
Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 10
CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH KHỞI NGHIỆP CỦA THANH
NIÊN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lê Trần Phương Uyên, Nguyễn Thị Hòa Bình,
Nguyễn Thị Thanh Vy, Nguyễn Tuấn Dương
Trường Đại học Ngoại thương Cơ sở II
Email: tuanduongftu@gmail.com
(Ngày nhận bài: 26/11/2015; Ngày duyệt đăng: 18/12/2015)
TÓM TẮT
Hoạt động khởi nghiệp của thanh niên tại thành phố Hồ Chí Minh đang đứng trước nhiều cơ
hội và thách thức. Nghiên cứu này phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định khởi nghiệp
của thanh niên ở Thành phố Hồ Chí Minh. Số liệu thu thập với 324 mẫu hợp lệ, được xử lý
bằng phần mềm SPSS phiên bản 22 nhằm kiểm định mức độ tin cậy của thang đo bằng hệ số
Cronbach’s Alpha để loại bỏ biến không phù hợp, sau đó tiếp tục sử dụng cho phân tích nhân
tố khám phá EFA để nhóm nhân tố và loại các biến không đạt chuẩn, các nhân tố mới được
đưa vào phân tích hồi quy để xác định các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định khởi
nghiệp của thanh niên. Kết quả đã chỉ ra có 4 yếu tố ảnh hưởng đến quyết định khởi nghiệp
của thanh niên tại thành phố Hồ Chí Minh gồm (1) Thị trường – Tài chính – Năng lực, (2)
Nghiên cứu và Phát triển, (3) Pháp lý, (4) Văn hóa. Tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay làn
sóng khởi nghiệp vẫn chưa thực sự bền vững và khởi sắc. Các hoạt động nhằm thúc đẩy và hỗ
trợ thanh niên khởi nghiệp cần phải đóng một vai trò thiết yếu và phải có được sự quan tâm
kịp thời, đầu tư lâu dài, đúng mức và đồng bộ vào các yếu tố trên. Nhóm nghiên cứu hy vọng
những giải pháp, kiến nghị đề ra, dù chưa thật sự hoàn thiện, sẽ góp phần định hướng xây
dựng các chương trình hỗ trợ, thúc đẩy thanh niên TP.HCM khởi nghiệp trong tương lai.
Từ khóa: khởi nghiệp, thanh niên, Thành phố Hồ Chí Minh, quyết định khởi nghiệp.
ABSTRACT
Youth entrepreneurship activities in Ho Chi Minh City are facing many opportunities and
challenges. The study analyzes the factors that influence the decision of youth
entrepreneurship in Ho Chi Minh City. Data collected with 324 valid sample, which are
processed by SPSS version 22 software to test the reliability of the scale by coefficient
Cronbach's Alpha to remove the variables that do not match, then further used in Exploratory
Factor Analysis and the variables disqualified are also removed, these factors are included in
the regression analysis to identify important factors that affect the decision of youth
entrepreneurship. The results show there are 4 factors affecting the decision of youth
entrepreneurship in Ho Chi Minh city, including (1) Market - Finance – Personal capability,
(2) Research and Development, (3) Legal, (4) Culture. In Ho Chi Minh City today startup
trend has not been truly sustainable and prosperous. The activities aimed at promoting and
supporting youth entrepreneurship must play an essential role and must get timely care, long-
term investment, adequate and synchronized on the above factors. The researchers hope the
measures and proposals outlined, though not really perfect, will help shape building
assistance programs, promoting youth entrepreneurship in the future.
Keywords: entrepreneurship, youth, Ho Chi Minh City, the decision of youth
entrepreneurship.
