intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam - Chương 26 Tới Thời báo New York

Chia sẻ: Linh Ha | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

93
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngày 28-2-1971, tối chủ nhật, tôi tới Washington để tham gia một hội thảo diễn ra vào ngày hôm sau ở Đại học chiến tranh quốc gia. Tôi ăn tối cùng Dick Bamet, Mark Raskin và Ralph Stavins - ba học giả của Viện nghiên cứu chính sách, một trung tâm nghiên cứu cánh tả.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam - Chương 26 Tới Thời báo New York

  1. Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam Chương 26 Tới Thời báo New York Ngày 28-2-1971, tối chủ nhật, tôi tới Washington để tham gia một hội thảo diễn ra vào ngày hôm sau ở Đại học chiến tranh quốc gia. Tôi ăn tối cùng Dick Bamet, Mark Raskin và Ralph Stavins - ba học giả của Viện nghiên cứu chính sách, một trung tâm nghiên cứu cánh tả. Họ đang viết một cuốn sách phân tích sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam dưới góc độ tội ác chiến tranh. Để làm phong phú thêm nguồn tài liệu tôi đã gửi cho họ một số phần của Hồ sơ Lầu Năm Góc, bao gồm cả bản thảo của tôi về những quyết định năm 1961, và họ đã cùng tôi tìm cách đưa tài liệu ra trước Quốc hội. Khi họ hỏi tôi làm tới đâu rồi, tôi đã kể việc không nhờ cậy được Fulbright và McGovern. Họ cho rằng điều quan trọng là tôi đưa được tài liệu này ra công khai. Họ muốn xuất bản cuốn sách này vào tháng sáu, và đang dự tính nói tới tên tài liệu này trong phần tài liệu tham khảo trong sách. Họ nói tôi nên đưa tài liệu tới tờ Thời báo New York, điều mà Fulbright và McGovern cũng đã nói tới. Tôi đã luôn nghĩ tới việc này như là một phương án dự phòng, dù có khả năng là một tờ báo như vậy chỉ có thể cho đăng vài trích đoạn. Nhưng đến lúc này thì có lẽ cánh cửa Quốc hội đã khép lại. Trong làng báo thì tờ Thời báo New York là sự lựa chọn khá rõ ràng. Đó là tờ duy nhất có đăng toàn phần các hồ sơ, các bài báo dài, ví dụ như các bài phát biểu hoặc các buổi họp báo. Không tờ báo nào khác làm như vậy. Chỉ có tờ này xuất bản trọn vẹn các bài viết vì họ có uy thế để làm việc này. Mấy anh bạn này hỏi tôi có biết ai đó ở tờ Thời báo New York không. Tôi có nói từ hồi ở Việt Nam tôi đã biết Neil Sheehan. Tôi không nhắc tới việc vào năm 1968 tôi cung cấp cho anh này một vài tài liệu tối mật. Chính vì việc này nên tôi đã cố tình tránh gặp anh trong vài năm gần đây. Nhưng giờ đây thì mọi thứ đều khiến tôi nghĩ tới việc gặp lại Sheehan. Thứ ba ngày 2-3-1971, tôi trở lại văn phòng McGovern. Ông thông báo cho tôi một việc là dù ông đã hứa sẽ không nói với bất kỳ ai về việc tôi nói với ông, nhưng ông đã quyết định cần phải nghe những cố vấn về mặt pháp lý nên đã tới gặp người bạn đồng thời là luật sư Gaylord Nelson. Mặt tôi tỉnh bơ khi nghe vậy, nhưng tôi có thể biết được tiếp theo sẽ là gì.
  2. "Ông có nhắc tới tên tôi không đấy?" "Tôi không định nói, ai đã đưa tài liệu cho tôi. Nhưng kỳ lạ là khi tôi nói đó là một cựu công chức, Gaylord đã hỏi "có phải Dan Ellsberg không?", nên tôi gật đầu". Vậy đấy vừa mới tuần trước ông ta mới thề sẽ im lặng. Tôi hỏi thì ông nói rằng Nelson không đề cập đến việc trước đây anh ta đã gặp tôi. Gaylord chỉ nói rằng ông (McGovern) đang tranh cử Tổng thống và không thể làm một việc như vậy được. "Anh ta rất chắc chắn về điều này và đã thuyết phục được tôi". Tôi không nói lại nữa. Tôi chúc ông may mắn với chiến dịch tranh cử của mình rồi đi ra mà chẳng thấy khó chịu gì. Tôi thực sự hiểu được. Thật buồn cười khi nghe ông nói rằng ông đã nghe lời khuyên từ Nelson. Tôi không nghĩ lời khuyên đó là sự trả miếng đối với những nhận xét không hay của tôi đối với Nelson. Điều đó là nhất quán với những gì tôi nghe ông nói từ đầu câu chuyện. Tôi nghĩ rằng sự thật là cuối cùng thì McGovern sẽ có được lời khuyên tương tự từ bất kỳ ai mà ông hỏi ý kiến. Thậm chí tôi không thể nói như thế là sai. Tôi không muốn gây trục trặc cho chiến d ịch