A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tiếng Việt - ngôn ngữ quốc gia của Việt Nam, là tiếng mẹ đẻ của hơn 85% dân cư, từ khi ra đời tiếng Việt của chúng ta đã mang những bản sắc riêng, vẻ đẹp riêng và trong quá trình con người sử dụng đã làm giàu có thêm vốn tiếng Việt. Trước sự phát triển của xã hội và quá trình hội nhập ra thế giới, tiếng Việt cũng cần phải đổi mới hơn, đa dạng và phong phú hơn đáp ứng yêu cầu của thời đại. Tuy nhiên trong quá trình phát triển và hội nhập ấy, bên cạnh những sự sáng tạo đáng được công nhận vẫn còn tồn tại những bất cập về việc sử dụng ngôn ngữ, đặc biệt là hiện tượng sử dụng ngôn ngữ mạng xã hội tràn lan của giới trẻ hiện nay.
Với sự phát triển bùng nổ của công nghệ- thông tin, đây được xem là mảnh đất màu mỡ để để lệch chuẩn văn hóa ngôn ngữ có cơ hội phát triển. Bản thân giới trẻ, đặc biệt là lứa tuổi học sinh luôn có sự tò mò và hứng thú nhất định với thế giới mạng mang tên Internet - một thế giới ảo nơi mà lứa tuổi HS có thể thoải mái sử dụng chung một thứ ngôn ngữ riêng, thứ ngôn ngữ không đụng hàng mà chúng ta thường hay gọi nó là “ngôn ngữ tuổi teen”, “ngôn ngữ mạng xã hội”. Thật đáng báo động khi thứ ngôn ngữ này lại đang âm thầm len lỏi vào môi trường học đường, vào lời ăn tiếng nói hằng ngày một cách nhanh chóng. Nếu không có sự can thiệp kịp thời, chúng ta sẽ vô tình tiếp tay và vô tình hủy hoại đi sự trong sáng của ngôn ngữ nước mình.
Qua tìm hiểu thực tế, ở Việt Nam hiện nay, có đến hơn 68 triệu người sử dụng Internet (chiếm 70%) và 65 triệu người sử dụng mạng xã hội (chiếm 67% trong tổng số những người sử dụng Internet). Trong số 67% người dùng này, giới trẻ (bao gồm cả học sinh, sinh viên) chiếm hơn hơn 22 triệu người (34% và đang tiếp tục gia tăng). Điều đáng nói ở đây, việc sử dụng mạng xã hội ở sinh viên, học sinh rất ít bị kiểm soát bởi phụ huynh và nhà trường hay bất kì một cơ quan nào. Chính sự buông lỏng này đã tạo điều kiện cho những lệch chuẩn về văn hóa, đặc biệt là văn hóa giao tiếp bằng ngôn ngữ diễn biến theo chiều hướng tiêu cực và hết sức phức tạp. Việc sử dụng ngôn ngữ mạng cũng như nhiều loại ngôn ngữ pha tạp ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự trong sáng của tiếng Việt, tác động sâu sắc đến văn hóa giao tiếp trong xã hội. Những từ ngữ chuẩn mực với đầy đủ hàm ý và sự biểu đạt của nó không còn được sử dụng, thay vào đó là lớp ngôn ngữ lai căng, cẩu thả, tối nghĩa, dung tục được phổ biến. Điều này kéo theo mối nguy hại lớn, mối lo về nguy cơ biến dạng của ngôn ngữ và nền văn hóa dân tộc.
Lạc trong ngôn ngữ là nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa về nhân cách, gây nên lối sống buông thả, không còn tôn trọng pháp luật. Sự lệch chuẩn của ngôn ngữ giao tiếp đã gián tiếp làm nảy sinh những suy nghĩ sai lệch, gây ra những hành vi phạm tội trong giới trẻ. Không thể không kể đến sự thiếu chuẩn mực trong việc sử dụng ngôn ngữ như là một nguyên nhân gây ra mâu thuẫn, xung đột khi mà nhiều vụ ẩu đả dẫn đến án mạng cũng chỉ vì lời nói khó nghe, khó hiểu hoặc “thấy ghét” 1
của những thanh niên. Có thể thấy, ngôn ngữ mạng xã hội thực chất giống như con dao hai lưỡi, dùng nhiều sẽ thành quen, có thể dẫn đến việc giới trẻ chệch hướng, biến nó thành ngôn ngữ trong nhà trường, trong cơ bản.
Ngoài việc chịu ảnh hưởng của quá trình phát triển công nghệ, sự buông lỏng, thiếu sự quản lí chặt chẽ thông tin trên các phương tiện truyền thông của các nhà sản xuất cũng là nguyên nhân dẫn đến việc ngôn ngữ mạng xã hội trở nên phổ biến. Các phương tiện thông tin đại chúng trong xã hội gây ảnh hưởng không hề nhỏ đối với sự hình thành các giá trị thế giới quan, đạo đức của thế hệ trẻ. Những hiện tượng ăn theo sự kiện, vụ lợi các kênh truyền hình vô tình biến một hiện tượng lệch lạc trở thành trào lưu nóng, thu hút giới trẻ quan tâm và bắt chước, mà trong đó tiêu biểu là các bản nhạc, lời bài hát sử dụng từ ngữ thiếu chuẩn mực, chạy theo thời thượng. Tuy nhiên, yếu tố có ảnh hưởng sâu sắc nhất vẫn là chủ quan ở mỗi bạn trẻ, một bộ phận trong đó có lối sống bắt chước, học theo, đua đòi và thích thể hiện bản thân, học đòi theo xu hướng của thời đại. Hiện tượng này gióng lên hồi chuông cảnh báo về việc sử dụng ngôn ngữ mạng và sự cấp thiết của việc bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt trong thời đại nay.
Những năm vừa qua, việc đi sâu tìm hiểu về ngôn ngữ và biện pháp gìn giữ ngôn ngữ là một đề tài không hẳn mới, nhưng lại không bao giờ cũ. Tuy nhiên, tìm hiểu về ngôn ngữ mạng vẫn còn nhiều bất cập tồn tại, các biện pháp để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt vẫn chưa được áp dụng một cách triệt để.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi lựa chọn đề tài “Ngôn ngữ mạng xã hội của học sinh và một số giải pháp góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt tại trường THPT Lê Lợi” làm nội dung nghiên cứu của mình. Đề tài này là công trình nghiên cứu của tôi, chưa được cá nhân, tập thể và công trình giáo dục nào công bố trên các tài liệu, sách báo và diễn đàn giáo dục hiện nay.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Biện pháp tôi đưa ra giúp người sử dụng tiếng Việt, đặc biệt là HS hạn chế việc sử dụng ngôn ngữ mạng, tránh các lỗi trong diễn đạt. Mặt khác mục đích quan trọng vẫn là khắc phục tình trạng sử dụng từ ngữ bừa bãi, rèn luyện kỹ năng nói và viết thường xuyên, tránh nói sai, viết sai làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt. Từ đó xây dựng cho học sinh ý thức được sự quan trọng của việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, biết tôn trọng tiếng Việt, rèn luyện thói quen tư duy mạch lạc, rõ ràng, từ đó mà học tiếng Việt, sử dụng tiếng Việt có hiệu quả cao hơn.
III. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Đối tƣợng
- Ngôn ngữ mạng xã hội của HS
- Học sinh trường THPT Lê Lợi
2
2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này chỉ nghiên cứu ở đối tượng HS trường THPT Lê Lợi, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định vai trò và tầm quan trọng của đề tài nghiên cứu.
- Tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề về lí luận cũng như thực tiễn của đề tài.
- Đánh giá thực trạng sử dụng ngôn ngữ mạng và ngôn ngữ thiếu trong sáng hiện nay của học sinh THPT.
- Vận dụng các giải pháp nhằm khắc phục tình trạng sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng hiện nay.
- Nhận định kết quả thông qua việc đối chiếu, đánh giá kết quả trước và sau khi áp dụng đề tài trong quá trình giảng dạy của bản thân.
IV. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu lí luận
Xác định tầm quan trọng của việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, nên tôi đã đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu các vấn đề lí luận cũng như thực tiễn của đề tài. Tôi cũng xác định được vai trò và tầm quan trọng của đề tài tôi nghiên cứu.
2. Khảo sát thực tế
Từ việc khảo sát thực tế tại trường mình giảng dạy, trực tiếp tiếp xúc với hiện tượng học sinh sử dụng ngôn ngữ mạng thiếu trong sáng hàng ngày như nhắn tin điện thoại, bài kiểm tra và cách trình bày bảng, từ đó đánh giá thực trạng sử dụng ngôn ngữ mạng ảnh hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt hiện nay tại các trường THPT nói chung và tại trường THPT Lê Lợi nói riêng.
3. Phân tích, tổng hợp đánh giá kết quả
Qua kết quả nghiên cứu lí luận và phân tích thực tế, tôi tiến hành phân tích, tổng hợp đánh giá và đưa ra nhận định kết quả thông qua việc đánh giá, đối chiếu trước và sau khi áp dụng đề tài trong quá trình giảng dạy của bản thân tôi.
4. Nhận xét, sửa lỗi
Khi đã có kết quả từ việc khảo sát và đánh giá thực tế, tôi đã vận dụng các biện pháp nhằm khắc phục những tình trạng sử dụng ngôn ngữ thiếu trong sáng của học sinh, chỉ ra những lỗi mà các em thường mắc phải, từ đó tìm cách khắc phục từng lỗi cho các em.
V. CẤU TRÚC
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài tập trung vào một số vấn đề
như sau:
3
- Cơ sở của đề tài
- Các giải pháp thực hiện
- Khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi
- Triển khai thực hiện đề tài
VI. TÍNH MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Trên thực tế đã có những bài viết bàn về sự ảnh hưởng của ngôn ngữ mạng đến sự trong sáng của tiếng Việt. Tuy nhiên các bài viết đó mới chỉ dừng lại ở việc khảo sát hoặc đưa ra những biện pháp chung chung chứ chưa thực sự đề ra được một biện pháp hữu hiệu nào. Từ thực trạng sử dụng ngôn ngữ mạng thiếu trong sáng hiện nay của học sinh, trong sáng kiến này tôi đã đưa ra một số biện pháp mới giúp các em sử dụng đúng, sử dụng hay tiếng Việt khi giao tiếp với nhau cũng như trong học tập môn Ngữ văn. Các biện pháp tôi đưa ra phù hợp với lứa tuổi, trình độ của các em học sinh THPT, đặc biệt tạo ra những sân chơi vừa lành mạnh, vừa có ý nghĩa trau dồi vốn tiếng Việt cho các em. Từ đó góp phần mang lại những hiệu quả nhất định trong quá trình giảng dạy, giáo dục học sinh giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt nói riêng, phát huy vẻ đẹp tâm hồn tính cách, phẩm chất của con người Việt nói chung.
B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của tiếng Việt
Tiếng Việt là thứ ngôn ngữ có nguồn gốc bản địa, xuất thân từ nền văn minh nông nghiệp, thuộc nhóm Việt-Mường, họ Nam Á. Sự tiếp xúc với người Hán, tiếng Hán, văn hóa Hán trong suốt 1000 năm Bắc thuộc để lại dấu ấn sâu đậm và có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành ngôn ngữ. Từ năm 939, Việt Nam dành được độc lập tự chủ, mối quan hệ với tiếng Hán không còn là quan hệ trực tiếp nữa. Từ đây, tiếng Việt diễn biến theo quy luật nội tại, nó còn bắt cả kho từ ngữ gốc Hán diễn biến theo quy luật của mình.
Khi nước nhà dành được độc lập, người Việt sáng tạo ra chữ Nôm dựa trên nguyên tắc và cơ sở của tiếng Hán. Trong khi đó, sự hình thành chữ Quốc Ngữ gắn liền với sự truyền giáo của các giáo sĩ phương Tây. Sự áp đặt của chế độ thuộc địa Pháp bãi bỏ việc học, dùng chữ Hán, đưa đến sự thắng lợi của chữ Quốc Ngữ. Mặt khác, sự tiếp xúc với tiếng Pháp, ngôn ngữ Pháp đã dẫn đến hình thành nền báo chí Việt Nam bằng chữ Quốc Ngữ, nền văn chương Việt Nam hiện đại, sự đổi mới trong thơ ca, những tiếp thu về từ vựng, ngữ pháp.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công đã đưa lại địa vị “ngôn ngữ chính thức của quốc gia” cho tiếng Việt. Từ đó, tiếng Việt đã phát triển nhanh chóng, toàn diện, có ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả ngôn ngữ ở Việt Nam.
4
Sau năm 1975, sự phổ biến của các phương tiện truyền thanh và truyền hình trên toàn quốc đã làm tiếng Việt được chuẩn hóa. Nhiều từ thuần Việt được sử dụng phổ biến thay cho từ Hán Việt. Ngày nay tiếng Việt đang tiếp tục phát triển và làm giàu cho bản thân.
