi trường nuôi phôi.
Môi trường Tyrodes Albumin Lactate Pyruvate Medium (Fert-TALP)
thường được dùng để thụ tinh bò in vitro (Bavister, 1996). Tuy nhiên sự thay
đổi môi trường như SOF, CR1aa và Defined Medium (Brackett và Oliphant,
1975) đã được sử dụng thành công trong thụ tinh bò in vitro.
Tế bào trứng bò có khả năng duy trì sự thụ tinh trong khoảng thời gian
20 - 24 h sau khi rụng khỏi nang trứng. Sự thâm nhập của tinh trùng vào tế
bào trứng in vitro ở khoảng thời gian 3 h sau khi thụ tinh và tiếp tục thâm
nhập vào tế bào trứng cho đến 24 h sau khi thụ tinh. Tế bào trứng bò thường
được ủ với tinh trùng đã được hoạt hóa và tính tỉ lệ tinh trùng thích hợp ở nhiệt độ 390C, CO2 5% và độ ẩm không khí tối đa. Tế bào trứng bò được thụ
tinh ở giai đoạn pha giữa II của thời kỳ phân bào quyết định khả năng phát
triển của phôi. Tế bào trứng được thụ tinh vào khoảng thời gian 8h sau khi đạt
đến pha giữa II của thời kỳ phân bào có khả năng phát triển cao hơn các tế
bào trứng được thụ tinh ngay khi phát triển đến gia đoạn pha giữa II của thời
kỳ phân bào. Điều này cho thấy khả năng hỗ trợ quá trình thụ tinh và phát
triển của phôi về sau của tế bào trứng liên quan đến sự thành thục của nhân.
Để quá trình thụ tinh xảy ra, tinh trùng bò cần phải được hoạt hóa. Tinh
trùng của động vật có vú có khả năng xâm nhập vào tế bào trứng thành thục
chỉ sau khi chúng có một thời gian di chuyển ở trong đường sinh dục cái
(Austin, 1951; Chang, 1951), đây cũng là khái niệm đầu tiên về hoạt hóa tinh
trùng (Capacitation). Và hiện nay quá trình hoạt hóa tinh trùng đã được hiểu
một cách đầy đủ, là quá trình mà ở đó tinh trùng diễn ra một loạt các phản
ứng sinh hóa và sinh lý phức tạp trước khi có khả năng thụ tinh với tế bào
trứng thành thục. Người ta cho rằng các giai đoạn đầu tiên của hoạt hóa có
liên quan đến việc loại bỏ và thay thế các thành phần có nguồn gốc từ ống
sinh tinh, dịch hoàn phụ, ống dẫn tinh và tinh thanh. Trong đó khái niệm của
Furuya và cs. (1992) nói đến tầm quan trọng của acrosome, với ống hoạt hóa
là một chuỗi thay đổi sinh hóa mà những thay đổi đó làm cho tinh trùng có
thể diễn ra phản ứng acrosome khi tiếp xúc với màng trong suốt, mà màng
trong suốt dường như là tác nhân sinh lý gây nên phản ứng đó. Ở bò, dựa vào
sự xâm nhập của tinh trùng đầu tiên vào tế bào trứng sau khi thụ tinh nhân
tạo, Hunter (1985) cho biết thời gian cần cho hoạt hóa của tinh trùng trong
đường sinh dục cái khoảng 6 h. Nhưng cũng đã có nhiều dẫn chứng cho thấy
ống dẫn trứng bò có thể đóng vai trò quyết định trong quá trình hoạt hóa tinh
trùng bằng việc cung cấp một môi trường có chức năng thúc đẩy cả quá trình
hoạt hóa và thụ tinh. Có chứng cứ cho rằng các tế bào ống dẫn trứng bò phân
tiết các yếu tố mà các yếu tố đó có khả năng hỗ trợ và duy trì hoạt lực và khả
năng sống của tinh trùng đến 30 h trong ống nghiệm (theo Ijaz và cs., 1994).
Hiện nay có nhiều phương pháp hoạt hóa tinh trùng nhân tạo được
nhiều tác giả nghiên cứu, nhằm kích thích các quá trình xảy ra trong ống
nghiệm cũng tương tự như trong đường sinh dục bò cái.
- Phương pháp thay đổi áp suất thẩm thấu và pH của môi trường: Sử
dụng môi trường ưu trương (hypertonic) có áp suất thẩm thấu 380 mosm.
(Brackett và Oliphant, 1975). Song Bondioli và Wright. (1983) lại sử dụng áp
suất thẩm thấu 290 mosm cũng có hiệu quả tương tự, dựa vào sự xâm nhập
của tinh trùng vào tế bào trứng. Tinh trùng được ủ trong tủ ấm 14 - 18 h ở nhiệt độ 20o C, được rửa một lần để loại bỏ giảm các yếu tố bên ngoài, thay
đổi màng tinh thanh và cho vào môi trường đẳng trương để trong tủ ấm 8 h.
- Phương pháp sử dụng Albumin huyết thanh bò và dịch nang trứng:
Tinh trùng bò được tiếp xúc với huyết thanh bò trong một dung dịch muối
sinh lý phù hợp có thể hoạt hóa trong ống nghiệm và huyết thanh bò cũng
được sử dụng thường xuyên trong môi trường nuôi dùng trong TTON. Theo
Downs và Bavister (1989), cho thấy albumin huyết thanh bò có thể đóng một
vai trò quan trọng trong việc loại bỏ cholesterol và kẽm (2 chất ổn định màng
tế bào) khỏi màng tế bào tinh trùng khi hoạt hóa.
- Phương pháp dùng canxi ionophore (A23187): Đây là phương pháp
giúp tinh trùng vượt qua giai đoạn đầu của quá trình hoạt hóa bằng cách tăng
trực tiếp lượng Ca của tế bào và gây phản ứng (Hanada, 1985). Xử lý bằng
ionophore cũng làm tăng hoạt động hô hấp của tinh trùng bò.
- Sử dụng Heparin và các loại glycosaminoglycan khác, trong đó sử
dụng Heparin là phương pháp được chú ý nhất.
1.7.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thụ tinh của tế bào trứng
Môi trường nuôi thành thục, bổ sung thêm các thành phần, xử lý tinh
trùng, mật độ tinh trùng, thời gian tiếp cận giữa tinh trùng và trứng, môi
trường được sử dụng và các điều kiện nuôi đóng vai trò quan trọng trong sự
thành công của quá trình thụ tinh và khả năng phát triển của hợp tử. Sự thành
công của quá trình thụ tinh, đòi hỏi sự chuẩn bị tinh trùng và tế bào trứng
thích hợp cũng như các điều kiện nuôi thuận lợi cho quá trình hoạt động trao
đổi chất của giao tử đực và giao tử cái. Tinh trùng đủ về số lượng được cho
vào môi trường thụ tinh có chứa heparin và được ủ với tế bào trứng trong
khoảng thời gian tối ưu để thụ tinh.
Phương pháp chuẩn bị tinh trùng, số lượng tinh trùng, bổ sung hàm
lượng heparin thích hợp và thời gian ủ tinh trùng với tế bào trứng có thể ảnh
hưởng đến kết quả thụ tinh in vitro.
1.7.2.1. Số lượng tinh trùng
Hầu hết kỹ thuật thụ tinh in vitro sử dụng mật độ tinh trùng khoảng 1 x 106 ml và quá trình thụ tinh hầu hết được tiến hành trong giọt môi trường thụ
tinh 50 - 500 µl có chứa 5 - 40 tế bào trứng trong mỗi giọt và được phủ một
lớp dầu khoáng. Tăng mật độ tinh trùng có thể làm tăng tỉ lệ phân chia, song
lại có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của phôi sau này. Nếu mật độ tinh trùng vượt quá 1,6 x 106/ml (Ling và Lu, 1990). Một số tác giả khác công bố
rằng mật độ tinh trùng tối ưu với tỉ lệ tế bào trứng là 2000 khi sử dụng giọt thụ tinh 200 µl và mật độ tinh trùng là 2,5 x 106/ml (Heres và cs., 1996). Saeki và cs. (1995) cho rằng tăng mật độ tinh trùng 1 x 104/ml lên 1 x 106/ml
làm tăng khả năng thụ tinh khi bổ sung hoặc không bổ sung huyết thanh bò.
Song để đạt được tỉ lệ phân chia và sự hình thành phôi dâu và phôi nang tốt
nhất, mật độ tinh trùng sử dụng để thụ tinh in vitro có sự khác nhau giữa các
con đực (Lu và Seidal, 2004).
1.7.2.2. Thời gian thụ tinh giữa trứng và tinh trùng
Quá trình thụ tinh thành công đóng vai trò quan trọng trong sản xuất
phôi in vitro. Trong tự nhiên sự có mặt của tinh trùng vào thời điểm thụ tinh
là rất ít. Thụ tinh in vitro tỉ lệ tinh trùng với trứng và thời gian nuôi 10.000 -
200.000/tế bào trứng và thời gian thụ tinh 16 - 24 h (Lambert và cs., 1983).
Tế bào trứng được ủ với một số lượng lớn tinh trùng trong một lượng nhỏ môi
trường cho thấy các enzyme thủy phân có thể có hại ảnh hưởng đến khả năng
phát triển của tế bào trứng. Do vậy, một thời gian tối thiểu để đạt được sự thụ
tinh tối ưu là sự mong muốn. Kochhar và cs. (2003) thấy rằng thời gian ủ tinh
trùng và trứng trong khoảng thời gian 6 h cho tỉ lệ phát triển của hợp tử đến
giai đoạn phôi nang cao nhất khi dùng tinh của các con đực khác nhau. Tỉ lệ
thụ tinh cao đạt được khi ủ tinh trùng với tế bào trứng 20, 24 hay 28h cao hơn
thời gian ủ 4, 8 và 16 h (Rehman và cs., 1994). Ngược lại Fukui và cs. (1990)
thấy rằng liều heparin tối ưu làm cho tinh trùng bò có khả năng thụ tinh dao
động từ 25 - 100 µg/ml, với thời gian tốt nhất là 5 - 6 phút. Dựa vào thời gian
thụ tinh cần thiết để tinh trùng có khả năng thụ tinh trong đường sinh dục cái
cho thấy, thời gian ủ tinh trùng và tế bào trứng 6h là tốt nhất (Danila, 2000)
và hiện nay hầu hết các nhà nghiên cứu trên thể giới cũng như ở nước ta sử
dụng thời gian là 5h khi thụ tinh in vitro.
1.7.2.3. Hàm lượng heparin trong môi trường thụ tinh
Heparin tương tự như glycosaminoglycan trong cơ quan sinh dục của
bò, thúc đẩy sự không ổn định của các màng tế bào do vậy ảnh hưởng đến khả
năng thụ tinh của tinh trùng (Miller và Ax, 1990). Glycosaminoglycans có cấu
trúc phức tạp, bao gồm: Heparin, heparan sulphat, chondroitin sulphat,
dermatan sulphat, hyaluronic axít và keratan sulphat.Trong thụ tinh ống
nghiệm, glycosaminoglycan là một tác nhân hiệu quả, giúp hoạt hóa tinh
trùng, trong tự nhiên nó tồn tại rất nhiều trong nang trứng bò và được giải
phóng khi trứng vỡ và rụng vào loa kèn hay phễu của ống dẫn trứng. Ngoài ra
glycosaminoglycan còn được tìm thấy trên toàn bộ đường sinh dục cái và
được coi là thúc đẩy hoạt động của các hormone steroid buồng trứng.
Các thí nghiệm ủ tế bào trứng thành thục với tinh trùng trong môi
trường BO chứa 20mg huyết thanh bò, 5 mM caffeine và 10 µg heparin/ml
cho thấy sự kết hợp giữa heparin và caffeine làm tăng tỉ lệ xâm nhập lên 68%.
Heparin có khả năng giống như glycosaminoglycan, có khả năng thực hiện
quá trình phản ứng acrosome (Handrow và cs., 1982). Tanghe và cs. (2004);
Mendes và cs. (2003) kết luận rằng, không có heparin trong môi trường thì
quá trình thụ tinh in vitro không xảy ra, sự có mặt của heparin làm tăng tỉ lệ
phân chia. Parrish và First (1984), đã sử dụng phương pháp xử lý tinh trùng ở
nồng độ heparin (10µg/ml) để ủ tinh trùng tươi của bò trong tủ ấm 4 h và với
tinh đông lạnh-giải đông là 0,5 h làm tăng đáng kể tỉ lệ thụ tinh. Nồng độ
heparin dùng cho hoạt hóa tinh trùng là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng đến quá
trình thụ tinh trong ống nghiệm của bò và sau đó là sự phát triển của phôi.
Hàm lượng heparin có sự khác nhau giữa các tác giả. Hàm lượng
heparin 20 µg/ml môi trường thụ tinh (Camargo và cs., 2006). Fukui và cs.
(1990) thấy rằng liều lượng heparine là 25 - 100 µg/ml với thời gian ủ thích
hợp là 5 - 60 phút. Liều lượng heparine đến kết quả thụ tinh in vitro còn có sự
khác nhau giữa tinh được khai thác từ các con đực khác nhau. Như vậy có sự
biến động về sự báo cáo của các tác giả, song rõ ràng là heparine có ảnh
hưởng đến tỉ lệ thụ tinh ở bò.
1.8. Nuôi phôi In vitro
1.8.1. Môi trường nuôi phôi
Tế bào trứng sau khi được thụ tinh trong 5h, các tế bào trứng được rửa
trong môi trường rửa, để loại màng cumulus và tinh trùng. Sau khi rửa, các tế
bào trứng hay hợp tử giả định tiếp tục được nuôi trong môi trường nuôi phôi.
Để đảm bảo cho quá trình phát triển của phôi, từ năm 1960, các nhà nghiên
cứu đã sử dụng nhiều loại môi trường nuôi khác nhau để nuôi phôi và hầu hết
các loại môi trường đều dựa vào các chất có trong ống dẫn trứng, nhiều loại tế
bào soma và dựa vào những hiểu biết về quá trình trao đổi chất của phôi. Thời
gian nuôi phôi in vitro thường dừng lại khi phôi phát triển đến giai đoạn phôi
dâu hoặc phôi nang. Môi trường sau khi thụ tinh đóng vai trò then chốt quyết
định chất lượng của phôi nếu chất lượng tế bào trứng tốt (Lonergan và cs.,
2003). Có một số giai đoạn quan trọng trong giai đoạn phát triển của nuôi
phôi in vitro như: Các giai đoạn phân chia đầu tiên, sự hình thành phôi dâu và
phôi nang (Sagirkaya, 2006). Giai đoạn nuôi làm cho một lượng lớn phôi bị
thoái hóa, do vậy tỉ lệ phôi phát triển đến giai đoạn phôi dâu và phôi nang chỉ
đạt khoảng 40 % (Kane, 2003).
Có hai loại chính của hệ thống nuôi in vitro: Các hệ thống nuôi kết hợp
(co-culture systems) và môi trường tế bào tự do (Cell-free media). Các hệ
thống nuôi kết hợp được phát triển đầu tiên, trong môi trường nuôi thường
chứa các tế bào biểu mô ống dẫn trứng và một lượng lớn huyết thanh. Ở nước
ta, Nguyễn Hữu Đức và cs. (2003) đã nuôi hợp tử trong môi trường B2 có bổ
sung tế bào vero, tỉ lệ hợp tử phân chia đạt 72,96% và tỉ lệ phôi nang quan sát
được là 25,88%. Ngoài ra các nhà khoa học còn sử dụng các tế bào biểu mô
ống dẫn trứng và các tế bào hạt (Kane, 2003) để bổ sung vào môi trường nuôi.
Các vấn đề vấn hạn chế là các hệ thống này phức tạp và tốn nhiều thời gian để
chuẩn bị, nhưng các nghiên cứu cho thấy, hầu hết các thành phần trong hệ
thống môi trường này không làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất phôi
(Hoshi, 2003). Để bù đắp những khiếm khuyết này có rất nhiều nghiên cứu
theo hướng sử dụng môi trường Semi-define cell free culture media. Có một
số thành phần chính được sử dụng cho môi trường nuôi nhưng có lẽ thành
phần phổ biến nhất là dịch ống dẫn trứng nhân tạo (SOF). Môi trường semi-
define media thường bổ sung một số lượng huyết thanh, như huyết thanh bê
và nuôi trong điều kiện oxy thấp (Galli, 2003).
1.8.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của phôi
1.8.2.1. Chất lượng hợp tử
Những tế bào trứng có chất lượng A, B hay loại 1 và loại 2, được nuôi
thành thục và cho thụ tinh với tinh trùng. Đánh giá chất lượng hợp tử thường
được thực hiện 16 - 18 h sau khi tế bào trứng được thụ tinh in vitro nhằm xác
định được khả năng phát triển của hợp tử về sau. Chất lượng hợp tử thường
được đánh giá dựa và tiền nhân và hạch nhân. Van Blerkom. (1990) là người
phát hiện ra sự đối xứng và kích thước của tiền nhân, số lượng và vị trí của
hạch nhân có sự liên quan mật thiết đến tỉ lệ có chửa. Scott và cs. (2000) dựa
vào số lượng và sự phân bố của hạch nhân trong tiền nhân để phân loại tốt
xấu theo thứ tự từ 1 đến 4, căn cứ vào kích thước nhân, sự liên kết của nhân,
sự liên kết của hạch nhân, sự phân bố và vị trí của nhân trong hợp tử như sau:
1) Có tiền nhân bằng nhau. Số lượng và kích thước của hạch nhân bằng nhau,
có sự liên kết của hai tiền nhân ở chỗ nối của tiền nhân. Số lượng tối đa của
hạch nhân dao động từ 3 – 7; 2) Có số lượng tiền nhân bằng nhau. Số lượng
và kích thước của hạch nhân bằng nhau, nằm rải rác ở cả 2 tiền nhân. Số
lượng tối đa của hạch nhân dao động từ 3 – 7; 3) Có tiền nhân bằng nhau. Số
lượng hạch nhân bằng nhau, kích thước của hạch nhân không đồng đều. Các
tiền nhân khác có các hạch nhân nằm rải rác ngẫu nhiên. Số lượng tối đa của
hạch nhân khoảng từ 3 – 7; 4) Có tiền nhân không bằng nhau hoặc tách rời.
Phương pháp này được ứng dụng rộng rãi và có rất nhiều báo cáo xác định
rằng là phương pháp có hiệu quả để lựa chọn được hợp tử có chất lượng tốt, tỉ
lệ có chửa cao (Hình 1.6). Theo Munne và Cohen. (1998; Manor và cs.,
1999), sự phân chia hợp tử ở loại 1 và loại 2 thường có sản lượng phôi về sau
thu được tốt. Ngoài ra, khi cấy chuyển những phôi này cho bò nhận phôi cho
tỉ lệ có chửa cao hơn. Mặt khác, loại 3 hợp tử phát triển thành phôi có chất
lượng kém hơn và khả năng cấy thấp hơn. Hợp tử ở mức độ loại 4 rất thường
xuyên bị ảnh hưởng bởi sự bất thường của nhiễm sắc thể và thể dị bội, vì vậy
Loại 1 Loại 2 Loại 3
phôi đó không nên cấy và sử dụng cho mục đích sinh sản.
Loại 4
Hình 1.7. Phân chia chất lượng hợp tử (Nguồn: Scott và cs., 2000)
Tesarik và cs. (1999) cũng đánh giá chất lượng hợp tử vào khoảng thời
gian 16 - 18 giờ sau khi thụ tinh, dựa vào đặc điểm của tiền nhân và hạch
nhân. Tiền nhân có kích thước và số lượng cân đối. Hạch nhân có kích thước
và số lượng bằng nhau. Có sự xuất hiện của tế bào chất. Các hợp tử được
phân thành sáu mức độ. Theo ông, ở mức độ 0 tương ứng với các hợp tử bình
thường và mức độ 1-5 đại diện cho thay đổi bất thường của hình thái hợp tử.
Sự xuất hiện thể cực thứ hai và tế bào chất cũng đóng vai trò quan
trọng khi đánh giá chất lượng phôi. Sự phân cực của tế bào trứng là tiền đề để
xác định chính xác vị trí trên trục kéo dài của tiền nhân, xác định các chức
năng khác nhau của hai cực hợp tử. Sự sắp xếp lại của các cơ quan tế bào ảnh
hưởng đến tương lai của phôi bào khi hợp tử phân chia. Quầng sáng và các
quầng quanh tiền nhân là dấu hiệu của sự phân cực hợp tử. Các bất thường
trong mối quan hệ không gian giữa tiền nhân và thể cực là những dấu hiệu
liên quan đến rối loạn phân chia sắp xảy ra. Thường các hợp tử có hai cực
không bằng nhau thì có sự phân chia chậm hơn (Hình 1.7). Phôi kém chất
lượng và giảm tốc độ tăng trưởng (Garello và cs., 1999).
Thể cực
Tiền nhân
Các hạch nhân
Hợp tử có hai thể cực bằng nhau Hợp tử có hai thể cực bằng nhau
Hình 1.8. Hợp tử (Nguồn: Scott và cs., 2000)
1.8.2.2. Chất lượng phôi ở giai đoạn phân chia
Đánh giá chất lượng phôi ở giai đoạn phân chia được thực hiện trong
khoảng thời gian 24 - 48 giờ sau khi thụ tinh, khi xuất hiện sự phân chia đầu
tiên của tế bào phôi để đánh giá và tìm ra những phôi có khả năng phát triển
và phôi có chất lượng tốt. Ziebe và cs. (1997) đánh giá chất lượng phôi ở giai
đoạn đầu dựa vào sự cân đối và mức độ tách rời của tế bào phôi. Phôi có chất
lượng tốt là những phôi có hai tế bào phôi cân đối và có sự liên kết chặt chẽ.
Những phôi có phân chia đầu tiên của tế bào phôi 24 - 28 giờ sau khi thụ
tinh, thường có tỉ lệ đậu thai thấp, ngay cả các phôi với hình thái tốt vào thời
điểm cấy.
Tỉ lệ phát triển của phôi (phân chia) được đánh giá trong nhiều nghiên
cứu. Gần như chắc chắn rằng số lượng tế bào phôi cao cho thấy tỉ lệ đậu thai
cao hơn. Tần số phân chia liên quan đến khả năng phát triển của phôi. Những
phôi có từ bốn tế bào phôi trở xuống vào ngày thứ 3 sau khi thụ tinh, cho
thấy khả năng phát triển rất thấp và tỉ lệ có chửa của phôi này sau khi cấy là
rất thấp. Phôi chất lượng tốt phải có ít nhất 4 tế bào vào ngày thứ hai và ít
nhất 8 tế bào vào ngày thứ ba sau khi thụ tinh .
Các lần đánh giá chất lượng phôi ở giai đoạn đầu vào khoảng thời gian
40-44 giờ và 64 - 68 giờ sau khi thụ tinh là tốt nhất. Phôi được chia thành các
nhóm, tùy thuộc vào một số đặc điểm về hình thái học. Bên cạnh số lượng tế
bào, sự xuất hiện của tế bào chất không bình thường hoặc các mảnh tế bào rời
rạc là những đặc điểm thường được sử dụng để đánh giá. Như vậy, để đạt
được hiệu quả cao trong quá trong quá trình sản xuất phôi, cấy phôi cho bò
nhận việc đánh giá chất lượng hợp tử, phôi đóng vai trò hết sức quan trọng.
1.9. Ảnh hưởng của kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng đến kết quả nuôi
thành thục, thụ tinh và tạo phôi in vitro
Kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng đã mở ra một bước ngoặt mới trong
quá trình sản xuất phôi in vitro. Việc thu tế bào trứng từ bò sống cho phép
chúng ta có thể lựa chọn năng suất và chất lượng bò cho tế bào trứng. Quá
trình thu tế bào trứng được lặp đi lặp lại nhiều lần để tạo ra một số lượng lớn
phôi có giá trị di truyền cao trong cùng một đơn vị thời gian và trên cùng một
cá thể. Bên cạnh các ưu điểm trên, chất lượng tế bào trứng và phôi tạo ra cho
kết quả cao hơn so với tế bào trứng được thu từ lò mổ, số lượng phôi thu được
lên đến 4.7 phôi/lần siêu âm hút tế bào trứng và tỉ lệ phôi nang 48 % (Hasler,
2003). Song kết quả nuôi thành thục, thụ tinh và tạo phôi in vitro chịu ảnh
hưởng rất lớn của kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng.
Ảnh hưởng của kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng đến khả năng thành
thục, quá trình thụ tinh và tạo phôi in vitro liên quan mật thiết đến chất lượng
tế bào trứng. Chất lượng tế bào trứng được thể hiện thông qua chất lượng của
các thành phần cấu tạo nên tế bào trứng như: màng cumulus, tế bào chất, nhân
tế bào và rất nhiều thành phần khác của tế bào trứng. Hình thái học của tế bào
trứng là một trong các cơ sở để chúng ta lựa chọn tế bào trứng trước khi nuôi
thành thục và thụ tinh trong ống nghiệm (Khurana và Niemann, 2000). Song
để hút được các tế bào trứng ra khỏi các nang trứng cần phải hiểu rõ cấu tạo
và chức năng của hệ thống siêu âm hút tế bào trứng và sử dụng tốt từng thiết
bị và công đoạn kỹ thuật. Mỗi một thiết bị trong hệ thống siêu âm đều ảnh
hưởng đến chất lượng tế bào trứng.
Màn hình và đầu dò siêu âm có sự liên quan mật thiết với nhau. Màn
hình máy siêu âm hút tế bào trứng cần phải được điều chỉnh về độ sáng tối và
độ nét phù hợp với từng cá thể và ánh sáng nơi tiến hành siêu âm hút tế bào
trứng. Độ sắc nét cao, khả nang quan sát tế bào trứng càng rõ bấy nhiêu, tăng
khả năng quan sát và chọc hút. Cách cố định, di chuyển buồng trứng ở phía
đầu dò siêu âm cần phải phù hợp với cấu tạo và sự phân bố của các nang
trứng có mặt trên buồng trứng. Kỹ thuật cố định và di chuyển buồng trứng là
yếu tố kỹ thuật rất quan trọng để thu được tối đa số lượng nang trứng có chất
lượng tốt.
Tần suất hút tế bào trứng đóng vai trò quan trọng, liên quan đến số
lượng, kích thước của nang trứng có mặt trên buồng trứng và liên quan đến
pha của sóng nang vào thời điểm siêu âm hút tế bào trứng. Nếu khoảng cách
quá dài sau khi siêu âm hút tế bào trứng, một đợt nang trứng mới lại xuất hiện
(Viana và cs., 2010) và hình thành nên các nang trội, ức chế các nang trứng
còn lại dẫn đến số lượng và chất lượng tế bào trứng bị giảm do hàm lượng
inhibin tăng cao làm ức chế FSH. Song nếu tần suất quá gần nhau làm cho các
nang trứng chưa kịp phát triển đến kích thước ≥ 2mm, ở kích thước này các
nang trứng có khả năng thành thục và phát triển đến giai đoạn phôi dâu và
phôi nang.
