intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ngô Mạnh Lân

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

113
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngô Mạnh Lân 9 tháng 11, 1934 (77 tuổi) Sinh xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội Quốc tịch Việt Nam Ngô Mạnh Lân (sinh ngày 9 tháng 11 năm 1934) là phó giáo sư, tiến sĩ, họa sĩ, đạo diễn phim hoạt hình Việt Nam. Ông được trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1997 và giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ngô Mạnh Lân

  1. Ngô Mạnh Lân Ngô Mạnh Lân Tên khai Ngô Mạnh Lân sinh 9 tháng 11, 1934 (77 tuổi) xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Sinh Trì, Thành phố Hà Nội Quốc tịch Việt Nam Ngô Mạnh Lân (sinh ngày 9 tháng 11 năm 1934) là phó giáo sư, tiến sĩ, họa sĩ, đạo diễn phim hoạt hình Việt Nam. Ông được trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1997 và giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007. Mục lục 1 Tiểu sử và sự nghiệp  2 Đánh giá 
  2. 3 Tác phẩm  3.1 Phim hoạt hình o 3.2 Tranh o 3.3 Sách o 4 Chú thích  5 Liên kết ngoài  Tiểu sử và sự nghiệp Ông sinh năm 1934 tại xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông đến với mỹ thuật từ sớm. Năm 1950, khi mới 16 tuổi, ông tham gia khoá học đầu tiên của Trường Mỹ thuật Việt Nam ở chiến khu Việt Bắc do họa sĩ Tô Ngọc Vân phụ trách. Tốt nghiệp, ông vào phục vụ trong quân đội, từng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ và có nhiều kí họa kháng chiến. Hoà bình lập lại, năm 1956, ông được cử đi học khoa Đạo diễn hoạt hình tại Đại học Quốc gia Điện ảnh Liên Xô. Tốt nghiệp năm 1962, ông trở về nước làm việc tại Xưởng phim Hoạt họa búp bê Việt Nam, nay là Hãng phim hoạt hình Việt Nam. Năm 1963, ông cho ra mắt bộ phim hoạt hình đầu tiên mang tên Một ước mơ. Những bộ phim sau đó của ông ghi nhiều dấu ấn với công chúng và đạt nhiều giải thưởng như : Dế Mèn phiêu lưu ký, Chuyện ông Gióng, Trê cóc, Con sáo biết nói, Những chiếc áo ấm, Thạch Sanh, Rừng hoa, Bộ đồ nghề nổi giận, Bước ngoặt, Phép lạ hồi sinh,... Với những tác phẩ m này ông đã giành tổng cộng 3 giải Bông sen vàng, 4 giải Bông sen bạc,
  3. nhiều bằng khen của Ban giám khảo tại các kỳ Liên hoan phim Việt Nam và một số giải thưởng quốc tế như Bồ nông Bạc tại Liên hoan phim Hoạt hình quốc tế ở Mamaia (Romania) năm 1966 cho phim Mèo Con, Bồ câu Vàng tại Liên hoan phim quốc tế Leipzig, Cộng hòa Dân chủ Đức (1970) cho phim Chuyện ông Gióng. Với tổng cộng 17 bộ phim được thực hiên, ông là một trong những nghệ sĩ hàng đầu trong ngành điện ảnh hoạt hình Việt Nam. Ông từng giữ cương vị giám đốc Hãng phim hoạt hình Việt Nam, đồng thời nghiên cứu và giảng dạy về hoạt hình. Ngoài công việc đạo diễn, ông còn là một hoạ sĩ, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam (1982). Ông đã vẽ nhiều kí hoạ, tranh sơn dầu, hoạt hình, tranh cổ động, bìa tem, bìa sách, truyện tranh. Ông đã thực hiện hai cuộc triển lãm, lần đầu là vào năm 1971, lần thứ hai là vào tháng 11 năm 2006. Ngoài ra ông còn xuất bản một số cuốn sách về nghệ thuật hoạt hình. Tháng 3 năm 2007, Nhà xuất bản Mỹ thuật phát hành cuốn sách Ngô Mạnh Lân - chặng đường mỹ thuật 50 năm. Ông đã nhận được 6 giải thưởng về mỹ thuật (1 giải A triển lãm đồ họa - Hội nghệ sĩ tạo hình; 1 giải quốc gia về minh họa sách thiếu nhi - Bộ GDĐT và UNICEF; 2 giải nhất và 2 giải nhì về triển lãm áp phích - Bộ VHTT). Ông tốt nghiệp Phó tiến sĩ Nghệ thuật năm 1984 tại Liên Xô. Ông đã được trao tặng học hàm Phó giáo sư (1991) và danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1997. Năm 2007, ông nhận Giải thưởng Nhà nước cho các tác phẩm: Mèo con, Chuyện ông Gióng, Con sáo biết nói, Những chiếc áo ấm, Trê cóc. Ngô Mạnh Lân là một trong các nghệ sĩ điện ảnh Việt Nam có mặt trong Bách khoa toàn thư điện ảnh Liên Xô [1]. Năm 2008, ông là một trong 11