1.2. Khái niệm ngôn ngữ mạng
Ngôn ngữ mạng là loại ngôn ngữ do giới trẻ tạo ra khi tham gia vào mạng Internet và mạng điện thoại di động, thường được sử dụng trên các diễn đàn, mạng xã hội (facebook, instagram,zalo,…), các công cụ trò chuyện trực tuyến (yahoo, messenger,…), trong tin nhắn điện thoại (sms). Loại ngôn ngữ này đang được phổ biến trong giới trẻ, đặc biệt là lứa tuổi HS.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng sử dụng ngôn ngữ mạng của học sinh
Hiện nay, ngôn ngữ @, ngôn ngữ 9x hay còn gọi là ngôn ngữ tuổi teen đang tràn lan trên các kênh thông tin đại chúng. Một bộ phận không nhỏ trong giới trẻ đang sử dụng loại ngôn ngữ này như một phương tiện giao tiếp chính trong cuộc sống. Lướt một vòng vào các diễn đàn (forum), các trang nhật ký cá nhân (blog) hay thử tán gẫu (chat), chúng ta sẽ thấy tiếng Việt được HS thay đổi “tất tần tật” từ cách viết đến cấu trúc câu. Đúng là không khó để nhận ra việc tiếng Việt đang bị một bộ phận HS sử dụng một cách vô trách nhiệm, thậm chí bị bóp méo và xâm phạm đến đáng sợ, dẫn đến cách hiểu thứ ngôn ngữ chúng ta đang dùng hằng ngày “tựa như một mớ hổ lốn”. Bất cứ lúc nào HS cũng có thể chen ngôn ngữ nước ngoài vào, khiến cho ngôn ngữ Việt không ra Việt, tây không ra tây. Tôi đã làm một cuộc khảo sát bằng cách nhắn tin với học sinh của tôi và giật mình “tá hỏa” bởi một loại ngôn ngữ mới mà các em HS sử dụng chưa hề thấy trong từ điển. Chữ nghĩa được giản lược đến mức tối đa theo cách phát âm, viết tắt. Đơn cử như: “quá”, “quyển” được viết thành “wá, wyển”; “quen” thành “wen”; “quên” được viết thành “wên”; “yêu” giản lược thành “iu”;“luôn” thành “lun”; “buồn” thành “bùn”; “biết không”? thành “bitk?”; “biết rồi” thành “bít rùi”; “biết chết liên” thành “Bít chít lìn”; “mấy” thành “mí”… Hay những ký tự như: “ko,k” (không); “u” (bạn, mày), “ni” (nay), “en” (em), “m” (mày), “ex” (người yêu cũ), “t” (tao), “hem” (không),…
Theo khảo sát, có một số cách biến thể ngôn ngữ như sau:
* Xu hướng đơn giản hóa:
Đây là khuynh hướng phổ biến nhất mà bất kỳ một HS nào cũng mắc phải.
Một số kí tự HS thường dùng phổ biến qua tin nhắn điện thoại:
5
Ngôn ngữ gốc Ngôn ngữ mạng
(cười) haha Kaka
(cười) hihi Hjhj
h
Anh A
Ăn cơm ăn kum
Ba (cha) Papa
Bà xã Vx
Chà Ckàz
chảnh chó c2
Chào bye bye
Chắc Chắt
Chết Chjt
chia tay Ct
Chim Chym
Chịu Ckju
Cho Choa
Chó Tró
Chồng Ck
chúc ngủ ngon g9, chux ngủ ngon
* Xu hƣớng phức tạp hóa
- Sự phức tạp trước hết được thể hiện thông qua hàng loạt các biểu đạt tình cảm đi kèm.
Ví dụ:
:(( buồn
:) cười
:))))) rất buồn cười.
6
- Sự phức tạp còn được thể hiện trong cách trình bày cầu kỳ.
Ví dụ:
“Thiếu zắng a, e humz thể shống thêm 1 fút jây nào nữa”
(Thiếu vắng anh, em không thể sống thêm một phút giây nào nữa).
* Xu hƣớng tạo ra những lời nói cố định
Những câu HS hay sử dụng là:
Chảnh như con chó cảnh
Chán như con gián
Chuyện nhỏ như con thỏ
Biết chết liền
Đã xấu còn xa, đã si đa còn xông pha hiến máu
Bó tay chấm cơm
Buồn như con chuồn chuồn
Đẹp trai có gì là sai
- Khi những ngôn ngữ kia được chuyển thành văn bản với từng bước phát triển và sáng tạo thì chúng sẽ có hình dạng như sau:
Ngoi` pun` hok bjk lem` je^`, vo^ tinh` nghj~ den' anh, hok bjk jo` nay` anh dang lam j ta? (Tạm dịch là: Ngồi buồn không biết làm gì, vô tình nghĩ đến anh, không biết giờ này anh đang làm gì ta?)
* Xu hƣớng sử dụng ngoại ngữ một cách tùy tiện
Ví dụ:
+ “Con đang ở trường mà, đang làm nốt assignment, con send xong rồi về. Đợi con chút, con check lại xong rồi fone lại cho ba ngay”… Ở đầu dây bên kia, vị phụ huynh đang toát mồ hôi hột không kịp hiểu con gái cưng nói gì. Đệm tiếng Anh như một phần tất yếu trong giao tiếp của các bạn trẻ cho dù đôi lúc nó gây sự hiểu lầm, khó chịu của người nghe.
+ “Mày ok hay không ok cũng phải call lại cho nó chứ. Chẳng pro chút nào cả”
+ “Can” (có thể) chiều nay học xong tớ sẽ đi bơi. Cậu tham gia không?/Tớ “no” (không) biết.
Và còn vô vàn các biến thể khác của ngôn ngữ nữa. Có thể thấy, ngôn ngữ mạng xuất hiện mọi lúc, mọi nơi và dưới bất kì hình thức nào. Không thể phủ nhận được mức độ sử dụng rộng rãi và tính phổ biến của loại hình ngôn ngữ phi chính thức này.
Trong quá trình thực hiện sáng kiến này, tôi đã khảo sát việc sử dụng tiếng Việt của HS tại Trường THPT Lê Lợi (nơi tôi đang công tác) ở tin nhắn trên điện thoại. Sau đây là một số hình ảnh cho thấy hàng loạt những lỗi mắc phải của HS:
7
8
Để có cơ sở nhận xét về thực trạng sử dụng ngôn ngữ mạng của HS ở trường
THPT Lê Lợi như đã nêu trên, tôi đã tiến hành khảo sát HS trong trường.
Kết quả khảo sát HS:
Đối tượng khảo sát: HS trường THPT Lê Lợi
Số lượng khảo sát: 529 HS
Số lƣợng STT Nội dung khảo sát Tỉ lệ % trả lời
529 100% Em có thường xuyên sử dụng ngôn ngữ mạng không?
Thường xuyên 425 81,1%
1 Thỉnh thoảng 90 17,2%
Rất ít 14 1,7%
9
Lí do khi em sử dụng ngôn ngữ mạng? 529 100%
Thói quen, thích thú 186 35,17% 2 Thể hiện bản thân 159 30,2%
Học theo bạn bè 106 20,2%
Tiết kiệm thời gian 78 14,43%
Theo em việc sử dụng ngôn ngữ mạng có làm ảnh hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt không? 529 100%
3 Có 511 96,5%
Không 18 3,5%
Em có sử dụng ngôn ngữ mạng trong các bài kiểm tra không? 529 100%
4 Có 345 65,4%
Không 184 34,6%
Kết quả khảo sát này cho thấy, dù HS có ý thức được ảnh hưởng tiêu cực của ngôn ngữ mang đến sự trong sáng của tiếng Việt, nhưng ngôn ngữ này vẫn được các em HS lạm dụng và sử dụng hàng ngày. Đây cũng là một thực trạng đáng báo động trong giơi trẻ hiện nay.
2.2. Thực trạng kiểm tra, đánh giá, thi cử
Nhiều năm dạy học, qua các bài tập làm tại lớp hoặc các bài kiểm tra, tôi nhận thấy rất nhiều lỗi dùng từ và cách diễn đạt mà học sinh mắc phải. Các em đưa cả ngôn ngữ mạng xã hội thiếu trong sáng vào trong các bài kiểm tra. Trong đó lỗi cơ bản của các em vẫn là viết tắt, viết theo lối viết mà các em tự định ngầm với nhau. Điều đáng lo ngại là các em không ý thức được những lỗi đó có ảnh hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt. Việc chấm bài của các em trở nên khó khăn hơn rất nhiều vì ngoài việc xem xét nội dung của bài viết, GV còn phải dành nhiều thời gian để sửa lỗi chính tả cho các em. Thậm chí giáo viên đôi lúc không thể hiểu các em đang diễn đạt điều gì trong câu văn đó. Hơn nữa lỗi này không chỉ ở một số bài mà hầu hết các em HS đều mắc phải. Sau đây là hình ảnh một số bài kiểm tra của các em:
10
11
3. Nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng của học sinh trung học phổ thông hiện nay
Nguyên nhân khách quan
Xã hội ngày càng phát triển, lối sống phương Tây ồ ạt tràn vào Việt Nam. Giới trẻ là những người nhạy bén nhất. Họ học tập, sáng tạo, áp dụng và làm ra cái mới để thể hiện mình. Tuy nhiên, vì còn trẻ nên các em chưa khẳng định được việc thể hiện mình như vậy là đúng hay sai, các em muốn thay đổi nhưng chưa biết cách thay đổi như thế nào cho phù hợp.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tế đó là trong chính tả của tiếng Việt vẫn còn tồn tại sự bất hợp lý khi sử dụng nhiều ký hiệu để biểu thị cùng một âm vị: k,q, c cùng để biểu thị âm vị / k/; hay z, d, gi cùng để biểu thị âm /z/v.
* Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất: do sự giảm sút tình yêu tiếng Việt, ý thức giữ gìn và bảo vệ sự
trong sáng của tiếng Việt không được coi trọng.
Thứ hai: do xu hướng lai căng, sính ngoại, thích “hiện đại”, thích được thể hiện cá tính của giới trẻ. Tâm lý “thích sành điệu, thích được xem là dân chơi, là đẳng cấp”, một số người thường thích thể hiện sự “uyên bác” bằng cách diễn đạt 12
pha trộn nhiều tiếng nước ngoài, hay diễn đạt khó hiểu, dùng các từ nước ngoài một cách không cần thiết…
Thứ ba: do sự thiếu hụt những tri thức cơ bản về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng. Đời sống hiện đại khiến cho những người không biết nghĩa của các từ tố Hán Việt ngày càng nhiều, dẫn đến việc dùng sai tiếng Việt. Ví dụ: từ “cứu cánh” nghĩa là mục đích (hay mục đích cuối cùng), song hiện nay rất nhiều người hiểu là “cứu giúp” hay “giải thoát”, “giải pháp”.
Thứ tư: do cách giao tiếp, ứng xử thiếu văn hóa của một bộ phận không nhỏ học sinh như: nói tục, chửi bậy, dùng từ, đặt câu không đúng nghĩa, không phù hợp với hoàn cảnh, nội dung, mục đích giao tiếp... Thứ năm: do việc tiếp xúc thường xuyên với cách sử dụng ngôn ngữ một cách tùy tiện của những bài viết không chuẩn mực trên mạng, sự dễ dãi, vô nguyên tắc trong sử dụng ngôn ngữ, sự lạm dụng các yếu tố ngoại ngữ, khẩu ngữ, cách diễn đạt để gây “ấn tượng”, “giật gân”… Từ những thực trạng trên, tôi đã nghiên cứu và mạnh dạn đề ra một số biện pháp để góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Đề tài này không chỉ giúp các em HS giữ gìn được tiếng Việt mà còn tạo ra nhiều sân chơi lành mạnh, bổ ích phát huy năng lực của các em. II. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 1. Sự trong sáng của tiếng Việt
Chúng ta nên hiểu như thế nào là "trong sáng"? Trong sáng chính là sự trong trẻo, sáng rõ, không một chút vẩn đục. Trong sáng có nghĩa là ở trạng thái giữ được bản sắc tốt đẹp, không có hiện tượng pha tạp, tạp nham, hoàn toàn lành mạnh. Sự trong sáng trong tiếng Việt là một vấn đề rất rộng mở, bao hàm tất cả những gì liên quan đến việc sử dụng và có ảnh hưởng đến tiếng Việt. Bản chất vốn có của tiếng Việt như thế nào và việc sử dụng đúng bản chất đó ra sao thì đó chính là sự trong sáng của tiếng Việt.
