intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ngộ độc cấp gardenal

Chia sẻ: Nuquai Nuquai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

163
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Có rất nhiều thuốc có thể gây ngộ độc như nhóm thuốc an thần gây ngủ, nhóm thuốc kích thích thần kinh trung ương, nhóm thuốc opioid... với nhiều lý do khác nhau dẫn đến ngộ độc, và mặc dù nhóm thuốc barbituric (gardenal) được quản lý và sử dụng theo quy chế thuốc độc nhưng vẫn còn không ít trường hợp đáng tiếc xảy ra. Vài nét về gardenal Barbituric được áp dụng trong y học từ 1903, trước năm 1970 do sử dụng barbituric quá liều đã gây ra khoảng 3.000 người chết ở Anh, do đó từ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ngộ độc cấp gardenal

  1. Ngộ độc cấp gardenal Có rất nhiều thuốc có thể gây ngộ độc như nhóm thuốc an thần gây ngủ, nhóm thuốc kích thích thần kinh trung ương, nhóm thuốc opioid... với nhiều lý do khác nhau dẫn đến ngộ độc, và mặc dù nhóm thuốc barbituric (gardenal) được quản lý và sử dụng theo quy chế thuốc độc nhưng vẫn còn không ít trường hợp đáng tiếc xảy ra. Vài nét về gardenal Barbituric được áp dụng trong y học từ 1903, trước năm 1970 do sử dụng barbituric quá liều đã gây ra khoảng 3.000 người chết ở Anh, do đó từ năm 1971
  2. người ta đã thay thế bằng cách dùng nhóm diazepam. Ở Việt Nam, barbituric vẫn là thuốc gây tử vong hàng đầu trong các trường hợp ngộ độc thuốc. Đây là một acid mạnh, dễ phân ly, dễ dàng hấp thu ở dạ dày qua đường uống, chuyển hóa ở gan, thải trừ qua thận. Trên thần kinh trung ương: thuốc có tác dụng ức chế thần kinh trung ương tùy theo liều sử dụng. Với liều thấp thuốc làm giảm lo lắng bồn chồn, tạo cảm giác thoải mái, dễ chịu, dễ dàng đi vào giấc ngủ. Liều trung bình, barbituric tạo giấc ngủ tương tự giấc ngủ sinh lý nhưng có nhiều giấc mơ. Liều trung bình và liều cao thuốc có tác dụng chống động kinh cơn lớn và động kinh cục bộ do ức chế sự phóng điện quá mức ở não, đồng thời làm tăng ngưỡng đáp ứng của các nơron thần kinh trung ương với kích thích. Trên các cơ quan khác: Ở liều điều trị, thuốc làm giảm nhẹ hoạt động của các cơ quan trong cơ thể. Ở liều cao, gây ức chế tim, hạ huyết áp, ức chế hô hấp, dễ gây rối loạn hô hấp; ngoài ra còn làm giảm hoạt động cơ trơn, giảm chuyển hóa, giảm thân nhiệt, giảm sức lọc cầu thận, giảm bài niệu, có thể gây vô niệu.
  3. Thuốc làm tăng cường tác dụng của các thuốc ức chế thần kinh trung ương khác, thuốc gây mê, rượu và đối kháng với các tác dụng kích thích thần kinh trung ương như niketamid, pentetrazol... Tuy nhiên, do khả năng gây ngộ độc cao, nên thuốc chỉ được chỉ định dùng trong một số trường hợp sau: Co giật, động kinh cơn lớn. Các trạng thái thần kinh bị kích thích lo âu, căng thẳng. Tăng bilirubin huyết, vàng da sơ sinh. Sử dụng làm thuốc tiền mê. Khi dùng thuốc, ngoài nguy cơ ngộ độc cấp, một vài tác dụng không mong muốn có thể xảy ra như buồn ngủ, ngủ gà, nhức đầu chóng mặt, lú lẫn, mất điều hòa động tác, rung giật nhãn cầu; cũng có thể gặp tác dụng khác thường như mất ngủ, kích thích, có cơn ác mộng, sợ hãi; đặc biệt khi dùng thuốc kéo dài sẽ xảy ra tình trạng quen thuốc (ngộ độc mạn), nếu ngừng thuốc đột ngột sẽ gặp hội chứng cai thuốc với các biểu hiện như mê sảng, co giật, mất ngủ, đau cơ khớp... Biểu hiện ngộ độc cấp như thế nào Hôn mê yên tĩnh, giảm phản xạ gân xương, không có dấu hiệu thần kinh khu trú, đồng tử co còn phản xạ ánh sáng, giai đoạn muộn thì đồng tử giãn.
  4. Suy hô hấp: Do gardenal ức chế thần kinh trung ương đặc biệt trung tâm hô hấp. Do hôn mê sâu gây tụt lưỡi, tắc đờm, viêm phổi do hít phải chất nôn và dịch vị. Rối loạn tuần hoàn: Gardenal ức chế thần kinh trung ương gây giảm tính thấm thành mạch gây hạ huyết áp, trụy mạch. Rối loạn điều hòa thân nhiệt: sốt cao hoặc hạ thân nhiệt. Thái độ xử trí Tại tuyến xã Mới uống, còn tỉnh: Gây nôn và cho uống than hoạt. Đã hôn mê: Không gây nôn, đặt nằm nghiêng an toàn chuyển đến bệnh viện gần nhất. Nếu ngừng thở, ngừng tim phải tiến hành cấp cứu ngừng tuần hoàn (ép tim, thổi ngạt). Tại tuyến huyện Nằm nghiêng tư thế an toàn. Rửa dạ dày bằng nước sạch có pha muối khi bệnh nhân đến sớm trước 6 giờ.
  5. Đặt đường truyền tĩnh mạch ngoại vi, truyền dịch, bổ sung nước và điện giải, dung dịch kiềm hóa máu, kết hợp với thuốc lợi tiểu. Nếu bệnh nhân hôn mê: phải đặt nội khí quản, thở máy. Xét nghiệm: tìm độc chất trong nước tiểu, dịch dạ dày. Nhanh chóng chuyển bệnh nhân lên tuyến tỉnh, trong quá trình vận chuyển phải chú ý đảm bảo hô hấp cho bệnh nhân bằng cách bóp bóng ambu + ôxy. Tại tuyến tỉnh Bệnh nhân tỉnh: Rửa dạ dày nếu chưa rửa ở tuyến huyện. Cho bệnh nhân uống than hoạt và thuốc nhuận tràng (sorbitol hoặc magiê sulfat). Bệnh nhân hôn mê: Đặt ống nội khí quản có bóng chèn, thông khí nhân tạo (bóp bóng hoặc thở máy). Điều trị rối loạn tuần hoàn bằng bổ sung nước điện giải, thăng bằng kiềm toan, sử dụng thuốc lợi tiểu, thuốc vận mạch nếu cần. Bảo đảm hô hấp, tuần hoàn mới tiến hành rửa dạ dày. Lọc máu ngoài thận nếu có suy gan, suy thận và nhiễm độc nặng, tùy theo điều kiện trang bị mà có thể sử dụng lọc thận nhân tạo hoặc lọc màng bụng. Điều trị hỗ trợ, nâng đỡ cơ thể, chống bội nhiễm, chống suy hô hấp, chống loét.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2