HNUE JOURNAL OF SCIENCE<br />
DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0020<br />
Educational Sciences, 2019, Volume 64, Issue 2A, pp. 18-27<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
NHÂN CÁCH VÀ ĐỊNH HƯỚNG NỘI DUNG GIÁO DỤC<br />
NHÂN CÁCH HỌC SINH PHỔ THÔNG<br />
<br />
Phan Trọng Ngọ<br />
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
Tóm tắt. Bài báo phân tích các khái niệm, định nghĩa và các cấu trúc nhân cách<br />
trong tâm lí học; khái quát những thành tựu hiện có theo tiếp cận hệ thống; từ đó đề<br />
xuất định nghĩa và cấu trúc nhân cách theo quan điểm động và mở với nền tảng là các<br />
yếu tố tự nhiên và văn hoá của nhân cách; còn hạt nhân của nó là cái Tôi. Một quan<br />
niệm như vậy, gợi ra nội dung giáo dục nhân cách tập trung vào các yếu tố tầng sâu<br />
và cốt lõi là giáo dục lương tâm, lí tưởng và cái Tôi của nhân cách - những vấn đề ít<br />
được coi trọng trong thực tiễn hiện nay.<br />
Từ khóa: Nhân cách, khái niệm nhân cách, cấu trúc nhân cách, cái Tôi, ý thức bản ngã,<br />
giáo dục nhân cách.<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Chú trọng giáo dục nhân cách học sinh là quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản<br />
Việt Nam, được thể hiện trong Nghị Quyết 29/ về đổi mới giáo dục và đào tạo [1].<br />
Đồng thời được nhấn mạnh trong chương trình giáo dục phổ thông mới [2]. Muốn vậy cần<br />
xác lập cơ sở khoa học cho hoạt động giáo dục nhân cách học sinh phù hợp và hiệu quả.<br />
Trong khi đó, nhân cách hiện là vấn đề rất phức tạp [3] và hiện có nhiều ý kiến khác nhau [4].<br />
B.R. Hergenhahn đã xác lập 150 nhà tư tưởng, nhà tâm lí học phương Tây có thành tựu<br />
nghiên cứu về nhân cách [5]. Trong một tài liệu, Nguyễn Thơ Sinh đã giới thiệu 22 lí thuyết<br />
tâm lí về nhân cách [6]. Leslie Stevenson và cộng sự, phân tích các di sản văn hóa từ cổ đến<br />
hiện đại và đã chọn lọc, phân tích 12 học thuyết điển hình về nhân cách, từ Khổng Giáo, Ấn<br />
Độ Giáo, Platon, Aristoteles đến Darwin, Freud hay Sartre [7]. Trong tài liệu "Các lí thuyết<br />
nhân cách", Duane P. Schultz, Sydney Ellen Schultz đã giới thiệu 21 lí thuyết [8]. Barry D.<br />
Smith - Harold J. Vetter, phân tích 19 học thuyết về nhân cách [2]. Lê Đức Phúc, mô tả 14<br />
hệ thống (quan điểm) nghiên cứu nhân cách [9]. Còn trong Từ điển bách khoa Tâm lí học Giáo dục học Việt Nam, Phạm Minh Hạc đề cập 11 cách tiếp cận [10]. Ngoài ra, còn rất<br />
nhiều định nghĩa khác, chưa được tổng quan. Sự phức tạp và nhiều quan niệm về nhân cách<br />
là một khó khăn đối với những người làm công tác giáo dục. Bài viết góp phần làm sáng tỏ<br />
vấn đề nhân cách cá nhân, cấu trúc của nó, trên cơ sở đó đề xuất các định hướng xác định<br />
nội dung giáo dục nhân cách cá nhân.<br />
Ngày nhận bài: 7/2/2019. Ngày sửa bài: 19/3/2019. Ngày nhận đăng: 26/3/2019.<br />
Tác giả liên hệ: Phan Trọng Ngọ. Địa chỉ e-mail: ngotamly@gmail.com<br />
18<br />
<br />
