T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2017<br />
<br />
NHẬN XÉT MỐI LIÊN QUAN<br />
CÁC CHẤT ĐÁNH DẤU KHỐI U CEA, CA 15-3, CA 125<br />
VỚI MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ MÔ BỆNH UNG THƯ VÚ<br />
Nguyễn Ngọc Trung*; Nguyễn Văn Nam*; Nguyễn Trường Giang**<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: nhận xét mối liên quan của các chất đánh dấu khối u CEA, CA 15-3 và CA 125 với<br />
một số đặc điểm lâm sàng và mô bệnh ung thư vú (UTV). Đối tượng và phương pháp: nghiên<br />
cứu mô tả có phân tích, tiến cứu trên 50 bệnh nhân (BN) UTV được chẩn đoán xác định bằng<br />
mô bệnh học. BN được định lượng nồng độ CEA, CA 15-3, CA 125 trước mổ và tìm mối liên<br />
quan với một số đặc điểm lâm sàng và mô bệnh. Kết quả: nồng độ CEA, CA 15-3 và CA 125<br />
trong huyết thanh tăng lần lượt là: 12/50 BN (24%), 15/50 BN (30%) và 5/50 BN (10%). Có mối<br />
liên quan giữa tăng nồng độ CEA và CA 15-3 trước mổ với tình trạng di căn hạch nách, có mối<br />
liên quan giữa tăng nồng độ CA 15-3 với kích thước khối u > 3 cm. Không có mối liên quan<br />
giữa nồng độ các chất đánh dấu khối u với týp mô bệnh. Kết luận: nồng độ các chất CEA, CA<br />
15-3 có liên quan đến tình trạng di căn hạch nách. Nồng độ CA 15-3 tăng rõ ở BN có kích<br />
thước khối u > 3 cm. Không có sự liên quan nồng độ các chất đánh dấu khối u với týp mô bệnh.<br />
* Từ khóa: Ung thư vú; Chất đánh dấu khối u; CEA; CA 15-3; CA 125; Mô bệnh học.<br />
<br />
Review the Relationship between Tumor Markers CEA, CA 15-3<br />
and CA 125 with some Clinical Characteristics and Histopathology<br />
in Breast Cancer Patients<br />
Summary<br />
Objectives: To investigate the relationship between preoperative serum CEA, CA15-3 and<br />
CA 125 levels with some clinical characteristics and histopathology in breast cancer patients.<br />
Subjects and methods: Serum preoperative CEA, CA 15-3 and CA 125 concentration levels<br />
were measured in a total of 50 breast cancer patients. The association between tumor markers<br />
levels and clinicopathological parameters were analyzed. Results: Elevated serum levels of<br />
CEA, CA15-3 and CA 125 were identified in 12 patients (24%), 15 patients (30%) and 5 patients<br />
(10%), respectively. Larger tumor size, advanced axillary lymph nodal exhibited higher<br />
proportion of elevated CEA and CA15-3 levels. The serum levels of tumor markers had no<br />
relevance to histopathological type of breast cancer. Conclusions: Preoperative serum levels of<br />
CEA and CA15-3 are correlative to axillary lymph node metastasis, especially elevated serum<br />
level of CA 15-3 is concerned with larger tumor side. The relationship between serum levels of<br />
tumor markers and histopathological type was not found.<br />
* Key words: Breast cancer; Marker tumors; Serum levels of CEA, CA 15-3, CA 125; Histopathology.<br />
* Bệnh viện Quân y 103<br />
** Học viện Quân y<br />
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Ngọc Trung (ngoctrungbv103@yahoo.com)<br />
Ngày nhận bài: 08/02/2017; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 06/03/2017<br />
Ngày bài báo được đăng: 23/03/2017<br />
<br />