GIỚI THIỆU
Các công ty khởi nghiệp không chỉ tạo giá trị
cho những người khởi nghiệp mà còn cho các
cổ đông của doanh nghiệp, người lao động,
cộng đồng và xã hội. Hệ sinh thái khởi
nghiệp đã hình thành những làn sóng đầu tiên
cách đây khoảng 10 năm nhưng hiện nay, hệ
sinh thái ấy đã có nhiều thay đổi và đặt ra
nhiều thách thức trong bối cảnh hiện tại. Số
lượng công ty giải thể tăng trong những năm
gần đây sau khủng hoảng kinh tế, đồng thời
số lượng công ty thành lập mới giảm đã dẫn

Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 11
đến tâm lý e ngại khi khởi nghiệp. Theo tổng
cục thống kê, có 75.559 doanh nghiệp mới
được thành lập trong năm 2013, tăng 10,1%
so với năm 2012 và số doanh nghiệp ngừng
hoạt động hoặc giải thể là 60.737, tăng
14,1% so với năm 2012. Và riêng tại thành
phố Hồ Chí Minh, trong năm 2014, có
23.940 doanh nghiệp đăng ký mới, giảm
5,6% so với năm 2013, tổng số doanh nghiệp
ngưng hoạt động là 22,423 doanh nghiệp.
Trước tình hình đó, việc kích thích hoạt động
khởi nghiệp đang là một vấn đề đáng chú
trọng và nên đẩy mạnh. Để làm được điều
này, những giải pháp liên quan đến các nhân
tố tác động đến quyết định khởi nghiệp cần
được đưa ra. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn chưa
nhận được sự quan tâm đúng mức và đồng bộ
từ chính quyền và xã hội. Điển hình là việc
vẫn còn rất ít các chính sách cũng như hoạt
động kích thích khởi nghiệp được tổ chức tại
thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và trên cả
nước nói chung.
Cuốn sách “Entreprenuership and small
business” đưa ra tổng quan về tình hình khởi
sự kinh doanh ở châu Á Thái Bình Dương.
Bài báo “Nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu
tố tính cách cá nhân lên tiềm năng khởi
nghiệp của sinh viên” tập trung nghiên cứu
tình hình khởi nghiệp của sinh viên tại một
số trường đại học tiêu biểu trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh trên phương diện các nhân
tố chủ quan ảnh hưởng đến ý định khởi
nghiệp của thanh niên. Bài nghiên cứu “Đặc
điểm và động lực khởi nghiệp của giới trẻ”
nghiên cứu đặc điểm tính cách và động lực
cá nhân về việc khởi nghiệp. Những bài viết
trên đa phần nghiên cứu vấn đề ở góc độ vĩ
mô về khởi sự kinh doanh chứ chưa tập trung
phân tích hoạt động khởi nghiệp, hoặc chỉ
phân tích một khía cạnh là những yếu tố tác
động đến quyết định khởi nghiệp mang tính
cá nhân. Bên cạnh đó, những bài viết này
chưa cung cấp được những số liệu thực tiễn,
đáng tin cậy về hoạt động khởi nghiệp ở
thành phố Hồ Chí Minh.
