ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM 

TRẦN THỊ HẰNG

NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN

TRÊN NAM PHONG TẠP CHÍ (1917 – 1934)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Thái Nguyên – 2014

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM 

TRẦN THỊ HẰNG

NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN

TRÊN NAM PHONG TẠP CHÍ (1917 – 1934)

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Cao Thị Hảo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Thái Nguyên – 2014

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, khoa sau đại học, khoa ngữ

văn trường Đại học sư phạm Thái Nguyên, cùng toàn thể các thầy cô giáo đã

tham gia giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu khoa học cho tập thể lớp cao học

K20 – Văn học Việt Nam đã tạo điều kiện cho tôi có điều kiện học tập và

nghiên cứu khoa học.

Xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc tới TS. Cao Thị Hảo – người thầy rất

nghiêm khắc, tận tình trong công việc đã truyền thụ cho tôi nhiều kiến thức

quý báu cũng như kinh nghiệm nghiên cứu khoa học trong suốt quá trình học

tập và nghiên cứu đề tài.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình thầy cô và bạn bè đã luôn

động viên, khuyến khích và tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian học tập,

nghiên cứu và thực hiện luận văn này.

Thái Nguyên, ngày 25 tháng 04 năm 2014

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Trần Thị Hằng

LỜI CAM ĐOAN

“Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện

ngắn trên Nam phong tạp chí (1917 – 1934)”

riêng tôi, n

.

n “Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện

ngắn trên Nam phong tạp chí (1917 – 1934)” đã được chỉnh sửa theo ý kiến

của hội đồng.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2014 Tác giả luận văn. Trần Thị Hằng

Xác nhận Xác nhận

của khoa chuyên môn của ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. Cao Thị Hảo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

.

MỤC LỤC

Trang

Lời cảm ơn

Lời cam đoan

Mục lục ............................................................................................................... i

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1

NỘI DUNG ........................................................................................................................... 8

CHƢƠNG 1: THỂ LOẠI TRUYỆN NGẮN TRÊN NAM PHONG TẠP CHÍ

NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX ..................................................................................... 8

1.1 Truyện ngắn và ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn ......................... 8

1.1.1 Truyện ngắn ....................................................................................... 8

1.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn .......................................... 13

1.2. Sự xuất hiện của Nam Phong tạp chí và truyện ngắn trên Nam

Phong tạp chí ............................................................................................... 17

1.2.1. Bối cảnh lịch sử ............................................................................... 17

1.2.2. Đóng góp chung của Nam Phong tạp chí. ...................................... 21

1.2.3. Truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí .............................................. 24

1.2.4. Những đóng góp của truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí. ........... 28

CHƢƠNG 2: CÁC THÀNH PHẦN CƠ BẢN CỦA NGÔN NGỮ NGHỆ

THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN TRÊN NAM PHONG TẠP CHÍ ......................... 35

2.1. Lời trần thuật ........................................................................................ 35

2.1.1. Khái niệm lời trần thuật ................................................................... 35

2.1.2. Ngôn ngữ người kể chuyện bước đầu được cụ thể hóa ................... 36

2.1.3. Ngôn ngữ miêu tả đi sâu vào trạng thái cảm xúc của con người .... 43

2.2. Lời đối thoại ngắn gọn, sinh động ........................................................ 48

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

2.3. Lời độc thoại nội tâm. ........................................................................... 59

i

CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VỀ TỪ NGỮ, CÂU VĂN TRONG TRUYỆN NGẮN

TRÊN NAM PHONG TẠP CHÍ ....................................................................................... 71

3.1 Ngôn ngữ ảnh hưởng văn học truyền thống ........................................... 71

3.1.1 Hệ thống từ Hán Việt ....................................................................... 72

3.1.2. Lối diễn đạt ảnh hưởng văn biền ngẫu ............................................ 77

3.2. Ngôn ngữ ảnh hưởng từ văn học phương Tây ..................................... 80

3.2.1. Những từ ngữ có nguồn gốc từ tiếng Pháp ...................................... 81

3.2.2. Sử dụng câu văn ngắn gọn, súc tích ................................................ 86

3.2.3. Sử dụng nhiều từ ngữ đời thường mang tính khẩu ngữ .................. 90

KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 99

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 102

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1 Trước những biến động của xã hội vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu

thế kỷ XX, văn học Việt Nam chuyển mình từ văn học trung đại sang văn học

hiện đại, chính quá trình hiện đại hoá này đã đem lại cho văn học một diện

mạo mới cùng với sự xuất hiện của hàng loạt các trào lưu văn học mang tư

tưởng, chủ đề mới, đáng chú ý nhất là sự thay đổi của hệ thống thể loại. Trong

quá trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam đã xảy ra hiện tượng phá vỡ hệ

thống thể loại cũ. Những thể loại vùng ngoại biên dần đi vào trung tâm, đồng

thời xuất hiện những thể loại mới du nhập từ phương Tây. Sự cách tân nền

văn học được thể hiện rõ nhất qua sự phát triển và chiếm ưu thế của các thể

loại văn xuôi cùng với sự đổi mới mạnh mẽ của các thể loại đó.

Thể loại truyện ngắn xuất hiện khá sớm trong lịch sử văn học và nhanh

chóng khẳng định được vai trò của mình trong tiến trình phát triển văn học.

Ngay từ thời kỳ trung đại chúng ta đã thấy xuất hiện một số truyện như Việt

điện u linh bao gồm các truyện về thần thánh và các nhân vật lịch sử. Đến thế

kỷ XV Lĩnh Nam chích quái đã mở rộng phạm vi tới các truyện sinh hoạt

trong dân gian, thế kỷ XVI có Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã thể hiện

sự tiến bộ vượt bậc trong việc sử dụng hình thức văn xuôi. Sang thế kỷ XVIII

có Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ đã ghi chép các giai thoại lịch sử của

các nhân vật trong xã hội…Toàn bộ những tác phẩm kể trên đều là những tác

phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán. Qua thời gian nội dung các truyện đã đi từ

những câu chuyện thần thoại đến những truyện trong đời sống hằng ngày.

Tính sáng tạo nghệ thuật cũng được nâng cao dần, màu sắc văn chương phong

phú hơn. Tuy nhiên, phải đến đầu thế kỷ XX, truyện ngắn mới trở thành một

thể loại đặc biệt không thể vắng bóng của văn học Việt Nam. Trong mỗi tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

phẩm, các tác giả không chỉ phản ánh số phận, tính cách của các nhân vật tiêu

biểu cho một lớp người trong xã hội lúc đó mà qua đó còn bộc lộ được thái độ

của tác giả trước những hiện tượng của đời sống xã hội.

1.2. Ngôn ngữ là một phương tiện vô cùng quan trọng trong sáng tác văn

học. Nó là hình thức duy nhất để khẳng định sự có mặt và tồn tại của tác

phẩm. Thông qua ngôn ngữ nhà văn có thể bộc lộ được cách suy nghĩ và tài

năng sáng tạo của mình. Nhà văn là người tổ chức ngôn từ tạo nên hình tượng

nghệ thuật, chỉnh thể cho tác phẩm.Trong truyện ngắn, ngôn ngữ trở thành

một đối tượng đặc biệt được quan tâm nghiên cứu bởi những đặc trưng thể

loại của nó. Truyện ngắn với dung lượng ngôn từ không lớn nhưng chúng

phản ánh được một lát cắt của cuộc sống thể hiện bản chất hiện thực của xã

hội và con người. Đi vào nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn

trên Nam Phong tạp chí chúng ta mới thấy rõ được dấu ấn ngôn ngữ giai đoạn

giao thời, và có một cái nhìn cụ thể hơn về quá trình hiện đại hoá văn học.

Đồng thời chúng ta sẽ thấy được những nét riêng biệt của ngôn ngữ truyện

ngắn với ngôn ngữ của các thể loại văn học khác.

1.3. Khi nghiên cứu tiến trình lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn giao

thời không thể không nghiên cứu Nam Phong tạp chí. Mặc dù đã có thời kì nó

bị coi là tờ báo “nô dịch” mang tính chất “xu phụ”, “nịnh Tây” nhưng trong

một chừng mực khách quan thì các tờ báo khác nói chung và Nam Phong tạp

chí nói riêng đã có những đóng góp nhất định cho sự phát triển của văn học

dân tộc. Đây là chặng đường đầu tiên của văn học hiện đại góp phần tạo đà

cho các giai đoạn sau của văn học Việt Nam phát triển và nở rộ.

Với hi vọng đem lại cái nhìn khái quát về ngôn ngữ truyện ngắn trên

Nam Phong tạp chí cũng như đặc trưng ngôn ngữ truyện ngắn giai đoạn giao

thời, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

trên Nam phong tạp chí (1917 – 1934)” để nghiên cứu.

2. Lịch sử vấn đề

Ở Việt Nam báo chí có một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển

của văn học hiện đại. Ngay từ khi mới ra đời báo chí đã là nơi mở đầu và nuôi

dưỡng nhiều thể loại, nhiều khuynh hướng mới, nhất là những khuynh hướng

chịu ảnh hưởng của phương Tây, đặc biệt là thể loại truyện ngắn. Nam Phong

tạp chí là một tờ tạp chí có công lớn trong việc giới thiệu truyện ngắn bằng

chữ quốc ngữ. Những truyện ngắn được coi là dấu mốc đầu tiên của truyện

ngắn Việt Nam hiện đại cũng được giới thiệu trên tờ tạp chí này. Trước đây

do nhiều lí do mà phần văn chương trên Nam Phong tạp chí nói chung, truyện

ngắn trên Nam Phong nói riêng chưa được đánh giá đúng mức. Riêng về

truyện ngắn, các nhà nghiên cứu chỉ chủ yếu quan tâm đến Nguyễn Bá Học và

Phạm Duy Tốn, hai tác giả tiêu biểu của thể loại truyện ngắn Việt Nam thời kì

đầu. Nhưng hơn mười truyện ngắn của hai ông chưa phải là toàn bộ truyện

ngắn trên Nam Phong. Với gần ba mươi tác giả và hơn sáu mươi truyện ngắn

thì truyện ngắn Nam Phong hiện diện như một mảng của văn xuôi hiện đại.

Việc tìm hiểu một cách đầy đủ toàn diện về truyện ngắn Nam Phong nói

chung và ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Nam Phong tạp chí nói riêng

là một việc làm rất cần thiết.

2.1 Giai đoạn trƣớc năm 1945

Nghiên cứu về truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí sớm nhất phải kể

đến công trình Việt Nam văn học sử yếu (năm 1941) của Dương Quảng

Hàm. Tác giả đã dành khá nhiều trang viết về Nam Phong với có những

nhận xét sắc sảo về sự chuyển biến của hệ thống thể loại từ trung đại sang

hiện đại, đồng thời những nhận xét đó góp phần dự báo về một nền văn xuôi

mới – văn xuôi quốc ngữ.

Năm 1942 trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã nói đến một

cách sơ lược về các sáng tác văn học bằng chữ quốc ngữ giai đoạn giao thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

trong đó có nói tới nhóm tác giả trên Nam Phong tạp chí như Phạm Duy Tốn,

Nguyễn Bá Học…Tuy nhiên, đây mới chỉ là một công trình nghiên cứu khái

quát, có đề cập đến cách sử dụng ngôn ngữ của các tác giả trên nhưng chưa

làm rõ được một số vấn đề cơ bản về ngôn ngữ trong truyện ngắn trên Nam

Phong tạp chí.

Bên cạnh đó, nghiên cứu về Nam Phong tạp chí không thể không kể đến

các bộ sách như: Việt Nam văn học sử trích yếu của Nghiêm Toản, Lược sử

văn học Việt Nam của Thế Phong, các bộ Lược thảo lịch sử văn học Việt

Nam của nhóm Lê Quý Đôn…Hầu như, các công trình nghiên cứu trên đều

đề cập tới nền văn học giao thời nói chung và một số vấn đề của văn chương

trên Nam Phong nói riêng. Ngoài ra, một số bài nghiên cứu, những chuyên

luận về Nam Phong như cuốn: Chủ đích Nam Phong của Nguyễn Văn Trung,

Phê bình và cảo luận của Thiếu Sơn cũng ít nhiều có những gợi mở về ngôn

ngữ, cách hành văn của truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí.

Với những công trình này đã đem đến cho người đọc những kiến thức

khái quát nhất về Nam Phong tạp chí nói chung và thể loại truyện ngắn nói

riêng. Tuy nhiên, phần lớn những công trình này mới đề cập chủ yếu đến nội

dung phản ánh, phong cách của các tác giả là chính. Về phương diện ngôn

ngữ cũng chưa có một công trình nào nghiên cứu độc lập, chuyên sâu.

2.2 Giai đoạn sau 1945

Gần đây, truyện ngắn trên tạp chí Nam Phong đã được các nhà nghiên cứu

quan tâm nhiều hơn, tạp chí văn học số 6 năm 1987 đã giới thiệu bài viết :

“Bước đầu tìm hiểu truyện ngắn trên tạp chí Nam Phong” của Lại Văn Hùng.

Trong bài viết tác giả đã nhấn mạnh tính chất “văn” của truyện ngắn Nam Phong

đồng thời phân tích một số vấn đề về nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn

Nam Phong. Tác giả bài viết đã thống kê truyện ngắn của người Việt Nam viết

bằng chữ quốc ngữ chỉ gồm 34 truyện ngắn của 17 tác giả mà theo ông đó là

toàn bộ truyện ngắn của tạp chí này. Nhưng con số thống kê đó vẫn chưa đầy đủ.

Như vậy bài viết của ông mới chỉ khảo sát một nửa truyện ngắn trên Nam Phong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tạp chí chứ chưa phải là toàn bộ truyện ngắn Nam Phong.

Bài nghiên cứu Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong truyện ngắn quốc

ngữ 1900 – 1932 của tác giả Lê Dục Tú đã khẳng định những đặc điểm ngôn

ngữ trong truyện ngắn quốc ngữ đầu thế kỷ XX đi từ truyền thống đến hiện

đại. Quá trình hiện đại hóa ngôn ngữ này gắn liền với ngôn ngữ thể loại.

Năm 2013 cuốn Truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí của tác giả

Nguyễn Đức Thuận đã tập hợp được 47 truyện ngắn trên báo Nam Phong,

đồng thời nhà nghiên cứu đã đi sâu vào phân tích đề tài và chủ đề của truyện

ngắn trên Nam Phong tạp chí.

Bên cạnh đó, còn một số bài nghiên cứu về truyện ngắn trên Nam Phong

tạp chí như: Năm 1993 bài viết Một số vấn đề của truyện ngắn trên Nam

Phong tạp chí của Nguyễn Thúy Hòa đã khái quát được phần nào nội dung và

nghệ thuật của truyện ngắn trên báo Nam Phong. Trên Tạp chí Ngôn ngữ và

đời sống có bài Ngôn ngữ người kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn

Bá Học và Phạm Duy Tốn của tác giả Cao Thị Hảo đã đề cập tới vấn đề ngôn

ngữ nghệ thuật của hai tác giả lớn viết truyện ngắn trên báo Nam Phong.

Có thể nói, những công trình và bài viết trên đã đi sâu vào tìm hiểu những

vấn đề về nội dung và nghệ thuật trong truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí,

nhưng chưa có công trình nào đi sâu vào khai thác, khảo sát, hệ thống hóa ngôn

ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí để khẳng định được

những đặc điểm cụ thể về ngôn ngữ của thể loại truyện ngắn đã sớm xuất hiện

trên Nam Phong tạp chí trong tiến trình phát triển văn học dân tộc.

Chọn đề tài Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn trên Nam Phong

tạp chí (1917 – 1934), chúng tôi mong muốn bước đầu khảo sát một cách cụ

thể ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn viết bằng chữ quốc ngữ trên tạp

chí này. Nhưng do hạn chế về mặt tư liệu vì Tạp chí Nam Phong ra đời cách

đây khá lâu, việc lưu giữ có nhiều khó khăn nên đây cũng là một thách thức

với người nghiên cứu. Tuy nhiên để bổ sung một cái nhìn toàn diện đối với

thể loại truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí chúng tôi quyết định chọn hướng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

nghiên cứu này.

3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu

3.1 Phạm vi nghiên cứu

Thực hiện luận văn này chúng tôi tiến hành khảo sát 47 truyện ngắn viết

bằng chữ quốc ngữ in trong cuốn Đoản thiên tiểu thuyết, truyện ngắn trên

Nam Phong tạp chí của Nguyễn Đức Thuận – Nxb Văn học, 2013. Trong đó

tập chung vào những tác giả tiêu biểu như: Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học,

Lê Đức Nhượng, Nguyễn Khắc Cán, Tùng Toàn…

Ngoài ra chúng tôi cũng tham khảo thêm những truyện ngắn của các

tác giả khác cùng thời như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái

Quốc…để so sánh và thấy được sự khác biệt, nét độc đáo của ngôn ngữ

truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí.

3.2 Đối tƣợng nghiên cứu

Thực hiện luận văn chúng tôi tập trung tiến hành khảo sát và nghiên

cứu những biểu hiện cụ thể của ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn trên

Nam Phong tạp chí.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu.

Luận văn làm rõ một số khái niệm lí luận liên quan đến đề tài, khái quát

diện mạo chung thể loại truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí, sự xuất hiện,

những đóng góp tiêu biểu và vị trí của truyện ngắn trên Tạp chí Nam Phong

những năm đầu thế kỷ XX.

Luận văn đi sâu phân tích và chỉ ra một số đặc điểm tiêu biểu của ngôn

ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí. Qua đó cho thấy

dấu ấn ngôn ngữ văn học giai đoạn giao thời in đậm trong các truyện ngắn

này, góp phần khẳng định đóng góp của Nam Phong tạp chí cho văn học

hiện đại Việt Nam ở giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hoá từ phương

diện ngôn ngữ.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu.

5.1 Phƣơng pháp thống kê phân loại.

Để những phân tích, khảo sát có căn cứ khoa học khi cần thiết chúng tôi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tiến hành phương pháp thống kê phân loại.

5.2 Phƣơng pháp so sánh đối chiếu.

Sử dụng phương pháp này để thấy được nét tương đồng và khác biệt trên

phương diện ngôn ngữ trong truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí.

5.3 Phƣơng pháp phân tích tổng hợp.

Sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp để làm sáng tỏ những đặc điểm

về ngôn ngữ nghệ thuật.

5.4 Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành.

Vấn đề ngôn ngữ nghệ thuật có liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học

khác như: Lí luận văn học, lịch sử, văn hoá. Do đó, chúng tôi vận dụng

phương pháp này nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.

6. Đóng góp mới của luận văn.

- Cung cấp một cái nhìn toàn diện về đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của

thể loại truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí (1917 – 1934).

- Thấy được những đóng góp cụ thể và những hạn chế còn tồn tại ở

phương diện ngôn ngữ trong truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí trong quá

trình hiện đại hoá văn học Việt Nam giai đoạn giao thời.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung chính

của luận văn được triển khai trong 3 chương.

Chương 1. Thể loại truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí những năm đầu

thế kỷ XX.

Chương 2. Các thành phần cơ bản trong ngôn ngữ nghệ thuật truyện

ngắn trên Nam Phong tạp chí.

Chương 3. Đặc điểm về từ ngữ, câu văn trong truyện ngắn trên Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Phong tạp chí.

NỘI DUNG

CHƢƠNG 1

THỂ LOẠI TRUYỆN NGẮN TRÊN NAM PHONG TẠP CHÍ

NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX

1.1 Truyện ngắn và ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn

1.1.1 Truyện ngắn

1.1.1.1 Khái niệm

Về khái niệm truyện ngắn, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra những cách

hiểu khác nhau.

Lại Nguyên Ân cho rằng truyện ngắn là “một thể loại tự sự cỡ nhỏ,

thƣờng đƣợc viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết đến các phƣơng diện của đời

sống con ngƣời và xã hội. Nổi bật của truyện ngắn là dung lƣợng, tác phẩm

truyện ngắn thích hợp với việc tiếp nhận đọc nó liền mạch không nghỉ...”

(4. 1846-1847)

Các nhà văn với trải nghiệm thực tế của mình, đã đưa ra những cảm nhận

cụ thể và đa dạng. Đối với Konstantin Paustovski thì truyện ngắn phải ngắn

gọn, là cái bình thƣờng diễn ra nhƣ cái không bình thƣờng. Cái không bình

thƣờng diễn ra nhƣ cái bình thƣờng.[35.129]. Điều này cũng được nhà văn

Mĩ Juan Bosch khẳng định: “Truyện ngắn là sự trình bày một sự kiện nào đó

đáng chú ý. Cố nhiên sự kiện chỉ có thể quan trọng tới mức nào đó nhƣng nó

cần đƣợc độc giả tin cậy” [35.116]

Aitơmatov chú ý đến đặc trưng lao động nghệ thuật, ở đây đòi hỏi sự

chặt chẽ, cô đúc các phương tiện phải được tính toán một cách rất tinh tế xoay

quanh trên một mảnh đất hẹp, đó chính là điểm phân biệt truyện ngắn với

những thể tài khác.

Xuất phát từ dung lượng tác phẩm, các nhà nghiên cứu đều khẳng định

truyện ngắn phải ngắn gọn, hơn nữa truyện ngắn phải là thứ để kể và nghe.

Đọc truyện ngắn là được tiếp xúc với một vấn đề của đời sống con người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thông qua lăng kính người kể chuyện.

Theo các nhà biên soạn sách Lí luận văn học thì truyện ngắn là: “tác

phẩm tự sự cỡ nhỏ. Truyện ngắn đích thực xuất hiện tƣơng đối muộn trong

lịch sử văn học. Tác giả truyện ngắn thƣờng hƣớng tới khắc họa một hình

tƣợng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ xã hội hay đời sống tâm hồn

con ngƣời” [32.397]

Nguyễn Công Hoan khẳng định: truyện ngắn không phải là truyện mà là

một vấn đề đƣợc xây dựng bằng chi tiết.[35.15]

Nguyên Ngọc thì cho rằng: truyện ngắn là một bộ phận của tiểu thuyết

nói chung, vì thế không nên nhất thiết trói buộc truyện ngắn vào những khuôn

mẫu gò bó. Truyện ngắn có nhiều vẻ, có truyện viết về cả một đời ngƣời, lại

có truyện chỉ ghi lại một vài giây phút thoáng qua.[10.45]

Để có một cái nhìn thống nhất hơn, toàn diện hơn về truyện ngắn, chúng

tôi khảo sát một số khái niệm truyện ngắn trong các cuốn: Từ điển thuật ngữ

văn học, Từ điển văn học, 150 thuật ngữ văn học... Tất cả coi truyện ngắn là

một: “thể tài tác phẩm tự sự cỡ nhỏ”, và “thƣờng đƣợc viết bằng văn xuôi”,

đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội. Điểm

chung cơ bản đó là sự giới hạn về dung lượng của truyện ngắn và thích hợp

với người tiếp nhận “đọc nó liền một mạch không nghỉ...”.

Ở Việt Nam, theo Thanh Lãng thì khái niệm truyện ngắn hiện đại

Việt Nam chỉ có từ đầu thế kỷ XX trở đi.

Bùi Việt Thắng cho rằng truyện ngắn có mầm mống từ rất sớm, nó có

mầm mống từ văn xuôi trung đại chữ Hán, ông luận giải có truyện ngắn chữ

Hán và truyện ngắn hiện đại trong dòng chảy của lịch sử văn học Việt Nam.

Thế kỷ XI, mầm mống truyện ngắn đã xuất hiện với Việt điện u linh. Thế kỷ

XV trở đi, truyện viết mang tính nghệ thuật có yếu tố cá nhân và yếu tố thần

kỳ trong văn học. Thế kỷ XVII về sau, nó biến đổi dần thành ra tiểu thuyết

chương hồi và truyện Nôm.

Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chữ quốc ngữ phổ biến rộng rãi đặc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

biệt ở Nam Bộ, tác phẩm dịch thuật cũng đi vào miền Nam. Nguyễn Trọng

Quản, Trần Chánh Chiếu sáng tác những truyện mang đề tài tôn giáo, Huỳnh

Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký viết những truyện gắn với những vấn đề xã hội

(hình thức ngắn, đậm chất dân gian: gây cười, ngụ ngôn).

Những năm 1920, xuất hiện truyện ngắn hiện đại (lúc bấy giờ gọi là tiểu

thuyết) với dung lượng từ 80 – 100 trang. Sau đó, hình thức thể loại này

chuyển động ra Bắc và thành công với Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, và

một số truyện ngắn khác trên Nam Phong tạp chí

Vào đầu những năm 1930 xuất hiện với một số truyện ngắn lãng mạn của

nhóm Tự lực văn đoàn như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam…Truyện ngắn

hiện thực với đóng góp của các cây bút như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng

Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao, Ngô Tất Tố….

Giai đoạn 1945 – 1975: khi đất nước vẫn chịu sự xâm lược của thực dân

Pháp và đế quốc Mỹ thì âm hưởng của truyện ngắn mang tính sử thi hoá.

Và từ 1986 – nay: truyện ngắn đa dạng, phát triển rực rỡ, với nhiều ý

tưởng đổi mới thể loại, bước đầu cũng đạt những thành tựu nhất định.

Từ những khái niệm trên, theo chúng tôi, để nhận định truyện ngắn cần

dựa vào hai tiêu chí chính là dung lƣợng và thi pháp. Các yếu tố như cốt

truyện, tình huống, kết cấu, lời trần thuật, giọng điệu... được coi là cơ bản khi

tìm hiểu thể loại này.

1.1.1.2. Đặc điểm của truyện ngắn

* Hình thức tự sự cỡ nhỏ

Truyện ngắn là một hình thức tự sự cỡ nhỏ, chỉ thể hiện một bước ngoặt,

một trường hợp hay một tâm trạng nhân vật. Nói như Henri Benac: Một lời

mời gọi sự suy ngẫm thông minh của độc giả.

Như vậy, truyện ngắn là cách phát hiện nghệ thuật của đời sống theo

chiều sâu. Có những bậc thầy về thể loại này đã đem đến cho truyện ngắn một

sức chứa của tiểu thuyết. Ở lĩnh vực truyện ngắn thì văn học hiện đại thế giới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

có nhiều cây bút lừng danh như Bunhin, Môroa, Xvaigơ, Môravia,...

Văn học thế giới đã nói nhiều đến cái chết của tiểu thuyết - cái chết của

bi kịch nhưng chưa từng nói đến cái chết của truyện ngắn. Với hình thức tự sự

cỡ nhỏ, số trang ít, ít sự kiện, ít nhân vật, phạm vi phản ánh hẹp nhưng tất cả

những chi tiết góp phần làm cho câu chuyện đạt đến hiệu quả mong muốn, tác

động mạnh mẽ và giá trị thẩm mỹ lớn lao.

* Tình huống là yếu tố không thể thiếu

Tình huống được nảy sinh từ một sự kiện, một mâu thuẫn nhất định. Mâu

thuẫn càng quyết liệt, bất ngờ, thì tình huống càng hấp dẫn, cuốn hút. Khi tình

huống phát triển cao thì sẽ xuất hiện xung đột. Tình huống giúp cho những gì

còn nằm trong hình thức chưa phát triển nay bộc lộ và hoạt động tích cực. Vì

thế, truyện ngắn cũng như các thể loại tự sự khác, không thể thiếu tình huống.

Chỉ trong các tình huống cụ thể các nhân vật mới bộc lộ tính cách, tâm lý hoặc

thay đổi tính cách, tâm lý nhằm biểu đạt tư tưởng nghệ thuật của nhà văn.

Nói tóm lại, khi tiếp cận một truyện ngắn người đọc cần phải nắm được giá

trị của các bình diện nghệ thuật cấu thành cái thực thể sinh động - là truyện ngắn.

Nhưng nếu chưa nắm được tình huống thì xem như chưa nắm được chiếc chìa

khóa mầu nhiệm để mở vào một thế giới bí ẩn của truyện ngắn.

* Nhân vật đƣợc thể hiện nhƣ một lát cắt điển hình

Nhân vật có vai trò hết sức quan trọng trong tác phẩm. Có thể nói nhân

vật là xương sống là linh hồn của mỗi tác phẩm, nhân vật cũng là người phát

ngôn cho tư tưởng nhà văn, thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của

tác giả.

Nếu nhiệm vụ của tiểu thuyết là theo dõi, tìm hiểu và mô tả tỉ mỉ sự

thăng trầm của số phận thì nhiệm vụ của truyện ngắn thường hướng tới khắc

họa một hiện tượng, một nét tính chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống

tâm hồn con người - nhân vật tâm trạng.

Theo Sêkhốp, nhân vật truyện ngắn phải được hiểu theo nghĩa rộng, có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

khi là người, có khi là vật. Cho dù là tồn tại dưới dạng nào thì tất cả các nhân

vật đều hướng tới con người. Chỗ khác biệt cơ bản nhất của truyện ngắn là

nhân vật của tiểu thuyết thường là một thế giới thì nhân vật chính của truyện

ngắn chỉ là một mảnh nhỏ của thế giới.

* Vai trò quan trọng của chi tiết

Chi tiết là tiểu tiết trong tác phẩm tự sự. Truyện ngắn có thể không có

một cốt truyện nhưng không thể không có chi tiết. Chính nhờ có chi tiết mà

không khí, cảnh trí, tình huống, tính cách, hành động, tâm tư nhân vật được

bộc lộ đầy đủ. Nhà văn Nguyên Ngọc nhấn mạnh: “Truyện ngắn có thể có cốt

truyện, thậm chí cốt truyện ly kỳ, gây cấn, kể đƣợc. Truyện ngắn cũng có thể

chẳng có cốt truyện gì cả, không kể đƣợc nhƣng truyện ngắn không thể nghèo

chi tiết. Nó sẽ nhƣ nƣớc lã”. Nguyễn Công Hoan cũng nhìn nhận: “Truyện

ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề đƣợc xây dựng bằng chi tiết”.

Một chi tiết đắt giá ngoài ý nghĩa chân thực còn cần phải đạt tới ý nghĩa

tượng trưng, hàm chứa một cách nhìn, cách đánh giá và năng lực tưởng tượng

của nhà văn đối với cuộc sống và con người.

Thông thường ta thấy có hai loại chi tiết tiêu biểu: chi tiết trung

tâm đóng vai trò trung tâm thẩm mỹ, nơi nhà văn gửi gắm tư tưởng nghệ

thuật; chi tiết phụ trợ có chức năng đẩy câu chuyện vận động, phát triển.

Tóm lại, chi tiết chiếm dung lượng lớn trong truyện ngắn vì nó sẽ góp

phần cụ thể hóa ngoại cảnh, tính cách, hành động và tâm tư nhân vật. Đặc

trưng của thể loại truyện ngắn là dung lượng ngắn buộc các nhà văn khi sáng

tác cần tránh lối kể vòng vo, những câu kể dài dòng. Truyện ngắn luôn đòi hỏi

nhà văn phải không ngừng sáng tạo trong việc quan sát tìm tòi, lựa chọn các

chi tiết của truyện ngắn. Nói về điều này nhà văn Nguyễn Công Hoan nhấn

mạnh: “Cũng nhƣ một cái lò xo muốn bật cao, ta phải dùng sức ấn xuống rồi

mới buông tay ra. Cho nên muốn triển khai một ý, một vấn đề thì tôi tìm

những chi tiết để ấn cái lò xo tình cảm của độc giả xuống. Ở đây kinh nghiệm

cho thấy rằng cần phải chọn đúng chi tiết, không tham lam, không lông bông.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Bố trí không chặt truyện ngắn sẽ không viết đƣợc ngắn.” [42.305-306]

1.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn

1.1.2.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật

Trong đời sống giao tiếp hằng ngày của con người thì ngôn ngữ là

phương tiện vô cùng quan trọng, để con người có thể trao đổi tư tưởng tình

cảm, cảm xúc, bộc lộ những suy nghĩ của mình trước những vấn đề của đời

sống xã hội. Đặc biệt trong sáng tác văn học nghệ thuật thì ngôn ngữ lại trở

thành phương tiện không thể thiếu để các nhà văn xây dựng hình tượng và

phản ánh đời sống xã hội của mỗi giai đoạn thời kỳ khác nhau. Đồng thời

ngôn ngữ là “cầu nối” để các tác phẩm đến với người tiếp nhận một cách dễ

dàng hơn, để họ có thể đồng cảm chia sẻ đối với mỗi số phận nhân vật.

Theo F. Sausure – một nhà ngôn ngữ học lớn của thế kỷ XX, hoạt động

ngôn ngữ bao hàm nhiều mặt, nhiều nhân tố không thể tách rời nhau: âm và

nghĩ, nhân tố vật lý, sinh lý, tâm lý, nhân tố cá nhân và xã hội, truyền thống

thói quen… Và theo F. Sausure thì : ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu, mỗi

tín hiệu có hai mặt như hai mặt của một tờ giấy, không thể tách rời nhau gồm

cái biểu đạt (âm thanh ngôn ngữ) và cái được biểu đạt (khái niệm). Như vậy

ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của xã hội và là phương tiện để tư duy.

Hiện nay có rất nhiều những cách hiểu khác nhau về ngôn ngữ nghệ

thuật. Theo Từ điển Tiếng Việt, ngôn ngữ nghệ thuật được hiểu theo nghĩa

rộng: “là một hệ thống các phƣơng thức, phƣơng tiện tạo hình, biểu hiện, hệ

thống các quy tắc thông báo bằng tín hiệu thẩm mỹ của một ngành sáng tác

nghệ thuật. Ngƣời ta có thể nói đến ngôn ngữ ba lê, ngôn ngữ chèo, ngôn

ngữ” [25.6]. Khái niệm này đã nêu ra cách hiểu khái quát về ngôn ngữ nghệ

thuật nhưng chưa chỉ ra được những nét riêng của nó với tư cách là phương

tiện biểu hiện của các sáng tác văn học loại hình nghệ thuật ngôn từ. Vì thế

khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật cần được khu biệt một cách rõ hơn.

Trong công trình nghiên cứu Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng. Lê

Hồng My đã dẫn ra khái niệm ngôn ngữ trong cuốn Từ điển biểu tượng văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

hoá thế giới: “Ngôn ngữ là hệ thống ngữ âm, những từ và quy tắc kết hợp

chúng mà những ngƣời trong cùng một cộng đồng làm phƣơng tiện để giao

tiếp với nhau” [33.6]. Ở đây nhà nghiên cứu khẳng định: “Từ ngôn ngữ đến

lời văn nghệ thuật là cả quá trình lao động công phu, gian khổ của nhà văn.