147<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2017<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Ung thư vú là loại ung thư thường gặp<br />
và là một trong những nguyên nhân<br />
gây tử vong cao ở phụ nữ. Theo Cơ quan<br />
Nghiên cứu Ung thư Thế giới (IARC)<br />
năm 1998, UTV đứng đầu, chiếm 21%<br />
trong tổng số các loại ung thư ở phụ nữ<br />
trên toàn thế giới. Có nhiều phương pháp<br />
để chẩn đoán UTV như: sinh thiết tế bào<br />
bằng kim nhỏ, chụp X quang tuyến vú tia<br />
mềm, siêu âm tuyến vú, chụp cộng<br />
hưởng từ tuyến vú, chụp cắt lớp tuyến vú,<br />
chụp nhiệt tuyến vú…<br />
Tuy nhiên, việc chẩn đoán sớm UTV<br />
vẫn còn là vấn đề đáng được quan tâm.<br />
Với sự phát triển của công nghệ sinh học<br />
phân tử, công nghệ gen…, gần đây các<br />
chất đánh dấu khối u (còn được gọi là<br />
dấu ấn sinh học) được sử dụng nhiều<br />
trong chẩn đoán, sàng lọc sớm các khối<br />
u, giúp chẩn đoán, đánh giá khả năng<br />
đáp ứng điều trị và theo dõi tái phát ung<br />
thư [1, 2, 10].<br />
Để chẩn đoán sàng lọc sớm đối với<br />
các khối u ở vú, ngoài xét nghiệm chẩn<br />
đoán khác, trên lâm sàng hiện nay đã áp<br />
dụng xét nghiệm các chất đánh dấu khối<br />
u như CA 125, CA 15-3, CEA.<br />
Để đánh giá vai trò và giá trị của các chất<br />
đánh dấu khối u trong chẩn đoán và điều<br />
trị UTV, chúng tôi thực hiện đề tài nhằm:<br />
Nhận xét mối liên quan của các chất đánh<br />
dấu khối u CEA, CA 15-3, CA 125 với một<br />
số đặc điểm lâm sàng và mô bệnh UTV.<br />
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
NGHIÊN CỨU<br />
1. Đối tượng nghiên cứu.<br />
50 BN được phẫu thuật điều trị<br />
UTV tại Khoa Phẫu thuật Lồng ngực,<br />
148<br />
<br />
Bệnh viện quân y 103 từ 1 - 2015 đến<br />
3 - 2016.<br />
* Tiêu chuẩn lựa chọn BN:<br />
- BN được chẩn đoán xác định là UTV,<br />
làm xét nghiệm sinh hóa miễn dịch: CEA,<br />
CA 125, CA 15-3.<br />
- BN UTV được chẩn đoán týp mô<br />
bệnh học theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y<br />
tế Thế giới (2003).<br />
2. Phương pháp nghiên cứu.<br />
* Thiết kế nghiên cứu:<br />
Nghiên cứu mô tả có phân tích, tiến<br />
cứu.<br />
Tất cả BN nghiên cứu đều được đăng<br />
ký các chỉ tiêu thống nhất vào phiếu mẫu<br />
thiết kế chi tiết theo yêu cầu nghiên cứu<br />
trước mổ, trong mổ và sau mổ.<br />
* Các chỉ tiêu nghiên cứu:<br />
- Khối u: kích thước khối u xác định<br />
trên lâm sàng và siêu âm.<br />
- Hạch nách: vị trí hạch, số lượng<br />
hạch, kích thước hạch, xác định trên<br />
khám lâm sàng và siêu âm.<br />
- Sinh hóa miễn dịch máu: sử dụng<br />
mẫu máu chống đông heparin (2 ml). Xác<br />
định các thông số hóa sinh: CEA, CA 125,<br />
CA 15-3. Xét nghiệm thực hiện theo<br />
phương pháp miễn dịch huỳnh quang vi<br />
hạt. Phương pháp này thực hiện tại Bệnh<br />
viện Quân y 103 bằng máy Architect<br />
ci16200 (Hãng Abbott, Hoa Kỳ).<br />
- Xét nghiệm mô bệnh học sau mổ tại<br />
Khoa Giải phẫu bệnh, Bệnh viện Quân y<br />
103.<br />
* Xử lý số liệu: số liệu được lưu trữ và<br />
xử lý bằng phần mềm thống kê y học<br />
Epi.info 7.<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2017<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN<br />