Chính vì những lý do đó, đề tài: “Các nhân tố
ảnh hưởng đến quyết định khởi nghiệp của
thanh niên tại thành phố Hồ Chí Minh” đã
được lựa chọn để tiến hành nghiên cứu.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài có đối tượng nghiên cứu là các nhân
tố tác động đến quyết định khởi nghiệp của
thanh niên có độ tuổi từ 18 đến 30 tại thành
phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu tại bàn và khảo sát
bằng bảng hỏi kết hợp thống kê, phân tích
hồi quy được sử dụng làm sáng tỏ vấn đề
nghiên cứu. Đối với phương pháp nghiên cứu
tại bàn, đề tài khai thác lý thuyết khoa học
khởi nghiệp kinh doanh, các tài liệu, dữ liệu
trong và ngoài nước và thống kê của ban
ngành chức năng về hoạt động khởi nghiệp
và hỗ trợ, thúc đẩy khởi nghiệp tại thành phố
Hồ Chí Minh. Ngoài ra, nhóm tác giả nghiên
cứu tình huống (case-study) hoạt động thúc
đẩy và hỗ trợ khởi nghiệp của Hoa Kỳ, Israel,
Nhật Bản, Trung Quốc và Singapore để có
được góc nhìn thực tế và đúc kết bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam nói chung và thành
phố Hồ Chí Minh nói riêng. Đối với phương
pháp nghiên cứu thực nghiệm, nhóm tác giả
tiến hành theo trình tự 3 bước như sau:
Bước 1: Đề xuất mô hình nghiên cứu/Thiết kế
nghiên cứu
Khởi nghiệp kinh doanh là hình thức chủ yếu
của khởi sự kinh doanh, khi đó người chủ
doanh nghiệp biến những cơ hội kinh doanh
thành sản phẩm và dịch vụ kinh doanh trên
thị trường thông qua việc thành lập một
doanh nghiệp mới. Trên cơ sở mô hình các
nhân tố quyết định đến hoạt động kinh doanh
của OECD vào năm 2012 gồm các yếu tố:
khung pháp lý, điều kiện thị trường, tài
chính, nghiên cứu – phát triển (R&D) và
công nghệ, khả năng của người khởi nghiệp,
văn hóa, nhóm nghiên cứu áp dụng tương tự
đối với quyết định khởi nghiệp, theo đó xây
dựng mô hình các nhân tố tác động đến quyết
định khởi nghiệp của đối tượng mục tiêu
cũng trên cơ sở sáu tham biến chính: Pháp lý,
Thị trường, Tài chính, Nghiên cứu và Phát
triển (R&D), Năng lực, Văn hoá.

Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 12
Bảng 1. Mô hình các nhân tố tác động đến quyết định khởi nghiệp đề xuất
Nhân tố
Pháp lý
Thị trường
Tài chính
Nghiên cứu và
Phát triển (R&D)
Năng lực
Văn hoá
- Gánh nặng
hành chính khi
thành lập
- Gánh nặng
hành chính khi
doanh nghiệp
vận hành
- Quy định về
phá sản
- Quy định về an
toàn, sức khoẻ,
môi trường và
sản phẩm
- Quy định của
thị trường lao
động
- Sự đảm bảo về
mặt xã hội và
sức khoẻ
- Luật
chống độc
quyền
- Cạnh tranh
- Cơ hội
kinh doanh
tại thị
trường trong
nước
- Cơ hội
kinh doanh
tại thị
thường
nước ngoài
- Mức độ
tham gia
của cộng
đồng
- Mua sắm
công
- Tiếp cận
vốn vay
- Nhà đầu
tư “thiên
thần” -
Business
Angel
- Vốn đầu
tư mạo
hiểm (VC)
- Các
nguồn vốn
tín dụng
khác
- Thị
trường
chứng
khoán
- Đầu tư ngân sách
vào nghiên cứu và
phát triển
- Công trình
nghiên cứu khoa
học của các trường
Đại học
- Sự hợp tác về
mặt công nghệ
giữa các công ty
- Sự khuếch tán
công nghệ hiện có
- Việc bảo vệ bằng
phát minh, sáng
chế, sở hữu trí tuệ
- Kinh
nghiệm cá
nhân
- Kiến
thức cá
nhân
- Kỹ năng
doanh
nhân
- Các mối
quan hệ
nền tảng
- Nhập cư
vào các
khu vực
thuận lợi
cho khởi
nghiệp
- Thái độ
của xã hội
về rủi ro
- Thái độ
đối với
những
người khởi
nghiệp
- Mong
muốn sở
hữu riêng
một hoạt
động kinh
doanh
- Giáo dục
về tư duy
khởi nghiệp
Các giả thuyết cho mô hình nghiên cứu được
đề xuất như sau:
H1: Pháp lý có tác động cùng chiều đến
Quyết định khởi nghiệp;
H2: Thị trường có tác động cùng chiều đến
Quyết định khởi nghiệp;
H3: Tài chính có tác động cùng chiều đến
Quyết định khởi nghiệp;
H4: Nghiên cứu và Phát triển có tác động
cùng chiều đến Quyết định khởi nghiệp;
H5: Năng lực có tác động cùng chiều đến
Quyết định khởi nghiệp;
H6: Văn hóa có tác động cùng chiều đến
Quyết định khởi nghiệp.