Nhân cách và định hướng nội dung giáo dục nhân cách học sinh phổ thông<br />
<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Khái niệm nhân cách và cấu trúc nhân cách<br />
2.1.1. Định nghĩa nhân cách trong tâm lí học<br />
Theo Barry D. Smith - Harold J.Vetter, hiện có hàng trăm định nghĩa về nhân cách [9].<br />
Allport khái quát thành 3 nhóm: dựa vào sự tác động, gây ảnh hưởng của cá nhân đến<br />
người khác hay xã hội; hoặc tập trung vào các đặc điểm có tính ổn định, các cấu trúc tâmsinh lí nội tại của cá nhân. Nhóm thứ ba là những định nghĩa chỉ giới hạn nhân cách vào<br />
các hành vi biểu hiện ra bên ngoài có thể kiểm chứng được [3]. Trong các nhóm trên, đa<br />
số theo hướng phân tích các nét hay các cấu trúc tâm - sinh lí nhất định [9]. Chẳng hạn:<br />
Nhân cách là tổng thể những đặc tính tâm- sinh lí của cá nhân, là nét (nét tính cách) tiêu<br />
biểu mang tính bẩm sinh, hoặc do rèn luyện mà có của riêng cá nhân đó [3]; Là tổ hợp<br />
những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí của cá nhân quy định bản sắc và giá trị xã hội<br />
của con người [11]; Là cấu tạo tâm lí phức hợp bao gồm những thuộc tính tâm lí cá nhân,<br />
được hình thành và phát triển trong đời sống và hoạt động, tạo nên nhân diện và quy định<br />
giá trị xã hội của mỗi người [12]; Là tổ hợp các thái độ giá trị của con người với thế giới<br />
tự nhiên, thế giới đồ vật, với xã hội, với người xung quanh và với bản thân [4].<br />
Giá trị thực tiễn của các định nghĩa là đã xác định được những nét tâm lí hay hành vi<br />
của cá nhân, phục vụ cho việc chẩn đoán và phát triển các cấu trúc tâm lí đó. Tuy nhiên,<br />
các định nghĩa theo hướng này cũng bộc lộ một số bất cập.<br />
Thứ nhất: Hầu hết các định nghĩa được hình thành theo khuôn mẫu tư duy cơ giới là<br />
tư duy bỏ qua tính hệ thống, sự tương tác và chuyển hóa giữa các đơn vị, các yếu tố của<br />
đối tượng [13]. Việc nghiên cứu nhân cách chủ yếu hướng đến các yếu tố (nét tính cách)<br />
của cá nhân, còn bản thân nhân cách, hay những yếu tố "tầng sâu" của nó (do khó hoặc<br />
không quan sát được trực tiếp) dần bị loại bỏ [9], mặc dù chúng là cốt lõi. Điều này giống<br />
như mới biết vật liệu để xây một ngôi nhà, còn việc xây như thế nào và ngôi nhà đó ra sao,<br />
còn chưa rõ. Mặt khác, các định nghĩa thể hiện quan niệm về bản chất bền vững của các<br />
nét hay đặc điểm nhân cách vốn thường ổn định và giữ nguyên trong suốt cuộc đời cũng<br />
như trong các hoàn cảnh xã hội khác nhau [14]. Điều này chưa hẳn phù hợp với thực tiễn<br />
và với sự tiến hoá về nhận thức luận khoa học hiện nay: Nhân cách không cố định, mà<br />
luôn vận động, phát triển và phải được tiếp cận theo tư duy hệ thống và theo hệ sinh thái<br />
phát triển [15].<br />
Thứ hai: Nhiều định nghĩa quá nhấn mạnh nguồn gốc của nhân cách hoặc một hay<br />
một số đặc trưng của nhân cách. Thực ra, nguồn gốc của nhân cách không phải từ một vài<br />
yếu tố cố định, mà từ nhiều nguồn và có sự tương tác giữa các nguồn [15].<br />