Bảng 1: Số BN có nồng độ CEA, CA 125, CA 15-3 cao hơn giá trị bình thường.<br />
Chất đánh dấu<br />
khối u<br />
<br />
Trung bình ± lệch<br />
chuẩn<br />
<br />
Giá trị bình thường<br />
<br />
Số BN cao hơn bình<br />
thường<br />
<br />
8,45 ± 5,34<br />
<br />
0 - 10<br />
<br />
12/50 (24%)<br />
<br />
CA 125 (U/ml)<br />
<br />
25,73 ± 10,79<br />
<br />
0 - 35<br />
<br />
5/50 (10%)<br />
<br />
CA 15-3 (U/ml)<br />
<br />
23,15 ± 22,51<br />
<br />
0 - 32<br />
<br />
15/50 (30%)<br />
<br />
CEA (ng/ml)<br />
<br />
- CEA: nồng độ trung bình 7,40 ± 5,34<br />
ng/ml (1,13 - 26,93 ng/ml), 12/50 BN<br />
(24%) có giá trị cao hơn mức bình<br />
thường (0 - 10 ng/ml).<br />
- CA 125: nồng độ trung bình 15,34 ±<br />
9,80 U/ml (2,5 - 49 U/ml), 5/50 BN (10%)<br />
có giá trị cao hơn mức bình thường<br />
(0 - 35 U/ml).<br />
- CA 15-3: nồng độ trung bình 24,36 ±<br />
22,37 U/ml (5,5 - 58,9 U/ml), 15/50 BN<br />
(30%) có giá trị cao hơn mức bình<br />
thường (0 - 32 U/ml).<br />
Kết quả của chúng tôi tương tự nghiên<br />
cứu của Kandylis K và CS [5] về nồng độ<br />
các kháng nguyên khối u CEA, CA 15-3<br />
và CA 125 của BN UTV: 65,7% BN tăng<br />
nồng độ CA 15-3 (> 35 U/ml), 37,5% BN<br />
có CEA tăng (> 9 ng/ml) và 93,8% có<br />
nồng độ CA 125 tăng (> 35 U/ml). Độ<br />
nhạy và độ đặc hiệu cho CA 15-3 là<br />
65,7% và 76,6%, với CEA là 37,5% và<br />
77,7% và CA 125 là 93,8% và 28,7%.<br />
Theo tác giả, CA 15-3 là một chất đánh<br />
dấu với độ chính xác chẩn đoán xác định<br />
so với CEA và CA 125 trong UTV. CA<br />
125 xuất hiện nhiều trong huyết thanh của<br />
BN có các bệnh lý ác tính khác và<br />
cả u vú lành tính. Không nên sử dụng<br />
<br />
riêng lẻ các chất đánh dấu khối u để chẩn<br />
đoán UTV.<br />
Tuy một số trường hợp trên lâm sàng<br />
đã chẩn đoán xác định là UTV, nồng độ<br />
chất đánh dấu khối u thậm chí nhỏ hơn<br />
giá trị bình thường, nhưng tỷ lệ BN có giá<br />
trị cao hơn bình thường và giá trị trung<br />
bình nhiều hơn so với giá trị giữa của giá<br />
trị bình thường cao hơn có ý nghĩa thống<br />
kê. Thực tế, các xét nghiệm chất đánh<br />
dấu khối u trên lâm sàng chỉ có giá trị<br />
định hướng khi đã phát hiện u, còn chẩn<br />
đoán xác định phải dựa vào xét nghiệm<br />
mô bệnh học. Tuy vậy, trên thực tế lâm<br />
sàng, nhiều tác giả đồng ý trong các chất<br />
đánh dấu khối u, CA 15-3 có giá trị hơn<br />
trong chẩn đoán UTV [3, 4, 6, 7].<br />
Chúng tôi cũng nhận thấy BN có nồng<br />
độ cao hơn giá trị bình thường gặp nhiều<br />
nhất đối với CA 15-3 (30%). Còn đối với<br />
CEA là 24% và CA 125 là 10%. Điều này<br />
phù hợp đối với các nghiên cứu: trong<br />
3 chất đánh dấu khối u để chẩn đoán, CA<br />
15-3 có giá trị hơn cả. Còn đối với CEA<br />
và CA 125, ít có giá trị hơn. Tuy vậy, để<br />
chẩn đoán ung thư phải kết hợp xét<br />
nghiệm cả 3 yếu tố và dựa vào các xét<br />
nghiệm khác, đặc biệt chẩn đoán mô<br />
bệnh.<br />
149<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2017<br />
Bảng 2: Liên quan kích thước khối u và nồng độ CEA, CA 125, CA 15-3.<br />
Nhóm kích thước<br />
u < 3 cm<br />
<br />
Nhóm kích thước<br />
u ≥ 3 cm<br />
<br />