Bước 2: Khảo sát thực nghiệm
Thang đo của khảo sát kế thừa mô hình các
nhân tố tác động đến hoạt động kinh doanh
của OECD (2012), trong đó từ 33 thang đo
do OECD đưa ra, sau khi phỏng vấn nhóm,
các thang đo khác được giữ nguyên, trừ yếu
tố Pháp lý tác giả đã loại 1 thang đo (Thuế
môn bài và thuế vốn) và xây dựng thêm 1
thang đo nhằm làm rõ ý Gánh nặng hành
chính khi thành lập. Nhóm nghiên cứu thiết
kế bảng hỏi (35 câu hỏi) sử dụng thang đo
Likert 5 điểm gồm 3 câu hỏi về quyết định
khởi nghiệp (câu hỏi số 8) và 32 câu hỏi xoay
quanh sáu nhóm nhân tố: nhóm pháp lý (7
câu), nhóm thị trường (6 câu), nhóm tài chính
(5 câu), nhóm nghiên cứu và phát triển (5
câu), nhóm năng lực (5 câu) và nhóm văn
hóa (4 câu) nhằm đánh giá nhân tố nào thuộc
các nhóm trên ảnh hưởng nhiều nhất đến
quyết định khởi nghiệp của thanh niên thành
phố.
Số mẫu quan sát tối thiểu cần đạt trong phân
tích nhân tố và hồi quy đa biến được tính
theo công thức là 50 + 8*m (với m: số biến
độc lập). Như vậy, với 6 biến độc lập từ mô
hình, số mẫu quan sát tối thiểu cần đạt được
hay số phiếu khảo sát hợp lệ tối thiểu cần có
là 50 + 8*6 = 98. Để tránh những sai sót
trong quá trình khảo sát, nhóm tác giả đã
phát ra 372 phiếu khảo sát. Sau khi lọc dữ
liệu, loại bỏ các phiếu trả lời không hợp lệ
(do không quan tâm đến việc tiết kiệm nước,
trả lời không đầy đủ,…) thì số bảng khảo sát
hợp lệ là 324, trong đó có 179 đối tượng trả
lời là đã khởi nghiệp và được đưa vào phân
tích. Số lượng mẫu thoả mãn các yêu cầu
thống kê và phân tích nhân tố.
Bước 3: Phân tích dữ liệu
Đầu tiên, nhóm tác giả kiểm định thang đo
bằng hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha để loại

Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 13
các biến rác. Các biến có hệ số tương quan
biến - tổng (item - total correlation) nhỏ hơn
0,3 sẽ bị loại và tiêu chuẩn chọn thang đo khi
độ tin cậy Cronbach’s Alpha phải từ 0,6 trở
lên. Sau đó, nhóm tiến hành phân tích nhân
tố khám phá EFA (Exploratory Factor
Analysis) để thu nhỏ và tóm tắt các dữ liệu
có ích cho việc xác định các tập hợp biến cần
thiết. Yêu cầu đầu tiên là hệ số KMO
(Kaiser-Meyer-Olkin) phải có giá trị lớn (0,5
< KMO < 1) và hệ số tải nhân tố của từng
biến quan sát phải có giá trị lớn hơn 0,5. Khi
tiến hành phân tích nhân tố, nhóm tác giả sử
dụng phương pháp trích (extraction method)
là Principle Components Analysis với phép
xoay (rotation) Varimax và phương pháp tích
nhân tố là phương pháp hồi quy tuyến tính
(Regression). Kế đến, nhóm tác giả xây dựng
hàm hồi quy và kiểm định sự phù hợp của
mô hình. Kết quả sau phân tích sẽ là căn cứ
đề xuất những kiến nghị nhằm nâng cao chất
lượng các hoạt động thúc đẩy thanh niên tại
TP.HCM khởi nghiệp.