tranh cử của ông bởi chính chiến dịch này rõ ràng là một phương tiện quan trọng để phản đối cuộc chiến tranh. Một ngày nào đó McGovern có thể trở thành nghị sỹ đầy hứa hẹn đối với mục tiêu của tôi như những phản ứng ban đầu của ông đã cho thấy. Nhưng cũng có thể là nếu như trong năm đó cần một thượng nghị sỹ để giải quyết việc này thì đó không thể là một người đang tranh cử lổng thống. Tôi nghĩ tới Thượng nghị sỹ Mathias, và cả Thượng nghị sỹ Mike Gravel, người đã thay thế Thượng nghị sỹ Gruening khi viết một lá thư chúc mừng tôi về bài báo đăng trên tờ Điểm sách New York. Ngày hôm đó tôi cũng đã tới văn phòng của Thượng nghị sỹ Mathias. Chúng tôi đã không nói chuyện với nhau gần một năm nay, kể từ chuyến bay từ St. Louis về thủ đô đang chìm trong hơi cay khi cuộc xâm lược Campuchia diễn ra. Nhưng cả hai đã kịp có ấn tượng tốt về nhau khi nói chuyện với nhau trên chuyến bay đó. Thế nên chiều hôm đó, chúng tôi đã nói chuyện thoải mái và tin tưởng lẫn nhau. Rất nhanh chóng ông đã tự tin nói với tôi rằng với tư cách một thượng nghị sỹ, ông sẵn sàng đứng đầu một phong trào phản chiến. "Đó cũng là cách khiến McCarthy bị hạ bệ. Cần phải có tiếng nói từ phía cánh hữu, hoặc hơn nữa là cánh trung dung, t ừ một thượng nghị sỹ khác, và đó phải là một thượng nghị sỹ cùng Đảng với ông ta - Thượng nghị sỹ Flanders. Đó là cách cần phải làm. Đó là cái chúng ta đang cần trong bối cảnh có cuộc chiến tranh này. Và tôi sẵn sàng làm điều đó". Tôi thấy rất ấn tượng và đã chúc mừng Mathias vì sự quyết tâm của ông. Để ai đó cùng Đảng với một Tổng thống đương nhiệm chống lại ông ta về vấn đề nào đó - như cuộc chiến tranh đang diễn ra chẳng hạn - thì cần phải có dũng khí. Thượng nghị sỹ Goodell đã phải rời khỏi Đảng mình và trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ mùa thu vừa rồi đã mất ghế trong quốc hội vì đã thách thức Nhà Trắng về vấn đề chiến tranh Việt Nam. Mathias lại đang có ý muốn đi theo con đường này.
  3. Vậy thì tôi có vài thứ có thể giúp ông ấy. Sau khi tôi nói về Hồ sơ Lầu Năm Góc và việc có thể làm gì với nó, ông đã nói rằng nghiên cứu về lịch sử này không đủ tính thách thức để có thể lên tiếng. (Dĩ nhiên là năm 1971 tôi cũng đã lo ngại điều này). "Đó chỉ là lịch sử. Nó chỉ nói về những người Dân chủ. Tôi muốn tiết lộ nào đó về chính sách của Nixon. Anh có cái gì đó liên quan trực tiếp đến Nixon không?" Tôi có, đó chính là thực tế đang diễn ra. Dù không nhiều như tôi mong đợi, nhưng có vẫn hơn không. Tôi nói về các văn kiện lựa chọn chính sách và NSSM-1. Tôi giải thích rằng những tài liệu của NSC mà tôi không chứng minh được trường hợp của Nixon, nhưng chúng cũng báo trước chiến lược bí mật của ông ta khi cho thấy rằng ngay từ ngày đầu của chính quyền Nixon người ta đã quan tâm tới việc xâm lược Campuchia. Tài liệu đó cũng cho thấy ngay từ đầu Nhà Trắng đã được cảnh báo về những hạn chế của Chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh và về nhu cầu cần phải có sự có mặt lâu dài của bộ binh Mỹ và sự hỗ trợ vô thời hạn của không quân Mỹ. Mathias rất phấn khởi. Ông muốn ngay lập tức có được những tài liệu mà tôi nói tới. Thậm chí là nếu những tài liệu đó không chứng minh hẳn hoi được điều gì thì chỉ việc tiết lộ chúng thôi cũng đã đủ gây ra một thách thức to lớn đối với Nhà Trắng và mở ra một cuộc tranh luận về vấn đề này. Tôi lại nói về những hệ quả pháp lý mà tôi có thể phải gánh chịu và việc tôi sẵn sàng vào tù vì điều này. Dù gì thì NSSM-l ít nhiều cũng là tài liệu của chính quyền đương nhiệm chứ không phải là "lịch sử" cho nên nếu bị tiết lộ chắc sẽ dẫn tới việc truy tố tôi. Khi tôi nói đến đây, Mathias, hệt như McGovern, đã mang ra bản Hiến pháp và đọc cho tôi cũng điều khoản đó: ông không thể bị chất vấn. Vì thế chính quyền sẽ không thể biết được nguồn tài liệu thông qua ông. Tôi không mang theo bản sao của cả văn kiện lựa chọn chính sách và NSSM-1, nhưng tôi nhớ rằng đã gửi một bản cho Norvil Jones để chuyển tới Fulbright. Sau khi nói chuyện xong, tôi tới