Trong kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng, áp lực hút liên quan đến chất
lượng tế bào trứng. Nếu áp lực hút quá yếu, khả năng hút tế bào trứng và dịch
nang trứng ra kém. Mặt khác khi áp lực hút yếu quá trình hút bị chậm lại làm
cho dịch nang trứng sẽ tràn qua lỗ kim đâm, kéo theo một lượng nhất định tế
bào trứng chảy ra ngoài. Nhưng khi sử dụng áp lực hút lớn tế bào trứng sẽ bị
tác động do tốc độ dòng xoáy và tốc độ di chuyển của tế bào trứng làm cho
màng cumulus bị lột trần và các tổ chức bên trong tế bào bị tổn thương làm
giảm khả năng thành thục, thụ tinh và kết quả tạo phôi in vitro.
Có thể nói rằng, để nâng cao được khả năng thành thục, thụ tinh và kết
quả tạo phôi in vitro khi siêu âm hút tế bào trứng cần phải nâng cao được chất
lượng tế bào trứng.
CHƯƠNG 2
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu, nội dung và phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Vật liệu
- Bò cho tế bào trứng ở các thí nghiệm là bò sữa HF và bò lai hướng
sữa F3 (Holstein Friesian x Lai Sind), có độ tuổi 3 – 8, đang sinh sản bình
thường điểm thể trạng 2,5 - 3 và không mang thai.
- Tinh cọng rạ sử dụng để thụ tinh in vitro trong các thí nghiệm là bò HF của
cùng một con đực, có năng suất từ 10.000 lít sữa trở lên trong một chu kỳ vắt
sữa, được nhập từ Mỹ, hoạt lực tinh trùng trên 40% và đã được kiểm tra năng
suất qua đời sau.
2.1.2. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu ảnh hưởng của áp lực hút.
- Nghiên cứu ảnh hưởng tần suất siêu âm hút tế bào trứng.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của kích thước nang trứng.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của pha nang trứng phát triển và pha nang trứng trội.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng FSH.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của giống bò.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của tuổi bò.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của mùa vụ.
2.1.3. Phương pháp nghiên cứu
2.1.3.1. Siêu âm hút tế bào trứng
Trước khi siêu âm hút tế bào trứng, bò cho tế bào trứng được cố định trong giá, lấy hết phân trong trực tràng, rửa sạch và sát khuẩn bằng cồn 700,
gây tê cục bộ bằng cách tiêm 4 - 6 ml lidocain 2% vào khấu đuôi. Siêu âm hút
tế bào trứng được thực hiện bằng màn hình siêu âm (HS-2000, HONDA
Electronics Co., Ltd, Japan) và đầu dò siêu âm có đường dẫn kim hút tế bào
trứng 7,5 MHz (HBV-4710 MV, Fujira In dustry Co., Ltd, Japan). Tất cả các
nang trứng có kích thước 2 mm trở lên được hút bằng máy tạo áp suất (FHK,
Model 4, Tokyo, Japan) được nối với kim hút tế bào trứng một đường dẫn
(dài 55 cm, 18 G, COVA, Missawa Medical Industry Co., Ltd, Japan). Trước
khi hút tế bào trứng, kim được nối với hệ thống ống dẫn, được đổ đầy dịch
hút tế bào trứng mDPBS của Sigma, bổ sung 2% heparin (Aventis Pharma
Ltd, Tokyo, Japan) và 5% huyết thanh bê mới sinh (Wako Pure Chemical
Industries Ltd., Osaka, Japan) và kháng sinh (100.000iu penicilin/ml + 100l
streptomycin/ml). Đồng thời ống dẫn dịch hút tế bào trứng được nối với ống
đựng dịch hút tế bào trứng và dịch nang trứng 50 ml, được giữ trong bình ổn nhiệt (Fujihira industry Co., Ltd, Japan) ở 370 C. Cho đầu dò siêu âm vào vị
trí trong cùng của ngách âm đạo, cố định và đưa buồng trứng sát với đầu dò
siêu âm, dùng kim chọc thủng qua thành âm đạo và chọc thủng nang trứng đã
được xác định, dịch chuyển buồng trứng để hút các nang bên cạch. Hút 3 – 5
hoặc có thể đến 10 nang trứng thì kim được rút ra, cho đầu kim vào ống đựng
dịch hút tế bào trứng để hạn chế sự đông máu làm tắc kim và hệ thống dẫn
dịch. Tiếp tục thao tác lặp đi lặp lại như trên để tiếp tục hút hết các nang trứng
ở cả hai buồng trứng. Sau khi siêu âm hút tế bào trứng xong, dịch nang trứng
được lọc, sử dụng lọc phôi (EMCON, Spring Walley, WI, USA) và tìm phôi
dưới kính hiển vi soi nổi.
2.1.3.2. Đánh giá chất lượng tế bào trứng
Tất cả các tế bào trứng sau khi tìm được, được tiến hành đánh giá phân
loại trên kính hiển vi soi nổi theo phương pháp của tác giả Goodhand và cs.
(2000). Tế bào trứng được chia ra thành 4 loại theo thứ tự từ tốt đến xấu:
- Loại A: Có 4 lớp màng cumulus trở lên, phân bố rõ ràng, liên kết chặt chẽ và
tế bào chất đồng nhất.
- Loại B: Có 1 lớp màng tế bào cumulus trở lên, liên kết chặt chẽ và tế bào
chất đồng nhất.
- Loại C: Một số phần vỏ ngoài tế bào trứng bị lột trần, tế bào chất co lại
không đều.
- Loại D: Tế bào trứng hoàn toàn bị lột trần và tế bào chất co lại không đều.
2.1.3.3. Nuôi thành thục tế bào trứng
Tế bào trứng loại A, B được nuôi thành thục theo quy trình của một số
tác giả đã công bố như Saitoh và cs. (1995), Kajihara và cs. (1999), Numabe
và cs. (2000), Imai và cs. (2006). Các tế bào trứng được rửa một lần trong
môi trường hút tế bào trứng và rửa 2 lần trong môi trường nuôi thành thục tế
bào trứng TCM-199 (GIBCO-BRL, Gland Island, NY, USA) bổ sung 5%
huyết thanh bê mới sinh và kháng sinh. Sau đó 20 tế bào trứng loại A,B được
nuôi 20 đến 22 h trong 100 µl giọt môi trường nuôi TCM-199 (Sigma
Chemical St. Louis, MO, USA) bổ sung 5% huyết thanh bê mới sinh ((Wako
Pure Chemical Industries Ltd., Osaka, Japan) và kháng sinh (100.000iu
penicilin/ml + 100l streptomycin/ml) trong đĩa petri đường kính 35 mm
(Falcol 1008, Becton Dickinson Co. Ltd., Oxnard CA, USA), các giọt nuôi
được phủ dầu khoáng (paraffin oil (Praffin liquid, Nacalai Tesque ICN,
Kyoto, Japan), pH được điều chỉnh ở mức 7,3 - 7,4. Khi số lượng tế bào trứng
nuôi ít hơn 20 tế bào trứng thì theo tỉ lệ cứ một tế bào trứng sử dụng 5µl môi trương nuôi. Quá trình nuôi được duy trì ở nhiệt độ 38,50 C, trong điều kiện
5% CO2 và độ ẩm tối đa.
2.1.3.4. Hoạt hóa tinh trùng
Việc hoạt hóa tinh trùng được thực hiện trong môi trường BO theo một
số tác giả đã công bố như Saitoh và cs. (1995), Kajihara và cs. (1999),
Numabe và cs. (2000), Imai và cs. (2006). Sau khi nuôi thành thục tế bào
trứng được lấy ra khỏi môi trường nuôi thành thục tế bào trứng và rửa trong
môi trường thụ tinh in vitro BO (Brackett and Oliphant), được bổ sung 10
mg/ml Albumin huyết thanh bò (Sigma Chemical St. Louis, MO, USA). Sau
khi rửa, tế bào trứng thành thục được thụ tinh với tinh trùng đã được hoạt hóa.
Hai cọng rạ tinh bò Holstein Friesian 0,25 ml lấy ra khỏi bình ni tơ lỏng, được giải đông trong bình nước ấm 370 C trong trong khoảng thời gian 20 – 30
giây. Cho 6 ml môi trường rửa tinh trùng BO được bổ sung 0,3885 mg/ml
caffeine sodium benzoate (Sigma) và 4 µl/ml novo heparin (Novo Industry,
Japan) vào ống ly tâm có chứa tinh trùng đã được giải đông, trộn đều bằng pipet, ly tâm hai lần 1800 vòng/phút trong 5 phút ở nhiệt độ 370 C. Sau khi
rửa xong, phần lắng dưới ống ly tâm được điều chỉnh mật độ tinh trùng ở mức 12,5 x 106 tinh trùng/ml bằng môi trường BO. Nồng độ cuối cùng sử dụng để thụ tinh được điều chỉnh xuống mật độ 6,25 x 106 tinh trùng/ml bằng môi
trường BO bổ sung 0,3885 mg/ml caffeine sodium benzoate (Sigma), 4 µl/ml
novo heparin (Novo Industry, Japan) và 20 mg/ml albumin huyết thanh bò
(Sigma, USA) theo tỉ lệ thích hợp.
Để thụ tinh in vitro, cho 20 tế bào trứng đã được nuôi thành thục vào 100 µl môi trường có chứa 6, 25 x 106 tinh trùng/ml đã được hoạt hóa trong
đĩa petri đường kính 35 mm (Falcol 1008, Becton Dickinson Co. Ltd., Oxnard
CA, USA) và được giữ trong tủ CO2 (CO2 Incubator, Sanyo, Japan) ở nhiệt độ 38,50 C, trong điều kiện 5% CO2 và độ ẩm tối đa.
2.1.3.5. Nuôi hợp tử và phôi in vitro
Sau khi ủ tinh trùng với tế bào trứng 5 h trong tủ nuôi CO2, các tế bào
trứng (hay có thể gọi là các hợp tử, có sự xuất hiện của thể cực thứ 2) được
tách khối tế bào cumulus, bằng cách hút nhiều lần qua đầu pipet thủy tinh vô
trùng trong môi trường nuôi in vitro và nuôi 20, 25 hay 30 hợp tử giả định
trên trong 7 ngày trong giọt môi trường nuôi CR1aa 100 µl, bổ sung thêm 20
µl axit amin không thay thế (MEM essential amino acid 100x, Sigma), 10 µl
axit amin thay thế (MEM essential amino acid 100x, Sigma), 1mg/ml (L-
glutamic (Sigma), 3mg/ml BSA (Sigma, No-730), 5% huyết thanh bê mới
sinh (Wako Pure Chemical Industries Ltd., Osaka, Japan) và kháng sinh
(100.000 iu penicilin/ml + 100l streptomycin/ml). Nếu số lượng tế bào trứng
nuôi ít hơn 20 tế bào trứng thì thể tích mỗi giọt được tính theo tỉ lệ cứ một
hợp tử giả định sử dụng 5µl môi trường CR1aa trên. Các giọt nuôi được phủ
dầu khoáng (Paraffin oil, Wako Pure Chemical, Japan) và quá trình nuôi được
duy trì ở được giữ trong tủ CO2 (CO2 Incubator, Sanyo, Japan) ở nhiệt độ 38,50 C, trong điều kiện 5% CO2 và độ ẩm tối đa. Sau khi nuôi nuôi in vitro
24 - 48 h tiến hành đánh giá sự phân chia của hợp tử.
2.1.3.6. Đánh giá chất lượng phôi dâu và phôi nang
Ở bò, thu hoạch phôi in vitro hoặc phôi in vivo thường ở giai đoạn phôi
dâu và phôi nang, tương ứng với ngày thứ 7 hoặc thứ 8 sau khi thụ tinh.
Phương pháp đánh giá chất lượng đóng vai trò quan trọng trong việc
lựa chọn những phôi có chất lượng tốt để cấy truyền hoặc đông lạnh để đạt
được tối đa tỉ lệ có chửa. Đánh giá và phân loại phôi dâu, phôi nang được
được đánh giá theo 4 mức độ khác nhau, dựa vào giai đoạn phát triển, vòng
trong suốt và khối tế bào chất.
- Loại A (rất tốt): Phôi có hình thái chuẩn đúng với giai đoạn phát triển. Vòng
trong suốt tròn đẹp, khối tế bào đậm phân chia đều, rõ, không có tế bào rời
hoặc mảnh vụn bên ngoài.
- Loại B (tốt): Phôi có hình dáng kích thước tốt, phản ánh đúng giai đoạn phát
triển, nhưng khối tế bào không đẹp, không đều, không rõ nét như loại A. Sự
liên kết của các tế bào tương đối chặt chẽ, đôi khi có mảnh vụn tế bào hoặc tế
bào rời.
- Loại C (trung bình): Phôi có màu sắc phân bố không đều, các tế bào liên kết
lỏng lẻo, nhiều tế bào rời nhiều mảnh vụn xen kẽ hoặc tụ thành đám nhỏ.
Kích thước tế bào nhỏ hơn bình thường. Màng trong suốt có thể còn nguyên
vẹn nhưng nhỏ hoặc không tròn.
- Loại D (loại kém): Phôi phát triển chậm so với tuổi, các tế bào phôi bị vỡ,
màng trong suốt bị khuyết tật, có hình dạng và kích thước không bình thường,
hoặc phôi bị thoái hóa. Đây là loại phôi không đủ tiêu chuẩn cấy cũng như
đông lạnh.
2.1.3.7. Bố trí thí nghiệm
Gồm có 8 thí nghiệm được thực hiện độc lập với nhau, trong suốt thời
gian từ năm 2006 – 2011, để xác định sự ảnh hưởng của một số yếu tố đến số
lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng, chất lượng tế bào trứng, hợp tử phân
chia, phôi dâu và phôi nang thu được và từ đó xác định được yếu tố thích hợp
cho kết quả tốt nhất khi siêu âm hút tế bào trứng bò để tạo phôi trong ống
nghiệm.
Để hạn chế tối đa sự tác động của các yếu tố ngoại cảnh làm ảnh hưởng
đến các thí nghiệm. Bò cho tế bào trứng sử dụng trong từng thí nghiệm có
điểm thể trạng, cân nặng tương đối đồng đều. Sử dụng máy siêu âm để xác
định sự đồng đều về hoạt động và kích thước của hai buồng trứng. Được
chăm sóc nuôi dưỡng trong cùng một điều kiện, cho ăn 4 kg thức ăn tinh và
50 kg cỏ tươi/ngày. Bò cho tế bào trứng ở các thí nghiệm không giống nhau.
Trước khi tiến hành thí nghiệm 3 tuần, cứ hai ngày một lần các nang trứng có
kích thước từ 5 mm trở lên được loại bỏ, để loại bỏ sự tồn tại của thể vàng
trên buồng trứng, hạn chế sự tác động của nang trội và đưa hoạt động buồng
trứng của nhóm bò thí nghiệm về pha nang trứng phát triển. Siêu âm hút tế
bào trứng trong tất cả các thí nghiệm được thực hiện bởi một người kỹ thuật.
Nhóm người thực hiện soi tìm tế bào trứng, đánh giá chất lượng tế bào trứng,
nuôi thành thục, thụ tinh và tạo phôi trong từng thí nghiệm hầu như không có
sự thay đổi. Hệ thống máy móc, thiết bị, môi trường,…giống nhau. Các thí
nghiệm được sắp xếp theo tính quan trọng và mức độ sử dụng liên tục trong
quá trình nghiên cứu.
Thí nghiệm 1: Nghiên cứu ảnh hưởng của áp lực hút. Mục đích của
nghiên cứu là đánh giá sự ảnh hưởng của bốn mức độ áp lực hút 60 mmHg,
90 mmHg, 120 mm Hg và 150 mmHg, dựa vào một số tác giả đã công bố
(Pawel và cs., 2007; Bols và cs., 1996) lên số lượng tế bào trứng, chất lượng
tế bào trứng, hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được. Thí nghiệm
được tiến hành trên ba bò sữa HF có cùng độ tuổi với nhau (8 tuổi). Siêu âm
hút tế bào trứng được thực hiện với ở tần suất 2 lần/tuần (theo Viana 2004).
Thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của tần suất siêu âm hút tế bào
trứng. Mục đích của nghiên cứu là đánh giá sự ảnh hưởng của ba tần suất hút:
2 tuần/lần, 1 tuần/lần và ½ tuần/lần lên số lượng nang trứng, số lượng tế bào
trứng, chất lượng tế bào trứng, hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu
được. Thí nghiệm được tiến hành trên ba bò sữa HF có cùng độ tuổi (5 tuổi),
sử dụng áp lực hút được nghiên cứu ở thí nghiệm 1 (120 mmHg).
Thí nghiệm 3: Nghiên cứu ảnh hưởng của kích thước nang trứng được
thực hiện trên hai bò sữa HF (6 tuổi), để đánh giá sự ảnh hưởng của kích
thước nang trứng lên số lượng nang trứng được hút, số lượng tế bào trứng,
hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được. Siêu âm hút tế bào trứng
được thực hiện ở áp lực hút 120 mmHg của thí nghiệm 1 và ở tần suất ½
tuần/lần được nghiên cứu ở thí nghiệm 2.
Thí nghiệm 4: Nghiên cứu ảnh hưởng của pha nang trứng phát triển và
pha nang trứng trội. Mục đích của nghiên cứu là đánh giá sự ảnh hưởng của
pha nang trứng phát triển và pha nang trứng trội lên số lượng nang trứng, số
lượng tế bào trứng, chất lượng tế bào trứng, hợp tử phân chia, phôi dâu và
phôi nang thu được khi siêu âm hút tế bào trứng không liên tục.
Trước khi siêu âm hút tế bào trứng, tiến hành xác định pha nang trứng
phát triển và pha nang trứng trội của đợt sóng nang. Mười bốn bò thí nghiệm
HF ( 3 – 6 tuổi) được siêu âm và hút loại bỏ tất cả các nang trứng có kích
thước từ 2 mm trở lên (ngày 0). Ngày 1 trở đi xuất hiện một đợt nang trứng
mới, có kích thước từ 2 mm trở lên được huy động, phát triển cho đến khi một
nang trứng phát triển nhanh hơn các nang trứng còn lại gọi là nang trội, nang
trội tiếp tục tăng nhanh về mặt kích thước. Lúc này các nang trứng còn lại
giảm phát triển và ngừng hẳn. Khi các nang trứng còn lại ngừng phát triển thì
từ ngày 0 đến thời điểm này được gọi là pha nang trứng phát triển và từ thời
điểm các nang trứng ngừng phát triển cho đến khi xuất hiện một đợt nang
trứng mới gọi là pha nang trội. Siêu âm hút tế bào trứng được thực hiện ở áp
lực hút 120 mmHg.
Thí nghiệm 5: Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng FSH được tiến
hành trên hai bò HF (3 tuổi), sáu liều lượng FSH (ANTLIN: Denka
Phamaceutical Co., Kawasaki, Japan) được nghiên cứu, bao gồm một liều
lượng đối chứng (không sử dụng FSH) và 5 liều lượng thí nghiệm: 2mg, 3mg,
4mg, 5mg và 6mg. Dựa vào kết quả nghiên cứu của Goodhand và cs. (1999);
Reis và cs. (2002); Chaubal và cs. (2007); De Roover và cs. (2005). Mục đích
của nghiên cứu là đánh giá sự ảnh hưởng của liều lượng FSH lên số lượng
nang trứng, số lượng tế bào trứng, chất lượng tế bào trứng, hợp tử phân chia,
phôi dâu và phôi nang thu được. Mỗi một liều lượng FSH được chia làm hai
phần bằng nhau, một phần được tiêm vào buổi sáng và một phần được tiêm
vào buổi chiều (sau ngày hút tế bào trứng). Sau khi tiêm FSH 2 ngày (Khoảng
cách giữa các lần siêu âm hút tế bào trứng là 4 ngày) tiến hành siêu âm hút tế
bào trứng. Siêu âm hút tế bào trứng được thực hiện ở áp lực hút 120 mmHg
và tần suất ½ tuần/lần.
Thí nghiệm 6: Nghiên cứu ảnh hưởng của giống bò. Nghiên cứu được
tiến hành trên hai bò HF và hai bò lai hướng sữa F3 (HF x lai Sind) ở áp lực
hút 120 mmHg, tần suất 1/2 tuần/lần để đánh giá sự ảnh hưởng của hai giống
bò này lên số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng, chất lượng tế bào
trứng, hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được.
Thí nghiệm 7: Nghiên cứu ảnh hưởng của tuổi bò. Mục đích của nghiên
cứu là đánh giá ảnh hưởng của tuổi bò cho tế bào trứng lên số lượng nang
trứng, số lượng tế bào trứng, chất lượng tế bào trứng, hợp tử phân chia, phôi
dâu và phôi nang thu được. Thí nghiệm được tiền hành trên bò sữa HF 3 tuổi
và 6 tuổi, ở áp lực hút 120 mmHg, tần suất ½ tuần/lần.
Thí nghiệm 8: Nghiên cứu ảnh hưởng của mùa vụ. Mục đích của
nghiên cứu là xác định sự ảnh hưởng của vụ đông - xuân và hè - thu lên số
lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng, chất lượng tế bào trứng, hợp tử phân
chia, phôi dâu và phôi nang thu được. Thí nghiệm được tiến hành tên hai bò
sữa HF (6 tuổi). Siêu âm hút tế bào trứng được thực hiện ở áp lực hút 120
mmHg và tần suất ½ tuần/lần.
2.1.3.8. Xử lý số liệu
Kết quả nghiên cứu của các thí nghiệm về số lượng nang trứng, số
lượng tế bào trứng, chất lượng tế bào trứng, hợp tử phân chia, phôi dâu và
phôi nang được phân tích, đánh giá sự khác nhau về thống kê giữa các yếu tố
ở các thí nghiệm sử dụng chương trình Paired t-test trong phần mềm minitab,
phiên bản 14. Các giá trị được trình bày dưới dạng X ± SE (X: Bình quân;
SE: Sai số chuẩn).
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành từ năm 2006 đến năm 2011, tại:
- Bộ môn Sinh lý, Sinh sản và Tập tính vật nuôi - Viện Chăn nuôi.
- Bộ môn Hóa sinh, Sinh lý động vật - Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội
- Khoa Thú y - Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội
- Trạm kiểm nghiệm và bảo tồn vật nuôi - Viện Chăn nuôi.
- Các hộ nuôi bò huyện Ba Vì, Hà Nội và huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của áp lực hút
* Ảnh hưởng của áp lực hút đến số lượng nang trứng được hút và tế bào
trứng thu được
Để đánh giá sự ảnh hưởng của áp lực hút, 72 lượt buồng trứng của bò
sống được siêu âm hút tế bào trứng. Tổng số nang trứng được hút (Bảng 3.1)
ở áp lực 60 mmHg, 90 mmHg, 120 mmHg và 150 mmHg, tương ứng: 167,
172, 170 và 178 nang. Tổng số tế bào trứng thu được từ các nang trứng ở áp
lực 60 mmHg, 90 mmHg, 120 mmHg và 150 mmHg, tương ứng 54, 75, 138
và 155 tế bào trứng.
Bảng 3.1. Số lượng nang trứng được hút và ảnh hưởng của áp lực hút
Nang trứng được hút
Tế bào trứng thu được
Áp lực hút
%
n
X ± SE
X ± SE
n
60 mmHg
167
9,28a ± 0,52
3,00a ± 0,27
32,34
54
90 mmHg
172
9,56a ± 0,57
4,17b ± 0,35
43,60
75
120 mmHg
170
9,44a ± 0,39
7,67c ± 0,31
81,18
138
155
150 mmHg
178
9,89a ± 0,52
8,61c ± 0,44
87,08
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột không mang chữ cái giống nhau thì sai
khác có ý nghĩa P < 0,05%; %: Tỉ lệ tế bào trứng thu được/nang trứng được hút;
X: Bình quân/buồng trứng/lần
đến số lượng tế bào trứng thu được
Từ kết quả nang trứng được hút cho thấy, số lượng nang trứng được
hút/buồng trứng/lần không có sự khác nhau (P < 0,05) vào thời điểm siêu âm
hút tế bào trứng ở các mức độ áp lực 60 mmHg, 90 mmHg, 120 mmHg và
150 mmHg, tương ứng: 9,28; 9,56; 9,44 và 9,89 nang. Song lại có sự ảnh
hưởng rõ rệt của áp lực hút đến kết quả tế bào trứng thu được (P < 0,05), có
sự sai khác biệt giữa áp lực 120 và 150 mmHg so với áp lực 60 và 90 mmHg,
tương ứng: 7,67 và 8,61 tế bào trứng/buồng trứng/lần so với 3,00 và 4,17 tế
bào trứng/buồng trứng/lần (P < 0,05). Nhưng căn cứ vào số lượng tế bào
trứng/buồng trứng/lần siêu âm hút tế bào trứng cho thấy ở áp lực hút 150
mmHg cao nhất.
Qua số lượng tế bào trứng thu được/nang trứng được hút, có thể thấy
rằng số lượng nang trứng được hút không có sự khác nhau (p < 0,05), tuy
nhiên tỉ lệ tế bào trứng thu được/nang trứng được hút lại có sự chênh lệch
giữa các mức độ áp lực hút, tương ứng: 32,34% ở 60 mmHg, 43,60% ở 90
mmHg, 81,18% ở 120 mmHg và 87,08% ở 150 mmHg. Như vậy có thể thấy
rằng khi tăng áp lực hút thì số lượng tế bào trứng thu được cũng như tỉ lệ tế
bào trứng thu được tăng lên. Tỉ lệ tế bào trứng thu được ở áp lực hút 60 và 90
mmHg của chúng tôi thấp hơn nhiều so với kết quả của Nguyễn Văn Lý và cs.
(2006), song ở áp hút 120 và 150 mmHg lại tương đối phù hợp với tác giả,
khi tác giả thu tế bào trứng bằng phương pháp hút dịch nang trứng và phương
pháp phẫu thuật thu được tỉ lệ tế bào trứng thu được/nang trứng có kích thước
≤ 8 mm là 82,38%. Như vậy, có thể nói, quá trình siêu âm hút tế bào trứng là
một quá trình phức tạp, bao gồm rất nhiều yếu tố và bị hạn chế bởi khả năng
quan sát so với thu tế bào trứng từ buồng trứng lò mổ, tỉ lệ tế bào trứng thu
được ở áp suất thích hợp cho kết quả tốt.
Kết quả thu được cho thấy, ở áp lực hút thấp số lượng tế bào trứng thu
được thấp. Nguyên nhân có thể do ở lực hút yếu nên dịch nang trứng cùng với
các tế bào trong dịch nang trứng không được hút ra hết. Mặt khác ở những
nang trứng lớn do lực hút chậm nên có thể đã có một số lượng dịch nang
trứng bị thoát ra xung quanh vết kim đâm. Số lượng tế bào trứng tăng lên khi
áp lực hút tăng cao là do lực hút mạnh đã hút được tối đa dịch nang trứng và
lực tác động cơ học lên sự liên kết giữa tế bào trứng và các tế bào xung
quanh. Nhưng số lượng tế bào trứng thu được tăng lên có làm ảnh hưởng đến
chất lượng tế bào trứng, đặc biệt là màng cumulus cần được nghiên cứu để
tìm ra áp lực hút đảm bảo cho quá trình tạo phôi in vitro vì khả năng phát
triển cao nhất của tế bào trứng khi có hình thái tròn trịa, tế bào chất đồng nhất
và phải có từ 3 lớp màng cumulus trở lên (Rita và cs., 2003).