KẾT QUẢ VÀ ĐỀ NGHỊ
Tiến hành nghiên cứu thực nghiệm và phân
tích kết quả, nhóm nghiên cứu đã chọn ra
được 20 biến thuộc 4 nhóm thành phần có tác
động đến quyết định khởi nghiệp của thanh
niên tại thành phố Hồ Chí Minh như bảng
sau:
.Bảng 2. Thang đo quyết định khởi nghiệp
Biến
Mẫu
Giá trị
trung bình
Thị trường – Tài chính – Năng lực
179
THITRUONG4
Nhiều cơ hội kinh doanh tại thị trường nội địa
179
4,34
NANGLUC2
Việc vững kiến thức
179
3,94
THITRUONG1
Luật chống độc quyền chặt chẽ hơn
179
4,32
TAICHINH3
Việc tiếp cận các Quỹ đầu tư mạo hiểm dễ dàng
179
4,09
TAICHINH1
Việc tiếp cận các nguồn vốn vay (thủ tục thấp, lãi
suất ưu đãi,...) dễ dàng
179
4,05
THITRUONG2
Thị trường ít cạnh tranh
179
4,09
NANGLUC1
Nhiều kinh nghiệm kinh doanh
179
4,02
TAICHINH2
Việc tiếp cận những người có khả năng cấp vốn số
lượng lớn (Business angels) dễ dàng
179
3,95
NANGLUC3
Việc trang bị các kỹ năng cần thiết
179
4,06
Nghiên cứu và Phát triển
RD3
Việc tăng cường hợp tác công nghệ giữa các công ty
179
3,40
RD5
Bằng phát minh, sáng chế và quyền sở hữu trí tuệ
được bảo vệ chặt chẽ
179
3,41
RD1
Việc tăng cường đầu tư ngân sách vào nghiên cứu
và phát triển
179
3,43
RD4
Các công nghệ hiện có được cải tiến và nhân rộng
179
3,39
Pháp lý
PHAPLY6
Quy định hợp đồng lao động một cách đơn giản
179
3,01
PHAPLY5
Quy định đơn giản về quy cách, chất lượng sản
phẩm/dịch vụ
179
2,95
PHAPLY1
Yêu cầu đơn giản về vốn và các giấy phép hành
nghề cần có khi thành lập
179
2,93
PHAPLY2
Thủ tục thành lập doanh nghiệp nhanh gọn và chi
phí hợp lí
179
2,92
Văn hóa
VANHOA2
Quan niệm tích cực của xã hội về người khởi nghiệp
179
4,08
VANHOA4
Sự thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp trong giáo dục
179
4,03
VANHOA3
Khát khao làm chủ riêng một hoạt động kinh doanh
179
4,06

Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 14
Từ kết quả trên, nhóm tác giả xây dựng mô
hình hồi quy quyết định khởi nghiệp với giả
định quyết định khởi nghiệp là thành phần
phụ thuộc và bốn nhóm nhân tố Thị trường –
Tài chính – Năng lực, Nghiên cứu và Phát
triển, Pháp lý và Văn hóa là những thành
phần độc lập có ảnh hưởng cùng chiều đến
quyết định khởi nghiệp của thanh niên tại
TP.HCM. Nhóm nghiên cứu thu được kết
quả trình bày trong bảng sau
Bảng 3. Các hệ số hồi quy trong mô hình quyết định khởi nghiệp
Mô hình
Hệ số chưa
chuẩn hóa
Hệ số chuẩn
hóa
t
Mức
ý
nghĩa
(Sig.)
