intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ngọn lửa tình người thắp lên giữa đêm đen cuộc sống cảm nhận Vợ nhặt của Kim Lân

Chia sẻ: Lan Zhan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:9

56
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cây bút truyện ngắn biệt tài Kim Lân đã chọn được một khoảnh khắc thời gian thật tiêu biểu để dựng nên tác phẩm, ấy là buổi chiều "nhá nhem" không chỉ vẩn lên mùi ẩm thôi, đi vào một đêm đen thỉnh thoảng vẳng ra tiếng hờ khóc tỉ tê, và tiến đến một buổi sớm mai mùa hè "sáng loá". Câu chuyện như một mảnh vẹn nguyên cuộc sống được xắn ra, vật lên trên trang giây - cuộc sống của những lao động Việt Nam xanh xám, vật vờ, tối đen trong giờ phút lụi tàn của xã hội thực dân phong kiến, chuẩn bị cho Cách mạng tháng tám năm 1945.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ngọn lửa tình người thắp lên giữa đêm đen cuộc sống cảm nhận Vợ nhặt của Kim Lân

Đề bài: Ngọn lửa tình người thắp lên giữa đêm đen cuộc sống cảm nhận Vợ nhặt <br /> của Kim Lân<br /> Bài làm<br /> "Đó là những người cầm bút có biệt tài có thể chọn trong cái dòng xuôi chảy một khoảng <br /> thời gian mà  ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một khoảnh <br /> khắc với một vài sự diễn biến sơ sài và cũng bình thường thôi, nhưng bắt buộc con người <br /> ở  vào một tình thế  phải bộc lộ  ra cái phần tâm can nhất, cái phần  ẩn náu sâu kín nhất, <br /> thậm chí có khi đó là khoảnh khắc chứa cả một đời người, một đời nhân loại...". Mỗi lần <br /> đọc và giảng truyện ngắn Vợ nhặt, tôi lại nhớ tới ý kiến rất sâu sắc ấy của nhà văn quá  <br /> cố Nguyễn Minh Châu. Quả vậy, cây bút truyện ngắn biệt tài Kim Lân đã chọn được một <br /> khoảnh khắc thời gian thật tiêu biểu để dựng nên tác phẩm, ấy là buổi chiều "nhá nhem" <br /> không chỉ vẩn lên mùi ẩm thôi, đi vào một đêm đen thỉnh thoảng vẳng ra tiếng hờ khóc tỉ <br /> tê, và tiến đến một buổi sớm mai mùa hè "sáng loá". Câu chuyện như  một mảnh vẹn  <br /> nguyên cuộc sống được xắn ra, vật lên trên trang giây ­ cuộc sống của những lao động <br /> Việt Nam xanh xám, vật vờ, tối đen trong giờ phút lụi tàn của xã hội thực dân phong kiến, <br /> chuẩn bị cho Cách mạng tháng tám năm 1945. Viết về xã hội cũ, song nhà văn không miêu <br /> tả  những bi kịch của kiếp người như  những cây bút hiện thực thời kỳ   ấy. Chọn thời <br /> điểm giáp ranh Cách mạng, cho tác phẩm ra đời năm 1962 trong tập truyện nổi tiếng Con  <br /> chó xấu xí, tác giả  Vợ  nhặt cũng không dùng giọng văn ngắn mang âm hưởng sử  thi ca <br /> ngợi. Ngòi bút Kim Lân hướng vào chuyện duyên kiếp, tình nghĩa của con người, tỏa hơi <br /> ấm từ tình người. Tình người ­ trước hết là ở những người lao động bé nhỏ, dưới đáy xã <br /> hội ­ đã được nhen nhóm, thắp sáng giữa đêm đen của cuộc sống.