* Ảnh hưởng của áp lực hút đến chất lượng tế bào trứng
Đánh giá chất lượng tế bào trứng là khâu quan trọng để đạt được kết
quả cao trong quá trình nuôi thành thục, thụ tinh in vitro, liên quan mật thiết
đến kết quả hợp tử phân chia, số lượng phôi dâu và phôi nang thu được. Đánh
giá chất lượng tế bào trứng được thực hiện trên màn hình của kích hiển vi soi
nổi, dựa vào đặc điểm hình thái, màu sắc, đặc biệt là đặc điểm và số lượng
màng cumulus (Hình 3.1) để phân loại chất lượng tế bào trứng theo bốn mức
độ từ tốt đến xấu A, B, C và D. Kết quả nghiên cứu và thực tiễn cho thấy, chỉ
có tế bào trứng có chất lượng loại A và B mới có khả năng phát triển tốt.
Kết quả thu được cho thấy, có sự ảnh hưởng của áp lực hút lên chất
lượng tế bào trứng loại A (P < 0,05). Bình quân tế bào trứng loại A ở các mức
độ áp lực 60, 90, 120 và 150 mmHg, tương ứng 1,44; 1,89; 3,78 và 2,44 tế
bào trứng/buồng trứng/lần (Bảng 3.2). Như vậy, tế bào trứng loại A/buồng
trứng/lần thấp nhất ở áp lực 60 mmHg và cao nhất ở áp lực hút 120 mmHg.
Có sự khác biệt (P < 0,05) về số lượng tế bào trứng loại B/buồng
trứng/lần ở áp lực 60 mmHg và 90 mmHg so với 120 mmHg và 150 mmHg,
tương ứng: 1,06 và 1,33 tế bào trứng so với 3,00 và 3,17 tế bào trứng. Ở áp
lực 150 mmHg cho kết quả tế bào trứng loại B/buồng trứng/lần cao nhất và
thấp nhất ở áp lực hút 60 mmHg (P < 0,05).
Có sự sai khác (P < 0,05) về số lượng tế bào trứng loại C/buồng
trứng/lần ở áp lực 150 mmHg so với áp lực 60 mmHg, 90 mmHg và 120
mmHg, tương ứng: 1,44 tế bào trứng so với 0,33; 0,56 và 0,56 tế bào trứng.
Tương tự, tế bào trứng loại D ở áp lực hút 150 mmHg có sự khác biệt với áp
lực hút 60 mmHg, 90 mmHg và 120 mmHg (P < 0,05). Bình quân số lượng tế
bào trứng/buồng trứng/lần loại D ở áp lực 150 mmHg (1,56 tế bào), cao hơn
so với áp lực 60 mmHg, 90 mmHg và 120 mmHg (tương ứng: 0,17; 0,39 và
0,33 tế bào trứng).
Chất lượng tế bào trứng
Áp lực
A
B
C
D
Hút
X ± SE (n)
X ± SE (n)
X ± SE (n)
X ± SE (n)
60 mmHg
1,44a ± 0,17 (26)
1,06a ± 0,17 (19)
0,33a ± 0,14 (6)
0,17a ± 0,09 (3)
90 mmHg
1,89b ± 0,16 (34)
1,33a ± 0,20 (24)
0,56a ± 0,17 (10)
0,39a ± 0,12 (7)
120 mmHg 3,78c ± 0,27 (68)
3,00b ± 0,26 (54)
0,56a ± 0,15 (10)
0,33a ± 0,11 (6)
3,17b ± 0,27 (57)
1,44b ± 0,20 (26)
150 mmHg 2,44b ± 0,23 (44) 1,56b ± 0,18 (28) Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột không mang chữ cái giống nhau thì sai
khác có ý nghĩa P < 0,05; A, B, C và D: Chất lượng tế bào trứng theo thứ tự từ cao
đến thấp; X: Bình quân/buồng trứng/lần
Bảng 3.2. Ảnh hưởng của áp lực hút đến chất lượng tế bào trứng
Như vậy có thể nói rằng áp lực đã ảnh hưởng đến chất lượng tế bào
trứng. Sự ảnh hưởng này liên quan mật thiết đến kết quả nuôi thành thục và
tạo phôi in vitro. Nguyễn Văn Lý và cs. (2006); Nguyễn Hữu Đức và cs.
(2003) đã tiến hành nghiên cứu và có kết luận rằng, chất lượng tế bào trứng
trước khi nuôi ảnh hưởng đến tỉ lệ trứng thành thục. Số lượng tế bào
trứng/buồng trứng/lần có chất lượng C và D cao là một kết quả không mong
muốn khi siêu âm hút tế bào trứng bò để tạo phôi trong ống nghiệm. Tế bào
trứng loại A, B thường được sử dụng, do có tỉ lệ thành thục, thụ tinh và tạo
phôi trong ống nghiệm cao, còn chất lượng tế bào trứng loại C và D thường
không được sử dụng để nuôi thành thục, thụ tinh và tạo phôi trong ống
nghiệm do kết quả thu được rất kém (Shiora và cs., 1988). Nguyễn Văn lý và
cs. (2006) cũng có kết luận tương tự khi ông nghiên cứu ảnh hưởng của chất
lượng tế bào trứng đến khả năng thành thục từ tế bào trứng được thu từ buồng
trứng của lò mổ thấy rằng, không có sự sai khác ý nghĩa về tỉ lệ thành thục
giữa tế bào trứng loại A và tế bào trứng loại B (71,19% và 69,46%; P < 0,05),
nhưng tỉ lệ thành thục của tế bào trứng loại C lại thấp hơn nhiều so với loại A
và B, chỉ đạt (38,35%; P < 0,05).
Tế bào trứng loại A Tế bào trứng loại B
Tế bào trứng loại C Tế bào trứng loại D Hình 3.1.Tế bào trứng có chất lượng A, B, C và D
Kết quả của chúng tôi thu được ở áp suất 60 mmHg tương đối phù hợp
với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Lý và cs. (2006) về tế bào trứng loại
A và B/buồng trứng/lần, khi ông tiến hành nghiên cứu siêu âm hút tế bào
trứng trên bò sống, số lượng tế bào trứng loại A và B thu được/buồng
trứng/lần siêu âm, tương ứng 1,44 và 0,97 tế bào trứng. Tuy nhiên, ở áp lực
hút 90, 120 và 150 mmHg của chúng tôi lại cao hơn.
* Ảnh hưởng của áp lực hút đến hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được
Tế bào trứng loại A và B được nuôi thành thục, thụ tinh, nuôi hợp tử và
phôi in vitro đến giai đoạn phôi dâu và phôi nang. Kết quả thu được cho thấy,
có sự sai khác về số lượng hợp tử phân chia (Bảng 3.3) ở áp lực hút 120
mmHg, 150 mmHg so với 60 và 90 mmHg (P < 0,05), tương ứng 3,61; 2,50
so với 1,50 và 1,72 hợp tử/buồng trứng/lần. Số lượng hợp tử/tế bào trứng nuôi
thành thục cao nhất ở áp lực 60 mmHg (60%) so với áp lực 90 (53,45%), 120
mmHg (53,28%) và 150 mmHg (44,55%). Như vậy, tỉ lệ hợp tử thu được ở áp
lực 60 mmHg tốt nhất. Kết quả này cho thấy rằng, ở áp lực này sự ảnh hưởng
đến chất lượng tế bào trứng ít hơn so với các mức độ áp lực khác. Tuy nhiên ở
áp lực này số lượng tế bào trứng thu được là rất thấp, do vậy số lượng hợp tử
thu được/buồng trứng/lần rất thấp, chỉ đạt 1,50 hợp tử. Trong khi đó tỉ lệ hợp
tử phân chia ở áp lực hút 120 mmHg có phần thấp hơn áp lực 60 mmHg,
nhưng số lượng hợp tử thu được/buồng trứng/lần lại cao nhất (3,61 hợp tử; P
< 0,05).
Hợp tử sau khi phân chia được tiếp tục nuôi đến giai đoạn phôi nang và
phôi dâu. Qua số lượng phôi dâu và phôi nang thu được cho thấy, (Bảng 3.3)
không có sự ảnh hưởng của áp lực hút đến số lượng phôi dâu và phôi nang thu
được (P < 0,05). Song căn cứ vào số lượng phôi thu được/buồng trứng/lần thì
ở áp lực hút 120 mmHg (1,11 phôi) cao hơn so với áp lực 60 mmHg, 90
mmHg và 150 mmHg (tương ứng: 0,56; 0,61 và 0,67 phôi/buồng trứng/lần).
Tỉ lệ phôi dâu và phôi nang thu được ở các mức độ áp lực 60. 90, 120
và 150 mmHg tương ứng: 22,22; 18,97; 16,39 và 11,88 %. Từ kết quả thu
được cho thấy, ở áp lực hút càng cao khả năng thu được tế bào trứng càng
lớn, song tỉ lệ hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được đã bị giảm
xuống. Dựa vào mục tiêu của nghiên cứu này là tìm ra áp lực hút thích hợp
cho số lượng phôi dâu và phôi nang thu được cao nhất ta thấy ở áp lực hút
120 mmHg đáp ứng được điều đó, với 1,11 phôi/buồng trứng/lần siêu âm, cao
hơn các mức độ áp suất còn lại (P < 0,05).
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của áp lực hút đến sự phân chia của hợp tử, phôi
Hợp tử phân chia
Phôi dâu và phôi nang
Áp lực hút
Tế bào trứng
nuôi in vitro (n)
X ± SE (n)
%
X ± SE (n)
%
60 mmHg
45
1,50a ± 0,23 (27)
60,00 0,56a ± 0,17 (10)
22,22
90 mmHg
58
1,72a ± 0,21 (31)
53,45 0,61a ± 0,14 (11)
18,97
120 mmHg
122
3,61b ± 0,31 (65)
53,28 1,11a ± 0,20 (20)
16,39
44,55 0,67a ± 0,14 (12)
2,50c ± 0,23 (45)
11,88
101
150 mmHg Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột không mang chữ cái giống nhau thì sai
khác có ý nghĩa P < 0,05; %: Tỉ lệ hợp tử, phôi dâu và phôi nang thu được/tế bào
trứng nuôi in vitro; X: Bình quân/buồng trứng/lần
dâu và phôi nang
* Kết luận
Qua kết quả nghiên cứu ta thấy có sự biến động rất lớn về số lượng tế
bào trứng, chất lượng tế bào trứng, hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang
thu được (P < 0,05). Số lượng tế bào trứng ở áp lực hút 150 mmHg cao nhất
(8,61 tế bào trứng/buồng trứng/lần). Chất lượng tế bào trứng loại A, B ở áp
lực hút 120 mmHg cao nhất (3,78 và 3,00 tế bào trứng/buồng trứng/lần). Số
lượng hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được cao nhất ở tần suất
120 mmHG (1,11 phôi/buồng trứng/lần). Từ kết quả nghiên cứu này có thể
đưa ra kết luận rằng, áp lực hút 120 mmHg là tốt nhất.
Hình 3.2. Biểu đồ đánh giá số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng,
hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được ở 4 mức độ áp suất
khác nhau
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với tác giả Hashimito và cs.
(1998); Jaskowski. (2001); Kruip và cs. (1994); Pawel và cs. (2007) khi các
tác giả nghiên cứu ảnh hưởng của áp lực hút khi siêu âm hút tế bào trứng trên
bò sống kết luận rằng, áp lực hút ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng tế
bào trứng. Tương tự Pawel và cs. (2007) đã nghiên cứu ảnh hưởng của áp lực
hút lên số lượng và chất lượng tế bào trứng ở lợn và bò đi đến kết luận rằng,
áp lực hút tế bào trứng ảnh hưởng đến chất lượng tế bào trứng (P < 0,05).
Nghiên cứu của Bols và cs. (1996) về sự ảnh hưởng của áp lực hút lên số
lượng tế bào trứng thu được cũng cho thấy, số lượng tế bào trứng thu được
tăng lên khi sử dụng áp lực hút > 130 mmHg so với 50 mmHg, 70 mmHg, 90
mmHg và 110 mmHg.
Nghiên cứu ảnh hưởng của áp lực hút được nhiều nhà khoa học trên thế
giới quan tâm nghiên cứu thấy rằng, mức độ áp lực hút sử dụng trong quá
trình siêu âm hút tế bào trứng có sự liên quan mật thiết với số lượng tế bào
trứng được hút ra cũng như chất lượng tế bào trứng (Bols và cs., 1996;
Jaskowski, 2001; Kruip và cs., 1994; Pawel và cs., 2007). Theo các lập luận
của các nhà khoa học trong quá trình siêu âm hút tế bào trứng, các tế bào
trứng có thể bị ảnh hưởng của áp lực hút, tốc độ, dòng xoáy, khi tăng áp suất
lên cao làm giảm khả chất lượng tế bào trứng và làm tăng tỉ lệ tế bào trứng bị
lột trần (không có màng cumulus). Lập luận của các tác giả cũng phù hợp với
giả thuyết và kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Bols và cs. (1996) cũng cho
rằng, độ chính xác của áp lực hút phụ thuộc vào cấu tạo của thiết bị siêu âm
hút tế bào trứng, đường kính của kim hút tế bào trứng, độ dài và kích thước
của ống dẫn dịch. Rõ ràng áp lực hút đóng một vai trò quan trọng khi siêu âm
hút tế bào trứng và thụ tinh ống nghiệm, kết quả sau cũng cho thấy các tác giả
có kết quả khác nhau khi sử dụng áp lực hút khác nhau: Moreno (1993) sử
dụng áp suất 120 mmHg (kim 18 G), Gibbons. (1994) sử dụng 75 mmHg
(kim 17 G), Manjunatha (2008) sử dụng 110 mmHg (kim 18 G).
Khi siêu âm hút tế bào trứng, số lượng tế bào trứng thu được cao hay
thấp còn phụ thuộc vào kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng. Để xác định chính
xác số lượng, kích thước nang trứng, thu được hết số lượng tế bào trứng, việc
cố định và di chuyển buồng trứng là một trong những yếu tố rất quan trọng để
có hình ảnh sắc nét của các nang trứng trên màn hình máy siêu âm. Kỹ thuật
thường cố định và di chuyển buồng trứng thường được thực hiện bằng bốn
ngón tay (trừ ngón tay cái). Ở Phương pháp sử dụng bốn ngón tay, cho phép
xoay chuyển buồng trứng theo nhiều góc độ khác nhau để đạt được khả năng
quan sát mong muốn. Vị trí của buồng trứng nằm ngang so với đầu dò siêu
âm và hình ảnh thu được có hình tròn. Khi đếm và đo kích thước của nang
trứng, buồng trứng được đưa về phía bên phải và phía bên trái. Để hút được
tối đa số lượng tế bào trứng chúng ta đưa buồng trứng từ dưới lên trên và từ
trên xuống dưới (Hình 3.3).
Hình 3.3. Phương pháp cố định buồng trứng bằng bốn ngón tay
Bên cạnh phương pháp sử dụng bốn ngón tay, phương pháp sử dụng
hai ngón tay (ngón tay trỏ và ngón tay cái) cái để cố định và di chuyển buồng
trứng cũng thường được sử dụng. Hình ảnh thu được có hình oval do buồng
trứng nằm dọc đầu dò siêu âm. Ở phương pháp này cho phép thu hình ảnh ở
vị trí mặt cắt dọc theo chiều dài của buồng trứng, vì vậy thu được cùng lúc
nhiều hình ảnh về số lượng nang trứng, thậm chí ở mặt cắt nhỏ cũng thu được
nhiều nang trứng (Hình 3.4). Trong thực tế, để đạt được hiệu quả tối ưu cần
sử dụng luân chuyển phương pháp cố định buồng trứng bằng bốn ngón và hai
ngón để đạt được kết quả tối ưu.
Hình 3.4. Phương pháp cố định buồng trứng bằng ngón tay trỏ và ngón
tay cái
Merton và cs. (2003) đã tiến hành so sánh 8 nhóm thực hiện siêu âm
hút tế bào trứng bò trong 2,5 năm, sử dụng cùng thiết bị và kỹ thuật siêu âm
hút tế bào trứng. Kết quả cho thấy thành phần của các nhóm thay đổi sẽ ảnh
hưởng kỹ thuật thao tác buồng trứng và gây hưởng đáng kể lên số lượng và
chất lượng tế bào trứng thu được. Mức độ biến động ở các nhóm kỹ thuật lớn
hơn ở các nhóm hỗ trợ có thể là do nhóm kỹ thuật có tầm quan trọng hơn.
3.2. Ảnh hưởng của tần suất siêu âm hút tế bào trứng
* Ảnh hưởng của tần suất siêu âm hút tế bào trứng đến số lượng nang trứng
được hút và tế bào trứng thu được
Để nghiên cứu ảnh hưởng của tần suất siêu âm hút tế bào trứng, 54 lượt
buồng trứng đã được siêu âm hút tế bào trứng ở ba mức độ tần suất 2 tuần/lần,
1 tuần/lần và ½ tuần/lần. Kết quả thu được cho thấy, có sự ảnh hưởng của tần
suất siêu âm hút tế bào trứng đến số lượng nang trứng được hút và số lượng tế
bào trứng thu được (P < 0,05). Số nang trứng được hút/buồng trứng/lần thu
được ở tần suất ½ tuần/lần lớn nhất, tổng số nang trứng được hút 195 nang,
đạt 10,83 nang trứng/buồng trứng/lần siêu âm. Tiếp đến ở tần suất 1 tuần/lần
thu được 164 nang, trung bình có 9,11 nang trứng. Ở tần suất 2 tuần/lần thấp
nhất, chỉ thu được 129 nang với trung bình 7,17 nang trứng (Bảng 3.4).
Bảng 3.4. Ảnh hưởng của tần suất siêu âm hút tế bào trứng đến số lượng
Nang trứng được hút
Tế bào trứng thu được
Tần suất
%
n
X ± SE
n
X ± SE
2 tuần
129
7,17a ± 0,69
103
5,72a ± 0,57
79,84
1 tuần
164
9,1b ± 0,49
132
7,33b ± 0,39
80,49
½ tuần
195
10,83c ± 0,44
154
8,56c ± 0,42
78,97
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột không mang chữ cái giống nhau thì sai
khác có ý nghĩa P < 0,05; X: Bình quân/buồng trứng/lần; %: Tỉ lệ tế bào trứng thu
được/nang trứng được hút
nang trứng được hút và số lượng tế bào trứng thu được
Số lượng tế bào trứng thu được cũng cho thấy, có sự khác biệt về số
lượng tế bào trứng thu được giữa các tần suất (P < 0,05). Trong đó ở mức độ
tần suất ½ tuần/lần cho số lượng tế bào trứng thu được cao nhất (195 tế bào
trứng), bình quân 8,56 tế bào trứng/buồng trứng/lần. Trong khi tổng số tế bào
trứng thu được ở tần suất 1 tuần/lần là 164 tế bào trứng, bình quân 7,33 tế bào
trứng/buồng trứng/lần. Và thấp nhất ở tần suất 2 tuần/lần chỉ thu được 129 tế
bào trứng, với 5,72 tế bào trứng/buồng trứng/lần.
Thể vàng Nang trứng
Tần suất 1 tuần/lần Tần suất ½ tuần/lần
Tần suất 2 tuần/lần
Hình 3.5. Nang trứng quan sát được ở tần suất 2 tuần, 1 tuần và ½
tuần/lần
Tỉ lệ tế bào trứng thu được/nang trứng được hút tương đối ổn định giữa
ba loại tần suất, tương ứng: 79,84; 80,49 và 78,97 %. Từ kết quả này cho
thấy, tần suất siêu âm hút tế bào trứng không ảnh hưởng nhiều đến kỹ thuật,
song ảnh hưởng đến số lượng nang trứng có mặt trên buồng trứng là rõ rệt (p
< 0,05). Trong thí nghiệm này kích thước nang trứng ở các mức độ khác nhau
không được xác định, nhưng một thực tế cho thấy ở tần suất 2 tuần/lần và 1
tuần/lần các nang trứng có kích thước lớn xuất hiện nhiều hơn.
* Ảnh hưởng của tần suất siêu âm hút tế bào trứng đến chất lượng tế bào
trứng
Từ số lượng tế bào trứng thu được ở các tần suất khác nhau, tiến hành
đánh giá, phân loại để xác định ảnh hưởng của các tần suất khác nhau lên chất
lượng tế bào trứng. Kết quả thu được cho thấy (Bảng 3.5), có sự ảnh hưởng
giữa các tần suất khác nhau lên tế bào trứng loại A (P < 0,05). Trong đó tế
bào trứng loại A ở tần suất ½ tuần cao hơn (P < 0,05) tần suất 1 tuần/lần và 2
tuần/lần, tương ứng: 4,00 tế bào trứng so với 2,67 và 2,00 tế bào trứng/buồng
trứng/lần.
Không có sự khác biệt về chất lượng tế bào trứng loại B ở tần suất 1
tuần/lần và 2 tuần/lần (P < 0,05). Song có sự khác biệt giữa tần suất ½
tuân/lần và hai tần suất còn lại ( P < 0,05). Số lượng tế bào trứng loại B/buồng
trứng/lần ở tần suất ½ tuần/lần cao nhất, đạt 3,11 tế bào. Còn ở hai tần suất ở
tần suất 1 tuần/lần là 2,39 tế bào trứng/buồng trứng/lần và ở tần suất 2
tuần/lần chỉ đạt 1,89 tế bào trứng/buồng trứng/lần.
Không có sự ảnh hưởng của tần suất siêu âm hút tế bào trứng đến chất
lượng tế bào trứng loại C (P > 0,05). Số lượng tế bào trứng loại C/buồng
trứng /lần ở tần suất ½ tuần/lần, 1 tuần/lần và 2 tuần/lần thu được tương ứng:
0,94; 1,22 và 0,83 tế bào. Tương tự tế bào trứng loại C, tế bào trứng loại D
cũng không có sự khác biệt giữa các tần suất (P < 0,05) và kết quả thu được ở
tần suất 2 tuần/lần, 1 tuần/lần và ½ tuần/lần, tương ứng: 0,89; 1,06 và 0,61 tế
bào trứng/buồng trứng/lần.
Bảng 3.5. Ảnh hưởng của tần suất siêu âm hút tế bào trứng đến chất
Chất lượng tế bào trứng
Tần
A
B
C
D
suất
X ± SE (n)
X ± SE (n)
X ± SE (n)
X ± SE (n)
2 tuần
2,00a ± 0,18 (36)
1,89a ± 0,31 (34) 0,94a ± 0,19 (17)
0,89a ± 0,24 (16)
1tuần
2,67b ± 0,26 (48)
2,39a ± 0,31 (43)
1,22a ± 0,17 (22)
1,06a ± 0,21 (19)
½tuần
4,00c ± 0,30 (72)
3,11b ± 0,28 (56)
0,83a ± 0,15 (15)
0,61a ± 0,16 (11)
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột không mang chữ cái giống nhau thì sai
khác có ý nghĩa P < 0,05; X: Bình quân/buồngtrứng/lần; A, B, C và D: Chất lượng
tế bào trứng theo thứ tự từ cao đến thấp
lượng tế bào trứng
* Ảnh hưởng của tần suất siêu âm hút tế bào trứng đến hợp tử phân chia,
phôi dâu và phôi nang thu được
Tổng số 289 tế bào trứng có chất lượng A và B thu được ở ba mức độ
tần suất khác nhau, được nuôi thành thục, thụ tinh và nuôi in vitro đến giai
đoạn phôi dâu và phôi nang. Qua kết quả thu được thấy rằng, có sự ảnh hưởng
rõ rệt của ba loại tần suất khác nhau (Bảng 3.6) lên sự phân chia của hợp tử (P
< 0,05). Ở tần suất ½ tuần có số lượng hợp tử phân chia/buồng trứng/lần cao
nhất, đạt 5,11 hợp tử. Tiếp đến là ở tần suất 1 tuần/lần 2,50 hợp tử và thấp
nhất là ở tần suất 2 tuần/lần 1,89 hợp tử. Tỉ lệ hợp tử phân chia (hợp tử/tế bào
trứng đem nuôi) ở tần suất ½ tuần cao nhất hơn so với tần suất 2 tuần/lần và 1
tuần/lần, tương ứng 71,88% so với 48,57 và 49,45%.
Từ số lượng phôi dâu và phôi nang thu được/buồng trứng/lần cho thấy,
ở tần suất 2 tuần/lần và 1 tuần/lần không có sự khác nhau (P < 0,05). Số
lượng phôi dâu và phôi nang/buồng trứng/lần tương ứng: 0,56 và 0,72 phôi.
Song lại có sự khác biệt giữa tần suất ½ tuần/lần so với tần suất 2 tuần/lần và
1 tuần/lần. Số lượng phôi dâu và phôi nang/buồng trứng/lần đạt 1,83 phôi.
Như vậy, số lượng phôi dâu và phôi nang thu được/số lượng tế bào trứng đem
nuôi cao nhất ở tần suất ½ tuần/lần, chiếm 25,78%. Trong khi ở tần suất 2
tuần/lần và 1 tuần/lần có tỉ lệ phôi dâu và phôi nang thu được giống nhau
12,29%.