Một trong những nét trong sáng đầu tiên của tiếng Việt chính ở hệ thống chuẩn mực và quy định về việc sử dụng tiếng Việt, từ việc sử dụng chữ viết, phát âm, từ ngữ, ngữ pháp, cho đến phong cách ngôn ngữ đều có những quy tắc chung. Mỗi chữ viết có cách viết và cách phát âm khác nhau, có thể ghép với nhau theo quy tắc để tạo nên những từ mới. Mỗi câu đều có cấu trúc ngữ pháp nhất định và mang phong cách ngôn ngữ phù hợp với bối cảnh sử dụng, tất cả điều đó cấu thành sự trong sáng của tiếng Việt.
Thứ hai, tiếng Việt là ngôn ngữ của chúng ta, do ông cha ta là người sáng lập nên, gắn liền với bản sắc văn hóa của dân tộc, sự trong sáng trong tiếng Việt chính là không có sự pha tạp, việc sử dụng hay mượn từ của nước ngoài phải có chọn lọc, phải phù hợp và có chừng mực, không lạm dụng các từ nước ngoài, tuy nhiên ở trong mỗi hoàn cảnh phải biết dung nạp những yếu tố tích cực để làm giàu, đa dạng hơn vốn tiếng Việt.
13
Thứ ba, việc sử dụng ngôn ngữ chính là đang sáng tạo ngôn ngữ, tiếng Việt trong quá trình sử dụng được con người sáng tạo với muôn màu muôn vẻ khác nhau, tuy nhiên sự sáng tạo đó phải nằm trong quy củ, phải tuân theo những quy tắc chung, đảm bảo tính chuẩn mực và hệ thống của tiếng Việt. Không thể sáng tạo một cách nhố nhăng, vô tổ chức, cái sáng tạo phải hướng đến đóng góp cho sự bền vững và phát triển của tiếng Việt. Ngôn ngữ nào cũng vì một mục đích chung đó là giao tiếp trong xã hội loài người, chính vì vậy, nó phải đảm bảo những chuẩn mực đạo đức chung của con người. Đối với tiếng Việt, tính lịch sự, văn minh chính là một trong những nét trong sáng của thứ ngôn ngữ này.
Thứ tư, trong xã hội có bao nhiêu lứa tuổi, bao nhiêu thành phần, tầng lớp và phân chia vai vế thì ứng với đó là có bấy nhiêu cách xưng hô phù hợp. Sự phù hợp trong cách xưng hô không chỉ để nhận dạng mà còn đảm bảo tính nhân văn, tình cảm giữa con người. Không chỉ riêng trong cách xưng hô mà toàn bộ việc sử dụng tiếng Việt cũng phải đảm bảo lịch sự, có văn hóa, thể hiện ở cách điều chế cảm xúc, biết khiêm nhường, lễ độ và nói năng từ tốn, đặc biệt là biết nói lời xin lỗi, cảm ơn.
2. Một số giải pháp góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt
2.1. Trong dạy học môn ngữ văn
2.1.1. Qua hoạt động xây dựng đề kiểm tra và đánh giá
2.1.1.1. Xây dựng đề kiểm tra
Giáo viên có thể xây dựng thành những đề đọc hiểu, đề văn nghị luận xã hội về hiện tượng sử dụng ngôn ngữ của chính giới trẻ hiện nay. Từ đó các em nhận thức được rõ hơn hiện trạng sử dụng tiếng Việt của chính bản thân mình, nhận thức được giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt không chỉ là vấn đề của mình mà đó còn là điều cả cộng đồng đang hướng tới. Biện pháp này tác động trực tiếp đến các em HS ở chiều nhận thức. Khi đọc và làm các bài kiểm tra liên quan đến vấn đề ngôn ngữ và việc sử dụng ngôn ngữ của giới trẻ, HS từ chỗ nhận thức đến thực hành ngay trên chính bài làm của mình. Sau đây là một số đề kiểm tra 15 phút và kiểm tra định kì mà tôi đã tiến hành kiểm tra đánh giá tại các lớp tôi giảng dạy. Tôi nhận thấy các em đã làm bài tốt, ý thức được nét đẹp của ngôn ngữ tiếng Việt. Đây cũng là cách để đưa các em trở về với ngôn ngữ mẹ đẻ giàu đẹp - tiếng Việt.
MỘT SỐ ĐỀ KIỂM TRA MINH HỌA
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ I NĂM HỌC 2022 - 2023
Phần 1: Đọc - hiểu (3 điểm)
Đọc văn bản và thực hiện các yêu ở dƣới:
hư chữ viết v n tr n tiến n i
Vần tr n c o êm cá l n s o mờ
14
i tiến Việt như ất c y như l
n tre n v m m mại như t
Dấu huy n trầm dấu n chênh vênh
ể mọi i u b n r u r t m th nh
hư i nư c hôn thể n o n m b t
Tiến th thiết n i thườn n he như hát
(Tiến Việt Lưu Quang Vũ)
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của văn bản?
Câu 2. Chỉ ra những hình ảnh nói lên sự trong sáng của tiếng Việt trong văn bản trên?
Câu 3. Nêu và phân tích tác dụng của những biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ sau:
i tiến Việt như ất c y như l
n tre n v m m mại như t
Câu 4. Văn bản thể hiện thái độ, tình cảm gì của tác giả đối với tiếng Việt?
Phần 2: Làm văn (7 điểm
Câu 1. (2 điểm)
Từ nội dung của phần đọc - hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt của giới trẻ hiện nay.
Câu 2. ( 5,0 điểm)
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
(Trích Tây Tiến, Quang Dũng, SGK Ngữ Văn 12 tập 1)
Cảm nhận của anh /chị về vẻ đẹp của người lính Tây Tiến qua đoạn thơ trên.
15
ĐỀ KIỂM TRA (15 PHÚT)
Đề 1
Phần 1: Đọc - hiểu
Đọc đoạn trích và thực hiện các yêu cầu sau:
“ i ch ấy họ i cả v o tiến Việt Họ yêu vô c n th tiến tron mấy mư i thế ỉ chi s vui buồn v i ch ôn Họ dồn t nh yêu quê hư n tron t nh yêu tiến Việt Tiến Việt họ n h l tấm l h n von hồn nhữn thế hệ qu Đến lượt họ họ c n mượn tấm hồn bạch chun ể i n i b n ho n riên ”.
(Trích t thời ại tron thi c - Hoài Thanh)
Câu 1. Đoạn trích được viết theo phong cách ngôn ngữ nào?
Câu 2. Khi nói đến tình yêu tiếng Việt của các nhà thơ mới, tác giả đã dùng những từ, những hình ảnh thấm đượm tình cảm nào?
Câu 3. Cách diễn đạt “l tấm l h n von hồn nhữn thế hệ qua” có nghĩa là gì?
Câu 4. Viết lại một câu thơ ở một trong các bài thơ “V i v n ” (Xuân Diệu), “Tr n i n ” (Huy Cận), “Đ y thôn V Dạ” (Hàn Mặc Tử), “Tư n tư” (Nguyễn Bính)… đã học, đọc để minh chứng cho tình yêu quê hương đất nước qua tình yêu tiếng Việt của các nhà thơ mới.
Đề 2
Đọc đoạn trích sau và thực hiện yêu cầu ở dƣới:
m mư i n ười con theo cha xuống biển m mư i n ười con theo m lên rừng Nhữn n ười con ngồi úc trốn ồng Tiếng chim hót phổ vào giọng nói M là tiến ầu tiên tr gọi Nghe d u dàng âu yếm biết bao Tiếng Việt i tiếng Việt có từ u Sau tiếng M là tiếng Yêu thánh thót Tiến ư c n he như r i từng giọt Tiến Đất nghe ch c n ch vững b n Tiến m n he n ạt n o hư n th m ười Giao Chỉ l ng nghe tiếng gió Tiếng dòng sông rì rào sóng v Tiếng trời xanh lồng l ng mênh mang Tiếng xôn xao của n ng thu vàng Tiếng dế êm tr n th nh vời vợi Tiếng hổ gầm vang trong hốc núi Tiến m y b y vư n vấn s c trời
16
Tiếng sấm r n và tiến mư r i Tiếng nh p ập trái tim thiếu nữ Tiếng bập bùng nhen trong bếp l a Những thanh âm tha thiết bồi hồi Bật ra thành tiếng Việt trên môi… (Trích Tiếng Việt mến yêu, Nguyễn Phan Hách)
Câu 1 . Xác định thể thơ của văn bản trên?
Câu 2 . Chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ trong câu thơ: Tiến ư c n he như r i từng giọt. Câu 3 . Cảm xúc được gợi lên qua 2 câu thơ sau là gì? M là tiến ầu tiên tr gọi Nghe d u dàng âu yếm biết bao Câu 4 . Theo em, trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là gì? 2.1.1.2. Hoạt động đánh giá, trả bài kiểm tra
Trong các tiết trả bài kiểm tra tôi không chỉ hướng dẫn học sinh xác định đúng thể loại, kiểu bài, cách làm bài và trình bày bài văn… mà còn hướng dẫn, rèn luyện cho HS cách dùng từ khi viết văn, chữa lỗi dùng từ, chữa cách diễn đạt… sao cho trong sáng. Trong quá trình chấm bài kiểm tra, bản thân tôi phát hiện ra những lỗi mà học sinh thường mắc phải như:
*Lỗi dùng từ
- D n từ chư ún m: Để dùng từ đúng âm phải hướng dẫn HS cách phát âm chuẩn. Nhưng để nói chuẩn tất cả Tiếng Việt là một yêu cầu rất khó đối với HS trên cả ba miền của đất nước ta, chưa kể mỗi miền lại có những phương ngữ khác biệt…
Biện pháp tốt nhất để giúp HS dùng từ đúng âm đó là rèn viết chính tả, viết đúng chính tả. Muốn đạt được yêu cầu này, tôi cho học sinh nhìn cách viết đúng, nghe cách nói đúng để rồi bản thân các em sẽ viết đúng và nói đúng.
Ví dụ:
Đúng âm Không đúng âm
Phiêu bạt Phiêu bạc
Trong trắng Chong chắng
Lãng mạn Lãng mạng
Sự thống nhất về chữ viết được thể hiện trong chữ Quốc ngữ; nói như vậy có ý nghĩa đáng lưu ý bởi vì tiếng Kinh là “Quốc ngữ” của tất cả các dân tộc trên đất nước ta. Đó là một thứ chữ ghi âm vị, dựa trên cơ sở chữ cái La Tinh, có dấu ghi thanh điệu và từng âm tiết tách rời.
17
- D n từ chư ún n h : Đây là hiện tượng mà HS chưa hiểu hết hoặc chưa hiểu đúng nghĩa của từ ngữ mà chỉ suy luận, đoán mò, hiểu từ lờ mờ nghĩa của từ, cũng có thể là để cho câu thêm vần vè, dễ đọc nên các em đã sử dụng từ bừa bãi. Đặc biệt với những từ vay mượn tiếng nước ngoài.
Nghĩa của từ được nêu rõ trong từ điển, phải dùng từ một cách chính xác, hiểu đúng nghĩa gốc của nó. Phải tra cứu để hiểu tường tận nghĩa của từ mà dùng từ đúng khi nói và viết. GV cần chú ý lớp từ đa nghĩa, từ có nghĩa đen và nghĩa bóng…
Phần lớn trường hợp dùng từ không đúng nghĩa thường xảy ra ở các từ Hán Việt. Từ Hán Việt là từ có gốc Hán, do người Việt mô phỏng âm Hán cổ mà đọc chệch ra thành âm Hán Việt.
- L i d n từ phư n n ữ hôn sán n h : Lỗi này thường xuất phát từ thói quen thổ ngữ, cách phát âm lệch chuẩn, các thanh lẫn lộn, đặc biệt là sự lẫn lộn giữa thanh hỏi (dấu hỏi),thanh ngã (dấu ngã) và thanh nặng (dấu nặng) nên dẫn tới viết sai, dùng từ không rõ nghĩa.
Cách sửa lỗi dùng từ:
- D n từ ch nh xác: Để sửa lỗi dùng từ này trước hết GV phải phát âm chuẩn và viết đúng chính tả. Hướng dẫn học sinh sửa lỗi bằng các phương pháp trực quan, đặt câu, tìm từ trí nghĩa để so sánh…
Sau khi chỉ ra những lỗi về dùng từ và cách khắc phục cho những lỗi cụ thể thì tôi đồng thời cũng hướng dẫn các em đến cách dùng từ hay, dùng từ sáng tạo, độc đáo. Điều này tạo nên sự hấp dẫn, độc đáo của tiếng Việt mà nhiều lúc các em không nhận ra. Để sử dụng từ ngữ hay, sáng nghĩa thì học sinh cần dùng từ chính xác. Đây là cách dùng từ có chọn lựa, để tìm ra từ đúng nhất, có giá trị nghệ thuật nhất phù hợp với từ cần diễn đạt. Chẳng hạn Nguyễn Tuân khi miêu tả về nước sông Đà ở mặt ghềnh Hát Loong “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè”. Câu từ Nguyễn Tuân sử chính xác nhưng cũng rất độc đáo góp phần diễn tả bản chất hung hãn của dòng chảy trên sông Đà.
