BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

---------------------------------

CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT

BÙI THỊ PHƯƠNG THẢO

NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG CHẠY ĐUA LÃI SUẤT

TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ GIẢI

PHÁP CHÍNH SÁCH

Chuyên ngành: Chính Sách Công

Mã số : 603114

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:

TS. TRẦN THỊ QUẾ GIANG

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2011

ii

MỤC LỤC

MỤC LỤC ............................................................................................................................ ii

LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................................iv

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................ v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .....................................................................................vi

U DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ..................................................................................... viii

DANH MỤC HÌNH VẼ .......................................................................................................ix

TÓM TẮT .............................................................................................................................. x

U CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU ................................................................................................... 1

1.1  Bối cảnh chính sách ....................................................................................................... 1

1.2  Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu .................................................................................... 2

1.3  Phương pháp luận và nguồn thông tin ........................................................................... 3

1.4  Cơ sở lý thuyết và khung phân tích ............................................................................... 3

1.5  Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................................... 6

1.6  Cấu trúc luận văn ........................................................................................................... 7

CHƯƠNG 2 DIỄN BIẾN VÀ HỆ QUẢ CỦA CUỘC ĐUA LÃI SUẤT .......................... 8

2.1  Diễn biến cuộc đua lãi suất ............................................................................................ 8

2.1.1  Cuộc đua lãi suất 2008 .................................................................................................. 8

2.1.2  Cuộc đua lãi suất 2010 ................................................................................................ 11

2.2  Hệ quả của hiện tượng chạy đua lãi suất ..................................................................... 12

CHƯƠNG 3 NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC ĐUA LÃI SUẤT ...................................... 14

3.1  Nguyên nhân trực tiếp đến từ bối cảnh vĩ mô và chính sách tiền tệ của NHNN ........ 14

3.2  Nguyên nhân tiềm ẩn đến từ thất bại thị trường và thất bại chính sách - giám sát

của NHNN ................................................................................................................... 16

3.2.1  Thất bại thị trường ....................................................................................................... 17

3.2.1.1 Quá trình hình thành và đặc điểm cơ bản của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ ...... 17

3.2.1.2 Xu hướng phát triển kém bền vững của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ ............... 19

3.2.2  Thất bại về mặt chính sách và giám sát của NHNN .................................................... 26

iii

3.2.2.1 Tổng quan về giám sát ngân hàng ...................................................................... 26

3.2.2.2 Thất bại về mặt chính sách và giám sát của NHNN ........................................... 28

CHƯƠNG 4 GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ........................................................................ 34

4.1  Giải pháp trọng tâm ..................................................................................................... 34

4.1.1  Sửa chữa thất bại thị trường ........................................................................................ 34

4.1.2  Sửa chữa thất bại chính sách và giám sát của NHNN ................................................. 36

4.2  Giải pháp bổ trợ ........................................................................................................... 37

4.2.1  Nâng cao tính minh bạch thông tin của các NHTM .................................................... 37

4.2.2  Đưa ra mức xử phạt đủ mạnh để răn đe những NHTM lách luật huy động vốn ......... 38

KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 40

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 41

PHỤ LỤC ............................................................................................................................. 47

iv

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và số liệu sử

dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu

biết của tôi. Luận văn này không nhất thiết phản ánh quan điểm của Trường Đại học Kinh

tế thành phố Hồ Chí Minh hay Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2011

Bùi Thị Phương Thảo

v

LỜI CẢM ƠN

Đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô Trần Thị Quế Giang là người đã trực tiếp

hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.

Tôi cũng xin bày tỏ sự biết ơn đến thầy Vũ Thành Tự Anh là người đã hỗ trợ giúp tôi có

thêm những ý tưởng mới cho bài viết.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến tất cả quý thầy cô của Chương trình Giảng dạy

Kinh Tế Fulbright, những người đã luôn truyền cho tôi cảm hứng học tập trong suốt hai

năm qua.

Xin cảm ơn anh Hồ Viết Trung, anh Nguyễn Đức Bình, anh Trần Bảo Toàn, chị Ngô

Nguyễn Quỳnh Anh là những người đã hỗ trợ tôi rất nhiều trong quá trình tìm hiểu thực tế

về cuộc đua lãi suất và hoạt động giám sát ngân hàng.

vi

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình ABBank

Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu ACB

Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Việt Nam AgriBank

Ngân hàng thương mại cổ phần Bảo Việt BaoVietBank

Hiệp ước vốn Basel Basel

Hệ số đủ vốn CAR

Cơ quan thanh tra giám sát CQTTGS

Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Á DaiABank

Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á EAB

Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu EximBank

Ngân hàng thương mại cổ phần Gia Định GiaDinhBank

Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội HaBuBank

Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển nhà Tp.HCM HDBank

Ngân hàng thương mại cổ phần Kiên Long KienLongBank

Tỷ lệ tín dụng trên huy động vốn (Loan to deposit ratio) LDR

Ngân hàng thương mại cổ phần Liên Việt LienVietBank

Liên ngân hàng LNH

Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội MB

Ngân hàng phát triển đồng bằng sông Cửu Long MDB

Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Á NamABank

Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt NaViBank

Ngân hàng nhà nước NHNN

vii

Ngân hàng thương mại NHTM

Ngân hàng thương mại cổ phần NHTMCP

Ngân hàng thương mại nhà nước NHTMNN

Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông OCB

Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương OceanBank

Ngân hàng thương mại cổ phần Xăng dầu Petrolimex PGBank

Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (Return on Asset) ROA

Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (Return on Equity) ROE

Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín Sacombank

Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Công Thương SaiGonBank

Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn SCB

Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á SeaBank

Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội SHB

Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam SouthernBank

Tổ chức tín dụng TCTD

Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam Techcombank

Ngân hàng thương mại cổ phần Tiên Phong TPBank

Tổng tài sản TTS

Vốn điều lệ VĐL

Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thương tín VietBank

Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam Vietcombank

Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam VietinBank

Ngân hàng Phương Tây WesternBank

viii

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 3-1. Sự thay đổi của các lãi suất chủ chốt .................................................................. 14

Bảng 3-2. Những ngân hàng vừa và nhỏ được khảo sát ...................................................... 16

Bảng 3-3. Danh sác các NHTMCP dẫn đầu được khảo sát ................................................. 17

Bảng 3-4. Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng (2007-2009) ...................................... 19

Bảng 3-5. Tỷ lệ LDR trung bình (2007 -2009) .................................................................... 20

Bảng 3-6. Tỷ lệ LDR trung bình toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam (2002- 2009) .......... 20

Bảng 3-7. Dư nợ xấu của một số ngân hàng vừa và nhỏ (2007 -2009) ............................... 21

Bảng 3-8. Dư nợ phi sản xuất (2010) .................................................................................. 22

Bảng 3-9. Hoạt động LNH của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ (2008) .................................. 23

Bảng 3-10. Hoạt động LNH của một số ngân hàng dẫn đầu (2008) .................................... 24

Bảng 3-11. Tỷ lệ LDR ở một số ngân hàng dẫn đầu (2007 -2009) ..................................... 24

Bảng 3-12. Tỷ lệ LDR ở một số ngân hàng vừa và nhỏ (2007 -2009) ................................ 25

Bảng 3-13. Phân loại ngân hàng ở Mỹ ................................................................................ 30

ix

DANH MỤC HÌNH VẼ

Hình 2-1. Diễn biến cuộc đua lãi suất 2008 ........................................................................... 8

Hình 2-2. Diễn biến cuộc đua lãi suất 2010 ......................................................................... 11

Hình 3 -1. Thị phần của NHTM Việt Nam (12/2008) ......................................................... 15

Hình 3-2. Sơ đồ chức năng nhiệm vụ giám sát của CQTTGS ............................................. 27

x

TÓM TẮT

Trong những năm trở lại đây, việc cạnh tranh huy động vốn ở các Ngân hàng thương mại

cổ phần vừa và nhỏ (sau đây gọi tắt là ngân hàng vừa và nhỏ) đã tạo ra nhiều cuộc đua lãi

suất gây ảnh hưởng sâu sắc đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng Việt Nam, điển hình là

hai cuộc đua lãi suất năm 2008 và 2010. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã có rất nhiều

chính sách nhằm ngăn chặn hiện tượng trên tiếp tục tiếp diễn nhưng hầu như vẫn chưa thể

mang lại kết quả như mong muốn.

Đứng trên góc độ lợi ích tổng thể của toàn xã hội, cần phải tìm ra nguyên nhân dẫn đến

hiện tượng chạy đua lãi suất để từ đó tìm ra chính sách hữu hiệu nhằm ngăn chặn hiện

tượng này tiếp tục tiếp diễn. Với mục đích đó, nghiên cứu này sẽ tập trung trả lời ba câu

hỏi chính sách sau đây: Thứ nhất, thực trạng hai đợt chạy đua lãi suất ở Việt Nam trong

năm 2008 và 2010 đã diễn ra như thế nào? Thứ hai, tại sao những ngân hàng vừa và nhỏ lại

là nơi kích hoạt cuộc đua lãi suất? Thứ ba, giải pháp chính sách nào cần thiết cho bối cảnh

chạy đua lãi suất hiện nay?

Về nguyên nhân dẫn đến hiện tượng chạy đua lãi suất, có thể được nhìn nhận từ hai góc độ.

Thứ nhất, bối cảnh kinh tế vĩ mô với lạm phát tăng cao và chính sách thắt chặt tiền tệ của

Ngân hàng Nhà nước là những yếu tố trực tiếp dẫn đến hành vi chạy đua lãi suất ở những

ngân hàng vừa và nhỏ. Tuy nhiên nghiên cứu này cũng cho thấy lạm phát và chính sách

thắt chặt tiền tệ là những tác động bất lợi mà hệ thống ngân hàng thường xuyên phải đối

mặt, sâu xa hơn có thể thấy thất bại thị trường từ việc tồn tại nhóm ngân hàng vừa và nhỏ

có khả năng gây ra ngoại tác tiêu cực cao và thất bại chính sách - giám sát hệ thống ngân

hàng của Ngân hàng Nhà nước mới là những nguyên nhân tiềm ẩn dẫn đến hiện tượng chạy

đua lãi suất.

Nghiên cứu này cũng cho thấy, nếu những nguyên nhân tiềm ẩn nêu trên không được giải

quyết thì khó có thể hạn chế được tình trạng chạy đua lãi suất tiếp tục tiếp diễn. Vì vậy,

nghiên cứu tập trung phân tích những nguyên nhân tiềm ẩn này và đề xuất một số nhóm

giải pháp chính sách như sau. Thứ nhất, nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng lực nội tại

của những ngân hàng vừa và nhỏ bao gồm nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị

rủi ro và thực hiện giám sát chặt chẽ hơn một số chỉ tiêu an toàn thanh khoản. Thứ hai,

nhóm giải pháp sữa chữa thất bại chính sách - giám sát của Ngân hàng Nhà nước bao gồm

xi

phân nhóm ngân hàng để có biện pháp giám sát phù hợp, tập trung nguồn lực giám sát ngân

hàng vừa và nhỏ, xây dựng lộ trình đáp ứng một số chỉ tiêu an toàn phù hợp với năng lực

của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ. Ngoài ra, nghiên cứu này còn đề xuất nhóm giải pháp

chính sách bổ trợ nhằm tạo cơ sở cho những giải pháp chính sách nêu trên được thực thi

hiệu quả, bao gồm nâng cao tính minh bạch thông tin của các ngân hàng thương mại, đưa

ra mức chế tài đủ mạnh để răn đe những ngân hàng lách luật trong việc huy động vốn.

1

CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU

1.1 Bối cảnh chính sách

Chỉ trong thời gian ngắn, từ năm 2006 cho đến nay, thị trường tài chính Việt Nam đã phải

đương đầu với những cuộc đua lãi suất có quy mô toàn hệ thống, gây ảnh hưởng sâu rộng

đến toàn bộ nền kinh tế, điển hình là cuộc đua lãi suất 2008 và 2010.

Cuộc đua lãi suất năm 2008 bắt nguồn từ những yếu tố vĩ mô của một năm trước đó. Năm

2007 nền kinh tế Việt Nam đón nhận một lượng cung tiền lớn từ bên ngoài khoảng 14,6 tỷ USD1. Luồng vốn vào này gây sức ép làm tăng giá đồng nội tệ. Với chính sách duy trì tỷ

giá hối đoái gần như cố định, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã buộc phải mua vào một

lượng lớn ngoại tệ, chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2007 NHNN đã tăng cung tiền đồng ra lưu thông khoảng 112.000 tỷ VND thông qua mua vào 7 tỷ Đô la Mỹ (USD)2. Trong bối

cảnh khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế không hiệu quả thì sự gia tăng cung tiền này đã

làm lạm phát năm 2007 tăng cao lên mức hai con số 12,63%, và trầm trọng hơn ở năm 2008 với mức 20%3. Trước tình hình đó NHNN đã tiến hành thắt chặt tiền tệ. Hệ quả là tác

động mạnh đến tính thanh khoản của các Ngân hàng Thương mại (NHTM), đặc biệt đối với

những ngân hàng vừa và nhỏ. Đối mặt với mức lãi suất liên ngân hàng (LNH) cao, khả

năng tiếp cận nguồn vốn trên thị trường mở và thị trường dân doanh còn hạn chế, các ngân

hàng vừa và nhỏ không còn biện pháp nào khác ngoài việc tăng lãi suất huy động để cải

thiện vấn đề thanh khoản, và từ đó cuộc đua lãi suất đã hình thành.

Cuộc đua lãi suất năm 2010 cũng diễn ra trong bối cảnh có nhiều nét tương đồng. Cuối

năm 2010 lạm phát bắt đầu vượt cao hơn nhiều so với dự kiến 8.5% của NHNN. Điều này

buộc NHNN phải gia tăng thắt chặt tiền tệ hơn nữa. Thêm vào đó, nửa cuối năm 2010 các

NHTM phải đối mặt với áp lực rất lớn nhằm đáp ứng các chỉ tiêu an toàn hoạt động của

NHNN như quy định chỉ tiêu tổng cho vay trên tổng huy động (LDR – Loan to Deposit

1 Tôn Thanh Tâm và Huy Bảo Hiệp (2007)

2 Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW (2008)

3 Ngân hàng Nhà nước (2008)

ratio) tối đa 80%, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) 9%, nâng hệ số rủi ro của các khoản

2

cho vay lĩnh vực chứng khoán và bất động sản lên 250%... Những vấn đề trên làm cho tình

trạng thanh khoản của những ngân hàng vừa và nhỏ càng thêm khó khăn. Để cải thiện khả

năng thanh khoản và đáp ứng những chỉ tiêu an toàn hoạt động, các ngân hàng vừa và nhỏ

phải liên tiếp tăng lãi suất huy động.

Với hai cuộc chạy đua lãi suất điển hình nêu trên có thể thấy nhóm ngân hàng vừa và nhỏ

là những ngân hàng thường xuyên mở đầu chạy đua lãi suất. Việc chạy đua lãi suất có thể

giúp những ngân hàng này giải quyết tình trạng thiếu thanh khoản trước mắt, nhưng về lâu

dài hiện tượng này có thể sẽ gây rất nhiều tác động tiêu cực. Một số tác động tiêu cực có

thể thấy như mặt bằng lãi suất biến động liên tục sẽ gây tác động xấu đến hoạt động sản

xuất kinh doanh, kéo theo đó các yếu tố chính trị- xã hội cũng sẽ bị tác động ít nhiều khi

niềm tin của người dân vào vai trò giám sát hệ thống ngân hàng của NHNN bị giảm sút.

Ngoài ra, việc người dân chạy theo những ngân hàng có mức lãi suất cao nhưng lại không

biết rõ về khả năng thanh khoản của những ngân hàng nhận tiền gửi vì vậy chỉ cần một

biến cố ảnh hưởng đến niềm tin có thể xảy ra hiện tượng rút tiền hàng loạt, hiện tượng này

đã từng xảy ra tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB) năm 2003, và đây chính

là mầm mống của khủng hoảng ngân hàng.

Từ bối cảnh chính sách nêu trên có thể thấy rằng thực sự cần thiết tìm ra những chính sách

can thiệp hữu hiệu nhằm ngăn chặn hiện tượng trên tiếp tục tiếp diễn, đây cũng chính là

mục tiêu của nghiên cứu này.