Bảng 3.6. Ảnh hưởng của tần suất siêu âm hút tế bào trứng đến sự phân
Hợp tử phân chia
Phôi dâu và phôi nang
Tần
Tế bào trứng
suất
nuôi in vitro (n)
X ± SE (n)
%
X ± SE (n)
%
2 tuần
70
1,89a ± 0,20 (34) 48,57 0,56a ± 0,12 (10)
14,29
1 tuần
91
2,50b ± 0,20 (45) 49,45 0,72a ± 0,16 (13)
14,29
½ tuần
128
5,11c ± 0,46 (92) 71,88 1,83b ± 0,20 (33)
25,78
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột không mang chữ cái giống nhau thì sai
khác có ý nghĩa P < 0,05; %: Tỉ lệ hợp tử, phôi dâu và phôi nang thu được/tế bào
trứng nuôi in vitro; X: Bình quân/buồng trứng/lần
chia của hợp tử, phôi dâu và phôi nang
* Kết luận
Từ kết quả nghiên cứu thu được có thể kết luận rằng có sự ảnh hưởng của tần
suất siêu âm hút tế bào trứng ở các tần suất 2 tuần/lần, 1 tuần/lần và ½
tuần/lần (P < 0,05) và ở tần suất ½ tuần cho kết quả về số lượng nang trứng
được hút, số lượng tế bào trứng loại A, B, hợp tử, phôi dâu và phôi nang thu
được cao nhất, tương ứng đạt 10,83 nang; 8,56 tế bào trứng; 4,00 tế bào trứng
loại A; 3,11 tế bào trứng loại B; 5,11 hợp tử và 1,83 phôi dâu và phôi
nang/buồng trứng/lần. Kết luận này phù hợp với một số tác giả trên thế giới
đã nghiên cứu. Garcia và Salahedine. (1998) tiến hành siêu âm hút tế bào
trứng lặp lại ở bê với tần suất 1 tuần/lần và ½ tuân/lần (không sử dụng
hormone) cho thấy, số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng, tế bào trứng
loại A và loại B/bê/lần ở tần suất ½ tuần/lần cao hơn so với tần suất 1 tuần/lần
(tương ứng: 17,2 so với 12,4 nang; 7,7 so với 4,5 tế bào trứng; 3,0 so với 1,8
tế bào trứng loại A và 3,3 so với 1,7 tế bào trứng loại B; P < 0,05), bình quân
số lượng tế bào trứng/bê/tuần ở tần suất ½ tuần (15,5 tế bào trứng) cao hơn
tần suất (P < 0,05) 1 tuần (5,4 tế bào trứng). Cũng nghiên cứu về sự ảnh
hưởng của tần suất, tác giả Viana và cs. (2004) thấy rằng về số lượng nang
trứng/bò/lần có sự sai khác với kết quả nghiên cứu của chúng tôi, khi tác giả
thấy rằng ở tần suất 1 tuần và tần suất ½ tuần không có sự sai khác (14,15 so
với 14,2 nang; P > 0,05), số lượng /bò/lần ở tần suất 1 tuần lại cao hơn ½ tuần
(8,9 so với 7,0; P < 0,05), song về chất lượng tế bào trứng loại A, tỉ lệ phôi
dâu và phôi nang thu được lại phù hợp với kết quả nghiên cứu của chúng tôi
khi tác giả thu được số phôi nang/bò/lần ở tần suất ½ tuần/lần cao hơn tần
suất 1 tuần/lần ( tương ứng: 2,2 phôi so với 1,9; P < 0,01%). Nghiên cứu của
Merton và cs. (2003) cũng có kết quả nghiên cứu phù hợp với nghiên cứu của
chúng tôi, với tỉ lệ phôi nang ở khoảng cách 3 ngày cao hơn khoảng cách 7
ngày (19,7% so với 13,5%; P < 0,05).
Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Li và
cs. (2007), khi tác giả nghiên cứu siêu âm hút tế bào trứng ở tần suất 1
tuần/lần và ½ tuần/lần ở bê vàng Trung Quốc (Chinese Yellow heifer) cho
thấy, tần suất siêu âm hút tế bào trứng ảnh hưởng đến số lượng nang trứng
được hút, số lượng tế bào trứng ( P < 0,05) khi siêu âm hút tế bào trứng ở tần
suất 1 tuần/lần và ½ tuần/lần. Ở tần suất 1 tuần/lần có số lượng nang trứng
được hút/bê/lần chỉ đạt 9,1 nang, trong khi đó ở tần suất ½ tuần/lần đạt 12,1
nang trứng được hút/bê/lần. Số lượng tế bào trứng thu được/bê/lần ở tần suất
½ tuần/lần cao hơn tần suất 1 tuần/lần (P < 0,05), tương ứng: 4,5 so với 5,6 tế
bào trứng/lần. Số lượng tế bào trứng/bê/lần có khả năng phát triển ở tần suất
½ tuần/lần cũng cao hơn tần suất 1 tuần/lần, tương ứng: 4,4 so với 2,8 tế bào.
Chúng tôi cho rằng số lượng nang trứng được hút, số lượng tế bào
trứng, hợp tử, phôi dâu và phôi nang thu được cao nhất ở tần suất và ½
tuần/lần là do chưa có sự ức chế của nang trội vì vậy các nang trứng phát triển
nhiều hơn và do chưa có sự ức chế của nang trội nên các nang trứng chưa bị
thoái hóa. Viana và cs. (2010) thấy rằng sau khi siêu âm hút tế bào trứng sẽ
xuất hiện một đợt nang trứng và hình thành một đợt sóng nang mới trong
khoảng thời gian 48 h. Kết quả này cũng phù hợp với quy luật phát triển của
nang trứng trong một đợt sóng nang. Trong tự nhiên, đợt sóng nang đầu tiên
xuất hiện vào ngày thứ 1 sau khi bò động dục, các nang trứng có kích thước
2mm trở lên tham gia vào hình thành đợt sóng nang (pha phát triển), đến ngày
thứ 3 trở đi nang trội bắt đầu phát triển nhanh hơn các nang trứng khác. Sau
khi nang trội phát triển, các ngày tiếp theo các nang trứng còn lại giảm, ngừng
phát triển và dần trở nên thoái hóa (Machatkova và cs., 2004). Giả thuyết về
sự phát triển của nang trứng sau khi siêu âm hút tế bào trứng được nhiều tác
giả đã đưa ra. Viana và cs. (2004) trước khi nghiên cứu về ảnh hưởng của tần
suất siêu âm cho rằng không có sự khác nhau về kích thước nang trứng lớn
nhất phát hiện được khi siêu âm hút tế bào trứng với các tần suất khác nhau và
thậm chí với khoảng cách 3 ngày cũng cho phép nang trội xuất hiện và đạt
đến kích thước > 10 mm. Viana và cs. (2000) nghiên cứu và thấy rằng, sự
phát triển của nang trội sau khi siêu âm hút tế bào trứng nhanh hơn sự phát
triển của nang trội ở chu kỳ bình thường, tốc độ phát triển của nang trội
khoảng 1,0 mm/ngày ở bò Zebu. Garcia và Salaheddine (1998) đưa ra kết
luận rằng kết quả siêu âm hút tế bào trứng ở tần suất ½ tuần/lần tốt là do tỉ lệ
nang trứng bị thoái hóa thấp. Merton và cs. (2003) cho rằng, sau khi tất cả các
nang trứng có kích thước từ 2 mm trở lên được hút ra, các ngày tiếp theo các
nang trứng có kích thước từ 2 mm trở xuống tiếp tục phát triển và sau khi siêu
âm hút tế bào trứng 3 ngày thì nang trội bắt đầu xuất hiện.
Hình 3.6. Biểu đồ đánh giá số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng,
hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được ở ba tần suất khác
nhau
Từ thực tế thu được cũng cho thấy rằng, trong chu kỳ động dục tự
nhiên, chỉ có 2 – 3 đợt sóng nang xuất hiện. Nhưng khi tiến hành siêu âm hút
tế bào trứng liên tục ½ tuần/lần có nhiều đợt nang trứng được huy động hơn.
Số lượng các đợt sóng nang đã tăng lên rất nhiều trong một khoảng thời gian
nhất định. Như vậy đã có sự ảnh hưởng đến các hormone sinh sản, đặc biệt
khi siêu âm hút tế bào trứng liên tục làm cho nang trội không kịp phát triển
dẫn đến hàm lượng hormone inhibin và estradiol-17β trong máu không tăng
cao, kết quả là làm tăng hàm lượng FSH, LH và thay đổi các cơ chế phản hồi
của oestradiol. FSH và LH tăng cao đã kích thích một đợt nang mới phát
triển. Viana và cs. (2004) công bố rằng, tần suất hút tế bào trứng liên quan
đến giai đoạn nang trứng đang phát triển hay giai đoạn thoái hóa. Khi Nang
trứng ở giai đoạn thoái hóa, cấu trúc và chức năng bị thay đổi mối liên kết
giữa các tế bào cumulus và tế bào trứng, sự liên kết bị giảm, các tế bào
cumulus giãn nở và dễ bị lột trần (Bols và cs., 1996).
3.3. Ảnh hưởng của kích thước nang trứng
* Ảnh hưởng của kích nang trứng đến số lượng nang trứng được hút và tế bào
trứng thu được
Tổng số 60 lượt buồng trứng được siêu âm để xác định kích thước và
tiến hành siêu âm hút tế bào trứng của các nang trứng (2 – 5, 6 – 9 và ≥ 10
mm). Kết quả thu được cho thấy (Bảng 3.7), có sự ảnh hưởng rõ rệt giữa ba
mức độ kích thước khác nhau đến số lượng nang trứng được hút (P < 0,05).
Trong đó số lượng nang trứng được hút/buồng trứng/lần ở kích thước 2 – 5
mm cao nhất (P < 0,05), 9,63 nang. Tiếp đến là ở kích thước 6 – 9 mm, đạt
1,80 nang trứng/buồng trứng/lần. Và thấp nhất là nang trứng có kích thước từ
10 mm trở lên, chỉ có 0,85 nang trứng/buồng trứng/lần.
Số lượng tế bào trứng thu được cũng có sự ảnh hưởng rõ rệt (P < 0,05)
giữa các mức độ kích thước khác nhau. Ở kích thước 2 – 5 mm có số lượng tế
bào trứng/buồng trứng/lần cao nhất (p < 0,05), đạt 7,50 tế bào trứng. Trong
khi đó ở kích thước 6 – 9 mm và nang trứng từ 10 mm trở lên chỉ đạt, tương
ứng 1,47 và 0, 67 tế bào trứng/buồng trứng/lần.
Tỉ lệ tế bào trứng thu được/nang trứng được hút không có sự chênh
lệch nhiều. Cao nhất ở kích thước 6 – 9 mm (81,48%), tiếp đến là kích thước
≥ 10 mm trở lên (78,43%) và thấp nhất là kích thước 2 – 5 mm (77,85%).
Bảng 3.7. Ảnh hưởng của kích thước nang trứng đến số lượng nang
Kích thước
Nang trứng được hút
Tế bào trứng thu được
%
nang trứng
n
X ± SE
n
X ± SE
2 – 5 mm
578
9,63a ± 0,22
450
7,50a ± 0,16
77,85
6 – 9 mm
108
1,80b ± 0,11
88
1,47b ± 0,09
81,48
78,43
≥ 10 mm
51
0,85c ± 0,09
40
0,67c ± 0,07
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột không mang chữ cái giống nhau thì sai
khác có ý nghĩa P < 0,05; X: Bình quân/buồng trứng/lần; %: Tỉ lệ tế bào trứng thu
được/nang trứng được hút
trứng được hút và số lượng tế bào trứng thu được
Nang trứng
Đo kích thước nang trứng
Buồng trứng
Hình 3.7. Đếm và đo kích thước của các nang trứng trên máy siêu âm
Số lượng và kích thước nang trứng được thực hiện trên các phím
chức năng của màn hình máy siêu âm. Mỗi một kích thước của nang trứng
được lựa chọn trên buồng trứng sẽ tương ứng với kích thước thể hiện bên
cạnh màn hình máy siêu âm (Hình 3.7)
* Ảnh hưởng của kích thước nang trứng đến chất lượng tế bào trứng
Có sự sai khác có ý nghĩa về chất lượng tế bào trứng loại A giữa 3 mức
độ kích thước (P < 0,05). Số lượng tế bào trứng loại A ở kích thước 2 – 5 mm
cao nhất (P < 0,05), với 4,23 tế bào trứng/buồng trứng/lần. Tiếp đến là kích
thước 6 – 9 mm và thấp nhất là ở nang trứng có kích thước 10 mm trở lên,
tương ứng: 0,45 và 0,05 tế bào trứng/buồng trứng/lần (Bảng 3.8).
Bảng 3.8. Ảnh hưởng của kích thước nang trứng đến chất lượng tế bào
Chất lượng tế bào trứng
Kích thước
A
B
C
D
nang trứng
X ± SE (n)
X ± SE (n)
X ± SE (n)
X ± SE (n)
2 – 5 mm 4,23a ± 0,14 (254)
2,30a ± 0,17 (138) 0,52a ± 0,09 (31) 0,45a ± 0,09 (27)
6 – 9 mm
0,45b ± 0,77 (27)
0,60b ± 0,08 (36)
0,27b ± 0,07 (16)
0,15b ± 0,05 (9)
≥ 10 mm
0,05c ± 0,03 (3)
0,05c ± 0,03 (3)
0,25b ± 0,06 (15) 0,50a ± 0,08 (30) Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột không mang chữ cái giống nhau thì sai
khác có ý nghĩa P < 0,05; X: Bình quân/buồng trứng/lần; A, B, C và D:Chất lượng
tế bào trứng theo thứ tự từ cao đến thấp
trứng
Tế bào trứng có chất lượng loại B/buồng trứng/lần của ba mức độ kích
thước có sự khác nhau (P < 0,05). Lớn nhất ở kích thước 2 – 5 mm (2,30 tế
bào trứng/buồng trứng/lần), tiếp đến là kích thước 6 – 9 mm (0,60 tế bào
trứng/buồng trứng/lần) và thấp nhất là kích thước 10 mm trở lên (0,05 tế bào
trứng/buồng trứng/lần).
Chất lượng tế bào trứng loại C ở nang trứng có kích thước 6 – 9 mm và
10 mm trở lên không có sự khác nhau rõ rệt (P < 0,05), tế bào trứng/buồng
trứng/lần thu được tương ứng: 0,27 và 0,25 tế bào. Song lại có sự khác biệt
giữa nang trứng có kích thước 2 – 5 mm so với hai mức độ kích thước trên (P
< 0,05), số lượng tế bào trứng thu được là 0,52 tế bào trứng/buồng trứng/lần.
Còn ở tế bào trứng loại D nang trứng có kích thước 10 mm trở lên cao hơn (P
< 0,05) so với kích thước 2 – 5 mm và 6 – 9 mm, tương ứng 0,50 so với 0,45
và 0,15 tế bào trứng/buồng trứng/lần.
* Ảnh hưởng của kích thước nang trứng đến hợp tử phân chia, phôi dâu và
phôi nang thu được
Số lượng tế bào trứng được nuôi thành thục để thụ tinh ở kích thước 2 –
5mm, 6 – 9 mm và 10 mm trở lên, tương ứng: 392, 63 và 6 tế bào trứng, thu
được số lượng hợp tử phân chia, tương ứng: 223, 35 và 3 hợp tử (Bảng 3.9).
Từ kết quả này cho thấy, có sự sai khác giữa ba mức độ kích thước khác nhau
(P < 0,05), số lượng hợp tử phân chia/buồng trứng/lần ở kích thước 2 – 5 mm
(3,72 hợp tử) lớn hơn (P < 0,05) so với kích thước 6 – 9 mm (0,58 hợp tử) và
10 mm trở lên (0,05 hợp tử). Bên cạnh số lượng hợp tử thu được/buồng
trứng/lần, tỉ lệ hợp tử phân chia ở kích thước 2 – 5 mm, 6 – 9 mm và 10 mm
trở lên không có sự chênh lệch đáng kể, tương ứng: 56,89; 55,56 và 50,00%.
Về kết quả phôi dâu và phôi nang thu được (Bảng 3.9) cho thấy, ở nang
trứng có kích thước 10 mm trở lên không có hợp tử phân chia nào phát triển
đến giai đoạn phôi dâu và phôi nang. Trong quá trình siêu âm hút tế bào trứng
cho thấy, các nang trứng có kích thước 10 mm trở lên tế bào trứng thu được
thường không có màng cumulus.
Có sự khác biệt về số lượng phôi dâu và phôi nang thu được/buồng
trứng/lần siêu âm hút tế bào trứng (P < 0,05). Phôi dâu và phôi nang thu
được/buồng trứng/lần ở nang trứng có kích thước 2 – 5 mm cao hơn nang
trứng có kích thước 6 – 9 mm, tương ứng 1,58 phôi/buồng trứng/lần so với
0,20 phôi/buồng trứng/lần.
Bảng 3.9. Ảnh hưởng của kích thước nang trứng đến sự phân chia của
Kích thước
Hợp tử phân chia
Phôi dâu và phôi nang
Tế bào trứng
nang trứng
nuôi in vitro (n)
X ± SE (n)
%
X ± SE (n)
%
2 - 5 mm
392
3,72a ± 0,10 (223) 56,89 1,58a ± 0,08 (95)
24,23
0,58b ± 0,07 (35)
55,56 0,20b ± 0,05 (12)
19,05
6 - 9 mm
63
≥ 10 mm
6
0,05c ± 0,03 (3)
50,00
-
0
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột không mang chữ cái giống nhau thì sai
khác có ý nghĩa P < 0,05; X: Bình quân/buồng trứng/lần; %: Tỉ lệ hợp tử, phôi dâu
và phôi nang thu được/tế bào trứng nuôi in vitro
hợp tử, phôi dâu và phôi nang
* Kết luận
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, các nang trứng có kích thước 2 –
5 mm cho số lượng nang trứng được hút, số lượng tế bào trứng, hợp tử phân
chia, phôi dâu và phôi nang thu được/buồng trứng/lần lớn nhất, tương ứng:
9,63 nang, 7,50 tế bào trứng, 4,23 tế bào trứng loại A, 2,30 tế bào trứng loại
B, 3,72 hợp tử và 1,58 phôi dâu và phôi nang. Còn ở nang trứng có kích thước
6 – 9 mm, có số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng thu được, hợp tử
phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được thấp hơn và đặc biệt thấp hơn ở
nang trứng có kích thước từ 10 mm trở lên không thu được phôi dâu và phôi
nang.
Kết quả này là do ảnh hưởng của cơ chế phát triển nang trứng. Trong tự
nhiên, các nang trứng kích thước nhỏ (từ 2 mm trở lên) thường phát triển theo
nhóm, trong khi đó chỉ một số lượng rất ít các nang trứng có kích thước lớn
phát triển (nang trội). Sự phát triển của nang trội đã ức chế sự phát triển của
các nang trứng và làm chúng bị thoái hóa. Các nang trứng bị thoái hóa có sự
liên kết giữa các lớp màng cumulus ít chặt chẽ, do vậy các nang trứng dễ bị
mất màng cumulus trong quá trình siêu âm hút tế bào trứng. Mặt khác số
lượng màng cumulus liên quan chặt chẽ với kích thước nang trứng, ở các
nang trứng có kích thước lớn số lượng màng cumulus bị giảm dần và mối liên
kết với tế bào trứng lỏng lẻo hơn (Leibfried và First, 1979). Một thực tế cho
thấy khi siêu âm hút tế bào trứng, các nang trứng có kích thước lớn thường có
tế bào trứng trần trụi, đây cũng là nguyên nhân làm cho chất lượng tế bào
trứng thấp, hợp tử phân chia giảm, phôi dâu và phôi nang thu được thấp.
Ảnh hưởng của kích thước nang trứng được rất nhiều nhà khoa học trên
thế giới quan tâm nghiên cứu. Các tác giả đều cho rằng kích thước nang trứng
đóng một vai trò quan trọng trong việc nuôi tế bào trứng in vitro. Một số tác
giả cho rằng, tế bào trứng động vật có vú phải đạt đến một giai đoạn phát triển
hay kích thước nhất định để đạt được khả năng thành thục. Ở bò các tế bào
trứng phải đạt 110 µm để đạt được khả năng phân bào nguyên nhiễm đầy đủ
(Fair và cs., 1995; Otoi và cs., 1997). Có mối liên hệ chặt chẽ giữa kích thước
nang trứng và khả năng phát triển của tế bào trứng (Pavlok và cs., 1992).
Nang trứng kích thước < 2 mm không có khả năng phát triển đến giai đoạn
phôi nang (Pavlok và cs., 1992). Nhưng một số tác giả khác lại cho rằng
không có sự khác biệt về khả năng thành thục giữa các tế bào trứng có kích
thước khác nhau sau khi nuôi in Vitro (Arlotto và cs., 1996). Fuhrer và cs.
(1989) báo cáo rằng, chỉ có 1,4% tế bào trứng thu từ nang trứng có kích thước
< 2 mm có khả năng thành thục, trong khi đó 47% tế bào trứng thu từ nang
trứng có kích thước 2 – 8 mm có khả năng thành thục.
Nguyễn Văn Lý và cs. (2006) tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của kích
thước nang trứng ở trên buồng trứng lò mổ với các mức độ kích thước < 2, 2
– 5 và > 5 – 8 mm đến số lượng nang trứng, khả năng thành thục và khả nang
thụ tinh. Nghiên cứu của ông cho thấy có sự ảnh hưởng của kích thước nang
trứng. Số lượng nang trứng thu được tương ứng với nang trứng có kích thước
< 2 mm là 2974, 2 – 5 mm là 1010 và 398 nang ở nang trứng có kích thước >
10 mm và tỉ lệ thu tế bào trứng không có sự khác biệt giữa các mức độ kích
thước (P < 0,05). Tỉ lệ thụ tinh của nang trứng < 2 mm chỉ đạt 46,57%, trong
khi đó nang trứng có kích thước 2 – 5 mm đạt 55,73%. Cũng nghiên cứu ảnh
hưởng của kích thước nang trứng Lonergan và cs. (1994) thấy rằng, nang
trứng có kích thước 2 – 6 mm đạt 90,8% tỉ lệ hợp tử phân chia ở và 31,19%
hợp tử phát triển đến giai đoạn phôi dâu và phôi nang. Yang và cs. (1998) đã
nuôi tế bào trứng thu được từ những nang trứng có đường kính khác nhau:
0,5; 1,0; 1-2; 2 – 5 và 5 – 8 mm thu được tỉ lệ hợp tử tương ứng 31, 68, 84 và
77 %.
Hình 3.8. Biểu đồ đánh giá số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng, hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được ở 3 mức độ kích thước khác nhau
3.4. Ảnh hưởng của pha nang trứng phát triển và pha nang trứng trội
* Ảnh hưởng của pha nang trứng phát triển và pha nang trứng trội đến số
lượng nang trứng được hút và tế bào trứng thu được
Với 28 lượt buồng trứng được thực hiện cho thấy. Pha nang trứng phát
triển và pha nang trứng trội ảnh hưởng đến số lượng nang trứng được hút (P <
0,05). Có sự sai khác về số lượng nang trứng/buồng trứng/lần (P < 0,05), ở
pha nang trứng phát triển có số lượng nang trứng/buồng trứng/lần (14,93
nang) cao hơn pha nang trứng trội (8,93 nang).
Bảng 3.10. Ảnh hưởng của pha nang trứng phát triển và pha nang trứng
Nang trứng được hút
Tế bào trứng thu được
Pha của sóng
%
sóng nang
n
X ± SE
n
X ± SE
Pha phát triển
209
14,93a ± 0,67
163
11,64a ± 0,64
77,99
Pha trội
125
8,93b ± 0,46
99
7,07b ± 0,41
79,20
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột không mang chữ cái giống nhau thì sai
khác có ý nghĩa P < 0,05; X: Bình quân/buồng trứng/lần; %: Tỉ lệ tế bào trứng thu
được/nang trứng được hút
trội đến số lượng nang trứng được hút và số lượng tế bào trứng thu được
Tế bào trứng thu được (Bảng 3.10) từ các nang trứng được hút cũng bị
ảnh hưởng bởi pha nang trứng phát triển và pha nang trứng trội một cách có ý
nghĩa (P < 0,05). Tế bào trứng thu được ở pha nang trứng phát triển cao hơn
(P < 0,05) pha nang trứng trội, tương ứng: 11,64 so với 7,07 tế bào
trứng/buồng trứng. Kết quả này có thể do các nang trứng ở pha nang trứng
trội một số nang trứng đã dần bị thoái hóa do có sự ức chế của nang trội. Mặc
dù số lượng nang trứng và tế bào trứng thu được khác nhau, nhưng tỉ lệ tế bào
trứng thu được/nang trứng được hút lại tương đối ổn định, với 77,99% ở pha
phát triển và 79% ở pha trội.
Hình 3.9. Buồng trứng ở pha nang trội
* Ảnh hưởng của pha nang trứng phát triển và pha nang trứng trội đến chất
lượng tế bào trứng
Kết quả thu được (Bảng 3.11) cho thấy, có sự ảnh hưởng của pha nang
trứng phát triển và pha nang trứng trội đến chất lượng tế bào trứng loại A, B
và C (P < 0,05).
Có sự khác biệt giữa tế bào trứng loại A, B và C ở pha pha nang trứng
phát triển và pha nang trứng trội (P < 0,05). Ở pha nang trứng phát triển bình
quân số lượng tế bào trứng A, B và C/buồng trứng/lần tương ứng: 4,36; 4,14
và 2,00 tế bào trứng, cao hơn (p < 0,05) ở pha nang trứng trội tương ứng:
2,14; 2,36 và 1,00 tế bào trứng.
Không có sự sai khác giữa pha nang trứng phát triển và pha nang trứng
trội về số lượng tế bào trứng loại D (P > 0,05), bình quân số lượng tế bào
trứng loại D ở pha nang trứng phát triển và pha nang trứng trội, tương ứng:
1,14 và 1,57 tế bào trứng/buồng trứng/lần.
Bảng 3.11. Ảnh hưởng pha nang trứng phát triển và pha nang trứng trội
Chất lượng tế bào trứng
Pha sóng
A
B
C
D
nang
X ± SE (n)
X ± SE (n)
X ± SE (n)
X ± SE (n)
Pha phát
4,36a ± 0,31 (61)
4,14a ± 0,27 (58)
2,00a ± 0,36 (28)
1,14a ± 0,29 (16)
triển
1,00b ± 0,21 (14)
2,14b ± 0,21 (30)
2,36b ± 0,17 (33)
1,57a ± 0,17 (22) Pha trội Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột không mang chữ cái giống nhau thì sai
khác có ý nghĩa P < 0,05; X: Bình quân/buồng trứng/lần; A, B, C và D: Chất lượng
tế bào trứng theo thứ tự từ cao đến thấp
đến chất lượng tế bào trứng
Tế bào trứng đem nuôi Tế bào trứng thành thục
(Các lớp tế bào cumulus liên chặt chẽ) (Các lớp màng cumulus giãn nở)
Hình 3.10. Tế bào trứng trước và sau khi nuôi
* Kết luận
Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi có thể đưa ra kết luận rằng, pha nang
trứng phát triển và pha nang trứng trội ảnh hưởng đến số lượng nang trứng
được hút và số lượng tế bào trứng thu được (P < 0,05). Ở pha nang trứng phát
triển cho số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng, tế bào trứng loại A và
B/buồng trứng/lần cao nhât, tương ứng: 14,93 nang, 11,64 tế bào, 4,36 tế bào
trứng loại A và 4,14 tế bào trứng loại B.
Thu được thật nhiều tế bào trứng có chất lượng tốt từ bò được chọn lọc
là mục tiêu của kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng để tạo phôi in vitro. Sự phát
triển của nang trứng trong một chu kỳ thay đổi theo từng giai đoạn của pha
nang trứng. Thí nghiệm này cho thấy ở pha nang trứng phát triển của pha
sóng nang cho kết quả cao hơn pha nang trứng trội. Có được kết quả này là do
ở pha nang trứng phát triển các nang trứng có kích thước từ 2mm trở lên phát
triển đồng loạt và chưa có sự ức chế của nang trội. Theo Các đợt sóng nang
được chia ra làm hai giai đoạn, bao gồm pha nang trứng phát triển, pha nang
trứng trội. Theo Hendriksen và cs. (2004), đợt sóng nang đầu tiên xuất hiện
vào ngày thứ 1 sau khi bò động dục, các nang trứng có kích thước 2mm trở
lên tham gia vào hình thành đợt sóng nang (pha phát triển), đến ngày thứ 3 trở
đi nang trứng trội bắt đầu phát triển nhanh hơn các nang trứng khác. Sau khi
nang trứng trội phát triển các ngày tiếp theo các nang trứng còn lại ngừng
phát triển và dần trở nên thoái hóa (pha nang trội). Còn ở pha nang trội kết
quả thu được thấp là do ở thời điểm này các nang trứng bị ảnh hưởng của pha
nang trứng trội lên các nang trứng còn lại, làm cho các nang trứng nhỏ hơn
dần bị thoái hóa.