- D n từ h nh tượn : Là cách dùng từ có thể vẽ ra trước mắt người đọc bức tranh của cuộc sống, tạo cho người đọc có cảm giác như được nhìn thấy tận mắt, sờ tận tay sự vật được miêu tả. Với đặc tính này, ngoài chức năng thông báo, từ hình tượng còn tạo cho người đọc nhiều rung cảm thẩm mĩ. Vì vậy, từ hình tượng rất phù hợp trong viết văn. Trong các loại từ (từ đơn, từ ghép, từ láy) thì từ láy có khả năng tạo ra được hình ảnh khêu gợi, có giá trị gợi hình, gợi cảm nhất. Nếu GV hướng dẫn HS dùng từ láy đúng chỗ thì chúng miêu tả sự vật, hiện tượng một cách sinh động mà các từ khác không có được.
Ví dụ: nhỏ: nho nhỏ, nhỏ nhắn, nhỏ nhặt, nhỏ nhoi…
Ngoài từ láy ra, cách dùng từ tạo được hình ảnh, cảm xúc phổ biến nhất đó là các biện pháp tu từ như: Nhân hóa, điệp từ, điệp ngữ… là cách làm cho văn bản 18
có hình ảnh gợi cảm, ý nghĩa sâu xa; nhờ vậy mà nội dung diễn đạt có thêm những nét bổ sung “đắt giá” so với cách nói thông thường.
Vì thế, khi viết văn GV cần khuyến khích, hướng dẫn HS dùng từ láy, từ hình tượng, động từ, tính từ thích hợp… để bài viết của các em “có giá trị nghệ thuật” hơn.
- D n từ ún phon cách: Các từ trong tiếng Việt cũng như trong ngôn ngữ khác, không chỉ khác nhau về ngữ nghĩa mà còn khác nhau về phong cách, chức năng.
Như vậy, từ một tổ hợp kích thích: nghe, nhìn, vận động, cấu âm; một quy luật tâm lý là càng nhiều cơ quan cảm giác, tham gia vào tiếp nhận đối tượng thì các em càng ghi nhớ chắc chắn đối tượng (từ) đó. Vì vậy, khi dạy sử dụng từ, chữa lỗi dùng từ cho học sinh, trong phạm vi có thể cần sử dụng các phương tiện tác động lên tất cả các giác quan: học sinh không chỉ nhìn thấy vật thật đại diện cho nghĩa từ mà còn nghe thấy, phát âm và viết từ mới.
Làm sao mỗi câu văn, đoạn văn, bài văn các em viết ra chứa đựng được nhiều nội dung chừng nào hay chừng ấy; với cách dùng từ chắc, súc tích, giàu hình ảnh, văn phong trong sáng, sinh động, tự nhiên, đúng trọng tâm đề bài… là những yêu cầu cần thiết nhất.
*Lỗi về câu
- L i v cấu tạo:
Trong quá trình sử dụng câu, đây là lỗi mà HS thường gặp nhất, bởi nhiều khi các em chưa nắm vững cấu trúc chung về ngữ pháp của câu. Đặc biệt là sử dụng câu thiếu thành phần chủ ngữ, thiếu thành phần vị ngữ, thiếu cả hai hoặc thừa các thành phần đó. Nguyên nhân của việc viết câu sai thì có nhiều. Nhưng nguyên nhân chính là do các em chưa chịu khó ôn luyện ở nhà, thói quen dùng câu theo kiểu “chát” tin nhắn trên điện thoại, đến lớp làm bài còn ẩu, thiếu suy nghĩ…
Những lỗi mà khi chấm bài kiểm tra của học sinh tôi vẫn thường xuyên gặp phải như: S d n c u thiếu chủ n ữ (là lỗi khi trình bày câu mà không có thành phần chính thứ nhất); S d n c u thiếu v n ữ (đây cũng là một trong những trường hợp sử dụng câu thiếu thành phần chính thứ hai); S d n c u thiếu cả h i th nh phần ch nh (đây là những lỗi xảy ra trong trình bày câu hoặc đoạn văn. Trường hợp này học sinh dễ nhầm lẫn giữa thành phần trạng ngữ với các thành phần chính của câu dẫn đến khi trình bày câu lại thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ); S d n thừ các th nh phần ch nh ho c th nh phần ph củ c u (đây là những trường hợp mắc lỗi khi HS không nắm vững cấu trúc ngữ pháp của câu, dẫn đến diễn đạt rườm rà, thừa chủ ngữ, thừa vị ngữ hoặc thừa trạng ngữ).
- L i v dấu c u:
Đối với việc dùng dấu câu trong các bài viết, nhất là bài văn, việc dùng dấu
19
câu không chính xác là một trong những trường hợp mắc lỗi nhiều nhất của học sinh. Đặc biệt là nhầm lẫn giữa dấu chấm (.) với dấu phẩy (,) hoặc sử dụng dấu câu không đúng ngữ pháp, dùng dấu câu tuỳ tiện,… ở đây có rất nhiều nguyên nhân mắc lỗi của HS, nhưng nguyên nhân chính là do HS viết ẩu, thiếu suy nghĩ, chưa nắm vững quy tắc dùng dấu câu.
Những lỗi về dấu câu mà tôi vẫn thường gặp phải trong quá trình chấm bài kiểm tra học sinh như: L i hôn d n dấu c u (nhiều khi do không nắm vững cấu trúc ngữ pháp của câu hoặc do viết ẩu nên một số học sinh khi trình bày nội dung nào đó mà không sử dụng đến dấu câu); D n dấu c u tuỳ tiện (là một trong những lỗi mà HS mắc phải khá nhiều, bởi nhiều em chưa nắm vững quy tắc dùng dâu câu trong diễn đạt.
- L i phon cách:
Khi diễn đạt một ý nào đó, HS thường sử dụng các kiểu miêu tả có phong cách khác nhau mà dùng chung trong một ý. Các em thường lấy phong cách này để diễn đạt cho phong cách ngôn ngữ khác. Đây là một trong những trường hợp mà HS phạm lỗi khá nhiều. Vì không nắm vững phong cách ngôn ngữ, hoặc do thói quen sử dụng ngôn ngữ sinh hoạt.
Một số biện pháp khắc phục lỗi về câu
Qua kết quả khảo sát thống kê lỗi viết câu của HS, bản thân tôi đã nắm bắt được một số lỗi sai trong khi làm bài của HS. Trên cơ sở đó, dựa vào nhiệm vụ, yêu cầu nội dung và phương pháp dạy, để góp phần làm giảm lỗi trong làm bài cho HS, tôi thường sử dụng một số biện pháp như sau:
Xây dựng cho HS một động cơ học tập tốt. Nghiên cứu kỹ nội dung bài học trước khi lên lớp. Hướng dẫn cho các em cụ thể hơn trong các tiết học, đặc biệt là trong những tiết trả bài kiểm tra. Bởi vì tiết trả bài kiểm tra rất quan trọng, nếu GV cho học sinh làm nhiều, đọc ra trước lớp về bài làm của mình nhiều thì GV có thể nhận biết được số lượng em mắc lỗi và những lỗi nào để có biện pháp khắc phục.
Trong quá trình kiểm tra miệng, GV dễ dàng phát hiện những lỗi về phát âm, đặc biệt trong việc học sinh sử dụng sai dấu câu dẫn đến việc phát âm thiếu chuẩn, như vậy sẽ tạo cho học sinh có ý thức trong nói, trong học tập.
Đối với tiết kiểm tra viết, trước khi học sinh làm bài, tôi hướng dẫn lại dàn
bài chi tiết nhiều lần để các em khó quên, cần cho HS rèn luyện ở nhà nhiều hơn.
GV cần đầu tư chú trọng nhiều hơn nữa đến phân môn Làm văn. Vì đây là một nội dung rất khó. Dạy cho các em những nội dung chính của mục tiêu thì dễ, nhưng hướng cho các em làm bài theo trí tưởng tượng thì khó, nhiều đoạn văn phải hướng tới hư cấu của nội dung, dùng các biện pháp tu từhợp lý sẽ giúp các em có bài văn hay hơn, súc tích hơn.
20
Ngoài việc ở lớp GV cần phải hướng dẫn HS luyện viết ở nhà. Phối hợp chặt chẽ với gia đình HS để có biện pháp giúp đỡ các em rèn luyện ở nhà. Hoạt động giao tiếp là hoạt động diễn ra thường xuyên giữa mọi người trong xã hội. Giao tiếp có ở mọi nơi, mọi lúc, có thể ở dạng lời nói nhưng cũng có khi tồn tại ở dạng viết. Và khi chấm chữa bài thi, bài kiểm tra, đặc biệt phần nghị luận xã hội, tôi thấy nhiều học sinh diễn đạt lủng củng, tối nghĩa, không đúng phong cách ngôn ngữ. Chính vì thế, trong việc sử dụng tiếng Việt ở dạng viết, GV nên thường xuyên giao bài tập để học sinh luyện viết vì chỉ khi đặt bút, các em mới thật sự diễn đạt ý tưởng của mình thành hiện thực. Bản thân tôi, mỗi tuần tôi gợi ý một chủ đề nghị luận xã hội, yêu cầu học sinh về nhà tự viết một đoạn văn. Điều này vừa rèn kĩ năng viết văn nghị luận xã hội, vừa diễn đạt tiếng Việt một cách chuẩn xác nhất.
2.1.2. Tổ chức hoạt động sân khấu hóa môn học
2.1.2.1. Mục tiêu
Sân khấu hóa môn học trước đây được thực hiện chủ yếu qua các hoạt động ngọai khóa hoặc hoạt động ngoài giờ lên lớp. Hoạt động mặc dù cũng mang lại ý nghĩa nhưng vẫn dẫn đến hiện tượng “no dồn góp đói”. Tuy nhiên trong quá trình dạy học tôi chủ yếu dành khoảng 5-7 phút để lồng ghép trong các giờ dạy chính khóa. Các em HS vừa được thắp sáng niềm đam mê với văn học, vừa có cơ hội để thể hiện mình ngay trên sân khấu lớp học. Khi tham gia sân khấu hóa môn học, các em sẽ tự mình thực hiện tất cả từ viết kịch bản, đạo diễn, diễn viên... Trong quá trình đó, HS thể hiện được sự sáng tạo của mình, hiểu tác phẩm văn chương sâu sắc hơn, tạo hứng thú trong học môn Văn. Đặc biêt, quá trình đó đòi hỏi các em tư duy trong mỗi nhân vật lời thoại sẽ như thế nào để phù hợp với nhân vật, hoàn cảnh, văn hóa vùng miền... Như thế, điều mang lại cho các em chính là ý thức sử dụng ngôn từ tiếng Việt chuẩn và hay.
2.1.2.2. Các hình thức sân khấu hóa môn học
* Hình thức diễn kịch
Hầu hết các tác phẩm văn xuôi đều có thể triển khai thành kịch. Vì vậy trong tiết học GV có thể tổ chức hoạt động này từ 5-7 phút tùy theo dung lượng kịch bản ở phần khởi động hoặc phần tổng kết bài học. Có thể chuẩn bị đạo cụ, trang phục cho phù hợp với vở kịch. GV hướng dẫn HS lựa chọn tình huống, trích đoạn, sự việc tiêu biểu thể hiện chủ đề của tác phẩm để xây dựng kịch bản. Tuy nhiên cần chú ý đến việc đảm bảo được giá trị nghệ thuật của tác phẩm, tránh trường hợp các em xa rời với nội dung của văn bản gốc.
Giải pháp này sẽ phát huy tối ưu việc củng cố kiến thức cho HS. Khi nhập vai vào nhân vật các em sẽ phải đọc kĩ tác phẩm, nắm bắt ý nghĩa nhân sinh mà tác giả muốn gửi gắm. Trong quá trình luyện tập HS sẽ trao đổi với GV, từ đó hiểu hơn về nhân vật, khắc sau hơn kiến thức. Mặt khác giải pháp cũng giúp các em có
21
khả năng diễn xuất, tự tin, bản lĩnh hơn trước tập thể lớp. Khi diễn xuất, các em sẽ phải lựa chọn ngôn từ phù hợp để diễn đạt lại văn bản. Đây cũng là cách để các em HS phát huy khả năng ngôn ngữ, trau dồi và làm phong phú thêm vốn từ vựng cho các em.
HS diễn lại c u chuyện củ n ười n b tại t án
* Hình thức hùng biện
Hình thức này được tiến hành sau khi kết thúc tiết học hoặc ở giờ học sau. Các em sẽ chuẩn bị bài hùng biện theo cá nhân, tổ, nhóm và cử đại diện trình bày. Thời gian trình bày khoảng 3-5 phút. Khi hùng biện GV khuyến khích các em có thêm hình ảnh hoặc nhạc nền, video minh họa để thêm sinh động và hấp dẫn. Để hoạt động này có hiệu quả, đòi hỏi GV phải xây dựng được một số câu hỏi, đặt ra những vấn đề vấn liên quan đến tác phẩm hoặc nhân vật để các em HS hùng biện.
