Những Bí Mật Về
Chiến Tranh Việt Nam
Chương 18
Tháo gỡ bế tắc
i trở về tHaverford qua Washington. Tại đó tôi lấy thêm tám tập của Bản nghiên cứu
McNamara từ văn phòng Rand để mang về nhà tôi ở Santa Monica. Tôi quyết định chưa
đọc vội những nghiên cứu đầu tiên trong giai đoạn 1945-1960 vì lúc đầu cho rằng những
nghiên cứu đó không liên quan nhiều lắm đến tình hình hiện tại. Đó là sai lầm của tôi.
Gi đây tôi đọc tài liu để chứng minh với các tài liệu chính thức, tuyệt mật ni bộ của
chính phủ Mỹ những gì tôi đã đọc trong các báo cáo của các nhà báo và sử gia Pháp.
Không mt tập tài liệu nào trong nghiên cứu này có tác động tới quan đim của tôi về
cuộc chiến tranh sâu sắc như vậy. Những tập tài liệu tôi đọc sau này hầu như không khiến
i ngạc nhiên[99].
Nhưng đối với tôi, ngoài những kết luận đạo đức mà tôi đã lý gii, còn có những kết luận
nhận thức và chiến thuật rút ra được từ những gì tôi đọc được trong tháng cn này.
Những kết luận này không những bổ sung cho những nghiên cứu trước đây của tôi mà
còn khiến tôi tin rằng dòng chảy lịch sử sẽ thay đổi nthế nào trong những tháng tới.
Mặt khác, những phát hiện này khép lại một điều bí n "sa lầy" đối với tôi, mt khái niệm
mà các đời Tổng thống đã b lừa dối vào nhng thời điểm bước ngoặt bởi tính lạc quan
o huyền của các cố vấn quân sự và dân sự. Rõ ràng là khi quyết định trực tiếp hậu
thuẫn cho Pháp vào tháng 5-1950 (sau nhiều năm cho phép viện trợ của Mỹ được sử dụng
gián tiếp để hỗ trợ cho chiến tranh), Harry Truman, giống như 4 người tiền nhiệm, phi
chịu trách nhiệm vì đã để xảy ra "thập kỷ đẫm máu" do "khng hoảng".
Tương tự nvy, sự hỗ trợ của Eisenhower sau năm 1954 về mt nhà nước cảnh sát
nhằm bắt bớ, làmm họng và thủ tiêu tất cả các phần tử chính trị tại Việt Nam, dù là
Cộng sản hay phi cng sản, những ai kêu gọi tuân thủ theo các điều khoản của Hiệp đnh
Geneva đòi tng tuyn cử thng nhất đất nước, bảo đảm rằng cuộc đấu tranh vũ trang sẽ
tiếp tục. Chúng ta không có quyn thắng trong cuộc chiến đó hơn người Pháp đã làm,
đó là con s không tròn trịa. Hơn thế nữa, mặc dù giống như người Pháp với sự hậu thuẫn
của người Mỹ, chúng ta có thể kéo dài cuc chiến năm này qua năm khác nhưng triển
vọng để chúng ta chiến thắng cũng chẳng sáng sủa gì hơn người Pp. Lại mt con số
không tròn tra nữa.
Luận điểm về triển vọng chiến thng đã được các nhà cvấn có thm quyền trình bày
trước tất cả các vị Tổng thống t đời Truman trở đi. Vị Tổng thống nào cũng được thông
o về khả năng rằng sự tiếp cận mà ông ta lựa chọn chắc chn sẽ đi đến bế tắc hoặc nếu
may lắm thì chỉ trì hoãn được sự thất bại mà thôi. Đó là thông điệp hàng năm của riêng
i kể từ năm 1966; nhưng từ năm 1946, cá nhân các vị Tổng thống đều nhận được bức
thông điệp này tnhững nguồn đáng tin cậy hơn nhiều. Tuy nhiên ai trong số họ cũng
quyết định "khăng khăng làm theo ý nh", lừa dốiluận về nhng gì hđang làm hay
v triển vng chiến thắng.