Kết quả nghiên cứu này của chúng tôi phù hợp với kết luận của
Hendriksen và cs. (2004), khi tác giả nghiên cứu ảnh hưởng của pha nang
trứng trong đợt sóng nang lên khả năng phát triển của tế bào trứng bò và có
kết luận rằng, nang trội đã ức chế các nang còn lại, vì thế số lượng phôi thu
được có thể tăng lên khi siêu âm hút tế bào trứng vào khoảng thời gian từ 2 -
5 ngày sau khi bò động dục hay sau khi loại bỏ nang trội.
Siêu âm hút tế bào trứng được Hendriksen và cs. (2004) thực hiện vào
ngày thứ 2, thứ 5 và thứ 8 của chu kỳ động dục, tác giả thu được số lượng tế
bào trứng cao nhất ở ngày thứ 2 là 8,7 tế bào trứng/bò/lần (pha nang trứng
phát triển), trong khi đó ở ngày thứ 5 và thứ 8 thu được số lượng tế bào trứng
tương ứng: 4,3 và 5,4 tế bào trứng/bò (pha nang trội).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu
của Machatkova và cs. (2004), khi ông thu được 9,6 tế bào trứng/bò ở pha
nang trứng phát triển và 3,9 tế bào trứng/bò ở pha nang trứng trội. Số phôi thu
được ở pha nang trứng phát triển và pha nang trứng trội, tương ứng: 3,5 và 1,1
phôi/bò/lần. Tác giả đưa ra kết luận rằng, pha nang trứng phát triển cho kết
quả tốt hơn pha nang trứng trội do ở pha nang trứng trội số lượng nang trứng
vừa và nhỏ bị giảm đáng kể. Như vậy từ kết quả nghiên cứu và các tác giả
khác đều cho thấy số lượng nang trứng ở pha nang trội rất thấp. Thực tế cho
thấy khi nang trội đạt đến kích thước từ 9 mm trở lên thì các nang trứng có
kích thước từ 2 mm trở lên rất ít (Hình 3.9).
Hình 3.11. Biểu đồ đánh giá số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng,
hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được ở hai pha sóng nang
3.5. Ảnh hưởng của liều lượng FSH
* Ảnh hưởng của liều lượng FSH số lượng nang trứng được hút và tế bào
trứng thu được
Siêu âm hút tế bào trứng được thực hiện trên 120 lượt buồng trứng. Kết
quả (Bảng 3.12) cho thấy, liều lượng FSH khác nhau có ảnh hưởng đến số
lượng nang trứng được hút (P < 0,05).
Bảng 3.12. Ảnh hưởng của các liều lượng FSH đến số lượng nang trứng
Nang trứng được hút
Tế bào trứng thu được
Liều FSH
%
n
X ± SE
n
X ± SE
ĐC
243
12,15a ± 0,36
184
9,20a ± 0,26
75,72
2 mg
250
12,50a ± 0,40
188
9,40a ± 0,33
75,20
3 mg
284
14,20b ± 0,68
215
10,75b ± 0,35
75,70
4 mg
285
14,25b ± 0,51
216
10,80b ± 0,42
75,79
5 mg
324
16,20c ± 0,57
248
12,40c ± 0,46
76,54
6 mg
321
245
12,25c ± 0,35
16,05c ± 0,47
76,32 Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột không mang chữ cái giống nhau thì sai
khác có ý nghĩa P < 0,05; X: Bình quân/buồng trứng/lần; ĐC: Đối chứng; %: Tỉ lệ
tế bào trứng thu được/nang trứng được hút
được hút và số lượng tế bào trứng thu được
Hầu hết bình quân số lượng nang trứng được hút ra ở các liều lượng
FSH , 3 mg, 4 mg, 5mg và 6 mg đều cao hơn so với liều lượng đối chứng
(không tiêm FSH; p < 0,05), tương ứng: 12,50; 14,20; 14,25; 16,20 và 16,05
nang trứng được hút/buồng trứng so với nhóm đối chứng 12,15 nang trứng
được hút/buồng trứng. Riêng liều lượng FSH 2 mg không có sự khác nhau rõ
rệt với nhóm đối chứng (P > 0,05). Ở hai liều lượng FSH 5 mg và 6 mg, số
lượng nang trứng được hút cao hơn có ý nghĩa so với các liều lượng 2mg,
3mg và 4mg.
Kết quả tế bào trứng thu được (Bảng 3.12) cho thấy, có sự sai khác
giữa các liều lượng FSH được sử dụng. Ở liều lượng FSH đối chứng và liều
lượng FSH 2 mg không có sự khác biệt, số lượng tế bào trứng thu được thấp
nhất, tương ứng: 9,20 và 9,40 tế bào. Tiếp đến là liều lượng FSH 3 mg và 4
mg có sự khác biệt (P < 0,05) và có số lượng tế bào trứng/buồng trứng cao
hơn liều lượng FSH đối chứng và liều lượng FSH 2 mg, tương ứng: 10,75 và
10,80 tế bào. Ở liều lượng FSH 5 mg và 6 mg có số lượng tế bào trứng/buồng
trứng cao (P < 0,05) hơn các liều FSH khác, tương ứng: 12,40 và 12,25 tế
bào.
Tỉ lệ tế bào trứng thu được/nang trứng được hút tương đối ổn định giữa
các liều lượng FSH. Tỉ lệ tế bào trứng thu được ở các liều lượng tương ứng:
ĐC (75,72%), 2 mmg (75,20%), 3 mg (75,70%), 4 mg (75,79%), 5mg
(76,54%) và 6 mg (76,32%).
* Ảnh hưởng của liều lượng FSH đến chất lượng tế bào trứng
Kết quả nghiên cứu thu được (Bảng 3.13) cho thấy, có sự ảnh hưởng
của liều lượng FSH lên chất lượng tế bào trứng loại A và loại B, song không
có sự khác biệt về chất lượng tế bào trứng loại C. Còn chất lượng tế bào trứng
loại loại D có sự khác biệt (P < 0,05) giữu liều lượng FSH 6 mg với các liều
lượng còn lại.
Số lượng tế bào trứng loại A/buồng trứng/lần của liều lượng FSH đối
chứng và 2 mg không có sự khác nhau ( P < 0,05), số lượng tế bào trứng thu
được tương ứng: 3,25 so với 3,15 tế bào trứng/buồng trứng/lần. Tế bào trứng
loại A ở các liều lượng 3 mg, 4 mg, 5 mg và 6 mg không có sự sai khác có ý
nghĩa, số lượng tế bào trứng thu được, tương ứng 3,75; 3,80; 4,50 và 4,20 tế
bào trứng/buồng trứng/lần.
Không có sự sai khác (P < 0,05) giữa liều lượng FSH 2 mg, 3 mg và 4
mg so với liều lượng đối chứng, tương ứng: 3,20; 3,70 và 3,75 tế bào/buồng
trứng/lần so với 3,25 tế bào/buồng trứng/lần. Có sự sai khác về chất lượng tế
bào trứng loại B/buồng trứng/lần ở liều lượng 5 mg và 6 mg so với liều lượng
đối chứng, 2 mg, 3 mg và 4 mg (P < 0,05). Số lượng tế bào trứng/buồng
trứng/lần ở liều FSH 5 mg và 6 mg tương ứng: 4,45 và 4,20 tế bào trứng.
Chất lượng tế bào trứng
Liều
FSH
A
B
C
D
X ± SE (n)
X ± SE (n)
X ± SE (n)
X ± SE (n)
ĐC
3,15a ± 0,15 (63)
3,25a ± 0,24 (65) 2,10a ± 0,20 (42)
0,70a ± 0,19 (14)
2 mg
3,25a ± 0,23 (65)
3,20a ± 0,20 (64)
1,90a ± 0,14 (38)
1,05a ± 0,18 (21)
3 mg
3,75b ± 0,14 (75)
3,70a ± 0,29 (74)
2,10a ± 0,19 (42)
1,20a ± 0,21 (24)
4 mg
3,80b ± 0,22 (76)
3,75a ± 0,28 (75)
2,10a ± 0,14 (42)
1,15a ± 0,17 (23)
5 mg
4,50b ± 0,28 (90)
4,45b ± 0,21 (89)
2,40a ± 1,33 (48)
1,05a ± 0,17 (21)
6 mg
4,20b ± 0,24 (84)
4,20b ± 0,22 (84)
2,30a ± 0,13 (46)
1,55b ± 0,22 (31) Ghi chú: các giá trị trong cùng một cột không mang chữ cái giống nhau thì sai khác
có ý nghĩa P < 0,05; X: bình quân/buồng trứng/lần; A, B, C và D: chất lượng tế
bào trứng theo thứ tự từ cao đến thấp; ĐC: đối chứng
Bảng 3.13. Ảnh hưởng của liều lượng FSH đến chất lượng tế bào trứng
Không có sự khác biệt về tế bào trứng loại C/buồng trứng/lần (P >
0,05) ở tất cả các liều lượng FSH, số lượng tế bào trứng/buồng trứng/lần thu
được tương ứng ở các liều lượng: đối chứng, 2 mg, 3 mg, 4 mg, 5 mg và 6 mg
tương ứng là 2,10; 1,90; 2,10; 2,10; 2,40 và 2,30 tế bào trứng..
Tế bào trứng có chất lượng loại D ở liều lượng FSH 6mg có sự sai khác
(P < 0,05) so với các liều lượng đối chứng, 2 mg, 3 mg, 4 mg và 5 mg, tương
ứng: 1,55 tế bào trứng so với 0,70; 1,05; 1,20; 1,15 và 1,05 tế bào trứng. Kết
quả này cho thấy số lượng tế bào trứng loại D ở liều lượng FSH 6 mg là cao
nhất. Thực tế cho thấy, khi siêu âm hút tế bào trứng những nang trứng có kích
thước lớn thì tế bào trứng thường bị lột trần, nguyên nhân này có thể là do tế
bào trứng ở các nang trứng lớn đang ở giai đoạn thành thục, do vậy các lớp
màng cumulus giãn nở, làm giảm sự liên kết giữa các lớp màng cumulus và tế
bào trứng. Vì vậy khi tăng liều lượng FSH lên 6 mg làm xuất hiện một số
nang trứng có kích thước lớn.
* Ảnh hưởng của liều lượng FSH đến hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi
nang thu được
Có sự sai khác giữa liều lượng FSH 5 mg và 6 mg so với liều lượng
FSH đối chứng, 2 mg, 3 mg và 4 mg (P < 0,05) về số lượng hợp tử phân
chia/buồng trứng/lần. Số lượng hợp tử phân chia ở kiều lượng FSH đối
chứng, 2 mg, 3 mg và 4 mg tương ứng: 3,35; 3,40; 4,00 và 4,10 hợp tử (Bảng
3.14). Trong khi đó số lượng tế bào trứng ở liều lượng FSH có sự khác biệt và
cao hơn so với các liều lượng trên, tương ứng: 5,05 và 4,55 hợp tử/buồng
trứng/lần.
Các liều lượng FSH đối chứng, 2 mg, 3 mg, 4 mg và 6 mg không có sự
sai khác (P < 0,05), số lượng phôi dâu và phôi nang thu được/buồng trứng/lần
tương ứng: 1,05; 1,10; 1,40; 1,45 và 1,80 phôi. Còn ở liều lượng FSH 5mg có
sự khác biệt so với các liều FSH còn lại (P < 0,05). Ở liều lượng FSH 5 mg
thu được 2,35 phôi dâu và phôi nang/buồng trứng/lần.
Tỉ lệ hợp tử phân ở các liều lượng đối chứng, 2 mg, 3 mg, 4 mg, 5 mg
và 6 mg, tương ứng: 52,34; 52,71; 53,69; 54,30; 56,42 và 54,17%. Tương tự,
tỉ lệ phôi dâu và phôi nang/buồng trứng/lần ở các liều lượng FSH trên tương
ứng là: 16,41; 17,05; 18,79; 19,21; 31,13 và 20,11%. Như vậy ở liều FSH 5
mg có số lượng phôi dâu và phôi nang thu được lớn nhất, với 2,35 phôi/buồng
trứng/lần.
Bảng 3.14. Ảnh hưởng của liều lượng FSH đến sự phân chia của hợp tử,
Hợp tử phân chia
Phôi dâu và phôi nang
Liều
Tế bào trứng
FSH
nuôi in vitro (n)
X ± SE (n)
%
X ± SE (n)
%
ĐC
128
3,35a ± 0,65 (67)
52,34 1,05a ± 0,15 (21)
16,41
2 mg
129
3,40a ± 0,46 (68)
52,71 1,10a ± 0,16 (22)
17,05
3 mg
149
4,00a ± 0,49 (80)
53,69 1,40a ± 0,18 (28)
18,79
4 mg
151
4,10a ± 0,78 (82)
54,30 1,45a ± 0,15 (29)
19,21
5 mg
179
5,05b ± 0,87 (101)
56,42 2,35b ± 0,23 (47)
31,13
54,17 1.80a ± 0,24 (36)
4,55b ± 0,66 (91)
168
20,11 6 mg Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột không mang chữ cái giống nhau thì sai
khác có ý nghĩa P < 0,05; X:Bình quân/buồng trứng/lần; ĐC: Đối chứng; %: Tỉ lệ
hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được/tế bào trứng nuôi in vitro
phôi dâu và phôi nang
* Kết luận:
Liều lượng FSH ảnh hưởng đến kết quả siêu âm hút tế bào trứng và tạo
phôi trong ống nghiệm (P < 0,05). Căn cứ vào phôi dâu và phôi nang thu
được/buồng trứng/lần cho thấy, liều lượng FSH 5 mg là thích hợp nhất.
Điều khiển sự phát triển của nang trứng luôn được các nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu với nhằm tạo ra nhiều hơn những tế bào trứng có khả
năng phát triển và tạo phôi in vitro nhưng kết quả vẫn còn nhiều biến động.
Nuôi thành thục tế bào trứng là yếu tố khó cải tiến vì thậm chí sau khi đã lựa
chọn số lượng tế bào trứng rất đồng đều, nhưng chỉ 35% đạt sự thành thục về
tế bào chất và có khả năng phát triển đến giai đoạn phôi dâu và phôi nang.
Phôi dâu chặt (A) Phôi nang sớm (A) Phôi nang sớm (A)
Phôi nang mở rộng (A) Phôi dâu chặt (B) Phôi dâu (B)
Phôi dâu chặt (C) Phôi dâu (C) Phôi chậm phát triển (D)
Phôi dâu (D) Phôi thoái hóa (D) Phôi nang thoát màng (A)
Hình 3.12. Một số hình ảnh về phôi dâu và phôi nang thu được có chất
lượng khác nhau
Thực tế cho thấy, nếu nuôi thành thục tế bào trứng được thực hiện bằng
cách nuôi thành thục in vitro, thụ tinh và nuôi phôi in vitro thì khả năng phát
triển của tế bào trứng tăng, tỉ lệ phôi dâu và phôi nang thu được gấp đôi, xấp
xỉ 49% (Blondin và cs., 2002). Do vậy mà nguồn gốc nang trứng dường như
là yếu tố quan trọng nuôi dưỡng tế bào trứng để tế bào trứng phát triển. Và có
rất nhiều nghiên cứu xác định sự khác nhau về đặc điểm nang trứng với hy
vọng tìm ra yếu tố làm tăng khả năng phát triển nang trứng, tình trạng buồng
trứng, song kết quả vẫn bị hạn chế. Vì vậy các nhà khoa học đã thấy rằng sử
dụng hormone để kích thích làm tăng khả năng phát triển của nang trứng, kích
thước nang trứng và số lượng nang trứng trong pha phát triển. Có kết quả này
là do sự tác động của FSH đến sự phát triển của nang trứng ở tất cả các giai
đoạn (Govan và Black, 1975).
Liều FSH sử dụng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phát triển của
nang trứng. Nhiều tác giả đã sử dụng nhiều liều FSH để kích thích và thấy
rằng sử dụng nhiều liều FSH đem lại hiệu quả tốt hơn sử dụng 1 liều FSH
(Stubbings và cs., 1995; Walsh và cs., 1993). Sử dụng nhiều liều FSH làm
tăng kích thước nang trứng (Goodhand và cs., 2000). Bên cạnh đó, khoảng
cách thời gian cũng như phương pháp sử dụng FSH cũng ảnh hưởng trực tiếp
đến kết quả kích thích. Tiêm FSH 2 lần/ngày làm tăng khả năng phản ứng hơn
1 lần/ngày, với cùng một liều lượng (Walsh và cs., 1993).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy rằng, kết quả thu được ở liều
FSH 5 mg về số lượng nang được hút và số lượng tế bào trứng/buồng
trứng/lần mặc dù không có sự khác biệt so với liều lượng FSH 6 mg P <
0,05). Tương tự, số lượng tế bào trứng loại A/buồng trứng/lần không có sự
khác biệt so với liều lượng FSH 3 mg, 4 mg, 5 mg và 6 mg (P < 0,05), song
về số lượng phôi dâu và phôi nang thu được/buồng trứng/lần của liều lượng
FSH 5 mg lại có sự khác biệt và cao hơn liều lượng FSH 6 mg và các liều
lượng khác. Như vậy có thể nói rằng khi tăng hàm lượng FSH đến một mức
độ nhất định không những nâng cao được kích thước, số lượng nang trứng mà
còn tăng sự phát triển của hợp tử đến giai đoạn phôi dâu và phôi nang. Tất cả
các liều FSH còn lại. Tuy nhiên nếu kích thích với một liều lượng vượt quá sự
cho phép có thể làm giảm chất lượng tế bào trứng, mặc dù kích thước và số
lượng tế bào trứng tăng lên.
Như vậy với liều lượng FSH thích hợp đã làm cho sự phát triển của tế
bào trứng đến giai đoạn phôi dâu và phôi nang tăng lên. Hầu hết các tác giả
nghiên cứu đều có kết luận phù hợp với kết luận của chúng tôi, FSH làm tăng
số lượng nang trứng và chất lượng tế bào trứng (Goodhand và cs., 1999), làm
tăng số lượng tế bào trứng (Techakumphu và cs., 2000), làm tăng kích thước
của nang trứng (Goodhand và cs., 1999), làm tăng chất lượng tế bào trứng sau
khi tiêm FSH 3 ngày, phôi nang có chất lượng tốt hơn (Sirard và cs., 1999),
FSH thúc đẩy sự phát triển của nang trứng và tăng số lượng nang trứng có
mặt trên buồng trứng (Tanaka và cs., 2001). Ngoài ra giảm số lượng và thoái
hóa của nang trứng là do sự thiếu hụt hàm lượng FSH do nang trội sản xuất
insulin tác động ngược âm tính vào thùy trước tuyến yên làm giảm hàm hàm
lượng FSH dưới ngưỡng cần thiết hoặc do một số nguyên nhân khác. Do đó
khi đưa một bổ sung một liều lượng FSH ngoại sinh thích hợp sẽ làm giảm sự
thoái hóa của các nang trứng khi nang trội phát triển và tăng chất lượng tế bào
trứng.
Trong nghiên cứu này chúng tôi không tiến hành đánh giá ảnh hưởng
của FSH lên kích thước của nang trứng, song thực tế cho thấy, việc sử dụng
FSH để kích thích, các nang trứng có đồng đều hơn, thuận lợi cho việc quan
sát và hút tế bào trứng. Tuy nhiên, chi phí cho việc sử dụng FSH cũng góp
phần làm tăng giá thành của phôi tạo ra. Do vậy, sử dụng FSH cần được cân
nhắc trong một số trường hợp nhất định.
Hình 3.13. Biểu đồ đánh giá số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng,
hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được ở 6 liều lượng FSH
khác nhau
3.6. Ảnh hưởng của giống bò
* Ảnh hưởng của giống đến số lượng nang trứng được hút và tế bào trứng thu
được
Siêu âm hút tế bào trứng được tiến hành trên 48 buồng trứng, số lượng
nang trứng ở bò F3 và bò HF thu được tương ứng, 244 và 272 nang trứng
được hút. Kết quả thu được ở bò HF và bò F3 cho thấy, có sự ảnh hưởng của
giống bò HF và bò F3 đến số lượng nang trứng được hút (P < 0,05). Số lượng
nang trứng/buồng trứng/lần HF lớn hơn ở bò F3, tương ứng: 11,33 so với
10,17 nang.
Có sự khác nhau rõ rệt (P < 0,05) về số tế bào trứng thu được/buồng
trứng/lần (Bảng 3.15) và ở bò HF cho số lượng tế bào trứng cao hơn (P <
0,05) bò F3, tương ứng: 8,92 so với 7,75 tế bào trứng.
Bảng 3.15. Ảnh hưởng của giống bò cho tế bào trứng đến số lượng nang
Nang trứng được hút
Tế bào trứng thu được
Giống
%
n
X ± SE
n
X ± SE
F3
244
10,17a ± 0,27
186
7,75a ± 0,24
76,23
HF
272
11,33b ± 0,34
214
8,92b ± 0,25
78,68
Ghi chú:Các giá trị trong cùng một cột không mang chữ cái giống nhau thì sai khác
có ý nghĩa P < 0,05; X:Bình quân/buồng trứng/lần; %:Tỉ lệ tế bào trứng thu
được/nang trứng được hút
trứng được hút và số lượng tế bào trứng thu được
Không có sự chênh lệch nhiều về tỉ lệ tế bào trứng thu được/nang trứng
được hút ở bò F3 và HF, tương ứng: 76,23 và 78,68%.
* Ảnh hưởng giống đến chất lượng tế bào trứng
Tế bào trứng thu được từ hai giống bò khác nhau được đánh giá
theo mức độ A, B, C và D (bảng 3.16).
Bảng 3.16. Ảnh hưởng của giống bò cho tế bào trứng đến chất lượng tế
Chất lượng tế bào trứng
Giống
A
B
C
D
X ± SE (n)
X ± SE (n)
X ± SE (n)
X ± SE (n)
F3
2,92 ± 0,16 (70)
2,83 ± 0,19 (68)
1,08 ± 0,20 (26)
0,92 ± 0,16 (22)
HF
3,25 ± 0,15 (78)
3,21 ± 0,17 (77)
1,42 ± 0,22 (34)
1,04 ± 0,18 (25)
Ghi chú: Bình quân về chất lượng tế bào trứng (A, B, C và D) giữa hai giống bò
được so sánh ở mức độ P < 0,05; X: Bình quân/buồng trứng/lần; A, B, C và D:
Chất lượng tế bào trứng theo thứ tự từ cao đến thấp
bào trứng
Qua kết quả thu được cho thấy, mặc dù có sự khác nhau về số lượng
nang trứng được hút, số lượng tế bào trứng/buồng trứng/lần, song chất lượng
tế bào trứng A, B, C và D lại không có sự khác nhau (P < 0,05).
Số lượng tế bào trứng loại A, B, C và D/buồng trứng/lần ở bò F3, tương ứng
là 2,92; 2,83; 1,08 và 0,92 tế bào trứng. Tương tự, bình quân số lượng tế bào
trứng A, B, C và D/buồng trứng/lần ở bò HF tương ứng là 3,25; 3,21; 1,42 và
1,04 tế bào.
* Ảnh hưởng của giống đến hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu
được
Từ số lượng tế bào trứng thu được, có 138 tế bào trứng được nuôi thành
thục (loại A và B), cho thấy, không có sự khác biệt về số lượng hợp tử phân
chia/buồng trứng/lần giữa bò HF và bò F3 (P < 0,05). Số lượng hợp tử/buồng
trứng/lần ở bò F3 là 3,33 hợp tử và 3,53 hợp tử ở bò HF.
Bảng 3.17. Ảnh hưởng của giống bò cho tế bào trứng đến sự phân chia
Hợp tử phân chia
Phôi dâu và phôi nang
Tế bào trứng nuôi
Giống
in vitro (n)
X ± SE
%
X ± SE
%
3,33 ± 0,20 (80)
57,97
1,17 ± 0,08 (28)
20,29
F3
138
HF
155
3,54 ± 0,18 (85)
54,84
1,29 ± 0,11 (31)
20,00
Ghi chú: Bình quân về hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang giữa hai giống bò
được so sánh ở mức P < 0,05; X:Bình quân/buồng trứng/lần; %: Tỉ lệ hợp tử, phôi
dâu và phôi nang thu được/tế bào trứng nuôi in vitro
của hợp tử, phôi dâu và phôi nang
Số lượng phôi dâu và phôi nang thu được/buồng trứng/lần cũng không
có sự khác nhau giữa bò HF và bò F3 (P > 0,05), bình quân 1,17 dâu và phôi
nang thu được ở bò F3 và 1,29 phôi dâu và phôi nang ở bò HF.
Tỉ lệ hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu không có sự chênh
lệch nhiều giữa hai giống bò. Tỉ lệ hợp tử phân chia ở bò cho tế bào trứng F3
và HF tương ứng: 57,97 và 54,84%. Tương tự, tỉ lệ phôi dâu và phôi nang thu
được tương ứng: 20,29 và 20,00%.
Mặc dù không có sự khác biệt về chất lượng tế bào trứng, hợp tử phân
chia, phôi dâu và phôi nang thu được/buồng trứng/lần nhưng số lượng nang
trứng được hút và số lượng tế bào trứng ở bò HF cao hơn bò F3, do vậy căn
cứ vào số lượng phôi dâu và phôi nang thu được/buồng trứng/lần cho thấy bò
HF cho kết quả tốt hơn, với 1,29 phôi.
* Kết luận:
Mặc dù chất lượng tế bào trứng, số lượng phôi dâu và phôi nang thu
được/buồng trứng/lần không có sự khác nhau giữa hai giống bò, song căn cứ
vào số lượng nang trứng được hút và số lượng tế bào trứng thu được/buồng
trứng/lần (P < 0,05) cho thấy, bò HF kết quả tốt hơn, với 1,29 phôi dâu và
phôi nang/buồng trứng/lần.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có sự sai khác với tác giả Li và cs.
(2007) về số lượng nang trứng được hút và số lượng tế bào trứng thu được,
song về chất lượng tế bào trứng, hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu
được lại phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi. Kết quả nghiên cứu của tác
giả cho thấy, không có sự khác nhau (P < 0,05) về số lượng nang trứng và số
lượng tế bào trứng thu được ở hai giống bê vàng Trung Quốc (Chinese
Yellow Heifer) và ở bò sữa HF (số lượng nang trứng được hút và số lượng tế
bào trứng/con cho/lần tương ứng: 12,1 và 6,6 so với 13,1 nang và 7,2 tế bào
trứng). Không có sự khác biệt về chất lượng tế bào trứng loại A, B và CD
giữa giống bê vàng Trung Quốc và bò HF (tương ứng: 1,5; 2,8 và 1,2 và 2,3;
3,3; 1,8 tế bào trứng; P > 0,05), tương tự tỉ lệ hợp tử phân chia/tế bào trứng
nuôi in vitro, phôi dâu và phôi nang thu được cũng không có sự khác nhau có
ý nghĩa (tương ứng: 69,5%; 25,7% và 68,3%; 24,4%). Song một số tác giả
khác lại công bố giống bò ảnh hưởng khả năng phát triển của tế bào trứng và
phôi (Goddard và Pratt, 1993); Fischer và cs., 2000).