Hình thức này giúp HS cảm nhận cá nhân về nhân vật hoặc tác phẩm văn học. Thực hiện hoạt động này các em sẽ được ôn tập, mở rộng kiến thức, được rèn luyện kĩ năng nói trước tập thể. Để có thể hùng biện trước tập thể ngoài kĩ năng trình bày các em còn phải biết lựa chọn ngôn từ sao cho phù hợp với hoàn cảnh, nhân vật và chủ đề của tác phẩm. Hoạt động này diễn ra thường xuyên qua các tác phẩm văn học sẽ giúp các em có thêm được vốn từ vựng phong phú. Đây cũng là một mục đích tôi hướng đến trong dạy học.
22
HS tham gia hùng biện
2.2. Trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp
2. 2.1. Tổ chức hoạt động “Trong tiếng Việt - sáng hồn Việt”
2.2.1.1. Mục tiêu của hoạt động.
Quá trình giảng dạy và tiếp xúc trong cuộc sống tôi nhận thấy thực tế tiếng Việt đang bị sử dụng rất tùy tiện, những cái hay cái đẹp không được mọi người sử dụng, khai thác. Trong khi đó, tiếng Việt có sự đa dạng, phong phú mà theo tôi đó là một nét đẹp riêng của dân tộc.
Hoạt động Trong tiếng Việt- sáng hồn Việt giúp HS nhận thức được sự trong sáng là một trong những phẩm chất của tiếng Việt. Nắm được các phương diện biểu hiện sự trong sáng của tiếng Việt, cụ thể là tính chuẩn mực, có quy tắc; không lai căng, không sử dụng ngôn ngữ khác; phẩm chất văn hóa, lịch sự của lời nói. Đây là mục tiêu rất quan trọng. Bởi một khi các em hiểu rõ được thế nào là sự trong sáng của tiếng Việt và biểu hiện của nó thì các em đã ý thức được trong lời nói hàng ngày của mình. Từ đó các em phân biệt được đâu là sử dụng tiếng Việt đúng cách, đâu là cách nói làm vẩn đục ngôn ngữ.
Hoạt động này cũng giúp các em HS hiểu được trách nhiệm của bản thân trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Mặt khác HS còn truyền đi tình yêu tiếng Việt, lan tỏa việc giữ gìn tiếng Việt tới bạn bè người thân và mọi người xung quanh không chỉ qua hoạt động mà còn qua cách giao tiếp nói năng và viết lách của mình.
23
2.2.1.2. Cách thức hoạt động
Hoạt động đã thu hút được 120 học sinh của cả ba khối lớp 10, khối lớp 11, khối lớp 12 tham gia. Hoạt động chia thành 4 nhóm: Nhóm sân khấu, nhóm kinh doanh, nhóm âm nhạc, nhóm hội họa. Mỗi nhóm với những chức năng khác nhau nhưng cùng vai trò tuyên truyền để làm nổi bật được cái hay, cái đẹp và việc cần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Nhóm được thành lập theo năng khiếu và sở thích của các em HS để giúp các em vừa phát huy được năng khiếu vừa thể hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao. Mỗi nhóm sẽ cử ra một đội trưởng phụ trách chung. Các nhóm làm việc theo sự hướng dẫn của GV trong tổ Ngữ văn của trường.
2.2.1.3. Các hoạt động cụ thể
* Nhóm sân khấu: Nhóm Sân khấu có 20 thành viên, là những diễn viên không chuyên của khối lớp 12, dùng nghệ thuật sân khấu làm phương tiện tuyên truyền về việc sử dụng tiếng Việt. Nhóm chịu trách nhiệm sáng tác những vở kịch ngắn truyền thông điệp giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Những vở kịch nhóm sản suất có dung lượng ngắn, tập trung vào chủ đề về sự pha tạp của tiếng Việt trong giới trẻ hiện nay, đặc biệt là hiện tượng “lây nhiễm” của ngôn ngữ mạng vào trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày. Nhóm cũng thông qua các tình huống trong câu chuyện để đưa ra các giải pháp góp phần giữ gìn và phát huy sự trong sáng của tiếng Việt.
Sau đây là một tác phẩm của nhóm sân khấu:
ƠN GIỜI PHÒ MÃ ĐÂY RỒI
Bắc Đẩu ( hạc T y Du ý nổi lên c Đẩu i v o): Miu sích lên! Hello
every body. My name is Đẩu. I am Đẩu- Nguyễn Bắc Đẩu.
(Sự xuất hiện củ vu H n . Thấy vu H n c Đẩu chạy lại).
Bắc Đẩu: Dạ...Dạ bẩm muôn tâu Bệ Hạ.
Vua Hùng: Miễn lễ, việc ta giao cho người làm đến đâu rồi?
Bắc Đẩu: Dạ …dạ bẩm muôn tâu Bệ Hạ, thần đã loại đi loại lại từ vòng gửi xe, tứ kết, tam kết, bán kết, đúc kết lại là tìm những ứng cử viên vô cùng xứng đáng.
Vua Hùng: Vậy chần chờ gì nữa, bắt đầu đi.
Nam Tào (chạy lên): Lây đi en gien nờ mần. Chào mừng quý vị và khán giả đến với chương trình “ Ơn iời ph m y rồi”, truyền hình trực tiếp trên kênh eo âu tivi.
Vua Hùng: Nam Tào, lại đây ta bảo. Nãy giờ ngươi đang nói cái gì vậy?
Nam Tào: Muôn tâu Bệ Hạ, đây chính là ngôn ngữ giới trẻ, còn được gọi là
teen teen teen đó ạ.
24
Vua Hùng:
Cữ ngỡ là mình mới đôi mươi
Soi lại dung nhan thấy buồn cười
Người trẻ bây giờ quá khác biệt
Ngậm ngùi chỉ biết “ thế à.”
Nam Tào, Bắc Đẩu: À thế làm sao mà à.
Vua Hùng: Các Ngươi hãy dùng ngôn ngữ phổ thông thôi, để ta và thần dân
còn hiểu. Bắt đầu chương trình tiếp đi.
Nam Tào: Vâng, và người thắng cuộc sẽ được trở thành phò mã của Mị
Nương. Kính thưa quý vị, sau đây là sự xuất hiện của nhân vật chính.
Mị Nƣơng ( i r c n v i nhạc )
Chim trên trời có đôi có cặp
Cá dưới nước có cặp có đôi
Vậy mà sao Mị Nương ta đây vẫn cứ FA.
Nam Tào, Bắc Đẩu: Vẫn cứ FA.
Mị Nƣơng ( n n u chạy ến bên vu H n ): Phụ Hoàng ơi, con không
biết đâu
Vua Hùng: Con cứ yên tâm, ta đã lo cả rồi. Nam Tào đâu?
Nam Tào: Dạ, kính thưa quý vị. Chương trình của chúng tôi đã trèo non lội suối, lên rừng, xuống biển. Tìm ra những thí sinh vô cùng sáng giá. Sau đây xin mời thí sinh 0101 đến với chương trình.
Thủy Tinh (Đi v o c n nhạc bi city boy)
Em on top, không phải trending Không phải YouTube, không phải trên Zing Anh on top, em ở trên anh Beat Touliver drop người ta gọi tên anh
Kính chào vua Hùng, chào nàng.
Mị nƣơng: Dạ chào chàng.
Thủy tinh: Nàng beautiful quá.
Mị Nƣơng: Đã nói đúng còn nói to.
Thủy Tinh:
Anh đây là Thủy Tinh long lanh lóng lánh ánh mai
Anh tuy không rap hay như Đen Vâu
Nhưng không ai chiều em bằng anh đâu.
25
Bắc Đẩu: Sau đây xin mời sự xuất hiện của thí sinh mang số báo danh 0202
Sơn tinh: (Đi v o c n nhạc): Kính chào Vua Hùng, chào nàng.
Mị nƣơng: Chào chàng.
Sơn tinh:
Anh đây đẹp trai cao to không lôi thôi
Nhìn e anh thấy mờ mờ
Tưởng là bị cận ai ngờ là mờ ê mê.
Vua Hùng: Hai ngươi nhìn cũng được đấy, nhưng muốn cưới được con gái ta thì phải là người vừa có tài lại có đức. Hai ngươi có tài năng gì hãy thể hiện cho cả triều đình xem.
Sơn Tinh: Thần là sơn tinh có khả nắng dời núi, lấp biển.
Thủy Tinh:Thần là Thủy Tinh có khả năng hô mưa, gọi gió.
Vua Hùng: Như vậy đi, bây giờ ta muốn các người hoàn thành một điều mà bấy lâu ta đang còn rất trăn trở đó là về ngôn ngữ giới trẻ hiện nay. Hãy tìm hiểu cho ta đến ngày mai hoàn thành và đến đây báo cáo cho ta.
Sơn Tinh, Thủy Tinh: Thần xin tuân lệnh
Thủy Tinh: Muôn tâu Bệ Hạ, sau khi tìm hiểu và nghiên cứu thì thần nhận thấy ngôn ngữ giới trẻ hiện nay rất hấp dẫn đã thế còn cute vô cùng. Thần xin được thể hiện thông qua bài hát này. (Thủy tinh hát èm nhạc)
Tam giác là tác giam,
Tác giam là tam giác,
Tam giác là tác giam Haiz chết tịt cái thg chớt tịt này Mày đang lm cái quái j z hả Những thg khác ngại tán em
Tại tại tại tại ngán anh Anh là con mèo,con mèo kêu
Em iu Iu iu ìu iu í iu Nhx lời đàm tỉu qua loa linh tinh Ko thể nào mà cản bước đc ma gaming Cùng ý chí sinh tồn đến xây booyah đi bên đồng đội 2 3 xông pha Vì mình quá thích cậu rùi Phải lm sao phải lm sao =)
Cậu thấy z có đc khum
Phải lèm sao phải lèm seo
26
Múi ớt, cà pháo múi ớt Thơm ngon mời bạn ăn nha =) Tui đey ko chờ bạn nx h tui ăn lìn…......
Sơn Tinh: ( hi Thủy Tinh hát xon S n tinh lật ật chạy vào): Ây zaaa. Đó là hấp dẫn và cute à. Một ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ đang dần bị xuyên tạc, lai căng thế kia, khiến biết bao nhiêu người hiểu sai nghĩa vậy mà ngươi lại bảo là nó cute phô mai que à. Ngươi có biết tiếng Việt quan trọng như thế nào không? (S n Tinh hát)
Tiếng Việt còn trong mỗi người Người Việt còn thì còn nước non Giữ tiếng Việt như ngày nào Hào hùng xưa mãi vọng ngàn sau
Tiếng Việt còn trong mỗi người Hồn Việt mình còn nguyên vẹn tròn
Giữ tiếng Việt cho muôn đời Lời quê hương ấy lời sắt son .
(Lúc n y s n tinh v thủy tinh l m v ấu á nh u nh u nh u)
Vua Hùng: Hai ngươi làm rất tốt nhiệm vụ, ta chỉ có một người con gái, ta sẽ giao nó cho Sơn Tinh- người am hiểu thần dân hơn ai hết và chắc chắn rằng sẽ là vị vua tốt của nước nhà. Sơn Tinh đã biết giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt tức là biết yêu nước yêu dân. Ta tin tưởng giao phó con gái mình cho một người như thế. Nào chúng ta cùng nâng ly để chúc mừng. Còn Thủy Tinh, Nam Tào, Bắc Đẩu các ngươi có biết là các ngươi đang lạm dụng ngôn ngữ, làm mất đi vẻ đẹp của tiếng Việt hay không ?
Nam Tào, Bắc Đẩu, Thủy tinh: ( quỳ xuốn ) Thần đã biết lỗi rồi ạ, mong
Bệ Hạ bỏ qua
Vua Hùng: Tiếng Việt còn thì còn nước non, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là nhiệm vụ và trách nhiệm của tất cả thần dân đất Việt, các ngươi có biết không? ( ết thúc b n bài hát dòng máu Lạc Hồn )
* Nhóm kinh doanh: Nhóm kinh doanh do 40 HS khối lớp 12 đảm nhiệm. Nhóm đã thiết kế các sản phẩm vừa mang tính giáo dục vừa có thể kinh doanh thu lợi nhuận và tích hợp việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Sản phẩm của các em làm ra vừa đơn giản, phù hợp với thị hiếu của giới trẻ và quan trong nhất qua sản phẩm đó các em tuyên truyền được việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Sản phẩm của nhóm rất dễ thiết kế. Các em có thể tự in các bao lì xì, các túi xách, áo phông…. Trên mỗi sản phẩm là các hình ảnh hoặc các câu nói nhằm tuyên truyền việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Đây là nhóm đã đem lại kết quả rất khả quan bởi mỗi sản phẩm các em bán ra đều được sử dụng hàng ngày và được nhiều người quan tâm.