Những dự đoán nội bộ về thời điểm đưa ra các quyết định cũng không làm thay đổi ti
quyết định của Tổng thống. Như tôi đã hy vng và chmong, tháng 3-1969, Tng thống
M, Nixon phần nào nhn thức được tình nh thực tế từ nhng câu tr li cho Tài liệu
nghiên cứu An ninh quốc gia 1 (NSSM l) hoàn toàn phù hp để ông ta quyết định hành
động khác đi so vi quyết định hành động mà Halperin đã tiết lcho tôi biết vào tháng
tám. Dựa trên cơ sở những tài liệu được từ năm 1946, việc "nói sự thật riêng và mật
với Tổng thống - nhng gì mà tôi và các bạn đồng nghiệp coi cơ hội lớn nhất và cao
quý nhất để phục vụ cho quốc gia - hoàn toàn không phi là cách nhiều triển vọng để kết
thúc cuc chiến tranh Việt Nam.
Kết luận đó đã thách thức giả thuyết vốn là kim ch nam cho toàn bộ sự nghiệp của tôi.
Để đọc được liên tục các tài liệu đánh giá tình báo và những dự đoán vchiến tranh Việt
Nam tnăm 1946 trở đi cũng có nghĩa là đánh mất đi ảo tưởng rằng cung cấp thông tin
cho ngành hành pháp là chiếc chìa khoá để kết thúc chiến tranh - hoặc hoàn thành nghĩa
vụ công dân. Dường như chỉ khi quyền lực gây ảnh hưởng đến ngành hành pháp vi
những tác động quan trọng chia sẻ trách nhiệm về sau này t Tng thống mới hết muốn
tiếp tục leo thang chiến tranh Việt Nam và chấp nhận "thất bại". Bằng sự im lặng đó -
sự tư vấn riêng có khôn ngoan và thng thắn đến đâu đi nữa - nó ủng h và tham gia vào
cấu trúc quyền lực hành pháp trực tiếp mà trong những hoàn cảnh như của Việt Nam nó
dẫn đến cách ứng xử cứng nhắc và vô vọng. Tiếp thu và làm theo khái niệm đó không
thng nhất với ý định làm việc lâu dài cho Rand mà tôi sẽ quay lại với ước muốn và k
vọng sẽ làm việc hết đờii ở đó.
Đó không phi là tất cả. Cùng với những ẩn ý về tính bất hợp pháp trong chính sách của
chúng ta và nhu cầu cấp bách thay đổi chính sách đó, những tập đầu tiên của Hồ sơ Lầu
Năm Góc khẳng định với tôi những gì mà tôi đã bắt đầu nghi ngờ khi tôi đọc hai tập tiếp
theo trong vòng hai năm sau đó: Tổng thống là mt phần trong những rắc rối. Đây rõ
ràng là vấn đề liên quan tới vai trò của ông ta, chứ không phải tính cách hay đảng của
ông. Khi tôi bắt đầu nhìn nhn ra vấn đề, sự tập trung quyền lực trong ngành hành pháp
kể t chiến tranh thế giới lần thứ hai đã tập trung tất cả trách nhiệm khi chính sách thất
bại vào một người, đó chính là Tng thng. Đồng thời nó cho phép Tổng thống có kh
năng trì hoãn hoặc chối b thất bđi của bản thân bng cách gian lận hay dùng thế lực của
mình. Khi gặp phi sự kháng cự quyết liệt từ bên ngoài, như trong trường hợp của Việt
Nam, quyền hành đó đã làm hư hỏng con người nắm giữ nó.
Cách duy nhất để có thể thay đổi hành động của Tổng thống là gây sức ép đối với ông ta
t bên ngoài, từ Quốc hội và dư luận.
Cơ may duy nhất để huy động điều đó là cho những người ngoài biết Nixon thích hành
động như thế nào. Rất tiếc tôi không có tài liệu để chứng minh điều đó là đúng, để bác bỏ
sự hào nhoáng bề ngoài lừa dối người khác mà người ta hy vọng Nhà Trắng sẽ trưng ra
như cách không leo thang chiến tranh và rút toàn bộ quân Mỹ khỏi Việt Nam. Không có
những tài liệu này, báo cáo của tôi thiếu sức thuyết phục, thm chí không thể tin được.