p<br />
<br />
7,37 ± 5,82<br />
<br />
7,59 ± 4,52<br />
<br />
> 0,05<br />
<br />
CA 125<br />
<br />
16,22 ± 12,41<br />
<br />
14,87 ± 7,34<br />
<br />
> 0,05<br />
<br />
CA 15-3<br />
<br />
14,14 ± 9,41<br />
<br />
29,97 ± 27,01<br />
<br />
0,00399<br />
<br />
Nồng độ trung bình chất<br />
đánh dấu khối u<br />
CEA<br />
<br />
Trong 50 BN nhóm ung thư: 32 BN có<br />
kích thước u < 3 cm, nồng độ trung bình<br />
CEA, CA 125, CA 15-3 lần lượt là: 7,37 ±<br />
5,82 ng/ml; 16,22 ± 12,41 U/ml; 14,14 ±<br />
9,41 U/ml. 18 BN có kích thước u ≥ 3 cm,<br />
nồng độ trung bình CEA, CA 125, CA 153 lần lượt là: 7,59 ± 4,52 ng/ml; 14,87 ±<br />
7,34 U/ml; 29,97 ± 27,01 U/ml.<br />
Khi tìm hiểu mối liên quan giữa kích<br />
thước khối u và nồng độ các chất chỉ<br />
điểm, chúng tôi thấy nồng độ CA 15-3 có<br />
liên quan đến kích thước khối u với p =<br />
0,00399. Các chất khác, sự khác biệt<br />
không có ý nghĩa thống kê.<br />
Kết quả này phù hợp với nghiên cứu<br />
của Shao Y và CS [9] trên 432 BN được<br />
<br />
định lượng CEA và CA 15-3 trước phẫu<br />
thuật thấy nồng độ cao CEA và CA15-3<br />
tăng ở 47 BN (10,9%) và 60 BN<br />
(13,9%). Kích thước khối u lớn hơn,<br />
hạch nách xuất hiện và giai đoạn muộn<br />
hơn chiếm tỷ lệ cao hơn khi nồng độ<br />
CEA, CA 15-3 tăng. Nồng độ CEA tăng<br />
đáng kể ở BN có khối u HER2 dương<br />
tính, nồng độ CA 15-3 tăng đáng kể ở<br />
BN ER âm tính. Theo tác giả, nồng độ<br />
CEA và CA 15-3 trước phẫu thuật là các<br />
thông số tiên lượng độc lập cho BN<br />
UTV. Tuy nhiên, riêng đối với CA 15-3<br />
là yếu tố có giá trị cao trong chẩn đoán<br />
và là một yếu tố tiên lượng đối với<br />
bệnh UTV.<br />
<br />
Bảng 3: Liên quan tình trạng hạch nách và nồng độ CEA, CA 125, CA 15-3.<br />
Nồng độ trung bình chất đánh dấu khối u<br />
<br />
Có hạch nách<br />
<br />
Không có hạch nách<br />
<br />
p<br />
<br />
CEA<br />
<br />
10,21 ± 5,76<br />
<br />
5 ± 4,35<br />
<br />
0,00294<br />
<br />
CA 125<br />
<br />
16,21 ± 11,88<br />
<br />
14,63 ± 7,94<br />
<br />
> 0,05<br />
<br />
CA 15-3<br />
<br />
30,1 ± 26,07<br />
<br />
14,95 ± 10,74<br />
<br />
0,03554<br />
<br />
Trong 50 BN nhóm ung thư, 35 BN có<br />
hạch nách, nồng độ trung bình CEA,<br />
CA 125, CA 15-3 lần lượt là: 10,21 ± 5,76<br />
ng/ml; 16,21 ± 11,88 U/ml; 30,1 ± 26,07<br />
U/ml. 15 BN không có hạch nách, nồng<br />
độ trung bình CEA, CA 125, CA 15-3 lần<br />
lượt là: 5 ± 4,35 ng/ml; 14,63 ± 7,94 U/ml;<br />
14,95 ± 10,74 U/ml.<br />
Khi tìm hiểu mối liên quan giữa hạch<br />
nách và nồng độ các chất chỉ điểm, chúng<br />
150<br />
<br />
tôi thấy nồng độ các chất CEA, CA 15-3<br />
có liên quan đến tình trạng hạch nách với<br />
p = 0,00294 và p = 0,03554. Với chất<br />
CA 125, khác biệt không có ý nghĩa thống<br />
kê.<br />
Kết quả này phù hợp với nghiên cứu<br />
của Chourin S và CS [2]: tỷ lệ tăng CA 15-3<br />
gặp 77% BN có hạch nách. Nghiên cứu<br />
Arslan N và CS [1], tỷ lệ này là 81%. Các<br />
tác giả Samy N và CS [8], Shao Y và CS<br />
<br />
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2017<br />
[9] nhận thấy nồng độ CEA và CA 15-3 có<br />
liên quan trực tiếp đến tình trạng di căn<br />