27
Sản phẩm củ nh m inh do nh
* Nhóm âm nhạc: Ở nhóm âm nhạc gồm 40 em HS khối lớp 11 có năng khiếu âm nhạc và có khả năng sáng tác. Các em đã tự mình sáng tác bài hát có nội dung vừa trong sáng vừa tái hiện được ngôn ngữ của từng vùng miền. Sản phẩm của các em là những bài hát có tiết tấu đơn giản, lời ca trong sáng đã chạm khắc vào người nghe một niềm tự hào về ngôn ngữ của dân tộc. Đồng thời những giai điệu ấy cũng góp phần ngợi ca sự giàu đẹp, phong phú của tiếng Việt.
28
Sản phẩm củ nh m m nhạc
29
Sản phẩm củ nh m m nhạc
* Nhóm hội họa: Nhóm Họa sĩ bao gồm 20 HS khối lớp 10. Nhóm sẽ nhận nhiệm vụ vẽ tranh và sáng tác truyện tranh tuyên truyền, cổ động giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Nhóm sẽ chia thành 4 nhóm nhỏ. Mỗi nhóm nhỏ sẽ vẽ một bức tranh hoặc lồng ghép tranh trong truyện tranh theo một chủ đề đã được phân công. Nhóm sẽ trao phần thưởng cho nhóm có kết quả cao nhất để khích lệ tinh thần của các thành viên.
30
31
Sản phẩm củ nh m h i họ
32
Sản phẩm củ nh m h i họ
Qua việc tham gia hoạt động và thực hiện những nhiệm vụ theo sở trường và năng lực không chỉ là cơ hội để học sinh rèn các kỹ năng cần thiết như: thuyết trình, giao tiếp, làm việc nhóm, đàm phán, xử lý thông tin..., mà hoạt động còn giúp các em có nhu cầu và tự thân tiếp nhận nhiều kiến thức liên quan về đặc điểm loại hình của tiếng Việt, những yêu cầu trong sử dụng tiếng Việt một cách tự nhiên mà không phải phải ép buộc, nắm được các phương diện biểu hiện sự trong sáng của tiếng Việt, để từ đó biết cách sử dụng các kỹ năng nói và viết, có kỹ năng cảm thụ, đánh giá cái hay, cái đẹp của những lời nói, câu văn trong sáng... Và hơn hết, các em hiểu được trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Đây chính là mục đích mà tôi muốn hướng đến qua hoạt động.
2.2.2. Tổ chức cuộc thi Vua tiếng Việt
2.2.2.1. Mục đích tổ chức cuộc thi Vua tiếng Việt
Tiếng Việt của chúng ta đang ngày càng có những sự biến đổi trong thời đại mới, nhiều sự biến đổi tích cực phù hợp với sự phát triển. Nhưng cũng có sự biến đổi đáng lo ngại, làm cho tiếng Việt trở nên nghèo nàn và mai một. Với xu hướng hội nhập thì khám phá, giữ gìn vẻ đẹp của tiếng Việt, sự phong phú, tinh tế và thú vị của nó ngày càng quan trọng hơn và thách thức cũng nhiều hơn. Chính vì vậy việc tổ chức cuộc thi Vua tiếng Việt, tôi mong muốn tạo một sân chơi kết hợp giữa giải trí và kiến thức, để truyền cho HS hứng thú tìm hiểu, vượt qua những thử thách ngôn ngữ, phản xạ nhanh và yêu hơn tiếng mẹ đẻ. Từ đó cũng tạo cho các em tính năng động, tự tin trong giao tiếp, phát huy được những sở thích đam mê của mình.
2.2.2.2.Yêu cầu của cuộc thi Vua tiếng Việt
Về phía GV phải hướng dẫn HS thực hiện một số trò chơi trong hoạt động luyện tập để các em quen dần. Ngoài ra cần có sự đầu tư công phu cả về hệ thống câu hỏi, đáp án và cách thức tổ chức. Để làm được điều đó đòi hỏi người giáo viên phải biết ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt phải sử dụng thành thạo các phần mềm hỗ dạy học trong bối cảnh hiện nay. Hơn nữa GV phải là người có kiến thức sâu sắc về tiếng Việt.
Về phía HS phải có sự chuẩn bị về kiến thức tiếng Việt, đặc biệt phải nắm
được luật chơi trong chương trình Vua tiếng Việt trên truyền hình.
2.2.2.3. Tổ chức cuộc thi Vua tiếng Việt.
*Phương hướng tổ chức cuộc thi
Để cuộc thi diễn ra đúng kế hoạch và đảm bảo yêu cầu tôi đã lập kế hoạch
sau: + Cho HS tiếp cận và xem chương trình Vua tiếng Việt trên truyền hình. Qua đó định hướng cho các em luật chơi và chủ đề để các em chuẩn bị và tìm hiểu trước.
33
+ Chuẩn bị nội dung chương trình gồm có câu hỏi và đáp án. Câu hỏi được sưu tầm, trích dẫn từ những nguồn tài liệu uy tín, phù hợp với đối tượng HS và chủ đề đặt ra. + Thành lập đội GV thẩm định câu hỏi và đáp án gồm: - Cô Thái Thị Lộc - Chủ biên - Cô Nguyễn Thị Thanh Huyền- Thẩm định - Cô Nguyễn Thị Hải Yến- Thẩm định
Khi các gói câu hỏi đã được thẩm định phải được soạn thảo và trình chiếu
trên màn hình.
*Cách thức tổ chức cuộc thi Áp dụng gameshow Vua tiếng Việt của chương trình VTV3 – Đài truyền hình Việt Nam, tôi có cải tiến một số phần cho phù hợp với đặc thù của học sinh trường THPT Lê Lợi. Tôi tổ chức lựa chọn 4 đội chơi của ba khối lớp 10, khối lớp 11, khối lớp 12. Mỗi đội có 15 thành viên, trong đó có một nhóm trưởng trực tiếp tham gia cuộc thi, các thành viên khác đóng vai trò hỗ trợ. Đội chơi nào đạt giải sẽ trở thành Vua tiếng Việt của trường và nhận được phần quà là cuốn Từ điển tiếng Việt.
*Nội dung của cuộc thi Vua tiếng Việt Vòng 1: Phản xạ Luật chơi: Mỗi đội chơi sẽ bốc thăm thứ tự chơi. Khi có tín hiệu mỗi đội chơi có 120 giây để trả lời câu hỏi của chương trình. Trả lời đúng mỗi câu sẽ có 1 điểm. Ở vòng chơi phản xạ các đội chơi sẽ có 12 câu hỏi với các yêu cầu như sắp xếp các chữ cái để có một từ đúng và hoàn chỉnh, lựa chọn từ đúng, điền vào chỗ trống, viết lại từ cho đúng chính tả. Kết thúc vòng 1 đội nào thấp điểm nhất sẽ bị loại khỏi cuộc chơi.
34
35
( Câu hỏi v áp án trong vòng Phản xạ)
36
Vòng 2: Giải nghĩa
Luật chơi: Ban tổ chức sẽ lựa chọn từ ngữ trong từ điển tiếng Việt với chủ đề Ngôn ngữ. Mỗi đội chơi sẽ có 60 giây để giải nghĩa từ vựng đã được lựa chọn bằng cách gợi ý cho hai đội chơi còn lại. Đội chơi sẽ dùng lời nói và hành động, (không được nói ra từ mà ban tổ chức đã cho) để gợi ý cho hai đội chơi còn lại tìm ra. Trả lời đúng sẽ đạt 1 điểm. Kết thúc vòng 2, đội chơi nào thấp nhất sẽ bị loại khỏi cuộc chơi.
(Các từ mà i ch i phải giải thích trong vòng Giải n h )
Vòng 3: Xâu chuỗi
Luật chơi: Người chơi sẽ dành điểm bằng cách sắp xếp các chuỗi từ thành câu có nghĩa. Có 5 câu hỏi tương ứng với 5 chuỗi từ. Đội chơi dành quyền trả lời bằng cách bấm chuông. Với mỗi câu trả lời đúng đội chơi sẽ có 1 điểm. Kết thúc vòng chơi đội chơi nào thấp điểm sẽ bị loại. Đội còn lại sẽ là đội chiến thắng và trở thành Vua tiếng Việt của trường.
37
( câu hỏi v áp án trong vòng Xâu chu i)
2.2.3. Phát động phong trào đọc sách và giới thiệu về sách
2.2.3.1. Mục tiêu
Thực hiện những chủ trương, kế hoạch của BGD& ĐT, các trường THPT nói chung và trường THPT Lê Lợi nói riêng đã tổ chức nâng cao và lan tỏa văn hóa đọc trong nhà trường khi nhận thức vai trò của kiến thức, tri thức là nguồn lực 38
chính cho mọi sự phát triển. Từ đó giúp HS rèn luyện kỹ năng giới thiệu về sách - một việc làm có ý nghĩa vừa rèn luyện kỹ năng: đọc, viết, nói, nghe vừa trau dồi, mở rộng tầm hiểu biết về vốn tri thức của nhân loại. Hơn thế đọc sách luôn là nhu cầu thiết yếu, là cách thưởng thức văn hóa đọc sang trọng, có chiều sâu và là phương cách tốt nhất để trau dồi ngôn từ của con người. Đọc một quyển sách hay không chỉ trang bị thêm cho ta những kiến thức bổ ích về tri thức tự nhiên, văn hóa xã hội mà còn giúp ta rèn luyện kỹ năng và bồi đắp tâm hồn, nhân cách. Hiểu được tầm quan trọng đó, trong quá trình giảng dạy tôi đã phát động phong trào đọc sách và giới thiệu về sách. Đây là cách để tôi giúp HS tiếp cận với không chỉ với kiến thức của nhân loại mà còn là một hình thức để các em trau dồi ngôn ngữ, tiếp cận với sự trong sáng, giàu đẹp của ngôn ngữ, xa rời và xóa bỏ hoàn toàn với ngôn ngữ pha tạp biến chất. Từ đây các em học tập được cách diễn đạt hoặc trình bày một vấn đề bằng chính ngôn ngữ của mình.
2.2.3.2. Lựa chọn đầu sách
Việc lựa chọn đầu sách phù hợp là điều mà GV cần định hướng cho HS. Vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập, rèn luyện phẩm chất đạo đức, khả năng ngôn từ của các em. Vì vậy khi lựa chọn sách cần đảm bảo các tiêu chí sau:
Tiêu chí 1: Xác nh m c ch
Cần xác định rõ mục đích đọc sách để HS chọn sách phù hợp. Có thể lựa chọn đầu sách nhằm thực hiện một số mục đích học tập như: Sách bồi dưỡng, nâng cao kiến thức các môn học trong nhà trường (môn Ngữ văn, môn Toán, Lí…), sách đạo đức, sách pháp luật, sách khoa học, sách viễn tưởng…
Tiêu chí 2: Chọn sách phù hợp l a tuổi
Trong thực tế nếu chọn đầu sách không phù hợp đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, không phù hợp mục đích học tập của HS sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới nhận thức của HS.
Tiêu chí 3: Chọn sách có n i dung lành mạnh v c ý n h iáo d c
Để đạt được mục tiêu đề ra ban đầu, chúng tôi định hướng HS lựa chọn các loại sách, tài liệu tham khảo phù hợp vừa để khắc phục những khó khăn trong thực tế giúp HS tránh những loại sách, văn hóa phẩm độc hại. Định hướng HS chọn những loại sách có giá trị ý nghĩa giáo dục sâu sắc tới bạn đọc.
Tiêu chí 4: Chọn sách v i nhà xuất bản uy tín
Khi chọn sách lưu ý HS chọn những cuốn sách của các nhà xuất bản uy tín như Nhà xuất bản giáo dục Việt nam, Nhà xuất bản lao động, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Nhà xuất bản đại học sư phạm… 2.2.3.3. Hoạt động giới thiệu sách
HS sau khi đọc sách, các em đã tự mình khám phá được thế giới tri thức vô cùng phong phú và đã tích lũy được kho từ vựng vô cùng giàu đẹp của các tác giả. Để lan tỏa được những điều này, tôi đã tổ chức hoạt động giới thiệu về cuốn sách
39
yêu thích. Để những bài giới thiệu về sách phong phú, đa dạng về hình thức thể hiện nhằm tạo sân chơi bổ ích thu hút đông đảo HS tham gia, GV định hướng HS lựa chọn một số hình thức thuyết minh sách như sau: * Hình thức 1: Viết bài văn giới thiệu về sách
- M c tiêu
Việc các em HS viết bài văn giới thiệu về một cuốn sách yêu thích sẽ giúp các em trau dồi được năng lực đọc hiểu văn bản; năng lực thu thập thông tin liên quan đến nội dung quyển sách; năng lực trình bày suy nghĩ cá nhân về lợi ích của sách. Đặc biệt với hình thức viết bài giới thiệu về sách sẽ giúp HS phát triển kỹ năng viết, bởi HS có thể học được phong cách viết và cách sử dụng vốn từ của tác giả. Từ đó các em biết lựa chọn và phát huy khả năng sáng tạo trong cách sử dụng từ ngữ cũng như cách diễn đạt vấn đề. Hoạt động này dần lan tỏa được tình yêu sách cho HS, giúp các em tiếp cận với những lớp ngôn từ trong sáng, giàu đẹp. Từ đây các em sẽ ý thức trau dồi vốn từ vựng cho mình, loại bỏ những lớp ngôn từ pha tạp, lai căng. - Tiến hành viết b i v n gi i thiệu v sách
Sau khi HS đọc và thu thập thông tin về tác giả, nội dung cuốn sách, GV hướng dẫn HS vận dung kỹ năng viết bài, khả năng ngôn ngữ và diễn đạt để viết bài giới thiệu về một quyển sách mà em yêu thích.