1.2 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu

Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu chính sau đây. Từ việc tìm ra nguyên nhân

gốc rễ dẫn đến hiện tượng chạy đua lãi suất ở những ngân hàng vừa và nhỏ nghiên cứu này

sẽ đề xuất một số giải pháp chính sách nhằm hạn chế hiện tượng này tiếp tục tiếp diễn. Để

thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, nghiên cứu này sẽ lần lượt trả lời ba câu hỏi

chính sách sau đây.

• Thứ nhất, thực trạng hai đợt chạy đua lãi suất ở Việt Nam trong năm 2008 và 2010

đã diễn ra như thế nào?

• Thứ hai, tại sao những ngân hàng vừa và nhỏ lại là nơi kích hoạt cuộc đua lãi suất?

• Thứ ba, giải pháp chính sách nào cần thiết cho bối cảnh chạy đua lãi suất hiện nay?

3

1.3 Phương pháp luận và nguồn thông tin

Nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính để tìm ra nguyên nhân dẫn đến

hiện tượng chạy đua lãi suất ở những ngân hàng vừa và nhỏ, với cách tiếp cận từ dưới lên

nghĩa là đi từ việc phân tích tình huống để tìm ra vấn đề. Nghiên cứu này sử dụng nguồn số

liệu thứ cấp được thu thập từ các NHTM Việt Nam, báo cáo thường niên của NHNN và

một số báo cáo ngành ngân hàng do các công ty chứng khoán và tổ chức tài chính trong và

ngoài nước tổng hợp, ngoài ra, nguồn thông tin thu thập từ thực tế và các phương tiện

thông tin đại chúng như tạp chí ngân hàng, báo điện tử…cũng hỗ trợ quan trọng cho nghiên

cứu này trong bối cảnh nguồn thông tin cung cấp từ phía NHNN và từ hệ thống NHTM còn

hạn chế.

1.4 Cơ sở lý thuyết và khung phân tích

Nghiên cứu này sử dụng 3 lý thuyết chính là cơ sở cho quá trình phân tích. Thứ nhất, lý

thuyết thất bại thị trường; Thứ hai, lý thuyết thất bại nhà nước; Thứ ba, lý thuyết về chính

sách tiền tệ thắt chặt. Ngoài ra trong quá trình phân tích, nghiên cứu này còn đề cập đến lý

thuyết về thanh khoản trong mối liên hệ với lãi suất trong thị trường tiền tệ và lý thuyết rủi

ro hệ thống trong mối liên hệ với nguy cơ xảy ra khủng hoảng ngân hàng. Trên cơ sở đó,

khung phân tích được hình thành như sau.

Theo John Maynard Keynes (1936), lãi suất là cái “giá” của việc giữ tiền, khi lãi suất cao

nhu cầu giữ tiền mặt ít đi và khi lãi suất thấp người ta có nhu cầu giữ tiền mặt nhiều hơn.

Như vậy lãi suất là một công cụ tác động đến lượng tiền trong lưu thông, vì vậy khi ngân

hàng cần hút tiền gửi thì tăng lãi suất là một công cụ hữu hiệu nhất. Qua bối cảnh và diễn

biến của hai cuộc đua lãi suất 2008 và 2010 có thể thấy một số ngân hàng vừa và nhỏ trong

hệ thống đã tăng lãi suất cao hơn mức lãi suất chung của thị trường nhằm thu hút lượng tiền

gửi trong hệ thống về ngân hàng mình. Biện pháp cạnh tranh về giá thông qua lãi suất cũng

là một hình thức cạnh tranh thông thường, tuy nhiên việc liên tục tăng lãi suất cao hơn mức

trung bình của thị trường của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ đã tạo ra nhiều cuộc đua lãi suất

gây mất ổn định cho toàn hệ thống. Điều đó cũng cho thấy, bản thân các ngân hàng vừa và

nhỏ đã tiềm ẩn nguy cơ thiếu thanh khoản và “lạm dụng” quá mức sự cạnh tranh về giá để

cải thiện tính thanh khoản của mình.

4

Nghiên cứu này sẽ sử dụng một số lý thuyết sau đây để giải thích về nguyên nhân của việc

kích hoạt cuộc đua lãi suất ở nhóm ngân hàng vừa và nhỏ.

Theo Robert Mundell và Marcus Fleming (1960), trong nền kinh tế nhỏ mở cửa với chính

sách duy trì tỷ giá hối đoái cố định thì khi có sự gia tăng đầu tư từ bên ngoài tạo áp lực tăng

giá trị đồng nội tệ. Để duy trì tỷ giá cố định, NHNN buộc phải tăng cung nội tệ. Đây chính

là bối cảnh kinh tế của năm 2008 và phần nào ảnh hưởng đến năm 2010 của nền kinh tế

Việt Nam. Khi cung tiền gia tăng, nhưng mức độ hấp thu của nền kinh tế Việt Nam không ở

mức tương ứng làm cho lạm phát tăng cao. Để đối phó với lạm phát, NHNN đã sử dụng các

biện pháp thắt chặt tiền tệ. Ngoài các công cụ chính sách tiền tệ thông thường như lãi suất

chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở…thì lần này NHNN còn sử dụng biện pháp hành chính

ép buộc như phát hành tín phiếu bắt buộc. Điều này đã làm ảnh hưởng mạnh đến tính thanh

khoản của các NHTM trong hệ thống, đặc biệt đối với những ngân hàng vừa và nhỏ.

Những ngân hàng vừa và nhỏ này đã mở đầu tăng lãi suất và tạo ra cuộc đua lãi suất trên

toàn hệ thống.

Theo Joseph E. Stiglitz (1995), khi cá nhân hoặc tổ chức gây ra ngoại tác tiêu cực cho

những đối tượng khác mà không phải bồi thường chi phí tương ứng thì đó chính là thất bại

thị trường. Như vậy, việc tồn tại nhóm ngân hàng vừa và nhỏ vì mục đích giải quyết thanh

khoản của mình đã thường xuyên nâng lãi suất huy động từ đó làm hình thành cuộc đua lãi

suất và gây ra nhiều ngoại tác tiêu cực cho toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế như

trong thời gian vừa qua cũng là một thất bại thị trường. Vũ Thành Tự Anh (2010), thất bại

thị trường dẫn đến bất ổn vĩ mô là cơ sở cho sự can thiệp của nhà nước. Sự biến động về lãi

suất trong thời gian qua mặc dù không được liệt kê trong những chỉ báo của bất ổn vĩ mô

(lạm phát, áp lực điều chỉnh tỷ giá, thâm hụt ngân sách, bong bóng tài sản, thâm hụt tài

khoản vãng lai, thâm hụt cán cân thanh toán, nợ xấu…) tuy nhiên những tác động tiêu cực

từ biến động lãi suất này không chỉ giới hạn ở hệ thống ngân hàng mà còn có thể ảnh

hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế và một số yếu tố chính trị – xã hội khác, vì vậy đây cũng

có thể xem là một yếu tố tác động đến sự ổn định vĩ mô và là cơ sở can thiệp của nhà nước.

Vũ Thành Tự Anh (2009), thất bại nhà nước là khi xảy ra sự can thiệp của nhà nước làm

thất bại thị trường trở nên nghiêm trọng hơn hoặc dẫn đến những thất bại khác hoặc hệ lụy

tiêu cực trong tương lai. Theo ông, thất bại nhà nước có thể đến từ một số nguyên nhân sau

đây. Sự thiển cận về mặt chính sách khi chính sách có xu hướng giữ nguyên hiện trạng;

5

tránh những thay đổi quan trọng hoặc quan tâm quá mức đến những vấn đề ngắn hạn; khó

đo lường hết được phản ứng của hệ thống chính trị; khó đo lường hết được phản ứng của

bộ máy nhà nước; khó đo lường hết phản ứng của thị trường; khó đánh giá đúng và đủ hiểu

quả của việc thực hiện chính sách; hoặc tồn tại động cơ chính trị vụ lợi. Trong những cuộc

đua lãi suất diễn ra trong thời gian vừa qua, có thể thấy thất bại chính sách và hoạt động

giám sát ở những khía cạnh sau. Thứ nhất, ngay từ ban đầu NHNN đã không giám sát chặt

chẽ đối với những hoạt động của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ. Thứ hai, NHNN sử dụng

chính sách giám sát mang tính cào bằng không phù hợp với thực tế phân hóa rất rõ ràng

giữa các NHTM trong hệ thống. Thứ ba, việc ban hành các chỉ tiêu an toàn hoạt động kém

tính nhất quán.

Dựa trên những cơ sở lý thuyết trên có thể thấy ngoài sự tác động của chính sách thắt chặt

tiền tệ thì sự tồn tại một nhóm ngân hàng vừa và nhỏ tiềm ẩn nhiều khả năng gây ra ngoại

tác tiêu cực còn là biểu hiện của thất bại thị trường và thất bại nhà nước mà cụ thể là thất

bại của NHNN trong định hướng chính sách giám sát và hoạt động giám sát hệ thống ngân

hàng.

Phân tích trên góc độ toàn hệ thống ngân hàng thì hoạt động ngân hàng vốn mang tính rủi

ro hệ thống cao. Chính vì vậy hoạt động ngân hàng có thể là nguồn gốc gây ra những hệ

lụy tiêu cực ảnh hưởng rộng lớn không chỉ trong giới hạn một quốc gia mà có thể là hệ

thống kinh tế tài chính quốc tế. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rủi ro hệ thống là bản chất

của hệ thống tài chính, và trở thành mối đe dọa thường xuyên đối với toàn bộ nền kinh tế

thực. Như theo Gianni De Nicolo and Myron L. Kwatst (2002), “Rủi ro hệ thống đối với hệ

thống tài chính là một loại rủi ro mà chỉ với một tác động bất lợi có thể là một sự khởi động

của mất mát giá trị tài sản tài chính hàng loạt hay mất lòng tin của nhà đầu tư vào nền kinh

tế, và góp phần làm tăng thêm mức độ không chắc chắn vào những thành phần khác của hệ

thống tài chính và trong hầu hết các trường hợp có thể sẽ tạo ra tác động bất lợi lớn lên nền

kinh tế thực”.

Rủi ro hệ thống là yếu tố cơ bản dẫn đến khủng hoảng ngân hàng. Khủng hoảng ngân hàng

xuất hiện đầu tiên vào thế kỉ 16 tại Anh, cho tới nay các cuộc khủng hoảng ngân hàng vẫn

xảy ra liên tiếp và trở thành nỗi ám ảnh của mọi nền kinh tế. Thông thường khủng hoảng

ngân hàng có hai cấp độ. Ở cấp độ thứ nhất chỉ dừng ở mất ổn định trong hệ thống ngân

hàng, khi có một lượng lớn khách hàng rút tiền ra khỏi hệ thống. Một khi niềm tin về khả

6

năng thanh khoản của một ngân hàng bị lung lay nó sẽ kéo theo tâm lý đám đông khuyến

khích nhiều người hơn nữa rút tiền ra khỏi hệ thống mà không cần xem xét tính thanh

khoản của ngân hàng đó. Tình trạng mất ổn định này cần có sự can thiệp kịp thời của

NHTW về mặt trấn an tâm lý và hỗ trợ về nguồn vốn cho các NHTM nếu không cả hệ

thống ngân hàng đối mặt với nguy cơ phá sản. Ở cấp độ thứ hai sẽ là bước tiếp theo khi sự

mất ổn định trong hệ thống ngân hàng ở cấp độ thứ nhất không được giải quyết, hoảng loạn

ngân hàng xảy ra, một số ngân hàng sụp đổ, kéo theo đó là sự sụp đổ toàn hệ thống.

Đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, nếu xét trên nhóm ngân hàng vừa và nhỏ với năng

lực nội tại yếu kém thì nó có khả năng gây ra rủi ro cao đối với thị trường thông qua bản

chất rủi ro hệ thống cao của thị trường tài chính. Khi đó chỉ cần sự sụp đổ của một ngân

hàng nhỏ trong hệ thống thì sự mất ổn định của hệ thống tài chính là điều khó tránh khỏi,

mà nghiêm trọng hơn nữa là khủng hoảng ngân hàng có thể xảy ra.

Đứng trên góc độ bảo vệ lợi ích tổng thể của toàn xã hội thì cần phải hạn chế rủi ro hệ

thống mà nhóm ngân hàng vừa và nhỏ có thể gây ra đối với toàn bộ thị trường cũng như

khả năng gây ra khủng hoảng ngân hàng của nó. Cơ quan quản lý nhà nước mà cụ thể là

NHNN cần có sự can thiệp nhằm sửa chữa những thất bại thị trường, thất bại chính sách và

hoạt động giám sát vì đây là những nguyên nhân căn bản sâu xa dẫn đến những tồn tại yếu

kém của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ làm tăng khả năng gây ra rủi ro hệ thống của nhóm

ngân hàng này.

1.5 Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu này được thực hiện trong phạm vi hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt

Nam. Với số lượng khảo sát cụ thể 9 trên 28 Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP)

vừa và nhỏ (trong đó, 5 ngân hàng nhỏ có tổng tài sản (TTS) thấp hơn 15.000 tỷ đồng Việt

Nam (VND) và 4 ngân hàng trung bình có TTS thấp hơn 45.000 tỷ VND) và 3 trên 11

NHTMCP dẫn đầu có quy mô tổng tài sản lớn hơn 45.000 tỷ VND (theo thống kê năm

2010). Phần lớn số liệu khảo sát được lấy từ năm 2007 -2009 và một số số liệu được lấy từ

năm 2010.

7

1.6 Cấu trúc luận văn

Cấu trúc luận văn gồm 4 chương. Chương 1 là phần giới thiệu tổng quan về đề tài bao gồm

bối cảnh chính sách, câu hỏi nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, phương pháp luận và nguồn

thông tin. Chương 2 mô tả sơ lược về 2 cuộc đua lãi suất diễn ra trong thời gian gần đây,

cuộc đua lãi suất 2008 và 2010. Chương 3 tìm ra những nguyên nhân căn bản dẫn đến hiện

tượng này. Nội dung Chương 3 chính là cơ sở để Chương 4 của nghiên cứu này đề xuất

một số giải pháp nhằm ngăn chặn cuộc đua lãi suất tiếp tục tiếp diễn.

8

CHƯƠNG 2 DIỄN BIẾN VÀ HỆ QUẢ CỦA CUỘC ĐUA LÃI SUẤT

2.1 Diễn biến cuộc đua lãi suất

2.1.1 Cuộc đua lãi suất 2008

Hình 2-1. Diễn biến cuộc đua lãi suất 2008

Đầu tháng 1 lãi suất huy động 8,5%

lãi tăng Việc suất cơ bản là cơ sở cho các công NHTM lãi tăng khai suất huy động lên mức 16% - 17%. Tuy nhiên một số ngân hàng nhỏ đã tăng đến gần 18%.

Đỉnh điểm của cuộc đua lãi suất 2008, lãi suất huy động ở một vài ngân hàng vừa và lên đến nhỏ ngưỡng 20%. Những ngân hàng dẫn đầu cũng tăng lãi suất huy động để hẹp thu khoảng cách.

Hiện tượng khan hiếm tiền đồng trên toàn hệ thống. Các ngân hàng vừa và nhỏ đẩy lãi suất lên tăng 14%. Các ngân hàng lớn cũng rục rịch lãi tăng suất.

tăng

NHTMCP quốc ngoài doanh mở đầu tăng lãi suất lên 10,5%, tiếp là theo NHTMCP Đông Nam Á và hàng hoạt hàng ngân khác lãi suất.

Tháng 1

Tháng 2

Tháng 3

Tháng 5

Tháng 6

NHNN nâng LSCB từ 12% - 14%

Lạm phát tháng 3 vẫn tăng tục tiếp cao. NHNN rút tiền khỏi lưu thông bằng cách phát hành 20.300 tỷ VND tín phiếu bắt buộc

Xu hướng lạm phát tăng cao. 15/01 Ngày Chính phủ ra văn bản số 75/TTg-KTTH tăng yêu cầu cường các biện pháp kiềm chế lạm phát

16/05 Ngày quy NHNN lãi trần định suất cho vay không quá 150% lãi suất cơ bản (LSCB) 19/05 Ngày nâng NHNN LSCB từ 8,75% lên 12%

Hai tháng đầu năm lạm phát lên đến gần 6%. ban NHNN hành chính sách thắt chặt tiền thông tệ qua tăng các lãi suất chủ chốt từ 1% -2,5%

Nguồn: Tổng hợp của tác giả Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Trong bối cảnh lạm phát tăng cao đầu năm 2008, công tác chống lạm phát đã được Chính Trong bối cảnh lạm phát tăng cao đầu năm 2008, công tác chống lạm phát đã được Chính

phủ ưu tiên hàng đầu với hàng loạt các chính sách thắt chặt tiền tệ. phủ ưu tiên hàng đầu với hàng loạt các chính sách thắt chặt tiền tệ.