Uỷ ban đối ngoại và nói với Jones rằng tôi cần lấy lại tài liệu đó. Jones lấy ra từ một phong bì to làm bằng giấy sản xuất từ sợi cây chuối ở Philippines đặt trong một két sắt và đưa cho tôi. Tôi mang ngay lại văn phòng của Mathias và đưa cho ông và trợ lý. Đó là một tập khá cồng kềnh khoảng năm trăm trang. Mathias xem qua, rất thích thú và tán thưởng. Ông nói ông và trợ lý sẽ đọc và quyết định xem tiếp theo sẽ làm gì. Tôi cũng nhắc lại đề nghị của tôi về Hồ sơ Lầu Năm Góc, nhưng thậm chí ông còn không buồn nhắc đến chúng. "Chúng có vẻ không liên quan và những gì tôi vừa đưa là đủ những gì ông cần rồi". Tuy nhiên, trong hai tháng sau đó tôi đã hai lần gọi cho trợ lý của Mathias để hỏi xem đến đâu rồi. Anh ta nói họ vẫn đang vạch kế hoạch và chuẩn bị cơ sở cho chiến dịch. Điều này nghe có vẻ thú vị đấy Nhưng sau những gì gặp phải với Fulbright và
  4. McGovern, tôi chẳng thấy hy vọng lắm. Tối muộn ngày thứ ba, mồng 2-3-1971, sau buổi chiều nói chuyện với Mathias, tôi gọi điện đến nhà Neil Sheehan ở Washington và xin ngủ nhờ lại một đêm. Anh nói ở tầng hầm dưới nhà có một phòng làm việc riêng với ghế dài. Khi tôi tới, anh đưa tôi đi xuống và tôi giúp anh chuẩn bị chăn và khăn trải giường. Nhưng tôi không phải dùng đến những thứ này. Chúng tôi đã nói chuyện cả đêm. Chúng tôi bắt đầu câu chuyện về bài báo anh mới viết về tội ác chiến tranh trên chuyện sau Điểm sách của Thời báo New York. Nhưng điều đọng lại là sự quan tâm thực lòng của anh đối với cuộc chiến, là việc anh cảm thấy đó là một sai lầm khủng khiếp và là sự phí phạm sinh mạng của cả hai bên, và hơn hết là khát vọng của anh được nhìn thấy cuộc chiến này kết thúc. Trước đây tôi chưa bao giờ thấy được một tình cảm tương tự ở các nhà báo cũng như ở những người không tham gia phong trào phản chiến, ngoại trừ David Halberstam. Việc anh ủng hộ quan điểm rằng ng ười Mỹ có thể đã phạm tội ác chiến tranh và bản thân cuộc chiến cũng là một tội ác đã khiến anh coi như có một chân trong phong trào phản chiến rồi. Trước khi trời sáng, tôi đã nói với anh về Nghiên cứu McNamara và rằng tôi có đầy đủ nghiên cứu này. Tôi kể về chuyện đưa nó cho Fulbright, rồi McGovern để rồi cuối cũng họ đều cho qua. (Tôi đã không nói đến việc ngay chiều hôm đó Mathias đã không cần đến nó mà chỉ lấy NSSM-l). Anh rất muốn được xem nghiên cứu này. Anh không thể hứa trước được là Thời báo New York sẽ sử dụng nó, nhưng nếu những gì tôi nói là chính xác thì anh tin rằng họ sẽ cần đến nó. Tôi sẽ cho anh xem t ài liệu này ở Cambridge và chúng tôi hẹn ngày anh sẽ tới đó gặp tôi. Một tuần trước đó, khi ở Cambridge, một phóng viên của tờ Boston Globe (Địa cầu Boston) là Tom Oliphant đã gọi cho tôi. Bài báo của tôi trên tờ Điểm sách New York đã khiến anh ta quan tâm và đề nghị đến phỏng vấn tôi. Tôi nhắc lại những phân tích của tôi về chính sách của Nixon và mối quan ngại của mình về chiều hướng của chính sách. Tôi đã chỉ ra những đe doạ bí mật của Nixon thật trùng hợp với kiểu những đe doạ và leo thang thất bại đã kéo dài suốt hai mươi năm trước. Tôi cũng nói với Oliphant điều mà tôi đã không nói trong bài báo, đó là nghiên cứu bí mật về toàn bộ giai đoạn nói trên mà tôi đã tham gia và sau đó được đọc toàn bộ văn bản. Trước đây tôi đã không đề cập tới điều này khi nói với một phóng viên, và lần này tôi không định nói nhiều. Đương nhiên là tôi không nói rằng mình đã sao chụp hay tiếp cận tài liệu này. Tôi chỉ muốn nói rằng những cảnh báo của tôi về chiến tranh là không chỉ dựa trên trực giác. Oliphant có vẻ kinh ngạc khi tôi bình luận rằng hai người khác sau khi đọc toàn bộ nghiên cứu này cũng đã đưa ra kết luận giống hệt về chính sách của Nixon. Anh ta hỏi đó là ai, tôi đáp là Gelb và Halperin (do lúc này cả hai người đều đã rời chính quyền). Chúng tôi chỉ nói khoảng năm mười phút về chuyện này trong hơn một giờ trao đổi với nhau. Tôi cũng không nghĩ nhiều về lần gặp đó cho đến khi tôi thấy bài báo của anh ta vào chủ nhật, năm ngày sau khi tôi nói chuyện với Sheehan.