<br /> Chao ôi, cái đêm đen cuộc sống ở một xóm nghèo ven thành phố của những người ngụ cư <br /> mới khủng khiếp làm sao! Cái đói, cái chết hiện hình thành những rìu sắc, đường nét rõ  <br /> rệt, ngay trước mắt con người: đường vào tối om, bóng người đói với những khuôn mặt <br /> xanh xám đi lại dật dờ như những bóng ma ­ Cái đói, cái chết cất lên trong "tiếng quạ gào  <br /> từng hồi thê thiết trên mây cây gạo ngoài bãi chợ", trong tiếng "hờ khóc tỉ  tê" của những  <br /> gia đình vừa chôn cất người thân. Rồi nó "vẩn thành mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây <br /> của xác người", "mùi đốt đống rấm ­ đốt những vật dụng của người vừa chết ­ bốc lên  <br /> khét lẹt". Trong tiến trình văn học Việt Nam, nhiều nhà thơ  đã viết về  nạn đói: Phạm <br /> Đình Hổ  trong Vũ trung tuỳ  bút kể  chuyện mùa màng thất bát, cả  một vùng rộng lớn  ở <br /> Thái Bình lúa ngô chết rục, chỉ thấy chồn, cáo chạy nhông, đào bới...Nguyễn Du trong Sở <br /> kiến hành tả  cảnh một gia đình đói rách đi xin ăn... Và Thạch Lam, và Nguyễn Công <br /> Hoan, và Ngô Tất Tố... Song dường như chưa một ai đặc tả, cực tả rõ nét cái nạn đói năm  <br /> ất Dậu ­ 1945 ­  ở một thời gian cụ thể, một không gian đậm đặc như  Kim Lân đã làm.  <br /> Trong truyện Đôi mắt, năm 1948 Nam Cao cũng từng dự  cảm về  "Cái hồi đói khủng <br /> khiếp mà có lẽ đến năm 2000, đọc Vợ nhặt của Kim Lân, chúng ta không chỉ nghe lời kể <br /> của nhà văn mà như phải trực tiếp sống giữa cái thời điểm, cái nơi chôn đói nghèo ất Dậu  <br /> ấy, nhìn rõ cỏ cây, nhà cửa, bóng người, nghe rõ những tiếng quạ kêu, tiếng người khóc,  <br /> ngửi thấy mùi gây, mùi khét. Chúng ta không chỉ  "rùng mình", còn khiếp sợ, còn xót <br /> thương, ngột ngạt, tưởng chừng không sống nổi. Văn chương hay chính đây đích thực <br /> cuộc đời đang hiện về? Từng màu sắc, từng âm thanh, từng mùi vị... Một cảnh điêu tàn, <br /> rữa nát. Cái chết lan tràn, bao phủ. Đêm đen buông xuống. Đời người, kiếp nhân sinh <br /> giống như một đống tro tàn, lạnh ngắt.<br /> Vậy mà giữa bóng đen, giữa khí lạnh cuộc đời, hai kiếp người ­ anh con trai mệt mỏi bởi <br /> những lo lắng chật vật hàng ngày và chị con gái tả tơi, gầy sọp, xám xịt ­ đã tình cờ  gặp  <br /> nhau, cưới nhau, cùng nhau nhen nhóm ngọn lửa... Bắt đầu là Tràng, rồi cô vợ. Họ được <br /> cả  làng xóm dõi nhìn, cuối cùng được bà mẹ  chấp nhận bằng một tấm lòng ngọt ngào,  <br /> ấm áp. Họ sưởi ấm cho nhau, cùng thắp sáng ngọn lửa sự sống, ngọn lửa tình người. Lần <br /> theo từng dòng chữ từng đoạn văn trong Vợ nhặt, chúng la dễ dàng nhận ra ngòi bút tinh  <br /> tế  của nhà văn khi ông ­ như có chủ đích ­ đan xen những âm thanh thê thảm, đau xót và <br /> những tiếng nói, giọng cười vui vẻ tuế toái, đan xen những bóng đen, màu xám và những <br /> tia sáng, những ánh hồng. Câu chuyện được kể thật nhẹ nhàng, thấm thía, theo một trình  <br /> tự thời gian ngắn gọn từ chiều tà, vào đêm tối, đến sáng hôm sau và cũng theo một trình  <br /> tự của phép biện chứng tâm hồn, ánh sáng của niềm vui, hơi ấm của hạnh phúc gia đình, <br /> ngọn lửa tình người được nhen nhóm rồi thắp lên, để  cuối cùng "sáng lóa " trong ánh  <br /> nắng một rạng đông mùa hè ba kiếp người đói rách ngồi bên nhau chuyện trò, nghĩ đến  <br /> những người phá kho thóc Nhật cứu đói, hướng lời Việt Minh, tới những người nghèo đói <br /> ầm ầm kéo nhau đi, đằng trước có lá cờ đỏ to lắm, lá cờ đỏ bay phấp phới...