Kết quả của chúng tôi không sai khác nhiều so với kết quả của một số
tác giả khác đã báo cáo. Nguyễn Thị Ước và cs. (1999) thu được tỉ lệ phát
triển đến giai đoạn phôi dâu đối với bò vàng là 22,8% và 26,9% ở bò Hà Ấn.
Nguyễn Hữu Đức và cs. (2003) đã nuôi hợp tử trong môi trường B2 có bổ
sung tế bào vero, tỉ lệ phôi nang quan sát được 25,88%. Tương tự, Bui Xuan
Nguyen. (2006) thu được tỉ lệ phôi dâu và phôi nang khi tiến hành thụ tinh
trong ống nghiệm ở bò lai Zebu-Yellow or Holstein-yellow là 30%.
Hình 3.14. Biểu đồ đánh giá số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng,
hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được ở hai giống bò cho tế
bào trứng khác nhau.
Do điều kiện kinh tế, khi hậu, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng nên trong
ngành chăn nuôi bò sữa của nước ta đã tiến hành lai tạo bò sữa thuần (HF) với
giống bò địa phương để tăng khả năng thích nghi. Tuy năng suất sữa không
cao được bằng bò sữa thuần, song hiện nay giống bò F3 thường được nuôi
nhiều ở các nông hộ do khả năng thích nghi tốt và phù hợp với khả năng chăm
sóc nuôi dưỡng. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, việc khai thác tế bào trứng ở
bò F3 có năng suất và chất lượng tốt để tạo phôi in vitro se cho ra thế hệ đàn
con có khả năng thích nghi cao ở điều kiện nước ta.
3.7. Ảnh hưởng của tuổi bò cho tế bào trứng
* Ảnh hưởng của tuổi bò cho tế bào trứng đến số lượng nang trứng được hút
và tế bào trứng thu đươc
Với 114 lượt buồng trứng được thực hiện (Bảng 3.18) cho thấy, có sự
ảnh hưởng của bò 3 tuổi và bò 6 tuổi lên số lượng nang trứng được hút (p<
0,05). Số lượng nang trứng được hút ở bò 3 tuổi cao hơn (P < 0,05) bò 6 tuổi.
Số lượng nang trứng /buồng trứng/lần ở bò 3 tuổi và bò 6 tuổi tương ứng:
8,41 và 8,00 nang.
Bảng 3.18. Ảnh hưởng của tuổi bò cho tế bào trứng đến số lượng nang
Nang trứng được hút
Tế bào trứng thu được
Tuổi bò
%
n
X ± SE
n
X ± SE
3 tuổi
454
8,41a ± 0,22
389
7,20a ± 0,23
85,68
86,22
6 tuổi
472
8,00b ± 0,24
407
6,78b ± 0,13
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột không mang chữ cái giống nhau thì sai
khác có ý nghĩa P < 0,05; X: Bình quân/buồng trứng/lần; %; Tỉ lệ tế bào trứng thu
được/nang trứng được hút
trứng được hút và số lượng tế bào trứng thu được
Từ nang trứng được hút, số lượng tế bào trứng thu được cũng có sự
khác nhau giữa bò 3 tuổi và bò 6 tuổi (P < 0,05). Số lượng tế bào trứng ở bò 3
tuổi thu được cao hơn bò 6 tuổi, số lượng tế bào trứng thu được tương ứng:
7,20 và 6,78 tế bào trứng/buồng trứng/lần. Như vậy có thể thấy, số lượng
nang trứng ở bò 3 tuổi cao hơn bò 6 tuổi thì số lượng nang trứng cũng cao
hơn. Kết quả này cũng được thể hiện qua tỉ lệ tế bào trứng thu được/nang
trứng được hút ở bò 3 tuổi và bò 6 tuổi, tương ứng: 85,68% và 86,22%.
* Ảnh hưởng của tuổi bò cho tế bào trứng đến chất lượng tế bào trứng
Trong thí nghiệm này do điều kiện thời gian không cho phép nên chất
lượng tế bào trứng được đánh giá theo hai nhóm chất lượng AB và CD. Từ
kết quả thu được cho thấy, mặc dù có sự khác nhau về số lượng nang trứng và
số lượng tế bào trứng thu được/buồng trứng/lần nhưng chất lượng tế bào
trứng lại không có sự khác nhau. Kết quả thu được (Bảng 3.19) cho thấy,
không có sự khác nhau có ý nghĩa về chất lượng tế bào trứng loại AB giữa bò
3 tuổi và bò 6 tuổi. Số lượng tế bào trứng loại AB thu được ở bò 3 tuổi và bò
6 tuổi tương ứng: 5,39 và 5,12 tế bào.
Bảng 3.19. Ảnh hưởng của tuổi bò cho tế bào trứng đến chất lượng tế bào
Chất lượng tế bào trứng
Tuổi bò
A, B
C, D
n
X ± SE
n
X ± SE
3 tuổi
291
5,39 ± 0,12
98
1,81 ± 0,03
6 tuổi
307
5,12 ± 0,09
100
1,74 ± 0,13
Ghi chú: Bình quân về chất lượng tế bào trứng A, B và C, D được so sánh ở mức P
< 0,05; X: Bình quân/buồng trứng/lần; A, B, C và D: Chất lượng tế bào trứng theo
thứ tự từ cao đến thấp
trứng
Không có sự khác nhau về chất lượng tế bào trứng giữa bò 3 tuổi và bò
6 tuổi về tế bào trứng có chất lượng CD (P < 0,05). Số lượng tế bào trứng loại
CD tương ứng: 1,81 tế bào trứng/buồng trứng/lần và ở bò 6 tuổi là 1,74 tế bào
trứng/buồng trứng/lần.
* Ảnh hưởng của tuổi bò cho tế bào trứng đến hợp tử phân chia, phôi dâu và
phôi nang thu được.
Không có sự ảnh hưởng giữa bò 3 tuổi và bò 6 tuổi P > 0,05) về số
lượng hợp tử phân chia (Bảng 3.20). Số lượng hợp tử phân chia ở bò 3 tuổi và
bò 6 tuổi thu được/buồng trứng/lần tương ứng: 3,13 và 2,87 hợp tử, đạt tỉ lệ
tương ứng: 58,08 và 56,03%.
Bảng 3.20. Ảnh hưởng của tuổi bò cho tế bào trứng đến sự phân chia của
Tế bào trứng
Hợp tử phân chia
Phôi dâu và phôi nang
Tuổi bò
nuôi in vitro (n)
n
X ± SE
%
n
X ± SE
%
169
3,13 ± 0,13
58,08
59
1,09 ± 0,10
20,27
3 tuổi
291
6 tuổi
307
172
2,87 ± 0,17
56,03
56
0,93 ± 0,10
18,24
Ghi chú: Bình quân hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang giữa hai độ tuổi được
so sánh ở mức P < 0,05; X: Bình quân/buồng trứng/lần; %: Tỉ lệ hợp tử, phôi dâu
và phôi nang thu được/tế bào trứng nuôi in vitro
hợp tử, phôi dâu và phôi nang
Về kết quả phôi dâu và phôi nang thu được cũng không có sự sai khác
giữa bò 3 tuổi và bò 6 tuổi (P > 0,05). Tỉ lệ phôi dâu và phôi nang thu được/tế
bào trứng nuôi in vitro ở bò 3 tuổi chiếm 20,27%, đạt 1,09 phôi dâu và phôi
nang/buồng trứng/lần. Ở bò 6 tuổi, phôi dâu và phôi nang đạt 0,93
* Kết luận:
phôi/buồng, chiếm 18,24 % tế bào đem nuôi in vitro.
Qua kết quả nghiên cứu thu được cho thấy, không có sự khác nhau về
số lượng hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được giữa bò 3 tuổi và
bò 6 tuổi, nhưng số lượng nang trứng và số lượng tế bào trứng thu được lại
có sự khác nhau ta thấy rằng bò 3 tuổi cho kết quả tốt hơn bò 6 tuổi.
Hình 3.15. Biểu đồ đánh giá số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng,
hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được ở bò 3 tuổi và bò 6
tuổi
Su và cs. (2009) tiến hành siêu âm hút tế bào trứng ở bê (12 tháng tuổi),
bò đang ở độ tuổi sinh sản (7 – 8 tuổi) và bò già (15 tuổi trở lên) để đánh giá
sự ảnh hưởng của tuổi con cho tế bào trứng đến khả năng phát triển của tế bào
trứng khi siêu âm hút tế bào trứng từ bò sống. Kết quả thu được cho thấy số
lượng tế bào trứng thu được có sự khác nhau giữa ba nhóm bò cho tế bào
trứng (P < 0,05), bình quân tế bào trứng/bò/lần tương ứng với ba nhóm bò
trên: 7,3; 6,1 và 4,7 tế bào trứng. Số lượng hợp tử phân chia và phôi nang thu
được cũng có sự khác nhau rõ rệt ( P < 0,05) giữa các nhóm bò. Cũng nghiên
cứu ảnh hưởng của tuổi. Rizos và cs. (2005) số lượng nang trứng/buồng
trứng/lần ở bò hậu bị lớn hơn bò cái sinh sản, tương ứng: 10,4 và 7,8 nang.
Roth và cs. (2008) tiến hành nghiên cứu thu tế bào trứng ở bê và bò sữa HF
thấy rằng số lượng tế bào trứng thu được/bò/lần (16,0 tế bào) cao hơn ở bê
(16,0 tế bào trứng) và tỉ lệ phôi nang thu được ở bò và bê tương ứng: 32,5 và
22,8 %. Mermillod và cs. (1992) thấy rằng ở bò cho có độ tuổi 1 - 3 cao hơn
bò trưởng thành. Matthiesen (2011) nghiên cứu ảnh hưởng của tuổi bò cho tế
bào trứng ở bê 14 tháng, bò 2 – 4 năm tuổi và bò cho thấy, có sự ảnh hưởng
của bò cho tế bào trứng. Số lượng nang trứng tăng lên khi tuổi bò tăng lên, số
lượng màng cumulus ở bò già cũng cao hơn bò bê 14 tháng tuổi và bò non 2 –
4 năm tuổi. Song tỉ lệ phát triển đến giai đoạn phôi phôi nang ở bê 14 tháng
tuổi cao hơn ở bò non 2 – 4 năm (tương ứng: 17,4% và 5,1%). Ngoài ra một
số tác giả khác cũng đưa ra kết luận liên quan đến ảnh hưởng của tuổi như số
lượng nang trứng và chất lượng phôi giảm khi độ tuổi của bò tăng lên (Kruip
và cs., 1994). Hàm lượng estradiol giảm và progesterone tăng ở bò lớn tuổi có
thể là nguyên nhân làm cho số lượng nang trứng và số lượng tế bào trứng
giảm và do vậy ảnh hưởng của tuổi lên khả năng phát triển của tế bào trứng
có thể là do sự mất cân bằng của hormone. Nhìn chung bò cho tế bào trứng ở
độ tuổi khác nhau có tình trạng sinh lý sinh sản khác nhau. Sự thay đổi về tình
trạng sinh lý sinh sản sẽ thay đổi khả năng cho tế bào trứng, chất lượng tế bào
trứng và khả năng sản xuất phôi (Rizos và cs., 2005).
3.8. Ảnh hưởng của mùa vụ
* Ảnh hưởng của mùa vụ đến số lượng nang trứng được hút và tế bào trứng
thu được
Siêu âm hút tế bào trứng được tiến hành trên 48 lượt buồng trứng để
đánh giá mức độ ảnh hưởng của mùa vụ (đông – xuân và hè – thu) lên kết quả
số lượng nang trứng và tế bào trứng thu được, thấy rằng: không có sự ảnh
hưởng khác biệt giữa hai mùa vụ đông - xuân và hè - thu (P > 0,05). Bình
quân số lượng nang trứng thu được ở mùa vụ đông – xuân và hè – thu, tương
ứng là: 10,96 và 10,08 nang trứng/buồng trứng/lần. Tế bào trứng thu được từ
các nang trứng được hút cũng không có sự khác nhau (P > 0,05). Số lượng tế
bào trứng thu được/buồng trứng/lần ở mùa vụ đông – xuân và hè – thu, tương
ứng: 8,67 và 7,92 tế bào trứng.
Tỉ lệ tế bào trứng thu được/nang trứng được hút không có sự chênh
lệch nhiều, ở vụ đông – xuân là 79,09% và vụ hè thu là 78,51%.
Bảng 3.21. Ảnh hưởng của mùa vụ đến số lượng nang trứng được hút và
Nang trứng được hút
Tế bào trứng thu được
Mùa vụ
%
n
X ± SE
n
X ± SE
Đông-xuân
263
10,96 ± 0,31
208
8,67 ± 0,27
79,09
78,51
Hè-thu
242
10,08 ± 0,26
190
7,92 ± 0,24
Ghi chú: Bình quân về nang trứng được hút và tế bào trứng được giữa hai vụ được
so sánh ở mức P < 0,05; X: Bình quân/buồng trứng/lần; %: Tỉ lệ tế bào trứng thu
được/nang trứng được hút
số lượng tế bào trứng thu được
* Ảnh hưởng của mùa vụ đến chất lượng tế bào trứng
Kết quả cho thấy, mặc dù số lượng nang trứng và số lượng tế bào trứng
thu được/buồng trứng/lần ở vụ đông – xuân và hè - thu không có sự khác
nhau, song chất lượng tế bào trứng loại A lại có sự khác nhau (P < 0,0%). Số
lượng tế bào trứng loại A thu được ở vụ đông – xuân cao hơn vụ hè thu,
tương ứng: 3,29 so với 2,67 tế bào trứng/buồng trứng/lần. Như vậy có thể nói
chất lượng tế bào trứng loại A ở vụ đông – xuân tốt hơn vụ hè – thu.
Không có sự khác biệt về chất lượng tế bào trứng B, C và D giữa vụ
đông – xuân và vụ hè – thu. Số lượng tế bào trứng loại B, C và D ở vụ đông –
xuân tương ứng: 2,86; 1,50 và 1,00 tế bào trứng/buồng trứng/lần. Tương tự, tế
bào trứng loại B, C và D ở vụ hè – thu tương ứng: 2,83; 1,36 và 1,04 tế bào
trứng/buồng trứng/lần.
Chất lượng tế bào trứng
Mùa vụ
A
B
C
D
X ± SE (n)
X ± SE (n)
X ± SE (n)
X ± SE (n)
Đông-xuân
3,29a ± 0,19 (79)
2,86a ± 0,19 (69) 1,50a ± 0,14 (36) 1,00a ± 0,17 (24)
Hè-thu
2,83a ± 0,13 (68) 1,36a ± 0,2 (33)
2,67b ± 0,14 (64)
1,04a ± 0,15 (25) Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột không mang chữ cái giống nhau thì sai
khác có ý nghĩa P < 0,05; X: Bình quân/buồng trứng/lần; A, B, C và D: Chất
lượng tế bào trứng theo thứ tự từ cao đến thấp
Bảng 3.22. Ảnh hưởng của mùa vụ đến chất lượng tế bào trứng
* Ảnh hưởng của mùa vụ đến hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu
được
Qua kết quả hợp tử phân chia cho thấy, mùa vụ có sự ảnh hưởng lên số
lượng hợp tử phân chia (P < 0,05) (Bảng 3.23).
Bảng 3.23. Ảnh hưởng của mùa vụ đến sự phân chia của hợp tử, phôi dâu
Tế bào
Hợp tử phân chia
Phôi dâu và phôi nang
Mùa vụ
trứng nuôi
X ± SE (n)
X ± SE (n)
%
%
in vitro (n)
Đông-Xuân
148
3,63a ± 0,24 (87)
58,78 1,46a ± 0,10 (35)
23,65
Hè–Thu
132
2,96b ± 0,15 (71)
53,79 1,08b ± 0,13b (26)
19,70
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột không mang chữ cái giống nhau thì sai
khác có ý nghĩa P < 0,05; X: Bình quân/buồng trứng/lần; %: Tỉ lệ hợp tử phân
chia, phôi dâu và phôi nang thu được/tế bào trứng nuôi in vitro
và phôi nang
Mùa vụ đông - xuân có có số lượng hợp tử/buồng trứng/lần cao hơn (P
< 0,05) mùa vụ hè – thu, tương ứng: 3,63 hợp tử so với 2,96 hợp tử. Hợp tử
phân chia ở vụ đông – xuân và hè – thu có tỉ lệ (hợp tử phân chia/tế bào trứng
nuôi in vitro), tương ứng: 58,78% và 53,79%.
Bình quân số lượng phôi dâu và phôi nang thu được/buồng trứng/lần có
sự khác biệt giữa hai vụ (P < 0,05). Vụ đông – xuân có số lượng phôi dâu và
phôi nang/buồng trứng/lần là 1,46 phôi, cao hơn mùa vụ hè – thu là 1,08 phôi.
Căn cứ vào tỉ lệ cho thấy, tỉ lệ phôi dâu và phôi nang thu được ở mùa vụ đông
– xuân và mùa vụ hè – thu, tương ứng: 23,65 và 19,70%.
* Kết luận
Từ kết quả thu được cho thấy, mặc dù số lượng tế bào trứng ở vụ đông
– xuân và vụ hè – thu không có sự khác nhau, song chất lượng tế bào trứng
loại A, số lượng hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được lại có sự
khác nhau. Và ở mùa vụ đông – xuân cho kết quả tốt hơn, với 3,63 hợp tử và
1,46 phôi/buồng trứng/lần.
Có thể thấy rằng nhiệt độ và độ ẩm của môi trường vào các mùa khác
nhau đã ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Vấn đề này được nhiều tác giả
trên thế giới quan tâm nghiên cứu và đưa ra kết luận: nhiệt độ và độ ẩm cao
ảnh hưởng xấu đến khả năng thành thục và thụ tinh của tế bào trứng
(Leibfried – Rutledge và cs.,1989), khả năng sống sót của phôi in vivo giảm
từ 59% xuống còn 27% vào mùa nóng (Rehman và cs., 1994), chất lượng tế
bào trứng giảm xuống vào mùa hè, thậm chí sau 42 ngày làm giảm nhiệt độ
xuống cũng chưa thay đổi được sự ảnh hưởng đó, tương tự thì khả năng phát
triển của hợp tử phát triển đến giai đoạn phôi nang giảm xuống ở mùa hè (AI-
Katanani và cs., 2002), stress nhiệt có thể làm thay đổi các thành phần
phospholipid của tế bào trứng và có sự ảnh hưởng của nhiệt độ và độ ẩm của
môi trường đến các tuyến nội tiết và đến sự phát triển của nang trứng theo kết
quả nghiên cứu của (Zeron và cs., 2001).
Hình 3.16. Biểu đồ đánh giá số lượng nang trứng, số lượng tế bào trứng,
hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được ở vụ đông – xuân và
vụ hè – thu
Rocha và cs. (1998) đã nghiên cứu ảnh hưởng của mùa vụ (mùa nóng
và mùa lạnh) cho thấy, có sự ảnh hưởng của nhiệt độ và độ ẩm của môi
trường (P < 0,01). Kết quả số lượng tế bào trứng thu được, tỉ lệ tế bào trứng
bình thường, phôi 2 tế bào, phôi 8 tế bào, tỉ lệ phôi dâu và phôi nang thu được
(tương ứng: 67; 80,0; 59,8; 44,4; 34,2 và 29,0 ở mùa lạnh so so với 28; 24,6;
52,3; 1,1; 0 và 0 ở mùa nóng). Như vậy có thể thấy ở mùa vụ hè – thu ở nước
ta nhiệt độ cao và độ ẩm cao đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tế bào trứng,
hợp tử phân chia, phôi dâu và phôi nang thu được.
Chất lượng tế bào trứng, hợp tử phân chia thu được ở mùa vụ hè – thu
thấp hơn vụ đông xuân là do ảnh hưởng bởi stress nhiệt, do vụ hè – thu có
nhiệt độ cao và khí hậu hanh khô (phụ lục). Sự ảnh hưởng bởi stress nhiệt lên
kết quả siêu âm hút tế bào trứng có thể thấy như sau: Khi nhiệt độ tăng lên thì
nhiệt độ cơ thể bò cũng tăng lên làm ảnh hưởng đến khả năng thu nhận vật
chất khô để ngăn chặn sự tăng lên của nhiệt độ trong quá trình tiêu hóa và
điều khiển sự sinh nhiệt do quá trình trao đổi chất. Giảm quá trình trao đổi
chất làm thay đổi sự cân bằng năng lượng và dinh dưỡng, hạn chế quá trình
tiết hormone GnRH và LH (Hình 3.16). Quá trình trao đổi chất thay đổi làm
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của tế bào hạt do glucose trong dịch
nang trứng giảm xuống (glucose được sử dụng chủ yếu như một loại nhiên
liệu cho các tế bào buồng trứng), do vậy làm giảm chất lượng tế bào trứng.
Ngoài ra nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu thấy rằng, giảm chất lượng tế bào
trứng là do urê trong dịch nang trứng tăng lên do quá trình dị hóa protein,
giảm tiết steroid. Theo Rensis và Scaramuzzi (2003), ảnh hưởng của stress
nhiệt có thể cũng tác động vào sự phát triển của nang trứng và progesterone là
nguyên nhân làm thay đổi chất lượng tế bào trứng. Còn theo Santos và cs.
(2008) dinh dưỡng là yếu tố chính ảnh hưởng đến sự phát triển của nang
trứng, chất lượng tế bào trứng và khả năng phát triển in vitro của tế bào trứng.
Nghiên cứu công nghệ cấy truyền phôi ở nước ta trên gia súc được
nghiên cứu từ đầu những năm 1990 và cho đến nay các nhà khoa học nước ta
đã gặt hái được rất nhiều thành công. Bùi Xuân Nguyên và cs. (1994) đã
thành công trong việc nghiên cứu nuôi trứng và thụ tinh ống nghiệm ở trâu
bò. Tiếp theo sự thành công đó là sự thành công của rất nhiều nghiên cứu.
Nghiên cứu sự chín nhân ở tế bao trứng trâu đầm lầy được nuôi trong ống
nghiệm (Nguyễn Thị Ước và cs., 1996). Trạng thái phát triển của nhân tế bào
trứng thu từ buồng trứng của bò nội Việt Nam (Nguyễn Hữu Đức và cs.,
1996). Khả năng cung cấp tế bào trứng để thụ tinh trong ống nghiệm của trâu
và bò nôi (Bùi Xuân Nguyên và cs., 1997). Tinh trùng bò dùng trong thụ tinh
ống nghiệm (Nguyễn Hữu Đức và cs., 1998). Sản xuất phôi bò bằng thụ tinh
ống nghiệm, sản xuất bò sữa giống thương phẩm bằng cấy phôi thụ tinh ống
nghiệm và xác định giới tính (Nguyễn Thị Ước và cs., 1999). Bê thụ tinh ống
nghiệm đầu tiên đã ra đời tại Viện Công nghệ sinh học (Nguyễn Hữu Đức và
cs., 2003). Và cho đến nay hàng trăm nghiên cứu đã thành công, hàng trăm
con bê đã được sinh ra từ công nghệ cấy truyền phôi. Sự thành công của mỗi
nghiên cứu là vô cùng quan trọng, đặc biệt đàn gia súc có khả năng thích nghi
tốt với khí hậu của nước ta.
Oestradiol tiết ra
Chất lượng tế bào trứng
Glucose
Nhiệt độ cơ thể > 390C
Nhu cầu năng lượng duy trì
Cân bằng năng lượng thay đổi
Khả năng thu nhận vật chất khô
STRESS NHIỆT
Hình 3.17. Ảnh hưởng của stress nhiệt lên chất lượng tế bào trứng
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Kết luận
1. Luận án đã nghiên cứu 8 yếu tố ảnh hưởng đến việc thu tế bào trứng trên
bò sống để tạo phôi bò trong ống nghiệm. Xác định được từng yếu tố thích
hợp phù hợp với thiết bị, máy móc, khí hậu, bò cho tế bào trứng được nuôi
dưỡng chăm sóc và thích nghi với điều kiện khí hậu của nước ta. Nâng cao
được số lượng, chất lượng của tế bào trứng, hợp tử và phôi. Hạn chế tối đa
kính phí, thời gian và hạ giá thành của phôi.
2. Có sự ảnh hưởng của áp lực hút (60, 90, 120 và 150 mmHg) đến hiệu quả
của kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng bò để tạo phôi trong ống nghiệm (P <
0,05). Ở áp lực hút 120 mmHg cho số phôi dâu và phôi nang/buồng trứng/lần
cao nhất, đạt 1,11 phôi.
3. Có sự ảnh hưởng của tần suất siêu âm hút tế bào trứng (2, 1 và ½ tuần) đến
hiệu quả của kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng bò để tạo phôi trong ống
nghiệm (P < 0,05). Ở tần suất ½ tuần/lần cho số lượng phôi dâu và phôi
nang/buồng trứng/lần cao nhất, đạt 1,83 phôi.
4. Có sự ảnh hưởng của kích thước nang trứng (2 – 5, 6 – 9 và ≥ 10 mm) đến
hiệu quả của kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng bò để tạo phôi trong ống
nghiệm (P < 0,05). Ở nang trứng có kích thước 2 – 5 mm cho số lượng phôi
dâu và phôi nang/buồng trứng/lần cao nhất, đạt 1,58 phôi.
5. Có sự ảnh hưởng của pha nang trứng phát triển và pha nang trứng trội đến
hiệu quả của kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng bò để tạo phôi trong ống
nghiệm (P < 0,05). Ở pha nang trứng phát triển cho số lượng nang trứng, số
lượng tế bào trứng loại A và B/buồng trứng/lần cao hơn pha nang trội, đạt
14,93 nang, 4,36 tế bào trứng loại A và 4,14 tế bào trứng loại B.
6. Có sự ảnh hưởng của liều lượng FSH (0, 2, 3, 4, 5 và 6 mg) đến hiệu quả
của kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng bò để tạo phôi trong ống nghiệm (P <
0,05). Ở liều lượng FSH 5mg cho số lượng phôi dâu và phôi nang/buồng
trứng/lần cao nhất, đạt 2,35 phôi.
7. Có sự ảnh hưởng của giống bò (bò HF và bò F3) đến hiệu quả của kỹ thuật
siêu âm hút tế bào trứng bò để tạo phôi trong ống nghiệm (P < 0,05). Bò HF
số lượng phôi dâu và phôi nang/buồng trứng/lần cao nhất, đạt 1,29 phôi.