  5. Tiêu đề của bài báo đăng ngày 7-3-1971 này là: "Chỉ ba người đọc báo cáo bí mật về Đông Dương, tất cả đều kêu gọi nhanh chóng rút quân". Trong tiêu đề phụ, anh đã nói về việc McNamara yêu cầu bí mật xem xét lại lịch sử của cuộc chiến: "Vào thời điểm đó có vài người trong chính quyền đã đọc vài phần nghiên cứu này, nhưng theo thông tin được biết thì chỉ có ba người đã đọc toàn bộ, từng chữ một. Đáng chú ý là cả ba người đều cho rằng Mỹ nên nhanh chóng đơn phương rút khỏi Việt Nam. Hơn nữa, trước khi rời khỏi chính quyền, cả ba người đều nắm giữ những chức vụ nhạy cảm trong những tháng đầu hình thành chính quyền Nixon". Sau khi nói chuyện với tôi ở Cambridge, Oliphant đã bay tới Washington để phỏng vấn Halperin và Gelb. Trong bài báo anh ta đã kể về công tác của họ trong năm 1969 dưới chính quyền Nixon; và năm sau đó, sau vụ tấn công Campuchia, họ đã cùng viết "một bài báo được trích dẫn rộng rãi đăng trên tờ Bưu điện Washington có tên là "Chỉ có một lịch trình mới có thể gỡ rối cho Nixon". Anh ta viết tiếp: "Tháng trước… (Halperin) bắt đầu điều hành "văn phòng hoà bình" của tổ chức Sự nghiệp chung, một tổ chức vận động hành lang cho công dân do John Gardner thành lập. Hai tuần trước, tổ chức này đã tuyên bố dự định tham gia đấu tranh đòi đơn phương rút quân khỏi Đông Dương". Anh ta trích lời Halperin nói với mình: "Tôi nghĩ không phải là Tổng thống đang rút quân. Tôi nghĩ có nguy cơ nghiêm trọng là chính sách hiện thời nhằm tiếp tục leo thang chiến tranh và đang chia rẽ đất nước này (Mỹ). Hãy đọc những thông điệp thế giới gần đây. Tất cả nằm ở đó. Tôi tin ngài Tổng thống. Ông ta nói đúng như ông ta nghĩ, đó là: chúng ta đang không rút quân". Oliphant trích lời tôi nói rằng nghiên cứu này đã có "ảnh hưởng lớn lao" đối với quan điểm của tôi. Khi tôi bắt tay vào làm nghiên cứu này, "Tôi coi chiến tranh là một nỗ lực đầy thiện ý và hợp lý, dù khi nghĩ lại thì thấy nó thật sai lầm. Nhưng rồi mọi thứ sớm trở nên rõ ràng là quyết định của người Mỹ thực sự là một chuỗi trò cờ bạc liều lĩnh của những kẻ đã làm nên chính sách này vào thời điểm đó". "Khi nhìn lại sự liên quan của mình", Oliphant viết về tôi, "Ông lặng lẽ nói: "Tôi đã tham gia một âm mưu tội ác nhằm tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược". Anh ta đã mượn lời tôi nói về chính sách hiện nay của Nixon để kết luận bài báo: "Theo tôi, đó là một chính sách tội ác". Khi tôi đọc bài báo này, tôi đã nghĩ rằng nó có thể sẽ khiến Nhà Trắng để mắt tới. Đúng như vậy, bởi Oliphant đã nói với tôi rằng vào cái ngày bài này được đăng, Kissinger đã gọi tới văn phòng của tờ Boston Globe ở Washington để t ìm hiểu về nó. Kỳ quặc là ông ta đã muốn nhấn mạnh Dan Ellsberg chưa bao giờ là nhân viên của NSC (bài báo không hề nói tôi như vậy). Tôi cũng nhận ra rằng, theo như tôi biết, đây là lần đầu tiên có một tài liệu nào đó nhắc tới Nghiên cứu McNamara (hoá ra là trước đó đã có hai tài liệu đề cập tới, một là của Lloyd Shearer, nhưng đây là bài báo đầu tiên nhắc tới nó). Điều này đặt tôi vào một tình huống gần như là khủng hoảng. Tháng tám năm ngoái, ở San Clemente, tôi đã nói về nghiên cứu này với Kissinger. Thế nên ông ta có thể nhanh chóng suy ra rằng nếu như tôi đã công khai nói về nó, cũng như nói về ảnh hưởng của nó đối với chính sách bí mật của Nixon, thì sớm muộn tôi sẽ tự