<br /> Có thể nói cuộc gặp gỡ của đôi trai gái ­ anh cu Tràng và cô vợ ­ những phút đầu đúng là <br /> một câu chuyện tầm phào theo cách nghĩ của Tràng. Song, khi cả đôi anh chị cùng cất lời,  <br /> đưa mắt thì... dường như lửa và rơm đã bắt đầu bén Chỉ vừa nghe anh cái tiếng "Muôn ăn <br /> cơm trắng với giò...", chị  đã "nhà:  ơi"... rồi "liếc mắt cười tít". Tràng thích lắm. Từ  cha  <br /> sinh mẹ  đẻ  đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ  như  thế! Rồi hắn  <br /> toét miệng cười và cũng biết tình tứ  lại chẳng kém gì cô em: "Này, hãy ngồi xuống ăn  <br /> miếng giầu đã". Ai dám chê cái anh chàng đẩy xe bò đầu trọc nhẵn, lưng to rộng như <br /> lưng gấu này không có duyên! Song, giữa cái thời bên bờ vực chết đói này, duyên hay tình,  <br /> hay gì gì đi nữa trước hết phải là miếng ăn, là sự sống. Do đó sau khi biết đích xác chàng  <br /> trai có tiền, rồi lại được ăn liền một lúc bốn bát bánh đúc hai con mắt trũng hoáy của thị <br /> tức thì sáng lên, rồi ăn xong, thị  cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà, ngon!...  <br /> "Này, nói đùa chứ có về  ở với tớ  thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về...". Nói thế, Tràng  <br /> cũng tưởng là nói đùa, ai ngỡ thị về thật. Câu chuyện ái tình của họ được Kim Lân miêu  <br /> tả bằng một giọng văn tưng tửng, như bỡn cợt, đùa vui, song hoàn toàn không phải là bèo  <br /> bọt trăng gió vu vơ. Nó nghiêm túc, càng về sau càng nghiêm túc. Giữa thời thóc cao, gạo  <br /> kém, mỗi người chưa chắc đã nuôi nổi cái thân mình, họ  nhặt được nhau, rồi đưa nhau <br /> về, sau cái chặc lưỡi liều lĩnh, song táo bạo như một lời thách đố đã diễn ra. Hai anh chị <br /> đi bên nhau đàng hoàng cứ  hệt như chú rể  đưa cô dâu về  nhà chồng. Anh: nét mặt phởn <br /> phơ khác thường, tủm tỉm cười nụ và hai con mắt thì sáng lên lấp lánh. Chị: đầu hơi cúi,  <br /> cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất nửa mặt, rón rén e thẹn. Cả  làng xóm như <br /> bừng dậy. Trẻ  con hò reo, có đứa gào lên: "chông vợ  hài", người lớn bàn tán, hỏi han,  <br /> phán đoán. Những khuôn mặt u tối hốc hác bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Tiếng cười, nói,  <br /> tiếng mời gọi râm ran. Có một cái gì lạ  lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói tối tăm <br /> ấy của họ. Câu đố dường như dần dần được giải đáp, mặc cho làng khen chê, đàm tiếu, <br /> Tràng vẫn cứ vênh mặt lên tự đắc, lấy làm thích ý. Vì đến lúc này anh mới thực sự cảm <br /> nhận ý vị cuộc gặp gỡ tình cờ, cái ý định chớp nhoáng, táo bạo mà đúng đắn của mình. Đi  <br /> bên người đàn bà ngượng nghịu trước lời khen của ai đó: ''khéo mà vợ  anh cu Tràng thật,  <br /> trông ta e thẹn hay đáo để", Tràng như  quên hết những cảnh sống tăm tối hàng ngày. <br /> Trong lòng hắn bây giờ  chỉ  còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà ... Một cái gì mới <br /> mẻ, lạ  lắm, chưa từng thấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng. Đó là tình yêu? Là  <br /> hạnh phúc tuổi trẻ? Là ánh sáng đổi đời? Có lẽ là tất đối với hai kiếp người tối tăm, vờ <br /> vật, chắp nối lại cùng nhau để thành vợ, thành chồng. Cái giây phút quan trọng nhất của <br /> lời thách đố là lúc Tràng đi sát bên người con gái, ngẫm nghĩ một lúc, rồi giơ cao cái chai <br /> con lên khoe: ­Đầu tối thắp đây này... Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí  <br /> chứ, chẳng nhẽ  chưa tối đã rúc ngay vào, hì hì...". Tràng đã nói ra được cái ý nghĩa thô  <br /> mộc mà thiêng liêng nhất: "Vợ  mới, vợ miếc". Cô gái cũng đáp lại được bằng " một lời <br /> nói suồng sã nhất: "khỉ  gió", và một cử  chỉ  cởi mở  nhất "phái đánh đét vào lưng hắn",  <br /> khiến cho "hắn thích chí ngửa cổ cười khanh khách". Vậy là, những e thẹn, những rụt rè, <br /> ngượng nghịu của ái tình trai gái đã được bước qua để  tới ngưỡng cửa của quan hệ  vợ <br /> chồng rồi. Chuẩn bị cho ngày vui đón vợ mới, anh chẳng có bạc vàng, rượu thịt cao sang <br /> gì, chỉ có cái chai con đựng ít dầu thắp để... "cho nó sáng sủa một tí chứ"! vậy mà em vẫn <br /> khen "sang nhỉ" rồi lại chuyên răn anh "hoang nó vừa vừa chứ". Thật xót xa, mà cảm <br /> động, một cuộc rước dâu chỉ có hai người rách rưới, vêu vao đi bên nhau với một ít dầu <br /> thắp tối. Song cũng thật đàng hoàng, trịnh trọng, bởi vì họ  tự đến với nhau, tin cậy, hoà  <br /> hợp. "Đôi ta như lửa mới nhen, như trăng mới mọc, như đèn mới khêu". Cái mối tình dân <br /> dã của anh Tràng và cô vợ nhặt ngẫm ra cũng có ánh sáng, có lửa ấm đấy chứ!<br /> Khi hai vợ chồng về tới nhà, giới thiệu vợ với mẹ, anh cu Tràng nói: "Nhà tôi nó mới về <br /> làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng qua nó cũng là  <br /> cái số  cả...". Giọng tuy ngập ngừng, song lời lẽ thật chững chạc. Mỗi ch ữ m ỗi câu vừa <br /> ấm tình người vừa sâu nghĩa lý. "Nhà tôi làm bạn .. duyên ... kiếp... cái số  cả...",  ấy là  <br /> những ngọn lửa Tràng thắp lên ừa để sưởi ấm, vừa để soi sáng cái đầu óc chậm chạp già  <br /> nua của bà cụ Tứ. Với chính Tràng, ngọn lửa ấy cũng thắp sáng lên trong lòng một quyết <br /> tâm. Nói tới "duyên ­ kiếp" là chạm vào vùng thiêng liêng nhất trong mảnh đất của đôi <br /> gái, trai. "Duyên" là sự  hấp dẫn, lôi cuốn gọi mời, là tình yêu giữa hai người. "Kiếp" là <br /> đời sống cơ  cực cùng cảnh ngộ, cùng thuyền, cùng hội mà tạo hoá đẩy, trôi đến gần  <br /> nhau, cảm thông với nhau, rồi chia sẻ và thương nhau. Từ  câu chuyện "tầm phào" ở  bên <br /> đường bữa nọ, rồi tới lúc đưa cô  ả  đi qua ngõ xóm lời bỡn cợt "vợ  mới, vợ  miếc", giờ <br /> đây giữa mái ấm của căn nhà, trước mặt mẹ Tràng đã thực sự coi mối quan hệ giữa mình  <br /> với người con gái như có tiền định có lương duyên do trời sắp xếp, do đời run rủi, ràng <br /> buộc. Có thể khi nói, Tràng chưa nghĩ được những điều sâu xa như vậy, song cái cách anh  <br /> ta "tươi cười" mời mẹ "ngồi lên giường lên diếc chĩnh chện" rồi nhắc mẹ: "Nhà tôi nó <br /> chào u", rồi bước lại gần... vừa giới thiệu cô gái trong tư  cách "nhà tôi" vừa khẳng định  <br /> "duyên số" hai người trong giọng điệu rành rẽ, đứng đắn, ai nghe chẳng cảm