Sự thắt chặt tiền tệ của NHNN đã ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của các NHTM. Sự thắt chặt tiền tệ của NHNN đã ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của các NHTM.

Lãi suất qua đêm trong giai đoạn này tăng lên nhanh chóng, nếu tuần đầu tháng 2/2008 lãi Lãi suất qua đêm trong giai đoạn này tăng lên nhanh chóng, nếu tuần đầu tháng 2/2008 lãi

9

suất qua đêm chỉ ở mức 17% thì tuần thứ 2 đầu tháng 2/2007 mức lãi suất này đã lên đến 21%4.

Nếu đầu tháng 1/2008 lãi suất huy động trên thị trường chỉ khoảng 8,5% thì cuối tháng

2/2008 nhiều ngân hàng vừa và nhỏ bắt đầu tăng lãi suất huy động vốn. Mở đầu là

NHTMCP ngoài quốc doanh (VPBank) điều chỉnh lãi suất lên đến 10,5% vào ngày

18/02/2008 và trở thành ngân hàng có mức lãi suất huy động cao nhất. Tuy nhiên, một

ngày sau đó NHTMCP Đông Nam Á (SeaBank) đã huy động với mức lãi suất lên đến

10,68%. Tiếp theo đó, những ngân hàng vừa và nhỏ khác như NHTMCP Sài Gòn – Hà Nội

(SHB), NHTMCP Sài Gòn (SCB), NHTMCP An Bình (ABBank)… cũng nâng lãi suất ở hầu hết các kì hạn5.

Đầu tháng 3/2008, NHNN đã quyết định rút tiền trong lưu thông bằng cách phát hành

20.300 tỷ VND tín phiếu bắt buộc. Biện pháp rút tiền trong lưu thông một cách ép buộc

này đã làm cho nhiều NHTM rơi vào tình trạng kém thanh khoản và phải nâng lãi suất để

tăng cường huy động vốn. Lãi suất huy động giai đoạn này đã bị đẩy lên đến 14%.

Để đối phó với tình trạng chạy đua lãi suất diễn ra những tháng đầu năm 2008, NHNN đã

thông qua quyết định số 16/2008/QĐ – NHNN ngày 16/05/2008 quy định về mức trần lãi

suất cho vay không được vượt quá 150% LSCB. Với quy định này, các NHTM khó có thể

huy động cao hơn mức cho vay trần khoảng 13,125%/năm. Tuy nhiên với tình hình lạm

phát tăng cao, và thực tế các NHTM cũng không thể huy động ở mức thấp như vậy nên

ngày 19/05/2008 NHNN đã tăng LSCB từ 8,75% lên 12%, tiếp theo đó ngày 11/06/2008 NHNN nâng LSCB từ 12% lên 14%6.

Quy định lãi suất cho vay không quá 150% LSCB này là một hình thức gián tiếp nhằm hạn

chế tình trạng tăng lãi suất huy động trong hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên lãi suất huy động

cuối tháng 6 vẫn tăng cao từ 18% - 20%, gần với mức trần cho vay theo quy định của

NHNN.

Việc tăng lãi suất huy động đã giúp những ngân hàng vừa và nhỏ thu hút thêm nguồn vốn

4 Ngân hàng Nhà nước (2008)

5 Trang thông tin Việt Báo (2008)

6 Ngân hàng Nhà nước (2008)

huy động. Nếu như cuối năm 2007 mức huy động tiền gửi của VPBank chỉ khoảng 12.965

10

tỷ VND thì 6 tháng đầu năm 2008 mức huy động tiền gửi đã tăng thêm 23% tương ứng

15.947 tỷ VND. Tương tự đối với những ngân hàng vừa và nhỏ khác như SCB, tại thời

điểm cuối quý II/2008 ngân hàng này huy động được 19.417 tỷ VND tăng 21% so với cuối năm 20077.

Trong khi đó, những ngân hàng lớn lại tăng trưởng lượng tiền gửi ít hơn nhiều, thậm chí

còn có xu hướng giảm ở một vài ngân hàng. Cuối năm 2007 số dư tiền gửi của NHTMCP

Á Châu (ACB) là 55.283 tỷ VND, hết quý I/2008 số dư tiền gửi chỉ tăng lên 12% tương

ứng 61.957 tỷ VND, nhưng hết quý II/2008 số dư tiền gửi giảm xuống chỉ còn 60.940 tỷ

VND. Đối với NHTMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank) tình hình huy động vốn có xu

hướng giảm mạnh, cuối năm 2007 số dư tiền gửi của ngân hàng này khoảng 52.598 tỷ

VND, hết quý I/2008 số dư tiền gửi chỉ còn 44.231 tỷ VND tương ứng giảm 19%, hết II/2008 số dư tiền gửi có tăng lên nhưng cũng chỉ ở mức 48.292 tỷ VND8.

Như vậy, việc tăng lãi suất huy động ở những ngân hàng nhỏ phần nào làm cho dòng tiền

gửi chuyển sang những ngân hàng này. Điều này làm cho ngân hàng lớn mặc dù không gặp

phải vấn đề thanh khoản nhưng cũng không thể không tăng lãi suất huy động để giữ khách

hàng. Phản ứng dây chuyền này làm mặt bằng lãi suất liên tục bị nâng lên trong một thời

gian ngắn, đây chính là ngoại tác tiêu cực từ hành vi liên tục nâng lãi để huy động vốn của

7 VPBank (2008) và SCB (2008)

8 ACB (2008) và Sacombank (2008)

các ngân hàng vừa và nhỏ.

11

2.1.2 Cuộc đua lãi suất 2010

Hình 2-2. Diễn biến cuộc đua lãi suất 2010

Hiện tượng lách trần lãi suất huy động vẫn tiếp diễn dưới nhiều hình thức. Lãi suất huy động từ 15% - 17% vượt xa mức trần lãi suất đồng thuận.

Một số ngân hàng vừa và nhỏ lách trần lãi suất đồng thuận và thường đi đầu công bố mức lãi suất cao nhất thị trường. Lãi suất huy động ở mức 13,2% - 13,9%

10 tháng đầu năm 2010 lãi suất tương đối ổn định. Đầu tháng 11 lãi suất huy động khoảng 10% - 11%

Đầu tháng 11

Đầu tháng 12 Giữa và cuối tháng 12

Lạm phát vẫn có xu hướng tăng cao.

14/12 NHNN đứng ra thống nhất mức trần lãi suất đồng thuận 14%

Lạm phát có xu hướng tăng cao hơn mức dự kiến. Ngày 05/11 NHNN nâng một số lãi suất chủ chốt

Hiệp hội ngân hàng kêu gọi đồng thuận trần lãi suất ở mức 12%

Nguồn: Tổng hợp của tác giả Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Cuộc đua lãi suất năm 2010 bắt đầu từ những tháng cuối năm khi lạm phát có xu hướng Cuộc đua lãi suất năm 2010 bắt đầu từ những tháng cuối năm khi lạm phát có xu hướng

tăng lên hai con số cao hơn nhiều so với mức một con số (8,5%) theo dự kiến của NHNN. tăng lên hai con số cao hơn nhiều so với mức một con số (8,5%) theo dự kiến của NHNN.

Trước tình hình đó, ngày 5/11/2010 NHNN đã thực hiện thắt chặt tiền tệ hơn nữa. Trước tình hình đó, ngày 5/11/2010 NHNN đã thực hiện thắt chặt tiền tệ hơn nữa.

Dự đoán được mặt bằng lãi suất có thể tăng cao dưới tác động của chính sách thắt chặt tiền Dự đoán được mặt bằng lãi suất có thể tăng cao dưới tác động của chính sách thắt chặt tiền

tệ, ngày 05/11/2010 Hiệp hội ngân hàng đã đứng ra kêu gọi các NHTM cam kết giữ mức tệ, ngày 05/11/2010 Hiệp hội ngân hàng đã đứng ra kêu gọi các NHTM cam kết giữ mức

lãi suất huy động ở mức 12%. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian ngắn, đầu tháng 12/2010 lãi suất huy động ở mức 12%. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian ngắn, đầu tháng 12/2010

một số NHTM tìm cách đưa lãi suất thực trả cao hơn lãi suất trần huy động cho phép đã một số NHTM tìm cách đưa lãi suất thực trả cao hơn lãi suất trần huy động cho phép đã

đồng thuận trước đó bằng các hình thức khuyến mãi. Kéo theo đó các NHTM khác cũng đồng thuận trước đó bằng các hình thức khuyến mãi. Kéo theo đó các NHTM khác cũng

lách luật để tăng lãi suất huy động. Mở đầu tăng lãi suất huy động trong giai đoạn này là lách luật để tăng lãi suất huy động. Mở đầu tăng lãi suất huy động trong giai đoạn này là

NHTMCP Nhà Hà Nội (HaBubank), NHTMCP Kiên Long (KienLongbank), NHTMCP NHTMCP Nhà Hà Nội (HaBubank), NHTMCP Kiên Long (KienLongbank), NHTMCP

Phát triển Mê Kông (MDB), NHTMCP Gia Định (GiaDinhbank), NHTMCP Phương Tây Phát triển Mê Kông (MDB), NHTMCP Gia Định (GiaDinhbank), NHTMCP Phương Tây

12

(Westernbank), SeaBank…, đây là những ngân hàng công bố mức lãi suất cao nhất thị trường từ 13,2% - 13,9%9.

Hiện tượng huy động vượt trần lãi suất nêu trên đã buộc NHNN phải trực tiếp đứng ra tập

hợp các NHTM để cùng nhau thống nhất mức đồng thuận lãi suất 14% và đưa ra các biện

pháp chế tài đối với những trường hợp vi phạm. Tuy nhiên, với tình trạng thanh khoản kém

thì các ngân hàng vừa và nhỏ vẫn huy động vượt trần. Tiếp theo đó các ngân hàng lớn bao

gồm cả những ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) như Ngân hàng Đầu tư và

Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Nông nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam

(Agribank) cũng phải nâng lãi suất huy động nhằm ngăn chặn hiện tượng lượng tiền gửi

chuyển qua những ngân hàng có lãi suất cao hơn, các mức lãi suất mới trên thị trường được

thiết lập 15%, 16% và cao nhất là 17% vượt xa so với mức đồng thuận trước đó.

2.2 Hệ quả của hiện tượng chạy đua lãi suất

Đối với bản thân các ngân hàng vừa và nhỏ, hành vi lách luật tăng lãi suất để huy động vốn

có thể giúp các ngân hàng này giải quyết được những khó khăn thanh khoản trước mắt, tuy

nhiên hành vi này lại gây ra nhiều ngoại tác tiêu cực đối với hệ thống ngân hàng cũng như

đối với sự phát triển kinh tế và một số yếu tố chính trị xã hội khác.

Những hệ lụy kéo theo từ việc nâng lãi suất huy động ở một số ngân hàng vừa và nhỏ đối

với hệ thống ngân hàng có thể thấy sau đây. Mặc dù những NHTM khác trong hệ thống

không gặp phải vấn đề về thanh khoản nhưng cũng buộc phải nâng lãi suất để ngăn chặn

lượng tiền gửi tại ngân hàng mình chạy sang những ngân hàng huy động với lãi suất cao

hơn. Điều đó dẫn đến mặt bằng lãi suất cao hơn được hình thành. Để tiếp tục duy trì khả

năng huy động vốn những ngân hàng vừa và nhỏ sẽ phải tiếp tục tăng lãi suất huy động,

đặc biệt một số ngân hàng đã thực hiện huy động lãi suất bằng nhau ở nhiều kì hạn khác

nhau và thậm chí ở những kì hạn ngắn lãi suất cao hơn những kì hạn dài để tận dụng nguồn

vốn nhàn rỗi ngắn hạn. Việc chạy đua lãi suất như trên đã dẫn tới hệ quả tất yếu là hầu hết

người gửi tiền chọn gửi những kì hạn ngắn để có thể tận dụng được sự biến động về lãi

suất, đồng thời vẫn được hưởng mức lãi tương đương với những kì hạn dài hơn. Nếu hiện

tượng này vẫn tiếp tục thì cơ cấu nguồn vốn ngắn hạn và trung dài hạn sẽ bị mất cân đối, về

9 Trang thông tin về lãi suất (2010)

lâu dài sẽ ảnh hưởng lớn đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

13

Không chỉ dừng ở đó, những tác động tiêu cực từ hiện tượng chạy đua lãi suất còn ảnh

hưởng đến sự phát triển kinh tế và các yếu tố chính trị – xã hội khác. Có thể thấy rằng mặt

bằng lãi suất cao hơn sẽ ảnh hưởng đến những đối tượng sử dụng vốn vay đặc biệt là những

doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó tăng trưởng kinh tế có thể bị suy giảm

và các vấn đề an sinh xã hội có thể nảy sinh khi thất nghiệp gia tăng. Ngoài ra hiện tượng

chạy đua lãi suất lặp đi lặp lại có thể làm suy giảm niềm tin của người dân vào vai trò quản

lý của Ngân hàng Nhà nước, khi mà cơ quan quản lý này chưa thực hiện được chức năng

đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định và hiệu quả; bên cạnh đó việc người

dân chạy theo những ngân hàng có mức lãi suất cao nhưng lại không biết rõ về khả năng

thanh khoản của những ngân hàng này vì vậy chỉ cần một biến cố ảnh hưởng đến niềm tin

có thể xảy ra hiện tượng rút tiền hàng loạt, đây chính là mầm mống của khủng hoảng ngân

hàng.

Với những phân tích trên cho thấy, hành vi chạy đua lãi suất của các NHTM đã gây ra

nhiều ngoại tác tiêu cực cho hệ thống ngân hàng và có khả năng gây ảnh hưởng xấu đến

nền kinh tế cũng như nhiều vấn đề chính trị - xã hội khác.

14

CHƯƠNG 3

NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC ĐUA LÃI SUẤT

Có những nguyên nhân trực tiếp và những nguyên nhân tiềm ẩn dẫn đến hiện tượng chạy

đua lãi suất của các NHTM trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, để tìm ra những giải pháp

chính sách hữu hiệu giải quyết hiện tượng trên nghiên cứu này cần phải phân tích trọng tâm

vào những nguyên nhân tiềm ẩn gắn liền với những thất bại của thị trường và thất bại của

chính sách - giám sát. Chính vì vậy, trong phần nội dung tiếp theo Chương 3 sẽ khái quát

về những nguyên nhân mang tính trực tiếp như lạm phát và chính sách thắt chặt tiền tệ của

NHNN, phần lớn nội dung còn lại dành để phân tích sâu những nguyên nhân tiềm ẩn dẫn

đến hiện tượng này.

3.1 Nguyên nhân trực tiếp đến từ bối cảnh vĩ mô và chính sách tiền tệ của NHNN

Tín dụng năm 2007 tăng trưởng mạnh 53,89% cao hơn nhiều so với mức 25,44% của năm 2006 và ảnh hưởng xấu đến tình hình lạm phát đầu năm 200810. 2 tháng đầu năm 2008 lạm

phát đã lên đến 6,02%, để đối phó với tình hình lạm phát tăng cao NHNN đã sử dụng chính

sách thắt chặt tiền tệ. Đầu tiên, hầu hết các công cụ lãi suất được sử dụng.

Bảng 3-1. Sự thay đổi của các lãi suất chủ chốt

Lãi suất chủ chốt Cuối 2007 1/1/2008 19/05/2008 11/6/2008

Lãi suất cơ bản 8,25% 8,75% 12% 14%

Lãi suất chiết khấu 4,50% 6% 11% 13%

Lãi suất tái cấp vốn 6,50% 7,50% 13% 15%

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ website NHNN

Tiếp theo đó để thắt chặt tiền tệ hơn nữa, cuối tháng 2 đầu tháng 3 năm 2008 NHNN phát

hành 20.300 tỷ VND tín phiếu bắt buộc cho hơn 40 NHTM trong hệ thống. Những ngân

hàng lớn như ACB, NHTMCP Xuất nhập khẩu (Eximbank) được yêu cầu mua từ 500 -

1.500 tỷ VND …còn đối với những ngân hàng vừa và nhỏ như AnBinhBank, NHTMCP

10 Ngân hàng Nhà nước ( 2007 – 2008)

Việt Á (VietABank)… được yêu cầu mua ít hơn từ 150 - 250 tỷ VND. Mặc dù phải mua tín

15

phiếu với giá trị ít hơn nhưng các ngân hàng vừa và nhỏ vẫn phải chịu áp lực thanh khoản

rất lớn vì yếu tố kém thanh khoản đã tồn tại trong bản thân những ngân hàng này từ trước

đó (sẽ được trình bày ở tiểu mục tiếp theo). Vì vậy các ngân hàng này phải tăng mạnh lãi

suất để hút lượng tiền gửi trên thị trường dân doanh. VietABank là một trong những ngân

hàng vừa và nhỏ mở đầu tăng lãi suất huy động lên đến 13,96% do đó đã thu hút được một

lượng tiền gửi để có thể thực hiện được chỉ tiêu 150 tỷ VND tín phiếu bắt buộc được giao 11.