  6. mình công bố toàn bộ tài liệu, nhất là khi tôi đã có thể có một bản sao tài liệu này sau khi rời Rand. Điều này cũng đúng với FBI, do một năm trước đây vì lý do này khác họ đã tìm cách nói chuyện với tôi sau khi gặp Carol. Lúc đó tôi không biết rằng một năm trước đó FBI đã trao đổi với Rand về việc tôi đã sao chụp tài liệu và đưa cho Fulbright và Goodell. Tôi vẫn không biết liệu năm 1970 FBI có báo cáo với Kissinger hay không về những trao đổi của họ với Rand và Harry Rowen. Nhưng kể cả không biết chăng nữa thì tôi vẫn đoán rằng bài báo này là một cảnh báo nguy hiểm đối với cả Nhà Trắng và FBI. Điều đó có nghĩa là FBI có thể "ghé thăm" nhà tôi bất kỳ lúc nào cùng với lệnh khám xét. Suốt hơn một năm rưỡi, điều tôi lo lắng nhất là FBI có thể sẽ ập tới và lấy đi toàn bộ các bản sao tài liệu trước khi tôi kịp gửi tới Quốc hội hay chỗ nào khác. Giờ thì với bài báo này, điều đó có thể xảy ra trong hàng ngày hàng giờ. Tôi chỉ có nhiều nhất là ba bản chụp những phần chính của nghiên cứu, một số phần khác chỉ có hai bản. Sau khi đã đưa một bộ hoàn chỉnh cho Fulbright, tôi chỉ còn lại một hoặc hai bản. Tôi không còn được sử dụng chiếc máy chụp Xerox cá nhân nữa. Tôi đã trì hoãn hết lần này đến lần khác việc sao chụp thêm tại một cửa hàng sao chụp vì tôi có cảm tưởng rằng chỉ một hay hai ngày sau khi tôi làm việc đó thì FBI sẽ xuất hiện. Tôi lo ngại rằng một tài liệu bị thất lạc vẫn còn nguyên dấu tối mật và ai đó tình cờ đọc thấy sẽ có thể dẫn dến việc cửa hàng sao chụp gọi điện cho cảnh sát. Tôi cho Patricia xem bài báo và cho cô ấy biết điều gì sắp diễn ra. Cô ấy nói một cách sắc sảo hon so với thường ngày: "Anh đã nói về việc sao chụp thêm những tài liệu này cả mấy tháng trời rồi; bây giờ anh hãy đứng lên và làm ngay thì hơn". Cô ấy đề nghị giúp tôi. Ngay lập tức chúng tôi đi đến căn hộ của em trai cô ấy là Spencer để tôi cất hộp đựng tài liệu ở đó. Chỉ riêng việc sắp xếp lại tài liệu theo đúng trật tự đã là cả một vấn đề. Tôi rút ra một phần và đọc lướt qua. Đúng như khi ở New York, ngay trên một trong những trang đầu, tôi đã nhận ra một dấu tối mật đã thoát khỏi "kĩ thuật phân loại tức thì" của tôi. Thế là tôi chẳng biết phải làm thế nào ngoài việc xem lại từng trang một lần nữa, tất cả bảy nghìn trang. Patricia đem tài liệu đến một cửa hàng sao chụp trên quảng trường Harvard, còn tôi phải trông cho đến sáng mới xong. Nếu như cần phải làm việc đó, thì phải làm thật nhanh, trước khi FBI kịp phản ứng trước bài báo hay theo lệnh của Nhà Trắng, hay sau khi nhận được một cú điện thoại từ cửa hàng sao chụp. Những chiếc máy photo to để kinh doanh thế này thì nhanh hơn rất nhiều so với những chiếc mà tôi đã sử dụng, nhưng hầu như cũng không thể nhanh được bằng những chiếc máy ngày nay, và sao nhiều bản của hàng ngàn trang thì rất tốn thời gian. Chúng tôi cần chia việc này ra để làm cho nhanh. Thật may mắn là gần quảng trường có nhiều cửa hàng,
  7. một vài trong số đó mở cửa suốt đêm. Đó thật là một công việc mệt mỏi. Chúng tôi đã phải thay phiên nhau mỗi người nằm nghỉ một tiếng trong khi người kia kiểm tra kĩ lưỡng từng trang và thỉnh thoảng phải dùng kéo cắt. Cứ một hai tiếng Patricia phải đem chồng tài liệu sang một cửa hàng khác hoặc đi lấy những bản sao. Chúng tôi phải làm gấp gáp thế này là vì FBI. Tôi biết là cả năm nay họ đã biết việc tôi sao chụp và bài báo của Orliphant có thể sẽ khiến họ giám sát tôi một cách chặt chẽ. Bắt quả tang chúng tôi ngay trong lúc đang sao chụp sẽ là việc động trời đối với họ. Khả năng xảy ra điều này khiến cho việc Patricia đi lấy những tráng t ài liệu trở nên kịch tính. Mỗi lần cô ấy quay trở lại một cửa hàng thì hoàn toàn có thể FBI đã đang ngồi chờ sẵn ở bên trong rồi. Cho đến lúc này, chúng tôi có lẽ đã "chăm sóc cẩn thận" tất cả hoặc phần lớn những ký hiệu tối mật, nhưng đa phần nội dung tài liệu cũng đủ bất thường để thu hút sự chú ý của bất kỳ ai chợt cầm lên và liếc qua. Có rất nhiều ghi chú đề cập tới những kế hoạch và khuyến cáo của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân hay các bản Đánh giá tình báo quốc gia đặc biệt của CIA. Điều gì sẽ xảy ra nếu ai đó t ình cờ đọc được một chút của những gì tôi đang sao chụp và nhận ra điều gì đó bất thường? Đó thực sự là lý do vì sao