Có thể ví ngôn ngữ nhƣ tấm vải còn lời văn là bộ y phục nhà thiết kế đã hoàn

thành [33.6]. Như vậy ngôn ngữ được sử dụng trong đời sống nói chung khác

với ngôn ngữ dùng trong tác phẩm văn học. Ngôn ngữ trong tác phẩm văn

chương xuất phát từ đời sống nhưng đã được chọn lọc tỉ mỉ, kĩ lưỡng chau

chuốt nhằm phục vụ cho dụng ý nghệ thuật của mỗi tác giả nhất định.

Từ những khái niệm trên chúng ta có thể nhận thấy rằng ngôn ngữ là

phương tiện giao tiếp quan trọng nhất trong đời sống con người, không có

ngôn ngữ thì không có tư duy, càng không thể có những tác phẩm văn học.

Ngôn ngữ nghệ thuật có những điểm khác so với ngôn ngữ đời sống chung.

Trong văn chương nghệ thuật, ngôn ngữ được dùng làm công cụ để nhà văn

sáng tạo và thể hiện tư tưởng của mình. Ngôn ngữ đời sống khi đi vào tác

phẩm văn học, qua lăng kính nghệ thuật và trí tuệ của người nghệ sĩ sẽ không

còn là ngôn ngữ chung nữa mà trở thành ngôn ngữ có phong cách riêng nhằm

thể hiện dụng ý nghệ thuật.

Theo cuốn Phong cách học Tiếng Việt, ngôn ngữ nghệ thuật được hiểu

là “ngôn ngữ đƣợc dùng trong thơ ca và trong văn xuôi nghệ thuật (bao gồm

các loại là: bút kí, kí sự, phóng sự, tuỳ bút, hồi ký…, truyện: truyện ký, truyện

ngắn, truyện dài…, kịch: hài kịch, bi kịch và chính kịch) và các thể loại trung

gian nhƣ tục ngữ, câu đối, ca dao, thơ văn xuôi, văn xuôi thơ”.[27.90]

Theo chúng tôi ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ được sử dụng một cách

nghệ thuật trong tác phẩm văn học, đó là ngôn ngữ mang tính hình tượng, tính

biểu cảm thể hiện rõ cá tính sáng tạo của nhà văn. Trong thực tế thì ngôn ngữ

nghệ thuật còn có các khái niệm mang ý nghĩa tương đồng:

Lời văn nghệ thuật là “dạng phát ngôn đƣợc tổ chức một cách nghệ

thuật, tạo thành cơ sở ngôn từ của văn bản nghệ thuật, là hình thức ngôn từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

nghệ thuật của tác phẩm văn học” [33.187]

Ngôn ngữ văn học là “ ngôn ngữ mang tính nghệ thuật dùng trong văn

học” [33.215]

Có thể nói, ngôn ngữ nghệ thuật hay ngôn ngữ văn học đều là ngôn ngữ

mang tính nghệ thuật được dùng trong văn học, nó là sản phẩm do các nhà

văn sáng tạo trên cơ sở kho tàng ngôn ngữ chung và được tổ chức một cách

đặc biệt để phản ánh đời sống, thể hiện tư tưởng, tình cảm. Theo M. Gorki

“Ngôn ngữ là do nhân dân sáng tạo ra. Chia ngôn ngữ ra làm ngôn ngữ văn

học và ngôn ngữ nhân dân chỉ có nghĩa là chúng ta có một thứ ngôn ngữ

“nguyên liệu” và một thứ ngôn ngữ đã đƣợc các nhà nghệ sĩ gọt giũa thêm

mà thôi”.[41.43]. Như vậy ngôn ngữ nghệ thuật chính là phương tiện đã được

gọt giũa của người nghệ sĩ để thể hiện thế giới nghệ thuật của riêng mình.

1.1.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn

Văn học là nghệ thuật ngôn từ, ngôn từ là chất liệu của văn học: Ngôn

ngữ là công cụ giao tiếp trong đời sống xã hội. Ngôn ngữ góp phần trực tiếp

vào việc giao lưu và phát triển xã hội. Ngôn ngữ có vị trí quan trọng trong

sáng tác văn học. Nhưng mỗi thể loại văn học đều có những đặc trưng riêng

của nó. Những đặc trưng này chi phối việc tác giả lựa chọn ngôn ngữ để xây

dựng lên một thế giới nghệ thuật của mình. Ngôn ngữ tự sự khác với ngôn

ngữ trữ tình và kịch. Do thiên về phản ánh hiện thực đời sống nên ngôn ngữ

của tác phẩm tự sự thường nghiêng về tính chính xác, cá thể hoá nhằm tái tạo

lại sự vật trong hình thái cụ thể và độc đáo, còn tác phẩm trữ tình bộc lộ trực

tiếp thế giới chủ quan của chủ thể ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm, trong khi

đó ngôn ngữ của kịch lại rất giàu kịch tính, đem lại cho con người sự khám

phá và tò mò.

Truyện là thể loại văn học xuất hiện từ lâu, đây là loại văn tự sự kể chuyện

trình bày sự việc. Truyện có cốt truyện, có nhân vật, quy mô thường lớn hơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thơ. Truyện phần lớn được viết bằng văn xuôi, bên cạnh đó cũng có loại văn

vần. Khác với thơ thiên về cái đẹp, xúc cảm và cô đọng, truyện có khả năng đi

sâu vào từng khía cạnh ngóc ngách phức tạp của cuộc sống tâm hồn.

Nếu như ngôn ngữ của thể loại kí luôn mềm mại uyển chuyển, đầy sắc

tạo hình với những thông tin ngắn gọn, chính xác thì ngôn ngữ truyện ngắn

chủ yếu là ngôn ngữ người kể chuyện mà “ngƣời kể chuyện là ngƣời luôn

đảm đƣơng chức năng trần thuật, giới thiệu miêu tả bình luận con ngƣời và

sự kiện” [4.27]. Điều này luôn hướng người đọc đến đối tượng miêu tả. Ngoài

ngôn ngữ người kể chuyện thì ngôn ngữ truyện ngắn còn có ngôn ngữ của

nhân vật, thông qua đối thoại và độc thoại. Hai loại ngôn ngữ này tạo ra được

những cảm giác bất ngờ, tình huống giàu kịch tính góp phần bộc lộ tính cách

nhân vật và tư tưởng của nhà văn. Bên cạnh lời đối thoại trực tiếp thì còn có

những lời độc thoại nội tâm giúp ta cảm nhận sâu sắc hơn về tâm trạng, diễn

biến tâm lý bên trong vốn hết sức đa dạng và phức tạp của nhân vật. Đồng

thời lời kể bên ngoài cũng đóng vai trò chủ đạo trong truyện, điều này cho

phép tái hiện, phân tích các sự vật hiện tượng một cách khách quan hoặc dẫn

dắt truyện đến các tình huống xảy ra để nhân vật tự bộc lộ tính cách của mình.

Bên cạnh đó truyện ngắn với đặc trưng là phản ánh hiện thực khách quan

do đó mà ngôn ngữ của truyện ngắn rất gần gũi với đời sống hằng ngày, thậm

chí còn mang đậm tính khẩu ngữ, ngôn ngữ nhân vật bước đầu thể hiện tính

cá thể hóa. Có thể nói, ngôn ngữ truyện ngắn là sự kết hợp hài hoà giữa ngôn

ngữ tự sự và trữ tình mà qua mỗi trang truyện ngắn người đọc không chỉ cảm

nhận được một thế giới khách quan, chân thực mà còn thấy được ở đó sự tinh

tế, uyển chuyển và giàu sức tạo hình.

Mỗi một giai đoạn lịch sử khác nhau thì ngôn ngữ của truyện ngắn ngoài

những đặc điểm chung còn mang trong mình những dấu ấn riêng biệt, điều

này phản ánh được sự cách tân của các nhà văn cũng như sự tiến bộ của xã

hội. Tìm hiểu Ngôn ngữ nghệ thuật của truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

(1917- 1934) chúng ta sẽ thấy rõ điều này.

1.2. Sự xuất hiện của Nam Phong tạp chí và truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí

1.2.1. Bối cảnh lịch sử

Sang đầu thế kỉ XX, về cơ bản thực dân Pháp đã bình định song xứ Đông

Dương về mặt quân sự. Cùng với sự tan rã của nghĩa quân Phan Đình Phùng

(1896), phong trào chống Pháp dưới lá cờ Cần Vương, kéo dài hàng chục năm

của nhân dân Việt Nam đã chấm dứt. Thực dân Pháp đã biến nước ta trở

thành một bộ phận của thế giới trong tình thế mất chủ quyền.

Chính sách vơ vét sức người sức của để phục vụ cho chiến tranh đã được

thực dân Pháp áp dụng ở tất cả các nước thuộc địa. Tại Việt Nam quá trình

này đã làm xã hội nước ta thay đổi một cách sâu sắc và toàn diện, chuyển từ

chế độ phong kiến sang chế độ thực dân nửa phong kiến. Trước đây nước ta

chủ yếu là nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, nhỏ lẻ, manh mún thì giờ đây lại

xuất hiện một nền sản xuất mới có áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật

phương Tây, hàng loạt các nhà máy, xí nghiệp, đô thị mọc lên. Phải nói rằng

thực dân Pháp một mặt chúng ra sức vơ vét tài nguyên thiên nhiên nước ta

làm giàu cho chính quốc nhưng mặt khác lại làm cho toàn bộ đời sống kinh tế

xã hội nước ta thay đổi. Đặc biệt là sự xuất hiện thêm những giai tầng mới

không chỉ có giai cấp địa chủ và nông dân mà còn có sự có mặt của giai cấp

công nhân, giai cấp tiểu tư sản và giai cấp tư sản. Mỗi giai cấp đều có những

tư tưởng,thái độ chính trị, vị trí xã hội và quyền lợi kinh tế khác nhau.

Bên cạnh đó để thuận tiện cho việc khai thác tài nguyên thiên nhiên nước

ta, chúng đã cho xây dựng một hệ thống cơ sở giao thông liên lạc thuận tiện.

Điều này làm cho sự giao lưu văn hoá giữa các vùng miền trở nên dễ dàng

hơn. Song dã tâm của thực dân Pháp không chỉ dừng ở đây chúng còn muốn

đẩy mạnh chính sách văn hoá nô dịch nghĩa là chúng muốn thống trị cả về văn

hoá, do đó mọi hình thức văn học nghệ thuật đều được bọn thực dân lợi dụng

cho mưu đồ thống trị tinh thần của chúng. Các tác phẩm như: Vè lính Tây,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Thơ đi Tây, Dân mộ đi Tây, Tuồng lính tập đi Tây…được phổ biến rộng rãi.

Nằm trong toàn bộ chính sách văn hoá tư tưởng báo chí luôn luôn được

thực dân Pháp xem trọng. Tờ Đông Dƣơng tạp chí vốn là một thứ công cụ mà

thực dân Pháp lợi dụng ngay từ ban đầu, khi tiến hành chính sách “đồng hoá”

đến đầu năm 1915, tạp chí này được “phân thân” thành Trung Bắc tân văn

(xuất bản bằng chữ quốc ngữ) và Công thị báo (xuất bản bằng chữ Hán ) cho

phù hợp với sự thay đổi chính sách cai trị của Pháp, từ “đồng hoá “ sang “hợp

tác” trên cơ sử hướng dẫn, chỉ đạo. Đây là những tờ báo với nội dung thiên về

chính trị, kinh tế, chủ yếu phục vụ cho mục đích của thực dân, nhằm tuyên

truyền, cổ động những tư tưởng của chúng.Tuy nhiên Đông Dƣơng tạp chí dù

chỉ thay đổi hình thức thì cùng với thời gian cũng trở nên “lỗi mốt”, kém tác

dụng. Phủ toàn quyền muốn có một tờ báo “tầm cỡ” hơn và Nam Phong tạp

chí ra đời.Ngoài nhiệm vụ tuyên truyền, cổ động phục vụ mục đích, chính trị

của Pháp, ngoài chức năng làm “công cụ xâm lược, khai hoá” cho Phủ toàn

quyền, Nam Phong còn là một tờ tạp chí văn học nghệ thuật và khoa học có

tiếng đương thời. Hàng loạt các tác phẩm văn chương có giá trị đã được tờ tạp

chí này giới thiệu cũ có, mới có, từ dịch thuật, tiểu thuyết, khảo cứu đến lý

luận phê bình, tản văn, ký… Tất cả được viết bằng thứ chữ viết mới của dân

tộc- chữ quốc ngữ.

Nam Phong tạp chí đã trở thành địa bàn hoạt động văn chương sôi nổi của

các văn nghệ sĩ. Họ sáng tác dưới nhiều hình thức khác nhau, thể hiện những tư

tưởng, quan điểm khác nhau…Làm hình thành nên một hệ thống thể loại phong

phú, với nhiều nét mới theo hướng hiện đại, làm thay đổi bộ mặt của văn học

Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX. Khi thực dân Pháp chưa tiến hành xâm

lược nước ta, khi xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội phong kiến với nền nông

nghiệp lúa nước đã tồn tại từ ngàn năm trước, thì đội ngũ tri thức chủ yếu là lớp

nhà nho nguyên hợp với một tư tưởng gần như đồng nhất từ trên xuống duới,

hoặc là “hành đạo”, hoặc là “ẩn dật”. Đến tận thế kỷ XIX trong văn học Việt

Nam mới xuất hiện thêm một mẫu nhà nho mới – Nhà nho tài tử. Họ vừa là

nhân vật trong tác phẩm văn học, vừa là những văn sĩ tài hoa, tiêu biểu là Cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Bá Quát, Nguyễn Công Trứ …và người đại diện cuối cùng là Tản Đà.

Việc quân Pháp tiến đánh và dần độc chiến Việt Nam cùng với những

chính sách cai trị thâm độc của chúng đã làm cho xã hội phong kiến Việt Nam

bị lung lay tới tận gốc rễ. Một ý thức hệ Nho giáo tồn tại hàng ngàn năm

tưởng chừng sẽ vững bền mãi nay đột ngột sụp đổ, nếp nghĩ, nếp sinh hoạt

của người Việt đổi thay theo chiều hướng có cả tích cực lẫn tiêu cực. Lớp

người “nhạy cảm” nhất với những biến động của xã hội là giới trí thức, việc

“hiện đại hoá”, “chuyên nghiệp hoá” đội ngũ tri thức đã diễn ra. Nếu trước

đây, nhà Nho sáng tác để phục vụ mục đích chính trị hoặc để mua vui, để gửi

gắm tâm sự… Thì hôm nay, đã có những nhà Nho từ nông thôn ra thành thị,

dùng ngòi bút của mình để kiếm sống nuôi thân. Sự phân công lao động nội

tại của tầng lớp trí thức đã diễn ra, xuất hiện thêm những loại tri thức mới

chưa từng có trước đây như: ký giả, văn sĩ chuyên nghiệp, nhà khoa học, nhà

tư tưởng …Hơn thế, ngay trong bản thân mỗi văn nghệ sĩ cũng có sự phân

công khác trước, các yếu tố: nhà văn, nhạc sĩ, hoạ sĩ, nhà thơ…Trước kia

thường tồn taị trong một người thì nay được phân công rành mạch.

Một khi nếp sống thay đổi thì tư tưởng sống, nếp nghĩ cũng thay đổi.

Phần lớn giới tri thức những năm đầu thế kỷ XX đã sống thu mình lại, không

dám đấu tranh trực diện với kẻ thù như trước (ngoại trừ một số nhà chí sĩ yêu

nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh). Họ vẫn yêu nước, vẫn đau xót

trước cảnh đất nước rơi vào vòng nô lệ xơ xác, tiêu điều nhưng chỉ dám dùng

hình thức sáng tác văn chương để bóng gió gửi vào đó những tâm sự hoặc gìn

giữ những tài sản tinh thần mà ông cha ta để lại. Dùng bạo lực để đấu tranh là

điều mà phần lớn giới trí thức thời kỳ này đều không muốn, họ do dự, một

mặt đau đớn trước tình trạng “vong quốc nô”, nhưng mặt khác muốn giữ cho

cuộc sống của mình được bình yên. Tóm lại, giới tri thức muốn “yêu nước ôn

hoà”, họ giữ một tư tưởng cải lương và tư tưởng của họ có ảnh hưởng rộng

khắp trong xã hội thời kỳ này, khi mà lực lượng chính trị mới về chất còn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

chưa có.

Những đổi thay trong cách sống, cách nghĩ đã có tác động sâu sắc tới

quan niệm sáng tác của đội ngũ trí thức – văn nghệ sĩ, họ đưa vào văn học cũ

những súc cảm cá nhân, những cảnh vật, không khí thành thị và vì nghiệp viết

văn bán cho công chúng họ đã ra công khai thác tất cả những kinh nghiệm

sáng tác trong ca dao, dân ca và những truyện Nôm của nhà Nho các thế kỷ

trước, tìm những cái gì thích hợp để nói về cuộc sống mới, con người mới ở

thành thị. Họ cũng mang vào lịch sử văn học dân tộc những cách tân đáng kể

về nội dung, nghệ thuật về quan niệm văn học.

Trước những biến động của xã hội, sự thay đổi của đội ngũ trí thức, đầu

thế kỷ XX văn học Việt Nam cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ, không chỉ về

mặt nội dung mà cả về mặt hình thức thể loại.

Văn chương cử tử, ngay từ đầu thế kỷ XX đã bị kết án và khai tử bởi

chính đại diện xuất sắc của nó, những vị Giải nguyên, phó bảng, Hoàng giáp –

những nhà chí sĩ. Tuy nhiên, văn học bằng chữ Nôm không vì thế mà bị loại

khỏi đời sống văn học. Trái lại, gắn với hoạt động cách mạng của lớp nhà

Nho yêu nước, bộ phận văn học này vẫn là một trong những dòng chủ lưu của

văn chương đương thời, bên cạnh văn chương quốc ngữ. Thực tế lịch sử đó

mở ra ngả đường cho việc xây dựng nền văn học mới, đó là từng bước cách

tân văn học truyền thống hoặc mô phỏng, bản địa hoá, du nhập mô hình văn

học phương Tây.

Những nhà cựu học như Tản Đà, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn

Phục… đã tiến hành công việc cách tân văn học truyền thống bằng cách

chuyển dịch một số thể loại từ vặn học Hán Nôm sang văn học quốc ngữ.

Nhiều hình thức thể loại văn học đặc thù, mang tính trung gian của giai đoạn

văn học giao thời đã xuất hiện như: “mộng ký” của Tản Đà,” truyện ngắn”

của Nguyễn Bá Học, văn biên khảo của Nguyễn Hữu Tiến…

Bên cạnh con đường cách tân những gì vốn có trong quá khứ mà nhiệm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

vụ chủ yếu thuộc về các nhà nho với hai đại diện tiêu biểu là Phan Bội Châu

và Tản Đà, là con đường du nhập, mô phỏng, bản địa hoá các mô hình thể loại

của văn học phương Tây của các trí thức tân học. Họ là những người có kiến

thức, được đào tạo từ nhà trường Pháp – Việt, cộng với kiến thức truyền

thống bồi bổ bằng con đường tự học, những tri thức mà họ tiếp nhận ít bị phụ

thuộc hoặc không giống tri thức mà lớp nhà nho cựu học tu luyện để ra làm

quan, do đó họ có nhu cầu đổi mới hiện đại hoá nền văn học.

Lớp trí thức tân học này đã có công chuyển đổi nền văn học Việt Nam từ

phạm trù trung đại với vác dạng thức: văn, thơ, phú, lục, với quan điểm “văn

sử triết bất phân”, “văn sĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí” sang phạm trù hiện đại

với vác dạng thức: Tự sự, trữ tình, kịch, được xây dựng từ một cơ sở lý luận

về thể loại tương đối có hệ thống, từ những cơ sở lý thuyết sáng tác và cảm

thụ thẩm mĩ hiện đại vốn có nguồn gốc từ truyền thống văn học châu Âu.

Xuất hiện đúng vào thời điểm mà hoạt động văn hoá, văn học đang hết sức

sôi động và có những đổi thay không ngờ, Nam Phong – tờ tạp chí bách khoa

nhưng luôn giành vị trí trang trọng cho văn chương đã có những đóng góp

đáng kể. Nó giúp cho việc lưu hành một lượng lớn tác phẩm văn học, đồng

thời là địa bàn hoạt động khá tự do của nhiều văn nghệ sĩ.

1.2.2. Đóng góp chung của Nam Phong tạp chí.

Nam Phong tạp chí ra đời trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp bảo

hộ, văn hoá phương Tây “lăm le đè lụi” văn hoá Việt Nam. Đây là giai đoạn

giao thời chuyển từ thời kỳ này sang thời kỳ khác, cái cũ và cái mới đan xen

lẫn nhau, cuộc đấu tranh đó chưa phân thắng bại. Đây cũng là một giai đoạn

hết sức phức tạp, nội dung và hình thức cũ mới đan xen lẫn nhau. Nền văn

học cũ khắc phục dần những hạn chế, từng bước canh tân. Nền văn học mới

vừa phát huy những yếu tố hiện đại vừa kế thừa những thành tựu của nền văn

học truyền thống. Vì vậy văn học giai đoạn này có một diện mạo đặc biệt, tạo

nên những đặc điểm riêng biệt.

Nói đến tiến trình lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn giao thời không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thể bỏ qua Nam Phong tạp chí, mặc dù nó bị cho là “tờ báo nô dịch” mang

tích chất “xu phụ”, “nịnh Tây” nhưng trong một chừng mực khách quan nó

vẫn cùng với các tờ báo khác tác động đến sự phát triển của văn học dân tộc

trên toàn bộ quá trình văn học. Nam phong tạp chí (ra số đầu vào tháng 7 năm

1917 và đình bản ở số 210, tháng 12 năm 1934) là một loại báo bách khoa.

Nam Phong đã đề cập tới rất nhiều vấn đề của đời sống cũng như văn học, với

nhiều chuyên mục khác nhau mà tập chung trong 9 phần sau:

* Phần lược thuật: Bàn chung những vấn đề có liên hệ đến thời thế, nhất

là những phần liên hệ đến riêng dân ta để cho độc giả trong nước có những

quan niệm minh chính về vấn đề này.

* Phần văn học bình luận: Khái niệm văn học ở đây bao gồm nhiều nội

dung: văn chương, lịch sử, văn minh…Trong mục này, Nam Phong bàn về

các sách cũ và mới, thâu nhặt những tư tưởng của phương Tây, giới thiệu

nhiều tác phẩm lý luận, phê bình và tiểu sử các nhà văn nổi tiếng của nước

ngoài, đặc biệt là văn học Pháp.

* Phần triết học bình luận: Luận thuyết tư tưởng từ xưa tới nay, so sánh

tư tưởng Á – Âu để đề xướng một phong trào riêng của nước ta, lấy tôn chỉ là

giúp cho nhân dân về trí thức và đạo đức.

* Phần khoa học bình luận: Nói tới những vấn đề đại cương, nguyên lý

lịch sử tiến hành của khoa học. Ngoài ra còn giải thích những phát minh mới…

* Phần văn uyển: Sưu tầm và biên soạn những tác phẩm thơ ca chữ Hán,

chữ Nôm và đăng tải những bài thơ mới (thơ, truyện, ca trù, tùy bút, các bài

văn cảm xúc…)

* Phần tạp trở: Đăng những bài ký (du hành, du ký) nhằm trình bày

những câu chuyện mắt thấy tai nghe, dọc đường của một chuyến tham quan,

công tác… và những bài tựa, bài giới thiệu sách mới, những danh ngôn, trích

lục các sách.

* Phần thời đàm: Gồm các bài bàn về tình hình thế sự trong và ngoài

nước. Những bài viết này thể hiện một thái độ khá bình tĩnh khi trình bày các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

sự việc khác nhau, song ý thức ca ngợi Pháp vẫn còn bộc lộ.

* Phần tiểu thuyết: Dịch các tiểu thuyết cận đại, hiện đại của Trung Quốc

và Pháp sang quốc văn và đăng tải những tiểu thuyết mới. tạp chí cố ý chọn

những cuốn có ngôn từ hay, kết cấu khéo làm chuẩn mực chỉ lối, dẫn đường

cho thể loại “truyện ngắn” do chính các tác giả Việt Nam sáng tác bằng chữ

quốc ngữ.

* Phần từ vựng: Gồm 3 phần (chữ quốc ngữ, chữ Nho và chữ Pháp) với

mục đích là giải thích ngôn ngữ mới.

Chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí này là Phạm Quỳnh (1892 – 1945), cùng

những cộng sự của ông đã chủ trương xây dựng một nền “quốc học, quốc

văn” mới với tư tưởng “thổ náp Á – Âu”, “điều hoà tân cựu”. Theo chủ

trương này thì Tạp chí Nam Phong sẽ là nơi phát sáng, thâu nạp tinh hoa văn

hoá châu Âu, điều hoà văn hoá cũ và văn hoá mới, tạo dựng một nền văn hoá

văn học mới cho dân tộc. Trên tinh thần đó, một mặt Nam Phong đã sưu tầm,

khảo cứu văn học cổ của dân tộc điều này đã giúp Nam Phong thu về một

khối lượng tác phẩm khá đồ sộ, góp phần làm sống dậy những sáng tác của

ông cha đã bị lớp bụi thời gian che phủ. Mặt khác, Nam Phong cũng đã tích

cực dịch những tác phẩm nước ngoài với mục đích giới thiệu đến bạn đọc

những thành tựu văn học của thế giới. Đồng thời, sáng tạo ra những thể loại

văn học mới trong đó có truyện ngắn. Nhà văn Vũ Ngọc Phan từng nhận xét:

“Nhiều thanh niên trí thức đã có thể căn cứ vào những bài trên Nam Phong

tạp chí để bồi bổ cho cái học còn khiếm khuyết của mình. Thậm chí có người

đã lấy Nam Phong làm sách học mà cũng thâu thái được tạm đủ tư tưởng học

thuật Đông – Tây”. Bởi ở đó có cả một lực lượng tri thức đông đảo, trong đó

có nhiều học giả uy tín đã giúp sức cho Nam Phong. Họ cùng nhau trao đổi

nhằm giúp cho Nam Phong trở thành một cơ quan truyền bá văn hóa, nâng

cao chất lượng quốc văn.

Một trong những đóng góp quan trọng của Nam Phong tạp chí chúng ta

không thể không nói tới việc truyền bá chữ quốc ngữ. Đặc biệt là việc mạnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

dạn đề nghị đưa chữ quốc ngữ vào trong công văn giấy tờ và vào giảng dạy

trong trường học. Phải nói rằng, Nam Phong tạp chí có công lớn trong việc

xây dựng và hệ thống hóa kho từ vựng, người nổi bật nhất trong Nam Phong

tạp chí không ai khác chính là chủ bút Phạm Quỳnh, ông đã góp phần vào

việc truyền bá, cổ vũ và sử dụng chữ quốc ngữ thay thế cho chữ Hán và chữ

Nôm để xây dựng một nên quốc văn cho đất nước.

Có rất nhiều ý kiến khác nhau đánh giá về Nam Phong tạp chí. Theo

Dương Quảng Hàm thì Nam Phong góp phần to lớn trong tiến trình hiện đại

hóa văn học Việt Nam trên hai phương diện:

- Về đường văn tự, Nam Phong sát nhập vào tiếng Việt nhiều danh từ

triết học, khoa học mới, và luyện cho chữ quốc ngữ có thể diễn dịch được các

lý thuyết các ý tưởng về triết học, kho học mới.

- Về đường học vấn, Nam Phong đã phổ thông những điều yếu lược của

học thuật Âu Tây, diễn giải nhiều đại cương trong các học thuyết cũ của Á

Đông (Nho học, Phật học) và bảo tồn những điều cốt yếu trong văn hóa Việt

Nam xưa (văn chương, phong tục, lễ nghi).

Tóm lại, mặc dù Nam Phong tạp chí tuy có hạn chế về mặt lịch sử,

nhưng những giá trị mà tạp chí này đem lại thì chúng ta không thể phủ nhận.

Nhà nghiên cứu Lại Văn Hùng từng nhận xét: “Đây là tờ báo gần nhƣ duy

nhất trong những năm chuyển tiếp giữa thập kỷ 20 và 30 của thế kỷ này, cung

cấp cho bạn đọc Việt Nam những kiến thức về văn chƣơng, triết học, lịch

sử,địa lý…phƣơng Đông và phƣơng Tây, một cách hệ thống và liên tục. Đồng

thời, Nam Phong cũng là nơi để thử thách và rèn luyện ngòi bút viết văn xuôi

quốc ngữ, văn xuôi nghệ thuật và cao hơn là văn xuôi lý luận trong bƣớc

chuyển mình của văn xuôi quốc ngữ chúng ta”.

1.2.3. Truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí

Sự xâm lược và đô hộ của thực dân Pháp không chỉ làm thay đổi toàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

diện đời sống kinh tế văn hóa xã hội nước ta mà đời sống văn học cũng đang

chịu những tác động không nhỏ, ảnh hưởng sâu sắc đến nền văn học nước

nhà. Cùng với sự vận động của lịch sử, văn học kết thúc quá trình ảnh hưởng

sâu sắc của văn hóa phương Đông, để tiếp cận với nền văn hóa Phương Tây.

Chính sự biến đổi của lịch sử đã tác động không nhỏ đến việc ra đời của Tạp

chí Nam Phong và thể loại truyện ngắn.

Đặc biệt, vào đầu thế kỷ XX văn học Việt Nam có sự chuyển biến mạnh

mẽ về mặt thể loại. Trước đây thời kỳ trung đại đề cao văn, thơ, phú, lục

khiến chúng trở thành những thể loại thơ văn chính thống. Vì vậy thời kỳ này

thơ ca xuất hiện nhiều kiệt tác như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Chinh phụ

Ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm…Trong khi đó truyện ngắn chưa thực sự

khẳng định được chỗ đứng của nó, chủ yếu chỉ dừng lại ở những ghi chép tản

mạn, u linh chích quái, song phần nhiều yếu tố thực không được tái hiện mà

các nhà văn thường sử dụng những yếu tố thần kỳ, hoang đường, kỳ ảo để

bênh vực cho những số phận bị xã hội phong kiến bất công đè bẹp, đồng thời

gửi vào đó quy luật “ ác giả ác báo”, quy luật nhân - quả, chịu ảnh hưởng sâu

sắc của tư tưởng Nho giáo. Song trên con đường phát triển theo hướng hiện

đại hóa thì văn xuôi, đặc biệt là truyện ngắn càng khẳng định được vị thế quan

trọng của nó trong nền văn học nước nhà.

Việc thành lập Nam Phong tạp chí là chủ trương của chính phủ liên bang

Đông Dương do toàn quyền Albert Saraut đề xướng ra đời từ ngày 1 tháng 7

năm 1917 đến tháng 12 năm 1934 thì đình bản. Trong suốt 17 năm tồn tại Nam

Phong tạp chí đã cho đăng tải 210 số báo, với tổng cộng có khoảng 1.364 bài

(chưa kể phần phụ trương), trong đó phần văn học chiếm 486 bài (chiếm tỉ lệ

35,6%), điều này chứng tỏ Nam Phong tạp chí có tính văn học cao.

Nam Phong tạp chí ra đời nhằm thực hiện mục đích chính trị như: “Điều

hòa tân cựu”, “thổ nạp Á – Âu”, áp đặt tư tưởng “Pháp – Việt đề huề” nhằm

giảm bớt sự căng thẳng sau hàng loạt những cuộc đấu tranh đòi cải cách của

nhân dân ta. Song thực dân Pháp lại không ngờ đến việc Nam Phong tạp chí lại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

có sự tác động mạnh mẽ đến đời sống văn chương nước nhà. Nó trở thành nơi

đăng tải những sáng tác văn chương, đồng thời cổ vũ cho phong trào chữ quốc

ngữ phát triển. Có thể nói “Đầu thế kỷ XX Nam Phong tạp chí không chỉ trở

thành trƣờng học Quốc ngữ cho nhiều đối tƣợng trong xã hội mà quan trọng

hơn đó là nơi rèn luyện cách viết văn, nơi đăng tải các sáng tác”[13. 54]. Hầu

hết các tác phẩm văn xuôi miền Bắc đều được đăng tải trong giai đoạn này,

điều này đã góp phần thúc đẩy thể loại truyện ngắn phát triển nhanh chóng.

Trong suốt 17 năm tồn tại, Tạp chí Nam Phong đã tập hợp được 64 tác

phẩm truyện ngắn của nhiều tác giả. Đội ngũ tác giả ở đây có cả những nhà

cầm bút chuyên nghiệp như Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Lê Đức

Nhượng…, thậm chí có cả những người cầm bút nghiệp dư như H.H.Đ,

Nguyễn Văn Cơ…Họ có thể là những nhà Nho, trí thức Tây học, nhà văn, nhà

báo… viết lên tác phẩm của mình nhằm phản ánh những điều mắt thấy tai

nghe, những “típ” người có thực trong xã hội lúc bấy giờ. Chính sự phức tạp

trên là một trong những yếu tố làm cho thể loại truyện ngắn có một nội dung

hiện thực vô cùng phong phú và đa dạng, bao quát được nhiều điểm nhìn của

các tác giả.

Đề tài phản ánh của truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí không phải là

những truyện thần tiên kỳ quái, mang đậm tính chất hoang đường hàm chứa

một giáo huấn nào đó mà là những đề tài phong phú của đời sống hàng ngày.

Những năm đầu truyện ngắn trên Nam Phong chủ yếu xoay quanh chủ đề

chính là luân lý xã hội. Một mặt các tác giả ra sức lên án các tệ nạn xã hội, sự

suy đồi của đạo đức phong hóa vẽ nên một bức tranh khá hiện thực về đời

sống từ chốn quan trường đến nơi làng xã, đâu đâu cũng đầy những truyện

“phi luân bại nghĩa”. Mặt khác, họ ca ngợi những tấm gương đạo đức, những

mô hình lí tưởng theo con mắt nhà Nho như Câu chuyện gia tình, Câu

chuyện nhà sư, Chuyện cô Chiêu Nhì (Nguyễn Bá Học), Có mới nới cũ

(Đoàn Nhữ Nam), Sống chết mặc bay (Phạm Duy Tốn)…Ngoài ra, còn một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

số truyện thể hiện nội dung lãng mạn ái tình, chuyện ký án mang hơi hướng

của phương Tây như truyện Ai giết người của Mân Châu. Có thể nói, toàn bộ

xã hội đương thời tồn tại cùng với tệ nạn, những vận động nghịch chiều trước

sự tan vỡ của văn hóa truyền thống được phơi bày khá rõ trên những trang

truyện ngắn.