Cũng trong cùng thời điểm này, lo lắng về tính mất thanh khoản của hệ thống ngân hàng, NHNN đã cung ứng ngược trở lại 33.000 tỷ VND12 thông qua thị trường mở. Tuy nhiên,

phương pháp hỗ trợ thanh khoản này chẳng những không đến được tay những đối tượng

kém thanh khoản nhất trong thị trường là những ngân hàng vừa và nhỏ, mà ngược lại còn

tăng nguồn vốn khả dụng cho những ngân hàng dẫn đầu kiếm lời trên thị trường LNH khi

mà lãi suất tái chiết khấu chỉ ở mức 6% còn lãi suất liên ngân hàng dao động từ 10% -21% tùy từng thời điểm13.

Chính sách thắt chặt tiền tệ đầu năm 2008 đã làm giảm tốc độ tăng trưởng tổng phương tiện

thanh toán của cả năm 2008 chỉ còn 20,31%, thấp hơn nhiều so với mức 46,12% của năm

2007. Đồng thời tăng trưởng huy động của hệ thống ngân hàng chỉ đạt 22,87% thấp hơn một nửa so với mức 47,64% năm 200714. Dưới tác động của chính sách thắt chặt tiền tệ,

những ngân hàng vừa và nhỏ trở thành đối tượng kém sức chịu đựng nhất và buộc những

ngân hàng này phải tăng lãi suất huy động để giải quyết thanh khoản (như đã được trình

bày rõ trong phần diễn biến cuộc đua lãi suất 2008).

Cuộc đua lãi suất 2010 cũng diễn ra trong bối cảnh kinh tế vĩ mô có nhiều nét tương đồng

với năm 2008. Lạm phát xu hướng tăng cao xuất hiện vào những tháng cuối năm đã khiến

NHNN phải kiềm chế bằng các biện pháp thắt chặt tiền tệ. Tác động của chính sách này

11 Trang thông tin Việt Báo (2008)

12 Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW (2008)

13 Ngân hàng Nhà nước (2008)

14 Ngân hàng Nhà nước (2008)

cũng là giọt nước làm tràn ly đối với những yếu kém tiềm ẩn bên trong nội tại của nhóm

16

ngân hàng vừa và nhỏ và cuộc đua lãi suất cũng bắt đầu từ hành vi nâng lãi suất huy động

nhằm giải quyết thanh khoản của nhóm ngân hàng này.

3.2 Nguyên nhân tiềm ẩn đến từ thất bại thị trường và thất bại chính sách - giám sát

của NHNN

Để chứng minh sự tồn tại của thất bại thị trường và thất bại chính sách - giám sát của

NHNN, nghiên cứu này sẽ tiến hành khảo sát 9 trên 28 NHTMCP vừa và nhỏ và 3 trên 11

NHTMCP thuộc nhóm dẫn đầu, theo thống kê theo năm 2010 (Cơ sở để phân chia nhóm

ngân hàng vừa và nhỏ được trình bày tại Phụ lục 3). Việc chọn lựa các ngân hàng khảo sát

dựa trên nguyên tắc: có nguồn thông tin minh bạch như báo cáo tài chính, báo cáo thường

niên; mang tính đại diện không mang những tính chất cá biệt (ví dụ như NHTMCP Liên

Việt (LienVietBank) và NHTMCP Tiên phong (TPBank) là những ngân hàng mới được

thành lập vào năm 2008 vì vậy một số chỉ tiêu hoạt động sẽ không phản ánh được thực

trạng của nhóm các ngân hàng vừa và nhỏ, NHTMCP Ngoại thương Việt Nam

(Vietcombank) và NHTMCP Công Thương Việt Nam (Vietinbank) là hai ngân hàng được

cổ phần hóa từ NHTMNN trong vài năm trở lại đây, vì vậy bản chất của nó sẽ không phản

ánh được thực trạng của các NHTMCP trong nhóm các ngân hàng dẫn đầu).

Bảng 3-2. Những ngân hàng vừa và nhỏ được khảo sát

STT Ngân hàng Tổng tài sản 2010 (tỷ VND)

7.400 1 NHTMCP Phát triển Mê Kông (MDB)

8.225 2 NHTMCP Gia Định (GiaDinhBank)

11.190 3 NHTMCP Đại Á (ĐaiAbank)

12.628 4 NHTMCP Kiên Long (KienLongBank)

14.508 5 NHTMCP Nam Á (NAB)

16.812 6 NHTMCP Sài Gòn Công thương (SaigonBank)

19.689 7 NHTMCP Phương Đông (OCB)

20.016 8 NHTMCP Nam Việt (NaviBank)

24.082 9 NHTMCP Việt Á (VietABank)

Nguồn: Tổng hợp từ website của các NHTM

17

Bảng 3-3. Danh sác các NHTMCP dẫn đầu được khảo sát

STT Ngân hàng Tổng tài sản 2010 (tỷ VND)

NHTMCP xuất nhập khẩu VN (Eximbank) 134.000 1

NHTMCP Kĩ thương (Techombank) 150.000 2

NHTMCP Á Châu (ACB) 205.103 3

Nguồn: Tổng hợp từ website của các NHTM

3.2.1 Thất bại thị trường

Việc tồn tại nhóm ngân hàng vừa và nhỏ vì mục đích giải quyết thanh khoản của mình đã

thường xuyên nâng lãi suất huy động từ đó làm hình thành cuộc đua lãi suất và gây ra nhiều

ngoại tác tiêu cực cho toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế như trong thời gian vừa

qua cũng là một thất bại thị trường.

Tuy nhiên, để có chính sách can thiệp hiệu quả, NHNN cần phải phân tích những đâu là

những nguyên nhân tạo nên thất bại thị trường. Trong phần nội dung tiếp theo nghiên cứu

này sẽ đề cập đến yếu tố lịch sử trong quá trình hình thành nhóm ngân hàng vừa và nhỏ và

xu hướng phát triển kém bền vững của nhóm ngân hàng này như những nhân tố chính tạo

nên thất bại thị trường.

3.2.1.1 Quá trình hình thành và đặc điểm cơ bản của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ

Trong những năm 90, hệ thống ngân hàng Việt Nam tăng nhanh về số lượng nhằm đáp ứng

nhu cầu về vốn cho thời kỳ chuyển đổi kinh tế, trong đó phần lớn là những NHTM được

hình thành với mô hình ngân hàng nông thôn (Phụ lục1 và Phụ lục 2). Giai đoạn 2005 -

2007, hầu hết những ngân hàng nông thôn này đã chuyển đổi sang mô hình ngân hàng đô

thị nhằm mở rộng phạm vi và chức năng hoạt động, với mạng lưới hoạt động còn hạn chế

và nguồn vốn ban đầu khá khiêm tốn những ngân hàng này đã hình thành nên nhóm Ngân

hàng Thương mại Cổ phần (NHTMCP) vừa và nhỏ.

Về quy mô tổng tài sản (TTS), nhóm ngân hàng vừa và nhỏ có sự chênh lệch khá lớn so với

những NHTMCP dẫn đầu. Tính đến cuối năm 2010, trong khi quy mô TTS của những ngân

hàng vừa và nhỏ chỉ dừng ở vài nghìn tỷ VND đến vài chục nghìn tỷ VND thì TTS ở những

ngân hàng dẫn đầu đã lên đến hàng trăm nghìn tỷ VND (Bảng 3.2 và Bảng 3.3).

18

Về quy mô vốn điều lệ, theo nghị định 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ yêu cầu đến hết

năm 2010 vốn pháp định của các NHTM hoạt động tại Việt Nam phải đạt mức 3.000 tỷ

VND. Tuy nhiên đến hết Quý II/2010 trong hệ thống 39 NHTMCP trong nước vẫn còn 21

NHTMCP chưa đáp ứng được yêu cầu mức VĐL tối thiểu15. Trong 21 ngân hàng này chủ

yếu là các NHTMCP nhỏ. Đến thời điểm cuối năm 2010 vẫn còn khoảng 10 ngân hàng vừa

và nhỏ không đáp ứng được quy mô VĐL tối thiểu, chính vì vậy ngày 14/12/2010 NHNN

đã chấp thuận hoãn thời gian tăng VĐL đến 31/12/2011.

Về mạng lưới hoạt động, hiện nay mạng lưới của những ngân hàng vừa và nhỏ còn khá hạn

hẹp trung bình khoảng 42 chi nhánh và phòng giao dịch, trong khi đó những ngân hàng dẫn

đầu đã có mạng lưới hoạt động trải dài khắp cả nước trung bình khoảng 155 chi nhánh và phòng giao dịch16. Chính vì vậy, về thị phần hoạt động nhóm ngân hàng vừa và nhỏ chỉ

chiếm một phần rất hạn chế. Tính đến tháng 12/2008 thị phần của nhóm ngân hàng này chỉ

khoảng trên dưới 20%.

Seabank

1% VPbank

Những ngân hàng có TTS bé hơn 10,000 tỷ 4%

Hahubank 1%

1%

10 ngân hàng có TTS từ 10,000 tỷ - 20,000 tỷ 6%

DAB 2%

MSB 2%

Agribank 22%

VIB 2%

SCB 2%

MB 2%

BIDV 14%

Eximbank 3%

ACB 7%

VCB 13%

Techcombank 3%

Vietinbank 11%

Sacombank 4%

Hình 3-1. Thị phần của NHTM Việt Nam (12/2008)

15 Công ty chứng khoán ngân hàng Đầu tư Việt Nam (2010)

16 Kết quả khảo sát của tác giả với nguồn thông tin từ các website NHTMCP

Nguồn: Moody’s (2009), Báo cáo về ngành ngân hàng Việt Nam

19

3.2.1.2 Xu hướng phát triển kém bền vững của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ

Trong khoảng 5 năm trở lại đây, với mục tiêu đạt được lợi nhuận cao, những ngân hàng

vừa và nhỏ đã mở rộng tín dụng quá mức nhưng lại ít chú trọng đến việc cải thiện hoạt

động quản trị rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản.

Sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng

Hiện nay các NHTM thường thực hiện các hoạt động kinh doanh chính như dịch vụ ngân

quỹ, dịch vụ tài chính và tư vấn tài chính, dịch vụ thanh toán, dịch vụ tài trợ thương mại

quốc tế, dịch vụ tài trợ thương mại nội địa. Mặc dù hệ thống ngân hàng trong nước đã phát

triển đa dạng các sản phẩm và dịch vụ tài chính nhưng hiện nay phần lớn các ngân hàng

vừa và nhỏ vẫn chủ yếu khai thác ở mảng hoạt động tín dụng.

Theo kết quả khảo sát, hoạt động tín dụng đóng góp một nguồn thu quan trọng trong hoạt

động của những ngân hàng vừa và nhỏ, thể hiện ở tỷ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng ở

nhóm ngân hàng này luôn ở mức cao, trung bình từ 76%% - 87% tổng thu nhập. So với tỷ

trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng ở nhóm ngân hàng dẫn đầu chỉ khoảng từ 62% - 69%

trong những năm trở lại đây thì có thể thấy thu nhập của những ngân hàng vừa và nhỏ phụ

thuộc khá nhiều vào hoạt động này.

Bảng 3-4. Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng

(2007-2009)

Chỉ tiêu Nhóm ngân hàng vừa và nhỏ Nhóm ngân hàng dẫn đầu

Năm 2007 2008 2009 2007 2008 2009

Thu nhập từ tín dụng/ 76% 77% 87% 62% 63% 69% Tổng thu nhập

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu thu thập từ báo cáo thường niên của các

NHTM

Tỷ lệ LDR cũng là một thước đo đánh giá mức độ tập trung vào hoạt động tín dụng của

một ngân hàng. Khi LDR càng cao thể hiện ngân hàng đã dùng phần lớn tài sản của mình

(trong đó chủ yếu là tiền gửi của khách hàng) để cho vay. Theo kết quả khảo sát, tỷ lệ LDR

của những ngân hàng vừa và nhỏ trung bình từ 102% -154%, trong khi đó ở nhóm ngân

20

hàng dẫn đầu tỷ lệ này chỉ từ 54% - 74% và mức trung bình của ngành chỉ dừng ở mức trên

dưới 100%.

Bảng 3-5. Tỷ lệ LDR trung bình (2007 -2009)

Chỉ tiêu Nhóm ngân hàng vừa và nhỏ Nhóm ngân hàng dẫn đầu

Năm 2007 2008 2009 2007 2008 2009

LDR 154% 102% 141% 74,1% 54,9% 63,7%

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu thu thập từ báo cáo thường niên của các

NHTM

Bảng 3-6. Tỷ lệ LDR trung bình toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam (2002- 2009)

Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009

LDR 91% 93% 99% 99% 91% 93% 95% 105%

Nguồn: Fitch’s (2009), Công ty chứng khoán Bảo Việt -BVSC (2008)

Tỷ lệ LDR cao hơn 100% ở nhóm ngân hàng vừa và nhỏ là biểu hiện của việc mở rộng

hoạt động tín dụng quá mức, ngoài nguồn vốn huy động trên thị trường dân doanh các ngân

hàng này đã sử dụng nguồn vốn huy động trên thị trường LNH để hỗ trợ cho hoạt động tín

dụng. ACB (2009) cho biết, các ngân hàng vừa và nhỏ có tổng tài sản dưới 15.000 tỷ VND

thuộc nhóm vay LNH cao nhất, hoạt động vay LNH của nhóm này trung bình chiếm tới

24% TTS và chiếm tới 38,4% dư nợ cho vay LNH.

Những ngân hàng vừa và nhỏ với đặc điểm phụ thuộc nhiều vào hoạt động tín dụng thì hoạt

động quản trị rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro thanh khoản là hai hoạt động quản trị rủi ro

quan trọng cần phải xem xét.

Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng

Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN định nghĩa rủi ro tín

dụng là khả năng xảy ra tổn thất do khách hàng vay vốn không thực hiện hoặc không có

khả năng thực hiện đúng những nghĩa vụ đã cam kết. Nghĩa vụ cam kết ở đây bao gồm cả

vốn gốc, lãi vay và thời hạn trả nợ. Cũng theo quyết định này, cơ sở để đánh giá rủi ro tín

dụng là tỷ lệ nợ xấu (NPL – Non-performing loans). NPL được tính bằng tổng các khoản

nợ quá hạn thuộc nhóm nợ 3,4 và 5 (Phụ lục 5). Theo quy định này nợ quá hạn chỉ bao gồm

phần vốn gốc hoặc lãi đến hạn nhưng chưa được thanh toán.

21

Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 sửa đổi bổ sung cho quyết định trên,

trong đó việc phân loại nhóm nợ được bổ sung như sau, tổ chức tín dụng (TCTD) phải

chuyển toàn bộ dư nợ của một khách hàng vào cùng một nhóm với nhóm nợ hiện đang có

rủi ro cao nhất; đối với cho vay hợp vốn, TCTD phải chuyển toàn bộ dư nợ của khách hàng

vào nhóm rủi ro cao nhất do tổ chức đầu mối hoặc tổ chức tham gia cho vay hợp vốn phân

loại. Với quyết định này tỷ lệ NPL phản ánh tốt hơn rủi ro tín dụng của những món vay liên

quan đến cùng một chủ thể.

Trên cơ sở quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007, tỷ lệ nợ xấu của một số ngân

hàng vừa và nhỏ được thống kê như sau.