tôi đã do dự lâu đến thế mà không chụp thêm một số bản. Chỉ riêng các dấu "tối mật" thì tôi có thể xử lý được, nhưng chẳng có gì có thể đảm bảo rằng những tài liệu với tiêu đề như thế này sẽ không gây ra lo lắng đối với người nào đó liếc qua nó. Vì thế nên việc đi lấy bản sao khiến Patricia rất hồi hộp. Khi chúng tôi đã lấy lại hết các bản sao, phân loại, và xếp theo đúng thứ tự trong các hộp riêng biệt, tôi cần phải t ìm ra chỗ để cất giữ. Một hộp gửi tại nhà anh trai tôi ở New York. Những hộp khác gửi ở gác xép hoặc tầng hầm ở nhà bạn bè trong vùng; hầu hết họ không được biết trong hộp đựng gì, chỉ biết đó là những tài liệu mà tôi cần cất giữ. Vào ngày 12-3, khi Neil Sheehan quay trở lại gặp tôi ở Cambridge, tôi mất nhiều đêm thức trắng để sao chụp thêm các bản tài liệu. Bài báo của Oliphant đã khiến cho tôi vô cùng lo lắng, không phải vì sợ bị bỏ tù, mà vì sợ sẽ không kiểm soát được những bản chụp tài liệu của mình trước khi chúng được công bố. Tôi đưa Neil đến căn hộ của Spencer, nơi tôi đang cất giấu những bản sao và chỉ cho anh nghiên cứu đó. Anh đã thuê một phòng tại một nhà nghỉ gần quảng trường Harvard. Đọc lướt qua, Neil có thể thấy ngay rằng những t ài liệu này quả đúng như những gì tôi đã mô tả. Anh nói để có thể đăng trên tờ Thời báo, anh phải đọc gần hết số đó, và việc này rõ ràng là sẽ cần thời gian. Anh ta xin chụp một bản, nhưng tôi không muốn thế. Chưa phải lúc. Tôi đang phải cân nhắc hai khả năng. Một mặt, tôi quyết tâm bằng cách nào đó phải đưa phần lớn số tài liệu đến được với công chúng. Tôi nghi ngờ liệu tờ Thời báo có sẵn lòng làm việc này hay không. Đồng thời, tôi lo ngại rằng nếu đưa những tài liệu này cho tờ Thời báo trước khi ban biên tập cam kết xuất bản hay thậm chí là có ý định xuất bản, thì có thể ai đó trong số họ sẽ báo cho FBI; hoặc là FBI vì một lý do gì đó nghe phong thanh được về điều này và sẽ truy t ìm những bản sao chụp khác của tôi.
  8. Nếu tờ báo (1) cam kết xuất bản và (2) có kế hoạch xuất bản phần lớn nghiên cứu này trên mặt báo thì việc những bản sao còn lại (cũng là "bản cáo trạng" của tôi) bị mất cũng không phải là vấn đề gì to tát. Nhưng nếu trong trường hợp không có được cả hai điều kiện trên thì việc mất các bản sao và việc tôi bị cảnh sát theo dõi cũng sẽ có nghĩa là cuộc chơi chấm dứt nếu như tôi còn tính đến việc công bố tài liệu này ngoài Quốc hội. Những tài liệu này ở đó càng lâu mà chưa có quyết định xuất bản, thì càng có khả năng nhiều người sẽ biết tới và đọc chúng và một trong số họ sẽ báo cho Chính phủ. Kết luận cuối cùng của những tính toán này là tôi không muốn gửi phần lớn tài liệu tới trụ sở tờ Thời báo trừ phi những người đứng đầu của tờ báo đã sẵn sàng xuất bản và phải là xuất bản phần lớn tài liệu. Tôi trông đợi Neil sẽ đại diện của tờ Thời báo trong vấn đề này. Tôi đã sẵn sàng cho anh xem tất cả những gì anh ta muốn xem và ghi chép lại. Nhưng tôi sẽ không để anh chụp lại một bản nào để mang về toà báo. Lẽ dĩ nhiên là Neil không thể ngay lập tức đưa ra bất kỳ cam kết nào với tôi trong vấn đề này. Anh cũng đã nói rõ với tôi như vậy. Anh ta sẽ phải làm các biên tập viên của anh ta có ấn tượng tốt về nội dung của t ài liệu này, rồi sau đó sẽ là những cuộc thảo luận cấp cao hệ quả của việc này đối với tờ Thời báo. Thêm vào đó, tôi cũng đã nói với anh ấy rằng chẳng bao giờ có một sự đảm bảo tuyệt đối. Về những việc kiểu như thế này, tôi hiểu rằng dù cho họ có hứa hẹn và thực sự có ý định sẽ làm thì họ hoàn toàn có thể thay đổi quyết định vào phút chót. Đó là sự mạo hiểm tôi phải chấp nhận khi đ ưa cho họ những trang tài liệu. Tôi nói với Neil rằng: "Khi tôi để anh sao chụp những t ài liệu này và mang đi, tôi đã sẵn sàng chấp nhận sự thật là tôi đã mất hết quyền kiểm soát đối với chúng. Bản chụp đó ra khỏi tay tôi. Sau đó