hạch nách và có ý nghĩa trong dự báo tái<br />
phát của khối u.<br />
Theo chúng tôi, nồng độ CEA và<br />
CA 15-3 liên quan đến tình trạng di căn<br />
<br />
hạch nách, tuy nhiên để dự báo tình trạng<br />
tái phát của khối u và tiên lượng đối với<br />
giai đoạn bệnh, cần dựa thêm vào xét<br />
nghiệm mô bệnh học, đặc biệt xét nghiệm<br />
hóa mô miễn dịch và các biện pháp điều<br />
trị sau phẫu thuật.<br />
<br />
Bảng 4: Liên quan týp mô bệnh và nồng độ CEA, CA 125, CA 15-3.<br />
Nồng độ trung bình chất đánh dấu<br />
khối u<br />
<br />
Ung thư biểu mô ống<br />
xâm nhập<br />
<br />
Các týp mô bệnh<br />
khác<br />
<br />
p<br />
<br />
CEA<br />
<br />
7,51 ± 5,42<br />
<br />
7,15 ± 5,23<br />
<br />
> 0,05<br />
<br />
CA 125<br />
<br />
15,93 ± 11,08<br />
<br />
14,86 ± 9,96<br />
<br />
> 0,05<br />
<br />
CA 15-3<br />
<br />
24,56 ± 24,25<br />
<br />
16,74 ± 10,38<br />
<br />
> 0,05<br />
<br />
Trong 50 BN nhóm ung thư: 41 BN<br />
ung thư biểu mô ống xâm nhập, nồng độ<br />
trung bình CEA, CA 125, CA 15-3 lần lượt<br />
là: 7,51 ± 5,42 ng/ml; 15,93 ± 11,08 U/ml;<br />
24,56 ± 24,25 U/ml. 9 BN không phải týp<br />
ung thư biểu mô ống xâm nhập (ung thư<br />
biểu mô tiểu thùy xâm nhập, ung thư biểu<br />
mô thể nội ống, ung thư biểu mô thể nhú),<br />
nồng độ trung bình CEA, CA 125, CA 15-3<br />
lần lượt là: 7,15 ± 5,23 ng/ml; 14,86 ±<br />
9,96 U/ml; 16,74 ± 10,38 U/ml. Nồng độ<br />
trung bình cả 3 chất chỉ điểm ở týp ung<br />
thư biểu mô ống xâm nhập cao hơn các<br />
týp khác (ung thư biểu mô tiểu thùy xâm<br />
nhập, ung thư biểu mô thể nội ống, ung<br />
thư biểu mô thể nhú). Tuy nhiên, khác biệt<br />
này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).<br />
Điều này phù hợp với nghiên cứu cúa<br />
Samy N [8] và Shao Y [9] gặp chủ yếu BN<br />
ung thư biểu mô ống xâm nhập và có liên<br />
quan trực tiếp đến nồng độ các chất đánh<br />
dấu khối u. Tuy nhiên, các chất đánh dấu<br />
khối u đều không có liên quan nhiều đến<br />
týp mô bệnh mà liên quan đến xét nghiệm<br />
hóa mô là chủ yếu, đặc biệt xét nghiệm<br />
HER2/neu, ER và PR. Trong nghiên cứu<br />
<br />
của chúng tôi mới chỉ đề cập đến phân<br />
týp mô bệnh, còn đối với các xét nghiệm<br />
hóa mô cần nghiên cứu thêm và với<br />
nhiều yếu tố hơn.<br />
KẾT LUẬN<br />
- Trong chẩn đoán và tiên lượng đối<br />
với UTV, nồng độ các chất CEA, CA 15-3<br />
có liên quan đến tình trạng di căn hạch<br />
nách với p = 0,00294 và p = 0,03554.<br />
Không có mối liên quan nồng độ CA 125<br />
với di căn hạch nách.<br />
- Nồng độ CA 15-3 tăng rõ ở BN có<br />
kích thước khối u > 3 cm. Không có mối<br />
liên quan giữa kích thước u với nồng độ<br />
các chất CEA và CA 125. Không có mối<br />
liên quan giữa nồng độ các chất đánh<br />
dấu khối u với týp mô bệnh.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Arslan N, Serdar M, Deveci S, Ozturk B,<br />
Narin Y, Ilgan S, Ozturk E, Ozguven MA. Use<br />
of CA 15-3, CEA and prolactin for the primary<br />
diagnosis of breast cancer and correlation<br />
with the prognostic factors at the time of initial<br />
diagnosis. Ann Nucl Med. 2000, Oct, 14 (5),<br />
pp.395-359.<br />
<br />
151<br />
<br />