Hình ảnh m t bài dự thi gi i thiệu v sách của HS
40
* Hình thức 2: Quay video giới thiệu về một cuốn sách
- M c tiêu
Giúp HS ứng dụng công nghệ số và phát triển năng lực số để vận dụng kỹ thuật quay video giới thiệu về một quyển sách; năng lực nói kết hợp cử chỉ, thái độ; năng lực hợp tác làm việc nhóm; năng lực quay video thiết kế hình ảnh kết cấu phù hợp với nội dung bài thuyết minh; năng lực lựa chọn tổng hợp thông tin về giá trị quyển sách để giới thiệu trong video của nhóm. Mục tiêu quan trọng của hoạt động còn là rèn luyện cho HS năng lực sử dụng ngôn ngữ để truyền tải một nội dung được phản ánh từ sách.
Qua hoạt động, bồi dưỡng cho HS khả năng sử dụng và lựa chọn ngôn ngữ phù hợp, trong sáng để diễn đạt. Hoạt động cũng rèn luyện cho các em HS ý thức sử dụng đúng, sử dụng hay ngôn ngữ để thuyết phục người nghe. Các em vì thế cũng xa dần với lớp ngôn ngữ thiếu trong sáng trên các trang mạng xã hội. Đây là cách GV có thể áp dụng được cả ba khối lớp và với mọi đối tượng HS.
- Tiến hành quay video gi i thiệu v m t quyển sách
Chuẩn bị: GV hướng dẫn, tổ chức HS làm việc theo nhóm, mỗi nhóm lớp tuyển chọn 10 thành viên tiêu biểu tham gia hoạt động quay video giới thiệu quyển sách đã lựa chọn. Phân công nhiệm vụ cụ thể: Nhóm tưởng (1 HS), Nhóm phó (1 HS) điều hành chung; chịu trách nhiệm kỹ thuật công nghệ: quay video, thiết kế hình ảnh, ánh sáng, lựa chọn địa điểm quay video…(4 HS); phụ trách trang phục (1 HS); thiết kế nội dung giới thiệu về quyển sách (2 HS); 1 HS chịu trách nhiệm là người trực tiếp giới thiệu về cuốn sách của nhóm. Ngoài ra các thành viên khác trong lớp hỗ trợ những công việc liên quan khi cần.
Nhóm HS tiến hành quay video theo kế hoạch đã chuẩn bị. Sau khi hoàn thành nhóm trưởng đăng tải trên facebook của lớp, các thành viên nhóm lớp xem, chia sẻ và tham gia bình luận về video góp phần lan tỏa giá trị cuốn sách tới đông đảo bạn đọc.
2.2.3.4. Tổ chức biên tập
- M c tiêu biên tập
Họp nhóm tổ chuyên môn xây dựng mục tiêu biên tập quyển sách tập hợp những bài văn giới thiệu về quyển sách yêu thích. Hoạt động này hướng đến mục tiêu: HS tập hợp các bài văn giới thiệu về sách thành một quyển sách, trong đó giới thiệu được giá trị nội dung ý nghĩa, thông điệp tác giả cuốn sách gửi tới bạn đọc, góp phần nâng cao hiểu biết, bồi dưỡng tâm hồn hướng đến những giá trị sống tích cực.
Việc biên tập một cuốn sách sẽ giúp HS rèn luyện kỹ năng đọc, lựa chọn,
sắp xếp ngôn ngữ trong sáng, phù hợp với lứa tuổi các em.
41
HS biến những bài văn giới thiệu về sách thành một quyển sách tập hợp những giá trị tinh hoa của nhân loại, một việc làm theo cấp số nhân góp phần nâng lên số lượng đầu sách trong thư viện nhà trường, vừa chia sẻ tình yêu sách.
Phát triển năng lực làm việc nhóm, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực
chỉnh sửa, sắp xếp, biên tập quyển sách.
Quá trình biên tập tiến hành theo trình tự sau:
- Thành lập ban biên tập:
GV lựa chọn những em học HS tiêu biểu, có năng lực biên tập, nắm bắt vấn đề nhanh nhạy giat quyết tốt những khó khăn nếu có, nhiệt tình, tâm huyết và có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin tốt, đặc biệt là khả năng diễn đạt và cách sử dụng ngôn từ. - Phân công nhiệm v công việc:
+ Phân công 1 HS nhóm trưởng, 1 HS nhóm phó điều hành ban biên tập.
+ Phân công 10 em đọc và phân loại bài văn giới thiệu và tuyển chọn những bài chất lượng có thể đưa vào quyển sách biên tập. + Cử 3 em thiết kế trang bìa, hình ảnh minh họa và kết cấu đề mục của quyển sách + Phân công 3 em có khả năng viết tốt viết lời cảm n phần mở ầu thư i bạn ọc… + Phân công 4 HS có khả năng công nghệ thông tin, đánh máy các văn bản, bài viết được chọn biên tập. + GV chịu trách nhiệm cùng nhóm trưởng, nhóm phó sử dụng kinh phí được nhà trường cấp để in ấn, kiểm duyệt sản phẩm. - Tiến hành biên tập:
Ban biên tập đọc bài viết, xem video lựa chọn chỉnh sửa những bài viết chất lượng, đạt yêu cầu đưa vào quyển sách hoặc băng đĩa tập hợp video giới thiệu sách giới thiệu cho các thế hệ bạn đọc của nhà trường, góp phần bổ sung đầu sách trong thư viện trường.
Đối với bài văn giới thiệu:
+ Thiết kế kết cấu cuốn sách, thiết kế trang bìa, lựa chọn hình ảnh minh họa phù hợp, dự kiến sắp xếp tranh ảnh hợp lí, hấp dẫn. + Phân loại, sắp xếp theo chủ đề: Cùng một chủ đề như giới thiệu về cuốn sách/tác phẩm văn học kinh điển thế giới thì có thể sắp xếp theo thời gian ra đời của cuốn sách, theo nôi dung chủ đề cuốn sách thể hiện: phần tác phẩm/cuốn sách thể hiện số phận con người, phần cuốn sách viết về chủ đề tình yêu, tình cảm gia đình, chiến tranh… + Lời cảm ơn, thư bạn đọc, lời nói đầu… + Đánh máy, in ấn thành quyển sách sau khi chỉnh sửa lần cuối. + Tặng bổ sung đầu sách vào thư viện nhà trường.
42
Đối với video
+ Ứng dụng công nghệ số thiết kế chỉnh sửa hình ảnh phù hợp nội dung từng bài viết. Can tranh ảnh kèm theo lời thuyết minh về cuốn sách theo bố cục 3 phần: Phần mở đầu gồm trang bìa, lời nói đầu; phần thứ 2 gồm các bức tranh đặc sắc thuyết minh về sách kèm theo lời giới thiệu; phần cuối là lời cảm ơn và lời nhắn gửi bạn đọc. + Biên tập thành các video theo chủ đề về quyển sách như sách văn học, sách đạo đức, sách pháp luật…tạo danh mục sách điện tử, sản xuất thành băng đĩa và có thể gủi tặng thư viện trường.
Hình ảnh m t trong những cuốn sách ược HS biên tập.
3. Khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất
3.1. Mục đích khảo sát
Sau khi hoàn thành đề tài và áp dụng vào thực tiễn, tôi đã tiến hành khảo sát với mục đích thu thập thông tin đánh giá về sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt đã được đề xuất trong đề tài. Trên cơ sở kết quả thu được từ cuộc khảo sát tôi đã phần nào nhận thấy được hiệu
43
quả và những hạn chế của các giải pháp, từ đó điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện đề tài, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục HS.
3.2. Nội dung và phƣơng pháp khảo sát
3.2.1.Nội dung khảo sát
Nội dung cuộc khảo sát tập trung vào 2 vấn đề chính như sau:
- Tính cấp thiết của các giải pháp được đề xuất đối với vấn đề nghiên cứu hiện nay.
- Tính khả thi của các giải pháp được đề xuất đối với vấn đề nghiên cứu hiện nay.
3.2.2. Phương pháp khảo sát
Phương pháp được sử dụng để khảo sát là tr o ổi b n bản hỏi thông qua phần mềm Google Form qua đường link câu hỏi với thang đánh giá 04 mức (tương ứng với điểm số từ 1 đến 4)
- Không cấp thiết,ít cấp thiết, cấp thiết và rất cấp thiết.
- Không khả thi, ít khả thi, khả thi và rất khả thi
Tính điểm trung bình bằng phần mềm microsoft Excel 2010.
Giá trị khoảng cách = (Maximum –Minimum)/4 = (4 - 1)/4 = 0.75
ản 1: ác oạn iá tr
Tính cấp thiết Tính khả thi
Giá trị Mức độ Giá trị Mức độ
1.00 – 1.75 Không cấp thiết 1.00 – 1.75 Không khả thi
1.76 – 2.51 Ít cấp thiết 1.76 – 2.51 Ít khả thi
2.52 – 3.27 Cấp thiết 2.52 – 3.27 Khả thi
3.28 – 4.00 Rất cấp thiết 3.28 – 4.00 Rất khả thi
3.3. Đối tƣợng khảo sát
ản 2: Đối tượn ược hảo sát
TT Đối tƣợng Số lƣợng
1 Giáo viên 17
2 Học sinh 246
44
3.4. Kết quả khảo sát về tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đã đƣợc đề xuất
3.4.1. Sự cấp thiết của các giải pháp đã đề xuất
ản 3: ản ánh iá t nh cấp thiết củ các iải pháp
Các thông số TT Các giải pháp X c
3.47 Rất cấp thiết 1
Hoạt động xây dựng đề kiểm tra và đánh giá
Tổ chức hoạt động sân khấu hóa môn học 3.41 Rất cấp thiết 2
3
Tổ chức hoạt động Tron tiến Việt- sáng hồn Việt 2.52 Cấp thiết
Tổ chức cuộc thi Vu tiến Việt 3.61 Rất cấp thiết 4
3.52 Rất cấp thiết 5
Phát động phong trào đọc sách và giới thiệu sách
Điểm trung bình chung 3.38 Rất cấp thiết
Từ kết quả của cuộc khảo sát, nhận thấy các giải pháp đưa ra thật sự cấp thiết, nhất là trong bối cảnh ngôn ngữ mạng đang ngày càng tràn lan trong giới trẻ.Tiếng Việt đang bị một bộ phận không nhỏ học sinh làm vẩn đục, pha tạp dẫn đến thiếu trong sáng.
3.4.2. Tính khả thi của các giải pháp đã được đề xuất
ản 4: ản ánh iá t nh hả thi củ các iải pháp
Các thông số TT Các giải pháp X c
3.46 Rất khả thi 1
Hoạt động xây dựng đề kiểm tra và đánh giá
Tổ chức hoạt động sân khấu hóa môn học 3.33 Rất khả thi 2
3.48 Rất khả thi 3
Tổ chức hoạt động Tron tiến Việt- sáng hồn Việt
Tổ chức cuộc thi Vu tiến Việt 3.66 Rất khả thi 4
3.68 Rất khả thi 5
Phát động phong trào đọc sách và giới thiệu sách
Điểm trung bình chung 3.52 Rất khả thi
45
Từ số liệu khảo sát, chúng tôi thấy cả GV và HS đều đánh giá cao về tính khả thi của các giải pháp đã được đề xuất. Trong đó có 5/5 giải pháp đạt mức rất khả thi, đặc biệt giải pháp Phát n phon tr o ọc sách v i i thiệu v sách đạt đến điểm trung bình là 3.68. Nói chung các giải pháp này đã được triển khai, áp dụng tại trường THPT Lê Lợi trong năm học 2022-2023 có tính khả thi cao, có khả năng áp dụng trong phạm vi rộng và dễ thực thi cho tất cả các trường THPT trên địa bàn huyện Tân Kỳ nói riêng và các trường THPT trong toàn tỉnh Nghệ An nói chung. Đặc biệt là đề tài đã gợi mở các vấn đề liên quan để GV và HS tiếp tục nghiên cứu, nhằm giảm thiểu hiện tượng sử dụng ngôn ngữ mạng thiếu trong sáng của học sinh trường THPT Lê Lợi- Tỉnh Nghệ An từ đó góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
III. TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
1. Hình thành ý tƣởng
Đề tài này được hình thành ý tưởng từ nhiều năm học trước đây. Ngay từ những năm 2015-2016, khi hiện tượng ngôn ngữ mạng đang dần phổ biến trong giới trẻ, sự trong sáng của tiếng Việt đang dần báo động bản thân tôi đã trăn trở về vấn đề này.