động, đồng  <br /> tình. Vì vậy, bà cụ Tứ đã hiểu, hiểu việc con làm, hiểu ra, biết bao nhiêu cơ sự khác nữa. <br /> Bà mẹ nghèo khổ ấy vừa ai oán vừa xót thương cho đời mình, đời con. Bà thấm thía, tủi <br /> hờn về hoàn cảnh, về trách nhiệm mẹ trước việc trăm năm hạnh phúc của con cái., rồi bà  <br /> cảm động đăm đăm nhìn cô gái, như  chấp nhận, như  hàm  ơn: Người ta gặp bước khó <br /> khăn , đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ... Bà nhắc lại  <br /> ý con để nói với "nàng dâu mới": ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u  <br /> cũng mừng lòng". Con tin yêu mẹ. Mẹ già cũng tin yêu, tôn trọng dâu con. Mẹ  chồng và  <br /> nàng dâu mới trò chuyện thật cởi mở, thân tình. Bà mẹ  dạy con: "Vợ  chồng chúng mày  <br /> liệu mà bảo nhau làm ăn", phát ra một tương lai "rồi ra may mà ông giời cho khá...". Rồi  <br /> an  ủi, động viên: "con ngồi xuống đây cho đỡ  mỏi chân... cốt chúng mày hoà thuận là u  <br /> mừng rồi. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...". Đọng lại ở câu chuyện giữa hai <br /> kiếp người tuy khi nhau về tuổi tác mà thật giống nhau trong cảnh ngộ  làm người là  ở <br /> chỗ "thương", ấy là tình người, lòng bao dung nhân hậu của những người mẹ, người phụ <br /> nữ Việt Nam. Nói được những lời gan ruột ấy, hẳn bà cụ Tứ vơi đi biết bao đau khổ, giải <br /> toả  biết bao lo lắng, tủi nhục. Trái tim người mẹ  như  nghẹn lại. Nước mắt cứ  chảy  <br /> xuống ròng ròng. Phải chăng lúc đó là nước mắt của niềm vui, của hạnh phúc nhỏ  nhoi,  <br /> hạnh phúc được chia sẻ giãi bày? Khi thấy con trai đánh diêm đối đèn, bà cụ vội vàng lau  <br /> nước mắt, ngửng lên nói như reo: "Có đèn đây à? ừ  thắp lên một tí cho sáng sủa...". Một <br /> câu nói của nhân vật, một chi tiết thật đơn giản mà chứa đựng bao nhiêu ý nghĩa. Chắc  <br /> hẳn đã lâu lắm rồi căn nhà lụp xụp rách rưới của hai mẹ  con bà Tứ  không có ánh đèn.  <br /> Đêm buông xuống, bóng tối cũng ùa vào, che phủ. Chắc hẳn đã lâu lắm rồi, hai mẹ  con  <br /> sống lủi thủi, âm thầm, hết kiếm ăn ban ngày ở đầu đường góc chợ, đêm về nhà vật mình <br /> xuống vì mệt nhọc, chẳng cần đèn đóm, chuyện trò. Nay nhà có người mới:. con trai có <br /> vợ mới, mẹ già có nàng dâu mới, thắp đèn lên cho sáng sủa! Ngọn đèn, hay chính là ngọn  <br /> lửa của tình người mà ánh sáng đã được nhen từ  trong trái tim của mỗi con người?  ở <br /> Tràng, đó là ánh sáng từ  sự  ngẫu nhiên, tình cờ  đến một quyết tâm, một khát vọng,  ở <br /> người vợ nhặt, đó là ánh sáng của duyên kiếp, của cảnh ngộ, ngẫu nhiên mà như  số trời  <br /> ràng buộc, xe kết.  Ở bà cụ đó là ánh sáng của tình thương, lòng bao dung, nhân hậu. Họ <br /> nhắc nhau thắp lửa để... đêm tối "sáng lên một tí", để căn nhà toả ra hơi ấm, lòng người  <br /> có thêm chút lửa để  quyết sống, quyết vượt qua tao đoạn này ­ cái tao đoạn tăm tối đau <br /> thương nhất của đất nước bấy giờ. Có thể nói. nhà văn Kim Lân thắp vào giữa căn nhà bà <br /> cụ Tứ một ngọn lửa ­ dù chỉ là của ngọn đèn dầu, thứ của cải đắt đỏ bây giờ ­ đồng thời  <br /> thắp trong lòng mình, lòng người đọc một niềm vui, niềm tin yêu, trân trọng trước bản  <br /> lĩnh sống của con người ­ những con người trong tăm tối vẫn nhen nhóm và cố thắp sáng <br /> khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống cho ra con người, nên người.