8. Có sự ảnh hưởng của tuổi bò cho tế bào trứng (3 tuổi và 6 tuổi) đến số
lượng nang trứng và số lượng tế bào trứng thu được (P < 0,05). Bò 3 tuổi cho
số lượng phôi dâu và phôi nang/buồng trứng/lần cao hơn bò 6 tuổi, 1,09 phôi.
9. Có sự ảnh hưởng của mùa vụ (đông – xuân và hè – thu) đến hiệu quả của
kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng bò để tạo phôi trong ống nghiệm (P < 0,05).
Ở vụ đông - xuân cho số lượng phôi dâu và phôi nang/buồng trứng/lần cao
hơn vụ hè – thu, đạt 1,46 phôi.
10. Nghiên cứu thành công việc sử dụng kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng
trên bò sống để tạo phôi trong ống nghiệm, mở ra một bước ngoặt mới trong
việc khai thác tiềm năng di truyền của những bò sữa cao sản và nhân nhanh
giá trị di truyền đó vào thực tế sản xuất. Góp phần nâng cao hiệu quả và tăng
khả năng ứng dụng rộng rãi công nghệ cấy truyền phôi trong ngành chăn nuôi
bò sữa của nước ta. Nâng cao năng suất sữa và hạn chế quá trình nhập bò từ
các nước khác và làm tiền đề cho các nghiên cứu cơ bản khác.
Đề nghị
Để tăng được hiệu quả siêu âm hút tế bào trứng bò để tạo phôi trong
ống nghiệm nên siêu âm hút tế bào trứng ở bò HF (3 tuổi), từ các nang trứng
có kích thước 2 – 5 mm hoặc pha nang trứng phát triển với tần suất ½
tuần/lần, ở áp lực hút 120 mmHg, vào vụ đông – xuân, sử dụng FSH với liều
lượng 5mg để kích thích.
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Phan Lê Sơn, Nguyễn Thị Thoa, Lưu Công Khánh, Chu Thị Yến, Nguyễn
Thị Hương, Phạm Khánh Vân, Lưu Thị Ngọc Anh (2009), “Ảnh hưởng của
tuổi bò đến số lượng và chất lượng tế bào trứng chọc hút bằng siêu âm”, Tạp
chí khoa học công nghệ chăn nuôi – Viện Chăn nuôi, số 21, tr. 48-52.
2. Phan Lê Sơn, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Thị Thoa, Nguyễn Khánh Vân, Vũ
Ngọc Hiệu, Lưu Thị Ngọc Anh (2009), “Ảnh hưởng của tần suất siêu âm đến
kết quả thu tế bào trứng từ bò sống để tạo phôi in vitro”, Tạp chí khoa học
công nghệ chăn nuôi – Viện Chăn nuôi, số 21, tr. 53-58.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tiếng việt
1. Nguyễn Hữu Đức, Nguyễn Thị Ước, Lê Văn Ty, Quản Xuân Hữu,
Nguyễn Trung Thành, Bùi Linh Chi, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Thùy
Anh, Nguyễn Việt Linh, Bùi Xuân Nguyên (2003), Kết quả thụ tinh ống
nghiệm và cấy phôi ở bò lai Sind, Hội nghị công nghệ sinh học toàn quốc.
NXB khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, tr. 699-702.
2. Nguyễn Hữu Đức, Nguyễn Thị Ước, Bùi Xuân Nguyên (1996), Trạng
thái phát triển nhân tế bào trứng thu từ buồng trứng của bò nội Việt Nam,
Kỷ yếu Viện công nghệ Sinh học 1996.
3. Nguyễn Hữu Đức, Nguyễn Thị Ước, Lê Văn Ty, Bùi Linh Chi, Bùi Xuân
Nguyên (1998), Nghiên cứu chọn lọc tinh trùng bò dùng trong thụ tinh
ống nghiệm, Kỷ yếu Viện Công nghệ Sinh học 1998. NXB Khoa học và
Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 169 – 174.
4. Nguyễn Văn Lý (2006), Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả thụ
tinh trong ống nghiệm ở bò tại Việt Nam. Luận án tiến sỹ Nông nghiệp,
Viện Chăn nuôi, tr. 140-143.
5. Nguyễn Văn lý, Lưu Công Khánh, Nguyễn Thị Thoa, Phan Lê Sơn, Chu
Thị Yến, Nguyễn Thị Kim Anh, Vũ Ngọc Hiệu (2007), Nghiên cứu ứng
dụng kỹ thuật siêu âm hút tế bào trứng từ bò sống để tạo phôi trong ống
nghiệm. Tạp chí khoa học công nghệ chăn nuôi. Số 1, tr. 54-58.
6. Bùi Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Đức, Lê Văn Ty, Nguyễn Thị Ước
(1994), Kết quả bước đầu nghiên cứu nuôi trứng và thụ tinh in vitro trâu
bò, Kỷ yếu Viện Công nghệ Sinh học 1994. NXB Khoa học và Kỹ thuật,
Hà Nội, tr. 166-168.
7. Bùi Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Đức, Lê Văn Ty, Nguyễn Thị Ước
(1997), Khảo sát khả năng cung cấp trứng để thụ tinh in vitro: nghiên cứu
so sánh ở trâu và bò nội, Kỷ yếu Viện Công nghệ Sinh học 1997. NXB
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, tr. 510-517.
8. Nguyễn Thị Ước, Nguyễn Hữu Đức, Lê Văn Ty, Bùi Xuân Nguyên
(1996), Sự chín nhân ở tế bào trứng trâu đầm lầy nuôi in-vitro trong môi
trường M 199 có bổ sung FSH và estradiol-17B, Kỷ yếu 1996, Viện Công
nghệ Sinh học.
9. Nguyễn Thị Ước, Nguyễn Hữu Đức, Lê Văn Ty, Bùi Linh Chi, Hoàng
Nghĩa Sơn, Bùi Xuân Nguyên (1999), Sản xuất phôi bò bằng thụ tinh ống
nghiệm, Hội nghị Công nghệ Sinh học toàn Quốc. NXB Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội, tr. 934-936.
* Tiếng anh
10. Adams G. P. (1999), Comparative patterns of follicle development and
selection in ruminants, Journal of Reproduction and Fertility,
Supplememt 54: Reproduction in Domestic Ruminants IV, pp. 17-32
11. Adams G. P., Matteri R, L,, Ginther O. J. (1992), Effect of progesterone
on ovarian follicles, emergence of follicular waves and circulating
follicle-stimulating hormone in heifers, Journal of Reproduction and
Fertility, 95, pp. 627-640.
12. Adashi E. Y. (1996), The ovarian follicular apparatus, Reproductive
endocrinology, Lippincott-Raven Publisher, pp. 17 - 40
13. Ahmad N., Townsend E. C., Dailey R. A., Inskeep E.K. (1997),
Relationship of hormonal patterns and fertility to occurrence of two or
three waves of ovarian follicles, before and after breeding, in beef cows
and heifers, Animal Reproduction Science, 49, pp. 13-28.
14. AI - Katanani Y. M., Webb D. W., Hansen P. J. (1999), Factors affecting
seasonal variation in 90-day nonreturn rate to first service in lactating
Holstein cows in a hot climate, Journal of Dairy Science, 82, pp. 2611-
2616.
15. Al - Katanani Y. M., Paula-Lopez F. F., Hansen P. J. (2002), Effect of
season and exposure to heat stress on oocyte competence in Holstein
cows, Journal of Dairy Science, 85, pp. 390 - 396.
16. Ali A., Coenon K., Bousquet D., Sirard M. A. (2004), Origin of bovine
follicular fluid and its effect during IVM on the development competence
of bovine oocytes, Theriogenology, 62, pp. 1596-1606.
17. Alvarez B. A., Merchan L. H. (1986), Mouse primordial germ cells use
fibronectin as a substrate for migration, Experimental Cell Research, 165,
pp. 362-368.
18. Arlotto, T., Schwartz, J.L., First, N.L. and Leibfried-Rutledge, M.L.
(1996), Aspect of follicle and oocyte stage that affect in vitro maturation
and development of bovine oocytes. Theriogenology, 45, pp. 943-956
19. Arlotto T., Schwartz J.L., First N. L., Leibfried-Rutledge M. L. (1999),
Aspects of follicle andoocyte stage that affect IVM and development of
bovine oocytes, Theriogenology, 51, pp. 1128-1134.
20. Austin C. R. (1951), Observations on the penetration of the sperm into the
mammalian egg, Australian Journal of Scientific Resreach, 4, pp. 581-
596.
21. Bavister B. D. (1996), Culture of preimplantation embryos: facts and
artifacts, Hum Reprod Update, 1, pp. 91-148.
22. Bavister B. D., Rose-Hallekent T.A., Pinyopumitr T. (1992),
Development of IVM-IVF bovine embryos to morulae and blastocyst in
defined culture media, Theriogenology, 45, pp. 227-246.
23. Bearden H. J., Fuquay J. W. (2000), The female reproduction system,
Applied Animal reproduction, Prentice Hall, InC, pp 7-20.
24. Bedford J. M., Kim H. H. (1993), Cumulus oophorus as sperm
sequestering device in vivo, Journal of Experimental Zoology, 265, pp.
321-328.
25. Block, Chase C. C. Jr., Hansen P. J. (2002), Inheritance of resistance of
bovine preimplantation embryos to heat shock: relative importance of the
maternal versus payernal contributin, Molecular Reprodcution and
Development, 63, pp. 32-37.
26. Blondin P., Sirard. (1995), Oocyte and follicular morphology as
determining characteristics for developmental competence in bovine
oocyte, Molecular Reproduction and Development, 1, pp. 54-62.
27. Blondin P., Bousquet D., Twagiramunga H., Barnes F., Sirard. (2002),
Manipulation of follicular developmentally competent bovine oocytes,
Biology of reproduction, 66, pp. 38-43.
28. Bols P. E. J., Leroy J. L. M. R., Vanholder T., Van soom A. (2003), A
comparision of mechanical sector and a linear array transducer for
ultrasound-guided transvaginal oocyte retrieval (OPU) in the cow,
Theriogenology, 62, pp. 906-914.
29. Bols P. E. J., Van Soom A., Ysebaert M. T., Vandenheede J. M. M., De
Kruif A. (1996), Effects of aspiration vacuum and needle diameter on
cumulus oocyte complex morphology and developmental capacity of
bovine oocytes, Theriogenology, 45, pp. 1001-1014.
30. Bondioli K. R., Wright R. W. (1983), In vitro fertilization of bovine
oocytes by sperm capacitated in vitro, Journal of Animal Science, 57, pp.
1001-1012.
31. Brackett B. G., Oliphan G. (1975), Capacitation of rabbit spermatozoa in
vitro, Biology of Reproduction, 12, pp. 260-274.
32. Braw-Tal R., Yossefi S. (1997), Studies in vivo and in vitro on the
initiation of follicle growth in the bovine ovary, Journal of Reproduction
and Fertility, 109, pp. 165-171.
33. Buccione R., Schroeder A. C., Eppig J. J. (1990), Interactions between
somatic cell and germ cells throughout mammalian oogenesis, Biology
Reproduction, 43, pp. 543-547.
34. Byskov A. G., Hoyer P. E. (1994), Embryology of mammalian gonads
and ducts: in: The physiology of reproduction. E Knobil and JD Neil, Raven press Ltd., New York, 2nd edition, pp. 487-540.
35. Callesen H., Greve T., Christensen F. (1987), Ultrasounically guided
aspiration of bovine follicular oocytes, Theriogenology, pp. 27- 217.
36. Camargo L. S. A., viana J. H. M., Sá W. F., Ferreira A. M., Ramos A. A.,
Freitas C., Vale Fijho V.R. (2006), Development competence of oocytes
obtained from Bos Taurus and Bos indicus dairy cows raised in tropical
climate, Reproductive Fertilization and Develpoment, 18, pp. 243-244.
37. Campbell B. K., Scaramuzzi R. J., Webb R. (1995), Control of antral
follicle development and selection in sheep and cattle, Journal of
Reproduction and fertility, 49, pp. 335-350.
38. Chang M. C. (1951), Fertilising capacity of spermatozoa deposited into
the fallopian tube, Nature, 168, pp. 697-698.
39. Chaubal S. A., Ferre L. B., Molina J. A., Faber D. C., Bols P. E. J.,
Rezamand P., Tian X., Yang X. (2007), Hormonal treatments for
increasing the oocyte and embryo production in an OPU-IVP system,
Theriogenology, 67, pp. 719-728.
40. Chaubal S. A., Molina J. A., Ohlrichs C. L., Ferre L. B., Faber D. C., Bols
P.E., Riesen J.W., Tian X., Yang X. (2006), Comparison of different
transvaginal ovum pick-up protocols to optimize oocyte retrieval and
embryo production over a 10 - week period in cows, Theriogenology, 65,
pp. 1631-1648.
41. Danila H. (2000), Technical aspect of in vitro embryo production, Duran
embryo biotechnology laboratory carabao center. Nueva Ecij 3120
Philipines, pp. 1 -13.
42. De Felici M., Pesce M. (1994), Growth factors in mouse primordial germ
cells migration and proliferation, Progress in Growth Factor Research, 5,
pp. 135-143.
43. De Loos F., Kastrop P., Vanmaurik P., Vanbeneden T. H., Kruip T. A. M.
(1991), Heterologous cell contacts and metabolic coupling in bovine
cumulus oocyte complexes, Molecular Reproduction and Development,
28, pp. 255-259.
44. De Loos F., Van Vliet C., van Maurik P., Kuip T. A. M. (1989),
Morphology of immature bovine oocytes, Gamete Research, 24, pp. 197-
204.
45. De Roover R., Feuguang J. M., Bols P.E., Genicot G., Hanzen C. (2008),
Effects of ovum pick-up frequency and FSH stimulation: a retrospective
study on seven years of beef cattle in vitro embryo production, Reprod
Domest Anim, 43, pp. 239-245.
46. De Roover R., Genicot G., Leonard S., Bols P., Dessy F. (2005), Ovum
pick up and in vitro embryo production in cows superstimulated with an
individually adapted superstimulation protocol, Animal Reproduction
Science, 86, pp. 13-25.
47. Downs M. P. D., Bavister B. D. (1989), Direct contact is required between
serum albumin hamster spermatozoa for capacitation in vitro, Gamete
Research, 23, pp. 171-180.
48. Dyce K. M., Sack W. O., Wensing C. J. G. (1966), The Urogenital Apparatus. In: Veterinary Anatomy, W.B. Saunders company, 2nd edition,
pp. 169-208.
49. Dyce K. M., Sack W. O., Wensing C. J. G. (1987), The pelvic and
reproductive organs of the female ruminants, Philadelphia: W.B. Saunder
Company.
50. Edward, R. G. (1965), Maturation in vitro of mouse, sheep, cow, pig,
rhesus monkey and human ovarian oocytes, Nature, 196, pp. 349-351.
51. Edward, L. A., Batt, P. A., Gandolfi, F. and Gardner, D. K. (1997),
Modifications made to culture medium by bovine oviduct epithelian cells:
changes to carbohydrates stimulate bovine embryo development,
Molecular Reproduction and Development, 46, pp. 146-154.
52. Eppig J. J., Downs S. M. (1984), Chemical signals that regulate
mammalian oocyte maturation, Biol Reprod, 30, pp. 1-11.
53. Erickson B. H. (1965), Symposium on atomic energy in animal science:
Radiation effects on gonadal development in farm animals, Journal of
Animal Science, 24, pp. 568-583.
54. Erickson B. H. (1966a), Development and radio-response of the prenatal
bovine ovary, Journal of Reproduction and Fertiliry, 10, pp. 97-105.
55. Erickson B. H. (1966b), Development and senescence of the postnatal
bovine ovary, Journal of Animal Science, 25, pp. 800-805.
56. Espey L. L. (1994), Current status of the hypothesis that mammalian
ovulation is comparable to an inflammatory reaction, Biol Reprod, 50, pp.
233-238.
57. Fair, T., Hytell, P. and Greve, T. (1995), Bonvine oocyte diameter in
relation to maturational competence and transcriptional activity.
Molecular Reproduction and Development, 42, pp. 437-442.
58. Fischer A. E., Bernal D. P., Gutierrez-Robayo C., Rutledge J. J. (2000),
Estimates of heterosis for using reciprocal crosses in cattle,
Theriogenology, 54, pp. 1433-1442.
59. French-Constant C., Hollingsworth A., Heasman J., Wylie C. C. (1991),
Response to fibronectin of mouse primordial germ cells before, during
and after migration, Development, 113, pp. 1365-1373.
60. Fuhrer, F., Mayr, B., Schellander, K., Kalat, M. and Schleger, W. (1989),
Maturation competence and chromatin behaviour in growing and fully
grown cattle oocytes. Journal of Veterinary Medicine, 36, pp. 285-291.
61. Fukui Y., Ono H. (1989), Effects of sers, hormones and granulose cells
added to culture medium for in vitro maturation, fertilization, cleavage
and development of bovine oocytes, Journal of Reproduction and
Fertilization, 86, pp. 501-506.
62. Fukui Y., Sakama Y. (1980), Maturation of bovine oocytes cultured in
vitro. Relation to ovaries activity, follicular size and the presence or
absence of cumulus cells, Biology of Reproduction, 22, pp. 669-673.
63. Fukui Y., Sonoyama T., Mochizuki H., Ono H. (1990), Effects of heparin
dosage and sperm capacitation time on in vitro fertilization and cleavage
of bovine oocytes matured in vitro, Theriogenology, 34, pp. 579-591.
64. Furuya, Endo, Oba, Suzuki (1992), Protein phosphorilation regulates the
mouse sperm acrosome reaction induced by the zona pellucida, Journal of
Assisted Reproduction and Genetics, 9, pp. 384-390.
65. Galli C. (2003), Bovine embryo technologies, Theriogenology, 59, pp.
599-616.
66. Garcia A., Salahaddine M. (1998), Effects of repeated ultrasound-guided
transvaginal follicular aspiration on bovine oocyte recovery and
subsequent follicular development, Theriogenology, 50, pp. 575-585.
67. Garello C., Baker H., Rai J., Montgomery S., Wilson P., Kennedy C. R.
(1999), Pronuclear orientation, polar body placement, and embryo quality
after intracytoplasmic sperm injection and in vitro fertilization: further
evidence for polarity in human oocytes, Human Reproduction, 14, pp.
2588-2595.
68. Gibbons J. R., Beal W. E., Krisher R. L., Faber E. G., Pearson R. E.,
Gwazdauskas F. C. (1994), Effects of one versus twice weekly
transvaginal follicular aspiration on bovine oocyte recovery and embryo
development, Theriogenology, 41, p. 206.
69. Ginther O. J., Knopf L., Kastelic J. P. (1989), Temposal associations
among ovarian events in cattle during estrus cycles with two or three
follicular waves, Journal of Reproduction and Fertility, 108, pp. 271-279.
70. Goddard M. J., Pratt H. P. (1993), Control of events during early cleavage
of the mouse embryo: an analysis of the ‘2 - cell block’, Embryo Exp
Morphol, 73, pp. 111-133.
71. Godin I., Wylie C. C. (1991), TGFβ1 inhibits proliferation and a
chemotropic effect on mouse primordial germ cells in culture,
Development, 113, pp. 1451-1457.
72. Goodhand K. L,. Staines M. E,. Hutchinson J. S. M., Broadbent P. J.
(1999), In vivo oocyte recovery and in vitro embryo production from
doner aspirated at different frequencies or following FSH treatment,
Theriogenology,51, pp. 951-961.
73. Goodhand K. L., Staines M. E., Hutchinson J. S. M., Broadbent P. J.
(2000), In vivo oocyte recovery and in vitro embryo production from
bovine oocyte doner treated with progestagen, oestradiol, Animal
reproduction, 63, pp. 145-185.
74. Goovaerts I. G. F., Leroy J. L. M. R., Jorssen E. P. A., Bols P. E. J.
(2010), Noninvasive bovine oocyte quality assessment: Possibilities of a
single oocyte culture, Theriogenology, 74, pp. 1509-1520.
75. Gordon I. (1994), Laboratory production of cattle embryos, Wallingford,
UK: CAB international.
76. Gordon I., Lu K. H. (1990), Production of embryos in vitro and its impact
on livestock production, Theriogenology, 33, pp. 77-87.
77. Govan A. D. T., Black W. P. (1975), Ovarian morphology in
oligomennorrhea, European Journal of Obstrics, Gynecology and
Reproductive Biology, 5, pp. 317-326.
78. Hagemann L. J., Beauont S. E., Berg M., Donnison M. J., Ledgard A.,
Peterson A.J., Schurmann A., Tervit H.R. (1999), Development during
single IVP of bovine oocytes from dissected follicles: interactive effects
of estrous cycle stage, follicle size and atresia, Molecular Reproduction of
Development, 53, pp. 451-458.
79. Hamano S., Kawayama M. (1993), In vitro fertilization and development
of bovine oocytes recovered from the ovaries of individual doners: A
comparison between cutting and aspiration methods, Theriogenology, 39,
pp. 703-712.
80. Hanada A. (1985), In vitro fertilisation in goats, Japanese Journal of
Animal Reproduction, 31, pp. 21-26.
81. Handrow R.R., Lenz R. W., Ax R. L. (1982). Structural comparisons
among glycosaminoglycans to promote and accrosome reaction in bovine
spermatozoa, Biochemical Biophysiology, 107, pp. 1326-1332.
82. Hashimoto S., Takakura R., Minami N., Yamada M. (1998), Ultrasound-
guided follicle aspiration: Effect of the frequency of a linear transvaginal
probe on the collection of bovine oocytes, Embryo transplantation
laboratory of Snow brand milk products Co., Ltd., Tomakomai, Hokkaido
059-1365, Japan.
83. Hasler F. J. (2003), Current status and future of commercial embryo
transfer in cattle, Animal Reproduction Science, 79, pp. 245-264.
84. Hendriksen P. J. M., Steenweg W. N. M., Harkema J. C., Merton J. S.,
Bevers M. M., Vos L. A. M., Dieleman S. J. (2004), Effect of different
stages of the follicular wave on in vitro developmental competence of
bovine oocytes, Theriogenology, 61, pp. 909-920.
85. Hensleigh H. C., Hunter A. G. (1983), In vitro maturation of bovine
cumulus enclosed primary oocytes and their subsequent in vitro
fertilization and cleavage, Journal of dairy science, 68, pp. 1456-1462.
86. Hernandez-Ochoa I., Karman B. N., Flaws J. A. (2009), The role of the
aryl hydrocarbon receptor in the female reproduction system, Biochem
Phamacol, 77, pp. 547-559.
87. Heres A. A., Merton J. S., Haseleger W., Van A. M., Wagertendenke-
delecuw and Kemp B. (1996), Optimization of sperm oocyte ration during
IVF of bovine cumulus oocyte complexes, Theriogenology, 45, pp. 226.
88. Hirshfield A. N. (1991), The theca cells may be present at outset of
follicular grown, Biol Reprod, 44, pp. 1157-1162.
89. Hirshfield A. N., Desanti A. M. (1995), Patterns of ovarian cell
proliferation in rats during the embryonic period and the first three weeks
postpartum, Biology of Reproduction, 53, pp. 1208-1221.
90. Holland E. J., Bindon B. M., Piper L. R., Thimonier J., Cornish K. A.,
Radford H. M. (1981), Endoscopy in cattle: techniques for ovarian
examination by the paralumbar and midventral routes, Animal
Reproduction Science, 4, pp. 127-135.
91. Hoshi H. (2003), In vitro production of bovine embryos and their
application for embryo transfer, Theriogenology, 59, pp. 675-685.
92. Hunter R. H. F. (1985), Fertility in cattle: basis reasons why late
insemination should be avoided, Anamal Breeding, 53, pp. 83-87.
93. Ijaz A., Lambert R. D., Sirard M. A. (1994), in vitro cultured bovine
granulose and oviductal cells secrete sperm motility-maintaining factor(s),
Molecular Reproduction and Development, 37, pp. 54-60.
94. Imai K., Tagawa M., Yoshioka H., Matoba S., Narita M., Inaba Y.,
Aikawa Y., Ohtake M., Kobayashi S. (2006), The effiency of embryo
production by ovum pick-up and in vitro fertilization in cattle, Journal of
Reproduction and Development, 52, pp. 19-29.
95. Ireland J. J., Roche J. F. (1983), Development of non ovulation antral in
heifers: changes in steroid in follicular fluid and receptors for
gonadotropins, Endocrinology, 112, pp. 150-156.
96. Jaskowski J. M. (2001), Ovum pick up in cows, Medycyna Wet, 57, pp.
792-795.
97. Kajihara Y., Kometani N., Kobayashi S.. Shitanaka Y., Koshiba Y.,
Hishijama K., Shiraiwa K., Goto K. (1999), pragnancy rates and births
after co-culture of cumulus cells with bovine embryos derived from in
vitro fertilization of in vitro matured follicular oocytes, Theriogenology,
33, p. 264.
98. Kane M. T. (2003), A review of in vitro gamete maturation and embryo
culture and potential impact on future animal biotechnology, Animal
Reproduction Science, 79, pp. 171-190.
99. Khurana N. K., Niemann H. (2000), Effects of oocyte quality, oxygen
tension, embryo density, cumulus cells and energy substrates on cleavage
and morula/blastocyst formation of bovine embryos, Theriogenology, 54,
pp. 741-756.
100. Kochhar S. H., Kanwal P., Kochhar P., Parvathi K., Basrur, King W. A.
(2003), Influence of the duration of gamete interaction on cleavage,
growth rate and sex distribution of in vitro produced bovine embryos,
Animal Reproduction Science, 77, pp. 33-49.
101. Kruip Th. A. M., Boni R., Wurth Y. A., Roelofsen M. W. M., Pieterse
M.C. (1994), Potetial use ovum pick up for embryo production and
breeding in cattle, Theriogenology, 42, pp. 675-684.
102. Lambert R. D., Bernard C., Rioux J. E., Beland R., D’Amours D.,
Montreuil A. (1983), Endoscopy in cattle by the paralumbar rout:
technique for ovarian examination and follicular aspiration,
Theriogenology, 20, pp. 149-161.
103. Leibfried M. L., First (1979), Characterization of bovine follicular
oocytes and their ability to mature in vitro, Journal of Animal Science, 48,
pp. 76-86.
104. Leibfried- Rutledge M., Crister E. S., Parrish J. J., First N. L. (1989), in
vitro maturation and fertilization of bovine oocytes, Theriogenology, 31,
pp. 61-74.
105. Li F., Chen X., Pi Ư., Liu C., Shi Z. (2007), Collection of oocyte
through transvagianal ovum pick-up for in vitro embryo production in
Nayang Yellow cattle, Reprod Dom Anim, 42, pp. 666-670.
106. Ling Z. J., Lu K. H. (1990), Frequency of cleavage and development of
in vitro bovine oocytes fertilized in different numbers in drops with
different sperm concentrations, Theriogenology, 33, p. 275.
107. Lintern M. S. (1977), Initiation of follicular growth in the infant mouse
ovary by exogenous gonadotropin, Biology of Reproduction, 17, pp. 635-
639.
108. Lonergan P. (1992), Studies on the in vitro maturation, fertilization and
culture of bovine fillicular oocyte, PhD Thesis, National University of
Ireland, Dublin.