Bảng 3-7. Dư nợ xấu của một số ngân hàng vừa và nhỏ (2007 -2009)

Ngân hàng 2007 2008 2009

Ngân hàng Đông Á (EAB) 1,63% 2,50% 1,33%

Ngân hàng An Bình (ABBank) 2,70% 4,16% 2,03%

Ngân hàng Kiên Long (KienLongBank) 1,27% 1,66% 1,20%

Ngân hàng Việt Á (VietABank) 1,21% 1,8% 1,9%

Ngân hàng Sài Gòn Công thương (SaiGonBank) 2,07% 3,07% 2,12%

Ngân hàng Gia Định (GiaDinhBank) 1,66% 1,24% 2,92%

Ngân hàng Nam Việt (NaVibank) - 2,91% 2,45%

Ngân hàng Nam Á (NAB) 1,64% 2,56% 1,71%

Nguồn: Tổng hợp từ website các NHTM

Trong khi một số ngân hàng dẫn đầu như ACB, Sacombank… vẫn có thể duy trì tỷ lệ nợ

xấu thấp hơn 1% trong nhiều năm liền thì những ngân hàng vừa và nhỏ có tỷ lệ nợ xấu ở

mức khá cao, từ 2%-4%, một số ngân hàng còn có tỷ lệ nợ xấu gần với mức 5% cảnh báo

rủi ro theo thông lệ quốc tế. Điều đó cho thấy hoạt động quản trị rủi ro tín dụng chưa đáp

ứng kịp so với mức độ phụ thuộc cao vào hoạt động tín dụng của nhóm ngân hàng này.

Qua quá trình khảo sát thực tế, hoạt động quản trị rủi ro tín dụng ở những ngân hàng vừa và

nhỏ hiện đang gặp phải một số vấn đề bất cập. Thứ nhất, so với mức trung bình ngành thì

22

cơ cấu dư nợ tín dụng tập trung nhiều vào lĩnh vực phi sản xuất như chứng khoán và bất

động sản, được thể hiện theo bảng sau đây.

Bảng 3-8. Dư nợ phi sản xuất (2010)

Ngân hàng Tỷ lệ dư nợ phi sản xuất

Westernbank 52,2%

SHB 47%

Navibank 41%

NAB 37%

OCB 27%

VietBank 26%

Trung bình ngành 20%

Nguồn: Thông tin từ đại hội cổ đông các NHTMCP và Trang thông tin cafef.com.vn

Thứ hai, đặt nặng vấn đề tài sản đảm bảo hơn là xem xét khả năng trả nợ, mục đích vay

vốn…và những rủi ro liên quan đến khoản vay. Thứ ba, chưa tách biệt giữa bộ phận tiếp

xúc khách hàng và bộ phận thẩm định đề xuất cho vay, điều này dẫn đến nảy sinh rủi ro

đạo đức đối với cán bộ thực hiện hồ sơ vay vốn. Ngoài ra, quá trình giám sát sau cho vay

còn chưa được thực hiện chặt chẽ, dẫn đến việc không phát hiện kịp thời những rủi ro phát

sinh của khoản vay.

Trong khi hoạt động quản trị rủi ro tín dụng còn nhiều hạn chế thì các ngân hàng vừa và

nhỏ lại không ngừng mở rộng tín dụng trong những năm vừa qua. Điều đó cho thấy những

ngân hàng này phải chấp nhận rủi ro nhiều hơn để cạnh tranh với những NHTM khác. Vì

vậy việc phải đối mặt với dư nợ xấu tăng ở những năm sau đó là điều tất yếu.

Dư nợ xấu tăng không những ảnh hưởng đến dòng tiền dự kiến của ngân hàng mà việc trích

lập dự phòng cao cũng ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn vốn khả dụng. Đây chính là một

phần nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến thanh khoản của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ.

23

Hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản

Theo báo cáo phân tích ngành ngân hàng Việt Nam năm 2008 của ACB tháng 6/2009, các

ngân hàng vừa và nhỏ luôn đứng đầu trong danh sách những ngân hàng có tỷ lệ vay LNH

trên TTS cao nhất đồng thời tỷ lệ gửi LNH trên vay LNH thường thấp, điều đó chứng tỏ

nhóm ngân hàng này phụ thuộc cao vào nguồn vốn từ thị trường LNH. Nếu trong năm

2008 đỉnh điểm lãi suất huy động trên thị trường khoảng 20% thì đã có lúc một số ngân hàng vừa và nhỏ phải chấp nhận lãi suất LNH lên đến 40%17, đây chính là biểu hiện rõ

ràng cho việc tồn tại bất cập trong hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản của nhóm ngân

hàng này. 5 trong số 9 ngân hàng vừa và nhỏ được khảo sát có hoạt động LNH được thể

hiện theo bảng sau.

Bảng 3-9. Hoạt động LNH của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ (2008)

Ngân hàng Gửi LNH/ Vay LNH (Lần) Vay LNH/ TTS (%)

GiaDinhBank 49,13 0,84

DaiABank 3,31 2,53

KienLongBank 4,65 2,26

NAB 17,99 0,58

OCB 14,19 0,18

Nguồn: ACB (2009), Báo cáo phân tích ngành ngân hàng Việt Nam 2008

Trong khi đó nhóm ngân hàng dẫn đầu tỷ lệ vay LNH/ TTS thấp và số vốn gửi LNH cao

hơn nhiều so với số vốn vay LNH, điều đó chứng tỏ những ngân hàng lớn là nhóm ngân

17 Thông tin tham khảo từ phòng nguồn vốn NHTMCP Nam Á và NHTMCP Việt Á

hàng chuyên cung cấp vốn trên thị trường LNH.

24

Bảng 3-10. Hoạt động LNH của một số ngân hàng dẫn đầu (2008)

Ngân hàng Vay LNH/ TTS (%) Gửi LNH/Vay LNH

2,64 ACB 9,4

14,23 Techcombank 1,49

6,06 Eximbank 3,21

Nguồn: ACB (2009), Báo cáo phân tích ngành ngân hàng Việt Nam 2008

Mặt khác, phân tích ở khía cạnh cơ cấu tài sản, kết quả khảo sát cho thấy nhóm ngân hàng

dẫn đầu duy trì được tỷ lệ LDR khá thấp, vì vậy nhóm ngân hàng này có thể sử dụng một

phần tiền huy động để đầu tư vào những tài sản có tính thanh khoản cao như trái phiếu

chính phủ, trong trường hợp thiếu thanh khoản các ngân hàng này vẫn có thể nhanh chóng

chuyển các trái phiếu này thành tiền mặt thông qua hoạt động thị trường mở. Và thực tế là

hiện nay hoạt động thị trường mở vẫn là sân chơi riêng của những ngân hàng thương mại

dẫn đầu.

Bảng 3-11. Tỷ lệ LDR ở một số ngân hàng dẫn đầu (2007 -2009)

Ngân hàng 2007 2008 2009

ACB 57,50% 54,24% 71,71%

Techcombank 84,20% 65,40% 67,38%

Eximbank 80,52% 45,19% 119,33%

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu thu thập từ báo cáo thường niên của các

NHTM

Ngược lại, đối với những ngân hàng vừa và nhỏ đã duy trì tỷ lệ LDR rất cao, thậm chí một

vài ngân hàng duy trì tỷ lệ này cao hơn 200%, điều này thể hiện phần lớn tài sản của nhóm

ngân hàng vừa và nhỏ này là những khoản cho vay. Đây là tài sản rất khó để chuyển thành

tiền mặt khi có nhu cầu. Chính nguyên nhân này dẫn đến tính kém chủ động về nguồn tài

chính hỗ trợ thanh khoản của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ.

25

Bảng 3-12. Tỷ lệ LDR ở một số ngân hàng vừa và nhỏ (2007 -2009)

2007 2008 2009 Ngân hàng

251% 209% 199% GiaDinhBank

144% 102% 89% DaiABank

88% 119% 78% KienLongBank

96% 109% 111% NAB

114% 111% 115% SaigonBank

130% 126% 126% OCB

125% 89% 110% VietABank

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên số liệu thu thập từ website các NHTM

Qua những phân tích trên cho thấy, việc các ngân hàng vừa và nhỏ phụ thuộc nhiều vào

hoạt động tín dụng nhưng không đi kèm với việc nâng cao hoạt động quản trị rủi ro, đặc

biệt đối với rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản, điều này dẫn đến tình trạng dư nợ xấu

tăng cao và nguồn vốn mất cân đối. Đây chính là những nguyên nhân làm cho các ngân

hàng này thường xuyên phải đối mặt với tình trạng kém thanh khoản trong nhiều năm sau

đó

Tóm lại, thất bại thị trường nhìn từ những ngân hàng vừa và nhỏ bao gồm yếu tố lịch sử

trong quá trình hình thành nhóm ngân hàng vừa và nhỏ và xu hướng phát triển kém bền

vững từ chính bản thân những ngân hàng này. Chính những yếu tố này đã làm nhóm ngân

hàng này sau nhiều năm hoạt động nay đã phải đối mặt với những khó khăn sâu sắc vì

không tạo được một vị trí thực sự vững chắc trên thị trường. Có thể tóm tắt những nguyên

nhân dẫn thất bại thị trường trong bảng sau đây.

26

Quá trình hình thành và một số đặc điểm có bản của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ

Xuất thân từ những ngân hàng nông thôn với quy mô vốn nhỏ bé

Quy mô VĐL và TTS còn hạn chế

Phạm vi hoạt động nhỏ hẹp

Chiếm một thị phần nhỏ trong ngành

Xu hướng phát triển kém bền vững

Phụ thuộc cao vào hoạt động tín dụng

Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng cao

Tỷ lệ LDR cao

Quản trị rủi ro tín dụng còn hạn chế

+ Tỷ lệ nợ xấu cao

+ Tập trung dư nợ vào lĩnh vực phi sản xuất

Quản trị rủi ro thanh khoản còn hạn chế

+ Phụ thuộc vào thị trường LNH

+ Kém chủ động khả năng thanh toán

3.2.2 Thất bại về mặt chính sách và giám sát của NHNN

3.2.2.1 Tổng quan về giám sát ngân hàng

Theo quy định pháp luật, hoạt động giám sát ngân hàng hiện nay được thực hiện bởi ba cơ

quan chính: NHNN, Ủy ban giám sát tài chính quốc gia và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.

Tuy nhiên theo Luật NHNN số 46/2010/QH12 ngày 29/06/2010 và Luật NHNN trước đó

thì NHNN vẫn là cơ quan chịu trách nhiệm chủ đạo đối với hoạt động giám sát ngân hàng.

Theo quyết định số 83/2009/QĐ-TTg ngày 27/5/2009, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập

Cơ quan thanh tra, giám sát (CQTTGS) ngân hàng. Văn bản này nêu rõ “CQTTGS ngân

hàng là cơ quan trực thuộc NHNN Việt Nam thực hiện chức năng thanh tra hành chính,

thanh tra chuyên ngành và giám sát chuyên ngành về ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc

phạm vi quản lý nhà nước của NHNN; tham mưu, giúp Thống đốc NHNN quản lý nhà

27

nước đối với các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính quy mô nhỏ, hoạt động ngân hàng của

các tổ chức khác; thực hiện phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật”.

Cũng theo quyết định số 83/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, chức năng nhiệm vụ

của CQTTGS trong hoạt động giám sát ngân hàng như sau.

Hình 3-2. Sơ đồ chức năng nhiệm vụ giám sát của CQTTGS

Nguồn: Thủ tướng (2009), Quyết định 83/2009/QĐ-TTg

Theo sơ đồ chức năng này thì giám sát ngân hàng bao gồm quá trình xây dựng khung chính

sách cho hoạt động giám sát (1) đây có thể xem là quá trình tạo ra luật chơi chung cho toàn

thị trường và quá trình thực thi giám sát nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng thực hiện luật

chơi đã được đưa ra ngay từ ban đầu (2), (3) và (4).

Theo khung pháp lý, hoạt động giám sát hiện đang được định hướng vào hai mục tiêu

chính, đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng, đảm bảo hệ thống ngân hàng là một

kênh cung cấp vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Hai mục tiêu này được thực hiện thông qua

hai nội dung giám sát hành vi và giám sát sức khỏe.

Giám sát hành vi còn được gọi là giám sát tuân thủ là việc tập trung phát hiện những hành

vi vi phạm của ngân hàng, nhằm đảm bảo tính tuân thủ pháp luật và duy trì một sân chơi

công bằng và minh bạch tất cả các NHTM.

28

Giám sát sức khỏe còn được gọi là giám sát theo rủi ro tập trung phát hiện phòng ngừa và

ngăn chặn những rủi ro liên quan đến mỗi NHTM nói riêng và của cả hệ thống nói chung,

nhằm đảm bảo sự lành mạnh và phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng.

Để thực hiện được hai nội dung giám sát trên CQTTGS ngân hàng sử dụng phương thức

giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ.

Giám sát từ xa là công tác giám sát dựa trên hoạt động thu thập thông tin từ xa. Thông

thường một tháng/lần các NHTM phải cung cấp những thông tin căn bản như bảng cân đối

kế toán, báo cáo thống kê…cho NHNN thông qua Cục quản lý tin học Ngân hàng hoặc chi

nhánh NHNN tỉnh thành phố. Với những số liệu này, Cục quản lý tin học đưa ra các chỉ số

tổng hợp để CQTTGS phân tích và đưa ra những nhận định căn bản nhằm cảnh báo sớm rủi

ro đối với những đối tượng được giám sát. Bên cạnh đó, hoạt động giám sát từ xa còn là cơ

sở để hoạt động thanh tra tại chỗ định hướng tập trung nguồn lực giám sát đối với những

đối tượng rủi ro cao (Phụ lục 6).

Khác với hoạt động giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ là phương thức giám sát dựa trên việc

tiếp cận trực tiếp với các hồ sơ, tài liệu, chứng từ gốc liên quan đến nội dung cần thanh tra.

Thông qua đó có thể phát hiện những vi phạm sai sót trong việc tuân thủ pháp luật, đánh

giá được mức độ chính xác của những thông tin do NHTM báo cáo và xem xét tính hợp lý

trong quá trình áp dụng các quy trình quy định do NHNN ban hành để từ đó có những điều

chỉnh, sửa đổi phù hợp (Phụ lục 7).

3.2.2.2 Thất bại về mặt chính sách và giám sát của NHNN

Sự tồn tại một nhóm ngân hàng vừa và nhỏ tiềm ẩn nhiều khả năng gây ra ngoại tác tiêu

cực không chỉ là biểu hiện của thất bại thị trường mà còn là biểu hiện sự thất bại nhà nước

mà cụ thể là thất bại của NHNN trong định hướng chính sách giám sát và hoạt động giám

sát hệ thống ngân hàng, sau đây là những phân tích cụ thể.

Thất bại về mặt định hướng chính sách giám sát

Hệ thống NHTMCP Việt Nam phân cấp rất rõ ràng thành 2 nhóm. Nhóm thứ nhất là các

ngân hàng dẫn đầu bao gồm những ngân hàng có quy mô vốn lớn, hiệu quả hoạt động kinh

doanh khá ổn định, những ngân hàng này thường được hỗ trợ từ những tổ chức tài chính

quốc tế giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng, ví dụ như ACB có đối tác chiến lược là

ngân hàng Standard Chartered Bank, Techcombank có đối tác chiến lược là Ngân hàng

Hồng Kông Thượng Hải và Sacombank có đối tác chiến lược là ngân hàng Australia and

29

New Zealand Bank…. Nhóm thứ hai là những ngân hàng có quy mô vừa và nhỏ được

chuyển đổi từ mô hình nông thôn, năng lực quản trị còn nhiều hạn chế và thường xuyên

gặp vấn đề về thanh khoản, các ngân hàng này thường có đối tác chiến lược là một số

NHTMCP dẫn đầu và một số tập đoàn kinh tế quốc gia, ví dụ như Oceanbank có đối tác

chiến lược là Tập đoàn dầu khí Việt Nam, NHTMCP Xăng dầu (PGBank) có đối tác chiến

lược là Tổng công ty xăng dầu Việt Nam, DaiABank có đối tác chiến lược là ACB,

LienVietBank có đối tác chiến lược là Agribank, GiaDinhBank có đối tác chiến lược là

Vietcombank…

Với đặc điểm phân cấp rõ ràng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam và trong phạm vi nguồn

lực giới hạn của NHNN thì NHNN nên xác định phân khúc ngân hàng nào có khả năng gây

nhiều rủi ro đối với thị trường để giám sát chặt chẽ hơn. Tuy nhiên cho tới thời điểm hiện

nay NHNN vẫn tiếp tục thực hiện giám sát đồng bộ cho mọi phân khúc ngân hàng. Chính

vì vậy, đối với nhóm ngân hàng vừa và nhỏ vốn tồn tại nhiều yếu kém đã không được chú

tâm giám sát đúng mức và thiếu sự định hướng phát triển ngay từ ban đầu từ phía NHNN.