<br /> Nếu  ở  phần trước, các chi tiết, các sự  việc của câu chuyện diễn biến trong sự  lan xen  <br /> bóng tối và ánh sáng, thì đến phần sau, nhà văn dựng một không gian nghệ  thuật cả  bề <br /> mặt và chiều sâu, đầy ... ánh sáng, cả  khung cảnh và nhân vật đều tắm trong ánh sáng,  <br /> chan hoà ánh sáng, ánh sáng bừng lên như  một chuyển động tự  nhiên, vì nhà văn kể  về <br /> buổi sáng hôm sau. Song ánh sáng  ấy cũng đâu phải ngẫu nhiên. Nó biểu hiện một cảm  <br /> hứng lạc quan, nó soi tỏ  một ngày mới, một trang mới của tâm hồn, sự  sống mỗi nhân  <br /> vật, mỗi kiếp người. Nó cũng là kết quả đẹp đẽ của ngọn lửa tình người.<br /> Một buổi sớm mai đẹp đẽ xiết bao! Nắng mùa hè sáng loá. Nhà cửa, sân vườn được quét  <br /> tước thu dọn sạch sẽ  gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như  tổ  đỉa được đem ra hong  <br /> nắng. Hai cái ang nước vẫn để khô cong, nước đầy ăm ắp. Đống rác ngay lối đi đã được  <br /> hót sạch... Ngoài vườn người mẹ  đang lúi húi giẫy những búi cỏ  mọc nham nhở. Vợ <br /> Tràng đang quét sân, tiếng chổi kêu sàn sạt trên mặt đất... Tất cả như đang đổi thay, mới <br /> mẻ. Một nguồn sống mới, vui sướng, ngọt ngào của hạnh phúc gia đình trỗi dậy, tràn  <br /> ngập trong lòng. Anh cảm thấy mình đã "nên người", thấy thương yêu, gắn bó với căn  <br /> nhà, với những người thân, ý thức về sự "nên người" khiến cho Tràng trưởng thành, đổi <br /> thay cả  về tâm tính lẫn hành động. Anh thấy mình phải có bổn phận lo lắng cho vợ con  <br /> sau này. Anh xăm xắn chạy ra giữa sân, muốn làm một việc gì để góp phần tu sửa lại căn <br /> nhà. Người đàn bà ­ vợ  nhặt của Tràng cũng đã đổi thay, khác hẳn. Rõ là một người đàn <br /> bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở <br /> ngoài tỉnh. Rõ là người vợ  biết chăm sóc chồng lam làm vun vén cho cái tổ  ấm vừa xây  <br /> dựng. Nhìn ở đâu cũng thấy có bàn tay chị. Nhà cửa, sân vườn sạch sẽ, áo quần giặt giũ, <br /> ang nước đầy, cái bếp  ấm lửa. Nhà văn không miêu tả  chi tiết mà chỉ  phác qua một nét  <br /> nhẹ  nhàng bằng cảm nhận của Tràng ­ người chồng ­ hình  ảnh người vợ  vẫn hiện lên  <br /> thật đáng yêu. Bà cụ  Tứ  chợt thấy con giai, nhẹ  nhàng bảo nàng dâu: "Anh  ấy dậy rồi <br /> đây. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn". Vợ  Tràng đáp: "Vâng", rồi lẳng lặng đi vào trong <br /> bếp. Sự việc diễn ra thật đơn sơ mà thấm thìa làm sao! Mẹ chồng nàng dâu như đã sống  <br /> với nhau, gắn bó thương yêu, kính trọng nhau, thông thuộc việc nhà như  đã hàng chục  <br /> năm rồi. Cái nền nếp, gia phong như đã được đắp xây bền vững từ  lâu lắm rồi. Người  <br /> đàn bà ấy, đối với Tràng không còn là của "nhặt" được nữa, mà thực sự đã là "vợ" rồi, là  <br /> "nàng dâu" của mẹ anh rồi. Như vậy, chị ta cũng đã "nên người", xứng đáng "con người". <br /> Còn cụ Tứ  ­ người mẹ  nghèo khổ, chậm chạp, già yếu ­ cũng nhẹ  nhõm, tươi tỉnh khác <br /> ngày thường. Cái mặt bủng beo u ám rạng rỡ hẳn lên. Bà xăm xắn thu dọn, quét tước nhà <br /> cửa, sai bảo, dạy dỗ con dâu, nhắc nhở, động viên con trai. Tâm hồn người mẹ chan hòa  <br /> một nguồn sáng mới ­ nguồn sáng của niềm tin yêu, hy vọng.