JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2015-0063<br />
Social Sci., 2015, Vol. 60, No. 10, pp. 94-98<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
NHÂN VẬT NGƯỜI TRÍ THỨC TRONG SÁNG TÁC<br />
CỦA NAM CAO, NGUYỄN KHẢI VÀ MA VĂN KHÁNG<br />
<br />
<br />
Nguyễn Thị Quất<br />
Trung tâm Giáo dục Thường xuyên Hoài Đức, Hà Nội<br />
<br />
<br />
<br />
Tóm tắt. Nam Cao, Nguyễn Khải và Ma Văn Kháng là ba nhà văn đặc biệt thành công khi<br />
viết về người trí thức. Từ sự khác khác nhau về điểm nhìn và cá tính sáng tạo, mỗi nhà văn<br />
lại có cách khai thác riêng đối với kiểu nhân vật này. Đó là lí do vì sao nhân vật người trí<br />
thức hiện lên trong sáng tác của họ ngoài những nét chung còn có nhiều nét riêng biệt độc<br />
đáo. Qua hình tượng người trí thức, người đọc phần nào hình dung được những nỗi suy tư<br />
trăn trở của các nhà văn trước cuộc đời.<br />
Từ khóa: Nhân vật người trí thức, góc nhìn, Nam Cao, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng.<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Nhân vật người trí thức là nhân vật truyền thống của văn học Việt Nam [1, 2, 3]. Có thể<br />
khẳng định rằng, ngay từ buổi bình minh của văn học viết, trong các bài thơ chữ Hán đầu tiên, kiểu<br />
nhân vật này đã đi vào văn chương và trở thành những nhân vật đầu tiên của văn học. Cùng với<br />
sự vận động theo hướng hội nhập vào dòng chảy chung của văn học thế giới, sang thời kì văn học<br />
hiện đại, việc thể hiện nhân vật trí thức cũng có những thay đổi khá quan trọng. Từ chỗ chỉ được<br />
thể hiện ở chí khí, khát vọng lớn lao (qua cách thể hiện của các nhà thơ, nhà văn trung đại), chân<br />
dung người trí thức ngày một rõ nét hơn qua cách thể hiện của các nhà văn hiện đại. Cùng với nhân<br />
vật người lính và nông dân, kiểu nhân vật người trí thức đang dần dần khẳng định vị trí quan trọng<br />
của mình trên văn đàn. Vị trí quan trọng ấy không chỉ được tạo nên bởi số lượng nhân vật xuất hiện<br />
ngày một nhiều mà còn bởi ý nghĩa to lớn của kiểu nhân vật này trong việc thể hiện những bước<br />
tiến mới trong nhận thức về con người, thời đại và sự hình thành phong cách nghệ thuật ở một số<br />
nhà văn lớn. Trong quá trình sáng tác, rất nhiều nhà văn đã chọn người trí thức làm đối tượng thể<br />
hiện nhưng viết nhiều, viết hay về người trí thức phải kể đến ba nhà văn: Nam Cao, Nguyễn Khải<br />
và Ma Văn Kháng. Có thể nói cả ba nhà văn đều rất tâm huyết với đề tài người trí thức, trong bào<br />
viết này, chúng tôi tiếp cận nhân vật người trí thức của các nhà văn từ những góc nhìn khác nhau<br />
khiến họ hiện lên cũng mang những đặc điểm riêng khá độc đáo và ấn tượng.<br />
<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 15/7/2015 Ngày nhận đăng: 10/11/2015<br />
Liên hệ: Nguyễn Thị Quất, e-mail: quat68@gmail.com<br />
<br />
<br />
<br />
94<br />
Nhân vật người trí thức trong sáng tác của Nam Cao, Nguyễn Khải và Ma Văn Kháng<br />
<br />
<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Người trí thức trong sáng tác của Nam Cao<br />
Trong văn học hiện đại Việt Nam, Nam Cao được người đọc biết đến trước hết với tư cách<br />
là nhà văn xuất sắc của dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945. Người đọc biết đến ông<br />
không chỉ bởi những nhân vật như Chí Phèo, lão Hạc mà còn bởi những nhân vật như Thứ, Hộ,<br />