Tương quan chuỗi
B
Std,
Error
Beta
Hệ số
chấp nhận
Hệ số phóng đại
phương sai
Hằng số
-0,555
0,241
-2,306
0,022
X1
0,248
0,064
0,213
3,880
0,000
0,549
1,823
X2
0,190
0,046
0,202
4,171
0,000
0,701
1,427
X3
0,263
0,056
0,215
4,703
0,000
0,789
1,267
X4
0,498
0,058
0,480
8,571
0,000
0,527
1,897
Kết quả phân tích hệ số hồi quy cho thấy mô
hình không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyết
do hệ số chấp nhận lớn hơn 0,1 và hệ số
phóng đại phương sai (VIF) của các biến đều
nhỏ hơn 10. Đồng thời, do mức ý nghĩa (sig.)
của các nhân tố đều nhỏ hơn 0,05, nên có thể
nói các biến độc lập đều có tác động đến
quyết định khởi nghiệp. Giá trị hồi quy chuẩn
của các biến độc lập trong mô hình lần lượt:
Thị trường – Tài chính – Năng lực là 0,248;
Nghiên cứu và Phát triển là 0,190; Pháp lý là
0,263; Văn hóa là 0,498.
Mô hình hồi quy được viết lại:
Quyetdinh = 0,248*X1 + 0,190*X2 +
0,263*X3 + 0,498*X4
Với X1 là thành phần Thị trường – Tài chính
– Năng lực, X2 là thành phần Nghiên cứu và
Phát triển, X3 là thành phần Pháp lý và X4 là
thành phần Văn hóa.
Nhận xét chung về kết quả
Từ mô hình hồi quy trên, nhóm tác giả nhận
thấy:
Thành phần Văn hóa là nhóm nhân tố ảnh
hưởng nhiều nhất đến quyết định khởi nghiệp
của thanh niên với hệ số beta là 0,498. Rõ
ràng, văn hóa khởi nghiệp đóng vai trò rất
quan trọng trong việc thúc đẩy thanh niên đi
đến quyết định khởi nghiệp. Trong thành
phần Văn hóa, đối tượng được khảo sát đánh
giá cao (giá trị trung bình là 4,08) việc quan
niệm tích cực của xã hội về người khởi
nghiệp. Tiếp sau đó, việc khát khao làm chủ
riêng một hoạt động kinh doanh cũng nhận
được giá trị trung bình cao là 4,06. Đối tượng
khảo sát cũng đánh giá cao sự thúc đẩy tinh
thần khởi nghiệp trong giáo dục với giá trị
trung bình là 4,03.
Pháp lý là nhân tố có ảnh hưởng lớn thứ hai
đến quyết định khởi nghiệp với hệ số beta =
0,263.Từ kết quả khảo sát và thống kê mô tả,
đối tượng được khảo sát đánh giá cao thành
phần Pháp lý với giá trị trung bình các nhân
tố (1) quy định hợp đồng lao động một cách
đơn giản là 3,01, (2) quy định đơn giản về
quy cách, chất lượng sản phẩm/dịch vụ là
2,95, (3) yêu cầu đơn giản về vốn và các giấy
phép hành nghề cần có khi thành lập là 2,93;
và (4) thủ tục thành lập doanh nghiệp nhanh
gọn và chi phí hợp lí là 2,92. Như vậy, các
quy định trong quá trình vận hành doanh
nghiệp có tác động mạnh hơn so với các thủ
tục thành lập doanh nghiệp đến quyết định
khởi nghiệp của thanh niên.
Kết quả hồi quy cũng cho thấy Thị trường –
Tài chính – Năng lực tác động nhiều đến
quyết định khởi nghiệp nhưng ở mức độ thấp
hơn so với 2 yếu tố đã phân tích ở trên (hệ số
beta = 0,248). Đối tượng khảo sát đều đánh
giá cao các yếu tố của thành phần Thị trường
– Tài chính – Năng lực với các giá trị trung
bình đa số đều lớn hơn 4,00. Trong đó, giá trị
trung bình nhân tố nhiều cơ hội kinh doanh
tại thị trường nội địa là cao nhất (4,34) trong
khi nhân tố việc vững kiến thức lại có mức