<br /> Ánh sáng của niềm tin yêu, hy vọng từ trong người mẹ, toả sáng đôi vợ  chồng mới. Vì  <br /> thế bữa cơm thảm hại của ngày đói ­ có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối  <br /> ăn với cháo loãng ­ cả nhà vẫn vui vẻ ăn rất ngon lành. Bà lão bàn chuyện ngăn bếp nuôi <br /> gà. "Khi nào có tiền, ta mua lấy đôi gà. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại chả  mấy mà có ngay <br /> đàn gà cho mà xem". Một đôi gà thoáng trong tích tắc đã hoá "đàn gà". Có một ông bụt, <br /> một bà tiên nào đã nhập vào lời bà cụ, hay chính bà cụ  đang hóa thành tiên, bụt để  đem  <br /> đũa thần biến những khổ đau, tăm tối của cuộc đời mình, cuộc đời dâu, con thành niềm  <br /> vui, ánh sáng? Nồi cám đắng chát nối sau hai lưng cháo loãng trong tay bà biến thành "cái <br /> này hay lắm cơ...", thành "chè đây, chè khoán đây". Hình  ảnh bà cụ  "lật đật chạy xuống <br /> bếp", rồi "lễ mễ bưng ra một nồi khói bốc nghi ngút", cùng cái cử chỉ "cầm muôi khuấy <br /> khuấy" múc từng bát cám và câu nói: "ngon đáo để... ngon đáo để..." được nhà văn đặc tả <br /> vừa như chân thực vừa như lãng mạn như trong một câu chuyện cổ tích vậy, cổ tích trong <br /> vẻ  đẹp của hình tượng nhân vật, song vẫn hiện đại, chân thực trong những từ  ngữ  đời <br /> thường chắt lọc, nhất là những từ  láy đặc sắc: lật đật, lễ  mễ, nghi ngút, khuấy khuấy,  <br /> ngon đáo để. Càng về cuối, câu chuyện càng giản dị, song vẫn bất ngờ, hấp dẫn, và thật  <br /> cảm động. Ngọn lửa tình người, ngọn lửa sự sống, niềm khao khát hạnh phúc, ấm no sự <br /> gắng gượng vui sống, niềm hy vọng ngày mai cuộc sống tốt đẹp hơn... cứ nóng dần, lan  <br /> tỏa trong từng chi tiết truyện, từng câu, từng chữ. Cuối cùng, từ chuyện gia đình, chuyện <br /> nồi cháo cám đắng chát mà vẫn "ngon đáo để", ba con người khốn khổ   ấy cố  quên đi <br /> những đắng chát trong túp lều nhỏ hẹp để lắng nghe tiếng vọng ở ngoài đời rộng lớn. Đó  <br /> là tiếng trống thúc thuế, còn phá cả kho thóc Nhật, chia cho người nghèo đói... Từ lời kể <br /> của vợ, Tràng như bừng tỉnh. Anh nhớ tới cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau <br /> đi trên đê Sập, đằng trước có lá cờ đỏ to lắm, lá cờ của Việt Minh dân đoàn người đi phá <br /> kho thóc chia cho người đói. Khi vợ  và mẹ  đứng dậy, Tràng vẫn còn mơ  màng nghĩ tới <br /> "đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...". Câu chuyện về những người nghèo đi phá  <br /> kho thóc Nhật chia cho dân ở nơi này, nơi kia, hình ảnh lá cờ đỏ hai lần hiện lên trong tâm  <br /> trí Tràng, phải chăng là một luồng sáng mới? Luồng khởi quang cách mạng đó, tuy ba con <br /> người nghèo khổ chưa nhận thức được rõ ràng song vẫn lung linh, chấp chới một dự cảm  <br /> ấm lòng. Nó nuôi dưỡng niềm tin cuộc sống. Nó thắp sáng