thì việc sử dụng ra sao là chuyện của các anh (tức là tờ Thời báo). Tôi không thể tác động vào việc này và đó là cách tôi nhìn nhận sự việc. Tôi không thể ngăn anh xuất bản dưới bất kỳ hình thức nào và tôi cũng không thể bắt anh xuất bản. V ì thế việc tôi đưa bản chụp cho anh nghĩa là tôi đã đồng ý trao cho tờ Thời báo và để họ tuỳ ý xuất bản những tài liệu này. Trên thực tế, điều đó sẽ có nghĩa là đưa ra sự chấp thuận trước của tôi đối với bất kỳ điều gì các anh làm". Tôi biết là tôi không thể đặt ra những điều kiện trên giấy tờ những ràng buộc có chế tài buộc họ phải thực thi. Nhưng trước khi tôi đồng ý đưa bản sao của nghiên cứu này cho tờ Thời báo, tôi muốn có được sự đảm bảo tối đa có thể được đối với hai vấn đề sau: thứ nhất, toà báo có ý định xuất bản một phần nào đó; thứ hai, đó sẽ phải là một "câu chuyện lớn", chiếm một đa số số lượng trang báo và đó sẽ không chỉ là câu chuyện của một ngày, dù lớn hay nhỏ, mà là một loạt bài tương xứng với nội dung và dung lượng của tài liệu gốc. Trong lần gặp nhau sau đó, Neil đảm bảo với tôi rằng nếu tờ Thời báo tiến tới in nghiên cứu này, nó sẽ "lớn" như là tôi muốn. Anh ta thậm chí còn đi xa hơn khi bảo đảm chắc chắn với tôi rằng tờ báo sẽ in t ài liệu này theo đúng nguyên bản. Tôi đã không đặt điều kiện đó ngang với những điều kiện khác, nhưng anh biết rằng tôi rất muốn thế và anh đã đồng ý với tôi. Tôi cũng đề nghị tờ Thời báo có "những cân nhắc nghiêm túc" về việc cuối cùng sẽ xuất bản toàn bộ công trình nghiên cứu thành sách.
  9. Chúng tôi đã không nói về việc bảo vệ tôi với tư cách là nguồn cung cấp tư liệu. Tôi mặc nhiên cho rằng toà báo, ở một mức độ nào đó, sẽ làm việc này, và tôi đã không đòi hỏi bất kỳ biện pháp đặc biệt nào nếu như tờ báo phải đối mặt với áp lực của luật pháp. Tôi không muốn người ta biết tới với tư cách là nguồn cung cấp thông tin hay một người đã tham gia nghiên cứu này, nhưng tôi đã không đưa ra yêu cầu nào về cách thức mà tờ Thời báo đã giải quyết việc đó. Tôi cho rằng chính phủ sẽ biết hoặc sẽ coi tôi chính là nguồn cung cấp thông tin. Nhưng tôi nói với Neil điều đã nói với các thượng nghị sỹ: tôi không muốn chọc giận chính quyền khiến họ truy tố tôi, vì nếu tôi không làm vậy thì dù có vì lý do chính trị hay lý do pháp lý họ có thể cũng sẽ chẳng truy tố tôi. Đáp lại ý nghĩ này của tôi, Neil cam đoan một lần nữa rằng tờ Thời báo là kênh tốt nhất để đăng tải điều mà anh cho rằng cần phải cho nhân dân Mỹ biết. Anh cũng nói thêm về khả năng, dù không chắc chắn lắm, rằng anh sẽ thuyết phục được sếp của mình về việc này. Trong khi đó, anh sẽ phải đọc hết tập tài liệu và ghi chép lại. Một lúc sau, chúng tôi để anh ở lại một mình với tập tài liệu. Tôi không thể lúc nào cũng kè kè bên anh ấy được. Tôi nói với anh rằng tôi trông cậy anh sẽ không đi ngược lại những mong muốn của tôi, sẽ không mang tập tài liệu đi sao chụp. Tôi nói với Patricia rằng tôi thực sự không nghĩ rằng anh ấy sẽ làm vậy. Đó đơn giản là cơ hội mà tôi sẽ phải nắm lấy. Chúng tôi ghé thăm anh thường xuyên, anh luôn luôn trong tình trạng mệt mỏi nhưng ngày càng hăng hái và phấn khởi Anh tiếp tục đề nghị chụp một bản để còn có cái mà thuyết phục các biên tập viên toà báo, nhưng anh đành tỏ ra chấp nhận việc tôi giới hạn chỉ cho anh chụp vài trang làm mẫu. Vài ngày sau, anh rời Cambridge, sau khi thống nhất với tôi rằng anh sẽ sớm quay lại và ở lâu hơn. Khi quay lại, Neil báo với tôi rằng các biên tập viên của toà báo rõ ràng là quan tâm, nhưng cũng chả có gì đáng ngạc nhiên là có nhiều tranh luận, sự không chắc chắn và băn khoăn về kế hoạch đó. Họ cần phải biết nhiều hơn về nội dung của nó. Điều đó vẫn không đủ để thuyết phục tôi sẵn lòng đưa lại cả công trình nghiên cứu hoặc thậm chí là một số phần của nó. Neil lại ngồi xuống để đọc thêm, ghi