Halperin và Vann biết sự thật, nhưng tôi lại không ny ra ý đnh hi thúc hng b
công khai những gì h đã nói với tôi. Họ cũng không có tài liệu để chứng minh được điều
đó, và thực ra (cũng ging như i), họ vốn dĩ không được biết điều này và cũng không
muốn tiết l nguồn thông tin tuyệt mật của h. Vì do tương t, tôi không hcó ý định
tiết lnguồn thông tin tuyệt mật của họ, khiến họ mất việc. những người sẽ đáng giá
cao và trân trọng quan điểm của tôi, mặc dù như tôi đã dđoán (và phát hiện ra) thậm chí
họ biết những gì tôi đòi hỏi là "cực đoan", gieo rắc hoang mang lo sợ, hầu như không thể
tin ni: rằng Nixon đang theo đuổi chính sách không thực tế, không được lòng dân trong
hoàn cảnh cuối năm 1968. Tất nhiên chưa ai trong số họ đã đc Hồ sơ Lầu Nămc cả.
Nếu người Mỹ không được tiếp cận với các tài liệu chứng minh tất cả những gì Tổng
thng chuẩn bị làm hoặc được nghe nhng bản báo cáo từ các thành viên hiện nay của
chính quyền Tổng thống, thì lẽ cách tiếp cận tốt thứ hai là cho họ thấy nhng kiến
ngh công khai của các quan chức có quyền hành lớn trước đây hoặc các nhà phân tích
cho rằng họ được tiếp cận với thông tin tuyệt mật, cho dù không được tiếp cận với các kế
hoạch cấp cao nhất hin nay. Trong phương án đầu tiên là các nhân sĩ mà tổ chức quyn
góp Camegie đã tập hợp tại Bermuda hai năm trước đó. Theo phương án thứ hai sẽ có
những người đồng nghiệp trong Công ty Rand của tôi, những người mà đã hơn một năm
nay hi thúc việc Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Có lẽ bng cách công khai với các quan
điểm "chuyên môn cao" của chúng i, chúng ta có thể mời nhóm thứ nhất tham gia cùng,
cụ thể là mi các đảng viên Đảng Dân chủ kêu gi rút quân khi Việt Nam. Bằng cách
làm việc đó công khai, trước khi Nixon cam kết bn thân với chính sách mà ông ta tch,
họ không những có thể gây sức ép với ông ta mà còn trấn an với ông ta rằng h sẽ chia s
trách nhiệm đối với việc rút quân. Đặc biệt là vào tháng chín sau khi đọc xong về toàn b
quãng thời gian 23 năm trong nghiên cứu McNamara, tôi dần dần nhận ra sự trấn an của
các chính tr gia đối thủ với nhau là cực kỳ quan trọng đi với sự sẵn sàng của Tổng
thng để đối mặt với những cáo buộc "đã thua cuộc trong chiến tranh".
Các nhà lãnh đạo trong phe đối lập của Đảng Dân chủ, bao gồm các quan chức trước đây
phải chấp nhận, trái ngược với bản năng của họ, rằng việc rút quân và tránh sa lầy tại
Vit Nam bây gilà chính sách tch hợp, là lợi ích tối cao và sự bất đồng quan đim
công khai ca họ đối vi chính sách của Tổng thống là quan trng và đáng làm. Thậm chí
có thể khó khănn đối với họ, họ sẽ phải chịu búa rìu dư luận về tình hung khó xử bắt
buộc đối với tân Tổng thống và thuyết phục ông ta về việc họ sẵn sàng chia sẻ trách
nhiệm khi thay đổi chính sách và nhng hậu quả sau này của nó. Làm được điều đó
không phải là dễ. Nhưng đối với tôi dường như đó là việc cần làm ngay, và đó là công
việc i quyếtm làm.
Gây sức ép với Tổng thống đương nhiệm, một phần bằng cách khuyến khích đảng đối lập
với Tổng thống tự lên án, là không nhất quán vi cuộc đời của mt nhà phân tích của
Rand.
i cũng nhận ra sự thù địch giữa lãnh đạo hai đảng Dân chvà Cộng hoà. Sau khi tôi đi
Haverford về, cả hai mi quan ngại này đều gim đi. Dường như tôi không thể có cơ hội
o một ln nữa được hi ý kiến của chủ tch một trong hai đảng, cho đến bây giờ đó vẫn
là tham vọng ln nhất của i. Nhưng đọc H sơ Lầu Nămc về cách xử sự của bốn đời
Tổng thống tại Việt Nam, và nhớ lại những kinh nghim của cá nhân tôi với vị Tổng
thng thứ tư và thứ năm, đột nhiên khiến tôi dễ chấp nhận vic tham vọng của mình
không thực hiện được. Tôi đã không còn mong muốn làm việc cho Tổng thống, nếu hiểu
theo một cách nào đó thì là phcủa Tng thống.