thêm ngọn lửa tình người,  <br /> giục giã con người tiếp tục gắng gỏi vươn lên, xé tan màn đêm vây bủa để  đi tới một <br /> buổi mai của khát vọng làm người, khát vọng hạnh phúc. Chi tiết cuối cùng "lá cờ đỏ bay  <br /> phấp phới" như một vĩ thanh buông ngân từ tác phẩm một âm hưởng lạc quan. Cuộc đời <br /> chưa diễn ra,sóng ánh sáng hồng một đời mới như  đang  ở  ngay trước mặt, thắp trong  <br /> người đọc một niềm vui để càng thêm yêu và tin ở con người, ở tình người.<br /> Đặt trong tiến trình văn học hiện đại Việt Nam, có người tiếc cho Vợ  nhặt không chào <br /> đời cùng lúc với Tắt đèn, Chí Phèo, Bỉ  vỏ, hoặc đúng dịp Cách mạng tháng Tám năm <br /> 1945. Chúng ta được biết, nhà văn Kim Lân khởi thảo tác phẩm năm 1940, chắc đã thai  <br /> nghén những nhân vật, những tình huống chi tiết truyện sớm hơn nữa. Trải qua hai cái <br /> mốc lớn của dân tộc: cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống Pháp, <br /> qua sự trải nghiệm cuộc đời với độ lùi thời gian và độ chín của tư duy sáng tạo, nhà văn  <br /> mới hoàn thiện và công bố tác phẩm. Do đó tác phẩm có dáng hình giống những áng văn  <br /> hiện thực trước năm 1945, song âm hưởng khác hẳn. Nó không tăm tối, ngột ngạt đến bế <br /> tắc. Điều đặc sắc nhất  ở  ngòi bút Kim Lân là ông đã chọn được một khoảnh khắc của  <br /> mỗi đời người, của cả dân tộc mà cuộc sống đẩy con người vào một tình thế phải bộc lộ <br /> ra cái phần tâm can nhất, ẩn náu sâu kín nhất chứa đựng sức sống cả một đời người, một <br /> đời nhân loại. Tác phẩm Vợ nhặt vì thế, không chỉ có ý nghĩa của câu chuyện duyên kiếp  <br /> mà còn thấm thía một lẽ  sống  ở đời. Trong những lúc cuộc đời tăm tối nhất, con người  <br /> vẫn cố  gắng thắp sáng ngọn lửa tình người, ngọn lửa khát khao hạnh phúc.   m hưởng  <br /> ngân nga trong từng dòng, từng đoạn là hiện thực và lãng mạn đan xen, tiếng khóc và <br /> tiếng cười đan xen, bóng tối và ánh sáng giành giật, để  cuối cùng mở  ra một ngày sáng  <br /> loá, có ánh hồng của mặt trời, sắc đỏ  của lá cờ  Cách mạng. Cảm hứng nhân văn ­ tinh <br /> thương và niềm tin  ở con người, trước hết với nhân dân lao động ­ của Vợ  nhặt dường  <br /> như đã mang nét mới của thời đại, vương lên trên chủ nghĩa nhân văn trong dòng văn học  <br /> hiện thực trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Và điều đặc sắc nữa  ở  ngòi bút Kim <br /> Lân là giọng kể, những tình huống truyện trớ  trêu mà giản dị, thô mộc mà hấp dẫn, là <br /> những từ ngữ  dân gian mà giàu lính nghệ  thuật, là những chi tiết hiện đại mà như  trong  <br /> cổ tích. Biết đâu, các nhà từ điển ngày mai sẽ đưa từ mới "Vợ nhặt" ­ sáng tạo riêng của  <br /> Kim Lân ­ vào kho từ vựng văn chương hiện thực và nhân đạo Việt Nam. Và ... biết đâu,  <br /> sau này con cháu chúng ta sẽ đọc Vợ nhặt như đọc một truyện cổ tích ­ cổ tích về duyên  <br /> kiếp những con người đói khổ  có nồi cháo cám ăn mừng ngày nên vợ  nên chồng, có bà <br /> mẹ nghèo hiền hậu như một bà tiên, có lá cờ đỏ báo hiệu giấc mơ sắp thành hiện thực.<br />  <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2