Về mặt hình thức truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí thường được trình

bày dưới dạng một nhân vật kể lại một quãng đời hay một biến cố nào đó của

đời mình, để từ đó rút ra những bài học về luân lý đạo đức.

Vào những năm sau truyện ngắn trên Nam Phong tuy không xuất hiện

đều đặn như những năm đầu nhưng lại có sự cách tân rõ rệt với sự góp mặt

của Lê Đức Nhượng với một số tác phẩm như: Bữa cỗ nợ miệng, Ông hội

hở, Từ hôn, Anh hủ lắm, Bức ảnh phóng đại…Bên cạnh Lê Đức Nhượng

còn có truyện ngắn Ông phó Xẹ của Nguyễn Khắc Cán. Hầu hết các truyện

ngắn này đều xoay quanh đề tài về những hủ tục nơi làng quê, chuyện mua

danh bán tước, hôn nhân và gia đình…Những chủ đề mà sau này trở thành

phổ biến trong văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945.

Tóm lại, truyện ngắn được giới thiệu trên Nam Phong tạp chí trong suốt

17 năm đã phản ánh được rõ nét các xung đột “mới” – “cũ” trên ba bình diện:

xung đột trên bình diện đạo đức, xung đột các phương thức kinh tế và xung

đột các tập tục xã hội mà cốt lõi của nó là sự xung đột giàu nghèo. Tuy nhiên,

nhiều đoạn văn trong truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí còn nặng nề về lối

văn cũ như viết theo văn biền ngẫu, thiên về tả hành động nhân vật hơn là đi

sâu vào phân tích tâm lý nhân vật. Tuy nhiên, điều đáng ghi nhận ở đây là đề

tài của truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí bước đầu đã mang yếu tố hiện

thực, lấy cốt lõi từ cuộc sống hiện thực, cuộc sống đương thời, không sách vở

giáo điều như đề tài ở văn chương giai đoạn trước. Do vậy truyện ngắn trên

Nam Phong tạp chí cũng đã ít nhiều mang tính chất thời sự và cũng từ đó mà

mang tính chất phê phán rõ rệt. Đây được coi là những truyện ngắn hiện đại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

đầu tiên của nền văn học quốc ngữ Việt Nam.

1.2.4. Những đóng góp của truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí.

Vào những năm đầu thế kỷ XX, báo chí là nơi công khai giới thiệu

những truyện ngắn đầu tiên của nền văn xuôi chữ quốc ngữ. So với các báo

tạp chí công khai cả trong Nam, ngoài Bắc thì Nam Phong là tờ tạp chí đăng

nhiều truyện ngắn nhất. Những sáng tác này cũng “già dặn hơn” về mặt nghệ

thuật, phong phú hơn về mặt nội dung so với các truyện ngắn đăng trên các

báo, tạp chí cùng thời vì Nam Phong có một đội ngũ sáng tác đông đảo đa

dạng (cả tân học lẫn cựu học), tờ tạp chí này lại có một nền tảng lý luận khá

mới mẻ ở thời điểm lúc đó.

Tuy nhiên, đến những năm 20, truyện ngắn trên Nam Phong giảm dần uy

thế và ảnh hưởng của mình vì trên văn đàn xuất hiện nhiều truyện ngắn của

những cây bút tài danh khác. Các tác giả này, dù muốn hay không thì họ cũng

đã sáng tác hàng loạt truyện ngắn mà sự tác động của nó đến đời sống văn học

không phải là nhỏ. Những cây bút tiêu biểu là Phan Bội Châu, Nguyễn Ái

Quốc và Nguyễn Công Hoan.

Chúng tôi đưa ra vấn đề này mục đích là để có được những nhận xét,

đánh giá khách quan về những hạn chế và đóng góp của truyện ngắn Nam

Phong cho văn học dân tộc trên cơ sở so sánh với truyện ngắn của các tác giả

cùng thời.

Phan Bội Châu (1867-1940) là nhà chí sỹ viết văn, với ông, văn chương

không phải là một nghề mà là một vũ khí để làm cách mạng. Phan Bội Châu

viết nhiều thể loại khác nhau từ thơ, phú, truyện ký, tiểu thuyết chương

hồi,đến những truyện ngắn có xu hướng hiện đại. Ông là tác giả có công nhất

trong việc cách tân những thể loại văn học truyền thống, thổi vào đó luồng gió

mới của đời sống thực tại. không phải vô cớ mà PGS. Vũ Ngọc Khánh trong

phần giới thiệu tập Truyện và ký của Phan Bội Châu do Chương Thâu tuyển

chọn đã khẳng định: “Nếu tôi được phép chép văn học sử về đầu thế kỷ XX,

tôi vẫn muốn có khuynh hướng để Phan Bội Châu trong hàng đầu những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

người viết truyện ngắn (nhƣ nhóm Đông Dƣơng tạp chí, Nam Phong tạp chí

đến An Nam tạp chí). Ghi tên ông hàng đầu với tên hiệu hẳn hoi: Nhà chí sỹ

viết truyện ngắn”.

Phan Bội Châu viết không nhiều truyện ngắn nhưng sáng tác khá nhiều

truyện. Thời gian đầu, ông viết một số truyện về những người yêu nước đã hi

sinh trong phong trào chống Pháp. Những truyện này gần với thể loại truyện

hoặc truyện kí của văn học truyền thống nên hạn chế những tình tiết cụ thể,

gây xúc động, thiếu vắng những đoạn miêu tả tâm trạng, cảm xúc nhân vật…

Về sau,với những truyện như: Chân tướng quân, Truyện ông Lý Hô, Chiếc

tai hồng…. Phan Bội Châu đã đi từ “truyện” sang “truyện ngắn”. Ở những

truyện ngắn này, đã có những thay đổi đáng kể cả về nội dung và hình thức

nghệ thuật. Trước hết là những thay đổi về tư tưởng chính trị, quan điểm làm

người. Sau là cách sắp xếp cốt truyện, đưa những đoạn tả cảnh, tả người, cả

những tình tiết hư cấu vào nội dung, làm cho truyện trở nên hấp dẫn. Tuy

nhiên, do bị chi phối bởi truyền thống kể truyện kiểu liệt truyện và do không

chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây nên truyện ngắn của Phan Bội Châu

vẫn có nhiều hạn chế về mặt nghệ thuật. So với nhiều truyện ngắn của Nam

Phong thì các truyện ngắn của cụ Phan tiến bộ hơn về mặt nội dung tư tưởng

phản ánh bởi nhà chí sỹ yêu nước đã thẳng thắn chĩa mũi dùi đả kích vào bọn

thực dân và tay sai, phản ánh cuộc đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân

dân, điều mà các tác giả Nam Phong (do sự chi phối của hoàn cảnh, vị trí xã

hội) đã không làm được. Thế nhưng truyện ngắn của Phan Bội Châu lại lạc

hậu hơn về nghệ thuật xây dựng nhân vật, cốt truyện, cách sử dụng chi tiết, tạo

tình huống, các nhân vật trong truyện của Phan Bội Châu chưa được quan niệm

theo văn học hiện đại. Nói chung thì truyện ngắn của Phan Bội Châu chỉ như

chứng tích của sự nỗ lực cách tân bất thành.

So với Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc có nhiều thành công hơn với thể

loại truyện ngắn, bởi vì lúc đó tác giả này sống và sáng tác ở châu Âu, các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

truyện ngắn viết vào những năm 20 của Nguyễn Ái Quốc như: Pari, Lời than

của bà Trưng Trắc, Vi hành, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội

Châu… là những tác phẩm đạt tới đỉnh cao, có nội dung và hình thức rất hiện

đại. Trong những truyện ngắn của mình, Nguyễn Ái Quốc đã mô tả hoàn cảnh

bi đát của những người dân nghèo, nạn nhân của sự bất công và chiến tranh phi

nghĩa dưới chế độ thực dân. Đối lập với hoàn cảnh ấy là cuộc sống xa hoa, thừa

thãi của bọn thực dân ăn bám. Tác giả cũng kịch liệt phê phán bọn vua quan

hèn hạ can tâm làm tay sai cho thực dân Pháp bóc lột đồng bào mình.

Về mặt hình thức nghệ thuật, truyện ngắn trên Nam Phong có nhiều điểm

tiến bộ hơn truyện ngắn của Phan Bội Châu nhưng so với những sáng tác của

Nguyễn Ái Quốc thì còn non kém hơn nhiều. Văn xuôi của Nguyễn Ái Quốc

những năm hai nươi đã được thể hiện bằng một hình thức nghệ thuật mới mẻ

và hiện đại. Tác giả còn được ví như một “Ngọn bút phƣơng Tây sắc sảo, rất

điêu luyện, rất Pháp” [14.42]. Trong truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc, nghệ

thuất miêu tả, kể truyện, phân tích, hài hước, châm biếm… Được kết hợp với

nhau nhuần nhuyễn, vừa lôgic, vừa bất ngờ, linh hoạt mà chặt chẽ. Truyện có

nhiều kiểu cấu tạo khác nhau, có khi là câu chuyện kể giản dị, một tình thế

kịch, có khi là một giấc mơ, một câu chuyện hồi tưởng …Bút pháp sở trường

của Nguyễn Ái Quốc là châm biếm nhưng không lộ liễu mà rất kín đáo, sâu

sắc. Lối tả cảnh và khắc hoạ nhân vật của tác giả cũng hết sức tài tình. Chỉ

bằng vài nét chấm phá mạnh và chắc là cả tâm tình của một loại người được

dựng lên sâu tới tận bản chất. Trong truyện của mình, Nguyễn Ái Quốc đã

dày công chọn lọc và tạo nên những tình huống mang tính chất tương phản rất

cao của người dân Việt Nam (hiên ngang, bất khuất bao nhiêu thì Khải Định

(tiêu biểu cho bè lũ tay sai tham sống, sợ chết) bé nhỏ, hèn nhát, Phan Bội

Châu kiên cường, ung dung bao nhiêu thì Varen trơ trẽn, lố bịch bấy nhiêu…

Nguyễn Ái Quốc có lối vào truyện giản dị, tài tình. Mỗi truyện của người khi

khép lại vẫn tạo dư âm trong lòng người đọc với những cảm xúc thấm thía,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

suy tư sâu rộng.

Nói đến tác giả truyện ngắn những năm hai mươi không thể không nói về

Nguyễn Công Hoan – một cây bút hiện thực xuất sắc với thể loại truyện ngắn

thời kỳ 30-45. Vào nhưng năm hai mươi tuy chưa đạt được đỉnh cao của nghệ

thuật viết truyện ngắn nhưng Nguyễn Công Hoan đã thể hiện cho người đọc

thấy những bước đi tiến đến với văn học nói chung và với thể loại truyện

ngắn nói riêng. Ông đã viết nhiều truyện ngắn lấy cảm hứng “ngay từ những

sự việc xảy ra hàng ngày ở trong nước” như: Oẳn tà roằn, Hai thằng khốn

nạn,...nên mang giá trị hiện thực cao. Cái mà Nguyễn Công Hoan hơn nhiều

cây bút viết truyện ngắn trên Nam Phong là ông đã mô tả bằng hình tượng

những con người và những tình huống trong xã hội chứ không nhìn cuộc sống

đương thời dưới góc độ đạo đức truyền thống. Với Nguyễn Công Hoan,

truyện ngắn hiện đại và ngôn ngữ nghệ thuật hiện đại đã hình thành. Mỗi

truyện của ông chỉ khai thác một tình huống, một mâu thuẫn nhưng đã biết

đẩy mâu thuẫn lên cao với kết thúc đột ngột. Câu văn Nguyễn Công Hoan gọn

gàng, sáng sủa và linh hoạt. Ngôn ngữ trong truyện của ông đã có sự phân

biệt rõ đâu là ngôn ngữ của tác giả, đâu là ngôn ngữ nhân vật – điều mà nhiều

tác giả trên Nam Phong chưa làm được.

Nói tới những đóng góp của truyện ngắn Nam Phong trước hết phải kể

đến công lao của những sáng tác này đối với sự phát triển của chủ nghĩa lãng

mạn và chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam giai đoạn sau. Cả hai

khuynh hướng lãng mạn và hiện thực đã xuất hiện từ đầu trong mảng văn xuôi

cận đại này và vẫn song song tồn tại như tiền thân của chủ nghĩa lãng mạn và

chủ nghĩa hiện thực ngày càng phát triển mạnh mẽ. Trong một chừng mực nào

đấy ta có thể tìm thấy mối liên hệ về mặt đề tài giữa một vài truyện ngắn trên

Nam Phong với một vài truyện ngắn của Tự lực văn đoàn, lại có những truyện

khác là gợi ý xa dần cho Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan hay Vũ Trọng

Phụng. Những truyện ngắn “miêu tả chân thực” đời sống của Nguyễn Bá Học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

như Câu chuyện gia tình, Có gan làm giàu, Một nhà bác học…, hay của

Phạm Duy Tốn với Sống chết mặc bay, Con người sở khanh, Nước đời lắm

nỗi… và một số truyện ngắn viết về nông thôn của Lê Đức Nhượng, Nguyễn

Khắc Cán như Ông phó Xẹ, Bữa cỗ nợ miệng… là những dấu hiệu đầu tiên

báo hiệu sự ra đời của hàng loạt những tác phẩm hiện thực xuất sắc giai đoạn

sau của các tác giả Nam cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố…

Một đóng góp cũng rất quan trọng của truyện ngắn trên Nam Phong là góp

phần định hình và phát triển các thể loại của văn chương quốc ngữ. Những thể

loại mà trong văn học chính thống thời trung đại coi là bé nhỏ tiêu biểu là thể

loại “truyện ngắn”. Mặc dù, có những hạn chế về chính trị nhưng Nam Phong

là môi trường văn hoá thu hút được nhiều cây bút sáng tác, là trung tâm lớn

nhất của văn học quốc ngữ ở Bắc Kỳ. Tờ tạp chí này đã giới thiệu nhiều truyện

ngắn viết bằng chữ quốc ngữ thời đó, trong đó có những tác phẩm được xem là

truyện ngắn hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam. Ngay trước Nam Phong,

Đông Dƣơng tạp chí cũng dành nhiều vị trí cho văn chương nhưng tờ tạp chí

này chủ yếu đăng tải những tác phẩm dịch hoặc thơ, phú cổ. Đông Dƣơng cũng

đã giới thiệu những tác phẩm tự sự đầu tiên của Phạm Duy Tốn như: Truyện

ngẫu, Hầu bóng, Đũa cả nắm khó bẻ…Tuy nhiên, chưa thể coi những mẩu

chuyện này là những truyện ngắn hiện đại mà mới chỉ dừng lại ở mức độ

truyện kể. Trong khi ấy, những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Bá Học, Phạm

Duy Tốn giới thiệu trên Nam Phong được giới phê bình đương thời và cả giai

đoạn sau coi là những truyện ngắn hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam.

Cùng với hai tác giả này, những cây bút truyện ngắn khác của Nam Phong đã

góp phần đánh dấu một bước phát triển của một thể loại văn học mới viết bằng

chữ quốc ngữ trong văn học Việt Nam. Có thể nói, chỉ đến Nam Phong và trên

Nam Phong các “truyện ngắn” viết bằng chữ quốc ngữ mới được định hình và

phát triển nở rộ như vậy.

Tuy vậy, đóng góp lớn nhất của Nam Phong nói chung và truyện ngắn

trên Nam Phong nói riêng vẫn là việc truyền bá chữ quốc ngữ và nâng cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

trình độ của ngôn ngữ văn học dân tộc. Trước đây, có nhiều ý kiến cho rằng

tạp chí Nam Phong đã hạn chế sự phát triển của chữ quốc ngữ, quốc văn suốt

17 năm tồn tại và phát triển của mình. Thực tế không phải như vậy! Mặc dù

Nam Phong được sáng lập với dụng ý chính trị, là “công cụ” phục vụ cho thực

dân Pháp nhưng chúng ta không thể phủ nhận công lao của tờ tạp chí này trong

việc phổ biến và nâng cao trình độ của chữ quốc ngữ. Nếu ngày nay chữ quốc

ngữ được phổ biến rộng rãi và trở thành ngôn ngữ chung cho cả nước thì chúng

ta không thể nào phủ nhận vai trò của tờ Nam Phong. Nó đã góp phần rất đắc

lực vào việc làm cho văn chương Việt Nam cận đại trở nên vững chắc hơn.

Điều này được chứng minh qua những bài viết của Phạm Quỳnh về Văn Quốc

ngữ, về Quốc học với Quốc văn …Nhiều sáng tác mới được Nam Phong giới

thiệu từ những “trường thiên tiểu thuyết” Quả dưa đỏ đến những “đoản thiên”

ngắn gọn, sắc sảo, những bài du ký, du hành, tản văn có phần thô phác, khuôn

sáo nhưng đã góp phần đắc lực vào việc phát triển văn quốc ngữ ở Việt Nam

giai đoạn này. Nếu như Đông dƣơng tạp chí mới chỉ chú trọng giới thiệu những

tác phẩm văn chương truyền thống (bằng chữ Hán và chữ Nôm) hoặc các tác

phẩm văn học dịch, những áng văn quốc ngữ mới ít được quan tâm, nếu có thì

cũng chỉ là một vài bài ở dạng truyện, thì Nam Phong (không kể tiểu thuyết,

ký, văn khảo cứu phê bình) với gần 60 truyện ngắn cũng đủ để đánh dấu bước

phát triển mới của văn quốc ngữ. Tuy trình độ chữ quốc ngữ trên truyện ngắn

Nam Phong vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều câu chữ, cách dùng từ trong truyện

ngày nay không thể sử dụng. Nhưng so với truyện ngắn trên nhiều báo tạp chí

cùng thời thì đã tiến bộ hơn nhiều. Những đoạn đối thoại ngắn gọn, linh hoạt

trong Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn, những câu từ dân dã, độc đáo

trong Bữa cỗ nợ miệng của Lê Đức Nhượng… cho thấy sự phát triển của văn

quốc ngữ đã được Nam Phong chú trọng.

Nói tóm lại, với những thế mạnh của mình, truyện ngắn viết bằng chữ

quốc ngữ trên Nam Phong tạp chí là những viên gạch đầu tiên góp phần quan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

trọng để xây dựng lên nền tảng vững chắc cho lâu đài truyện ngắn, tiểu thuyết

Việt Nam hiện đại. Dĩ nhiên trên lịch trình của lịch sử văn học, đến một thời

điểm nhất định, Nam Phong sẽ bị lạc hậu, trở nên “già nua” cũ kĩ nhưng dù

sao mặc lòng, có thể nói tờ tạp chí này đã hoàn thành sứ mệnh của mình đổi

với sự phát triển văn học.

Tiểu kết chương 1

Có thể nói, sự xâm lược của thực dân Pháp đầu thế kỷ XX đã làm thay

đổi toàn bộ đời sống xã hội của nước ta, đặc biệt là quá trình ảnh hưởng, tiếp

xúc với văn hóa Đông – Tây. Quá trình này không những làm thay đổi xã hội

Việt Nam mà còn tác động không nhỏ tới sự hình thành và phát triển nhiều

thể loại văn học mới, đặc biệt là thể loại truyện ngắn. Truyện ngắn trên Nam

Phong tạp chí mang dấu ấn sâu sắc của nền văn học giao thời, khi cái cũ chưa

hoàn toàn mất đi và cái mới vẫn chưa hình thành đầy đủ các đặc trưng của nó.

Qua mỗi tác phẩm, người đọc không chỉ thấy được thực trạng rối ren của xã

hội Việt Nam lúc đó, mà còn thấy được sự biến đổi sâu sắc trong ý thức của

mỗi con người khi giao lưu với nền văn hóa phương Tây, cách sống Tây.

Đồng thời, thấy được những đóng góp to lớn của truyện ngắn trong quá trình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX.

CHƢƠNG 2

CÁC THÀNH PHẦN CƠ BẢN CỦA NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT

TRONG TRUYỆN NGẮN TRÊN NAM PHONG TẠP CHÍ

2.1. Lời trần thuật

2.1.1. Khái niệm lời trần thuật

Truyện ngắn là thể loại tiêu biểu cho loại hình tự sự, “cỗ máy cái” của

nền văn học hiện đại. Với đặc trưng thi pháp của mình, bằng phương thức trần

thuật truyện ngắn chiếm lĩnh và khái quát hiện thực cuộc sống một cách đa

chiều và phong phú. Tìm hiểu vấn đề trần thuật trong truyện ngắn nói riêng và

trong văn tự sự nói chung giúp chúng ta hiểu rõ hơn một phương diện cơ bản

của thi pháp thể loại.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn

Khắc Phi đồng chủ biên thì: trần thuật (narrate) là phương diện cơ bản của

phương thức tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với

nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của người trần thuật. Trần

thuật không chỉ là lời kể mà còn bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích

hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời ghi chú của tác giả…

Ngôn ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý

của nhà văn, bộc lộ cách lý giải cuộc sống từ cách nhìn riêng và cá tính sáng

tạo của tác giả.

Cùng với những quan niệm đó các tác giả trong cuốn Lý luận văn học đã

xác định: “Trần thuật là hình thức trình bày bằng lời văn, các chi tiết, sự kiện,

tình tiết có quan hệ biến đổi về xung đột và nhân vật một cách cụ thể, hấp dẫn

theo một cách nhìn, cách cảm nhất định. Trần thuật là sự thể hiện của hình

tƣợng văn học truyền đạt nó tới ngƣời thƣởng thức. Bố cục của trần thuật là

cách sắp xếp, tổ chức sự tƣơng ứng giữa các phƣơng diện khác nhau của hình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tƣợng với các tác phẩm khác nhau của văn bản” [ 32.307]

Trần thuật là một phương thức nghệ thuật đặc trưng của tác phẩm tự sự.

Trong truyện ngắn, trần thuật tập trung vào số phận một hoặc nhiều cá nhân

trong quá trình hình thành và phát triển của nó, sự trần thuật ở đây được triển

khai trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt cơ

cấu của nhân cách nhân vật.

Như vậy lời trần thuật là toàn bộ lời văn của tác giả, của người trần thuật,

hoặc người kể chuyện. Chức năng của nó là giúp cho các sự vật hiện tượng

như ngoại hình, tình trạng, môi trường phản ánh, sự kiện… vốn không nói lên

trong tác phẩm. [ 33.10]. Về tên gọi có người gọi đây là lời gián tiếp, miêu tả,

lời tác giả. Các tên gọi ấy đều có thể được chấp nhận một cách ước lệ vì đều

do tác giả viết ra.

2.1.2. Ngôn ngữ ngƣời kể chuyện bƣớc đầu đƣợc cụ thể hóa

Ngôn ngữ người kể chuyện có thể được coi là một hoạt động ngôn từ

và được biến đổi rất linh hoạt, hết sức chân thật, có khi đó là lời của tác giả,

cũng có khi là lời của một nhân vật nào đó trong truyện. Song dù là tác giả

hay nhân vật thì lời kể đó luôn có sự thống nhất xuyên suốt từ đầu đến cuối

tác phẩm, in đậm dấu ấn phong cách của tác giả. Do đó trong mỗi tác phẩm tự

sự không thể thiếu vắng hình bóng của người kể chuyện. Họ không chỉ là

người sắp xếp, tổ chức các tình huống để các nhân vật bộc lộ mình mà còn có

khả năng khơi dậy ở người đọc những rung động, chia sẻ và đồng cảm cùng

với những giá trị thẩm mỹ tích cực.

Có thể thấy, trong truyện cổ tích hay những truyện trung đại trước đây

thường trần thuật theo kiểu khuôn mẫu, mực thước mang đầy tính chất giáo

huấn. Thậm chí ở một số câu chuyện kể ta còn thấy xuất hiện những mô típ

quen thuộc “Ngày xửa ngày xưa”, cho nên ngôi kể không được xác định rõ

ràng, thường mang tính chất trung tính chẳng hạn như:

Ngày xƣa, có một ông vua và một bà hoàng hậu ngày nào cũng mong:

"Ƣớc gì mình có một đứa con nhỉ?." Nhƣng ƣớc hoài mà vua và hoàng hậu

vẫn chƣa có con.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

( Truyện cổ tích: Công chúa ngủ trong rừng)

Ngày xửa... Ngày xƣa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thƣơng. Cô yêu

bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm, yêu cả ba

ông Táo bằng đá núi đêm ngày chịu khói lửa để nấu cơm, hầm ngô, nƣớng

thịt cho mọi ngƣời ăn. Một lần, thƣơng ba ông Táo, trời đã nóng lại chịu lửa

suốt ngày đêm, cô bé mới lên năm ấy đã lấy một gáo nƣớc to dội luôn lên đầu

ba ông. Tro khói bốc lên mù mịt.

( Truyện cổ tích: Sự tích hoa mai vàng)

Ngày xƣa có hai vợ chồng ngƣời đánh cá ở một túp lều cũ kỹ sát ven

biển. Hôm nào ngƣời chồng cũng đi câu cá suốt ngày. Một hôm bác buông

câu ngồi hết giờ này đến giờ khác, nhìn mặt nƣớc trong veo mà chẳng đƣợc

con cá nào. Thình lình lƣỡi câu chìm sâu xuống tận đáy biển. Ngƣời ấy giật

lên thì đƣợc một con cá đìa to.

( Truyện cổ tích: Ông lão đánh cá và con cá vàng)

Ở Việt Nam truyện ngắn có nhân vật trần thuật ở ngôi thứ nhất xuất

hiện vào cuối thế kỷ XIX. Đó là cuốn Truyện thầy Lazaro Phiền (1887) của

Nguyễn Trọng Quản. Tác phẩm có hình thức “truyện trong truyện.” Thầy

Lazaro Phiền đã thú nhận tội lỗi giết vợ, giết bạn của mình cho một người bạn

đồng hành và nhân vật này lại trở thành người trần thuật. Nhân vật người kể

chuyện ở đây được thể hiện ở ngôi thứ nhất.

Bước sang những năm đầu của thế kỷ XX khi xã hội thực dân nửa

phong kiến được thiết lập, điều này đã làm xuất hiện biết bao cảnh lố lăng, sa

đọa. Đó chính là mâu thuẫn va chạm giữa ý thức cá nhân tư sản, cá nhân chủ

nghĩa, lối sống du nhập từ phương Tây với nền phong kiến bảo thủ lạc hậu

của xã hội phong kiến phương Đông. Trước tình hình đó Nam Phong tạp chí

và một số tờ báo khác đã giới thiệu một loạt truyện ngắn viết bằng chữ quốc

ngữ tới bạn đọc. Chủ thể trần thuật ở ngôi thứ nhất xuất hiện khá nhiều trên

những trang truyện của Nam Phong lúc bấy giờ gắn liền với một số tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

như Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Khắc Cán, Mân Châu…

Trong Câu chuyện gia tình của Nguyễn Bá Học người trần thuật xưng

tôi đồng thời cũng là một nhân vật chứng kiến từ đầu đến cuối câu chuyện.

Nhân vật tôi muốn cho mọi người hiểu tường tận về tình trạng chung của xã

hội lúc đó. Đó là một anh học trò Tây học, lên sống ở tỉnh thành, do ảnh

hưởng của lối sống mới, nên so với khi ở nhà thì tính nết thay đổi hẳn. Mở

đầu câu chuyện tôi kể lại cuộc gặp gỡ tình cờ của tôi và bà già: “Một ngày

mùa đông, buổi sáng mới hửng mặt trời, ngọn cỏ còn đầm đầm giọt sƣơng,

đƣờng đi nhêm nhếp tơn nhƣ mỡ, có một bà già tay cắp mẹt hoa, vừa đi vừa

lẩm bẩm: “Giời chẳng thƣơng ai cứ mƣa gió mãi. Hoa tƣơi rụng cả, còn hoa

tàn bán cho ai, lấy gì mà mua quà cho cháu”. Trông bà già nét mặt tinh anh

và nghiêm nghị không phải là ngƣời quê mùa? Tôi đến mà hỏi: “Bà bao

nhiêu tuổi? con cháu ở đâu mà bà phải lẫm cẫm thế này?” [45. 91]. Cách kể

này sẽ làm cho câu chuyện trở nên tự nhiên hơn, không bị gò bó, các nhân vật

dần xuất hiện. Mặc dù nhìn bà không phải là một người quá dễ tính nhưng lại

có đứa con mà bà đặt bao tâm huyết cho ăn học tử tế, lập thành gia thất nhưng

lại đua đòi nơi phồn hoa đô thị, ảnh hưởng của lối sống Tây bỏ bê mọi thứ. Tệ

hại hơn là anh ta còn ngoại tình về nhà lấy tiền, tư trang của vợ đem đi ăn

chơi gian díu với tình nhân. Đây là câu trả lời của người con khi bị mẹ của

mình lên tận chỗ ở bắt về nhà sống với vợ con: “Xin mẹ tha thứ cho con điều

ấy. Nay con đã là ngƣời làm việc hay ở mình không đƣợc tự do, vả cứ tuổi

con bây giờ, theo luật cũng có quyền đƣợc tự chủ một nửa.” [45.100]. Bằng

việc sử dụng ngôi kể thứ nhất, nhân vật xưng tôi đã trần thuật lại câu chuyện

khiến cho câu chuyện đang kể trở nên chân thực hơn, như những điều tác giả

được tận mắt chứng kiến thậm chí được trải nghiệm, giờ đây đang kể lại câu

chuyện đó. Qua đó trực tiếp bộc lộ tình cảm của mình trên từng trang viết.

Với Câu chuyện nhà sư nhờ có ngôi kể thứ nhất mà người đọc có thể

hình dung và được nghe câu chuyện có thật về một nhà sư. Có khi người trần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thuật còn dẫn dắt người đọc đến với câu chuyện và đối tượng được kể, để cho

nhân vật tự nói về cuộc đời mình càng làm tăng tính có thực cho câu chuyện:

“Trong một cái phòng sâu và tối, nghe thấy tiếng ngƣời ho khoái khoắc. Hỏi

ra mới biết đó là một vị hành tăng tạm trụ cảnh chùa để xen kinh và dƣỡng

bệnh. Tôi liền đến nơi có ý cùng sƣ nói mấy câu chuyện nhà chùa cho khuây

cơn sầm tịch” [45.169]

Nhân vật tôi kể lại câu chuyện một cách tường tận, tỉ mỉ và cụ thể hóa

đến tận tên họ: “Tôi họ Trần hiệu là Nguyễn Khuê, ngƣời Hà Đông. Cha mẹ

mất sớm ở với chị, cũng cho ăn học. Năm 15 tuổi chị chết, anh dể lấy vợ, thế

không đƣợc phải bỏ nhà mà đi…” [45.171]. Đang trong tình cảnh khốn cùng

thì gặp một bà họ Lý mang về nuôi, bà không có con chỉ nuôi một đứa cháu

tên Lý Cô nên bà rất thương yêu tôi, cho ăn học bằng bạn bằng bè, thậm chí

còn gả Lý Cô cho. Công thành danh toại, vợ đẹp con khôn cứ tưởng cuộc đời

như thế là đủ. Nhưng ai ngờ đâu “no đủ sinh ra dâm dật, quyền quý sinh ra

kiêu căng, sự tai họa ở đời thƣờng phát ra từ những khi đắc chí” [45.176].

Nguyễn Khuê gian díu với cô Ba, bỏ mặc vợ con rồi bị cô ta lừa lấy hết gia

sản, thậm chí trong lúc không làm chủ được mình đã giết vợ để lấy cuốn văn

tự bán lấy tiền đưa cho tình nhân. Đến khi nhận ra lỗi lầm thì đã quá muộn

“Biết chính mình đã phạm tội rất lớn là tội giết ngƣời, biết Lý Cô đã chiu

khuất nhục đau đớn mà chết, biết cái lòng tham dục của mình đã đƣa giắt

mình vào con đƣờng tội lỗi, biết nhân tình thế lợi chẳng qua là một cảnh

chiêm bao, bấy giờ óc tôi không sao mà chứa cho hết những điều hối hận”

[45.181]. Muốn quên quá khứ tội lỗi, gột rửa tâm hồn mình bằng cách nương

nhờ cửa phật, nhưng chốn thanh tịnh đâu có dung thứ những kẻ mà bàn tay đã

dính máu tanh, chỉ có cái chết mới khiến anh ta thanh thản hơn.

Qua đây ta thấy nhân vật tôi đang chia sẻ, đồng cảm với sự dằn vặt,

hối hận của một nhà sư sắp trở về với đất mẹ vì chính những lỗi lầm do

mình gây ra. Đồng thời còn thấy được vai trò của người kể chuyện có vị trí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

khá quan trọng khi định hướng những tình cảm cho người đọc. Bởi họ là

những người được chứng kiến câu chuyện đó và mang một trọng trách là kể

lại cho mọi người nghe, từ đó có thể chêm xen những lời bình luận tốt xấu

của người kể chuyện. “Kìa ngƣời đã sả thân tuyệt dục, còn phải mang lấy

nghiệp vào mình huống chi ngƣời dúng tục tứ tình, biết bao giờ cho ra khỏi

bến mê bể khổ” [45.170]

Bên cạnh đó, cách kể về mặt thời gian khá chi tiết càng làm tăng tính

chân thực cho câu chuyện “Năm sau có ngƣời nhà chùa về hội Phủ Giày, hỏi

thăm thì nói: Vị hành tăng ấy đã tịch tại chùa Thiên Thai ngày tháng chạp

năm ấy” [45.183]. Có thể nói khi đọc các tác phẩm của Nguyễn Bá Học

chúng ta còn thấy sự tiếp thu ở truyền thống khá nhiều như cách sắp xếp các

sự kiện, tình huống nhân vật theo một trật tự tuyến tính, cái nào có trước kể

trước, cái nào có sau kể sau, không đảo lộn cấu trúc thời gian, ngôn ngữ sử

dụng nhiều từ Hán Việt, nhiều đoạn dẫn dắt quá dài gây sự nhàm chán cho

người đọc. Điều này làm cho câu chuyện được kể một cách liền mạch, không

bị đứt đoạn, giúp người đọc tiếp thu dễ dàng hơn. Mặc dù đây không phải là

lối kể chuyện mới nhưng tác giả đã sử dụng có hiệu quả để tạo nên những ấn

tượng riêng cho người đọc cũng như cá tính sáng tạo của mình.