109. Lonergan P., Monaghan P., Rizos D., Boland M. P., Gordon I. (1994),
Efect of follicle size on bovine oocyte quality and development
competence following maturation, fertilization and culture in vitro,
Molecular Reproduction and Development, 37, pp. 48-53.
110. Lonergan P., Rizos D., Gutierrez A-Adan, Fair T., Boland M. P.
(2003), Oocyte and embryo quality: Effect of origin, culture conditions
and gene expression patterns, Reproduction of Domestic Animal, 38, pp.
259-267.
111. Lopez A. S., Martinussen T., Greve T., Callesen H. (2006), Effect of
days post-partum, breed and ovum pick-up scheme on bovine oocyte
recovery and embryo development, Reprod Domest Anim, 41, pp. 196-
203.
112. Lundy T., Smith P., O’ Connell A., Hudson N. L., McNatty K. P.
(1999), Populations of granulose cells in small follicles of the sheep
ovary, Journal of Reproduction and Fertility, 115, pp. 251-262.
113. Lussier J. G., Matton P., Dufour J. J. (1987), Growth rates of follicles
in the ovary of cow, Journal of Reproduction and Fertility, 81, pp. 301-
307.
114. Lu H. H., Seidel G. E., Chen M. (2004), Effects of heparin and sperm
concentration on cleavage and blastocyst development rates of bovine
oocytes inseminated with flow cytometrically-sortedsperm,
Theriogenology, 5, pp. 819-830.
115. Machado S. A., Reichenbach H. D., Weppert M., Wolf E., Goncalve P.
B. (2006), The variability of ovum pick-up response and in vitro embryo
production from monozygotic twin cows, Theriogenology, 65, pp. 573-
583.
116. Machatkova M., Jokesova E., Horky F., Krepelova A. (2000),
Utilization of the growth phase of the first follicular wave for bovine
oocyte collection improves blastocyst production, Theriogenology, 54, pp.
543-550.
117. Machatkova M., Krausova K., Jokesova E., Tomanek. (2004),
development competence of bovine oocytes: effects of follicle size and
the phase of follicular wave on in vitro embryo production,
Theriogenology, 61, pp. 329-335.
118. Mahl P. S., Adam G. P., Mapletoft R. J., Singh J. (2008),
Superovulatory response in a bovine model of reproductive aging, Anim
Reprod Sci, 109, pp. 1-4.
119. Manjunatha B. M., Gupta P. S. P., Ravindra J. P., Devaraj M., Nandi.
S. (2008), In vitro embryo development and blastocyst hatching rates
following vitrification of river buffalo embryos produced from oocytes
recovered from slaughterhouse ovaries or live animals by ovum pick-up,
Animal Reproduction Science, 104, PP. 419-426.
120. Manor D., Drugan A., Stein D., Pillar M., Itskovitz-Eldor (1999),
Unequal pronuclear size a powerful predictor of embryonic chromosome
anomalies, Journal of Assisted Reproduction and Genetics, 16, pp. 385-
389.
121. Mao J. W., Guangming M. F., Smith C., Cauely M. C., Cantely T. C.,
Prather B. A., Didion, Day B. N. (2002), Effects of culture medium,
serum type and various concentrations of FSH on Porcine prenatal
follicular development and antrum formation in vitro, Biological
Reproduction, 67, pp. 1197-1203.
122. Matthiesen M. (2011), Effect of donor age on the developmental
capacity of bovine cumulus oocyte complexes obtained by repeated OPU
from nonstimulated and FSH-superstimulated German Simmental heifers
and cows at different life cycle stages, phD, pp. 64-65.
123. Mendes J. O. B., Burns P. D., De La Tore-Sanchez J. F., Seidel G. E.
(2003), Effect of heparin on cleavage rates and embryo production with
four bovine sperm preparation protocols, Theriogenology, 60, pp. 331-
340.
124. Mermillod P., Wils C., Masip A., Dessy F. (1992), Collection of
oocytes and production of blastocysts in vitro from individual, slaughtered
cows, Journal of Reproduction and Fertilization, 96, pp. 717-723.
125. Merton J. S., Roos A. P. W., Mullaart E., Ruigh L., Kaal L., Vos P. L.
M., Dieleman S. J. (2003), Factors affecting oocyte quality and quantity in
commercial application of embryo technologies in cattle breeding
industry, Theriogenology, 59, pp. 651-674.
126. Miller D. J., Ax R. L. (1990), Carbohydrates and Fertilization in
animals, Molecular Reproduction and Development, 26, pp. 184-198.
127. Monniaux D., Monget P., Besnard N., Huet C., Pisselet C. (1997),
Growth factor and antral follicular development in domestic ruminants,
Theriogenology, 47, pp. 3-12.
128. Moreno J. F., Flores-Foxworth G., Westhusin M., Kraemer D. C.
(1993), Influence of pregnancy and presence of a CL on quantity and
quality of bovine oocytes obtained from ovarian follicles aspirated post-
mortem, Theriogenology, 39, p. 27.
129. Munne S., Cohen J. (1998), Chromosome abnormalties in human
embryos, Human Reproduction, 4, pp. 842-855.
130. Nagano M., Hishinuma M., Takagiri S., Takahashi Y. (2007), The
relationship between oocyte morphology and ovarian status in cattle,
Journal of Reproduction and Development, 53, pp. 953-958.
131. Bui Xuan Nguyen. (2006), Current status and trends of animal
reproductive biotechnology in Vietnam. Embryo transfer Newsletter,
Reprod. Fert.& Development, V4, No 2, pp. 5-10.
132. Numabe T., Oikawa T., Kikuchi T., Horiuchi T. (2000), Birth weight
and birth rate of heavy calves conceived by transfer of in vitro or in vivo
produced bovine embryos, Animal Reproduction Science, 64, pp. 13-20.
133. Otoi, T., Yamamoto, K., N., Tachikawa, S., and Suzuki, T. (1997),
Bonvine oocyte diameter in relation to developmental competence.
Theriogenology, 48, pp. 769-774.
134. Parrish J. J., First N. L. (1984), Effect of swim-up separation and
heparin pretreatment of frozen-thawed spermatozoa on in vitro
fertilization of bovine oocytes, Biology of Reproduction, 30, p. 112.
135. Paula-Lopes F. F., Chase Jr C. C., AI-Katanani Y. M., Krininger 3rd C.
E., Rivera R. M., Tekin S., Majewski A. C., Ocon O. M., Olson T. A.,
Hansen P. J. (2003), Genetic divergence in cellular resistance to heat
shock in cattle: differences between breeds developed in temperate verus
hot climates in responses of preimplantation embryos, reproductive tract
tissuses of lymphocytes to increased culture temperatures, Reproduction,
125, pp. 285-294.
136. Pavlok, A., Lucas-Hann, A. and Niemann, H. (1992), Fertilisation and
developmental competence of bonvine oocytes derives from defferences
categories of antral follicle. Molecular Reproduction and Development,
31, pp. 63-67.
137. Pawel A., Jaskowski J. M., Marcin J., Jan o. (2007), The influence of
vacuum pressure on quality and number of recovered oocytes aspirated
from ovarian follicles of swine and cows, Arch. Tierz., Dummerstorf, 50,
pp. 260-266.
138. Pawshe C. H., Palanisami A., Taneja M., Jain S. K. (1996),
Comparision of various maturation treatments on IVM of goat oocytes
and their early embryonic development and cell numbers,
Theriogenology, 46, pp. 971-982.
139. Picton H. M. (2001), Activation of follicle developmemt: the
primordial follicle, Theriogenology, 55, pp. 1193-1210.
140. Pieterse M. C., Kapen K. A., Kruip Th. A. M., Taverne M. A. M.
(1988), Aspiration of bovine oocytes during transvaginal ultrasound
scanning of the ovaries, Theriogenology, 30, pp. 751-762.
141. Rajakoski E. (1960), The ovarian follicular system in sexually mature
heifers with special reference to seasonal, cyclical, and left variations,
Acta Endocrinogica, 52, pp. 6-68.
142. Rehman N., Collins A. R., Suh T. K., Wright R. W. (1994), Effect of
sperm exposure time on IVF and embryo development of bovine oocytes
matured in vitro, Theriogenology, 41, pp. 1447-1452.
143. Reis A., Staines M. E., Watt R. G., Dolman D. F., McEvoy T. G.
(2002), Embryo production using defined oocyte maturation and zygote
culture media following repeated ovum pick-up (OPU) from FSH-
stimulated Simental heifers, Theriogenology, 72, pp. 137-151.
144. Rensis F. D., Scaramuzzi R. J. (2003), Heat stress and seasonal effects
on reproduction in the dairy cow-review, Theriogenology, 60, pp. 1139-
1151.
145. Rizos D., Burke L., Duffy P., Wade M, John F., Mee., Kevin
J.,O’Farrell., MacSiurtain M., Maurice P., Boland., Lonergan P. (2005),
Comparisons between nulliparous heifers and cows as oocyte doners for
embryo production in vitro, Theriogenology, 63, pp. 939-949.
146. Rita V., Reuben J., Mapletoft., Stefano A., Jaswant S., Gregg P.,
Adams. (2003), Morphology and developmental competence of bovine
oocytes relative to follicular status, Theriogenology, 60, pp. 923 – 932.
147. Rocha A., Randel R. D., Broussard J. R., Lim J. M., Blair R. M.,
Roussuel J. D., Godke R. A., Hansel W. (1998), High environmental
temperature and humidity decrease oocyte quality in Bos Taurus but not
in Bos indicus cows, Theriogenology, 49, pp. 657-665.
148. Rodriguez-Gonzalez E., Lopez-Bejar M., Velilla E., Paramino M. T.
(2002), Selection of prepubertal goat oocyte using the brilliant cresyl blue
test, Theriogenology, 57, pp. 1397-1409.
149. Rose T. A., Bavister B. D. (1992), Effect of oocyte maturation medium
on in vitro development of in vitro fertilized bovine oocyte maturation and
embryo development in vitro, Mollecular Reproduction and Development,
33, pp. 72-77.
150. Roth Z., Arav A., Bor A., Zeron Y., Brw-Tal R., Wolfenson D. (2001),
Improvement of quality of oocytes collected in the autumn by enchanced
removal of impaired follicles from previously heat-stressed cows,
Reproduction, 122, pp. 737-744.
151. Roth Z., Inbar G., Arav (2008), Comparison of oocyte
developmental competence and follicular steroid content of
nulliparous heifers and cows at diffent stages of lactation,
Theriogenology, 69, pp. 932-939.
152. Russe I. (1983), Oogenesis in cattle and sheep, Bibliotheca Anatomica,
24, pp. 77-92.
153. Saeki K., Nagao Y., Hoshil M., Nagai M. (1995), Effects of heparin,
sperm concentration and bull variation on in vitro fertilization of bovine
oocytes in a protein-free media, Theriogenology, 43, pp. 751-759.
154. Sagirkaya H. (2006), Developmental and molecular correlates of
bovine preimplantation embryos, Reproduction, 131, pp. 895-904.
155. Saitoh N., Kanagawa H., Shimihira I. (1995), Manual of bovine
embryo transfer, Japan Livestock Technology Association.
156. Sanbuissho A., Threfall W. R. (1985), The effect of estrous cow serum
on the maturation and fertilization of bovine follicular oocyte in vitro,
Theriogenology, 23, pp. 226.
157. Santos J. E., Cerri R. L., Sartori R. (2008), Nutritional management of
the donor cow, Theriogenology, 69, pp. 88-97.
158. Schellander K., Fayrer-Hosken R., Keefer C., Brown L., Malter H.,
Mcbride C., Brackett B. (1989), In vitro fertilization of bovine follicular
oocytes recovered by laparoscopy, Theriogenology, 31, pp. 927-933.
159. Schellander K., Fuhrer F., Brackett B. G., Korb B., Schleger W. (1990),
In vitro fertilization and cleavage of bovine oocytes matured in medium
supplemented with estrous cow serum, Theriogenology, 33, pp. 477-485.
160. Scott L., Alvero R., Leondires M., Miller B. (2000), The morphology
of human pronuclear embryo is positively related to blastocyst
development and implantion, Human Reproduction, 15, pp. 2394-2403.
161. Senger P. L. (1997), Embryogenesis of the pituitary gland and the male
and female reproductive system, Pathways to Pregnancy and Parturition,
pp. 58-76.
162. Shiora Y., Kywayama M., Fukushima M., Iwasaki S., Hanada A.
(1988), In vitro fertilization and cleavage capability of bovine follicular
oocytes classified by cumulus and matured in vivo, Theriogenology, 39, p.
312.
163. Sirard M. A., Coenon K. (1993), The use of a defined medium to
evaluate meiotic resumption of immature bovine oocytes, Theriogenology,
39, p. 314.
164. Sirard M. A., Leibfried-Rutledge M. L., Parrish J. J., Ware C., First N.
L. (1988), The culture of bovine oocytes to obtain developmentally
competent embryos, Biological Reproduction, 39, pp. 546-552.
165. Sirard M. A., Picard L., Dery M., Coenen K., Blondin P. (1999), The
time interval between FSH administration and ovarian aspiration
influences the development of cattle oocytes, Therigenology, 51, pp. 699-
708.
166. Sirois J., Fortune J. E. (1990), Lengthening the bovine estrus cycle with
low levels of exogenous progesterone: A model for studying ovarian
follicular dominance, Endocrinology, 127, pp. 916-925.
167. Smetanina I. G., Tatarinova L. V., Krivokharchenoko A. S. (2000), The
effect of composition of culture media on bovine oocyte maturation and
embryo development in vitro, Ontogenez, 31, pp. 139-143.
168. Smitz J. E. J., Cortvrindt R. G. (2002), The earliest stages of
Folliculogenesis in vitro, Reproduction, 123, pp. 185-202.
169. Stubbings, R. B., Walton, J. S. (1995), Effect of ultrasonically-guided
follicle aspiration on estrous cycle and follicular dynamics in Holstein
cows, Theriogenology, 43, pp. 705-712.
170. Su L., Yang S., He X., Li X., Ma J., Wang Y., Presicce G., Ji W.
(2009), Effect of donor age on the development competence of bovine
oocytes retrieved by ovum pick up, Reproduction in Domestic Animals,
25.
171. Sylvie Bilodeau-Goeseels and Paul Panich (2002), Effects of oocyte
quality on development and transcriptional activity in early bovine
embryos, Animal Reproduction Science, 71, pp. 143-155.
172. Takuma T., Sakai s., Ezoe D., Ichimaru H., Jinnouchi T., Kaeday Y.,
Nagai T., Otoi T. (2010), Efect of season and reproductive phase on
quality, quantity and developmental comprtence of oocytes aspirated from
Japanese black cows, Journal of reproduction and development, 56, pp.
55 – 59.
173. Tanaka Y., Nakada K., Moriyoshi M., Sawamukai Y. (2001),
Appearance and number of follicles and change in the concentration of
serum FSH in female bovine fetuses. Animal Reproduction, 121, pp. 777-
782.
174. Tanghe S., Vansoom A., Duchateau L., Nauwynck H., De Kruip A.
(2004), Carbonhydrates and glycoprotein involved in bovine fertilization
in vitro, Molecular Reproduction and Development, 68, pp. 492-499.
175. Techakumphu M., Lohachit C., Tantasuparak W., Intaramongkol C.,
Intaramongkol S. (2000), Ovarian response and oocyte recovery in
prepubertal swamp buffalo (Bubalus bubalis) calves after FSH or PMSG
treatment, Theriogenology, 54, pp. 305-312.
176. Tesarik J., Greco E. (1999), The probability of abnormal
preimplantation development can be predicted by a single static
observation on pronuclear stage morphology, Human Reproduction, 14,
pp. 318 - 323.
177. Townson D. H., Tsang P. C. W., Butler W. R., Frajblat M., Griel Jr. L.
C., Johnson C. J., Milvae R. A., Niksis G. M., Pate J. L. (2002),
Relationship of fertility to ovarian follicular waves before breeding in
dairy cows, Journal of Animal Science, 80, pp. 1053-1058.
178. Van Blerkom J. (1990), Occurrence and development consequences of
abberant cellular organization in meiotically mature oocytes after
exogeneous ovarian hyperstimulation, J. Electron Microsc, Technique, 16,
pp. 324-346.
179. Van Soom A. S., Tanghe I., de Pauw D., Maes, de Kruif (2002),
Function of the cumulus oophorus before and during mammalian
fertilization, Reprod. Dom. Anim, 37, pp. 144-151.
180. Viana J. H. M., Camargo L. S. A., Ferreina A. M., De Sa., Fernades C.
A. C., Junior A. P. M. (2004), Short intervals between
ultrasonographically guided follicle aspiration improve oocyte quality but
do not prevent establishment of dominant follicles in Gir breed (Bos
indicus) of cattle, Animal Reproduction Science, 84, pp. 1-12.
181. Viana J. H. M., Ferreira A. M., So W. F., Camagor L. S. A (2000),
Factors effecting recovery and quality of oocyte for bovine embryo
production in vitro using ovum pick-up technology, Theriogenology, 54,
pp. 433-446.
182. Viana J. H. M., Palhao M. P., Siqueira L. G. B Fonseca J. F., Camargo
J.S.A. (2010), Ovarian follicular dynamics, Follicle deviation, and oocyte
yield in Gyr breed (Bos indicus) cows undergoing repeated ovum pick-up,
Theriogenology, 73, pp. 966-972.
183. Wahid H., Gordon I., Sharif H., Lonergan P., Mongha P., Gallagher M.
(1992), Effect and efficiency of recovery methods for obtaining ovine
follicular oocytes for in vitro procedures, Theriogenology, 37, pp. 318.
184. Walsh, J. H., Montovani, R., Duby, R. T., Overstrom, E. W.,
Dobrinsky, J. R., Enright, W. J., Roche, J. F., Boland, M. P. (1993), The
effects of once or twice daily injections of pFSH on the superovulatory
response in heifers, Theriogenology, 40, pp. 313-322.
185. Ward F. A. P., Lonergan B. P., Enright M. P. (2000), Boland. Factors
affacting recovery and quality of oocytes for bovine embryo production in
vitro using ovum pick up technology, Theriogenology, 54, pp. 433-446.
186. Wandij S. A., Fortier M. E., Sirard M. A. (1992), Differential response to
gonadotropins and prostaglandin E2 in ovarian tissue during prenatal and
postnatal development in cattle, Biology of Reproduction, 46, pp. 1034-
1041.
187. Wolfenson D., Roth Z., Meidan R. (2000), Impaired reproduction in
heat-stressed cattle: basis and applied aspects, Animal Reproduction
Science, 60/61, pp. 535-547.
188. Yamada O., Abe M., Takehana K., Hiraga T., Iwasa K., Hiratsuka T.
(1995), Microvascular changes during the development of follicles in
bovine ovaries: a study of corrosion casts by scanning electron
microscopy, Arch Histol Cytol, 58, pp. 567-574.
189. Yang X., Kubota C., Suzuki H., Taneja M., Bols P. E., Presicce G. A.
(1998), Control of oocyte maturation in cows-biological factors,
Theriogenology, 49, pp. 471-482.
190. Yang Y. B., Lu K. H. (1990), The influence of bovine oocyte type on in
vitro fertilization and subsequent in vitro development, Theriogenology,
33, p. 355.
191. Younis A. I., Brckett B. G., Fayrer-Hosken R. A. (1989), Influence of
serum and hormones on bovine oocyte maturation and fertilization in
vitro, Gamete Research, 23, pp. 189-201.
192. Zeron Y. A., Ocheretny O., Keda A., Borochov D., Skla., Arav A.
(2001), Seasonal changes in bovine fertility: Relation to developmental
competence of oocytes, membrane properties and fatty acid composition
of follicles, Reproduction, 121, pp. 447-454.
193. Ziebe S., Petersen K., Lindenberg S., Anderson A. G., Gabrielsen A.,
Andersen A. N. (1997), Embryo morphology or cleavage stage: How to
select the best embryo for transfer after in vitro fertilization, Human
Reproduction, 12, pp. 1545-1549.
PHỤ LỤC
1. Dụng cụ và hóa chất
- Hệ thống siêu âm hút tế bào trứng gồm: màn hình siêu âm HS-2000,
HONDA, đầu dò siêu âm có đường dẫn kim hút tế bào trứng 7,5 MHz của
HBV-4710 MV, máy tạo áp suất FHK, Model 4, kim hút tế bào trứng 18 G,
COVA, và bình ổn nhiệt Fujihira của Nhật Bản.
- Các loại kính hiển vi soi nổi: Kính hiển vi vi thao tác Nikon TE 300; Kính
hiển vi soi nổi Wild M3B; Kính hiển vi soi nổi Leica MZ6; Kính hiển vi soi
nổi Olympus SD 30; Kính hiển vi Olympus CH30.
- Tủ nuôi cấy CO2 – Sanyo CO2 Incubator.
- Buồng vô trùng Labcaire.
- Cân phân tích Precisa.
- Máy li tâm Universal 32R.
- Bồn nước ổn nhiệt Memer Waterbath.
- Máy ổn nhiệt HT 50.
- Máy rửa dụng cụ bằng siêu âm.
- Tủ sấy khô SL Shel lab.
- Tủ sấy ẩm Sanyo Incubator.
- Tủ sấy áp suất Tomy autoclave SS-325.
- Máy đông lạnh CL – 2000.
- Buồng đếm Thoma.
- Pippetteman các cỡ: 100µl, 200 µl, 1000 µl.
- Các loại đĩa petri: Falcon disk, Grainer disk, Nunc disk.
- Pippete pasteur.
- Găng tay vô trùng, bơm tiêm 5 ml, kim tiêm 18G, microfilter 0,22 µm.
- Các loại hóa chất chuyên dụng:
Sucrose C12H22O11 196-00015 Wako Japan.
Disodium Hydrogenphosphate Na2HPO4 197-02865 Wako Japan.
D(+) – Glucose C6H12O6 041-00595 Wako Japan.
Potassium Dihydrogenphosphate KH2PO4 165-04242 Wako Japan.
Potassium Chloride KCl 163-03545 Wako Japan.
Sodium Hydrogen Carbonate NaHCO3 191-01305 Wako Japan.
Sodium Chloride NaCl 191-01665 Wako Japan.
Sodium Dihydrogen Phosphate Dihydrate NaH2CO3.2H2O 192-02815
Wako Japan.
Calcium Chloride Dihydrate CaCl2.2H2O 031-00435 Wako Japan.
Phenol Red Solution 0,5% P0290 Sigma.
Magnesium Chloride Hexahydrate MgCl2.6H2O 131-00162 Wako
Japan.
Ethylene Glycol C2H6O2 Prolabo Germany.
Glycerol Prolabo Germany.
Medium 199 3769 GIBCO.
BME Amino Acide Solution 50x B-6766 Sigma.
MEM Non-Essential Amino Acide Solution 100x 02380 GIBCO.
Penicilin G Potassium 200.000 Meiji Seika Kaisha LTD Tokyo Japan.
Novo-Heparin Pharmaceutical Products LTD V ventis Japan.
Streptomycin Sulphate 1g Meiji Kaisna LTD Tokyo Japan.
L-Glutamic Acid G-4815 Sigma.
Albumin, Bovine A-4378 Sigma.
Caffein Sodium Benzoate C-4144 Sigma.
L(+)-Lactic Acid L-4388 Sigma.
Albumin, Bovine A-7030 Sigma.
Sodium Pyruvate 199-03062 Wako Japan.
2. Chuẩn bị môi trường
2.1. Môi trường siêu âm hút tế bào trứng (mDPBS)
Pha môi trường PBS (-)
NaCl 8,0g
KCl 0,2g
1,15g Na2HPO4
0,2g KH2PO4
Nước cất khử ion 700ml
Pha môi trường PBS (+)
0,1g CaCl2
0,1g MgCl2.6H2O
Nước cất khử ion 200ml
Sau khi đã chuẩn bị xong, rót từ từ môi trường PBS (+) vào môi
trường PBS (-) để tránh kết tủa. Sau đó bổ sung thêm 100ml nước cất khử ion
để đủ 1000ml. Sau đó, bổ sung thêm 1,0 g glucose, 0,036 g Sodium pyruvate
sẽ được mDPBS. Sau đó lọc seize và bảo quản trong tủ lạnh. Để siêu âm hút
tế bào trứng sử dụng môi trường mDPBS bổ sung 2% heparin và 100.000iu
penicilin/ml + 100l streptomycin/ml.
2.2. Môi trường lọc và tìm trứng
Sử dụng môi trương mDPBS, bổ sung 5% huyết thanh bê mới sinh và
100.000iu penicilin/ml + 100l streptomycin/ml.
2.3. Môi trường nuôi thành thục tế bào trứng
TCM 199 47,5 ml
CS 2,5 ml
Penicilin-G 10.000IU (100IU/ml)
Streptomycin Sulfate 10mg (100µg/ml)
Bịt bằng parafil lắc đều nhiều lần ta được 50 ml môi trương nuôi, sau
đó lọc bằng microfilter
2.4. Môi trường BO để hoạt hóa tinh trùng, rửa tế bào trứng và thụ tinh in
vitro
2.4.1. Chuẩn bị dung dịch BO gốc (BO = Brackett và Oliphan)
Dung dịch A
NaCl 4,3092g
KCl 0,1974g
0,2171g CaCl2.2H2O
0,0840g NaH2PO4.2H2O
0,0697g MgCl2.6H2O
Phenol Red (dung dịch 0,5%) 0,1ml
Nước khử ion Thêm đủ 500ml
Dung dịch B
2,5873g NaHCO3
Phenol Red 0,5% 0,04ml
Nước khử ion Thêm đủ 200ml
2.4.2. Chuẩn bị môi trường BO
Dung dịch A 76ml
Na pyruvate 0,01375g
Penicilin 10.000IU
Streptomycin 10mg
Dung dịch B 24ml
Sau khi chuẩn bị xong, lọc bằng microfilter
2.4.3. Chuẩn bị môi trường hoạt hóa tinh trùng
Dung dịch BO 50ml
Na Caffein benzoate 0,1942g
Heparin (Novo-heparin: 5000IU/ml) 50 µl
2.4.4.Chuẩn bị dung dịch rửa tế bào trứng
Dung dịch BO 40ml
BSA 400mg
2.4.5. Dung dịch thụ tinh trong ống nghiệm
Dung dịch BO 10ml
BSA 200mg
2.5. Chuẩn bị môi trường nuôi phôi (CR1aa)
Dung dịch A
NaCl 6,7031g
KCl 0,2311g
Na Pyruvate 0,0440g
2,2011g NaHCO3
Phenol Red 5% 2ml
Nước cất khử ion Thêm đủ 760ml
Dung dịch B
Hemicalcium lactate 0,5996g
Nước cất khử ion Thêm đủ 200ml
Môi trường CR1aa
Dung dịch A 76ml
Dung dịch B 20ml
BME Essential Amino Acids 2ml
MEM Non Essential Amino Acids 1ml
L-Glutamic Acid (2mg/ml) 1ml
BSA 3mg/ml
Penicilin-G 10.000IU (100IU/ml)
Streptomycin Sulfate 10mg (100µg/ml)