Thứ ba: Nhiều lí thuyết gia có cách tiếp cận tĩnh về nhân cách theo lát cắt tại một<br />
thời điểm [12]. Trong khi đó, sự tương tác giữa các thành tố của nhân cách, giữa nhân<br />
cách với các môi trường và sự chuyển hóa diễn ra trong quá trình tương tác mới thực sự là<br />
cốt lõi, là gốc rễ của sự biến đổi và phát triển nhân cách. Hai vấn đề trên chỉ có thể được<br />
giải quyết được theo quan điểm động.<br />
Thứ tư: Có sự không rõ ràng giữa cá nhân và nhân cách trong các định nghĩa và<br />
phân tích về nhân cách. Trong nhiều định nghĩa, nhân cách được mở rộng gần như trùng<br />
với cá nhân [3]. Một số khác, xét nhân cách trong các mối quan hệ xã hội, giá trị xã hội,<br />
theo một hệ quy chiếu của cộng đồng [11]. Thậm chí, nhiều nhà nghiên cứu coi nhân cách<br />
19<br />
<br />
Phan Trọng Ngọ<br />
<br />
không phải là "cái có thực", mà chỉ là khái niệm có tính giả thuyết, phục vụ việc khảo sát<br />
các cá nhân có thực [9]. Những quan niệm như vậy chưa thể hiện rõ bản chất của nhân<br />
cách và mối quan hệ với cá nhân.<br />
Như vậy, việc phân tích cho thấy, các định nghĩa hiện nay chưa thực sự phản ánh đầy<br />
đủ bản chất của nhân cách và mở ra các hướng khám phá nhân cách.<br />
Như vậy, việc phân tích cho thấy, các định nghĩa hiện nay chưa thể hiện đầy đủ về<br />
nhân cách. Nhân cách không chỉ được định nghĩa bằng sự kiểm đếm các đặc điểm, các<br />
cấu trúc tâm - sinh lí hay các nét tính cách đặc thù của cá nhân, mà cần phản ánh bản chất<br />
của nhân cách và mở ra các hướng khám phá nhân cách.<br />
Nhân cách trước hết phải là một cá nhân, nhưng nhân cách không trùng với cá nhân.<br />
Cá nhân phát triển đến mức độ nhất định mới xuất hiện và tồn tại nhân cách và trong<br />
điều kiện nhất định của cá nhân [16]. Điều này cho phép nhận diện nhân cách ở trẻ em và<br />
ở các cá nhân có hoàn cảnh đặc biệt (chẳng hạn bệnh tinh thần) chưa / không phải là nhân<br />
cách. Nhiều nghiên cứu chuyên sâu đã chỉ rõ, nhân cách là cấp độ phát triển của cá nhân [17];<br />
là chủ thể của cá nhân [18].<br />
Nhân cách không phải là tổ hợp các cấu trúc tâm - sinh lí, hay các nét tính cách đặc<br />
thù của cá nhân. Những tổ hợp cấu trúc đó chưa phản ánh được bản chất nhân cách, chúng<br />
chỉ là "vật liệu" để cá nhân xây dựng lên bản thân mình. Muốn có nhân cách phải có nhân<br />
tố có vai trò, chức năng, quyền lực phối hợp và tổ chức các vật liệu đó theo phương thức<br />
đặc thù. Nhân tố đó là cái Tôi. Cái Tôi là cốt lõi của nhân cách. Nhân cách chính là cách<br />
thức cá nhân thể hiện mình qua cái Tôi, quyết định nhân cách [19]. Nhân cách là một<br />
thực thể tích cực [18, 20, 21] có khuynh hướng hiện thực, tính tương tác xã hội và<br />
phát triển [22].<br />
Nhân cách là cấp độ phát triển của cá nhân; là chủ thể cá nhân; là cách thức cá<br />
nhân phát triển và thể hiện mình, trong hoạt động và tương tác xã hội. Nhân cách là các<br />