Điền... Trước Nam Cao, các nhà văn Tự Lực văn đoàn đã viết về người trí thức, nhưng phải đến<br />
Nam Cao, vấn đề thân phận người trí thức mới được đặt ra, chất trí thức mới được dụng công khai<br />
thác, nhân vật người trí thức mới thực sự trở thành nỗi ám ảnh đối với người đọc. Các nhân vật Thứ<br />
(trong Sống mòn), Hộ (trong Đời thừa), Điền (trong Giăng sáng), tôi (trong Mua nhà). . . từng để<br />
lại những dấu ấn khó quên trong lòng bạn đọc về cuộc sống của người trí thức Việt Nam giai đoạn<br />
trước 1945. Tìm hiểu tác phẩm của Nam Cao, người đọc dễ dàng nhận thấy nhân vật trí thức của<br />
ông đều là những con người có lí tưởng, có hoài bão nhưng “Cả lí tưởng nhân đạo cao cả, hoài bão<br />
nghệ thuật chân chính đều có nguy cơ chết mòn trước sự tấn công quyết liệt, dai dẳng và tàn bạo<br />
của cái đói” [2;156]. Trong thực tế cuộc sống và văn học, người có khát vọng đẹp không phải là<br />
hiếm, cũng không phải ai cũng thực hiện được dự định của mình, nhưng nếu có thể dằn lòng từ bỏ<br />
được ước mơ, chấp nhận thực tại hoặc tha hóa mà không biết mình đang tha hóa cũng cũng không<br />
có bi kịch. Nhân vật của Nam Cao thì không như vậy, họ luôn ý thức rất rõ về bản thân, ý thức rất<br />
rõ sự “mòn đi”, “gỉ đi”, tầm thường đi của mình. Họ coi khinh bản thân, họ uất ức với hoàn cảnh<br />
nhưng không biết làm cách nào để thoát ra khỏi hoàn cảnh. Cũng vì thế nhân vật người trí thức của<br />
Nam Cao có tài năng, có nhân cách, có hoài bão đẹp nhưng cũng là người thụ động, bạc nhược.<br />
Đứng ở góc độ một trí thức tiểu tư sản sống dưới thời thực dân nửa phong kiến, Nam Cao luôn xem<br />
vấn đề cơm áo là rào cản lớn trên hành trình thực hiện ước mơ, là nguyên nhân gây nên bi kịch tinh<br />
thần của người trí thức. Đọc truyện ngắn và tiểu thuyết Nam Cao trước cách mạng chúng tôi nhận<br />
thấy đằng sau mỗi nhân vật trí thức có một nỗi buồn da diết, một sự trăn trở khôn nguôi của nhà<br />
văn trước hoàn cảnh bế tắc của chính ông và cũng là của tầng lớp trí thức thời kì trước cách mạng.<br />
Sau cách mạng, so với các nhà văn cùng thời, Nam Cao cũng là người sớm lột xác và nhanh<br />
chóng bắt nhịp với cách mạng, ông không chỉ tìm được lối đi cho mình mà còn tìm được lối thoát<br />
cho nhân vật. Nếu như trước kia, người trí thức của Nam Cao bế tắc trước hoàn cảnh thì lúc này<br />
họ đã biết mình phải làm gì. Độ (Đôi mắt) đã từ bỏ giấc mộng văn chương hăng hái lên đường<br />
tham gia kháng chiến, sẵn sàng trở thành anh tuyên truyền viên nhãi nhép để đóng góp công sức<br />
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bên cạnh những người sẵn sàng từ bỏ giấc mộng cá nhân vì đất<br />
nước, còn có những trí thức chậm tiến khoanh tay đứng ngoài cuộc, hơn thế nữa còn lên giọng chửi<br />
đổng, tiêu biểu là nhân vật Hoàng. Đứng ở góc độ của một trí thức cách mạng, Nam Cao đánh giá<br />
người trí thức ở thái độ nhập cuộc và ý thức trách nhiệm với sự nghiệp chung. Nam Cao sớm hi<br />
sinh khiến cho những ấp ủ lớn về nghệ thuật không thể tiếp tục thực hiện nhưng những gì ông đã<br />
gợi ra lớp nhà văn nối tiếp sẽ tiếp tục khai thác. Với những thành công về mảng đề tài người trí<br />
thức, Nam Cao vẫn xứng đáng là người đầu tiên định hình nên một kiểu chân dung nhân vật đặc<br />
biệt - nhân vật trí thức - trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.<br />
<br />
2.2. Người trí thức trong sáng tác của Nguyễn Khải<br />