Bên cạnh Nguyễn Bá Học thì Phạm Duy Tốn cũng được coi là cây bút

viết truyện ngắn tiêu biểu trên Nam Phong tạp chí, với khuynh hướng tả chân

tác giả lần lượt bóc trần bản chất xã hội nửa thực dân nửa phong kiến thối nát

mục ruỗng. Người trần thuật xưng tôi trong Nước đời lắm nỗi để kể lại câu

chuyện của người bạn mình. Anh Lương Duy Đạo vì quá đau khổ phẫn uất

khi chứng kiến cảnh cha giết mẹ mình lấy tiền cho gái nên đã gửi thân mình

vào làn khói của thuốc phiện “Tôi ngủ đến trƣa thì dậy. Ăn xong lại đây hút

cho đến sáng thì về ngủ, đến tối về ăn rồi lại đây hút, cho đến sáng về nhà

ngủ. Hơn hai mƣơi năm nay ngày nào cũng thế, đêm nào cũng vậy. Tôi chỉ

biết ở cái xó giƣờng này với các bạn học ở nhà trọ mà thôi. Chẳng đi đâu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

chẳng chơi với ai, mà cũng chẳng thích gì cả” [45.136]

Bằng cách kể như vậy đã làm sáng rõ cuộc sống hiện tại của anh ta

như thế nào, dường như đó chỉ là cuộc sống cầm cự, không có tương lai và

anh ta cũng không nghĩ gì đến ngày mai. Điều này được in hằn trên khuôn

mặt của anh “Ba mƣơi tám nhƣng già đến ngót năm mƣơi. Tôi nhìn kỹ ngƣời

bạn học cũ. Quả nhiên tóc bạc, trán nhăn, mắt sâu, má hóp, mắt mũi hốc hác

nhƣ thể ông cụ già.” [45.137]. Qua ngôn ngữ người kể chuyện mà ngoại hình

của nhân vật được hiện lên khá cụ thể với tất cả sự phó mặc cho cuộc sống.

Có điều Phạm Duy Tốn không để cho nhân vật kể về cuộc đời của mình ngay

mà lại dẫn dắt bằng một đoạn văn dài về tình huống hai người gặp nhau, ngồi

hàn huyên tâm sự rồi mới bắt đầu kể câu chuyện. Cách kể này đã có phần

khác với truyền thống, thể hiện sự cách tân sáng tạo của nhà văn, khiến cho

câu chuyện được kể rất tự nhiên, không gò bó, khuôn mẫu, cuốn hút người

đọc. Thậm chí ngôn ngữ kể đã mang hơi thở của hiện đại, phối hợp nhuần

nhuyễn giữa ngôn ngữ tả cảnh với ngôn ngữ nhân vật như đoạn: “Đêm hôm ấy

trời mƣa rầu rĩ, gió thổi hắt hiu, cảnh vật tựa hồ nhƣ xui nhau, làm cho cái bi

kịch càng thêm thê thảm. Tôi vừa mới hiu hiu chợp ngủ, thốt nhiên nghe thấy

ở phòng bên cạnh là nơi cha mẹ tôi nằm, có tiếng ầm nhƣ thể hai ngƣời cãi

nhau” [45.138]. Đặc biệt trong các truyện ngắn của mình, tác giả sử dụng hạn

chế từ Hán Việt, không đưa những câu Kiều vào làm cho lời văn gần gũi với

đời sống của nhân dân. Ông xứng đáng là nhà văn xã hội tiên phong của nền

văn học mới đầu thế kỷ XX.

Hóa thân vào nhân vật là con đường thuận lợi nhất để người trần thuật

soi tỏ tâm tư nhân vật. Hình tượng người kể chuyện ở ngôi thứ nhất trong

truyện ngắn Ông hội hở của Lê Đức Nhượng đã đem lại cho người đọc độ tin

cậy cao với những tình tiết truyện và sự đồng cảm cùng những tâm sự được

giãi bày. Kiểu trần thuật này tạo điều kiện cho tác giả thể hiện ý kiến chủ

quan của mình và thế giới chủ quan của nhân vật nhiều hơn so với kiểu trần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thuật ngôi thứ ba luôn có khoảng cách.

Chuyện kể về một anh chàng đã có vợ song hay đi chơi về khuya, mỗi

lần như vậy anh đều bị vợ mắng. Nhưng với bản tính gian trá của mình không

có những hành động như những kẻ vũ phu nên hắn dễ dàng qua mắt vợ bằng

việc bịa ra câu chuyện hội kín với hội hở: “Tôi liền đóng cửa lại và khẽ bảo vợ

tôi rằng, tôi phải đi về việc hội kín. Nghe tôi nói đến hội kín, vợ tôi dẹp ngay

cơn thịnh nộ, tái mét mặt đi, run lên cầm cập mà nhìn tôi lẩm bẩm nói: “Chết!

tôi đã bảo cậu mà! Sao cậu lại còn dại thế! Cậu chẳng nghĩ thƣơng vợ thƣơng

con tí nào!” [45.528]. Cho nên sau mỗi lần đi chơi khuya về anh ta không bị vợ

càu nhàu nữa. Thậm chí khi bị vợ bắt gặp khi đang đi chơi với một người con

gái khác thì anh ta lại bình tĩnh nói: “Tôi đang nói với ngƣời kia để xin ra hội,

ngƣời ấy là đảng viên hội kín đấy” [45.529]. Thế nhưng anh ta lại bị bắt vì

chính cái lý do mà mình đưa ra để lừa vợ “…liền túm lấy tôi, xích tay tôi lại rồi

túm ra ô tô. Tôi chẳng hiểu đầu đuôi ra sao mà tôi bị bắt. Tôi sợ quá, khóc sƣớt

mƣớt. Lúc bƣớc chân lên ô tô. Tôi quay lại dặn vợ tôi phải mau mƣợn ngƣời

làm giấy khiếu oan cho tôi, thì tôi mới chóng đƣợc tha” [45.530]. Sự sợ hãi,

lúng túng của anh ta được thể hiện rất rõ qua lời trần thuật, khi bước chân lên ô

tô vẫn cố ngoái lại dặn vợ rằng mình bị oan cần phải mời người để minh oan

cho anh ta. Thế nhưng, dù vào tù mà bản tính sĩ diện hão vẫn không thể sửa đổi

anh ta mong làm sao mà vợ không biết là anh ta gian díu với nhân ngãi bên

ngoài rồi bị bắt để còn có thể diện trước mặt vợ “Giá lúc tha tôi, ngài đừng bắt

lấy cung tôi lần nữa, chắc vợ tôi chƣa biết việc tôi làm thì tôi còn có một tí thể

diện với vợ” [45.530]. Dường như người trần thuật đang hóa thân vào nhân vật

để kể câu chuyện về chính mình hoặc là người đã từng trải nghiệm, do đó

những lời trần thuật càng trở nên chân thực, lời lẽ tự nhiên, không gò bó. Bên

cạnh đó, ngôn ngữ người kể chuyện gần gũi với lời ăn tiếng nói của quần

chúng nhân dân tạo nên sự đồng cảm cao ở người đọc.

Có thể nói, đây là lối kể chuyện không mới nhưng các nhà văn đã có ý

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thức kế thừa một cách sáng tạo, có sự đổi mới không dập khuôn máy móc.

Người kể chuyện không còn ẩn mình, ước lệ như trong các truyện ngắn trung

đại mà bước đầu đã được cụ thể hóa, thông qua cuộc đời của các nhân vật mà

người kể chuyện gửi gắm những quan điểm, bài học đạo đức và cách nghĩ của

mình vào trong đó.

2.1.3. Ngôn ngữ miêu tả đi sâu vào trạng thái cảm xúc của con ngƣời

Ngôn ngữ văn xuôi thời kỳ trung đại thường ít chú ý đến việc miêu tả

nội tâm nhân vật mà chỉ quan tâm nhiều đến diện mạo, sự kiện và hành động

của nhân vật, nếu có miêu tả nội tâm thì cũng mang tính ước lệ, hiện thực đời

thường ít khai thác, cá tính sáng tạo của mỗi tác giả chưa rõ nét.

Bước sang những năm đầu của thế kỷ XX, khi xã hội Việt Nam có

nhiều biến động, cái cũ chưa hoàn toàn mất đi cái mới chưa hình thành rõ nét.

Song đời sống văn học đã có nhiều chuyển biến. Các tác giả đã tập trung khai

thác những mảng màu phong phú của hiện thực cuộc sống, không phải là

những phép màu nhiệm của truyện cổ tích, hay những ảo tưởng hoang đường

kỳ ảo như trong văn xuôi trung đại. Đồng thời các cây bút đã đưa vào trong

văn chương những tình cảm cá nhân, đời thường với những cung bậc tình cảm

khác nhau như vui, buồn, hờn, giận… bằng ngôn ngữ dung dị mà dễ hiểu.

Truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí là một thành công trong lĩnh vực

đưa ngôn ngữ văn xuôi trở về với đời sống hiện thực, với khuynh hướng tả

chân các nhà văn đã bóc trần những mâu thuẫn trong xã hội cũng như tính

cách điển hình của một số nhân vật đại diện cho lối sống, tư tưởng của một

lớp người trong xã hội lúc bấy giờ. Hơn nữa, truyện ngắn trên Nam Phong tạp

chí đã đem đến cho văn chương giai đoạn giao thời một mảng màu mới trong

ngôn ngữ miêu tả trạng thái cảm xúc con người.

Đọc Câu chuyện gia tình của Nguyễn Bá Học chúng ta bắt gặp tâm

trạng của bà lão khi phải lên tận chỗ ở con trai mình để bắt con về nhà không

cho ở trên tỉnh nữa: “Nghe con trả lời, già cứ há miệng không nói sao đƣợc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

nữa, giận quá đứng phất dạy mà về. Ra khỏi nhà vào một nhà ngƣời chị em

mà nghỉ. Nghĩ đứa con mình hóa ra một đứa thú dữ, song còn mong mê có lúc

tỉnh cứ cho ngƣời đến tìm, nhƣng nó cũng không đến nữa” [45.100]. Dường

như người kể chuyện đã hóa thân vào nhân vật với điểm nhìn bên trong để nói

lên tâm trạng của một người mẹ, sự thất vọng, buồn tủi khi thấy đứa con mình

bỏ vợ lìa con, tệ hại hơn còn lấy trộm nữ trang của vợ đem đi bán lấy tiền để

học đòi theo lối sống mới, chính điều này đã làm suy đồi đạo đức của đông

đảo tầng lớp thanh niên lúc bấy giờ. Qua đó tác giả bày tỏ thái độ không bằng

lòng với những kẻ “thiếu niên khách khí ham chơi quá nỗi nên mê, ƣa mới nới

cũ, đã làm tổn phí bao nhiêu nƣớc mắt khóc thầm của vợ con, tấm lòng ân

hận của cha mẹ” [45.91]

Truyện một người du học sinh An Nam của Vũ Đình Chí lại đưa người

đọc đến với tâm trạng của người con gái có một tình yêu ngang trái dẫn đến

lâm bệnh: “Những buổi thu này, nhất là về những lúc chiều hôm, cái ánh

nắng của vầng thái dƣơng càng lạt đi bao nhiêu thì cái nhiệt độ trong trái tim

em lại cao lên ngần ấy, trái tim ấy thành ra một khối lửa, nên bây giờ đƣợc

lấy một giọt lệ tình của anh tới vảy thì khối tình ấy cũng đủ biến ra một khối

tình… Em mắc phải tâm bệnh là từ sau lúc biết anh. Đời em đang vui sƣớng,

cái tuổi xuân xanh của em nó đang hẹn em biết bao nhiêu sự hoan lạc ở

đời…, sao em lại gặp anh, gặp anh rồi mà bao nhiêu sự hẹn hò của cái tuổi

xanh phải đến tiêu trầm mất cả.”[ 45.334]. Ở đây, người kể chuyện đã nhập

vào nhân vật để nói lên sức mạnh của tình yêu. Tình yêu là những giai điệu

đẹp nhất trong bản nhạc cuộc đời mỗi con người, nó đem đến những rung

động mãnh liệt của trái tim thổn thức lần đầu biết yêu. Lê Phong Ảnh là một

cô gái đa tình, yêu tha thiết Bằng Giang, một tình yêu lãng mạn nhưng hai

người không thể đến được với nhau vì Bằng Giang đã có gia đình, định mệnh

hai người không thuộc về nhau. Nhận ra điều đó, Phong Ảnh đã nhiều lần cố

quên Bằng Giang nhưng không thể làm được vì trái tim cô không quên nổi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

anh “Có lúc em đã cố tìm những cái không hay không phải của anh để ghét

anh, để làm tê liệt cái tình cảm của em đối với anh, mà cũng không sao đƣợc.

Càng nhƣ thế cái tình yêu anh lại càng đằm thắm nồng nàn, ngƣời ta đến

phải lừa dối cái bụng của mình thì thật là khổ tâm lắm!” [45.335]. Ngôn ngữ

người kể chuyện đã len lỏi vào tận sâu ngõ ngách con tim nàng để thấy được

sự dằn vặt đau đớn, cuộc đấu tranh giữa con tim và lý trí của Phong Ảnh.

Tình yêu có thể làm nên những điều kỳ diệu nhưng cũng có thể dẫn đến

những biến đổi trong tính cách của họ. Cuối cùng nàng chết vì ở nơi ấy con

tim nàng sẽ được yên, nàng chết vì hai chữ “ái tình”. Từ đó, người đọc thấy

rằng sự thấu hiểu, nhạy bén, tinh tế trong cách diễn đạt của người kể chuyện

để bày tỏ những xúc cảm thầm kín, trong tâm hồn người con gai đang bị ái

tình chế ngự. Có thể nói bằng ngòi bút tinh tế của mình Vũ Đình Chí đã thể

hiện nhân vật với đời sống nội tâm vô cùng phong phú, chất chứa bao tâm sự

thầm kín. Nhà văn đưa dẫn người đọc bước vào một thế giới tâm hồn nhân vật

với bao điều bí ẩn, lúc buồn da diết, lúc vui khi nhớ lại những kỷ niệm đẹp

giữa mình và người yêu, lúc lại cô đơn đến tuyệt vọng… Từ đó thấy được sự

khao khát yêu đương đến cháy bỏng của nhân vật.

Đôi khi tác giả còn hóa thân vào nhân vật để nhân vật tự nói lên suy nghĩ

của mình. Trong Giọt lệ hồng lâu của Hoàng Ngọc Phách có đoạn: “Mấy hôm

nay, trời âm u, mây phủ, cây khô, lá úa, gió bấc mƣa dầm, hình nhƣ ai đã

đem cảnh buồn thiên nhiên mà pha lẫn nỗi buồn nhân tạo để vẽ bức tranh ủ

dột của nhà thƣơng cho đƣợc hoàn toàn. Cả ngày em chỉ nằm mà ngậm ngùi

thế sự, mà than thở nỗi lòng, chốc nghe tiếng giày xịch cửa đã tƣởng cậu vào

thăm, mở chăn ra thì chỉ thấy ngƣời đâu đâu vào thăm ai ai cả” [45.281]. Sự

u ám của thiên nhiên cũng làm cho tâm trạng con người buồn ngao ngán.

Trong Truyện Kiều - Nguyễn Du từng viết: “Cảnh buồn ngƣời có vui đâu bao

giờ”. Đây là tâm trạng của nhân vật Lan Nương ở trong nhà thương viết thư

cho tình nhân cũ để bộc bạch những tâm tư sầu kín của mình. Trời sinh ra là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

phận má hồng, làm phận ca nhi đem nhan sắc và tiếng hát của mình phục vụ

khách, song đây lại là một nghề mà bị cả xã hội coi thường “Họ biết em là ca

nhi thì để riêng ra một xã hội, cho là thứ bỏ đi, thứ ngƣời đời không biểu luân

lý là gì cả, thật thà là gì” [45.284]. Bởi họ cho rằng việc lừa tình bán nghĩa là

nghề của bọn em nên không được coi ra gì cả. Có khi sự giằng xé nội tâm của

nàng còn được biểu hiện bằng những câu hỏi dồn dập rồi lại tự mình trả lời

“Tại ai vậy? Tại các ông ƣ? Tại chúng em ƣ? Tại cả mà không tại ai cả. Ấy vì

cái nghề của chúng em thôi” [45.285]. Người kể chuyện và nhân vật như nhập

vào làm một nhằm khắc họa tâm trạng của nhân vật một cách chân thật nhất,

ngôn ngữ người kể chuyện bị xóa nhòa khoảng cách với ngôn ngữ nhân vật.

Vẫn là cung bậc tình yêu, truyện ngắn Ôi! Thiếu niên của Tam lang Vũ

Đình Chí lại nói về mối tình tha thiết của đôi lứa thiếu niên giữa Bích Hà và

Ngọc Kiều song vì lý do này vì lý do khác mà cuối cùng họ không đến được

với nhau. Đây là tâm trạng của Ngọc Kiều khi viết thư cho Bích Hà “Cậu có

hiểu rằng em không muốn cho cậu cùng em gặp mặt là em giữ cho cậu đó

không? Một lát em đã nghĩ để không mất tí gì mà lại còn đƣợc ngồi không,

không phải để thì giờ viết một bức thƣ dài thế này cho câu. Rồi em lại nghĩ

lại, em hiểu rằng đánh đổi cái tình yêu của cậu thì viết thƣ mà “chỉ giáo” còn

hay hơn là tặng cậu một “mảnh” lòng yêu” [45.367]. Mặc dù rất yêu Bích Hà

nhưng vì lòng tự trọng của một người ca nhi, cô đã nhận không ít những bức

thư tình song cái nào cũng bao hàm một ý “Chị là một đứa ca nhi, …quá yêu

chị thì viết…Nhƣng mà bên lòng bao giờ cũng có cái ý nghĩ khinh bỉ và rẻ

rúng chị” [45.360]. Không gặp Bích Hà, cố quên đi người tình chỉ vì nàng

muốn tốt cho anh, không muốn mọi người dị nghị rằng người yêu của anh làm

nghề ca nhi. Ở đây ngôn ngữ người kể chuyện đã thâm nhập vào những suy

nghĩ sâu kín của nhân vật để nhân vật tự thổ lộ tâm tư của mình đã đem lại

những rung động đồng cảm của người đọc.

Đến với truyện ngắn Tình xưa của Nguyễn Tiến Lãng lại thấy một tình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

yêu đôi lứa mang phong vị lãng mạn. Giữa nơi núi rừng hiu quạnh, chung

quanh là đồi núi, gió cuốn rừng cây xào xạc, Lê Tâm sống những ngày buồn

tẻ không phải vì sự thiếu thốn, lạnh lẽo mà vì trong trái tim chàng vẫn tồn tại

mối tình xưa. Người con gái chàng yêu đã một đôi lần đưa ra cho chàng năm

bàn tay nhỏ nhắn mà trắng nõn nà, ngón tay búp măng dịu dàng xinh xắn. Và

cũng người con gái ấy đã thôi thúc chàng đi theo tiếng gọi của ái tình mà lên

nơi núi rừng xa xôi này. Người mà chàng không có chút tình cảm gì thì nay là

vợ, còn người mà mình yêu da diết thì giờ chỉ là kỉ niệm trong trái tim. Mặc

dù là một chuyện tình buồn nhưng Lê Tâm muốn thoát ra khỏi cuộc sống ngột

ngạt, tù túng để đến một nơi thỏa được khát vọng của tuổi trẻ: “Hãy đón lấy

ta, cuộc đời treo leo mạo hiểm kia! Càng đau nỗi nguy nàn, càng tỏ ra cái vẻ

chênh vênh không chắc chắn, ấy mới lại càng xui ta biết sống là vui, là đáng

say mê. Ngày mai ta sẽ đoạn tuyệt cuộc đời dĩ vãng, ta sẽ đi. Ngày mai”

[45.409]. Với cách nghĩ như vậy chàng đã dám đối diện với chính mình để

sống vì tương lai chứ không sống bằng những hoài niệm quá khứ: “Cũng

đừng thƣơng tiếc chi cái tâm hồn lông bông mà thanh thú ngày xƣa, nay nó

cũng đã tiêu tán rồi mình nay còn có đƣợc nó nữa đâu và không bao giờ cho

có đƣợc..” [45.410]. Bằng sự đồng cảm của người kể chuyện chúng ta thấy

được chàng thanh niên Lê Tâm đã có tư tưởng tiến bộ hơn, cho dù ẩn mình

lên vùng núi treo leo hiểm trở để chôn vùi hình bóng mối tình xưa nhưng

chàng vẫn sống chứ không chọn cái chết để quên đi quá khứ đau buồn.

`Đó đều là những mối tình ngàn thu, say đắm, song lại mang màu sắc cá

nhân tư sản đòi giải phóng tình cảm, đòi tự do yêu đương, điều này xung đột

với những rằng buộc của lễ giáo phong kiến, để cuối cùng cái cá nhân tư sản

yếu đuối ấy đã phải khuất phục, hy sinh tình yêu mà phục tùng mệnh lệnh của

đạo đức phong kiến, rồi chết trong sự đau khổ nhớ thương.

Mặc dù chưa đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật miêu tả tâm trạng con

người, chưa phản ánh rõ những giằng co, xung đột bên trong tâm lý nhân vật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

như những sáng tác ở giai đoạn sau. Nhưng truyện ngắn trên Nam Phong tạp

chí cũng đã bước đầu có những thành công trong việc miêu tả những cảm xúc

nhẹ nhàng, thâm trầm và kín đáo của tâm hồn nhân vật. Qua đó góp phần tạo

nên một diện mạo mới mẻ cho văn học dân tộc. Tuy nhiên, đôi khi người kể

chuyện trong các trang viết truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí vẫn sử dụng

ngôn ngữ dài dòng, dàn trải, chưa có tính liên kết cao, đôi khi gây cảm giác

nhàm chán cho bạn đọc.

2.2. Lời đối thoại ngắn gọn, sinh động

Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người. Trong

cuốn Đại cương ngôn ngữ học và các sự kiện văn học nhấn mạnh “Hoạt

động giao tiếp căn bản, thƣờng xuyên phổ biến của sự hành chức ngôn ngữ là

hội thoại” [8.276], mà một trong những hình thức cơ bản và tiêu biểu nhất của

hội thoại là đối thoại.

Xét về mặt đặc trưng giao tiếp, lời đối thoại là lời nói có sự tương tác

giữa các lượt lời của các nhân vật, “là hoạt động giao tiếp có sự hiện diện

giữa ngƣời nói và ngƣời nghe, có quan hệ trao đáp hô ứng luân phiên, tạo

thành vòng thông tin khép kín (kể cả kênh phi ngôn ngữ). Trong đó, mọi xử ý

ngôn ngữ đều cần thiết cho mục đích chiến lƣợc hội thoại”.[24.114].

Đối thoại và độc thoại nội tâm đều là những hình thức quan trọng để

thể hiện nhân vật trong văn bản tự sự. Trong đó, “đối thoại là hình thức đối

đáp, trò chuyện giữa hai ngƣời hoặc nhiều ngƣời. Trong văn bản tự sự đối

thoại đƣợc thể hiện bằng cách gạch đầu dòng ở lời trao đáp và lời đáp (mỗi

lƣợt lời là một gạch đầu dòng) [6.178].

Có thể nói rằng đối thoại là một hình thức để phơi bày sự thật, thể hiện

một sự thật về một nhân vật nào đó, đồng thời qua đối thoại mà các nhân vật

tự bộc lộ tính cách của nhau. Ngoài ra, theo Lại Nguyên Ân trong cuốn 150

thuật ngữ văn học, thì đó còn là “Một phần của văn bản ngôn từ nghệ thuật,

một thành tố mà chức năng là tái tạo sự giao tiếp bằng lời nói của các nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

vật [4.26]. Thuật ngữ này cũng được giải thích là: “một trong những dạng

thức của lời nói trong đó có sự hiện diện của ngƣời nói và ngƣời nghe và mỗi

phát ngôn đều trực tiếp hƣớng đến ngƣời tiếp chuyện và xoay quanh một chủ

đề của cuộc hội thoại [50.93- 94]. Như vậy, xét về mặt cấu trúc lời nói, đối

thoại là một trong những thành phần cơ bản quan trọng, tạo nên lời nhân vật

nói riêng và lời văn nghệ thuật của tác phẩm nói chung.

Gần đây, tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng trong công trình nghiên cứu

của mình cho rằng: “Đối thoại là hình thức giao tiếp thƣờng xuyên và phổ

biến nhất của ngôn ngữ, đồng thời cũng là hình thức căn bản của mọi hoạt

động ngôn ngữ khác. Do vậy, nó là cơ sở để giải thích các hình thức hành

chức khác của ngôn ngữ. Đối thoại thƣờng là cuộc trò chuyện giữa hai nhân

vật, dạng phổ biến nhất của đối thoại là song thoại (dialogue). Tuy nhiên,

trong thực tế giao tiếp, số lƣợng ngƣời tham gia đối thoại có thể là ba, khi đó

ngƣời ta gọi là tam thoại (trilogue), bốn hoặc nhiều ngƣời hơn nữa ngƣời ta

gọi là đa thoại.[22.119]

Như vậy, lời đối thoại là lời trong cuộc giao tiếp song phương mà lời

này xuất hiện như một phản ứng đáp lại lời nói của người khác. Điều kiện

thực hiện một cuộc đối thoại là phải có sự hiện diện của người nói và người

nghe và mỗi phát ngôn đều phải trực tiếp hướng đến người tiếp chuyện và

xoay quanh một chủ đề nhất định của cuộc đối thoại. Tham gia vào thành

phần cấu tạo ngôn ngữ nghệ thuật thì qua đối thoại mà bộc lộ được tâm trạng

và tính cách điển hình của nhân vật. Thậm chí lời đối thoại đã trở thành sức

mạnh nghệ thuật của nhiều nhà văn như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng

Phụng, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng và Lê Lựu sau này.

Đối thoại có thể bao gồm đối thoại trực tiếp và đối thoại gián tiếp

Đối thoại trực tiếp là các nhân vật tham gia giao tiếp thường có đầy đủ

bên trao và bên đáp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhân vật không hiện

diện, do không cần thiết hoặc do đặc trưng của cuộc đối thoại ấy. Điều này

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

cho phép nhà văn thể hiện tài năng của mình khi xây dựng thành công cuộc

đối thoại. Đồng thời nó còn cho phép nhà văn mở rộng hiện thực đời sống của

tác phẩm, nâng cao giá trị tác phẩm.

Đối thoại gián tiếp là hình thức đối thoại ngầm, mang tính chất vô hình.

Nó được hiểu như một sự đối thoại hướng tới lời của người khác, hay một

điều gì khác. Loại đối thoại này thường tạo ra sự tranh luận ngầm giữa các

chủ thể lời nói. Nhiều khi chủ thể đối thoại không xuất hiện một cách trực

diện mà đội lốt dưới dạng một nhân vật khác. Đối thoại gián tiếp bắt nguồn từ

bản chất đối thoại của ngôn ngữ. Ngôn ngữ chỉ sống trong sự giao tiếp đối

thoại giữa những người sử dụng ngôn ngữ. Sự giao tiếp đối thoại chính là lĩnh

vực đích thực của cuộc sống ngôn ngữ.

Trong văn xuôi Quốc ngữ nước ta những năm đầu thế kỷ XX, thì tính

chất đối thoại được các nhà văn sử dụng khá thành công, đặc biệt là các tác

giả viết truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí. Cùng với sự Việt hóa cao về

phương diện từ ngữ, lối hành văn biền ngẫu hoặc đưa văn vần vào truyện

cũng dần bị hạn chế. Điều này cho thấy các cây bút viết truyện trên báo Nam

Phong đã có ý thức bứt ra khỏi cách diễn đạt cũ để hòa mình vào với dòng

chảy của ngôn từ và lối diễn đạt mới theo tinh thần phương Tây, trong đó có

sử dụng những đoạn đối thoại sinh động, gắn gọn nhưng vẫn lột tả được tính

cách của nhân vật, thể hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả. Thông qua lời đối

thoại mà những phát ngôn trực tiếp cho tư tưởng của tác giả được hé lộ.

Ngôn ngữ trong các tác phẩm du ký trên Nam Phong tạp chí là thứ

ngôn ngữ mượt mà, uyển chuyển, bóng bẩy đầy tính biểu cảm như đoạn miêu

tả thiên nhiên trong bài Cảnh vật Hà Tiên của Đông Hồ và Nguyễn Văn

Kiểm “Cảnh bãi biển nhƣ bãi Kim Dữ, đứng trên đồi trông ra đàng xa những

làn sóng nhấp nhô dào dạt trên bãi cát nhƣ trăm nghìn con rắn. Về bên kia

chân trời, có mấy ngọn núi và cù lao chiu chít, trông nửa mờ nửa tỏ, thấp

thoáng chỗ trắng chỗ đen, nhấp nhô trên mặt sóng”.Đây là ngòi bút miêu tả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

của nhà du ký vô cùng lôi cuốn khiến cho bức tranh thiên nhiên hiện lên với

muôn màu của tạo hóa, qua đó thể hiện niềm tự hào của tác giả về sự trù phú

của đất nước. Thế nhưng với đặc trưng thể loại riêng biệt, ngôn ngữ truyện

ngắn luôn xoáy sâu vào hiện thực cuộc sống thông qua những đoạn đối thoại

mang đầy tính kịch, làm cho mâu thuẫn được đẩy lên cao nhờ đó mà các nhân

vật bộc lộ tính cách, ý đồ của nhà văn cũng được thể hiện.

Đọc truyện ngắn Sống chết mặc bay (số 18, tháng 12/1918) của Phạm

Duy Tốn được coi truyện vận dụng thành công nghệ thuật của truyện ngắn

hiện đại kết hợp tương đối thuần thục cách kể chuyện, cách miêu tả, lời đối

thoại ngắn gọn đẩy xung đột của hai cảnh ngộ lên rất cao.Trong khi quan

đang chờ ù ván bài to thì cảnh ngộ vô cùng thảm sầu: “Nƣớc tràn lênh láng,

xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không có

chỗ ở kẻ chết không nơi chôn lênh đênh mặt nƣớc [45.118]. Còn đây là đoạn

đối thoại giữa người vào bẩm quan đê vỡ và quan phụ mẫu.

“ Bẩm quan lớn…đê vỡ mất rồi.

- Đê vỡ rồi, đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày có biết không…lính

đâu? Sao bay giám để cho nó chạy xồng xộc vào đây nhƣ vậy? không còn

phép tắc gì nữa à?

- Dạ, bẩm …

- Đuổi cổ nó ra!

Nghoảnh mặt lại hỏi thầy Đề:

- Thầy bốc quân gì thế?...[45.117]

Chỉ một đoạn đối thoại này cũng cho thấy toàn bộ thái độ thờ ơ, vô

trách nhiệm của tên quan huyện trước thảm họa của dân. Là một người thay

mặt triều đình trông coi công việc làm ăn của nhân dân mà khi nghe tin báo là

đê vỡ quan lớn như không hề quan tâm đến cái việc khủng khiếp ấy mà chỉ

dốc hết trí lực của mình vào việc đánh tổ tôm coi đó là một thú vui và không

muốn ai quấy rầy. Điều duy nhất mà tên quan lòng lang dạ thú để ý lúc này là:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

“thầy bốc quân gì thế?”

Trong khi các tác giả khác thường khai thác đề tài ở những biến cố gia

đình như Nguyễn Bá Học, Mân Châu, Vũ Miễn Nam, thì Phạm Duy Tốn chủ

yếu khai thác đề tài từ những vấn đề xã hội, mang yếu tố hiện thực. Ông đã

chú ý phơi bày thực trạng thối nát, bất công của xã hội thực dân nửa phong

kiến. Với Sống chết mặc bay ông đã nhìn được đúng bản chất của một hạng

người thuộc tầng lớp thống trị và bọn quan lại. Tên quan này tiêu biểu cho sự

đồi bại, mọt ruỗng của giai cấp thống trị.

Vẫn cảm hứng phê phán, trong truyện ngắn Con người sở khanh (số

20, tháng 2/1919) Phạm Duy Tốn đã vận dụng thành công những lời đối thoại

để bóc trần bộ mặt của chủ nghĩa tư sản cá nhân, vì tiền mà sẵn sàng phá hoại

hạnh phúc gia đình điều mà ai cũng muốn nâng niu và gìn giữ.

“Tối thứ sáu vợ bảo chồng rằng:

- À này mình ạ. Hai trăm bạc tôi đem gửi thầy đẻ nhé? Mang đi làm gì

cho phiền nhỉ?

Chồng đáp.

- Ừ đem cả đi làm gì!...Ơ! Thế nhƣng mà ngộ mình còn muốn mua bán

sắm sửa cái gì nữa chăng? Bất nhƣợc cứ đem quách cả đi cho tiện.

- Ừ phải. Mấy khi lên Hà Nội tội gì chẳng sắm! Để mai đổi cả lấy giấy,

mang đi cho khỏi nặng.” [45.128]

Qua cuộc đối thoại giữa hai vợ chồng thầy Thông Ất người đọc đã

phần nào hình dung được bộ mặt thật của y, vì tiền mà hắn sẵn sàng lừa gạt

người vợ mới cưới của mình, chỉ lo ăn chơi sa đọa. Đồng thời tác giả còn tỏ

ý phê phán những người con gái nhẹ dạ cả tin, chỉ nghe lời ngon ngọt dỗ

dành, yêu vẻ bề ngoài hào nhoáng, ham thích sự phù phiếm sa hoa để đến

khi kịp nhận ra thì đã qua muộn, lỡ dở cả một đời người. Còn đây là đoạn

đối thoại giữa thầy Bính và cô Giáp khi nhận ra bộ mặt giả nhân giả nghĩa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

của người chồng mới:

“ Thầy Bính lắc dầu thở dài, nhìn cô Giáp mà nói rằng:

- Thôi cô mắc lừa rôi cô ạ.