yếu tố tâm- sinh lí được cấu trúc độc đáo bởi cái Tôi, tạo ra bản sắc của cá nhân, hướng<br />
cá nhân phát triển và làm chủ cuộc sống của mình, góp phần vào sự thay đổi môi trường<br />
sống tự nhiên và xã hội.<br />
2.1.2. Cấu trúc nhân cách<br />
* Các mô hình cấu trúc nhân cách hiện nay trong tâm lí học<br />
Có nhiều mô hình cấu trúc nhân cách, tuy vậy có thể khái quát thành 3 nhóm:<br />
(i) Xu hướng thực chứng với các nghiên cứu định lượng, dựa vào các biểu hiện có thể<br />
quan sát được. Nhiều nhà nghiên cứu gắn các biểu hiện tâm lí với các đặc điểm sinh lí, thể<br />
tạng của cá nhân, như gắn với các thể dịch của cơ thể (Hypocrate; Gallen và các bác sỹ Hy<br />
Lạp cổ đại); Nhân cách gắn với hoạt động thần kinh cấp cao của cá thể (I. Paplov và các học<br />
trò); Cấu trúc nhân cách dựa vào thể tạng của cá nhân; Gen với các đặc trưng tâm lí của<br />
nhân cách [23]. Một số khác, cấu trúc theo các nét tính cách, các đặc trưng tâm lí của nhân<br />
cách [3, 12].<br />
Cấu trúc theo thực chứng đã mở ra hướng đánh giá và phát triển nhân cách thông qua<br />
việc phân tích các yếu tố tâm lí của cá nhân. Tuy vậy, khó khăn là giới hạn số lượng các yếu<br />
tố trong cấu trúc nhân cách phụ thuộc chủ quan của mỗi nhà nghiên cứu. Đồng thời, rất khó<br />
xác định mối quan hệ và sự chuyển hoá giữa những yếu tố tâm lí "tầng sâu" với "bề mặt" của<br />
nhân cách [9].<br />
20<br />
<br />
Nhân cách và định hướng nội dung giáo dục nhân cách học sinh phổ thông<br />
<br />
Xu hướng thứ hai, chủ yếu phân tích định tính nguồn gốc, bản chất của nhân cách<br />
như nguồn gốc tự nhiên: theo tiến hoá học [24], Di truyền học [23]. Tâm lí văn hoá [14],<br />
Hiện sinh, thuyết nhân văn. Những lí thuyết này là kho tư liệu giàu sức khai mở các vấn<br />
đề có ý nghĩa quyết định về nhân cách. Nhưng điểm khó khăn từ các lí thuyết này là việc<br />
mô hình hoá và kiểm chứng bằng định lượng không dễ dàng.<br />
Xu hướng thứ 3 là những nghiên cứu chuyển hoá giữa các đơn vị, các hành phần<br />
trong nhân cách cá nhân và giữa cá nhân với môi trường bên ngoài trong một hệ sinh<br />
thái phát triển. Các nghiên cứu về triết học hoạt động của K. Marx [18], về lịch sử - văn<br />
hoá của các chức năng tâm lí cấp cao của L.X. Vưgotski và về hoạt động tâm lí của A.N.<br />
Leonchev [17] và Phân tâm học [25, 26] v.v đã mở ra các nguyên lí, cơ chế chuyển hoá và<br />
phát triển các cấu trúc tâm lí của nhân cách.<br />
Việc phân tích cho thấy bức tranh về cấu trúc nhân cách theo các xu hướng khác nhau,<br />
nhưng sự kết dính giữa chúng chưa cao. Vì vậy, cần có một cấu trúc phản ánh được yếu tố<br />
cốt lõi, tầng sâu, vừa thể hiện được sự chuyển hoá và mở ra các khả năng, các hướng vận<br />
động và phát triển của nhân cách.<br />
* Mô hình cấu trúc nhân cách theo nguyên lí tảng băng (cây nhân cách)<br />
Một cấu trúc nhân cách thoả mãn các yêu cầu trên, chỉ có thể được thiết kế mở theo<br />
nguyên lí tảng băng trôi hoặc theo cây nhân cách với các nhân tố cốt lõi:<br />