Tiếp nối Nam Cao, một số nhà văn thời kì kháng chiến chống Pháp và Mỹ cũng có viết về<br />
người trí thức. Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh nên kiểu nhân vật đặc biệt này chưa được quan<br />
tâm thể hiện một cách đúng mức, cũng vì thế chân dung của họ hiện lên chưa đậm nét và chưa đủ<br />
để định hình một phong cách nghệ thuật. Phải đến khi chiến tranh kết thúc, vai trò của người trí<br />
thức trong công cuộc xây tái thiết đất nước được khẳng định, cái tôi cá nhân được quan tâm trở lại<br />
<br />
<br />
95<br />
Nguyễn Thị Quất<br />
<br />
<br />
thì người trí thức mới trở thành đề tài hấp dẫn với văn chương. Nguyễn Khải là một trong số các<br />
nhà văn đầu tiên có sự quan tâm đặc biệt đến người trí thức và thể hiện nó một cách đậm nét trong<br />
các tiểu thuyết của mình. Trong các tiểu thuyết: Cha và con và. . . , Gặp gỡ cuối năm, Thời gian<br />
của người, Vòng sóng đến vô cùng, Một cõi nhân gian bé tí. . . nhân vật người trí thức của Nguyễn<br />
Khải luôn đem đến cho người đọc những điều bất ngờ thú vị. Trong số họ có những người là tiến sĩ,<br />
cử nhân được đào tạo ở những trường đại học danh tiếng ở nước ngoài như anh Đại, anh Chương,<br />
anh Quý, anh Hảo (Gặp gỡ cuối năm), có trường hợp được đào tạo từ các trường đại học nổi tiếng<br />
trong nước như Bình (Gặp gỡ cuối năm), có người được đào tạo từ trường sĩ quan của Ngụy như<br />
Quân (Gặp gỡ cuối năm), Quân (Thời gian của người), có những người trở thành trí thức nhờ quá<br />
trình tự học tập rèn luyện trong quá trình lao động, công tác, tiêu biểu như ông Hai và chị Ba Huệ<br />
(Thời gian của người). . . nhưng họ đều là những con người tài năng, say mê và nhiệt huyết với lí<br />
tưởng sống đã lựa chọn.<br />
Tiểu thuyết Nguyễn Khải còn tạo được ấn tượng đặc biệt bởi sự hình thành một cách rất tự<br />
nhiên hai thế hệ trí thức trẻ và già, “sự xuất hiện thường xuyên thành cặp hai loại nhân vật già- trẻ<br />
này đã đem lại hình ảnh một xã hội đang vận động, với tất cả sự mâu thuẫn và thống nhất, sự tiếp<br />
nối và đứt đoạn giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, giữa các thế hệ trong một thời đại” [1;72]. Lớp<br />
trí thức già là những người đã từng đi qua chiến tranh, có thể từ sự từng trải với những thành công<br />
và thất bại của mình đủ khả năng để khái quát chân lí cuộc sống. Lớp trí thức trẻ là những người<br />
đang từng bước tự khẳng định mình trong công cuộc xây dựng đất nước. Họ thường đối thoại với<br />
nhau để tìm ra những chân lí cuộc sống và nhận thức được những bước đi cần thiết trong tương lai.<br />
Đọc tiểu thuyết Nguyễn Khải, chúng tôi nhận thấy trong khi Nam Cao đặt nhân vật vào<br />
trong mối quan hệ với vấn đề miếng cơm manh áo thì Nguyễn Khải đặt nhân vật vào mối quan hệ<br />
với các vấn đề chính trị, xã hội của đất nước để xem xét. Vấn đề chính Nam Cao quan tâm là vấn<br />
đề mối quan hệ giữa lí tưởng với và khả năng thực hiện lí tưởng thì vấn đề chủ yếu mà Nguyễn<br />
Khải quan tâm là vấn đề thái độ sống và sự lựa chọn cách sống. Sự khác biệt này xuất phát từ điểm<br />
nhìn nhân vật khác nhau. Với cách nhìn của một nhà văn đã từng trải qua thời kì khốc liệt nhất của<br />
chiến tranh, Nguyễn Khải xem sự thành công hay thất bại của người trí thức được quyết định trước<br />
tiên ở nhận thức chính trị. Nói như nhân vật Quân (Gặp gỡ cuối năm): “Làm người đã khó, làm<br />
người trí thức càng khó hơn. Hàng ngày phải lựa chọn, từng việc phải lựa chọn, lầm lỡ một chút là<br />