Chính điều này đã tạo điều kiện cho nhóm ngân hàng vừa và nhỏ hoạt động với xu hướng

chấp nhận nhiều rủi ro, lơ là trong công tác quản trị rủi ro, về lâu dài không chỉ ảnh hưởng

sâu sắc đến tính thanh khoản của những ngân hàng này mà còn trở thành một phần nguyên

nhân chính tạo nên động cơ để các ngân hàng vừa và nhỏ chạy đua lãi suất trong thời gian

vừa qua.

Theo Frederic S.Mishkin (2001), hệ thống ngân hàng của nước Mỹ được chia ra làm 5

nhóm cơ bản dựa trên mức độ đủ vốn (Bảng 3.14) để từ đó cơ quan giám sát có sự quan

tâm khác nhau đối với từng nhóm ngân hàng, đặc biệt trong điều kiện phải xử lý các tình

huống khẩn cấp về thanh khoản hay hoảng loạn trong hệ thống ngân hàng. Đối với những

ngân hàng thuộc nhóm 1 là nhóm vượt yêu cầu về vốn tối thiểu sẽ ít chịu sự giám sát và

được quyền tham gia một số lĩnh vực kinh doanh nhiều rủi ro. Đối với những ngân hàng

thuộc nhóm 2 là nhóm đủ vốn theo yêu cầu vốn tối thiểu mặc dù không được phép tham gia

những lĩnh vực kinh doanh nhiều rủi ro nhưng cũng ít chịu sự giám sát từ phía các cơ quan

giám sát. Riêng đối với những ngân hàng thuộc nhóm 3, 4 và 5 là những ngân hàng chưa

đáp ứng được yêu cầu về vốn tối thiểu sẽ chịu sự giám sát đặc biệt thông qua một số quy

định như giới hạn tăng trưởng tổng tài sản, yêu cầu bầu cử Hội đồng quản trị mới, hạn chế

nhận tiền gửi từ ngân hàng đại lý, hạn chế nhận phân phối vốn từ ngân hàng mẹ, hạn chế

30

hoạt động ở một số mảng cụ thể hoặc chấm dứt hoạt động của những công ty con có khả

năng gây ra rủi ro cao cho thị trường ….Với bối cảnh hệ thống ngân hàng Việt Nam phân

khúc ra hai nhóm ngân hàng có những đặc điểm khác biệt, việc chia nhóm và áp dụng

những quy định khác nhau cho mỗi nhóm ngân hàng thực sự là một phương pháp giám sát

cần được học hỏi.

Bảng 3-13. Phân loại ngân hàng ở Mỹ

Nhóm Quy mô về vốn

Nhóm 1 Vượt đáng kể so với mức yêu cầu vốn tối thiểu.

Nhóm 2 Đủ so với mức yêu cầu vốn tối thiểu

Nhóm 3 Thiếu so với mức yêu cầu vốn tối thiểu

Nhóm 4 Thiếu đáng kể so với mức yêu cầu vốn tối thiểu

Nhóm 5 Thiếu nghiêm trọng so với mức yêu cầu vốn tối thiểu

Nguồn: Theo Frederic S.Mishkin (2001), Chính sách tài chính và phòng chống khủng

hoảng tài chính tại các nước mới nổi.

Thất bại về hoạt động giám sát

Trong những năm gần đây, NHNN đã thực hiện thắt chặt một số chỉ tiêu an toàn hoạt động

như hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR); giới hạn cho vay trên tổng huy động tiền gửi

(LDR); giới hạn cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất... Việc thắt chặt các chỉ tiêu an toàn

hoạt động này là hoàn toàn phù hợp với định hướng phát triển bền vững của hệ thống ngân

hàng Việt Nam, tuy nhiên việc một số chỉ tiêu an toàn hoạt động đã bị thắt chặt một cách

đột ngột đã gây khó khăn cho những ngân hàng vừa và nhỏ.

Đầu tiên phải nói tỷ lệ LDR tối đa 80% được quy định theo Thông tư 13/2010/TT-NHNN

ngày 20/05/2010 của NHNN thật sự là một yêu cầu an toàn vượt quá khả năng đáp ứng

của những ngân hàng vừa và nhỏ.

Trong khi những ngân hàng lớn luôn duy trì tỷ lệ LDR xung quanh mức 80% trong nhiều

năm qua (Bảng 3.11) thì phần lớn những ngân hàng nhỏ duy trì tỷ lệ này ở mức trên 100%,

đặc biệt một vài NHTM duy trì tỷ lệ này cao hơn 200% (Bảng 3.12).

Sở dĩ những ngân hàng vừa và nhỏ có thể duy trì tỉ lệ LDR cao như vậy là vì trước khi ban

thành Thông tư 13 NHNN chưa có quy định cụ thể nào về hệ số này. Sau khi ban hành

31

Thông tư 13 NHNN đột ngột yêu cầu các NHTM phải duy trì tỷ lệ này ở mức dưới 80% và

thời điểm hiệu lực sau 4 tháng công bố. Điều này đã thể hiện NHNN kém nhất quán trong

chính sách giám sát thông qua các chỉ tiêu an toàn hoạt động. Theo kinh nghiệm của một số

quốc gia trên thế giới, họ luôn có lộ trình dài hơn cho việc giảm tỷ lệ LDR của hệ thống

ngân hàng. Ví dụ như Hàn Quốc có lộ trình 4 năm cho việc giảm tỷ lệ LDR từ 110% từ đầu

năm 2010 xuống dưới 100% vào năm 2014, Nepal có lộ trình 3 năm cho việc giảm LDR

trong đó yêu cầu hạ tỷ lệ LDR từ 95% năm 2009 xuống 85% cuối năm 2010 và 80% cuối năm 201118.

LDR được tính bằng tổng các khoản cho vay chia cho tổng tiền gửi. Để đưa LDR về mức

80%, các ngân hàng vừa và nhỏ có thể giảm dư nợ tín dụng hoặc tăng số dư tiền gửi. Như

đã phân tích ở trên, các ngân hàng vừa và nhỏ đã đầu tư quá mức vào hoạt động tín dụng vì

vậy việc điều chỉnh giảm dư nợ tín dụng trong một khoảng thời gian ngắn là khó khả thi.

Trong tình huống này, để đáp ứng quy định LDR của NHNN, xu hướng một số ngân hàng

vừa và nhỏ phải tăng lãi suất thu hút nguồn tiền gửi nhằm tăng mẫu số của LDR đồng thời

giảm tỷ lệ này xuống.

Sự thắt chặt đột ngột những chỉ tiêu an toàn hoạt động của NHNN còn thể hiện ở quy định

giới hạn cho vay trong lĩnh vực phi sản xuất.

Tháng 4/2006 thị trường chứng khoán bắt đầu khởi sắc ở mức 500 điểm, đến tháng 3/2007

thị trường chứng khoán đạt mốc đỉnh điểm với 1.170 điểm. Với làn sóng đầu tư ồ ạt vào thị

trường này các NHTM đã tích cực cho vay cầm cố và mua bán kì hạn chứng khoán.

Cuối năm 2007, khi cơn sốt chứng khoán hạ nhiệt thì bong bóng bất động sản lại xuất hiện.

Cũng như cơn sốt chứng khoán 2007, các NHTM cũng đóng góp quan trọng đối với sự sôi

động quá mức của thị trường này. Nếu cuối năm 2007 dư nợ cho vay bất động sản chiếm

khoảng 10% so với tổng dư nợ toàn ngành thì đến tháng 4/2008 tỷ lệ này đã lên 13% tương đương 135.000 tỷ VND19. Trong đó nhóm ngân hàng vừa và nhỏ đã tài trợ cho lĩnh vực

18 Nhật Trung (2010)

19 Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2008)

20 AnBinhBank và NaViBank (2008)

kinh doanh bất động sản ở mức khá cao, ví dụ như dư nợ cho vay bất động sản của ABBank chiếm đến 60% và của Navibank chiếm đến 49% tổng dư nợ tín dụng20.

32

Trong thời gian gần đây, NHNN bắt đầu quan tâm nhiều hơn đối với việc giới hạn cho vay

lĩnh vực phi sản xuất. Tháng 5 năm 2010, NHNN ban hành thông tư số 13/2010/TT-NHNN

quy định hệ số rủi ro đối với những món vay kinh doanh bất động sản và chứng khoán là 250%. Theo hiệp ước Basel II21, hệ số rủi ro 250% cao hơn rất nhiều so với thang đo hệ số

rủi ro từ 0 -150% được quy định trong hiệp ước này. Không lâu sau đó ngày 01/03/2011

NHNN ra chỉ thị 01/CT-NHNN yêu cầu các NHTM giảm dư nợ cho vay đối với lĩnh vực

phi sản xuất trong đó đặc biệt là chứng khoán và bất động sản, tối đa là 22% vào giữa năm

và 16% vào cuối năm 2011.

Tuy nhiên tính đến cuối năm 2010, ít nhất 24 ngân hàng có tỷ lệ dư nợ phi sản xuất trên

26% trong đó chủ yếu là những ngân hàng vừa và nhỏ như Westernbank chiếm khoảng

52,2%, NHTMCP Sài Gòn Hà Nội (SHB) chiếm khoảng 47%, Navibank chiếm khoảng 41%22....Như vậy, việc giảm dư nợ phi sản xuất xuống dưới 22% vào giữa năm và 16% vào

cuối năm 2011 thực sự là một sức ép rất lớn đối với những ngân hàng vừa và nhỏ. Điều này

dễ dàng làm nảy sinh tâm lý đối phó, có thể những ngân hàng này sẽ tăng tổng dư nợ tín

dụng để giảm tỷ lệ cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất. Trong bối cảnh LDR của nhóm

ngân hàng vừa và nhỏ đã rất cao, việc tăng tín dụng bắt buộc phải đi đôi với tăng cường

huy động vốn.

Như vậy, việc NHNN ban hành chính sách thắt chặt một số chỉ tiêu an toàn hoạt động như

tỷ lệ cho vay trên tổng huy động hay giới hạn cho vay vào lĩnh vực phi sản xuất với biên độ

lớn và yêu cầu các NHTM thực hiện trong một thời gian ngắn đã gây khó khăn đối với

những ngân hàng vừa và nhỏ vốn năng lực nội tại còn nhiều yếu kém. Đây có thể là một

phần nguyên nhân dẫn đến động cơ lách luật đua lãi suất của những ngân hàng này. Thất

21 Hiệp ước vốn Basel II ra đời năm 2003 và có hiệu lực năm 2007

22 Trang thông tin tài chính Vietstock (2011)

bại về chính sách - giám sát của NHNN có thể tóm tắt theo bảng sau đây.

33

Thất bại về chính sách

Ngay từ ban đầu NHNN đã thiếu định hướng phát triển bền vững cho những ngân hàng vừa

và nhỏ.

Chính sách giám sát chung mang tính “cào bằng” không phù hợp với thực tế phân hóa rất

rõ ràng giữa những ngân hàng lớn và những ngân hàng vừa và nhỏ trong hệ thống

NHTMCP .

Thất bại về giám sát

Tính thiếu đồng bộ trong quá trình ban hành những chỉ tiêu an toàn hoạt động.

+ Thứ nhất, việc NHNN yêu cầu giảm tỷ lệ LDR xuống 80% là khá đột ngột

+ Thứ hai, việc NHNN điều chỉnh giảm tỷ lệ cho vay phi sản xuất chưa gắn liền với năng

lực đáp ứng của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ

34

CHƯƠNG 4 GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH

Dựa trên những phân tích về thất bại thị trường và thất bại chính sách – giám sát của

NHNN liên quan đến cuộc đua lãi suất đã được trình bày ở chương 3, tiếp theo những phân

tích này chương 4 sẽ đưa ra một số kiến nghị chính sách nhằm khắc phục tình trạng chạy

đua lãi suất hiện nay. Những kiến nghị chính sách được đưa ra bao gồm những giải pháp

trọng tâm nhằm sửa chữa thất bại thị trường và thất bại chính sách - giám sát đã được trình

bày ở trên. Ngoài ra, nghiên cứu này còn đề xuất một số giải pháp bổ sung đóng vai trò hỗ

trợ những giải pháp trọng tâm đạt được hiệu quả cao.

4.1 Giải pháp trọng tâm

4.1.1 Sửa chữa thất bại thị trường

Như đã phân tích tại Chương 3, thất bại thị trường đến từ yếu tố lịch sử trong quá trình hình

thành nhóm ngân hàng vừa và nhỏ và yếu tố chiến lược phát triển kém bền vững từ chính

bản thân những ngân hàng này. Đối với những yếu tố lịch sử, chúng ta cần phải chấp nhận

nó như một hạn chế trong quá trình hình thành và phát triển hệ thống ngân hàng. Tuy

nhiên, đối với yếu tố chiến lược phát triển của bản thân những ngân hàng vừa và nhỏ,

NHNN nên can thiệp với vai trò định hướng cho những ngân hàng vừa và nhỏ phát triển

bền vững thông qua nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị rủi ro.

Thứ nhất là nâng cao năng lực tài chính. Trong bối cảnh thị trường tài chính Việt Nam

đang ngày càng mở cửa, với sự gia nhập của nhiều tổ chức tài chính quốc tế thì mức độ

cạnh tranh của lĩnh vực ngân hàng ngày càng gay gắt. Vì vậy việc nâng cao năng lực tài

chính của hệ thống ngân hàng Việt Nam mà cụ thể là nâng quy mô về VĐL là hoàn toàn

cần thiết. Hiện nay NHNN đã kéo dài lộ trình đáp ứng mức VĐL tối thiểu 3.000 tỷ từ cuối

năm 2010 sang cuối năm 2011. Việc gia hạn này cần phải được thực hiện nghiêm túc nhằm

đưa quy mô tài chính của nhóm những ngân hàng vừa và nhỏ phù hợp với quy mô hoạt

động cần thiết của mô hình ngân hàng đô thị, bên cạnh đó nâng cao năng lực về vốn là cơ

sở để những ngân hàng vừa và nhỏ đầu tư phát triển những mặt còn khiếm khuyết như quản

trị, công nghệ, thương hiệu, mạng lưới hoạt động...

Tuy nhiên, thị trường chứng khoán được xem là một kênh huy động vốn chính của các

ngân hàng hiện nay vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi nên việc đạt được mức vốn điều lệ

3.000 tỷ vào cuối năm 2011 vẫn còn là mục tiêu rất xa vời đối với một số ngân hàng. Vì

35

vậy NHNN cần có cơ chế xử lý phù hợp đối với những ngân hàng quá yếu kém không thể

đạt được quy định này. Ngoài ra, NHNN hỗ trợ thúc đẩy hoạt động mua bán sát nhập

ngành ngân hàng có thể diễn ra hiệu quả hơn, từ đó giảm bớt áp lực tăng VĐL đối với một

số ngân hàng không đủ năng lực cũng như tạo cơ hội cho hệ thống ngân hàng Việt Nam

sàng lọc lại và loại bỏ những ngân hàng yếu kém ra khỏi thị trường.

Thứ hai là nâng cao năng lực quản trị rủi ro. NHNN cần phải tập trung giám sát chặt

chẽ một số chỉ tiêu an toàn hoạt động nhằm định hướng cho những ngân hàng vừa và nhỏ

quan tâm nhiều hơn nữa vào hoạt động quản trị rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản vốn

đang tồn tại nhiều yếu kém. Sau đây là một số chỉ tiêu an toàn hoạt động cần được chú ý

giám sát.

Việc đưa ra quy định về tỷ lệ LDR tối đa là hoàn toàn cần thiết nhằm hạn chế xu hướng quá

tập trung vào hoạt động tín dụng và kém đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của hệ thống

ngân hàng Việt Nam. Đặc biệt đối với những ngân hàng vừa và nhỏ hiện đang duy trì tỷ lệ

LDR rất cao, việc quy định một tỷ lệ LDR tối đa sẽ buộc những ngân hàng này phải giảm

dư nợ, sàng lọc rủi ro đối với những món vay hiện tại và chọn lựa kĩ càng hơn trong quá

trình xét cấp tín dụng. Tuy nhiên việc giảm tỷ lệ LDR cần có một lộ trình phù hợp đối với

nhóm ngân hàng vừa và nhỏ, tránh việc vì phải thực hiện gấp gáp làm nảy sinh hành vi đối

phó tiêu cực từ nhóm ngân hàng này.