(i) Phần sâu thẳm của nhân cách: Yếu tố bản năng tự nhiên và văn hoá<br />
Trong sâu thẳm của nhân cách có yếu tố bản năng tự nhiên và văn hoá.<br />
Bản năng hiện diện và có vai trò quan trọng trong nhân cách cá nhân. Điều này đã<br />
được phát hiện ngay từ thời cổ đại bởi Plato [27], sau đó được nhấn mạnh trong lí thuyết<br />
về Ý chí tự do của A. Schopenhauer [28] thuyết về nguồn lực sống của D. Nietzsche [29];<br />
Thuyết tiến hoá của Darwin [23] và trong lí thuyết của các nhà Phân Tâm học [25, 26].<br />
Cùng với bản năng tự nhiên, trong tầng sâu nhân cách còn có nguồn gốc văn hoá.<br />
Các biểu tượng trong văn hoá cổ xưa được lặp đi lặp lại trong đời sống của cộng đồng và<br />
cá nhân qua ngàn đời đã tạo ra các dấu vết sinh học, làm biến đổi gen [23]; Tạo ra các cổ<br />
mẫu, trở thành vô thức tập thể trong tầng sâu vô thức của nhân cách [26]. Trong quá trình<br />
phát triển của cá nhân, ngay từ khi còn ấu thơ, đứa trẻ đã đồng nhất hoá những biểu tượng<br />
văn hoá từ cha/ mẹ và người khác, chuyển hoá chúng thành cái Siêu Tôi (dưới dạng lương<br />
tâm và lí tưởng) và được chuyển vào cái Ấy, trở thành bản năng của nhân cách [25].<br />
Như vậy, trong sâu thẳm của nhân cách có các năng lượng bản năng tự nhiên<br />
(Nature) và văn hoá (Culture). Đây chính là nguồn năng lượng thúc đẩy mọi hoạt động<br />
tâm lí của cá nhân.<br />
(ii) Tầng trung tâm, hạt nhân của nhân cách: Cái Tôi hay tự ý thức của bản ngã<br />
Nhân cách có tính chủ thể [18]. Hạt nhân tạo ra tính chủ thể của nhân cách là Cái Tôi<br />
(Ego) hay Ý thức bản ngã [19]<br />
Ngay từ thời cổ đại, Aritstotle đã cho rằng, bản ngã (Self) là một hữu thể có lí trí, lí<br />
tính, nhận thức và ý thức [30]. R. Descartes nhấn mạnh cái Tôi tư duy [31]. W. Jame [32]<br />
chia bản ngã thành cái Tôi vật chất, cái Tôi xã hội và cái Tôi tinh thần. K. Roger cho rằng<br />
bản ngã là toàn bộ đặc điểm của riêng mỗi cá nhân, từ cơ thể đến các cấu trúc tâm lí, là<br />
một tổng thể được nhận thức, ý thức, như là chức năng của cái Tôi [22]. Cái Tôi chính là<br />
ý thức về bản thân, nhưng không phải mọi ý thức về bản thân đều trở thành cái Tôi.<br />
21<br />
<br />
Phan Trọng Ngọ<br />
<br />
Cái tôi là sự tập trung cao độ của Ý thức [26]. Ý thức cá nhân chỉ trở thành cái Tôi khi<br />
phát triển đến độ xuất hiện sự phản tư, tức là năng lực quay trở lại bản thân của Tư duy, ý<br />
thức tách bản thân thành khách thể, thành đối tượng nhận thức [16]. Cái Tôi là nhân tố cốt<br />
lõi, trung tâm của nhân cách cá nhân. Sự khủng khoảng của cá nhân thực chất là khủng<br />
hoảng cái Tôi, ứng với từng giai đoạn phát triển [20]. Sự phát triển của cá nhân là sự<br />
trưởng thành của cái Tôi [19].<br />
(iii) Tầng cận trung tâm: Các cấu trúc tâm lí phản ánh thái độ, tình cảm, đạo đức xã<br />
hội, năng lực và các nét tính cách của nhân cách<br />
Các cấu trúc tâm lí phản ánh thái độ, tình cảm, đạo đức xã hội, năng lực và các nét<br />