tiếng xấu để đời. . . ”. Trong tiểu thuyết, Nguyễn Khải đã xây dựng được cả những nhân vật trí thức<br />
thành công và thất bại. Ai chọn đúng thì lí tưởng được thực hiện, ai chọn sai thì thất bại và phải<br />
ôm hận mãi mãi. Anh Hảo, anh Quân (trong Gặp gỡ cuối năm), anh Quân, anh Vĩnh, ông Hai, chị<br />
Ba Huệ (trong “Thời gian của người) ngay từ đầu đã lựa chọn chính xác đường đi (một lòng đi<br />
theo cách mạng), chính vì thế mà có những đóng góp tích cực vào công cuộc giải phóng dân tộc,<br />
phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật trở thành một lực đẩy cho tiến trình phát triển chung. Còn<br />
anh Quý, anh Chương (Gặp gỡ cuối năm) từ nhận thức chính trị sai lầm dẫn đến lựa chọn đường<br />
đi sai lầm (làm việc cho chế độ ngụy quyền) và trở thành vật cản trong tiến trình phát triển xã hội,<br />
phải mang sự mặc cảm và nỗi ân hận suốt đời vì sự sai lầm ấy. Khi bước vào buổi xế bóng, sự lựa<br />
chọn dứt khoát cuối cùng của anh Chương và anh Quý: một người trở về làm người chồng người<br />
cha tốt làm một công dân bình thường, một người kiên quyết không chạy trốn ra nước ngoài là sự<br />
lựa chọn đúng đắn. Sự lựa chọn cuối cùng này cho thấy cái nhìn đầy nhân ái và tin tưởng của nhà<br />
văn đối với lớp trí thức đã từng lầm lẫn trong quá khứ.<br />
Đối với lớp trí thức trẻ, Nguyễn Khải đặt lại đặt họ vào môi trường xã hội thời kì hậu chiến<br />
bề bộn ngổn ngang, lẫn lộn cả tốt xấu trắng đen, ánh sáng và bóng tối để họ thể hiện mình. Lúc này<br />
sự thành hay bại lại phụ thuộc vào việc xác định cách sống. Bình (Gặp gỡ cuối năm) kiên quyết<br />
phản đối thái độ nhân nhượng và lối sống thực dụng vì theo anh, sống nhân nhượng sẽ không đóng<br />
góp gì cho sự phát triển, còn để đồng tiền len vào sự tính toán thì người trí thức sẽ đánh mất chính<br />
<br />
96<br />
Nhân vật người trí thức trong sáng tác của Nam Cao, Nguyễn Khải và Ma Văn Kháng<br />
<br />
<br />
mình. Câu chuyện anh kể về mấy người bạn của mình là những minh chứng cụ thể cho điều đó.<br />
Bình đã từng khẳng định một cách rất chắc chắn về những việc cần làm của thế hệ trẻ: phải bắt<br />
tay vào làm nhiều việc, sẽ có nhiều bỡ ngỡ và không tránh khỏi va vấp, nhưng việc đầu tiên cần<br />
làm là loại đồng tiền ra khỏi sự tính toán. Còn Giang (Vòng sóng đến vô cùng) chỉ rõ việc thờ ơ<br />
vô trách nhiệm với tập thể là nguyên nhân dẫn đến sự sa sút của đơn vị. Giang không đồng tình<br />
để cho mối quan hệ bạn bè xen vào trong công việc bởi khi đó trách nhiệm với tập thể sẽ không<br />
được đặt lên hàng đầu. Với Giang, cái anh cần là kinh nghiệm về sự thất bại, là sự từng trải trong<br />
thất bại để từ đó tìm cho mình một con đường đi thích hợp. Tìm hiểu những trí thức trẻ trong tiểu<br />
thuyết Nguyễn Khải, chúng tôi thấy họ đều là những người năng nổ nhiệt tình, dám nghĩ dám làm<br />
dám chịu trách nhiệm. Lựa chọn cách sống đứng vào giữa cái bề bộn ngổn ngang của ngày hôm<br />
nay, sẵn sàng đương đầu với những khó khăn để tìm một lối đi đúng đắn là việc làm thể hiện thái<br />
độ nhập cuộc rất tích cực của họ.<br />
Đọc Nguyễn Khải, chúng ta thấy, nhân vật trí thức của ông dù trẻ hay già đều rất ham tranh<br />
biện ham triết lí, thích bàn đến những vấn đề chính trị xã hội. Những con người này sống nặng về<br />
lí trí nên cho dù thành công hay thất bại, những xúc cảm vui buồn rất ít khi được thể hiện, lúc nào<br />