2. Khảo sát thực tiễn
Sau khi hình thành ý tưởng, tôi tiến hành khảo sát vấn đề sử dụng ngôn ngữ của HS ở trường THPT Lê Lợi. Tôi nhận thấy được nhiều thực trạng đáng bàn trong cách sử dụng ngôn ngữ của các em HS ở trường. Đây cũng là động lực thúc đẩy tôi viết sáng kiến này. Khảo sát này được tiến hành trong các năm học từ năm học 2019- 2020.
3. Áp dụng thực nghiệm
Sau quá trình đúc rút kinh nghiệm, tôi đã áp dụng thực tế vào giảng dạy và các hoạt động ngoài giờ lên lớp tại trường THPT Lê Lợi. Đây là bước chủ yếu quyết định kết quả của thực nghiệm.
Tôi tiến hành dạy học theo giáo án đã thiết kế; tổ chức các hoạt động như đã trình bày ở trên vào thời gian trong các năm học 2021-2022 đến năm học 2022 – 2023.
4. Khảo sát thực nghiệm, đúc rút kinh nghiệm
Đây là bước cuối cùng nhằm rút ra kết quả thực nghiệm. Các công việc
chính trong bước này bao gồm:
- Chấm các bài kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS.
- Tiến hành khảo sát sau khi thực hiện sáng kiến.
- Thống kê, so sánh và rút ra kết luận về kết quả của việc áp dụng quy trình dạy học của sáng kiến.
46
5. Đánh giá hiệu quả
Đề tài được trình bày rõ ràng, dễ áp dụng. Ba năm qua tôi và các đồng nghiệp đã thể nghiệm phương pháp giáo dục này và hiệu quả được nâng lên rõ rệt. Những lợi ích của việc giáo dục theo hình thức này là rất lớn đối với cả người học, người dạy và nhà trường, xã hội.
Về phía người học: Việc GV áp dụng những biện pháp trên vào giảng dạy và trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp đúng lúc, đúng chỗ, phù hợp đã góp phần giảm thiểu hiện tượng lạm dụng ngôn ngữ mạng trong cuộc sống cũng như trong học tập. Các em đã có ý thức chủ động hạn chế sử dụng ngôn ngữ mạng, chủ động trau dồi vốn ngôn ngữ của bản thân cũng như nâng cao nhận thức về vai trò của bản thân trong việc gìn giữ sự trong sáng của ngôn ngữ nước mình. Nhiều HS tham gia tích cực các hoạt động tuyên truyền, bồi dưỡng khả năng tiếng Việt, tham gia các câu lạc bộ, các cuộc thi tiếng Việt. Đây chính là kết quả tôi và những đồng nghiệp khi áp dụng sáng kiến đều rất mong đợi.
Hơn nữa các đồng nghiệp trong tổ bộ môn khi đưa sáng kiến trên áp dụng vào thực tiễn giảng dạy đều thấy việc sử dụng tiếng Việt của học sinh có những chuyển biến tích cực hơn, trong bài làm văn, các lỗi dùng từ tiếng Việt giảm đi đáng kể, kết quả học tập môn Ngữ văn được nâng lên.
Học sinh phát huy được những năng lực sử dụng ngôn ngữ, giao tiếp, sử dụng tiếng Việt trong sáng hơn, nhận ra được những khuyết điểm, hạn chế, sai lầm của bản thân khi chưa có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt - tâm hồn Việt. Khi phỏng vấn một số HS tôi nhận được ý kiến phản hồi của các em là: Được tham gia vào các hoạt động ngoại khóa về giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt như thi sáng tác văn chương, sân khấu hóa môn học, chúng em nhận thấy tiếng Việt của chúng ta rất trong sáng, giàu đẹp và chúng em thấy mình cần có ý thức hơn nữa, hành động cụ thể hơn nữa để gìn giữ, phát huy vẻ đẹp của tiếng Việt.
Mặc dù vấn đề tôi đưa ra trong sáng kiến không hoàn toàn mới và đã có rất nhiều bài báo, các cuộc hội nghị bàn về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt nhưng với sự trăn trở khi quanh mình vẫn còn những HS sử dụng ngôn ngữ chưa chuẩn mực trong giao tiếp; đặc biệt với tình yêu, niềm tự hào về tiếng Việt trong chính trái tim mình, tôi đã vận dụng sáng kiến này vào các tiết dạy, các hoạt động ngoài giờ và đạt được kết quả khả quan. Trước hết, bản thân tôi đã nhận thấy những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương trình sách giáo khoa Ngữ văn mới và với những tiết dạy theo hướng đổi mới. HS có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết về sự giàu đẹp của tiếng nước mình đồng thời cũng rất linh hoạt trong thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng giao tiếp. Tôi cũng hi vọng với việc áp dụng đề tài này HS sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi và đặc biệt yêu thích môn Văn hơn, giữ gìn và phát huy sự trong sáng của tiếng Việt.
47
Qua kết quả thống kê, tôi nhận thấy hầu hết số HS được khảo sát đánh giá cao tác dụng việc sử dụng những biện pháp giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, đặc biệt các em có ý thức tốt hơn khi phát ngôn, khi viết văn, số lỗi vi phạm trong các bài kiểm tra đều giảm.
Kết quả thu được như sau:
Bảng khảo sát qua các bài kiểm tra
Sĩ Số lỗi vi phạm
Lớp số
Bài kiểm tra thường xuyên lần 1 Bài kiểm tra thường xuyên lần2 i viết iữ ỳ i viết cuối ỳ
2 12A10 40 25 16 7
2 12A5 41 22 15 8
Về phía người dạy: Có thể coi việc áp dụng sáng kiến vào trong giảng dạy và hoạt động đã giúp GV có thêm nhiều vốn tiếng Việt. GV hoàn toàn có khả năng tự tìm hiểu và nâng cao khả năng ngôn ngữ, làm giàu đẹp ngôn ngữ của mình thông qua các hoạt động cụ thể. GV cảm thấy yêu nghề hơn, yêu ngôn ngữ mẹ đẻ hơn và tự hào là người con của đất Việt.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
Với đề tài này, tôi đã nghiên cứu lí luận và xử lí số liệu từ thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân, hậu quả, đề xuất những giải pháp nhằm gìn giữ vẻ đẹp của ngôn ngữ một cách cụ thể. Qua đó, giúp HS thấy được sự cần thiết của hoạt động nâng cao và bồi dưỡng kiến thức ngôn ngữ ở trường THPT Lê Lợi. Hoạt động này góp phần không nhỏ trong việc hạn chế sử dụng ngôn ngữ mạng xã hội trong giao tiếp, giúp HS hiểu được bản chất và cách sử dụng ngôn ngữ trong môi trường học đường, giảm thiểu tác động tiêu cực có thể xảy ra; góp phần xây dựng môi trường giáo dục nhân văn, lành mạnh, thân thiện cũng như góp phần xây dựng và hoàn thiện nhân cách.Từ những thành công bước đầu sẽ là nguồn cổ vũ động viên không nhỏ để tôi tiếp tục ứng dụng cho HS trong những năm tiếp theo nhằm góp một phần nhỏ bé vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
II. KIẾN NGHỊ
1. Với các cấp quản lí
Đề thực hiện đúng tinh thần của ngành đối với việc giáo dục HS kĩ năng tự học, các cấp quản lí cần thực sự quan tâm. Cấp sở tăng cường tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng GV trên cơ sở nắm được thực tế việc sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp hàng ngày của học sinh cũng như việc vận dụng phương pháp Ngữ Văn ở cơ sở. Quản lí cấp trường cần khích lệ động viên thầy cô giáo, HS, mở các đợt trao
48
đổi việc sử dụng tiếng Việt, vẽ tranh cổ động, phương pháp dạy học tích hợp việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong tất cả các môn học cũng như trong đời sống hằng ngày. Với Bộ GD& ĐT, việc thay sách giáo khoa sắp tới cần một lần nữa chú trọng hơn trong việc đổi mới tư duy và phương pháp dạy - học tích hợp môn Ngữ văn vào trong các môn học khác.
2. Đối với tổ chuyên môn
Tổ chuyên môn phối hợp với nhà trường nên tổ chức các buổi ngoại khoá,
chuyên đề nói về ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong toàn trường.
Nếu có điều kiện có thể mời các nhà văn, nhà thơ, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ nói chuyện văn học, nói chuyện về việc sử dung ngôn ngữ tiếng Việt để giúp cho HS thêm yêu tiếng mẹ đẻ đồng thời làm phong phú ngôn ngữ của dân tộc mình.
3. Đối với giáo viên
Dạy học Ngữ văn, đặc biệt là dạy tác phẩm văn chương đòi hỏi người GV phải biến giờ “giảng văn” thành giờ dạy kỹ năng đọc hiểu văn bản, luyện nghe, đọc, nói, viết thật nhiều, mục đích làm sao để các em thấy tiếng Việt thật giàu và đẹp, để từ đó các em có kỹ năng đọc hiểu những tác phẩm văn chương khác. Điều này đòi hỏi người GV phải có tâm huyết, đồng thời cần có kỹ năng tổ chức tổ chức lớp học theo hướng đàm thoại, thảo luận thì tiết học mới có hiệu quả.
Nội dung dạy học của giáo án cần phải làm rõ những tri thức, kỹ năng cần hình thành. Phải chú trọng thiết kế các tình huống sử dụng tiếng Việt trong thực tế đời sống và tương ứng là các hoạt động phức hợp để học sinh vận dụng phối hợp tri thức, kỹ năng của các môn vào xử lý các tình huống đặt ra.
4. Đối với học sinh
Mỗi HS đều phải xây dựng, xác định và hình thành cho mình thói quen sử dụng tiếng Việt trong sáng, lành mạnh, xây dựng phương pháp học tập đúng đắn theo hướng ngày càng chủ động liên hệ, vận dụng, tích hợp kiến thức của nhiều môn, nhiều bài để giải quyết nhiệm vụ học tập. Từ đó, HS có khả năng để hình thành những kĩ năng sử dụng tiếng Việt đúng chuẩn phong cách.
Trên đây là nội dung đề tài sáng kiến được bản thân đúc rút trong quá trình dạy học. Những gì tôi trình bày trong đề tài là sự nghiên cứu tìm tòi và vận dụng vào thực tiễn trong một thời gian dài và thực sự đã mang lại những hiệu quả rất thiết thực góp phần vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt ở trường THPT.
Tuy nhiên, đề tài sẽ còn những chỗ chưa thật sự thỏa đáng, rất mong nhận được những góp ý từ Hội đồng khoa học các cấp và các đồng nghiệp để bổ sung hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Tân ỳ, ngày 20 thán 04 n m 2023
49
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Sách Tiến Việt v n Việt n ười Việt ( o Xu n Hạo)
[2]. ôn n ữ v ý th c ( homs y- Hoàng V n V n d ch)
[3]. Từ iển hái niệm n ôn n ữ học ( uyễn Thiện Giáp)
[4]. V p n ôn n ữ - V p v n chư n ( h iáo Lê Xu n ậu).
[5]. ôn n ữ mạn – Sự lạm d n y hậu quả xấu (L m V - áo H i)
[6]. Lo n ại thực trạn s d n n ôn n ữ mạn tron học sinh ( áo inh nh)
[7] Giữ n sự tron sán củ tiến Việt (Giáo d c Việt m)
50
PHỤ LỤC
Phục lục 1: HÌNH ẢNH CÁC HOẠT ĐỘNG GÓP PHẦN GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT Ở TRƢỜNG THPT LÊ LỢI
Hình ảnh tron hoạt n Tron tiến Việt- sán hồn Việt
51
t số h nh ảnh tron cu c thi Vua tiếng Việt tại trườn THPT Lê Lợi
52
53
54
55
56
Phụ lục 2: MỘT SỐ BÀI KIỂM TRA TIÊU BIỂU SAU TÁC ĐỘNG
57
58
Phụ lục 3: MỘT SỐ HÌNH ẢNH KHẢO SÁT TÍNH CẤP THIẾT VÀ TÍNH KHẢ THI CỦA CÁC GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT
Ảnh: Đồn n hiệp th m i hảo sát trên Goo le Form
59
Ảnh: iểu ồ h nh tr n thể hiện ết quả hảo sát
60
Ảnh: Khảo sát và kết quả khảo sát học sinh
61
Ảnh: X lý số liệu s u hi hảo sát trên Microsoft Excel 2010.