Đối với tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực phi sản xuất. Thực tế đã cho thấy, những lĩnh vực phi sản

xuất như kinh doanh chứng khoán, kinh doanh vàng và kinh doanh bất động sản thường

hay xuất hiện yếu tố đầu cơ, bong bóng tài sản. Vì vậy, việc hỗ trợ tín dụng cho những lĩnh

vực này thường có rủi ro rất cao. Cơn sốt chứng khoán 2006-2007, bong bóng thị trường

bất động sản 2007 -2008 và những khó khăn đối với hệ thống NHTM trong giai đoạn này

đã chứng minh điều đó. Do đó, việc NHNN giới hạn tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực phi sản xuất

là hoàn toàn cần thiết nhằm định hướng cho dòng tín dụng của những ngân hàng vào những

kênh hoạt động sản xuất kinh doanh, hỗ trợ phát triển kinh tế. Tuy nhiên trong thời gian

qua những ngân hàng vừa và nhỏ vì mục đích lợi nhuận cao đã tập trung nhiều tín dụng vào

những lĩnh vực này, hiện dư nợ phi sản xuất ở những ngân hàng này còn rất cao. Vì vậy,

bên cạnh việc điều chỉnh giảm tỷ lệ LDR, việc giới hạn tỷ lệ tín dụng phi sản xuất cần được

thực hiện với lộ trình phù hợp với khả năng đáp ứng của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ.

36

Ngoài ra, để tăng cường khả năng thanh khoản của nhóm ngân hàng vừa và nhỏ, NHNN

cần đặc biệt chú trọng giám sát chặt chẽ hơn nữa các chỉ tiêu an toàn về thanh khoản như tỷ

lệ khả năng chi trả, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn dùng để cho vay trung và dài hạn…Những tỷ

lệ này mặc dù đã được những ngân hàng vừa và nhỏ đáp ứng khá tốt trong những báo cáo

gửi lên NHNN. Tuy nhiên, với thực trạng chạy đua lãi suất vừa qua phần nào cho thấy hoạt

động quản trị rủi ro thanh khoản của những ngân hàng này vẫn còn nhiều bất cập.

4.1.2 Sửa chữa thất bại chính sách và giám sát của NHNN

NHNN cần phân loại ngân hàng và có biện pháp giám sát phù hợp đối với từng nhóm ngân

hàng cụ thể. Đặc biệt đối với nhóm ngân hàng vừa và nhỏ cần có sự giám sát chặt chẽ về

chức năng hoạt động. Hiện nay, những ngân hàng vừa và nhỏ mặc dù còn nhỏ bé về quy

mô và yếu kém về quản trị những ngân hàng này đã không ngừng mở rộng chức năng hoạt

động của mình sang những ngành nhạy cảm như mở công ty con là công ty chứng khoán,

mở rộng hoạt động ủy thác đầu tư mà đây thực chất là một biện pháp che đậy dư nợ cho

vay đối với một số doanh nghiệp, không ngừng mở rộng chi nhánh trên khắp các tỉnh thành

phố trong khi chất lượng dịch vụ vẫn chưa được nâng cao…Chính vì vậy việc giám sát các

ngân hàng vừa và nhỏ cần phải tập trung ở việc hạn chế chức năng hoạt động phù hợp với

quy mô về vốn của nó. Đồng thời, NHNN cần tăng cường công tác giám sát từ xa nhằm

nhanh chóng xác định những ngân hàng nào có rủi ro tiềm ẩn từ đó tiến hành thanh tra tại

chỗ nhằm kiểm tra tình hình hoạt động đối ngân hàng này và có biện pháp xử lý phù hợp.

Thị trường tài chính Việt Nam đang ngày càng mở cửa đồng nghĩa với việc những rủi ro

mà thị trường tài chính Việt Nam phải đối mặt ngày càng tăng cao, vì vậy việc nâng cao

các tiêu chuẩn an toàn hoạt động đối với hệ thống ngân hàng là hoàn toàn phù hợp với nhu

cầu thực tế. Tuy nhiên, những phân tích trên đã chứng minh rằng việc thiếu đồng bộ trong

quá trình ban hành những chỉ tiêu an toàn hoạt động ngay từ ban đầu của NHNN đã phần

nào đã gây khó khăn đối với nhóm ngân hàng vừa và nhỏ. Để giải quyết tình trạng này,

nghiên cứu đề xuất là cần phải có một lộ trình hợp lý đối với định hướng thắt chặt các tiêu

chuẩn an toàn hoạt động của NHNN. Thứ nhất, NHNN nên giãn thời gian đáp ứng quy

định LDR không quá 80% đối với các ngân hàng vừa và nhỏ. Thứ hai, NHNN cần tách

riêng tỷ trọng dư nợ tối đa và lộ trình đáp ứng phù hợp đối với tín dụng bất động sản thay

vì quy định một tỷ lệ chung chung đối với lĩnh vực phi sản xuất, nguyên nhân bởi vì những

37

khoản vay bất động sản thường ở trung và dài hạn nên rất khó để giảm dư nợ đối với lĩnh

vực này trong khoảng thời gian ngắn như theo yêu cầu của NHNN.

4.2 Giải pháp bổ trợ

Những giải pháp bổ trợ được nêu dưới đây một mặt vừa hỗ trợ hạn chế sự tiếp diễn của

cuộc đua lãi suất mặt khác giúp cho những giải pháp trọng tâm được thực thi với hiệu quả

cao hơn.

4.2.1 Nâng cao tính minh bạch thông tin của các NHTM

Hiện nay tính minh bạch thông tin của hệ thống NHTM còn rất hạn chế. Hầu hết các

NHTM dù công bố thông tin ra đại chúng thông qua phương tiện truyền thông là website

và báo chí nhưng những nguồn thông tin này kém cập nhật và không đầy đủ. Theo quyết

định số 16/2007/QĐ – NHNN ngày 24/06/2007 quy định các TCTD phải cung cấp thông

tin tài chính phục vụ cho ba đối tượng như bộ máy lãnh đạo và quản lý TCTD, cơ quan

quản lý nhà nước và người dân. Theo quyết định này TCTD bắt buộc phải công khai báo

cáo tài chính năm đã được kiểm toán ra công chúng. Tuy nhiên trên thực tế chỉ một vài

ngân hàng lớn thực hiện đầy đủ theo quyết định này còn lại phần lớn các ngân hàng khác

rất chậm chạp và hạn chế trong việc công bố thông tin. Đặc biệt một số ngân hàng không

muốn minh bạch thông tin vì vậy những nguồn thông tin cơ bản cần thiết như báo cáo tài

chính, báo cáo thường niên… không được công bố trên các phương tiện mà nhà đầu tư dễ

tiếp cận như báo chí hoặc website (Phụ lục 8).

Việc không có thông tin kịp thời và đầy đủ làm người gửi tiền không thể đánh giá được khả

năng thanh khoản của ngân hàng nhận tiền gửi. Điều này dễ dẫn tới hiện tượng dòng tiền

gửi chạy từ những NHTM hoạt động ổn định chào lãi suất huy động thấp sang những ngân

hàng yếu thanh khoản phải chào lãi suất huy động cao hơn. Rủi ro hệ thống sẽ tăng lên khi

nguồn tiền gửi được tập trung ở những ngân hàng kém thanh khoản, khi đó chỉ cần một

ngân hàng nhỏ đổ vỡ nó có thể gây ảnh hưởng ngoại tác lớn hơn rất nhiều. Để hạn chế tình

trạng này cần có sự minh bạch thông tin giữa hệ thống NHTM và người gửi tiền. Đây chính

là vai trò của NHNN, NHNN cần giám sát chặt chẽ hơn việc công bố thông tin của NHTM

ra thị trường, bao gồm cả thời hạn và nội dung.

Với chức năng giám sát hệ thống ngân hàng, NHNN là cơ quan có thể tổng hợp thông tin

đầy đủ và cập nhật nhất của toàn hệ thống. Vì vậy hoàn toàn phù hợp khi giao cho NHNN

vai trò trung gian giúp minh bạch thông tin giữa người gửi tiền và hệ thống NHTM. Thông

38

qua sự hỗ trợ của hệ thống công nghệ thông tin, NHNN có thể thường xuyên công bố các

chỉ số phản ánh tình trạng sức khỏe ngân hàng, kết quả xếp hạng ngân hàng…Việc minh

bạch thông tin có thể giảm bớt tình trạng nguồn tiền tập trung vào những ngân hàng có mức

độ rủi ro cao, đồng thời đối với nguồn thông tin này là cơ sở để mỗi NHTM xác định mức

độ tín nhiệm của ngân hàng khác, từ đó có những quyết định cho vay hoặc đầu tư hợp lý.

Tuy nhiên, Với số lượng ngân hàng và chi nhánh ngân hàng tăng lên nhanh chóng hàng

năm thì hoạt động kiểm tra thông tin của NHNN dường như quá tải, số lượng các cuộc

thanh tra tại chỗ hầu như không biến động nhiều và tính trung bình trên mỗi ngân hàng có

xu hướng giảm trong những năm gần đây (Phụ lục 9), trong khi đó hoạt động giám sát từ

xa hiện nay mới chỉ ở bước đầu triển khai và chưa thực sự mang lại hiệu quả tốt.

Chính sự quá tải này làm hoạt động thanh tra tại chỗ hầu như chỉ được thực hiện theo định

kì, thông thường một năm một lần đối với một chinh nhánh/ trụ sở ngân hàng, hoặc có khi

2 -3 năm một lần đối với những địa bàn quá nhiều TCTD hoạt động. Việc thanh tra định kì

rất dễ dẫn đến tâm lý đối phó ở những NHTM. Các NHTM thường có khuynh hướng che

dấu tình hình hoạt động thực tế bằng cách cố gắng tạo ra những con số báo cáo tốt đúng

thời điểm, như vậy có thể né tránh sự chú ý của NHNN. Điều đó làm cho các con số báo

cáo phần nào không phản ánh thực chất rủi ro của TCTD.

Chính vì vậy, để có thể hỗ trợ tốt về mặt thông tin đối với người gửi tiền, NHNN cần phải

đầu tư thêm nguồn lực cho hoạt động thanh tra tại chỗ cũng như nhanh chóng hoàn thiện

hoạt động giám sát từ xa như một biện pháp hỗ trợ hữu hiệu cho việc kiểm tra thông tin và

hỗ trợ minh bạch thông tin cho thị trường.

4.2.2 Đưa ra mức xử phạt đủ mạnh để răn đe những NHTM lách luật huy động vốn

Hiện nay, đối với những vi phạm trong hoạt động huy động vốn đang được quy định bởi

Nghị định số 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004 và Thông tư số 01/2005/TT-NHNN ngày

10/03/2005. Trong đó những vi phạm huy động vốn bị xử phạt hành chính từ mức phạt từ

15 – 30 triệu đồng. Mức phạt hành chính đối với hoạt động tiền tệ và ngân hàng được cập

nhật cách đây 7 năm và được duy trì không thay đổi trong nhiều năm qua có thể làm cho

chi phí lách luật của ngân hàng giảm dần theo thời gian do sự mất giá của đồng tiền.

Trên thực tế cho thấy mặc dù rất nhiều NHTMCP lách luật để huy động vốn nhưng rất ít

trường hợp bị NHNN xử lý và nếu bị xử lý thì biện pháp thì chỉ dừng ở hình thức cảnh cáo

và yêu cầu xử lý nội bộ. Gần đây nhất NHNN có công văn số 1819/NHNN- TTGSNH và

39

Chính vì vậy, để tăng tính răn đe NHNN cần bổ sung hình thức xử phạt nặng hơn đối với

hành vi vi phạm huy động vốn ngoài biện pháp xử phạt hành chính như hạn chế tín dụng,

hạn chế mở rộng mạng lưới hoạt động, đình chỉ có thời hạn hoặc không có thời hạn việc

thực hiện một hoặc một số hoạt động nghiệp vụ liên quan đến hành vi vi phạm. Đây là

những biện pháp thực sự ảnh hưởng mạnh đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng vì vậy

sẽ mang tính răn đe cao hơn so với hình thức xử phạt hành chính trước đây.

Bên cạnh đó NHNN cần phải chuẩn bị cơ chế xử lý những ngân hàng đổ vỡ, tránh trường

hợp một ngân hàng phá sản có thể gây rủi ro lan rộng ra toàn hệ thống, trên cơ sở đó

NHNN có thể mạnh tay thực hiện thu hồi giấy phép đối với những ngân hàng hoạt động

yếu kém nhằm tạo tính răn đe cho những ngân hàng khác phải tích cực nâng cao khả năng

quản trị, năng lực tài chính và có ý thức hơn trong việc bảo vệ sự bền vững của thị trường.

40

KẾT LUẬN

Những cuộc đua lãi suất diễn ra mặc dù đã mang lại nhiều ngoại tác tiêu cực cho toàn hệ

thống ngân hàng cũng như nền kinh tế quốc gia, nhưng đây cũng là một cơ hội để NHNN

nhìn nhận lại quá trình hình thành và phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng như

những thiếu sót của chính cơ quan quản lý này trong quá trình thực thi nhiệm vụ giám sát

ngân hàng.

Những phân tích trên đã cho thấy, ngoài những yếu tố kinh tế vĩ mô như lạm phát và chính

sách thắt chặt tiền tệ thì thất bại thị trường và thất bại chính sách – giám sát đóng một vai

trò quan trọng trong việc hình thành cuộc đua lãi suất. Do vậy, để ngăn chặn sự tiếp diễn

của hiện tượng này cần có sự can thiệp của NHNN nhằm sửa chữa những thất bại trên.

Qua quá trình tìm hiểu và phân tích, nghiên cứu này kiến nghị NHNN thực hiện những đề

xuất chính sách sau. Thứ nhất, nhóm giải pháp chính sách nhằm nâng cao năng lực nội tại

của những ngân hàng vừa và nhỏ bao gồm nâng cao năng lực tài chính, nâng cao năng lực

quản trị rủi ro và tăng cường giám sát một số chỉ tiêu an toàn hoạt động về thanh khoản.

Thứ hai, nhóm giải pháp chính sách sửa chữa thất bại trong chính sách và giám sát của

NHNN bao gồm phân loại ngân hàng để có biện pháp giám sát phù hợp đối với từng nhóm

cụ thể, đưa ra lộ trình đáp ứng những chỉ tiêu an toàn hoạt động như LDR và tỷ lệ cho vay

phi sản xuất phù hợp với nhóm ngân hàng vừa và nhỏ. Ngoài ra, nghiên cứu này còn đưa ra

nhóm giải pháp bổ trợ nhằm tạo cơ sở cho những giải pháp chính sách trên được thực hiện

tốt bao gồm nâng cao tính minh bạch thông tin của các NHTM và đưa ra mức xử phạt đủ

mạnh để răn đe những NHTM lách luật trong huy động vốn.

Để đạt được mục đích ngăn chặn cuộc đua lãi suất tiếp tục tiếp diễn, nghiên cứu này cũng

đề nghị NHNN cần được thực hiện đồng bộ những đề xuất chính sách trên nhằm mang lại

kết quả tốt nhất.