họ cũng đau đáu một điều: lựa chọn đường đi và cách ứng xử thế nào cho đúng đắn. Chính những<br />
đặc điểm này góp phần làm nên những nét riêng độc đáo của nhân vật trí thức trong tiểu thuyết<br />
Nguyễn Khải.<br />
<br />
2.3. Người trí thức trong sáng tác của Ma Văn Kháng<br />
Cùng thuộc lớp nhà văn đi tiên phong trong thời kì đổi mới, cùng lấy nhân vật trí thức làm<br />
đối tượng quan trọng để khi thác nhưng cách viết của Ma Văn Kháng và Nguyễn Khải lại rất khác<br />
nhau. Nếu như nhân vật trí thức của Nguyễn Khải được đặt trong mối quan hệ với các vấn đề chính<br />
trị lớn lao của đất nước thì Ma Văn Kháng lại đặt nhân vật trí thức các mối quan hệ đa dạng phức<br />
tạp của đời thường. Có thể nói nhân vật trí thức của Ma Văn Kháng vì thế mà gần gũi hơn, đời<br />
thường hơn nhân vật trí thức của Nguyễn Khải.<br />
Đọc tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kì đổi mới, chúng tôi nhận thấy nhân vật trí thức của<br />
ông hầu hết là những con người tài năng nhưng lại phải mang nỗi đau thân phận. Các nhân vật Tự,<br />
Kha, Thuật, ông Thống (trong Đám cưới không có giấy giá thú), Khiêm, cha Khiêm, Hoan, Thịnh<br />
(trong Ngược dòng nước lũ), ông Quyết Định, ông Đồng, Toàn (trong Một mình một ngựa), ông<br />
Thuần ( trong Chó Bi, đời lưu lạc). . . đều có chung cảm nhận đó. Nỗi đau thân phận của các nhân<br />
vật này được thể hiện ở ba sắc thái bi kịch cơ bản: bi kịch lạc thời vỡ mộng, bi kịch hôn nhân gia<br />
đình và bi kịch tha hóa nhân cách. Bi kịch thứ nhất là bi kịch của những người có lí tưởng sống<br />
cao đẹp nhưng thực tế xã hội chưa cho phép những lí tưởng ấy được thực hiện, chính vì sự tiến bộ<br />
của bản thân mà họ trở thành thiểu số, trở nên lạc lõng giữa thời đại mình và bị rơi vào trạng thái<br />
vỡ mộng. Họ chỉ biết “dùng nhân cách để chống trả, để sống, để chiến thắng mụ dì ghẻ cuộc đời”<br />
[3;93]. Bi kịch thứ hai là bi kịch những con người phải chịu nỗi đau bị người bạn đời phản bội.<br />
Nguyên nhân sâu xa dẫn đến nỗi đau này chính là ở chỗ họ luôn tuyệt đối hóa các giá trị tinh thần<br />
và đạo đức, không thể vứt bỏ lí tưởng sự nghiệp vì vợ con, không thể giẫm đạp lên các giá trị tinh<br />
thần cao quý để kiếm tiền phục vụ cho nhu cầu vật chất không biết thế nào là đủ của cuộc sống.<br />
Bi kịch thứ ba là bi kịch của những người có tài năng nhưng không có cơ hội phát triển tài năng vì<br />
bị đố kị cá nhân hoặc do những định kiến chính trị, họ đã cố gắng vươn lên để khẳng định giá trị<br />
bản thân nhưng trong quá trình vươn lên đó vì bất mãn mà sinh ra lệch lạc mất phương hướng và<br />
dần dần đánh mất chính mình. Nỗi đau đời của người trí thức luôn đem lại nỗi trăn trở khôn nguôi<br />
trong lòng bạn đọc khi gấp trang sách cuối cùng lại.<br />
Tuy nhiêu, nếu chỉ có bi kịch thì nhân vật trí thức của Ma Văn Kháng cũng trở nên đơn điệu<br />
và thiếu sức hấp dẫn. Điều làm nên sức sống lâu bền của nhân vật còn là ở chỗ: cho dù phải chịu<br />
<br />
97<br />
Nguyễn Thị Quất<br />
<br />
<br />
nỗi đau thân phận, dù phải mang những vết thương lòng không thể nào hàn hàn gắn nổi nhưng<br />
phần lớn trí thức vẫn vượt lên trên hoàn cảnh, chống lại số phận, vẫn khẳng định tài năng nhân<br />
cách của mình. Mặc dù bị đối xử bất công, bị tước đoạt mọi thứ nhưng Tự, ông Thống, Khiêm,<br />
Thịnh, ông Đồng, Toàn, ông Thuần vẫn giữ được cốt cách khí khái như các bậc đại nho thanh cao<br />