Điều đó nghe có vẻ ngạo mạn và kiêu căng, nếu xét theo cấp bậc thấp mà tôi phục v
trong quân đội. Xét cho cùng,i chưa bao giờ gặp một vị tổng thống nào (trừ một lần
o năm 1967 khi Tổng thng Johnson trao huy chương cho Frank Scotton, một người
bạn của tôi vì anh đã có nhiều sáng kiến khi làm việc vi quan thông tin của Mỹ
(USAI). Nhưng thậm c khi làm đại uý hải quân, tôi luôn coi mình là vệ sĩ của Tổng
thng, sẵn sàng chiến đấu bất kỳ khi nào và chống lại bất cứ ai mà Tổng thng muốn. Tôi
nghĩ rằng trách nhiệm trực tiếp trước Tổng thống khi làm việc phục vụ ông ta là đặc đim
ni bật của phần lớn, hoặc nhiều, quan chức trong nnh hành pháp. Nhưng trong tháng
đó, cảm giác hài lòng đó biến mất trong tôi, sau khi tôi biết nhng gì năm đời Tổng
thng đã làm trong cuc chiến tranh lâu dài này.
i không còn liên quan đến Tổng thống, không còn coi mình người phục vụ ông ta
theo cách hiệu quả nhất để gây ảnh hưởng đến chính trị hay phục vụ xã hi.
Tuy nhiên, sự vỡ mng này luôn luôn mang lại một cảm giác tự do mới. Tôi không còn
đợi Nhà Trắng hay một quan chc nào phục vụ cho Tổng thống gọi nữa. Đó là cm giác
t do như có thêm nhiều sự lựa chọn để phản kháng, ging như sự thoải mái vô tư mà tôi
mới tìm thấy. Giờ đây tôi thấy mình có thể dễ dàng cân nhắc những hình thức phn kháng
khác nhau để trình bày chính sách có khả năng ngăn cản không cho phép tôi được làm
việc trong ngành hành pháp. Ni lo sợ không được làm việc trong ngành hành pháp, ch
không phải bị đi tù, là yếu tố răn đe khiến cho phần lớn các đồng nghiệp của tôi, cả trong
quá khlẫn hiện tại, không cân nhắc các hành động chính trị đi quá xa mức cho phép.
Riêng tôi t không còn lo sợ gì về điều đó nữa. Từ quan đim của họ, tôi trở thành một
phần tử nguy hiểm khi biết nhiều chuyện.
Giữa tháng cn, tôi i với đồng nghiệp của tôi, anh Konrad Kellen, rằng tôi đã sẵn sàng
hp tác cùng các cán bcủa Rand, những người đã hai năm lin hối thúc để có được
chiến lược đơn phương gỡ rối thoát khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam.i gợi ý chúng tôi
nên tchức cuộc họp để bàn bạc xem chúng tôi nên làm gì. Chiều hôm đó, anh ta đi họp
cùng với 4 đồng nghiệp nữa: Mel Gurtov, Paul Langer, Amold Horelick, và Oleg
Hoeffding. Gurtov là chuyên gia phụ trách về Trung Quốc và Đông Nam Á, Langer về
Nht Bản, Horelick và Hoeffding về Nga. Tôi thông báo cho họ biết những gì tôi biết
được từ Halperin và Vann về chính sách của Nixon. Tổng thống đã thử nghiệmch tiếp
cận muốn cả hai bên cùng rút quân thông qua đàm phán nhưng cách đó đã thất bại. Ông
ta dường như hy vng rằng điều này sẽ xảy ra nếu quân Mỹ tiếp tục ở li Việt Nam,
nhưng tôi không trông đợi điều đó, và i cũng không muốn tiếp tục ném bom và giao
chiến khi chúng ta chờ đợi điều đó. Bây giờ, tôi chấp nhận lập luận của nhóm làm vic
rằng cách duy nhất để chúng ta thoát khỏi chiến tranh Việt Nam là đơn phương rút quân
Vì Nixon không nói gì nhiều tới cnh sách của ông ta kể từ khi ông ta thông báo hy vọng
cả hai bên cũng rút quân vào mùa xuân, tôi nghĩ vẫn còn có cơ hội thuyết phục ông ta nên
kế hoạch khác trước khi việc binh lính Mỹ thương vong và những tuyên bcông khai
sẽ khiến cá nhân ông ta phải chịu trách nhiệm về hậu quả của cuộc chiến mà ông ta
không thể chấp nhận được nếu không phải là sự thànhng.