tính cách của nhân cách được coi là các thành tố tạo nên thân của cây nhân cách.<br />
Cuộc sống và phát triển của mỗi cá nhân là một dòng hoạt động và tương tác không<br />
ngừng. Bất kì hoạt động và tương tác xã hội nào của cá nhân cũng có hai mặt. Một mặt,<br />
phản ánh tính chất và chiều hướng của chủ thể trong quan hệ với đối tượng (mặt thái độ);<br />
còn mặt kia thể hiện hiệu quả tác động của chủ thể đến đối tượng (mặt năng lực) của nhân cách.<br />
Trong các cấu trúc tâm lí, thái độ cá nhân được đặc biệt coi trọng. Theo Allport, thái<br />
độ là một trạng thái sẵn sàng về tâm lí và thần kinh, có ảnh hưởng mang tính hướng dẫn<br />
hay động lực trong phản ứng của cá nhân với đối tượng và tình huống có liên quan; là<br />
nguyên nhân hành động của người này đối với người khác hoặc một đối tượng khác; khái<br />
niệm thái độ còn giúp lí giải hành động kiên định của một người đó” [33]. Phạm Minh<br />
Hạc quan niệm thái độ là thái độ đối với giá trị, gọi là thái độ giá trị bản thân và nhân<br />
cách được coi "là tổ hợp các thái độ giá trị của con người với thế giới tự nhiên, thế giới<br />
đồ vật, với xã hội, với người xung quanh và với bản thân". Cấu trúc nhân cách được quy<br />
về tổ hợp các thái độ giá trị [4].<br />
Bên cạnh và tiếp sau thái độ cá nhân là hàng loạt cấu trúc tâm lí phản ánh quan hệ<br />
tích cực của chủ thể với đối tượng: Các tình cảm xã hội (tình yêu, tình bạn và các tình<br />
cảm cao cấp khác); đạo đức xã hội (nhận thức, thái độ và hành vi đối với các quy chuẩn<br />
xã xã hội); Các nét tính cách cá nhân; niềm tin, xu hướng v.v, cũng như việc huy động<br />
các yếu tố chủ quan và khách quan để thực hiện hoạt động, tương tác của cá nhân đó. Đây<br />
chính là các "vật liệu" để cái Tôi, cái chủ thể xây dựng nhân cách, đồng thời cũng là<br />
phương thức biểu hiện của nhân cách, qua các hoạt động và tương tác xã hội.<br />
(iv) Tầng biểu hiện (bề mặt) của nhân cách: Hành động, thao tác và các biểu hiện đa<br />
dạng khác của cá nhân trong hoạt động và tương tác xã hội<br />
Các yếu tố hành động, thao tác hay các biểu hiện hiện hữu và đa dạng của cá nhân là<br />
các cành, nhánh của cây; là phần nổi của tảng băng nhân cách.<br />
Giữa các yếu tố "tầng sâu" của nhân cách với các biểu hiện của nó có quan hệ phức tạp.<br />
Ở mức khái quát nhất và trong trạng thái bình thường của cá nhân, thường có sự tương<br />
quan theo chiều hướng nào đó giữa các yếu tố này. Tuy nhiên trong từng trường hợp cụ<br />
thể, hành động, thao tác của cá nhân không hoàn toàn tương ứng với các yếu tố tâm lí<br />
tầng sâu của nó, mà phụ thuộc nhiều vào tính chất và sức mạnh của hoàn cảnh khách quan<br />
tại thời điểm diễn ra hành động. Vì vậy, nghiên cứu nhân cách nhất thiết không chỉ dừng<br />
lại ở các biểu hiện hiện hữu của nó, mà cần "vượt qua" các biểu hiện đó, để xác lập các<br />
yếu tố chiều sâu của nhân cách đó và tác động của ngoại cảnh tới hành động và biểu hiện<br />
của nhân cách.<br />
22<br />
<br />