- Cô Giáp không hiểu?

- Mắc lừa ai? Thầy bảo tôi mắc lừa ai?...

- Mắc lừa thằng bợm chứ mắc lừa ai! Nó cuỗm cả vàng lẫn bạc tếch

lên ngàn rồi… Sao lại cả tin đứa vu vơ, trên không chằng dƣới không dễ thế.

- Nhà… nhà… nhà tôi ấy ƣ.

- Chứ lại gì.

Cô Giáp chết điếng ngƣời. Ngồi im lặng một lát rồi bƣng mặt òa lên

khóc.[45.133]

Đoạn đối thoại này giúp cô Giáp giải tỏa sự thắc mắc, băn khoăn, nửa

tin nửa ngờ đối với chồng mới cưới của cô. Có thể nói truyện ngắn của Phạm

Duy Tốn thiên về phản ánh xã hội với khuynh hướng “tả chân” nhiều hơn là

mục đích giáo huấn đạo đức, luân lí xã hội. Điều này đem lại cho người đọc

sự hiểu biết về thực trạng xã hội nửa thực dân nửa phong kiến vẫn đang chất

đầy những rối ren, bất công. Ở đó con người sẵn sàng lừa gạt đồng bào và

người thân của mình để đạt được mục đích.

Xã hội tồn tại với muôn màu muôn vẻ, mỗi người có một cách sống và

cách nghĩ khác nhau. Đặc biệt, sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta kéo

theo sự hòa trộn giữa văn hóa truyền thống và văn hóa phương Tây, ảnh

hưởng của lối sống tự do, phóng túng. Đoạn đối thoại giữa khách làng chơi và

cô đào nhà hàng trong truyện ngắn Đồ mất dạy của Lê Đức Nhượng (số198,

tháng6/1934) là một minh chứng tiêu biểu.

“ Nghe nói Lan giật mình, nhìn vào rồi vừa đi đến chỗ cụ Giáo vừa nói:

- Ô kìa! Hai anh lên bao giờ thế? Em không biết đấy.

Nói rồi, giơ một tay quàng lấy cổ cụ Giáo mà ngồi xuống bên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Cụ Giáo làm mặt giận nói.

- Thôi đừng bố lờ nữa, đêm hôm qua ngƣời ta gọi ồi ồi mà cũng chẳng

thèm xuống.

- Anh gọi em nhƣng em không nghe tiếng, nếu nghe tiếng thì em xuống

ngay.

Rồi ả vừa vỗ tay vừa nũng nịu nói.

- Khốn nạn! đêm qua tôi không biết để anh tôi ngủ một mình. Anh có

ngủ đƣợc không hử? Cƣời đi rồi chốc nữa em đền.” [45.471].

Đoạn đối thoại đã đưa người đọc đến khung cảnh của chốn lầu xanh,

cũng vì tiền mà con người ta sẵn sàng bán rẻ bản thân mình để mua vui cho

khách làng chơi. Với những lời nói ờm ờ, cử chỉ lả lơi để vui lòng khách.

Thậm chí với họ lòng tự trọng, phẩm giá của người phụ nữ từng là thước đo

chuẩn mực cho đạo đức của con người cũng không cần. Xã hội là một sự loạn

luân với đầy rẫy các tệ nạn trong đó có tệ nạn mại dâm.

Ở truyện ngắn Ông Phó Xẹ (số 199/tháng7/1934) của Nguyễn Khắc

Cán lại đề cập tới tệ nạn mua danh bán tước ở nông thôn. Xuất phát từ tâm lý

muốn có một chỗ đứng trong làng, sẽ được người ta phục dịch nên anh Xẹ

dồn hết gia sản nhà mình để ra mua chức: “Cố tốn kém ít nhiều cũng cố ra

phó lý kỳ này, cứ bạch đinh mãi lắm lúc nhục quá mẹ nó ạ.” [45.475].

Đây là đoạn đối thoại giữa cụ Thừa và Thủ Cựu:

“- Này cụ hội liệu nó có định làm thực không? Chỉ sợ về lại có kẻ bàn

ra, nó thôi thì mình hốc.

- Bẩm cụ không ngại, nó định làm thực đấy. Trong họ nó chẳng có ai

biết gì mà dạy khôn nó đâu, một lũ ngu ngốc thì tôi xui thế nào mà chúng nó

chẳng nghe.

- Phải, cụ phải săn sóc đến việc này mới đƣợc. Có những hạng ngƣời

ngu dốt dại dột nhƣ thế thì mình mới bở, chứ họ mà khôn lại có học hành thì

mình ăn gì.”[45.480]

Đoạn đối thoại ngắn gọn trên đã hiện lên bộ mặt giả nhân giả nghĩa của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

hai tên này, lợi dụng sự cả tin kém hiểu biết của người khác để làm lợi cho

mình. Chúng không hề nghĩ rằng để đủ tiền mua chức phó lý mà gia đình

người ta phải tan cửa nát nhà. Cuối cùng chức danh của anh Xẹ là danh hão

mà thôi: “Lúc về đến nhà chân ông đi không vững, mặt ông tái mét, bà phó thì

đang ngồi ăn rau sam luộc với ba đứa con ốm yếu” [45.483]. Chạy theo danh

vọng đến khi nhận ra thì đã quá muộn : “Ối trời đất ôi là trời đất ôi! Chúng

nó hại tôi rồi, nó giết tôi. Vợ con tôi khổ thế kia là vì đâu…” [45.484].

Có thể nói Lê Đức Nhượng đã khéo léo lựa chọn các nhân vật điển hình

và tổ chức các tình huống cho họ đối thoại cốt để làm rõ và bóc trần sự thật,

lột mặt lạ của nhân vật. Chính vì thế mà người đọc không có cảm giác về sự

giả tạo, khiên cưỡng nào trong những lời đối đáp của họ. Mà trái lại nó được

diễn ra rất tự nhiên và các nhân vật tự bộc lộ bản chất của mình.

Khác với việc mua danh bán tước ở truyện ngắn Ông phó Xẹ thì Bữa

cỗ nợ miệng (số 204/tháng 9/1934) lại đề cập tới một hủ tục đang thịnh hành

thời đó. Bố mẹ mất rồi lại để lại gánh nặng trả nợ miệng cho con cái, mọi

người đến một đám ma nhưng không khí chẳng khác nào một đám cưới linh

đình, tiếng cười nói át hết cả tiếng kèn, tiếng khóc và đặc biệt là tiếng hò nhau

làm cỗ. Thậm chí nếu không làm cỗ cho đầy đặn thì họ xỉ vả cho đến nhục.

“ Ừ bác Xã khéo tậu trâu thực!

- Bác ấy thật là ngƣời tử tế nên cỗ bàn làm trung hậu nhƣ thế này, chớ

không đơn bạc nhƣ ông Lý Cửu. Năm ngoái ông ta lo ma mẹ làm cỗ cho dân

ăn nhƣ cho chó ăn. Thế mà dân cũng cứ cắm đầu cắm cổ hùng hục mà ăn,

chẳng ai dám há họng ra nói câu gì.

- Thôi chả lẽ trong làng với nhau, nói ra thì lại mang tiếng là tham ăn”

[45.503]

Cuộc trò chuyện giữa những người đến dự đám ma với nhau đã giúp

người đọc hình dung lại nạn xôi thịt của xã hội phong kiến, chỉ vì miếng ăn

mà lo ma cho bố mẹ xong đến nỗi nhà còn không có mà ở phải tha phương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

cầu thực: “Có những ngƣời lo ma chay cho cha mẹ xong thì hết cả cơ nghiệp,

không thì cũng nhịn ăn, nhịn mặc đến hết đời mới đủ, có ngƣời còn phải đƣa

cả vợ con đi nơi khác làm ăn có khá nên thì mới quay về để lo trả nợ cho

làng, còn nghèo mãi thì đành bỏ làng mà đi vậy” [45.501].

Bằng những cuộc đối thoại trò chuyện ngắn gọn, lối văn giản dị, chú ý

nhiều đến miêu tả hiện thực, truyện ngắn đã lên án tố cáo một hủ tục ở làng

quê lúc bấy giờ. Bữa cỗ nợ miệng khiến người đọc liên tưởng tới Việc làng

của Ngô Tất Tố ngòi bút hiện thực xuất sắc giai đoạn sau.

Truyện ngắn Người thím nuôi (số 196/1933) lại là một nghịch cảnh

đầy trở trêu và đau đớn, xoay quanh bổn phận làm con, làm tròn chữ hiếu.

Ông Nghị sống sa hoa, giàu có nhưng lại để mẹ mình sống trong một túp lều

rách, ngày ngày bán nước vối kiếm từng đồng để nuôi thân. Đoạn đối thoại

sau giúp người đọc thấy được cuộc sống vất vả của bà lúc tuổi già cần người

chăm sóc:

- Hôm nay cụ có đắt hàng không?

Bà lão phều phào nói:

- Cũng khá thôi cô ạ, từ sáng tới giờ mới đƣợc có sáu xu.

- Nhƣng cụ phải pha thêm nƣớc lã vào mới uống đƣợc.

Bà lão bỏ cái nón xuống, để hở ra cái đầu không có khăn, tóc trắng

nhƣ bông đầm đìa mồ hôi, rồi nói.

- Ừ để tôi vào trong này xin gáo nƣớc lã pha vào…” [ 45.456]

Sự khắc khổ của bà in hằn trên mái tóc, cử chỉ và lời nói, người ta sinh ra

con lam lũ vất vả để nuôi con trưởng thành mong một ngày con sẽ hiểu tấm

lòng người mẹ, nhờ lúc khi về già trái gió trở trời có con cháu bên cạnh an

hưởng tuổi già. Nhưng bà cụ thì không, bà có con mà là ông Nghị giàu có là

đằng khác. Cuộc sống trưởng giả của ông đã che lấp mất lương tâm không còn

hình bóng mẹ già nữa. Đây là đoạn đối thoại giữa bà cụ và con trai của mình.

“Bố Nghị, cho tao xin gáo nƣớc lã.

Rồi bà đứng chờ ông Nghị trả lời. Ông Nghị đang nghiêm nét mặt bỗng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

dịu dàng nói:

- Bà vào trong nhà bảo cháu nó múc nƣớc cho.

Rồi bà quay ra hỏi thằng nhỏ:

- Mày vào múc nƣớc cho bà.

Thằng nhỏ bảo bà lão:

- Bà vào trong này cháu múc cho.

Rồi nó đi vào trƣớc bà lão theo sau. Qua cái hiên trong, bà thấy bà Nghị

cùng các con đƣơng xúm nhau ăn dứa ngâm đá, bà vừa đi qua hiên vừa nói:

- Tôi xin chị gáo nƣớc lã.

Bà Nghị lƣờm bà lão một cái rồi lại cúi đầu cùng ăn dứa với các con.

Mấy đứa trẻ nhìn bà lão rồi cứ ăn tự nhiên nhƣ thƣờng.” [45.458]

Chắc có lẽ lúc đấy có khách ông sợ bẽ mặt nên mới dịu dàng như thế,

họ đối xử với bà lão không khác gì một kẻ ăn mày. Trong khi cả nhà ông ăn

dứa ngâm đường ngồi quạt mát thì ngoài kia dưới cái nắng như thiêu như đốt

người mẹ mình mà hắn bảo là người thím nuôi đang phải gò lưng phục vụ

khách bán từng chén nước để kiếm từng đồng. Đặc biệt, khi ông khách lên

tiếng hỏi quan hệ giữa hắn và bà lão thì ông liền cau trán, bỏ xiên dứa xuống

khay và nói mình với bà lão không có quan hệ máu mủ gì cả. Đến người dưng

khi nhìn thấy cảnh ngộ bà lão như vậy cũng khiến họ động lòng: “Nhƣng bây

giờ ngài cũng nên giúp đỡ bà cụ kẻo tội nghiệp.” [45.459]. Thì ngay lập tức

ông trở về bộ mặt thật của mình.

“Từ hiên cửa đi vào, ông sồng sộc đi thẳng đến trƣớc mặt bà lão, dí tay

vào trán bà và nghiến răng nói:

- Tôi đã bảo nhiều lần, nếu bà có muốn đến đây hỏi gì phải đi cửa sau,

sao hôm nay nhà đang có khách bà dám sồng sộc vào cửa trƣớc?

Bà lão vừa múc nƣớc vừa phều phào nói:

- Tôi vào cửa trƣớc thì anh xấu gì. Tôi nhỡ ra mới đến xin anh gáo

nƣớc lã, chứ có phải tôi đến bòn đãi gì anh đâu mà anh sợ, anh phải xỉ vả tôi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

đến thế.

Ông Nghị chỉ thẳng tay vào mặt bà lão mà mắng:

- Tôi chẳng xỉ vả gì nhà bà sốt cả, nhƣng đƣơng lúc tôi có khách, sao

bà không đi lối cửa sau. Này tôi bảo thật cho bà biết, bà bêu tôi, tôi cũng

không xấu đâu.”[45.460]

Qua đoạn các đoạn đối thoại mà nhân vật tự bộc lộ tính cách của mình

một cách rõ rệt, bộ mặt thật của ông Nghị được hiện hình, ông trả ơn sinh

thành dưỡng dục mẹ mình không khác một con ở, chỉ vì bà ở ngoài nắng

nhiều quá lại cộng thêm tuổi già, hoa mắt nên chẳng may đi nhầm vào cửa

trước nơi thằng con trai của bà đang tiếp khách mà ông ta sẵn sàng dí tay vào

trán cụ mà chửi không thương tiếc. Thậm chí khi bị bà nói lại và sợ ông khách

trong nhà mình biết mà ông bưng chặt lấy mồm bà lão, rồi ấn dúi ra cửa sau.

Mặc cho mẹ mình rẫy rụa hắn cũng không bỏ ra còn nói: “Hôm nay nhà

không có khách thì bà phải biết” [45.461]. Sự bất lực của bà trước thái độ tàn

nhẫn của đứa con đã bật lên thành tiếng kêu: “Ối trời đất ơi, có ai đẻ ra con

nhƣ tôi đẻ ra cái thằng Nghị Dong ở chợ phủ này không!” [45.461]. Ông

Nghị là một loại người điển hình cho sự vong ân bội nghĩa, những lời đối

thoại của ông với mẹ đẻ của mình đã từng bước bóc mẽ mặt người dạ thú của

hắn. Có thể nói những truyện ngắn của Lê Đức Nhượng đã có nhiều nét đổi

mới, các nhân vật của ông hầu như đều có tính cách rõ nét được thể hiện qua

nhưng lời đối thoại sinh động, câu văn ngắn gọn.

Không chỉ là sự trần thuật về sự thật, lôi ra ánh sáng những góc khuất

trong tâm hồn con người mà mỗi cuộc đối thoại giữa các nhân vật trong

truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí còn phơi bày sự thật về xã hội. Người

đọc nhờ đó mà nhận ra bức tranh xã hội rộng lớn về những vấn đề nóng bỏng

của thời đại. Những mâu thuẫn xã hội, những nghịch cảnh rối ren, tất cả được

hiện lên qua lời đối thoại như một tố cáo đanh thép, một sự bất bình tột độ đối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

với chế độ xã hội nửa thực dân nửa phong kiến.

2.3. Lời độc thoại nội tâm.

Cùng với lời đối thoại, độc thoại nội tâm là một thành phần quan trọng

tạo nên lời nhân vật trong tác phẩm. Độc thoại nội tâm là lời phát ngôn của

nhân vật, nói với chính mình, thể hiện quá trình tâm lý nội tâm, mô phỏng

hoạt động cảm xúc, suy nghĩ của con người trong dòng chảy trực tiếp của

nó…Độc thoại nội tâm được truyền đạt gần như không có sự can thiệp của tác

giả, phản ánh được cả ý thức và vô ý thức của nhân vật.

Khác với lời đối thoại, lời độc thoại nội tâm là dòng chảy ngữ lưu tuôn

chảy độc lập với phản xạ của người tiếp nhận. Biểu hiện hình thức bên ngoài của

tính độc thoại là dòng lời nói liên tục, dày đặc không bị ngắt quãng bởi những lời

nói của người khác. Nhưng bên trong rất nhiều khi vang lên những lời đối thoại,

tranh luận, vừa hướng vào mình vừa có thể hướng vào người khác.

Theo các tác giả trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học thì: “Độc thoại

nội tâm là lời phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể hiện trực tiếp

quá trình tâm lý, nội tâm, mô phỏng hành động cảm xúc, suy nghĩ của con

ngƣời trong dòng chảy trực tiếp của nó. [25.187]

Có tác giả khác lại cho rằng: “Độc thoại là lời của một ngƣời nào đó

nói với chính mình hoặc nói với một ai đó trong tƣởng tƣợng. Trong văn bản

tự sự khi ngƣời độc thoại nói thành lời thì phía trƣợc câu nói có gạch đầu

dòng, còn khi không thành lời thì không có gạch đầu dòng. Trƣờng hợp sau

gọi là độc thọai nội tâm. [6.178].

Trong công trình nghiên cứu khoa học của mình tác giả Nguyễn Thị

Thu Hằng khẳng định: “Độc thoại nội tâm là lời của nhân vật nói với chính

mình đƣợc thể hiện qua những lời tự sự nhƣ: lời nói thầm hoặc qua suy nghĩ

của nhân vật. Độc thoại nội tâm cũng có thể là lời kể của tác giả nhƣng phải

mang ý thức và tâm trạng của nhân vật.[22.122]

Có thể nói đây là thủ pháp nghệ thuật độc đáo của nhà văn nhằm khám

phá chiều sâu bên trong của nhân vật. Qua lời độc thoại nội tâm người đọc

thấy được bản chất của nhân vật, những ý nghĩ tình cảm, diễn biến tâm lý mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

họ không biểu lộ ra ngoài.

Độc thoại nội tâm là tiếng nói bên trong của những niêm trắc ẩn thường

vang lên trong những tình huống cụ thể. Một là, khi nhân vật rơi vào tình

trạng quá đau khổ, không còn lối thoát họ tự nói với lòng mình. Hai là, trước

những biến cố, những sự kiện bất ngờ, buộc nhân vật phải suy nghĩ, thậm chí

có những lời dằn vặt tự trách mình. Ba là, khi nhân vật bị tác động tinh thần

nặng nề từ bên ngoài, cũng có những trường hợp nhân vật tự giãi bày lòng

mình như một sự giải thoát về mặt tâm lý.

Như vậy, mỗi lời độc thoại đều gắn với những tình huống cụ thể. Bởi

những lời đó chỉ vang lên khi mỗi trái tim con người bị tổn thương. Nó gắn

liền với quá trình khủng hoảng bi đát, vật vã hoặc những đấu tranh, giằng xé

của con người với những biến động tâm ý bất ngờ căng thẳng.

Tuy tần số độc thoại nội tâm xuất hiện ít hơn so với những lời đối

thoại nhưng nó cũng không kém phần đa dạng và phong phú trong hình

thức biểu hiện.

Lời độc thoại dƣới dạng thuần túy.

Là những lời trực tiếp bên trong không bộc lộ thành âm thanh. Ở dạng

này thường xuất hiện những lời dẫn đi kèm như: tự nhủ, tự hỏi, tự trách, tự

nghĩ, ngạc nhiên,… nhằm thể hiện suy nghĩ của nhân vật.

Lời độc thoại nội tâm ở dạng biến thể, mở rộng.

Tồn tại dưới hình thức lời nửa trực tiếp, đối thoại tưởng tượng, dòng ý

thức nhật ký, thư từ…Trong số đó lời nửa trực tiếp khó nhận diện hơn cả vì

nó thường hòa lẫn trong lời trần thuật. Để xác định người ta căn cứ chủ yếu

vào dấu hiệu bộc lộ trạng thái bên trong của nhân vật. Tiêu chí để xác định

đoạn độc thoại nội tâm bao gồm cả dấu hiệu hình thức và dấu hiệu nội dung

mà nó biểu hiện.

Trong văn xuôi Quốc ngữ nước ta những năm đầu thế kỷ XX, độc thoại

nội tâm là thủ pháp nghệ thuật mới mẻ. Các cây bút viết truyện đã chú ý khai

thác thế mạnh của thủ pháp nghệ thuật này, góp phần giải tỏa một số bế tắc,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

bất cập của tính chất ước lệ, công thức trong văn học truyền thống, văn học

buổi giao thời. Tuy nhiên, với các nhà viết truyện ngắn lúc đó họ đều hướng

tới khuynh hướng “tả chân”, độc thoại nội tâm thực tế chưa được coi trọng.

Trước trọng trách phản ánh “sự thực ở đời”, họ thiên về phản ánh những xung

đột xã hội nhiều hơn là những xung đột tâm lý bên trong của mỗi con người.

Khi xây dựng nhân vật các tác giả dồn nhiều bút lực vào việc miêu tả ngoại

hình, hành động và đối thoại giữa các nhân vật, qua đó tính cách nhân vật dần

được bộc lộ. Có thể nói, độc thoại nội tâm là một biện pháp hữu hiệu nhất

giúp người đọc cảm nhận được đời sống bên trong của nhân vật, từ đó giúp

chúng ta hình dung ra những suy nghĩ thầm kín trong lòng họ.

Trong miêu tả khắc hoạ nội tâm nhân vật, các truyện ngắn trên Nam

Phong thời kỳ đầu cũng thể hiện tính ước lệ đậm nét. Các tác giả không miêu

tả trực tiếp mà vẫn dùng cách viết cũ để diễn đạt hoặc đưa ra một câu Kiều

hay một câu thơ cổ nào đó để thể hiện tâm trạng nhân vật. Hãy xem tác giả

Mân Châu trong truyện ngắn Ai giết người (số, 28/tháng10/1919) tả tâm trạng

người mẹ khi nghe tin hai con gặp truyện không may: “Ôi! Tin đâu sét đánh

lƣng trời, khiến cho lòng ngƣời mẹ kia không nung mà nóng, chẳng cắt mà

đau, sụt sùi giọt lệ trở lại gia đình, nào hai con đâu?...”[45.188]. Lối khắc

hoạ tâm trạng như vậy không đạt được hiệu quả, người đọc không cảm nhận

được sự đau đớn của nhân vật mà chỉ thấy đơn thuần là những hành động

gượng gạo, nhạt nhẽo… Thậm chí, Nguyễn Ngọc Thiều khi miêu tả tâm trạng

hai người bạn cũ gặp lại nhau trong Câu chuyện khách làng chơi (số

81/1924) lại dùng đến cả thơ:

“ Sụt sùi giở nỗi đoạn trƣờng

Giọt châu tầm tã đƣợm tràng áo xanh”

[45.328]

Và đây là tâm trạng của hai vợ chồng lúc chia ly trong truyện Có mới

nới cũ (số 105/tháng5/1926) của Đoàn Nhữ Nam

“ Kể chi những nỗi dọc đƣờng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Một lời trân trọng mấy hàng châu sa

Ngại ngùng khi bƣớc chân ra

Tấm lòng mong nhớ biết là có nguôi”

[45.375]

Có thể nói những lời độc thoại nội tâm của nhân vật như vậy vẫn mang

nặng hơi văn cũ chưa đạt đến tầm của truyện ngắn hiện đại. Đọc truyện ngắn

Nam Phong ta gặp rất nhiều nhân vật với những cảnh đời khác nhau, nhưng

những nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc thì chưa nhiều. Sở dĩ có tình trạng này

là do tác giả giai đoạn này còn ảnh hưởng nhiều của lối viết truyện của văn

học truyền thống.

Nhưng càng về sau thì truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí lại có nhiều

biến đổi rõ rệt, bắt kịp với tiến trình hiện đại hóa của văn học dân tộc.Truyện

ngắn Anh hủ lắm (số 194,tháng 4/1934) của Lê Đức Nhượng nói về tâm

trạng và suy nghĩ của bác Xã Khé khi đến trước cửa quan, theo bác khi đến

cửa quan mà bị mọi người gây khó dễ thì chỉ cần biện lễ cho họ là xong: “Nếu

cậu có hoạnh mình thì mình sẽ biện cho cậu là xuôi” [45.432]. Qua lời độc

thoại của bác Xã Khé người đọc đã thấy được phần nào thức trạng xã hội nửa

phong kiến nửa thực dân đang được phơi bày ra trước mặt. Chốn công đường

kẻ ra người vào tấp nập, ai có tiền biết cách len lỏi, khéo mồm thì sẽ được

việc cho mình còn không thì sẽ bị mắng và đuổi về: “Ơ hay! Sao cậu này

mắng mình là hủ? Thì mình có dám khoe mình là văn minh đâu! Mình vẫn

nhận mình là hủ kia mà! Nhƣng cậu mắng mình là hủ về cái gì thì phải nói rõ

cho mình biết mới đƣợc chứ! Vào hầu quan thì mình cũng có lễ chứ có phải

vào tay không đâu mà cậu mắng là hủ. Hay mình không biện tiền cho cậu nên

cậu mắng chăng? Không có lẽ, nếu cậu muốn lấy tiền thì cậu bảo ngay

kia.”[45.434]. Sự băn khoăn không hiểu bị mắng là “hủ” vì lý do gì của nhân

vật đã hé lộ phần nào tệ nạn tham nhũng mà vua quan là những người tiếp tay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

cho các tệ nạn ấy sinh sôi nảy nở.

Hôm sau khi bán buồng cau, thứ mà bác cho rằng mình bị mắng là hủ

được bỏ đi, nhưng bác vẫn bị mắng là hủ, lần này thì bác thực sự không hiểu.

Bụng bảo dạ: “Có khi mình không đội khăn xếp và đi giầy nhƣ họ nên cậu lệ

mắng mình là hủ chăng” [45.436]. Với suy nghĩ như vậy bác đành đi mua

giầy dép và khăn xếp nhưng khi vào hầu quan vẫn bị mắng là hủ và bị đuổi ra.

Cuối cùng bác cố nhìn trộm qua khe cửa xem người kia vào hầu quan có điều

gì khác bác mà được vào luôn. Nhìn xong bác tái mét mặt đi, dồn hết những

đồng tiền cuối cùng, thậm chí cả tiền mua thuốc cho con và tiền ăn cơm cũng

bị hoãn lại để đổi ra tiền giấy vào hầu quan. Đúng như bác nghĩ: “Đời văn

minh lại đắt hơn trƣớc những sáu hào, giờ xã hội đổi thay, văn minh thì lại

càng nhiều tiền hơn” [45.438].

Qua những suy nghĩ, lo lắng được thể hiện bằng những lời độc thoại

nội tâm của bác Xã Khé chúng ta thấy hiện thực chốn công đường nơi tượng

trưng cho công, bằng bênh vực cho lẽ phải, đại diện cho công lý thì lại được

trao đổi mua bán bằng tiền, vì tiền mà các quan cha mẹ của dân sẵn sàng đổi

trắng thành đen, phải trái lẫn lộn đi ngược lại với quyền lợi của nhân dân.

Nhờ những dòng độc thoại nội tâm trong truyện ngắn Bức ảnh phóng

đại (số 195, tháng 5/1934) của ông quan nghị Nghển mà người đọc hiểu được

tâm lý thích khoa trương, phóng đại, biến xấu thành đẹp, không thành có của

một lớp người trong xã hội cũ. Khi chụp ảnh xong ông nghị Nghển tự ngồi

cười tủm tỉm và tự nghĩ một mình rằng: “Nhƣ thế mà để về sau thì cũng là

quan chứ gì. Ai còn biết đâu những lúc mình hàn vi làm bồi ở Hải Phòng, rồi

dễ dàng đƣợc ít vốn về cho vay lãi mà đƣợc nhƣ bây giờ. Hễ là lão thợ ảnh

này mà chụp đƣợc khéo, làm cho cái mặt của mình rõ ra quan xứng với bộ mũ

áo chầu ấy thì mình sẽ thƣởng thêm cho hắn một công nữa mới đƣợc”

[45.445]. Với tâm lý chạy theo cái đẹp, cái giả dối ông nghị Nghển đã không

ngần ngại biến mình thành một người hoàn toàn khác, sống không thật với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

lòng mình. Cách đối xử giữa con người và con người với nhau trong xã hội

chỉ là sự lọc lừa mà thôi. Để đến khi vẻ bề ngoài của ông như thế nào đã được

phô bày trên bức ảnh thì ông ta lại không dám nhận đó là chính mình. Một bi

kịch xảy ra ngay trong lòng, ông nghị Nghển tuy xấu vì mặt ông bị rỗ và có

nhiều chấm đen nhưng ông lại khao khát có một bức ảnh tuyệt đẹp để cân

xứng với bộ mũ áo quan truyền lại cho con cháu đời sau. Song suy nghĩ

“ngƣời xấu lại muốn tốt” [45.447] của ông không thể được che đậy bằng bức

ảnh được.

Vẫn cảm hứng phê phán qua đó làm nổi bật lên những tính cách con

người trong xã hội cũ. Truyện ngắn À! Chuyện chiêm bao (số 49, tháng 7,

1921) của Nguyễn Bá Học xoay quanh nhân vật Hàn Bá Thiên, là một anh

cùng nho cựu học, không thành danh nhưng lại thích mơ ước cao xa. Hiện

thực cuộc sống ngổn ngang, vợ con làm không đủ ăn vì mất mùa nhưng anh ta

vẫn bình chân như vại không biết cố gắng vươn lên để khắc phục khó khăn

mà chỉ biết ngồi đó để mơ ước, hi vọng cuộc đời rồi sẽ đổi thay. Lời độc thoại

nội tâm được nhân vật này nghĩ ngay cả trong giấc ngủ của mình, anh ta mơ

sẽ trúng hồng thập tự số thứ nhất, có tới bốn vạn đồng bạc để được đổi đời:

“Nay mình có một cái tài sản to tát nhƣ thế này, cũng phải tiêu dùng cho hợp

với phƣơng pháp văn minh của những nhà lí tài Âu Mỹ” [45.277]. Bằng

những lời độc thoại nội tâm của nhân vật Hàn Bá Thiên chúng ta thấy vẫn còn

tồn tại một số người trong xã hội xưa và nay hay mơ mộng viển vông, không

gắn hoàn cảnh thực tế của mình vào với cuộc sống để rồi khi thoát khỏi giấc

mơ ấy thì sự thực luôn phũ phàng. Thậm chí hai vợ chồng Hàn Bá Thiên còn

không còn cái gì mà ăn và nuôi con, đành phải bán đợ chiếc áo ngoài của anh

ta mà tiếp tục cuộc sống: “Thôi, hãy đƣa cái áo ngoài của anh đây cho tôi, để

tôi đi gửi lấy mấy đấu gạo mà thổi cơm sáng.” [45.279]. Có thể nói, Nguyễn

Bá Học tuy là người có ảnh hưởng Tây học nhưng về cơ bản ông vẫn là một

nhà Nho học. Nhân vật trong các truyện ngắn của ông phần lớn là những nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

vật của giai cấp phong kiến đang suy tàn. Ông cảm thông và đau sót khi họ bị

đời sống vật chất chi phối và kìm hãm, nhờ đó mà ông thấu hiểu được ít nhiều

hiện tượng xấu xa trong xã hội. Đồng thời, Nguyễn Bá Học thường đứng trên

quan điểm của đạo đức phong kiến để xét đoán hành động của con người, hơn

nữa khi viết về một xã hội lý tưởng thì theo ông phải là một xã hội tư sản theo

những chuẩn mực đạo đức phong kiến cũ. Kết quả là ông không thể hướng

con người đến một xã hội lý tưởng thẩm mỹ theo cách sống vô sản, ông

chuộng lối sống hài hòa đan xen giữa cũ và mới của cái gọi là: “điều hòa tân

cựu”, “thổ nạp Á Âu”.

Sự giằng co trong tâm trạng của con người đôi khi bật lên thành những

tiếng chửi lời than, có khi lại là những lời tự nhủ với chính bản thân mình.

Song để bộc lộ nội tâm của nhân vật thế vẫn chưa đủ, nhiều khi nhân vật phải

gửi nỗi lòng của mình vào cả một bức thư dài để bày tỏ tâm sự. Điều này cho

phép các nhân vật có thể bộc lộ hết những tâm tư từ trong đáy lòng họ, giúp

người đọc hiểu thấu đáo hơn được nhân vật qua đó hé mở được tư tưởng của

nhà văn muốn gửi gắm vào trong tác phẩm của mình.

Khảo sát truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí chúng tôi thấy có một số

truyện sử dụng lời độc thoại nội tâm bằng hình thức viết thư như sau:

STT Tên tác phẩm Tên tác giả Số/ năm xuất bản Hình thức viết thƣ

1 Giọt lệ hồng lâu Số 51/tháng9/1921 X Hoàng Ngọc Phách

2 Vũ Đình Chí Số 90/tháng12/1924 X

Truyện một người du học sinh An Nam

3 Ôi! Thiếu niên Vũ Đình Chí Số 95/tháng5/1925 X

4 Tuyết Nga Tùng Toàn Số193/tháng2-3/1934 X

5 Tùng Toàn Số 197/tháng6/1934 X Lưỡi dao oan nghiệt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

6 Lòng nhi nữ Số205/tháng10/1934 X Lê Đức Nhượng

Lá thư Lan Nương gửi cho Phong trong truyện ngắn Giọt lệ hồng lâu

(số51,tháng 9/1921) của Hoàng Ngọc Phách được thể hiện như vậy.