Chúng ta đều nhất trí rằng điều đó có khả năng xy ra, thậm chí cả với đề xuất vào tháng
7-1969 của Clark Clifford trong Tạp chí Ngoại giao (bây giờ anh ta đã thôi vic) để rút
hết bộ binh của M ra khỏi Việt Nam vào cui năm 1970, và sau này căn cứ vào nhng
diễn biến tiếp theo sẽ quyết đnh rút toàn bộ các đơn vị hậu cần, hỗ trợ không quân và cầu
hàng không.
Mặc dù điều đó đi đúng hướng, so vi chiến lược hiện nay và đi xa hơn cả những gì các
quan chức chính phủ chỉ ra, cuộc chiến sẽ không kết thúc, và cũng không chấm dứt được
sự can thiệp trực tiếp của lính bộ binh M - với sự yểm trợ của không quân - vào một thới
điểm xác đnh rõ ràng. Tuy nhiên, Clifford đã đúng khi anh ta đề xuất rằng Mỹ nên đề ra
kế hoạch hành động ngừng tham chiến không phụ thuộc vào ý nguyện hay những tch
nghi của Sàin hay Hà Ni. Nhưng nhng người khác tại cuộc họp li muốn những gì
diễn ra trong vòng 2 năm qua đi xa hơn những gì anh y đề xuất và tôi đồng ý với họ.
K từ khi Martin Luther King chết, các quan chức chính phduy nhất muốn nói vi
chính phủ "Hãy rút quân khi Việt Nam" là những nhà hoạt động chng văn hoá như
Abbie Hoffman, những người cấp tiến được coi là ủng h Bắc Việt Nam, và chủ trương
hành động trực tiếp, không chịu tuân thủ công dân. Những gì họ kêu gọi đều bị phớt lờ,
không ai thèm đếm xỉa đến. Thực ra, chủ trương rút hết quân của họ là nhằm doạ những
nhân vật chính trị quan trọng. Minh chứng duy nhất và hùng hồn nhất cho sự tiếp cận này
là tờ truyền đơn của nhà hoạt đng dân quyền kiêm sử học Howard Zinn, có tựa đề "Việt
Nam, logic của việc rút quân". Nhưng lập luận cứng cỏi của Zinn, được Noam Chomsky
tán thành trong mt bài bình luận[100] đã không nhn được sự đồng tình ng h của các
học giả và các nhà t thức chđạo.
Các cvấn trước đây của Tổng thng Lyndon Johnson, những ngưi đã công khai ch
tch chính sách của ông ta, ví dụ như Arthur Schlesinger, Jr., Richard Goodwin, và John
Kenneth Gallbraith, trong năm cuối cùng khi Johnson làm Tng thống đã kêu gọi giảm
bt sự can dự của M vào chiến tranh Việt Nam, chm dứt ném bom và tiến hành đàm
phán. Nhưng họ quyết định không liên quan và cũng không chê bai gì những đề xuất "cực
đoan hơn". Họ đành ngm bồ hòn làm ngọt để nói rằng họ không đề xuất trên thực tế là
họ phản đối, những đề xuất đó. Điều đó cũng đúng đối với các chính tr gia như Eugene
McCarthy, George McGovern, Frank Church và thậm c cả Bobby Kennedy trước khi
ông này chết. Không ai trong số này đi quá xa vào năm 1969; và người ta cũng không
nghe thấy ý kiến gì của họ cả. Khi họ kêu gọi đàm phán, hkhông nói rõ ai slà đối
tượng tham gia đàm phán và mi người hy vng sẽ chấp nhận kết quả đàm phán như thế
o. Trước đó chỉ duy nhất một trường hợp ngoại lệ của Bobby Kennedy vào đầu năm
1966.