Những bộ đồ trà thời
Nguyễn
Người Việt có một nền “văn hóa uống trà”, tuy không đến
mức nâng thành Trà đạo (Chado) như người Nhật, nhưng nền
“văn hóa” ấy có từ lâu đời, rất phong phú và độc đáo. Dưới
thời Nguyễn (1802 - 1945), uống trà đã trthành một lạc t
tao nhã, rất được giới quý tộc, quan lại và thức giả ưa
chuộng. Thậm chí, uống trà còn được coi là một bộ môn nghệ
thuật, đứng đầu trong nghệ thuật ẩm thực.
Để việc uống trà xng đáng trở thành một lạc thú tinh thần
đầy cảm hứng, ngoài trà ngon, bạn hiền, còn phải có một bộ
đồ trà xứng tầm. Một bộ đồ trà thi Nguyễn bao giờ cũng hội
đủ các dụng cụ dùng cho việc pha trà và thưởng trà, gồm: hỏa
lò, siêu đồng nấu nước, hũ sành đựng nước pha trà, hũ đựng
trà, ấm trà bằng đất nung và bđồ trà bng sứ ký kiểu. Ngoài
ra còn có than củi, trầm hương và vài loại bánh mứt để cuộc
trà thêm phn ý vị.
Những dụng cụ như hỏa lò, siêu đồng, hũ đựng trà thường là
đồ nội hóa, có thể đặt làm hoặc mua trong nước, nhưng bộ
ấm chén trà thì thường là đồ sứ, ký kiểu ở nước ngoài. Triu
vua Minh Mạng (1820 - 1841), nhà vua đặt cho xưởng gốm
Copeland & Garrett thuộc Công ty Spode ở Liverpool (Anh)
làm những bộ đồ trà bằng gốm faience, đưa về Việt Nam vẽ
thêm các kiểu hoa văn mà nvua ưa thích lên ấm chén trà,
rồi ghi dòng lạc khoản chữ Hán: “Minh Mạng … niên tăng
họa” (Vẽ thêm vào năm Minh Mạng thứ …). Triều Thiệu Tr
(1841 - 1847) thì đặt cho lò sứ Sèvres ở Paris (Pháp) làm
nhng bộ đồ trà bng sứ màu trắng, vẽ các hoa văn thảo mộc
bằng nhũ vàng, có đề dòng lạc khoản chHán bằng men màu
đen: Thiệu Trị nguyên niên phụng chế (Làm theo lệnh vào
năm Thiệu Trị thứ nhất). Những món đồ trà ấy nay vẫn còn
trưng bày nơi Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế.
Tuy nhiên, đồ trà thi Nguyễn, phong phú nhất và cũng ấn
tượng nhất là những bộ đồ trà ký kiểu ở Trung Hoa. Thông
thường, triều đình thường sai các họa sĩ trong Họa tượng cục
thuộc Nội vụ phủ vẽ kiểu dáng đồ trà và các mẫu hoa văn
trên giấy, rồi gửi theo các sứ bộ sang Trung Hoa công cán,
đặt các lò sứ ở Cảnh Đức Trấn (tỉnh Giang Tây) làm các b
chén và dĩa trà theo mẫu, rồi ghé huyện Nghi Hưng (tỉnh
Giang Tô) để tìm mua những chiếc ấm trà bằng đất nung.
Điều thú vị là triều Nguyễn cùng thời với triều Đại Thanh
của Trung Hoa, nhưng đồ trà thời Nguyễn ký kiểu tại Trung
Hoa lại không theo kiểu thức của đồ trà thời Thanh (1644 -
1911) mà theo kiu thức của đồ trà thời Minh (1368 - 1644).
Một bộ đồ trà thời Nguyễn thường có các món: tống, tốt,
dầm, bàn. Tng, còn gọi là tướng, là chiếc chén lớn dùng để
chứa nước trà rót ra từ ấm, đợi lóng cặn rồi mới chuyên sang
các chén tốt. Tốt, còn gọi là quân, là các chén nhỏ để uống
trà. Dầm là chiếc dĩa lót chén tống. Bàn là chiếc dĩa có chức
năng như chiếc khay nhỏ chứa các chén tốt. Người Huế uống
trà thường chỉ có ba người (trà tam, tửu tứ), nên bộ đồ trà s
ký kiểu dành cho người Huế thường cóm món, gồm: ba
chén tốt, một chén tng và mt dĩa bàn, không có dĩa dầm, vì
chén tống sẽ được úp chồng lên một chén tốt ở trên dĩa bàn.
Trong khi đó, bộ đồ trà sứ ký kiểu của người Bắc thường
gồm bảy món: bốn chén tốt, một chén tống, một dĩa bàn và
một dĩa dầm. Trong mỗi bộ đồ trà, chén tốt và chén tống
giống nhau về dáng kiểu, chỉ khác nhau về kích thước. Dĩa
bàn và dĩa dầm cũng tương tự. Cả bốn thứ này đều có chung
đề tài và kiểu thc trang trí.
Chén trà sứ ký kiểu thời Nguyễn có hai loại kiểu dáng chính
là chén trà không chân và chén trà có chân. Chén trà không
chân, còn được gọi là chén lật đật, vì loại chén này có đáy
tròn và nặng và không có vành đế. Khi không chứa nước, nếu
có ngoại lực tác động vào, chén dễ dao động do điểm tiếp
xúc giữa chén trà với mặt phẳng chứa nó (như mặt bàn, lòng
khay) rất nhỏ, song bao giờ chén cũng trở về vị trí thăng
bằng. Hình tượng này giống con lật đật, vì thế mà thành tên