chép thêm, và t ự chuẩn bị tốt hơn để thuyết phục họ về công trình đó. Tôi đã không hề nghi ngờ gì về thái độ của anh. Anh không bao giờ phàn nàn về độ dài hay những phần khô khan của tài liệu. Chúng tôi cùng bị ám ảnh về cuộc chiến. Và đối với một người như thế, đặc biệt đối với một nhà báo, thì tài liệu này là vô cùng hấp dẫn. Vào lúc Neil một lần nữa rời Cambridge, anh đã cam kết mạnh mẽ hơn mọi lần trước về việc làm sếp mình tin rằng câu chuyện này xứng đáng một vị trí độc nhất vô nhị. Tuy nhiên trong những lần gọi điện cho tôi từ New York vài tuần sau đó, những gì anh nói với tôi lại không được phấn khởi cho lắm. Họ đang gặp trục trặc trong việc quyết định và không thể nhanh chóng đạt được một giải pháp. Neil vẫn hy vọng, và thực ra là trông đợi rằng cuối cùng họ sẽ tiến đến việc xuất bản t ài liệu này, nhưng không rõ là sẽ mất bao lâu
  10. để họ có thể thực sự thấy nghiêm túc với vấn đề này. Neil cũng nói với tôi rằng bản thân anh được giao nhiệm vụ làm những vấn đề khác. (Tất cả những điều này hoá ra là sai). Vào tháng tư, anh gọi cho tôi nói rằng ban biên tập vẫn đang lần lữa chưa đi tới quyết định và rằng dù đang theo đuổi một kế hoạch khác, anh muốn tiếp tục làm việc về nghiên cứu này để chuẩn bị cho quyết định cuối cùng về việc sử dụng nó. Anh sẽ phải làm việc buổi đêm, thậm chí là cả vào các ngày cuối tuần với nó, và chỉ có thể làm thế nếu có một bản chụp ở New York. Liệu tôi đã sẵn sàng đưa cho anh ta một bản? Vào lúc này việc chiến tranh tiếp tục leo thang đã khiến tôi càng thấy phải gấp rút công bố tài liệu này. Tôi đã trở nên ngày càng hoài nghi việc có thể nhờ cậy gì đó ở Quốc hội. Sau những trì hoãn như vậy, tôi cũng không trông mong vào tờ Thời báo, nhưng tôi hầu như không có sự lựa chọn nào khác, và vào lúc này tôi đã sẵn sàng để gánh chịu một rủi ro lớn hơn. Trên cơ sở đó tôi đã đồng ý. Khi đồng ý đưa một bản sao, thậm chí cả khi không có bất kỳ sự bảo đảm nào rằng tờ Thời báo sẽ đăng nó, tôi đã ý thức được như Neil có thể đoán, rằng tôi đã đặt niềm tin của tôi vào đối với việc anh ta sẽ sử dụng t ài liệu này theo cách mà anh ta thấy phù hợp. Đó là sự chấp thuận của tôi cho tờ Thời báo xuất bản nó theo ý muốn của họ. Nhưng trên thực tế, như sau đó tôi được biết, anh ta đã không cần sự chấp thuận, hay bản sao của tôi để làm việc đó. Điều mà tôi đã không biết, và ông ta cũng đã quyết định không nói cho tôi, là tờ Thời báo đã thuê một vài phòng ở khu New York Hilton, nơi mà một nhóm đang làm việc cấp tốc với tập Hồ sơ Lầu Năm Góc, viết lời bình và lựa chọn các phần của văn bản và tài liệu để đưa vào. Họ đã có bản sao đầy đủ của những g ì tôi đã cho Neil xem cách đó hơn một tháng. Trong hai năm sau, các phần của tài liệu này lần lượt được xuất bản (dù các phần chính cho đến bây giờ đối với tôi vẫn mơ hồ và khó hiểu). Mãi đến khi phiên toà xét xử tôi gần kết thúc, chúng tôi mới khám phá ra có cái g ì trong két sắt của Howard Hunt ở Nhà Trắng. Trong đó có một biên niên của Hunt cho thấy rằng Neil và Susan Sheehan đã đăng kí phòng với những cái tên giả tại các khách sạn ở Cambridge và đã lấy hàng ngàn trang và cuối cùng là toàn bộ công trình nghiên cứu và đem đến các cơ sở sao chụp tự động ở Melford và Boston. Vào một ngày cuối tuần, khi biết tôi sẽ đi khỏi thành phố cùng với Patricia, Neil đã bí mật đến Cambridge và sử dụng chiếc chìa khoá căn hộ của Spencer mà tôi đã đưa cho anh ta. Anh ta đã lấy tất cả công trình nghiên cứu và cùng vợ mang đến hiệu sao chụp ở Melford. Trong khi đó, không hề biết những diễn biến "hậu trường" này, tôi đã tiếp tục nỗ lực để có thêm nhiều người biết được chính sách của Nixon, trong khi vẫn cố gắng t ìm ra bất kỳ con đường hứa hẹn nào nhằm công bố những tài liệu này trước công chúng.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2