41

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1 Tôn Thanh Tâm và Huy Bảo Hiệp (2007), Cung tiền và lạm phát ở Việt Nam -

Nguyên nhân và khuyến nghị, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, truy cập ngày

20/04/2011 tại địa chỉ

http://www.sbv.gov.vn/wps/portal/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3

gDFxNLczdTEwODMG9jA0__QHM_Y_dAAwNnM_2CbEdFAAJ9Ps8!/?WCM_P

ORTLET=PC_7_0D497F540G9520IOQVO48N20M7_WCM&WCM_GLOBAL_C

ONTEXT=/wps/wcm/connect/sbv_vn/sbv_vn/vn.sbv.print/vn.sbv.printing.magazine/

vmtCITIcYYV0U2nvmdnjeBl2010-01-11-06-28-57

2 ACB (2008), Báo cáo quý I -II/ 2008, truy cập ngày 20/03/2011 tại địa chỉ

http://www.acb.com.vn/codong/login.jsp

3 Chính Phủ, Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2006.

4 Chính Phủ, Nghị định số 202/2004/NĐ-CP ngày 10 tháng 12 năm 2004

5 Chính Phủ, Nghị định số 82/1998/NĐ – CP ngày 10 tháng 03 năm 1998

6 Joseph E. Stiglitz (1995), "Cơ sở kinh tế đối với chính phủ", Kinh tế học công cộng,

trang 114 -115

7 Joseph E. Stiglitz (1995), "Những yếu tố ngoại lai", Kinh tế học công cộng, trang

267 -272

8 Moody's Global Banking (2009) , "Banking system outlook"

9 Nhật Trung (2010), "Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động - những thông lệ

quốc tế", Luật tài chính truy cập ngày 01/02/2011 tại địa chỉ

http://luattaichinh.wordpress.com/2010/11/23/t%E1%BB%89-l%E1%BB%87-

c%E1%BA%A5p-tn-d%E1%BB%A5ng-so-v%E1%BB%9Bi-ngu%E1%BB%93n-

v%E1%BB%91n-huy-d%E1%BB%99ng-nh%E1%BB%AFng-thng-l%E1%BB%87-

qu%E1%BB%91c-t%E1%BA%BF/

10 NHNN (2007), Báo cáo thường niên, truy cập ngày 30/04/2011 tại địa chỉ

http://www.sbv.gov.vn/wps/wcm/connect/c977740043637a419dffddad7097747d/200

42

8.pdf?MOD=AJPERES&CACHEID=c977740043637a419dffddad7097747d

11 NHNN (2008), "Công điện số 02/CĐ-NHNN" ngày 26 tháng 02 năm 2008

12 NHNN (2008), Báo cáo thường niên, truy cập ngày 30/04/2011 tại địa chỉ

http://www.sbv.gov.vn/wps/wcm/connect/c977740043637a419dffddad7097747d/200

8.pdf?MOD=AJPERES&CACHEID=c977740043637a419dffddad7097747d

13 NHNN (2008), Lãi suất cơ bản - lãi suất tái cấp vốn - lãi suất chiết khấu, truy cập

ngày 30/03/2011 tại địa chỉ

http://www.sbv.gov.vn/wps/portal/!ut/p/c5/lY_LDoIwFES_xS_o0JYCywqhtBAQH4

hsCAtDSARcGL9fNG40EfXe5cnJzJCKTD80165tLt04NCdSkkrUCLjnhDYHiphBZ

7mTMpUDvpj4QdS-

khF3EiCLAg_aNXGytVbMKPaLHVIpaBhRZIYG0FyuJRUZ23Dnr2xlch9amY3Ll

xYA-4u9v2_92L0I7Fn-2Hbnc-1f_Ld-

rpjneObjw0mQNBr7Izn3u12JTnerdnEDJbv8RQ!!/dl3/d3/L3dDb0EvUU5RTGtBIS

EvWUZSdndBISEvNl9DR0FINDdMMDBHSlFDMElHSlM4NEIxMDA4Ng!!/

14 NHNN (2010), Báo cáo thường niên, truy cập ngày 30/04/2011 tại địa chỉ

http://www.sbv.gov.vn/wps/wcm/connect/c977740043637a419dffddad7097747d/200

8.pdf?MOD=AJPERES&CACHEID=c977740043637a419dffddad7097747d

15 NHNN, Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 04 năm 2007

16 NHNN, Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 04 năm 2005

17 NHNN, Quyết định số 2214/QĐ-NHNN ngày 26 tháng 10 năm 2008

18 NHNN, Thông tư 01/2005/TT-NHNN ngày 10 tháng 03 năm 2005

19 NHNN, Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20 tháng 05 năm 2010

20 NHTMCP Á Châu, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin trên trang web

www.acb.com.vn

21 NHTMCP An Bình, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin trên trang web

www.abbank.vn

22 NHTMCP Đại Á, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin trên trang web

43

www.daiabank.com.vn

23 NHTMCP Đại Dương, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin trên trang

web www.oceanbank.vn

24 NHTMCP Đông Á, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin trên trang web

www.dongabank.com.vn

25 NHTMCP Gia Định, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin trên trang web

www.giadinhbank.com.vn

26 NHTMCP Hàng hải Việt Nam, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin trên

trang web www.msb.com.vn

27 NHTMCP Kiên Long, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin trên trang

web www.kienlongbank.com

28 NHTMCP Kỹ Thương Việt Nam, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin

trên trang web www.techcombank.com.vn

29 NHTMCP Miền Tây, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin trên trang

web www.westernbank.vn

30 NHTMCP Nam Á, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin trên trang web

www.nab.com.vn

31 NHTMCP Nam Việt, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin trên trang web

www.navibank.com.vn

32 NHTMCP ngoài quốc doanh, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin trên

trang web www.vpbank.com.vn

33 NHTMCP Nhà Hà Nội, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin trên trang

web www.habubank.com.vn

34 NHTMCP Phát triển Nhà TPHCM, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin

trên trang web www.hdbank.com.vn

35 NHTMCP Phương Đông, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin trên trang

web www.ocb.com.vn

44

36 NHTMCP Quân Đội, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin trên trang

web www.mcb.com.vn

37 NHTMCP Sài Gòn Công Thương, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin

trên trang web www.saigonbank.com.vn

38 NHTMCP Sài Gòn Thương Tín, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin

trên trang web www.sacombank.com

39 NHTMCP Việt Á, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin trên trang web

www.vietabank.com.vn

40 NHTMCP Xăng dầu Petrolimex, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin

trên trang web www.pgbank.com.vn

41 NHTMCP Xuất nhập khẩu, Báo cáo thường niên 2007-2009 và các thông tin trên

trang web www.eximbank.com.vn

42 Phòng phân tích công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư Việt Nam (2010), "Báo cáo

ngành ngân hàng quý III-2010", Công ty chứng khoán ngân hàng đầu tư

43 Phòng phân tích công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt (2008), "Báo cáo ngành ngân

hàng Việt Nam năm 2008", Công ty chứng khoán Bảo Việt

44 Phòng phân tích thị trường (2009), " Báo cáo phân tích ngành ngân hàng Việt Nam",

NHTMCP Á Châu

45 Quốc Hội (2010), luật số 46/2010/QH12 ngày 29 tháng 06 năm 2006

46 Sacombank (2008), Báo cáo quý I -II/ 2008, truy cập ngày 20/03/2011 tại địa chỉ

http://www.sacombank.com.vn/nhadautu/Pages/Bao-cao-thuong-nien.aspx

47 SCB (2008), Báo cáo quý I -II/ 2008, truy cập ngày 20/03/2011 tại địa chỉ

http://www.scb.com.vn/vietnam/Baocaotaichinh.aspx?sId=2&y=0

48 Ths. Nguyễn Thị Minh Huệ (2009), “Giám sát Ngân hàng thực trạng Việt Nam và

kinh nghiệm Quốc tế”

45

49 Trang thông tin tài chính ngân hàng, Fitch nhìn lại ngành ngân hàng Việt Nam năm

2009 và dự báo cho năm 2010, truy cập ngày 31/03/2011 tại địa chỉ

http://cafef.vn/20100314111457756CA34/fitch-nhin-lai-nganh-ngan-hang-viet-nam-

nam-2009-va-du-bao-cho-nam-2010.chn

50 Trang thông tin tài chính vietstock (2011), "Ngành tài chính phải hi sinh quyền lợi

trong ngắn hạn", truy cập ngày 30/12/2010 tại địa chỉ

http://vietstock.vn/ChannelID/757/Tin-tuc/182358-nganh-ngan-hang-phai-hy-sinh-

quyen-loi-trong-ngan-hannbsp.aspx

51 Trang thông tin về lãi suất (2010), Lãi suất tiết kiệm 16% - ngân hàng nào cao nhất?,

truy cập ngày 03/02/2011 tại địa chỉ http://diendan.laisuat.vn/Forum/Comments.aspx

52 Trang thông tin Việt Báo (2008), 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc: Ngân hàng đã

sẵn sàng, truy cập ngày 12/04/2011 tại địa chỉ http://vietbao.vn/Kinh-te/20300-ty-

dong-tin-phieu-bat-buoc-Ngan-hang-da-san-sang/65124139/91/

53 Trang thông tin Việt Báo (2008), Lãi suất liên ngân hàng đã lên đến 43%/năm, truy

cập ngày 12/04/2011 tại địa chỉ http://vietbao.vn/Kinh-te/Lai-suat-lien-ngan-hang-

da-len-43nam/65121316/91/

54 Viện nghiên cứu quản lý chiến lược kinh tế TW (2008), Điều hành chính sách tiền tệ

trong bối cảnh lạm phát cao ở Việt Nam

55 VPBank (2008), Báo cáo quý I -II/ 2008, truy cập ngày 20/03/2011 tại địa chỉ

http://www.vpb.com.vn/vi/thongtincodong/bao-cao-dinh-ky/113-bao-cao-nh-k/202-

bao-cao-thng-nien

56 Vũ Thành Tự Anh (2009), "Thất bại của nhà nước", Bài giảng môn kinh tế học khu

vực công, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright

57 Vũ Thành Tự Anh (2010), "Cơ sở can thiệp của nhà nước: Ngoại tác", Bài giảng

môn kinh tế học khu vực công, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright

58 Vũ Thành Tự Anh (2010), "Cơ sở can thiệp của nhà nước: Ngoại tác", Bài giảng

môn kinh tế học khu vực công, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright

59 Vũ Thành Tự Anh (2010), "Cơ sở cho sự can thiệp của nhà nước: thất bại thị trường

46

dẫn đến bất ổn vĩ mô", Bài giảng môn kinh tế học khu vực công, Chương trình giảng

dạy kinh tế Fulbright

Tiếng Anh

60 Bank for International Settlements (2005), Basel II: International convergence of

Capital Measurement and Capital Standard

61 Frederic S.Mishkin (2001), " Financial policies and the prevention of financial crises

in emerging market countries"

62 John Maynard Keynes (1936), Thuyết ưa chuộng tính thanh khoản, "Lý thuyINK

"http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD_thu

63 Robert Mundell và Marcus Fleming (1960), mô hình Mundell – Fleming

64 Gianni De Nicolo and Myron L. Kwatst (2002), “Systemic risk and financial

consolidation: are they related?”

47

PHỤ LỤC

Phụ lục 1. Số lượng NHTM được cấp phép từ 1991 – 1996

1996 Năm 1991 1992 1993 1994 1995

3 5 17 20 4 3 Số lượng

Nguồn: PGS., TS. Nguyễn Đình Tự (2006), Cải cách ngân hàng thương mại, góp phần phát

triển kinh tế ở nước ta và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế.

Phụ lục 2. Một số ngân hàng vừa và nhỏ xuất thân từ mô hình ngân hàng nông thôn

Thời điểm thành lập TT Ngân hàng Tiền thân Năm VĐL (tỷ đồng)

Ngân hàng TMCP Kiên Long Ngân hàng TMCP nông thôn 1995 1,2 1 (KienLongBank) Kiên Long

Ngân hàng TMCP Nam Việt Ngân hàng TMCP nông thôn 1995 - 2 (NaViBank) Sông Kiên

Ngân hàng TMCP Phát triển Mê Kông Ngân hàng TMCP nông thôn 1992 0,3 3 (MDB) Mỹ Xuyên

Ngân hàng TMCP Đại dương Ngân hàng TMCP nông thôn 1993 0.3 4 (Oceanbank) Hải Hưng

Ngân hàng TMCP Đại Tín Ngân hàng TMCP nông thôn 1992 3,4 5 (TrustBank) Rạch Kiến

Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội Ngân hàng TMCP nông thôn 1993 0,4 6 (SHB) Nhơn Ái

Ngân hàng TMCP Xăng dầu Ngân hàng TMCP nông thôn 1992 0,7 7 Petrolimex (PGBank) Đồng Tháp

Ngân hàng TMCP nông thôn 1994 - 8 Ngân hàng TMCP Bắc Á (NASBank) Ninh Bình

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ website các NHTM

48

Phụ lục 3. Phân nhóm các NHTMCP (2008 – 2010)

Nhóm Quy mô tổng tài sản 2008 2009 2010

11 Nhóm 1 > = 45,000 tỷ đồng 5 9

10 Nhóm 2 15,000 - 45,000 tỷ đồng 9 11

18 Nhóm 3 =< 15,000 tỷ đồng 23 19

Nguồn: Tổng hợp từ website các NHTM

Phụ lục 4. Sự gia tăng VĐL của các ngân hàng vừa và nhỏ

STT Ngân hàng VĐL (30/06/2010) VĐL (31/12/2010)

3.000 1.000 1 Ngân hàng Phát triển Mê Kông (MDB)

3.000 1.000 2 Ngân hàng Gia Định (GiaDinhBank)

3.100 1.000 3 Ngân hàng Đại Á (ĐaiAbank)

3.000 2.000 4 Ngân hàng Kiên Long (KienLongBank)

2.000 1.000 5 Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPBank)

3.000 3.000 6 Ngân hàng Nam Á (NAB)

3.000 1.500 7 Ngân hàng Sài Gòn Công thương (SaigonBank)

5.000 2.000 8 Ngân hàng Phương Đông (OCB)

3.000 1.632 9 Ngân hàng Việt Á (VietABank)

Nguồn: Tổng hợp từ website các NHTM

Phụ lục 5: Phân loại nhóm nợ (Trích quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN - Điều 6)

Tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ theo năm (05) nhóm như sau:

a) Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh

giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn;

- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi

đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại;

- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2 Điều 6.

b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:

49

- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;

- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh nghiệp, tổ

chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ

gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu);

- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3 Điều 6.

c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:

- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ

lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Điểm b

- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ

theo hợp đồng tín dụng;

- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 Điều 6.

d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:

- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ

được cơ cấu lại lần đầu;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;

- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 Điều 6.

đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:

- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn

trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ

cấu lại lần thứ hai;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã

quá hạn;

- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;

- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 Điều 6.

50

Phụ lục 6: Các bước thực hiện hoạt động giám sát từ xa

Định kì hàng tháng NHTM cung cấp thông tin

Cục quản lý tin học tổng hợp

Phần mềm giám sát xử lý thông tin và đưa ra kết quả về những chỉ tiêu giám sát (LDR, CAR, NPL...)

Phân tích xếp loại NHTM theo tiêu chuẩn Camels

Cảnh báo sớm rủi ro

Tham mưu cho chánh Thanh tra tiến hành thanh tra tại chỗ trên cơ sở phát hiện rủi ro

Kết luận, kiến nghị xử lý, và kiểm tra việc chấp hành của NHTM

Nguồn: Quốc Hội (2010), luật số 46/2010/QH12 và Thủ Tướng (2009), quyết định số

83/2009/QĐ-TTg, NHNN (2008), quyết định số 2214/QĐ-NHNN và tổng hợp của tác giả

51

Phụ lục 7. Các bước thực hiện thanh tra tại chỗ

Phòng thanh tra thuộc NHNN tỉnh, thành phố xây dựng chương trình thanh tra (kế hoạch thanh tra, nội dung thanh tra) cho từng năm

Trình Giám đốc chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố kế hoạch thanh tra

Chánh thanh tra phê duyệt thành lập đoàn thanh tra, nội dung thanh tra, thời gian và thời hiệu

Trưởng đoàn thanh tra xây dựng kế hoạch chi tiết và phân công cụ thể cho mỗi thanh tra viên

Tiến hành thanh tra trên cơ sở đánh giá tính tuân thủ, mức độ tin cậy của số liệu, mức độ rủi ro, phát hiện những quy trình quy định chưa hợp lý

Kết luận, kiến nghị xử lý, và kiểm tra việc chấp hành của NHTM

Nguồn: Quốc Hội (2010), luật số 46/2010/QH12 và Thủ Tướng (2009), quyết định số

83/2009/QĐ-TTg, NHNN (2008), quyết định số 2214/QĐ-NHNN và tổng hợp của tác giả

52

Phụ lục 8

Một số NHTM không công bố thông tin trên các website thông tin đại chúng

STT Ngân hàng

1 Ngân hàng Đệ Nhất (Ficombank)

2 Ngân hàng Bắc Á (NASBank)

3 Ngân hàng Phương Nam (PhuongnamBank)

4 Ngân hàng Phương Tây (WesternBank)

5 Ngân hàng Quốc tế (VIBank)

6 Ngân hàng Sài Gòn Hà Nội (SHB)

7 Ngân hàng Việt Nam Thương Tín (VietBank)

8 Ngân hàng Đại Tín (TrustBank)

Nguồn: Tổng hợp từ website các NHTMCP

Phụ lục 9

Hoạt động thanh tra tại chỗ giai đoạn 2003 – 2009

Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009

Số lượng ngân hàng 55 63 75 78 80 84 92

Số lượng cuộc thanh tra 974 1.049 1.027 990 909 1.179 1.000

Số lượng cuộc thanh tra

bình quân 17,71 16,65 13,69 12,69 11,36 14,04 10,87

Nguồn: Tổng hợp của tác giả và Nguyễn Thị Minh Huệ (2009)