Tác phẩm được viết dưới hình thức một bức thư, mở đầu là hai bài thơ

nói về thân phận bạc bẽo của khách má hồng. Bức thư là những lời tâm sự với

người yêu của một cô gái làm nghề xướng ca khi đang đau ốm nằm ở nhà

thương. Cô gái nói với người mà cô yêu nhưng thực ra là cô nói với tất cả mọi

người. Những cảnh ngộ éo le, những nỗi xót xa đau khổ của những người con

gái làm nghề kỹ nữ, một nghề rất tầm thường dưới mắt của mọi người. Họ

càng khát khao một tình yêu, một tình yêu cho riêng mình, nhưng rồi họ cay

đắng nhận ra, tất cả đối với họ chỉ là phù phiếm: “Em lại không biết hậu nhật

là gì? Lắm khi đang ngồi trong tiệc rƣợu, đƣơng kề trên tay tình nhân hết sức

chiều chuộng mà đã thấy hậu lai rồi, thấy cảnh con hầu sớm trƣa lƣợc đầu

khăn mặt, thấy cảnh đứng sau mành hay dựa cột nhà ngƣời, hễ khách đến thì

trốn trong nhà mà pha nƣớc, khách ra về thì dọn chén lau bàn. Văng vẳng đã

nghe tiếng mắng chửi cay nghiệt của vợ cả cay nghiệt. Ai không gặp cảnh ấy

thì lại bị lỗi dở dang, chăm chăm yêu mến chiều chuộng các ông rồi đến khi

nhạt phấn trôi son, khi quá yêu đến nỗi nhỡ nhàng thì các ông bỏ”.[45.285]

Hoàng Ngọc Phách đã thấu hiểu thông cảm với nỗi khổ tâm của những

người con gái ấy. Ông đã chú ý miêu tả tâm trạng của nhân vật: “Mấy hôm

nay trời âm u, mây phủ, cây khô lá úa, gió bắc mƣa dầm hình nhƣ ai đem

cảnh buồn thiên nhiên mà pha lẫn với nỗi buồn nhân tạo để vẽ bức tranh ủ

dột của nhà thƣơng cho đƣợc hoàn toàn. Cả ngày em chỉ chăm chăm mà

ngậm ngùi thế sự, than thở nỗi lòng…”[45.281]. Kiếp cầm ca, đem tài năng

của mình để mua vui cho khách làng chơi để sinh sống. Nhưng trong mắt mọi

người đây là một nghề xấu xa, các cô chỉ mang những lời ong bướm để dụ dỗ

đàn ông, phá hoại hạnh phúc của gia đình người khác. Thế nhưng tình cảm

mà họ nhận được từ những người đàn ông khác chỉ là sự giả dối, lừa bịp dòng

cảm xúc của Lan Nương quay trở về nhớ lại những kỉ niệm khi nàng chưa bị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

bệnh: “những ngƣời đƣa đi thử nhẫn Gô đa, chọn gấm hàng Đào, nƣớc huê

tặng từng chai, tiền cao su trả hàng đêm, rạp hát lấy hàng xấp, em cũng coi

nhƣ không cả, chẳng qua khéo trả tiền chầu hát mà thôi” [45.283]. Sau những

lần như vậy các cô chỉ biết nhận và cười để vui lòng khách, tiếng cười ấy là

tiếng cười ngượng, cười trong sự xấu hổ và tủi phận: “Nếu không có những

trận cƣời khuynh gia bại sản, trận cƣời bỏ vợ lìa con ấy, thì chúng em lấy đâu

ra tiền tiêu quanh năm, lấy đâu huê hột, áo quần…”[45.283]. Qua lời độc

thoại này tác giả có ý lên án một xã hội với đầy rẫy các tệ nạn, hư hỏng không

chỉ do sự yếu lòng của nghề kĩ nữ mà phần lớn những người đàn ông tự hủy

diệt gia đình của mình, chúng bỏ vợ lìa con để chạy theo lối sống sa đọa, ăn

chơi hưởng lạc, chúng tôn thờ cái gọi là tự do hôn nhân. Để rồi đằng sau

nhưng cuộc vui đó là những giọt nước mắt của những người phụ nữ, họ bị trà

đạp cả về nhân phẩm và thể xác bị coi như một thứ hàng mà chỉ cần bỏ tiền là

có thể mua được.

Trong truyện ngắn có rất nhiều đoạn viết rất giống với Tố Tâm – cuốn

tiểu thuyết một thời nổi tiếng của ông, cũng được lồng ghép với những bức

thư của Đạm Thủy và Tố Tâm để truyền tải tâm tình. Đây là những cảm xúc

chân thật nhất bởi nó được viết chỉ dành riêng cho một người đọc, là những

lời muốn nói của trái tim, là tâm hồn của những cảm xúc yêu thương, đau

buồn và chia ly dễ gây được sự xúc động cho người đọc. Đi sâu vào tình cảm

cá nhân của mỗi con người, cảm thông với những khát khao chính đáng của

họ, nhưng ông không tìm được lối thoát cho nhân vật của mình. Truyện ngắn

của ông thường kết thúc rất bi kịch với giọng điệu buồn thảm.

Hay Truyện một người du học sinh An Nam (số 90, tháng 12/1924) là

một câu chuyện tình đượm màu sắc lãng mạn. Phong Ảnh yêu tha thiết Bằng

Giang nhưng hai người không lấy được nhau, người con gái chết đi gửi lại

cho người yêu (lúc đó đang du học bên Pháp) những bức thư được viết trong

tâm trạng khắc khoải tuyệt vọng. Vết máu bầm đen trong một trang thư cũ ám

ảnh người con trai suốt những năm tháng còn lại, cuối cùng Bằng Giang ôm

mối sầu thảm bỏ thân nơi đất khách quê người. Câu chuyện đưa ta vào tâm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

hồn của hai người yêu nhau trong tuyệt vọng vô bờ. Hầu như suốt từ đầu đến

cuối truyện tác giả chỉ để tâm vào miêu tả tâm trạng của hai nhân vật chính.

Tả tâm trạng của Phong Ảnh, Vũ Đình Chí cũng chỉ dừng lại mức độ như

Hoàng Ngọc Phách khi tả tâm trạng Lan Nương trong Giọt lệ hồng lâu : “Cái

mình anh đã không phải là của em, mà em lại yêu anh, yêu anh đến não nuột,

não lòng thì chỉ con có một cách là ngậm đắng nuốt cay mà khổ. Mỗi lần em

thấy anh cùng với ngƣời yêu đi về đƣờng cũ em chỉ ôm đầu mà thổn thức một

mình…” [45.335] hay “tính ngày về em lại tựa cửa chờ anh, rồi lòng em lại

xót xa dạ em lại thổn thức, tự thấy mình lạnh lùng trơ trẽn nhƣ một ngƣời

đứng giữa cánh đồng băng” [45.335]. Đây là tâm trạng đau khổ và tuyệt vọng

của Phong Ảnh, mặc dù thừa biết Bằng Giang là người đã có vợ nhưng cô lại

đem lòng yêu mãnh liệt, thậm chí cô đã nhận ra mình đã lầm đường lạc lối sẽ

gây ác quả về sau nhưng vì hai chữ ái tình mà nàng không thể dứt bỏ người

tình của mình, để đến cuối cùng nàng chết trong đau khổ, sự nhung nhớ người

yêu cứ dằn vặt nàng đến lúc chết: “Một dòng máu và một tập lệ sử, đó là

những cái kỷ niệm, kỷ vật xin tặng anh sau khi em chết. Sự vui sƣớng đã

không muốn có em nữa, em sẽ đến nơi ngƣời ta thƣờng bảo “sống là gửi, thác

là về”, ở đấy họa may em sẽ đƣợc yên, đƣợc là ngƣời có một hai hi vọng…”

[45.338]. Dường như đây là tư tưởng bi quan không có ý thức vươn lên trong

cuộc sống, khi gặp khó khăn người ta thường nghĩ đến cái chết, coi cái chết là

một sự giải thoát cho chính mình, song họ không nghĩ cái chết của mình còn

làm ảnh hưởng đến cuộc sống và tâm trạng của những người thương yêu họ.

Cách giải quyết mâu thuẫn tâm lý của các nhà viết truyện ngắn giai đoạn này

vẫn chưa được thỏa đáng, phải đến những truyện ngắn sau này thì mới được

giải quyết triệt để.

Quá khứ và hiện tại đan cài vào nhau chứ không theo một trình tự nhất

định nào đó, vì vậy đã tạo được sự sinh động hấp dẫn cho câu chuyện, giúp

cho tác phẩm mang dáng dấp một truyện ngắn lãng mạn hiện đại.

Còn đây là tâm trạng dằn vặt, đấu tranh giữa con tim và lý trí trong bức

thư của Ngọc Kiều gửi cho Bích Hà: “Cậu bắt Ngọc Kiều phải yêu cậu, không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thế thì cậu quyên sinh. Em đƣợc cậu yêu cũng thấy tự cao một chút, mà cậu,

cậu đừng lầm tƣởng là em ghét cậu. Đối với mắt Ngọc Kiều, Bích Hà là một

vị thanh niên tuấn tú. Buổi đầu gặp gỡ, lòng em mang nặng mối tình, riêng

tiếc mình hồng lâu lần nữa nắng mƣa, không đƣợc cái hạnh phúc sánh đôi

cùng ngƣời quân tử…” [45.363]. Mối tình của Ngọc Kiều và Bích Hà là một

mối tình lãng mạn, ít nhiều có màu sắc của chủ nghĩa cá nhân tư sản. Là sinh

viên của một trường cao đẳng, đáng nhẽ Bích Hà phải dùi mài kinh sử,

chuyên tâm học hành. Nhưng Bích Hà lại đi theo tiếng gọi sôi nổi của trái tim

bồng bột tuổi thiếu niên, yêu say đắm Ngọc Kiều – một cô ả đào. Nhiều lần

chàng đã viết thư cho nàng để bộc bạch tâm tình này. Tuy là một người con

gái giang hồ nhưng lại là người có nhân cách tốt, Ngọc Kiều không muốn

đem cuộc đời và trái tim cát bụi của mình làm hỏng cuộc đời Bích Hà. Sự đau

khổ trong trái tim nàng không thể thốt lên lời đành kí thác tâm sự của mình

qua những lá thư để khuyên người yêu dành toàn bộ trí lực vào việc học hành,

để một ngày kia đăng khoa đỗ đạt.

Tóm lại, ngoài việc sử dụng lời trần thuật làm cho câu chuyện trở lên

khách quan, lời đối thoại ngắn gọn sinh động thì các tác giả còn vận dụng lời

độc thoại nội tâm để miêu tả ý thức nhân vật, nhất là việc miêu tả bên trong

có sự giằng xé, mâu thuẫn. Đây thực sự là một sáng tạo có tính đột phá của

các cây bút viết truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí trong việc khám phá đời

sống nội tâm bên trong của nhân vật. Tuy xuất hiện không nhiều bằng lời đối

thoại nhưng độc thoại nội tâm cũng có vai trò quan trọng trong việc nói thay ý

nghĩ, bộc lộ tâm tư của nhân vật, qua đó phản ánh được tâm trạng của một lớp

người trong xã hội lúc đó. Đồng thời góp phần đưa văn học giai đoạn giao

thời bước dần vào quỹ đạo của nền văn học hiện đại.

Tiểu kết chƣơng 2

Trong các thành phần của ngôn ngữ nghệ thuật thì lời trần thuật luôn

chiếm được ưu thế. Truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí đã vận dụng khá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thành công lời trần thuật, qua đó người trần thuật luôn có xu hướng nhập cảm

vào nhân vật, để nhân vật tự nói về cuộc đời mình. Xuất hiện trong các câu

chuyện dù nhân xưng hay vô xưng thì chủ thể trần thuật đều có vai trò như

nhau trong việc giới thiệu, miêu tả đối với nhân vật.

Đồng thời, truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí còn sử dụng khá nhuần

nhuyễn những lời đối thoại ngắn gọn, sinh động nhằm thể hiện một cách chân

thực nhất tính cách của mỗi nhân vật, qua đó khái quát được những nhân vật

có tính cách điển hình tiểu biểu cho một loại người trong xã hội. Nhờ vậy mà

mỗi trang truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí không chỉ mang giá trị hiện

thực sâu sắc mà nó còn cuốn hút người đọc, đặc biệt là một số truyện ngắn

của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Lê Đức Nhượng, Nguyễn Khắc Cán…

Bên cạnh lời đối thoại thì lời độc thoại nội tâm cũng được các cây bút

viết truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí quan tâm. Không chỉ dừng lại ở việc

miêu tả hình dáng bên ngoài mà các tác giả đã đi sâu vào khắc họa nội tâm

bên trong của con người, giúp người đọc thấy được những tâm tư suy nghĩ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

của nhân vật trước hiện thực cuộc sống.

CHƢƠNG 3

ĐẶC ĐIỂM VỀ TỪ NGỮ, CÂU VĂN TRONG TRUYỆN NGẮN

TRÊN NAM PHONG TẠP CHÍ

Ngôn ngữ là một phương tiện quan trọng nhằm chuyển tải tư tưởng và ý

đồ nghệ thuật của nhà văn tới bạn đọc. Do đó, ngôn ngữ là một phương tiện

không thể thiếu trong sáng tác văn học. Khi xây dựng tác phẩm, nhà văn phải

vận dụng toàn bộ các khả năng và phương tiện diễn đạt của ngôn ngữ toàn

dân” thuộc “các bình diện ngữ âm (hiệp vần, thanh điệu …), từ vựng (thực từ,

hư từ…), cú pháp (câu đơn, câu phức, câu rút gọn…), các phương tiện và biện

pháp tu từ (nhân hoá, liệt kê, ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, tượng trưng, …). Đồng

thời, các nhà văn còn phải vận dụng các hình thức vốn có trong kho tàng văn

học dân tộc như từ cổ, từ địa phương, thậm chí còn cần vận dụng những ngôn

ngữ vay mượn từ nước ngoài để xây dưng ngôn ngữ nghệ thuật trong tác

phẩm của riêng mình nhằm tạo ra những đặc điểm riêng biệt của mỗi nhà văn

qua các thời kỳ, giai đoạn khác nhau.

3.1 Ngôn ngữ ảnh hưởng văn học truyền thống

Bước sang thời kỳ hiện đại, nền quốc văn Hán – Nôm tồn tại hàng ngàn

thế kỷ nay đã không còn giữ vị trí chủ đạo trong các sáng tác văn chương. Với

sự xuất hiện của chữ quốc ngữ thì văn học bước vào một cuộc cách tân trên

mọi phương diện. Tuy nhiên, bước sang giai đoạn giao thời đầu thế kỷ XX,

ngôn ngữ văn chương vẫn đang trong quá trình trung chuyển chưa thoát khỏi

hoàn toàn ngôn ngữ cũ. Điều này được thể hiện rất rõ trong truyện ngắn trên

Nam Phong tạp chí. Mỗi trang truyện ngắn là sự trộn lẫn của nhiều lớp từ ngữ

khác nhau với nhiều phong cách diễn đạt đa dạng tạo cho truyện ngắn trên

Nam Phong tạp chí có nhiều tính mới mẻ nhưng chưa thoát ly truyền thống.

Vì vậy hệ thống từ Hán Việt vẫn dày đặc trong mỗi sáng tác trên Nam Phong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tạp chí.

3.1.1 Hệ thống từ Hán Việt

Đất nước ta chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa và văn học Trung

Quốc từ nhiều thế kỷ nay. Đặc biệt, về mặt ngôn ngữ thì chữ Hán được dùng

làm chữ viết chính thức của ta trong hàng thế kỷ. Vì thế mà tiếng Việt đã vay

mượn từ tiếng Hán với số lượng rất cao, chiếm khoảng hơn 60% vốn từ vựng

tiếng Việt.

Về thuật ngữ từ Hán Việt từ trước tới nay các nhà nghiên cứu ngôn ngữ

học đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau.

Năm 1972, trong công trình Văn phạm Việt Nam ( giản dị và thực

dụng), Bùi Đức Tịnh đã nêu một cách hiểu đơn giản về từ Hán Việt như sau:

“Có thể định nghĩa một cách giản dị rằng tiếng Hán Việt là những tiếng Hán

phát âm theo lối Việt. Ban đầu nó là những chữ Hán mà khi học trong sách

Trung Hoa, các nhà tri thức nƣớc ta đọc trại đi theo giọng Việt…”

Năm 1998, Nguyễn Như Ý trong cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ

ngôn ngữ học đã cho rằng: “Từ tiếng Việt có nguồn góc từ tiếng Hán, đƣợc

nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt, chịu sự chi phối của các quy luật ngữ

âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa của tiếng Việt, còn gọi là từ Việt gốc Hán.”

Nhà từ vựng học Nguyễn Thiện Giáp trong giáo trình Từ vựng học tiếng

Việt (bản in năm 1998) cũng khẳng định: “Các từ ngữ gốc Hán Việt đọc theo

âm Hán Việt, gọi tắt là từ Hán Việt.”

Trong cuốn Tiếng Việt III của Bùi Minh Toán, Nguyễn Ngọc San viết

về từ Hán Việt như sau: “Từ Hán Việt là một trong những loại từ gốc Hán có

cơ sở ngữ âm là Hán Việt đƣợc mƣợn vào kho từ vựng tiếng Việt sau thế kỷ X

và trở thành một bộ phận của kho từ vựng tiếng Việt”.

Còn theo giáo sư Phan Ngọc trong cuốn Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và

chữa lỗi chính tả cho học sinh cho rằng: “Từ Hán Việt là từ viết ra đƣợc

bằng chữ khối vuông của Trung Quốc nhƣng lại phát âm theo cách phát âm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Hán Việt”

Theo các nhà soạn giả sách giáo khoa ngữ văn bậc THPT, nhất là quan

điểm của Nguyễn Văn Khang cho rằng: Từ Hán Việt là từ mượn của tiếng

Hán, được đọc bằng cách đọc Hán Việt là hệ thống cách đọc của người Việt

đối với chữ Hán, được xây dựng trên cơ sở ngữ âm tiếng Hán thời trung đại

(khoảng thế kỷ VII)…

Ngoài ra còn rất nhiều định nghĩa khác nhau về từ Hán Việt. Chúng ta có

thể hiểu từ Hán Việt là từ có nguồn gốc Hán nhưng phát âm theo cách phát

âm của người Việt và được sử dụng trong hệ thống từ vựng tiếng Việt.

Từ Hán Việt phù hợp với phong cách trang trọng cổ kính, tạo sắc thái tao

nhã trong mọi hoàn cảnh giao tiếp, đồng thời trong một số trường hợp nhất

định thì từ Hán việt còn tránh được cảm giác thô tục. Đặc biệt, với tư cách là

tín hiệu thẩm mỹ trong văn học có tính chất ổn định về mặt ý nghĩa, có tần số

lặp lại khá cao và trở nên quen thuộc với số đông trí thức và người sáng tác

văn chương thời trung đại. Đó là hệ thống các cụm từ, các thành ngữ, tục ngữ

Hán Việt, điển cố Hán học có nguồn gốc từ thơ ca Trung Hoa.

Trong giai đoạn giao thời cái mới xuất hiện lẻ tẻ, cái cũ vẫn còn tồn tại,

giữa chúng có sự đan xen lẫn nhau. Đây là thời kỳ mà chữ Hán vẫn được

trong dụng, nó xuất hiện khá nhiều trên các sáng tác văn chương thời kỳ này,

tiêu đặc biệt trong truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí từ Hán Việt vẫn xuất

hiện khá phổ biến.

Đặt các của truyện ngắn Nam Phong vào giai đoạn giao thời để nhìn

nhận về vấn đề ngôn ngữ văn học thì một điều chúng ta có thể nhận ra là:

ngôn ngữ văn học nói chung và ngôn ngữ của truyện ngắn trên Nam Phong

tạp chí nói riêng đang ở trong tình trạng biến động và phát triển. Tất nhiên

nhiệm vụ làm giàu từ ngữ, xây dựng ngôn ngữ văn xuôi theo tinh thần hiện

đại cũng là nhiệm vụ chung của những cây bút viết truyện trên Nam Phong.

Họ đã trực tiếp góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hoá ngôn ngữ làm cho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

ngôn ngữ ngày càng phong phú thêm.

Trong Câu chuyện gia tình tác phẩm đầu tay của Nguyễn Bá Học ngoài

sự non yếu về mặt nội dung với những câu văn dài dòng, thì về mặt từ ngữ ta

cũng thấy rõ ràng một sự ảnh hưởng nặng nề của tác giả đối với vốn từ Hán

Việt. Khảo sát toàn bộ tác phẩm này chúng tôi thấy toàn bộ tác phẩm có 13

trang trong đó có tới 157 từ Hán Việt, có khoảng 12 từ trên một trang giấy.

Ngay mở đầu truyện ngắn tác giả đã sử dụng hàng loạt từ Hán Việt: “Ngán

thay! Cái thị dục loài ngƣời càng nhớn thì sự đua tranh trong xã hội càng

gớm ghê, đƣờng sinh nhai ngƣời ta càng khó khăn, thì cảnh đoàn viên trong

gia đình càng tiêu táp. Tƣởng những nhà, cha mẹ, anh em, vợ chồng, con

cháu sum họp một nhà, chia bùi sẻ ngọt, đã có phúc là nhƣờng nào, lại ái

ngại thay cho những nhà cốt nhục nhƣ sâm thương, gia đình nhƣ băng thán”

[45.90] hay đoạn “…tấm lòng ân hận của cha mẹ, nỗi hờn giận của anh em,

tình yếm bạc của thầy bạn, mà cái hạnh phúc xum họp trong gia đình đã

nên một vật rất hiếm hoi đang buổi văn minh còn non nớt! Hãy nghe câu

chuyện gia tình của một bà già này dù cảnh ngộ không lấy gì làm ly kì, mà

tình trạng thực đủ làm chứng cái khốn nạn chung trong xã hội” [45.91]. Chỉ

trong một đoạn văn rất ngắn nhưng Nguyễn Bá Học đã sử dụng hàng loạt từ

Hán Việt đã làm cho câu văn trở nên nặng nề, xa lạ với đông đảo quần chúng

tiếp nhận. Có lẽ về mặt này Nguyễn Bá Học là người “bảo thủ” nhất trong số

những tác giả truyện ngắn có nguồn gốc Hán học của Nam Phong bấy giờ.

Khảo sát truyện ngắn cuối cùng của ông À, chuyện chiêm bao đăng trên tạp

chí Nam Phong số 49 tháng 7 năm 1921 có thể thấy, toàn bộ tác phẩm có 5

trang nhưng trong đó có tới 76 từ Hán Việt. Như vậy, số lượng từ Hán Việt có

phần tăng lên, cụ thể là cứ khoảng 5 từ trên một trang giấy. Đây là đoạn văn

mà tác giả giới thiệu về nhân vật Hàn Bá Thiên: “Hàn Bá Thiên là một anh

cùng nho, cựu học không thành danh, tân học cũng lỡ bƣớc, lại có tính hay

mơ tưởng đến sự cao xa, không còn nghĩ đến tư cách địa vị thời thế mình là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thế nào nữa. Có khi anh ta tƣởng mình sẽ nên một nhà đại triết học, sẽ đem

những học thuyết Âu Tây mà phá cho hết cái cựu học cái mê tín của ngƣời

mình…”[45.275]. Trong khi ấy ở tác phẩm Bác nghiện của Vũ Miễn Nam,

một tác giả Hán học cùng thời với Nguyễn Bá Học, đăng trên Nam Phong tạp

chí số 25, tháng 7/ 1919 thì tỉ lệ sử dụng từ Hán Việt trong tác phẩm có phần

hạn chế hơn. Toàn bộ tác phẩm này có 5 trang nhưng trong đó số lượng từ

Hán Việt chỉ chiếm 36 từ, như vậy có khoảng 7 từ trên một trang giấy. Và nếu

đem so sánh cùng Nguyễn Văn Cơ với tiểu thuyết Một cánh hoa chìm đăng

trên Nam Phong tạp chí số 25, tháng 7/1919 thì số lượng từ Hán Việt lại còn ít

hơn nữa. Khảo sát tác phẩm này có 4 trang trong đó chỉ có khoảng 15 từ Hán

Việt, và như vậy mỗi trang có khoảng 4 từ Hán Việt

Có thể nói, các tác giả viết truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí cũng như

các tác giả khác cùng thời đã sáng tác dựa trên những vốn từ có sẵn mà mình

được trau dồi từ trước. Nhưng để “cá tính hoá” ngôn ngữ nhân vật các tác giả

lại sử dụng vốn ngôn ngữ ấy một cách hết sức tự nhiên không gò bó. Điều

này, một mặt làm cho các truyện ngắn trở lên trang trọng, có giá trị, nhưng

mặt khác do sử dụng một số lượng dày đặc hệ thống từ Hán Việt trong các tác

phẩm của mình (tiêu biểu là Nguyễn Bá Học) đã làm cho câu văn trở nên

rườm rà, khó hiểu, hiệu quả thể hiện ngôn ngữ của nhân vật đã giảm đi. Bởi

lẽ, nếu từ thuần Việt mang sắc thái cụ thể dễ hiểu thì từ Hán Việt lại mang sắc

thái cổ kính, ước lệ, tượng trưng, đa nghĩa trừu tượng, cho nên không phải ai

cũng dễ tiếp cận tác phẩm..

Khắc phục được phần nào truyện ngắn của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy

Tốn trong truyện ngắn Sống chết mặc bay toàn bộ có 8 trang nhưng chỉ có 16

từ Hán Việt. Như vậy thì tỉ lệ này thực sự là nhỏ, cứ khoảng 2 từ trong một

trang giấy ví dụ như: “Ấy, lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn

sợ, đem thân hèn yếu mà đối sức với mƣa to nƣớc lớn, để bảo thủ lấy tánh

mạng, gia tài, thời nào quan cha mẹ ở đâu” [45.113].Bên cạnh đó tác phẩm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Ôi! thiếu niên của Tam Lang Vũ Đình, khảo sát toàn bộ tác phẩm 10 trang

nhưng cũng chỉ có 52 từ Hán Việt, như vậy cứ khoảng 5 từ trên một trang

giấy.

Có thể nói rằng, ngôn ngữ là một vấn đề hết sức quan trọng, nó là cầu nối

giữa tác giả với người đọc, góp phần tái hiện xã hội Việt Nam qua các thời kỳ

lịch sử khác nhau. Nếu như trước đây các tác giả truyện ngắn trên Nam Phong

tạp chí còn bị ảnh hưởng nặng nề của ngôn ngữ Hán học thì càng về sau, do

sự vận động dần của xã hội Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX, các tác giả Hán học

thưa dần nhường chỗ cho các tác giả Tây học ngày một nhiều thêm. Đồng

thời, với sự phát triển của ngôn ngữ xã hội thì dần dần lớp từ ngữ trong các

sáng tác của những cây bút viết truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí cũng trở

nên trong sáng, ngắn gọn, chính xác và đặc biệt là sử dụng lớp từ Hán Việt

thưa dần, chuyển sang lớp từ giản dị, đời thường, gần gũi với nhân dân. Đây

là một dấu hiệu được ghi nhận về sự chuyển biến của ngôn ngữ nghệ thuật

theo xu hướng tách dần sự ảnh hưởng của văn học trung đại.

Các truyện ngắn về sau đã có sự cách tân cả về mặt nội dung và nghệ

thuật và đặc biệt tính chất chính xác, hiện đại, ngắn gọn dẽ hiểu ngày càng gia

tăng.

Tiêu biểu là tác giả Lê Đức Nhượng nổi lên như một cây bút chủ lực của

truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí với một loạt các truyện ngắn như: Anh

hủ lắm, Bức ảnh phóng đại, Người thím nuôi, Đồ mất dạy, Bữa cỗ nợ

miệng, Lòng nhi nữ và cuối cùng là truyện ngắn Từ hôn. Trong các tác phẩm

của ông tỉ lệ từ Hán Việt xuất hiện thưa dần thay vào đó là lớp từ toàn dân.

Ngôn ngữ đời thường được đưa vào truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí đã

mở ra một chặng đường mới cho ngôn ngữ văn xuôi. Giờ đây ngôn ngữ

không còn quá cầu kì, hoa mỹ mà trở về với đời sống gần gũi, bình dân hơn.

Văn chương giờ đây trở thành “món ăn tinh thần” của mọi giai tầng trong xã

hội. Khảo sát truyện ngắn Từ hôn là truyện ngắn cuối cùng đăng trên báo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Nam Phong số 210 tháng 12/ 1934 của Lê Đức Nhượng chúng ta mới thấy rõ

điều này. Toàn bộ truyện ngắn có 7 trang trong đó chỉ có khoảng 17 từ Hán

Việt. Chẳng hạn: “Nhan sắc và đức tính của Bích Đào làm cho Vân Anh phải

đem lòng kính phục, chàng đã chắc chắn sau này nàng gây nên đƣợc một cái

gia đình êm ấm. Cho nên, trong hai năm dạy học ở Lai Châu, chàng hết sức

cần kiệm để gây lấy một cái vốn. Bây giờ trong tay đã có ngót nghìn bạc,

chàng định đem số tiến ấy về cƣới Bích Đào, còn thì để mở cửa hàng cho

nàng buôn bán ngay ở phố huyện H là nơi chàng mới bổ về dạy học. Chàng

định bụng chàng thì đi dạy học cứ tháng tháng lĩnh lƣơng để dành còn ăn tiêu

đã có tiền lời buôn bán của vợ. Nhƣ thế, trong 15 năm nữa chàng sẽ có một

cái vốn to, chàng sẽ tậu một khu ruộng rồi xin từ chức giáo học mà cùng vợ

con về hưởng thụ an nhàn vui thú…” [45.534]. Với một đoạn văn khá dài

miêu tả tâm trạng, mơ ước của một anh giáo học có người yêu ở quê, hầu hết

ngôn ngữ tác giả sử dụng đều là ngôn ngữ thuần Việt, do đó người đọc dễ

hình dung được tâm trạng nhân vật lúc này đang mơ ước về một gia đình nhỏ,

ở đó hai vợ chồng có một cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc và giản dị.

Tóm lại, chúng ta cũng không thể phủ nhận hoàn toàn giá trị quan trọng

mà từ Hán Việt mang lại cho văn chương quốc ngữ nói chung và truyện ngắn

nói riêng. Từ Hán Việt là phương tiện quan trọng để biểu đạt dụng ý nghệ

thuật của người nghệ sĩ, đồng thời nó còn góp phần tái hiện lại không khí xã

hội xưa, tạo sắc thái trang trọng, cổ kính, làm cho câu văn giàu hình

ảnh…Tuy nhiên, nếu người cầm bút quá lạm dụng từ Hán Việt trong các sáng

tác của mình thì sẽ khiến cho câu văn trở nên rườm rà, khó hiểu,cầu kì và hết

sức xa lạ với người đọc. Điều này là một hạn chế của các tác giả trên Nam

Phong tạp chí.

3.1.2. Lối diễn đạt ảnh hƣởng văn biền ngẫu

Từ khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, cùng với những cải cách

trong lĩnh vực hành chính thì sách báo quốc ngữ và phong trào dịch thuật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

cũng bước đầu xuất hiện. Từ thực tế này người Việt có điều kiện tiếp xúc

ngày càng nhiều với ngôn ngữ Pháp và nhanh chóng hấp thu nền văn học

Châu Âu. Trên phương diện ngôn ngữ, tiếng Pháp đã và đang ảnh hưởng sâu

rộng vào Việt Nam biểu hiện rõ nhất là về mặt cú pháp, hành văn. Tuy nhiên,

chỉ trong khoảng thời gian mấy chục năm đầu thế kỷ XX lối viết văn biền

ngẫu vẫn tồn tại trong cách viết văn của các tác giả, trong đó có các cây bút

viết truyện ngắn.

Biền ngẫu là một hình thức cấu trúc quen thuộc trong văn học cổ xưa ở

phương Đông. Trong quá trình phát triển nó đã đạt được nhiều thành tựu đáng

kể. Tuy vậy, do quá chú trọng về hình thức, biền ngẫu cũng còn nhiều giới

hạn. “Hạn chế lớn nhất là nó rất gò bó về khả năng diễn đạt tƣ tƣởng tình

cảm và miêu tả những vấn đề ngổn ngang bừa bộn của cuộc sống đời thƣờng.

Đặc biệt nó hoàn toàn không có khả năng định nghĩa các khái niệm trừu

tƣợng, các thuật ngữ khoa học.” [1.84]. Nó là kiểu văn cầu kì, cân xứng cả lời

lẫn ý, các vế tương hợp tạo thành những mệnh đề phức tạp với ngôn ngữ chau

chuốt, kiểu cách và quá hàm súc.

Bước sang thế kỷ XX “là giai đoạn giao thời từ thế kỷ này sang thế kỷ

khác, cái cũ và cái mới đan xen lẫn nhau, thƣờng có những mâu thuẫn xung

đột chƣa ổn định” [50.378]. Nói đến giai đoạn giao thời trong văn học là nói

đến những chuyển biến hết sức phức tạp của văn học trong một khoảng thời

gian nhất định để đưa nền văn học sang một thời kỳ mới. Giai đoạn này đã

diễn một quá trình đấu tranh quyết liệt giữa nền văn hoá cũ và mới, cuộc đấu

tranh đó vẫn chưa phân thắng bại.

Truyện ngắn giai đoạn này, do ảnh hưởng của cú pháp Hán văn cho nên

các trang truyện ngắn vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc của lối văn biền ngẫu nhiều

truyện trở nên dài dòng, nhiều đoạn rất “ kêu” nhưng lại không có nhiều ý

nghĩa. Theo nhận định của Đinh Văn Đức: Tuy là lối văn mới nhưng văn xuôi

sơ kỳ còn rất nặng lối văn biền ngẫu, có cấu trúc đăng đối diễn đạt cầu kỳ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

kiểu cách lạm dụng từ Hán Việt.

Trong truyện ngắn Câu chuyện gia tình Nguyễn Bá Học viết: “Kìa

những kẻ gieo bút tòng quân, theo thày học nghệ, hoặc lên rừng lách núi mà

kiếm ăn, hoặc vƣợt ra ngòi bể mà buôn bán, phép nƣớc nặng hơn tình nhà,

công danh thiết hơn ân ái, đã dành thế bách hình khu, nên phải chia tình cắt

ái, lại còn những kẻ thiếu niên khách khí, ham ăn ham chơi, quá nỗi nên mê,

ƣa mới nới cũ, đã làm tốn phí bao nhiêu là nƣớc mắt khóc thầm của vợ con,

tấm lòng ân hận của cha mẹ, nỗi hờn giận của anh em, tình yếm bạc của thầy

bạn…”[45.90-91]. Tác giả sử dụng lối văn biền ngẫu với đầy rẫy các vế đối

nhau, bóng bẩy khoa trương, thậm chí nhiều khi còn dùng thêm cả những từ

ngữ ước lệ tượng trưng, điều này làm cho câu văn dài dòng, khó hiểu.