  4. nghệ sĩ điên ảnh được tôn vinh trong lễ kỉ niệm 55 năm thành lập ngành Điện ảnh Cách mạng Việt Nam. [2] Ông là người bạn đời của nữ diễn viên, NSUT Ngọc Lan. Ông bà có 4 người con mang tên Ngô Phương Lan, Ngô Phương Ly, Ngô Lê, Ngô Lâm. Người con gái cả Ngô Phương Lan hiện nay là tiến sĩ, nhà lí luận điện ảnh. [3] Đánh giá Ông đã có những trang khởi nghiệp thật sáng sủa, tràn đầy “ nhiệt huyết và thuyết phục. Nhìn những bức sơn dầu ông vẽ khi theo học ở Liên Xô hứa hẹn rất nhiều cho một cây bút tạo hình mạnh mẽ. Nhũng bức như: Bên bìa rừng(1957), Cảnh làng Tarutxa (1957), Nắng cuối hè (1959), Nhà thờ Sain Isaac(1959), Bà lão nông dân trong trang phục truyền thống Nga (1960)... đều rất ấn tượng. Nhưng 47 năm sau, đến bức Chiến sĩ Điện Biên (2000) dù vẫn vững vàng nhưng xem tranh thấy cảm xúc đã bị trôi dạt do ông quá cẩn trọng khi thể hiện. Đó là điều ông không hề mắc khi vẽ ở nước Nga . Năm tháng đã nhào nặn người nghệ sĩ với sức đè của những bước sóng siêu mạnh không nhìn thấy, nhưng đủ để biến dạng cả những cái định hình cả một thời tôi luyện. Cho nên khi giả định rằng khi về nước nếu ông tiếp tục với sơn với toan thì hôm nay sẽ có một Ngô Mạnh Lân khác, thì cũng chỉ là những suy nghĩ lãng mạn, mãi mãi là lãng mạn. Còn câu trả lời về kết quả của ” những năm tháng ông được đào luyện thì đã có, khi ông làm
  5. các phim như Dế mèn, Tết của mèo con, Thánh Gióng, Trê cóc... Đó là những phim thấm đẫm tinh thần phương Đông, đẹp cả về tạo hình và màu sắc, có thể xếp vào hàng kinh điển của thể loại phim hoạt hình của Việt Nam. —Đỗ Đức [4] Nếu như các tác phẩm ký họa đã khắc họa được cảm xúc trực “ diện, tươi nguyên, sống động cuộc sống một thời chiến tranh, một thời hòa bình, thực sự thức dậy những kỷ niệm sâu sắc và đẹp đẽ thì các tác phẩm sơn dầu, từ các nghiên cứu hình họa cho đến các tranh phong cảnh, sinh hoạt, chiến đấu nhuốm màu thời gian với nhiều chiều không gian, đã hàm chứa một phẩm chất nghệ thuật: hiện thực pha chất lãng mạn. Đó chính là phẩm chất nghệ thuật bền vững, chắp cánh cho các tác phẩm hoạt hình, tranh cổ động, tranh truyện, minh họa sách... dung dị mà gần gũi. ” —Thái Sơn - Báo Công an nhân dân [5]
  6. Nghệ thuật của Ngô Mạnh Lân là một nghệ thuật trong sáng, “ khoáng hoạt mà chừng mực, biểu lộ một cái nhìn lạc quan, dí dỏm, thoáng trào lộng nhưng không lộ liễu với một bảng mầu phong phú và giàu sắc nhị cùng với tạo hình một cách thông tuệ, vững vàng. ” —Trần Văn Cẩn [6] Tác phẩm Phim hoạt hình Ông đã thực hiện 17 bộ phim hoạt hình, trong đó có : Một ước mơ (1963)  Mèo Con (1965)  Con sáo biết nói (1967)  Những chiếc áo ấm (1968)  Chuyện ông Gióng (1970)  Rừng hoa (1974)  Thạch Sanh (1976) 
  7. Bước ngoặt (1982)  Trê Cóc (1993)  Bộ đồ nghề nổi giận  Phép lạ hồi sinh (1994)  Tranh Ký hoạ Bộ đội  Nữ dân quân  Mặt trận Ðiện Biên Phủ  Chuẩn bị đánh đồn A1  Quân và dân Nam Ðịnh đắp đê chống lụt  Tranh sơn dầu Ngày tiếp quản  Chiến sĩ Ðiện Biên  Nữ dân quân ngoại thành  Bà lão nông thôn Nga  Chiều vàng 
  8. Bên bìa rừng (1957)  Cảnh làng Tarutxa (1957)  Nắng cuối hè (1959)  Nhà thờ Sain Isaac (1959)  Sách Truyện tranh Dế mèn phiêu lưu ký - Lời Tô Hoài  Truyện trê cóc - Lời Tô Hoài  Tú Uyên  Cây tre trăm đốt - Lời Thảo Hương  Nghiên cứu Phim hoạt họa Việt Nam - Ngô Mạnh Lân, Trần Ngọc Thanh, NXB  Văn Hoá (1977). Hoạt hình nghệ thuật thứ tám: Vài nét về sự phát triển của nghệ thuật  hoạt hình thế giới và hoạt hình Việt Nam - NXB Văn hóa Thông tin (1999). Ngoài ra ông còn là tác giả minh họa nhiều bìa sách, tranh cổ động, và là tác giả của 2 bộ tem mang tên Kỷ niệm những ngày lịch sử của đất nước và Quan Âm Thị Kính [7]
  9. Chú thích ^ Nghệ sĩ điện ảnh Việt Nam trong Bách khoa toàn thư điện ảnh Liên 1. Xô ^ Kỷ niệm 55 năm ngành điện ảnh VN 2. ^ Văn hóa dạy con thành tài của vợ chồng nghệ sỹ 3. ^ Đỗ Đức Ngô Mạnh Lân-Một vài cảm nghĩ 4. ^ NSND Ngô Mạnh Lân: Nhìn lại và đối thoại với…chính mình 5. ^ Ngô Mạnh Lân - một hành trình nghệ thuật 6. ^ Con tem thật nhỏ bé, đạt đỉnh cao nghệ thuật không dễ dàng 7.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2