và ngạo nghễ khiến mọi người phải ngưỡng mộ. Điều đặc biệt là trong tiểu thuyết của Ma Văn<br />
Kháng đã xuất hiện người trí thức trẻ có tính chủ động cao, có tinh thần nhập cuộc hết sức tích cực<br />
sẵn sàng đứng ra đảm nhiệm trọng trách lớn lao, sẵn sàng đối mặt với những chông gai thử thách,<br />
tiểu biểu là nhân vật người học trò giấu tên trong “Đám cưới không có giấy giá thú”. Chính việc<br />
giữ trọn vẹn nhân cách thanh cao, bước đầu dám đứng lên để thực hiện sứ mệnh là người đi tiên<br />
phong trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới đã khiến cho người đọc thêm tin tưởng ở bản lĩnh<br />
và khả năng của người trí thức trong hành trình đi đến tương lai.<br />
<br />
3. Kết luận<br />
Đọc những tác phẩm viết về người trí thức của Nam Cao, Nguyễn Khải và Ma Văn Kháng,<br />
chúng ta nhận thấy, dù xuất phát từ những góc nhìn khác nhau nhưng ba nhà văn có chung một<br />
điểm đến đó là qua nhân vật người trí thức để bày tỏ những trăn trở của mình trước các vấn đề xã<br />
hội nói chung và về người trí thức nói riêng. Những vấn đề như: lí tưởng và đời thường, trí thức và<br />
giả danh trí thức, mối quan hệ người trí thức và dân tộc, bản lĩnh của người trí thức trước những<br />
tác động tiêu cực từ xã hội. . . được các nhà văn đề cập đến luôn là những vấn đề mà người trí thức<br />
ở mọi thời đại phải suy ngẫm để từ đó tìm ra cách ứng xử phù hợp nhất cho mình.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
[1] Kiều Thu Huyền, 2007. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Khải. Luận văn thạc sĩ,<br />
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.<br />
[2] Nhiều tác giả, 1998. Nam Cao - Về tác gia và tác phẩm. Nxb Giáo dục, Hà nội<br />
[3] Nguyễn Thị Kim Tiến, 2012. Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới. Luận án<br />
tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.<br />
[4] Kiều Thu Huyền, 2007. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Khải. Luận văn thạc sĩ,<br />
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.<br />
[5] Nguyễn Khải, 2001. Tuyển tập tiểu thuyết Nguyễn Khải, (Tập 1). Nxb Thanh Niên, Hà Nội.<br />
[6] Nguyễn Khải, 2001. Tuyển tập tiểu thuyết Nguyễn Khải, (Tập 2). Nxb Thanh Niên, Hà Nội.<br />
[7] Ma Văn Kháng, 1990. Đám cưới không có giấy giá thú. Nxb Lao Động, Hà Nội.<br />
[8] Ma Văn Kháng, 1999. Chó Bi đời, đời lưu lạc. Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.<br />
[9] Ma Văn Kháng, 2010. Một mình một ngựa. Nxb Phụ nữ, Hà Nội.<br />
[10] Ma Văn Kháng, 2000. Ngược dòng nước lũ. Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.<br />
[11] Nguyễn Thị Kim Tiến, 2012. Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. Luận án<br />
tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
Nam Cao, Nguyen Khai and Ma Van Khang are authors who succeeded in writing<br />
about educated characters. Each has their own analysis of characters’ personalities due to their<br />
differences in creativity and personal point of view. That is why, besides common personality<br />
intellectual characters in their works, possess their own typical characteristics. Readers can know<br />
more about the authors’ concerns towards as well as their reflections on life though the characters<br />
in their works.<br />
Keywords: Educated characters, point, Nam Cao, Nguyen Khai, Ma Van Khang<br />
<br />
98<br />