Truyện ngắn Con người sở khanh của Phạm Duy Tốn được mở đầu

bằng những câu văn viết theo lối biền ngẫu, từ ngữ cầu kì, hoa mỹ để miêu tả

vẻ bề ngoài của thầy Thông Ất và Cô Giáp: “Thầy Ất đẹp trai, mặt mày nhẵn

nhụi, chàng vừa trạc tuổi thanh xuân, hình dung chải chuốt, áo quần bảnh

bao. Còn Cô Giáp ngƣời mũm mĩm, trông cũng xinh xinh. Nàng đƣơng xuân

chỉ nhị đào, rƣợu nồng dê béo, ai nào chẳng ƣa! [45.126]”. Với cách viết như

thế này đã cho người đọc thấy được sự cân bằng, xứng đôi vừa lứa. Thầy Ất

thì ẩn mình trong vẻ bề ngoài đẹp trai, bóng bẩy còn cô Giáp thì đang độ tuổi

xuân thì, với giọng văn thánh thót nhịp nhàng như hàm chứa sự mỉa mai kín

đáo. Tuy nhiên, có một điều mà các tác giả Hán học hay Tây học hay mắc đó

là họ thường sử dụng lối “vận Kiều” để chen thêm vào những đoạn văn mà họ

không nghĩ rằng chính điều này đã làm phương hại đến văn phong của tác giả,

gây cảm giác khó chịu cho người đọc. Như truyện ngắn Bác nghiện của Vũ

Miễn Nam: “Những bọn vô lại ấy khéo tán tỉnh lắm. Anh này tán rằng:

“Người ta ở đời như cánh hoa, sớm nở chiều tàn, có được mấy! không ăn chơi

cũng thiệt mà cũng tục. Đã sinh ra làm kiếp ngƣời, chẳng ăn cũng thiệt chẳng

chơi cũng già.” [45.164] hay “Anh khác lại đan thêm rằng: “Tuy thế, nhưng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

ăn chơi không đủ mùi, khi buồn thuốc phiện, khi vui cô đầu!”[45.164].

Có thể nói rằng ở thời kỳ đầu lối viết văn biền ngẫu vẫn còn được sử

dụng đậm đặc trên các trang truyện ngắn của các tác giả Nam Phong tạp chí.

Phải chăng là do phần lớn các tác giả truyện ngắn đều có xuất thân trong gia

đình Nho giáo, đồng thời lối văn này vẫn được khá nhiều độc giả có vốn liếng

Hán học chấp nhận. Nhưng càng về sau, cùng với sự Việt hoá cao về phương

diện từ ngữ, lối hành văn biền ngẫu hoặc đưa văn vần vào truyện cũng dần

dần biến mất. Điều này cho thấy các cây bút viết truyện ngắn trên Nam Phong

đã có ý thức bứt ra khỏi lối diễn đạt cũ để hoà mình vào với dòng chảy của

ngôn từ và lối diễn đạt mới, theo tinh thần của câu văn phương Tây trên văn

đàn lúc bấy giờ. Làm giàu và đưa ngôn ngữ trở thành ngôn ngữ nghệ thuật là

công việc của các nhà văn, của các cây bút sáng tác. Nhìn từ góc độ đó, các

tác giả truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí đã có những đóng góp tích cực

cho việc hiện đại hoá ngôn ngữ giai đoạn đầu thế kỷ XX.

Nhìn nhận một cách tổng quát, ở vào giai đoạn quốc văn mới hình thành,

ngôn ngữ văn học nói chung và ngôn ngữ truyện ngắn nói riêng còn đang trong

quá trình bồi đắp, xây dựng cho nên những hạn chế mà các cây bút mở đầu

truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí mắc phải là điều không thể tránh khỏi.

3.2. Ngôn ngữ ảnh hưởng từ văn học phương Tây

Vào những năm đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam chính thức bước vào

một giai đoạn đổi thay lớn. Điều kiện nội sinh được kết hợp với những yếu tố

ngoại lai, đã làm nên một cuộc lột xác trên mọi phương diện chính trị, xã hội và

đặc biệt là văn học. Sự trở mình của văn học Việt Nam vốn chịu ảnh hưởng sâu

sắc của văn hóa, văn học Trung Quốc nên một số lượng lớn từ Hán du nhập vào

nước ta, bước sang thời kỳ hiện đại với sự tiếp xúc của văn hóa Pháp – Việt đã

làm cho ngôn ngữ của văn học nước nhà có một sự thay đổi lớn.

Do thực tế lịch sử, trong một thời gian dài Việt Nam là thuộc địa của

Pháp nên văn hóa văn học Việt Nam cũng chịu những tác động nhất định của

văn hóa văn học phương Tây, đặc biệt là văn hóa, văn học Pháp. Mặt khác,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

bước vàò thế kỷ XX cùng với sự vận động của lịch sử thì đời sống văn học,

người tiếp nhận cung có những thay đổi lớn. Điều này đòi hỏi ngôn ngữ tiếng

Việt phải có những biến đổi để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử xã hội.

Như vậy, sự pha trộn của ngôn ngữ Pháp vào hệ thống ngôn từ tiếng Việt

là điều dễ hiểu. Bởi ngay sau khi thôn tính được nước ta, biến Việt Nam thành

thuộc địa kiểu mới làm bàn đạp tấn công ra các nước khác chúng đã thi hành

những chính sách “áp đặt”, khai thác thuộc địa làm cho đời sống của dân

chúng càng trở nên kiệt quệ, dần dần phải phụ thuộc vào chúng. Mặt khác

thực dân Pháp nhanh chóng xây dựng lại hệ thống giáo dục Pháp - Việt, dạy

tiếng Pháp cho người Việt, bắt bỏ ngôn ngữ Hán học để học tiếng Pháp, thực

chất chúng muốn biến nhân dân các nước thuộc địa phải chịu ảnh hưởng nặng

nề từ “mẫu quốc” và chúng cho rằng như thế là mang nền văn minh đến cho

nhân dân các nước thuộc địa. Chính điều này đã làm cho chữ Pháp được sử

dụng rộng rãi trong xã hội đặc biệt là tầng lớp trí thức mới. Bên cạnh đó báo

chí, học thuật Pháp… cũng tác động không nhỏ đến sự hình thành một lớp từ

ngoại lai trong các sáng tác văn học lúc bấy giờ.

3.2.1. Những từ ngữ có nguồn gốc từ tiếng Pháp

Ngôn ngữ là chất liệu quan trọng làm nên tác phẩm nghệ thuật. Đánh giá

giá trị của các tác phẩm văn học hay tìm hiểu những biến chuyển của lịch sử

không thể bỏ qua yếu tố ngôn ngữ. Giai đoạn giao thời, cũng là buổi đầu hiện

đại hoá ngôn ngữ để tạo nên tính đa phong cách cho ngôn ngữ. Văn học giai

đoạn này đã sử dụng từ có nguồn gốc từ tiếng Pháp, điều này đã tạo nên bước

đổi mới đáng kể cho văn học thời kỳ hiện đại hoá. Cũng chính sự xuất hiện

của lớp từ ngữ ảnh hưởng từ tiếng Pháp trong các tác phẩm văn học, đặc biệt

là truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí đã làm nổi bật hình ảnh của xã hội

giao thời, có đủ các hạng người, đủ cách sống đan xen phức tạp.

3.2.1.1. Những từ ngữ nguyên văn từ tiếng Pháp

Về mặt từ ngữ, có rất nhiều từ ngữ du nhập từ Pháp xuất hiện trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

truyện ngắn in trên Nam Phong lúc bấy giờ. Chúng được sử dụng đa dạng

dưới nhiều hình thức khác nhau. Có những từ ngữ được viết dưới dạng

nguyên văn tiếng Pháp như truyện ngắn Vì đâu nên nỗi của Tùng Toàn (số

195/ tháng 5/1934) khi miêu tả cuộc trò chuyện của nhân vật “tôi” với người

con gái ông viết: “Tôi hỏi nàng có rét không, có quần áo quàng ngoài không

để tôi hiến, nhƣng nàng từ chối lấy cớ rằng cũng đủ ấm vì đã có manteau.

Tôi hỏi xe nàng hỏng gì, nàng nói không biết, nàng chỉ thấy xe không chạy

đƣợc vì tài xế bảo hỏng thì biết rằng hỏng mà thôi. Tôi hỏi nàng ở phố nào để

tôi xin đƣa đến tận nhà, nàng nói cho nàng về Aviat gọi xe dắt rồi đƣa nàng

về Cửa- bắc. Tôi hỏi chồng nàng làm gì, nàng đáp bằng tiếng Pháp rằng hãy

còn sê – li –bát và đang theo học medicine” vẫn tiếp tục cuộc trò chuyện với

những câu hỏi vẩn vơ: “Đêm hôm nay rét nhỉ, chiếc xe này đi êm nhỉ! Ông

tậu bao nhiêu thế? Xe của ông có phải là Ford không? Xe của ông có phải

Peugeot không? Cô có biết cầm máy không?...”[45.451]

Với những từ nguyên văn tiếng Pháp như manteau có nghĩa là một loại

áo ấm để mặc và mùa lạnh – áo măng tô, khi nhân vật tôi hỏi nàng về gia đình

nhỏ của cô thì cô trả lời toàn bằng tiếng Pháp rằng mình vẫn còn độc thân

(sêlibat) và đang học nghề thầy thuốc (médecine). Bằng việc sử dụng ngôn

ngữ Pháp khi sáng tác các tác giả đã đem đến cho văn chương một tinh thần

mới, hiện đại và sinh động hơn.

Bên cạnh truyện ngắn Vì đâu nên nỗi tác phẩm Lưỡi dao oan nghiệt

(số 197/ tháng6/1934), của Tùng Toàn chúng ta cũng có rất nhiều từ ngữ tiếng

Pháp khi miêu tả vẻ bề ngoài của nhân vật Thanh : “Thanh bỏ ống nói xuống,

đứng dậy mặc cái veston đen từ nãy đến giờ vẫn quàng ở tai ghế, lại ra mắc

lấy cái pardessus dài thƣờn thƣợt khoác ra ngoài, chụp chiếc mũ dạ lên đầu,

với tay cầm cái can rồi khoá trái cửa, đi” [45.462] Hoặc “Chiếc torpédo mở

hết tốc lực vùn vụt trên con đƣờng nhựa tối mù, giữa những tiếng còi “ê –

sáp” gào thét rít lên nhƣ thúc giục luồng điện của hai chiếc đèn pha xé tan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

bức màn đêm đen kịt cửa đêm đông lặng lẽ mà tiến hành. Thanh ngồi trên xe

phân vân nghĩ ngợi không biết cái tin điện thoại ấy thực hƣ thế nào”[45.463]

còn đây là bức thư của anh ta: “Hôm nay, 10 Décembre 19…, tôi Trần Thanh

– nghiệp chủ xin nhƣờng ngƣời vợ chính thức làm lễ thành hôn tại toà Đốc –

lý Hà Nội ngày 8-9-19.. là Đào Thị Ngọc cho bạn là Phạm Đình Tân, phán sự

toà … [46.465].

Có thể nói rằng, ngôn ngữ Pháp đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống

của nhân dân Việt Nam đặc biệt là lớp văn nghệ sĩ, họ đã dần dần sử dụng hạn

chế từ Hán Việt mang màu sắc cổ phong thay thế vào đó là lớp từ ngữ ảnh

hưởng từ tiếng Pháp để làm giàu cho vốn ngôn ngữ tiếng Việt của dân tộc mình.

Bên cạnh truyện ngắn của Tùng Toàn chúng ta còn bắt gặp những từ ngữ nguyên

văn tiếng Pháp trong truyện ngắn Truyện một người du học sinh An Nam của

Vũ Đình Chí (số 90 tháng 12/1924) để chỉ một số địa danh trên đất Pháp như

“đường Norodom” [45.350], “đường Catinat” [45.350], “hải cảng Marseille”

[45.351], “công viên Borély” [45.351], “kinh thành Paris” [45.357]…Thậm chí

ngày tháng cũng được tác giả viết bằng ngôn ngữ Pháp: “Xóm cồn, đêm hôm 16

September” [45.332], “17 September” [45.338] và “ 20 September” [45.338],

“ Paris, ngày 23 Juillet” [45.357]... Đôi khi tác giả viết tiếng Pháp rồi giải thích

luôn bằng tiếng Việt: “Buổi chiều hôm thứ hai, lúc đền vừa lên lửa, chúng tôi

đến thăm một hiệu sách lớn ở đƣờng Catinat, mua vài cuốn tiểu thuyết để đọc

trong khi đi bể. Bƣớc vào hàng thì thấy anh Bằng Giang. Anh cũng đang

chọn sách, anh mua hai quyển, tôi có ý định nhìn nhan sách ấy, thấy một

quyển đề: “Histoire de la Révolution Russe” (Lịch sử cách mệnh nƣớc Nga),

còn quyển thứ hai, tuy cái nhan sách ngắn mà tôi chỉ kịp nhìn có một chữ

Lenine (Tàu dịch là Lý Ninh, lĩnh tụ đảng nƣớc Nga) [45.349]. Có khi tác giả

lại phiên dịch Tiếng Việt trƣớc rồi mới phiên âm sang tiếng nƣớc ngoài: “7

giờ sáng hôm sau, chúng tôi ăn lót dạ rồi về tàu, vào phòng thấy Bằng Giang

còn đang ngủ. 10 giờ tàu cất neo chạy đi Tân – gia – ba (Singapour), 3 giờ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

qua Vũng Tàu (Cap St. Jacques), từ đấy lại bắt đầu lênh đênh trên mặt bể.”

[45.350]. Vũ Đình Chí đã kết thúc truyện ngắn với một bức điện văn như sau:

“Paris, 17 September Bằng Giang tạ thế đêm hôm qua, tập lệ sử của Phong

Ảnh còn thấy úp trên ngực sau khi tắt nghỉ - Mai sẽ cất đám về nghĩa địa

“Père La Chaise”. [45.358]. Bằng cách dẫn ra một loạt địa danh bằng tiếng

Pháp người đọc sẽ hình dung được những địa điểm nhân vật đã đi qua đồng

thời cho thấy thời gian chính xác khi Thanh viết thư bộc lộ nội tâm của mình.

Hơn nữa khi sử dụng những địa danh nguyên văn tiếng Pháp như thế này sẽ

tạo được sự tin cậy cho người đọc, tăng sức thuyết phục trong truyện ngắn.

Bởi đây là những địa danh có thật trên đất nước Pháp được tác giả giới thiệu

trong cuộc hành trình của nhân vật Thanh càng giúp cho người tiếp nhận hiểu

biết hơn về đất nước Pháp.

Bên cạnh các truyện ngắn trên thì ngôn ngữ Pháp còn xuất hiện khá

nhiều trong những trang truyện trên Nam Phong tạp chí. Để diễn tả tâm trạng

của nhân vật Mai trong truyện ngắn cùng tên của mình, Ngô Ngọc Kha viết:

“Giữa phòng khách dƣới ngọn đèn điện trăm nến ngoài phủ chiếc abal – jour

lụa xanh, bày một bộ sa – lông mây sơn màu hồ thuỷ, trên bàn dăm bông hoa

huệ vàng úa, đứng ủ rũ trong lọ thuỷ tinh…”[45.518]. Thậm chí tác giả Mân

Châu còn đưa hẳn cả một câu thơ Pháp vào truyện ngắn Thần thiên lương

(36/tháng 6/1920): “Than ôi! thế mới biết câu thơ Tây rằng :“Lhomme est un

apprenti, la douleur est son maitre” – là người học trò, sự khổ là thầy dạy, -

cái khổ không có phụ ai, chỉ có cái vui hay giết người là vui vậy” [45.237].

Như vậy, với cách sử dụng từ ngữ Pháp thì các tác giả viết truyện ngắn trên

Nam Phong tạp chí không chỉ giúp cho người đọc không biết tiếng Pháp phần

nào thấy được các địa danh trên đất Pháp, đồng thời họ còn cho thấy nền văn

học nước nhà đang có xu thế hội nhập nền văn hoá phương Tây, nhằm gia

tăng vốn từ ngữ Pháp cho một bộ phận quần chúng nhân dân, mặt khác đây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

cũng là phương diện của quá trình hiện đại hoá nền văn xuôi Quốc ngữ.

3.2.1.2 Ngôn ngữ Pháp đƣợc Việt hóa

Bên cạnh những từ ngữ gốc Pháp được du nhập vào Việt Nam thì khi

đọc các tác phẩm truyện ngắn thời kỳ này ta còn thấy xuất hiện thêm nhiều

lớp từ ngữ mới mà trong thời kỳ văn học trung đại chưa có, điều này cũng cho

thấy sự chuyển mình của ngôn ngữ để bắt kịp với sự tiến bộ của xã hội, bởi

ngôn ngữ chính là phương tiện quan trọng để phản ánh trung thực tiến trình

phát triển của xã hội trong những thời kỳ lịch sử nhất định. Viết truyện ngắn

Bức ảnh phóng đại Lê Đức Nhượng đã đưa vào một loạt hệ thống từ ngữ

hiện đại như: “ghi – đông”, “vét – ni”, “áo sa – tây”, “bít tất”, “5 $”, …Hoặc

trong một số tác phẩm khác chúng ta cũng bắt gặp những từ có nguồn gốc

tiếng Pháp đã được Việt hóa theo cách đọc của tiếng Việt như “sa mạc”, “xực

tắc”, “tài xế”, “ri đô”, “ga – tô”, “sa- lông”, “bình- phong” (Lưỡi dao oan

nghiệt ), “va- li”, (Từ hôn), “ ki-lô-mét”, “ xe - lửa”, “ bệnh viện”…(Truyện

một người du học sinh An Nam), “sa-lông”, “pha- lê”, “bia”…(Người thím

nuôi), “sích- đu”… (Mai)… Nước ta từng là thuộc địa của Pháp nên tiếng

Pháp có điều kiện thuận lợi du nhập vào. Đồng thời trong quá trình giao lưu

văn hóa và ngôn ngữ, người Việt đã vay mượn nhiều từ gốc Pháp để chỉ

những khái niệm mà trong tiếng Việt không có. Có thể nói, tiếng Pháp đã đưa

lại cho tiếng Việt tinh thần hoàn toàn mới với lớp từ mang hơi thở của cuộc

sống hiện đại. Phạm Quỳnh chủ bút tờ báo Nam Phong từng nhấn mạnh: “Văn

xuôi mới đang đi theo mẫu của văn xuôi Pháp và đang tìm cách vay mƣợn ở

đó một số phẩm chất: sáng sủa, chính xác, lôgic, thanh nhã, dí dỏm và hài

hƣớc. Nó thận trọng tránh những thứ của văn phong Hán: biền ngẫu, đăng

đối, rờm rà, suông nhạt, trịnh trọng. Nó sẽ ít mang tính tổng hợp hơn khi bỏ

qua những sự ám chỉ và khuôn sáo mà mang tính phân tích nhiều hơn khi đi

vào miêu tả chi tiết các hoàn cảnh và con ngƣời, các phƣơng diện bên ngoài

và trạng thái tâm lí bên trong. Nếu nó kiên trì con đƣờng này, nó sẽ hợp nhất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thành công tinh thần Pháp với tinh thần Nam: cái chất Pháp mang lại cho cái

chất Nam sự sáng sủa, tính duy lí, còn cái chất Nam trong cuộc tiếp xúc này

chỉ mất đi sự mơ hồ và thiếu chính xác, mất đi sự thiếu duy lí và lôgic, mà vẫn

giữ lại đƣợc tất cả những ƣu điểm vốn có: lƣơng tri, hài hƣớc, cân bằng,

chừng mực, một cái gì sắc nhọn đối với mọi sự ngu ngốc và kiêu căng của con

ngƣời” [45.479]

Như vậy, ngôn ngữ Pháp được Việt hóa đã làm phong phú thêm cho kho

từ vựng tiếng Việt trong buổi đầu phôi thai. Có rất nhiều từ ngữ Pháp được

Việt hóa ngày nay vẫn được sử dụng phổ biến trong đời sống văn hóa, xã hội

Việt Nam

Khi khảo sát hệ thống từ ngữ ảnh hưởng tiếng Pháp trong truyện ngắn

trên Nam Phong tạp chí, chúng ta có thể thấy thực trạng đời sống văn học lúc

đó đang tồn tại, hoà trộn cả chữ Hán, chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Bên cạnh

đó, ta còn nhìn thấy được ý thức hiện đại hoá, học tập lối viết phương Tây để

đổi mới văn xuôi tiếng Việt nói chung và truyện ngắn nói riêng. Chính sự đổi

mới này sẽ góp phần làm nên sự giàu có, phong phú cho tiếng Việt, tạo tiền

đề cho sự cách tân toàn diện văn học giai đoạn sau.

3.2.2. Sử dụng câu văn ngắn gọn, súc tích

Giai đoạn đầu thế kỷ XX đánh dấu những bước biến đổi sâu sắc trong đời

sống, chính trị, xã hội và văn hoá của dân tộc Việt Nam. Thời kỳ mà kinh tế

thuộc địa và đời sống đô thị dần được hình thành, nền văn hoá Pháp bước đầu

thâm nhập. Nền giáo dục Hán Việt còn tồn tại song song. Đến năm 1919 khoa

thi chữ Hán cuối cùng bị bãi bỏ thay vào đó là một hệ thống giáo dục mới, hiện

đại do Pháp xây dựng lên. Đồng thời giai đoạn này là sự gặp gỡ giữa khoa học

kĩ thuật phương Tây và sự thâm trầm của triết học phương Đông, đã phá vỡ sự

cân bằng vốn có của xã hội cũ từng tồn tại hàng ngàn năm.

Cùng với sự chuyển mình của xã hội thì các nhà văn cũng có những

chuyển đổi theo hướng hiện đại hoá, đặc biệt là về ngôn ngữ. Nếu như trước

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

đây, với lối văn biền ngẫu, đầy rẫy những vế đối nhau, bóng bẩy như đoạn

văn tả tính nết của cậu Ấm Sành trong tác phẩm Vì đâu nên nỗi dở dang (số

159, tháng 2/1931) của Phạm Vọng Chi: “Nay quán gò, mai cửa hiệu gật gù

chén chú chén anh, say đắm cô Vân, cô Nguyệt. Từ khi cậu vọng ấm – sinh

trong làng khách, cô cậu nhiều phen xung đột, cậu chẳng nghe cô, cô thƣờng

cự cậu. Hà Đông sƣ tử, hải bắc dê xàm, cùng nhau tranh đấu, xầy móng xứt

da, diễn nhiều kịch lạ…”[45.384]. Những câu văn như thế rất nhiều lời mà lại

ít ý. Song càng về sau thì các nhà cầm bút Tây học đã tiếp thu được lối kết

cấu của truyện ngắn phương Tây nên phần nhiều họ đã không mắc phải những

hạn chế như câu văn rườm rà, dài dòng của văn biền ngẫu. Dường như họ đã

mang cách viết văn của Pháp và đem cách viết ấy ứng dụng vào cách viết văn

của ta cái tinh thần logic, chính xác. Kết quả là những câu văn của họ gọn

gàng, sáng sủa, trật tự các mệnh đề chính phụ rõ dần. Mệnh đề có thể được

hiểu là: “hình thức ngôn ngữ biểu đạt một phán đoán, gồm chủ từ và tân từ

nối với nhau bằng một hệ từ. Cấu trúc này trong tiếng Anh được mô tả như

sau: S + V + O. Trong đó, S ( Subject) được hiểu là chủ đề, vấn đề của chủ

thể, V ( Verb) là động từ, O ( Object) có nghĩa là đối tượng mục tiêu, đồ vật,

vật thể.” [16.83]

Tiếp thu ảnh hưởng từ phương Tây và văn phong báo chí, từ cuối thế kỷ

XIX, văn xuôi nước ta đã bắt đầu có xu hướng sử dụng lối diễn đạt khoa học

làm cho câu văn trở nên gắn gọn, súc tích, lời ít mà ý nhiều. Phạm Duy Tốn là

người đầu tiên áp dụng cách chấm câu của phương Tây để làm cho lời văn

mạch lạc gẫy gọn như đoạn văn trong truyện ngắn Sống chết mặc bay. Sự

cách tân của truyện không chỉ ở nội dung và các chi tiết miêu tả rất đắt mà

còn ở hình thức mới mẻ. Thay vì những lời giới thiệu dài dòng, thì mở đầu tác

phẩm Phạm Duy Tốn lại giới thiệu trực tiếp những gì đang diễn ra, nó như

một lát cắt vào giữa câu chuyện, điển hình cho “một lối văn mới”: “Gần một

giờ đêm. Trời mưa tầm-tã. Nƣớc sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng XXX,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thuộc phủ XXX, xem chừng núng thế lắm: hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không

khéo thì vỡ mất” [45.113]. Với những câu văn ngắn gọn, đầy đủ các mệnh đề

chính –phụ tác giả đã lột tả được tình cảnh nguy nan của nhân dân khi phải

đối trọi với sức trời “Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng ngƣời

xao xác, gọi nhau sang hộ, nhƣng xem chừng ai ai cũng đã mệt lử cả rồi. Ấy

vậy mà trên trời mƣa vẫn tầm tã trút xuống, dƣới sông nƣớc cứ cuồn cuộn

bốc lên. Than ôi! Sức ngƣời khó địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự

lại với thế nƣớc! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất…” [45.113]

Không chỉ có Phạm Duy Tốn mà còn nhiều cây bút viết truyện ngắn trên

Nam Phong tạp chí cũng sử dụng cách viết như thế này.Tiêu biểu là Lê Đức

Nhượng với một loạt tác phẩm, ông đã khẳng định được vị thế của mình trên

báo Nam Phong. Những câu văn ngắn gọn xen lẫn những câu văn dài làm cho

câu văn trở nên uyển chuyển, sinh động, hấp dẫn người đọc và người nghe

“Lan bỏ cụ ra. Từ bấy giờ cụ thôi không chọc tức Lan nữa, rồi ôm Lan vào

lòng mà nói chuyện. Bên kia cụ Trợ cũng ôm Huệ vào lòng. Bốn ngƣời nô đùa

với nhau tiếng cƣời nhƣ nắc nẻ.” [45.472]. Hay đây là đoạn văn miêu tả anh

xã Liếng hỏi thăm lên phố H để bán ruộng cho ông Hàn Lô để trang trải cuộc

sống: “Nghe ngƣời đàn bà ấy nói, xã Liếng có vẻ thất vọng. Ngƣời đàn bà

nhìn anh rồi phì cƣời nói: Tôi đùa bác đấy. Phải nhà Hàn Lô đấy. Bác cứ

vào.” [45.487]. Câu văn rất ngắn gọn, rõ ràng không còn cầu kỳ, hoa mỹ,

chau chuốt như trong văn biền ngẫu. Đặc biệt, không còn thấy xuất hiện

những bài thơ dài dòng xen giữa lời đối thoại của nhân vật hay lời kể của

người trần thuật. Thậm chí có những câu rất ngắn nhưng đáp ứng đầy đủ

lượng thông tin và người đọc cũng dễ dàng tiếp nhận hơn. Mở đầu truyện

ngắn Lòng nhi nữ chỉ với 5 từ nhưng Lê Đức Nhượng đã cho chúng ta thấy

nguyên nhân vì sao nhân vật Quang lại sợ mẹ mắng: “Quang đi chơi về

khuya. Sợ mẹ biết chàng rón rén đi lên lên gác,đến chỗ cái bàn kê ở giữa gác,

vặn to ngọn đèn hoa kỳ lên, cởi áo, bỏ mũ, móc túi lấy một miếng bánh để

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

xuống bàn…” [45.508]. Vì quá mải chơi lại có tư tưởng đã lấy được vợ giàu

thì tội gì không “đào”, không chơi cho phí tuổi thanh xuân, đến khi vợ bỏ đi

chàng nhận ra cái dại của chàng cũng giống như cái dại của trăm nghìn thiếu

niên khác, tính khí nông nổi không biết tiêu sài tiết kiệm, gây dựng cơ đồ sự

nghiệp, công danh mà chỉ lấy khoái lạc nhục dục làm mục đích, thì đã quá

muộn. Tác giả đã sử dụng rất thành công một loạt những câu văn ngắn đem

lại sự bất ngờ hấp dẫn cho người đọc “Mở màn ra. Một sự ngạc nhiên làm

cho chàng sửng sốt: vợ chàng không ngủ ở đấy. Chàng ngẩn ngƣời ra rồi

cầm phát lấy cái đèn, đi thẳng xuống nhà dƣới…”[45.510] hay “Một phút im

lặng. Hai mẹ con ngồi nhìn nhau mà thở dài…”.[45.513].

Có thể nói những câu văn ngắn gọn xuất hiện nhiều trong truyện ngắn

trên Nam Phong tạp chí đánh dấu một bước tiến về sự phát triển của ngôn ngữ

giai đoạn giao thời, hạn chế được những câu văn ước lệ khuôn sáo khó hiểu

do sử dụng từ Hán Việt cổ. Chính những đoạn văn miêu tả chân thực, sinh

động, lôgic này đã góp phần đặt nền móng cho sự ra đời của những câu văn

tiếng Việt hiện đại giai đoạn sau xuất hiện.

Ngoài ra, biện pháp liệt kê cũng được sử dụng nhiều trong các truyện

ngắn có tác dụng phản ánh sự vật một cách cụ thể hơn. Người tiếp nhận có thể

từ đó mà am hiểu sâu hơn về tác phẩm cũng như số phận của con người trong

xã hội lúc bấy giờ. “Dân phu kể hàng trăm nghìn con ngƣời, từ chiều đến giờ

hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, ngƣời thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre,nào đắp,

nào cừ, bì bõm dƣới bùn lầy, ngập quá khuỷu chân, ngƣời nào ngƣời lấy lƣớt

thƣớt nhƣ chuột lột. Tình cảnh trông thật là thảm” [45.113]. Với cách liệt kê

như vậy Phạm Duy Tốn đã cho người đọc thấy quang cảnh thực, không khí

khẩn trương của đoàn người cứu đê. Hay đoạn Đoàn Ngọc Bích nói về cách

sống của cô Phụng cũng như một số những cô gái ăn chơi xa sỉ, không biết

điểm dừng để đến khi hối hận thì đã muộn: “Nay chị Sáu gọi đánh tam cúc,

mai cô Tƣ giữ đánh các-tê. Hết tối thứ bảy lại chiều chủ nhật, chẳng tuần nào

sai, vả lại ở Dalat này, mấy năm trƣớc làm gì có nhà hát, chớp ảnh, chủ nhật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

đến không biết lấy quân bài tiêu khiển thì còn biết chơi gì?...[45.296]

Sử dụng những câu hỏi dồn dập cũng là nét đặc trưng của truyện ngắn

Nam Phong góp phần làm cho kịch tính của câu chuyện được đẩy lên cao,

buộc các nhân vật phải có hướng giải quyết các tình huống như vậy: “Không

biết lúc tôi nghe thấy “rầm” một tiếng đó là xe tôi đâm vào đâu? Vào gốc cây

chăng? Vào xe hoả chăng? Hay xuống ruộng? Còn ngƣời bạn gái của tôi?!

Sống hay chết?! Còn chiếc xe? Chiếc xe mua bốn nghìn ?...”[ 45.453]. Đôi

khi hỏi dồn dập nhiều câu hỏi rồi nhân vật tự trả lời, có đáp án cho riêng

mình: “Tại ai vậy? Tại các ông ƣ? Tại chúng em ƣ? Tại cả, mà không tại ai

cả. Ấy là vì cái nghề của chúng em thôi”…[45.285]

Có thể nói, truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí là thành quả của những

cố gắng, những nỗ lực và có cả tinh thần khát vọng vươn tới sự cách tân,

quyết xây dựng một nền văn học mới cho nước nhà của nhiều cây bút lúc bấy

giờ. Một thể loại văn học có thể góp phần làm nên tính chất hiện đại của cả

một nền văn học, Nam Phong đã đóng vai trò là “bà đỡ” cho một số thể loại ra

đời, trong đó có truyện ngắn.

3.2.3. Sử dụng nhiều từ ngữ đời thƣờng mang tính khẩu ngữ

Bước sang thế kỷ XX, xã hội Việt Nam đã đổi khác. Những ảnh hưởng

của văn hoá, văn học phương Tây tác động trên nhiều bình diện. Nhu cầu

nghệ thuật và lý tưởng thẩm mỹ của công chúng bạn đọc cũng thay đổi. Một

nhu cầu đổi mới theo hướng hiện đại hoá nền văn hoá, văn học dân tộc, hoà

nhập với văn hoá văn học thế giới được đặt ra. Trên phương diện này Nam

Phong tạp chí luôn chủ động và có ý thức nhất trong tiến trình hiện đại hoá

văn học Việt Nam. Trước đây các nhà sáng tác truyện chủ yếu sử dụng ngôn

ngữ mà mình được trau dồi từ trước. Nhưng để “cá tính hoá” ngôn ngữ nhân

vật, các tác giả Hán học vẫn sử dụng ngôn ngữ Hán một cách tự nhiên, không

có sự đổi mới, chưa có ý thức tìm đến ngôn ngữ nhân dân, khẩu ngữ…Do đó

hiệu quả thể hiện ngôn ngữ nhân vật giảm đi rất nhiều. Thế nhưng, càng về

sau lớp trí thức Tây học đã hạn chế tối đa nhược điểm này. Bên cạnh vốn từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

được trau dồi trong nhà trường, họ đã biết lấy vốn từ ngữ của quần chúng

hàng ngày giao tiếp rồi gọt giũa mà đưa vào tác phẩm. Cho nên, từ ngữ của

các cây bút phía Tây học có phần phong phú và xác thực hơn, góp phần quan

trọng vào việc “tả chân” trong sáng tác của họ.

3.2.3.1. Sử dụng khẩu ngữ.

Báo chí là nơi xuất hiện một bộ phận ngôn ngữ không chỉ thuộc vốn từ

vựng của ngôn ngữ văn hóa được dùng trong lời nói riêng, trong sinh hoạt

hàng ngày mà còn cả một số từ thông tục và tiếng lóng, những từ ngữ chuyên

dùng trong khẩu ngữ.

Theo Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam thì khẩu ngữ (Parando) là:

“Ngôn ngữ tồn tại chủ yếu ở dạng nói, đƣợc trao đổi tƣ tƣởng tình cảm trong

sinh hoạt hàng ngày, hình thức thông thƣờng là đối thoại. Có đặc điểm cơ

bản là phát ngôn ngắn, đơn giản về cấu trúc, thiên về sắc thái cảm xúc,

những biến thể phát âm”. Còn theo Từ điển Tiếng Việt thì : “Khẩu ngữ là

ngôn ngữ nói thông thƣờng dùng trong cuộc sống hằng ngày, có đặc điểm đối

lập với phong cách viết”. Khẩu ngữ có cách diễn đạt riêng, lệ thuộc vào cảnh

huống. Âm điệu, hư từ, những từ tắt, sắc thái biểu cảm…Được diễn đạt tùy

theo suy nghĩ, đối tượng và trạng thái tâm lý, cảm xúc của người nói. Lời văn

dễ hiểu gần gũi với đời thường, phù hợp với tính cách của người nói và trình

độ người nghe.

Trong văn học trung đại có những quy định nghiêm ngặt về thể loại như :

cách dùng từ, đặt câu, phải tôn trọng những quy tắc “sùng cổ”, câu văn

thường sử dụng nhiều điển tích, điển cố, chắt lọc ngôn từ hàm súc, tinh luyện,

ngôn ngữ trang trọng, hoa mỹ, cầu kỳ. Do đó, loại văn chương này không có

cơ hội tiếp xúc với ngôn ngữ bình dân dễ hiểu. Nhưng khi bước vào giai đoạn

giao thời với sự biến đổi sâu sắc và toàn diện trên tất cả các mặt của xã hội

nói chung và văn học nghệ thuật nói riêng, khi mà cái tôi cá nhân phát triển,

đòi hỏi ngôn ngữ văn học cũng phải đổi mới, thay thế bằng ngôn ngữ sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

động, đời thường, dung dị, gắn liền với lời ăn tiếng nói của toàn dân.

Những ngôn từ này đã ngày càng bắt dễ sâu vào tư tưởng nghệ thuật của

các nhà cầm bút trên Nam Phong tạp chí. Khảo sát một số tác phẩm của các

tác giả như Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc Phách, Lê Đức Nhượng, Tùng Toàn

…chúng ta sẽ thấy rõ sự đổi mới này.

Trong truyện ngắn Sống chết mặc bay Phạm Duy Tốn viết: “Khi đó, ván

bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung

đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang trời dậy

đất. Mọi ngƣời đều giật nẩy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực

ngƣời ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Vì ngài sắp ù to.”[ 45.116]. Tác giả

đã không dùng những từ hoa mỹ khi miêu tả trạng thái chờ đợi của tên quan

phụ mẫu. Hắn đã chuẩn bị rất kỹ ván bài của mình chỉ lăm le, trực sẵn người

ta bốc đúng quân bài mình mà hạ, với ngôn ngữ bình dân suồng sã như vậy

làm cho ngôn ngữ trở nên gần gũi, giản dị, đời thường hơn. Hoặc một ví dụ

khác “Chiều hôm sau lúc sắp ra tàu, bố vợ dặn rằng: Trong mình mang nhiều

tiền bạc, đi đƣờng phải cẩn thận lắm mới đƣợc. Tôi chỉ lo vợ chồng trẻ, mê

ăn, mê ngủ mà ở tàu thuỷ, thì kẻ cắp như rươi” [45.128]. Và đây là đoạn văn

Lê Đức Nhượng miêu tả cảnh các cụ trong làng ăn Bữa cỗ nợ miệng: “Thịt

tái ngon, các cụ cứ tì tì chén mãi,hết chai rƣợu này lại gọi lấy chai rƣợu

khác, hết đĩa tái nọ lại gọi lấy đĩa tái kia! Năm bảy ngƣời đứng hầu chỉ đứng

tiếp tái mà mệt! Các cụ uống rƣợu đã hơn một giờ đồng hồ mà chƣa gọi cơm.

Rƣợu ngà ngà say, bấy giờ các cụ mới nói chuyện. Hết chuyện đám ma lại

đến chuyện vào đám, hết chuyện làng lại đến chuyện nhà, hết khen ngƣời này

lại chê ngƣời kia. Ngƣời này nói ngƣời kia nói, “ồn ào như chợ vỡ.”[45.504].

Đặc biệt tác giả đã sử dụng cách so sánh “ồn ào nhƣ chợ vỡ” khiến cho lời

văn càng chân thực và gần gũi với nhân dân, không khoa trương, phóng đại

mà vẫn cho người đọc thấy tất cả những đặc trưng của hủ tục làng quê cần

phải xoá bỏ, dường như họ đến với nhau không phải vì tiếc thương người đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

mất hay chia buồn cùng với gia đình có người đã khuất mà họ đến đám ma

chỉ vì miếng ăn. Cho nên, người còn sống còn khổ đến lúc chết chỉ vì phải nợ

nần, bỏ quê đi tha hương cầu thực khi làm cỗ trả nợ miệng. Qua đó, nhà văn

lên án những hủ tục nơi làng quê, phong kiến đã làm cho nhiều người dân

nghèo phải điêu đứng khổ sở.

Bên cạnh đó, truyện Ông Phó xẹ (số 199,tháng7/1934) của Nguyễn Khắc

Cán lại dẫn người đọc đến chuyện mua danh bán tước của anh Xẹ: “Ừ thì bố

đĩ không cố ra mà làm. Đấy ông Trƣơng Tịn trƣớc cũng nhƣ bố đĩ, chỉ ra môn

hạ cụ Thừa có một năm, cụ lo cho làm trƣơng tuần, nay đỡ khổ về phu phen

tạp dịch, lại có chỗ ăn chỗ ngồi” [45.474]. Cách xưng hô khi nói chuyện của

hai vợ chồng bác Xẹ mang tính địa phương rõ nét, đồng thời nó tiêu biểu cho

nếp sống của người dân ở làng quê Việt Nam xưa. Để có tiền sang nhờ cụ

Thừa lo việc mua chức cho chồng, chị vợ phải bán từng thúng gạo “Hôm nay

ở nhà tôi bán đƣợc thúng gạo, nài bã bọt mép ngƣời ta mới trả đƣợc tám

hào…” [45.475]. Với ý nghĩ thoát khổ bằng con đường mua danh nhưng hậu

quả cuối cùng là vì sự ngu dốt, cả tin mà bị bọn xấu xúi dục lừa gạt, phải bán

hết ruộng vợ con đói rách không có cái mà ăn. Qua ngôn ngữ đời thường tác

giả đã rất thành công khi phê phán một hủ tục háo danh mà vì nó nhiều gia

đình phải điêu đứng lênh đênh, thậm chí phải mất cả gia sản, trắng tay đi ăn

xin để sống.

3.2.3.2. Sử dụng hƣ từ

Theo Từ điển giải thích hư từ tiếng Việt của tác giả Hoàng Trọng Phiến thì

hư từ là những từ rỗng nghĩa, tức không có ý nghĩa chân thực (không nhằm chỉ

các sự vật hiện tượng) mà là những từ có giá trị ngữ pháp, ngữ dụng. Hư từ có

vai trò như một thứ “nhựa” gắn kết các dạng cấu trúc phát ngôn.

Với sự khắt khe, gò bó, khuôn sáo mà từ ngữ phải được chọn lọc kĩ

lưỡng tránh những từ không có nghĩa, vô nghĩa, mờ nhạt trong tác phẩm. Do

đó văn học trung đại không cho phép hư từ có chỗ đứng trong câu văn. Song

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

bước sang thời kỳ hiện đại “mảnh đất” màu mỡ cho sự phát triển các thể loại

văn học cũng như ngôn ngữ thể hiện tác phẩm, cho nên các hư từ có điều kiện

xâm nhập vào các sáng tác văn học thời kỳ này.

Số lượng hừ từ xuất hiện khá phổ biến trong các truyện ngắn trên Nam

Phong tạp chí. Trong truyện ngắn Con người sở khanh, Phạm Duy Tốn đã sử

dụng rất đắt những hư từ tạo điều kiện nối kết các câu văn với nhau. Chẳng

hạn: “Chồng nghe đâu nhƣ ngƣời ở tỉnh XXX. Cha mẹ mất sớm, mồ côi một

mình, trƣớc sau chẳng có ai cả, thân lập lấy thân. Thầy đẻ thƣơng tình mà

gả, chứ nào có phải tham của tham cải gì đâu! Vả chưng chồng vốn là thanh

bạch. Thôi thì nhờ trời nhờ quan trên, có lẽ nay mai cũng lo đƣợc bổ vào làm

việc nhà nƣớc. Tiền của bây giờ chả ngại, chỉ cốt lấy chút công danh với họ

hàng, làng nƣớc. Nay hai vợ chồng đem nhau lên Hà Nội chơi. Có mang cả

mấy trăm bạc đi nữa…”[45.132] hay “Ấy, nhà tôi giữ, bỏ ở trong valít… Valít

nhà tôi mang… Lại bao nhiêu đồ vàng của tôi, cũng để cả trong valít

ấy.”[45.132]. Truyện ngắn Của trời trời lại lấy đi của Nguyễn Văn Cơ có

đoạn người chồng nói: “Thế ra bà này không biết à? Là nghề cho vay nợ lãi

chớ gì. Kìa những chú tây đen giàu nhất ở Hà Nội là cũng nhờ về nghề ấy

cả. Các chú ấy sang bên ta trừ những hạng buôn bán và canh cổng, còn thì

chỉ đóng cửa cho vay nợ, thế mà cũng ăn sung mặc sƣớng, béo trục béo tròn,

có phần sƣớng gấp mấy bọn buôn bán và canh cổng, hằng năm các chú ấy tải

của nƣớc ta về Ấn Độ không biết là bao nhiêu, thế thì mình là ngƣời nƣớc

cũng phải nên mở nghề ấy để vớt vát lấy ít nhiều, chớ chẳng lẽ để các chú ấy

làm hết cả ƣ?”[45.155]. Nếu như không có một loạt những hư từ như vậy thì

câu văn sẽ trở nên rời rạc, khó hiểu, đồng thời tạo cho ngôn ngữ nhân vật có

sự nhịp nhàng, gắn kết. Thậm chí chuyện mua danh bán tước cũng được

Nguyễn Khắc Cán đặc tả bằng những hư từ: “Thôi ta về đi. Bác thế là may

mắn lắm đấy, có tôi đây là chỗ đi lại hầu cụ, cụ mới hết lòng giúp cho, chứ

chỗ khác thì còn là sứt trán. Vậy về thu xếp chóng lên nhé. Thôi tôi xin phép

cụ, tôi phải về sớm một tí vì hôm nay lại phải đi tế đám ma bên xóm giữa…”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

[45.479]. Bên cạnh đó, khảo sát truyện ngắn của Lê Đức Nhượng chúng ta

cũng thấy rõ điều này: “Vân Anh bực mình về câu trả lời viển vông của cậu

út, chơi ở đàng kia thì còn ai biết là chơi ở đâu, chẳng lẽ lại cứ hỏi gặng cậu

mãi thì không tiện. Chàng có ý trách Bích Đào, vì hôm về đến Lao - kay,

chàng đã gửi điện tín về báo cho vợ chồng ông Phán và nàng biết thế nào tối

hôm ấy chàng cũng về tới Hà Nội. Thế mà tối hôm ấy nàng không ở nhà đợi

chàng về đã, lại nhẩy đi chơi.”[45.536]

Với việc sử dụng dày đặc các hư từ và quan hệ từ trong các truyện ngắn

trên Nam Phong tạp chí, một mặt làm cho câu văn có tác dụng nối kết với

nhau tạo sự liền mạch, mặt khác không phải lúc nào nó cũng mang giá trị biểu

đạt cao mà đôi khi còn làm cho câu văn trở nên rườm rà, khó hiểu, dài dòng

như đoạn văn trong truyện ngắn Câu chuyện gia tình của Nguyễn Bá Học:

“Có khi bà chƣa xét cho kỹ đó mà thôi. Tính chất ngƣời ta hay theo học hành

mà biến hoá: như ngƣời nhà quê ít học, tính còn chất phác, khi ra tỉnh có học

vấn hoá ngay ra ngƣời văn hoa. Lạ gì nƣớc mình hay cẩu thả, nay thấy ngƣời

giữ luật theo phép thì tƣởng là vô tình, trƣớc mình hay du dự, nay thấy ngƣời

quả quyết nhanh trai, thì tƣởng là táo bạo, trƣớc mình hay bỏn xẻn nay thấy

ngƣời rộng rãi thì cho là sa hoa, trƣớc mình hay a-dua, nay thấy ngƣời khẳng

khái thì cho là kiêu ngạo. Tính đã khác nhau tự nhiên tình sinh nghi kỵ, kỳ

thực học nào cũng phải lấy luân lý làm trọng, có lẽ nào ra khỏi cửa mà đã

mất cái gia đình giáo dục đi.”[45.95]. Nhưng điều đáng nói ở đây là chúng đã

giúp cho văn xuôi quốc ngữ thoát dần lối văn chương bác học, góp phần xoá

bớt khoảng cách giữa văn học và đời sống bởi văn học là tấm gương phản ánh

đời sống xã hội.

3.2.3.3. Sử dụng từ và cách phát âm địa phƣơng

Có thể thấy, “khác với từ ngữ toàn dân, từ địa phƣơng là những từ ngữ

chỉ sử dụng ở một (hoặc một số) địa phƣơng nhất định [5.56]. Như vậy từ địa

phương là từ chỉ dùng phổ biến ở một địa phương nhất định, nó không được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

sử dụng rộng rãi trên tất cả các vùng miền. Điều này đã khẳng định được

ngôn ngữ của của dân tộc được sử dụng rất đa dang và phong phú, được xem

như việc bảo tồn ngôn ngữ dân tộc.

Bên cạnh việc sử dụng hư từ và khẩu ngữ nhằm làm cho câu văn gần gũi

với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân thì truyện ngắn trên Nam Phong

tạp chí còn sử dụng những từ mang màu sắc địa phương. Cách phát âm này có

là do sự phát âm khác nhau giữa các vùng miền, hoặc do lỗi một số âm vị có

cách phát âm khá gần nhau, nhưng cũng có khi cách phát âm đó lại là một

dụng ý nghệ thuật của tác giả. Khảo sát một số truyện ngắn trên Nam Phong

tạp chí chúng ta sẽ thấy rõ điều này.

“…Khi ấy giờ nàng vẫn còn bé chƣa biết gì. Cha nàng thì hiền lành dút

dát. Ngƣời dì ghẻ tính cay nghiệt tàn ác,lộng quyền hạch lạc cả chồng, hành hạ

hết cấp”[45.162]. Đáng lẽ từ “dút dát” nếu theo quy tắc chính tả hiện đại thì

phải viết là “nhút nhát” hoặc “Nàng nghĩ tình cha hiền, thƣơng con trẻ bơ vơ,

cho nên nàng chầm bập nâng niu đứa con gì ghẻ cũng nhƣ em ruột”[45.163] từ

“chầm bập” nếu viết đúng phải là “chăm bẵm” (Một cánh hoa chìm – Nguyễn

Văn Cơ). Ngoài ra còn một số từ khác như: du dự - do dự, sếch mếch – sích

mích, nhời – lời… (Câu chuyện gia tình – Nguyễn Bá Học). Ở tác phẩm

Chuyện ông Lý Chắm chúng ta cũng bắt gặp một số từ địa phương như: “Nghe

nói là ngƣời nghiêm nhặt, về việc văn án lại càng thâm hơn. Ấy đó là điều ta

phải chú ý, vì quan dữ thì dân chẳng tới gần, dân ngu thì lại dễ hống hách, nay

dân đã ngu, quan lại giữ, phép nào những tay gian nhũng lại không thừa thế

mà độc dân” [45.107]. Đáng lẽ từ nghiêm nhặt phải viết là nghiêm ngặt, gian

nhũng – tham nhũng, phƣơng giời – phƣơng trời. Hay đoạn văn trong truyện

ngắn Sống chết mặc bay “Ấy lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn

sợ, đem thân hèn yếu mà đối sức với trời mƣa to gió lớn, để bảo thủ lấy tánh

mạng gia tài, thế thời nào quan cha mẹ ở đâu?” [45.113]. Từ tánh mạng – tính

mạng, thời – thì, cách cổ - cắt cổ. Ngoài ra chúng ta còn bắt gặp một số từ như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

“đờn bà – đàn bà”, “lịnh ái – lệnh ái” (Con người sở khanh), giời long đất nở

- trời long đất lở (ở truyện Nước đời lắm nỗi). Hoặc “Tôi lui về phòng khách,

cứ một mình nghĩ ngƣời này hẳn có oan nghiệt gì đây cho nên cái lƣơng tâm

cứ cắn giất, ấy là một sự hình phạt rất nặng.”[45.170], từ cắn giất – cắn dứt

(Câu chuyện nhà sư). Ngoài ra, truyện ngắn Ai giết người của Mân Châu cũng

sử dụng cách phát âm địa phương nhằm tạo cho câu văn sự gần gũi đối với bạn

đọc như: bồ côi – mồ côi, vừng trăng – vầng trăng, nhƣờng vầy – nhƣ vậy, thời

– thì, chớ - chứ, dủ dỉ - thủ thỉ…

Bên cạnh việc sử dụng từ và cách phát âm địa phương thì trong truyện

ngắn trên Nam Phong tạp chí còn sử dụng từ ngữ chỉ địa điểm không xác định

như: “Đến ngày thứ tƣ, nhân ngồi nói chuyện việc cƣới mình, cô Giáp mới

thuật lại cả đầu đuôi: “Chồng nghe đâu ở tỉnh XXX. Cha mẹ mất sớm, mồ côi

một mình trƣớc sau chả có ai…” [45.132]. Ông Phán Lưu Phan là người thế

nào? Là thông ngôn phủ thống sứ trước, quê làng P thuộc huyện Kim Động,

đã xin nghỉ về hưu vui thú điền viên, chính là người mày râu nhẵn nhụi, áo

quần bảnh bao…” [45.235] “Đoạn lại vào hiệu G.Đ sắm đồ ăn mặc, đâu là

giầy dôn, mũ phớt, kính trắng, áo the…[45.378]. Trong truyện ngắn Nước đời

lắm nỗi có đoạn “Năm ấy là năm 189…Tôi hãy còn nhớ rõ nhƣ ngày hôm

qua. Bấy giờ cha tôi làm thong phán ở toà sứ tỉnh XXX. Quyền thế lẫy lừng ai

cũng nể sợ…[45.138]. Hoặc “Làng Mỗ thuộc hạt Mỗ…”[45.153].Những địa

điểm không xác định này nhà văn không muốn chỉ đích danh một ai đó, hay

một địa điểm chính xác nào đó. Có lẽ một mặt nhằm gây sự hứng thú, tò mò

cho người đọc bởi tính chất có thật của sự việc, mặt khác vào thời điểm này

Nam Phong tạp chí hình thành và phát triển dưới sự bảo hộ của Pháp, nội

dung bị Pháp kiểm duyệt gắt gao nên những người cầm bút buộc phải dùng

những kí hiệu hay những từ viết tắt để tránh đề cập trực tiếp đến vấn đề.

Tóm lại với cách sử dụng từ và cách phát âm địa phương trong truyện

ngắn trên Nam Phong tạp chí đã làm phong phú thêm cho ngôn ngữ văn học

giai đoạn giao thời. Đồng thời, chúng ta cũng không thể phủ nhận khi khảo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

sát các tác phẩm này chúng tôi nhận thấy có một số lượng từ không nhỏ dùng

sai so với quy tắc viết chính tả hiện hành của tiếng Việt hiện đại ngày nay cần

phải sửa đổi để chính xác như: tràng hợp – trƣờng hợp [45.529], dằn dọc –

trằn trọc [45.174], nhƣờng vậy – nhƣ vậy [45.185].

Tiểu kết chương 3

Bằng việc khảo sát 64 truyện ngắn in rải rác trên Nam Phong tạp chí

(1917 – 1934) chúng tôi nhận thấy rằng giai đoạn đầu số lượng từ Hán Việt và

từ cổ vẫn được sử dụng khá dày đặc. Một mặt nó đem lại sự trang trọng, cổ

kính, nhưng lại khiến cho câu văn trở nên dài dòng, khó hiểu, bóng bẩy và

hoa mỹ cùng lối viết cầu kỳ của văn biền ngẫu. Song càng về sau thì các nhà

cầm bút đã ý thức được việc đưa ngôn ngữ trở về với đời sống hằng ngày, cố

gắng đưa văn chương thoát khỏi khuôn mẫu, xoá bỏ hàng rào ngăn cách giữa

văn học và đời sống.

Bên cạnh đó, lối viết ảnh hưởng từ phương Tây đã xuất hiện một số từ,

ngữ ảnh hưởng từ tiếng Pháp du nhập vào nước ta. Điều này đã thể hiện được

dấu ấn ngôn ngữ của văn học giai đoạn giao thời, khi mà cái mới đã xuất hiện

nhưng vẫn còn chưa hoàn thiện và cái cũ chưa hoàn toàn mất đi. Nhưng với

hệ thống ngôn ngữ mới này đã góp phần quan trọng vào việc hiện đại hoá câu

văn tiếng Việt, tiếp tục làm giàu thêm cho ngôn ngữ dân tộc bằng cách Việt

hoá những ngôn ngữ mới để trở thành ngôn ngữ dân tộc

Xét về mặt câu văn cú pháp, ngôn ngữ của truyện ngắn trên Nam Phong

tạp chí có sự đan xen giữa cách diễn đạt truyền thống với cách diễn đạt mới

mẻ, hiện đại như sử dụng những câu văn ngắn gọn đan xen cùng những câu văn

biền ngẫu. Cùng với cách miêu tả chân thực, lôgíc, sử dụng hư tư và cách phát

âm địa phương, nôm na như lời ăn tiếng nói hằng ngày nhằm thực hiện mục

đích cách tân câu văn tiếng Việt. Tuy vẫn còn những hạn chế nhất định nhưng

các tác giả đã góp phần không nhỏ cho quá trình hiện đại hoá văn xuôi quốc

ngữ Việt Nam, tạo đà cho văn học giai đoạn sau phát triển và đạt được những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thành tựu rực rỡ.

KẾT LUẬN

1. Mặc dù ra đời cách nay gần một thế kỷ, nhưng chúng ta không thể phủ

nhận vai trò quan trọng của Nam Phong tạp chí trong dòng chảy văn học dân

tộc. Tuy là một tờ báo do Pháp sáng lập phục vụ cho mục đích của Pháp

nhưng nó lại là nơi gặp gỡ, hội tụ nhiều cây bút tiêu biểu của nền văn học

mới. Và nhiều thể loại mới của văn học hiện đại cũng sớm xuất hiện ở đây,

trong đó phải kể đến thể loại truyện ngắn. Với 64 tác phẩm trên Nam Phong

tạp chí, chúng ta có thể thấy những đóng góp không nhỏ của thể loại này vào

quá trình hình thành và phát triển của văn xuôi Quốc ngữ ở nước ta những

năm đầu thế kỷ XX.

2. Tính từ khi truyện ngắn cuối cùng của Tạp chí Nam Phong khép lại

đến nay đã tròn 80 năm. Thời gian ấy đủ để chúng ta có thể nhìn nhận lại

bước đi và những dấu ấn mà tạp chí để lại. Về phương diện văn hóa, mặc dù

mục tiêu chính trị của tờ báo chịu ảnh hưởng của chế độ thuộc địa nhưng

chúng ta không thể không thừa nhận rằng trên phương diện nào đó, Tạp chí

Nam Phong đã góp phần đáng kể vào việc phát triển nền văn học nước nhà. Ở

Việt Nam văn học hiện đại thoát thai từ báo chí và phát triển cũng nhờ vào

báo chí – nơi đăng tải các tác phẩm văn học và những bài phê bình khảo luận

đầu tiên. Tạp chí Nam Phong là nơi giới thiệu những truyện ngắn được coi là

cái mốc đầu tiên của truyện ngắn Việt Nam hiện đại. Từ những truyện ngắn

ban đầu còn nghèo về nội dung, đơn điệu về hình thức thể hiện, nhưng truyện

ngắn trên Nam Phong tạp chí đã tiến những bước dài với sự phong phú của các

biện pháp thể hiện, sự độc đáo của các ngòi bút đầy cá tính, sự khai thác đời

sống từ nhiều khía cạnh với những quan niệm khác nhau. Sự phát triển mạnh

mẽ này có một phần công sức của các tác giả tiêu biểu như: Phạm Duy Tốn,

Nguyễn Bá Học, Lê Đức Nhượng, Tùng Toàn, Nguyễn Khắc Cán…Điều này

đã góp phần tạo nên những mảng màu sinh động làm phong phú thêm kho tàng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX.

3. Ở phương diện ngôn ngữ, truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí có

nhiều điểm khác biệt so với những thể văn khác cùng thời. Nó là sự kết hợp

hài hòa giữa các thành phần cơ bản của lời văn nghệ thuật như lời trần thuật,

ngôn ngữ đối thoại sinh động, ngắn gọn và ngôn ngữ độc thoại nội tâm…Đọc

truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí chúng ta không chỉ thấy giá trị văn

chương mà các tác phẩm này mang lại mà bên cạnh đó bằng lối văn chân

thực, miêu tả khách quan những gì đang tồn tại của xã hội lúc đó, đã giúp

người đọc hình dung lại bối cảnh xã hội và lối sống, tư tưởng, suy nghĩ của

con người khi đó.

Giống như nhiều thể loại văn học khác đầu thế kỷ XX, ngôn ngữ truyện

ngắn mang đặc trưng của ngôn ngữ giai đoạn giao thời. Ngôn ngữ truyện

ngắn trên Nam Phong có sự giao thoa của nhiều lớp từ ngữ, cái cũ chưa mất

hẳn với sự hiện diện của từ Hán Việt và lối văn biền ngẫu, cùng với sự xuất

hiện của cái mới như ngôn ngữ mang đậm tính khẩu ngữ, gần gũi với đời

sống hàng ngày của nhân dân, những từ ngữ địa phương, ngôn ngữ du nhập từ

phương Tây…Đã đem lại những thành tựu quan trọng cho sự đổi mới nền văn

học Quốc ngữ. Tuy nhiên do ra đời trong hoàn cảnh chữ Quốc ngữ chưa được

định hình rõ nét nên ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn trên Nam Phong

tạp chí vẫn không tránh khỏi một số hạn chế như: câu văn nặng nề, dài dòng,

khó hiểu do lạm dụng từ Hán Việt.

4. Do ra đời trong một hoàn cảnh khá đặc biệt của lịch sử Việt Nam đầu

thế kỷ XX, những tác phẩm truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí chưa thể đạt

tới những đỉnh cao về nghệ thuật như những trang truyện ngắn giai đoạn sau.

Thế nhưng với sự nỗ lực không ngừng các tác giả truyện ngắn trên Nam Phong

tạp chí cũng đã tạo nên những dấu ấn độc đáo thể hiện những cách tân trên

phương diện ngôn ngữ so với thời kỳ văn học trung đại. Nó như những viên

gạch đầu tiên định hình cho sự phát triển văn xuôi Quốc ngữ đưa văn học Việt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Nam thoát khỏi giới hạn văn học khu vực tiếp cận với nền văn học thế giới.

Trải qua sự biến động của lịch sử dân tộc và văn học nhưng giá trị mà truyện

ngắn trên Nam Phong tạp chí cống hiến cho tiến trình phát triển của văn học

Việt Nam hiện đại luôn được khẳng định và đưa về đúng vị trí của nó.

Do giới hạn của một luận văn thạc sĩ và trình độ nghiên cứu còn hạn chế,

bước đầu chúng tôi mới chỉ khảo sát được những nét tiêu biểu, nổi bật trong

ngôn ngữ truyện ngắn trên Nam Phong tạp chí. Có thể còn nhiều vấn đề về

ngôn ngữ trong truyện ngắn Nam Phong còn chưa được tường minh, nhưng hi

vọng công trình cũng góp phần khẳng định vị trí của các tác giả viết truyện

ngắn và những đóng góp quan trọng của họ từ phương diện ngôn ngữ cho tiến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

trình hiện đại hóa văn học Việt Nam ở chặng đường mới phôi thai.

1. Tạ Duy Anh ( chủ biên) (1999). Nghệ thuật viết truyện ngắn và ký, Nxb

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Thanh Niên, Hà Nội.

2. Lê Tú Anh (2012), Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn giao

thời, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 05.

3. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại nhận thức và thẩm định,

Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngữ văn 8, tập một, cơ bản, Nxb Giáo dục Hà Nội.

6. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngữ văn 9, tập một, cơ bản, Nxb Giáo dục Hà Nội.

7. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngữ văn 10, tập hai, cơ bản, Nxb Giáo dục Hà Nội.

8. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (1990), Đại cƣơng ngôn ngữ học và các

sự kiện văn học, Tạp chí Ngôn ngữ số 2.

9. Phan Bội Châu ( 1997), Cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

10 Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trƣớc đèn, Nxb KHXH Hà Nội.

11. Nguyễn Huệ Chi (2002), Thử tìm vài đặc điểm của văn xuôi tự sự quốc

ngữ Nam Bộ trong bƣớc buổi đầu, Tạp chí Văn học số 05, Hà Nội.

12.Nguyễn Đình Chú, Báo chí và văn chƣơng qua một trƣờng hợp: Tạp chí

Nam Phong, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 02 – 2005, trang 49 -55.

13. Phan Cự Đệ ( chủ biên năm 2006), Văn học Việt Nam(1900 – 1945), Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

14. Hà Minh Đức, Truyện và ký của Hồ Chủ Tịch tác phẩm lớn mở đƣờng cho

nền văn học mới của giai cấp vô sản, Tạp chí Văn học số 03 – 1974.

15. Bằng Giang (1992), Văn học Quốc ngữ Nam Kì 1865 – 1930, Nxb trẻ, Tp

Hồ Chí Minh.

16. Vũ Hương Giang (2013), Ngôn ngữ nghệ thuật của thể du ký trên Nam

Phong tạp chí (1917 – 1934), luận văn thạc sĩ ngữ văn, trường ĐHSP –

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

ĐH Thái Nguyên.

17. Lê Thị Đức Hạnh ( 1979), Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Nxb

Khoa học xã hội.

18. Cao Thị Hảo (2010), Giáo trình văn xuôi hiện đại Việt Nam giai đoạn

1900 – 1932, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

19. Cao Thị Hảo (2012), Ngôn ngữ ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn của

Nguyễn Bá Học và Phạm Duy Tốn, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 12.

20. Cao Thị Hảo (2008), Vấn đề “tả thực” trong lí luận và sáng tác văn xuôi

Quốc ngữ miền Bắc giai đoạn 1917 – 1932, Tạp chí Nghiên cứu Văn

học số 3.

21. Cao Thị Hảo – Vũ Hương Giang (2013), Hệ thống từ ngữ mang tính khẩu

ngữ trong tác phẩm du ký trên Nam Phong tạp chí, Tạp chí Từ điển và

Bách khoa thư, số 6 (26) tháng 11/2013 Hà Nội.

22. Nguyễn Thị Thu Hằng (2013), Diễn ngôn hội thoại và độc thoại nội tâm

trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao, Tạp chí Khoa học ĐHSP Hồ Chí

Minh, số 52.

23. Nguyễn Thúy Hòa (1993), Một số vấn đề của truyện ngắn trên Nam

Phong tạp chí, Đại học quốc gia Hà Nội.

24. Nguyễn Thái Hòa (1998), Dẫn luận phong cách học, Nxb Giáo dục.

25. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 2006), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục Hà Nội.

26. Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và Văn học Việt Nam trung cận đại,

Nxb Giáo dục Hà Nội.

27. Đinh Trọng Lạc (chủ biên 1997), Phong cách học Tiếng Việt, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

28. Mã Giang Lân (chủ biên 2000), Quá trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam

1900 – 1945, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

29. Phong Lê (2007), Hiện đại hóa Văn học Việt Nam trong đối sánh khu vực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Đông Á, Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 3.

30. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb hội nhà văn Hà Nội.

31. Phong Lê (2001), Trên quá trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam vào nửa

đầu thế kỷ XX, Tạp chí Văn học số 1, Hà Nội.

32. Phương Lựu (chủ biên 2002), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục Hà Nội.

33. Lê Hồng My (2006), Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng, Nxb Giáo dục Hà Nội.

34. Phạm Quỳnh (2007), Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian

1922-1932, Nxb Tri thức.

35. Vương Trí Nhàn (1998), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh.

36. Phùng Quý Nhâm (1991), Giọng điệu văn xuôi nghệ thuật những năm gần

đây, thẩm định văn học, Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh.

37. Nguyễn Thị Hồng Nhung (2004), Sự hình thành và phát triển một số thể

văn xuôi quốc ngữ trên Nam Phong Tạp chí, luận văn thạc sĩ, trường

ĐHKHXH & NV Hà Nội.

38. Phạm Thế Ngũ (1997), Phạm Quỳnh – Nam Phong tạp chí, in trong sách

Việt Nam văn học sử giản ƣớc tân biên, tập 3, Văn học hiện đại, Nxb

Đồng Tháp.

39. Vũ Ngọc Phan (1989 tái bản), Nhà văn hiện đại, tập 1, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

40. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp Văn học trung đại Việt Nam,

Nxb Giáo dục Hà Nội.

41. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục

42. Bùi Việt Thắng (1990), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội

43. Phạm Huy Thông (1974), Nghệ thuật viết văn của Hồ Chủ Tịch qua

truyện và ký, Tạp chí Văn học.

44. Nguyễn Đức Thuận (2008), Văn trên Nam Phong tạp chí, Nxb Văn học,

số 3.

45. Nguyễn Đức Thuận (2013), Đoản thiên tiểu thuyết, truyện ngắn trên Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Phong tạp chí, Nxb văn học.

46. Phạm Hồng Toàn (2003), (sưu tầm), Nguyễn Bá Học con ngƣời và tác

phẩm, Nxb Hội nhà văn Hà Nội.

47. Phạm Duy Tốn (2002), Tác phẩm chọn lọc, (Phạm Duy sưu tầm), Nxb

Văn học Hà Nội.

48. Trần Thị Việt Trung (2002), Lịch sử phê bình Văn học Việt Nam (giai

đoạn đầu thế kỷ XX đến năm 1945), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

49. Nguyễn Khắc Xuyên (2002 tái bản), Mục lục phân tích tạp chí Nam

Phong 1917 – 1934, Nxb Thuận Hóa, Huế.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

50. Nguyễn Như Ý (1996), Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.