TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 21 - Thaùng 6/2014<br />
<br />
<br />
NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CƠ BẢN VỀ CÁI NHÌN ĐỜI SỐNG<br />
TRONG NHỮNG TRUYỆN VIẾT VỀ NÔNG THÔN<br />
CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ VÀ NGUYỄN HUY THIỆP<br />
<br />
LÊ VIỆT ĐOÀN(*)<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Bài viết nói về những điểm khác biệt cơ bản trong các truyện ngắn viết về nông thôn<br />
của Nguyễn Ngọc Tư và Nguyễn Huy Thiệp. Người viết nhận thấy rằng, có thể nhìn nhận<br />
sự khác biệt trên ba điểm lớn. Thứ nhất, đó là sự khác biệt trên sự miêu tả có tính chất<br />
khái quát về các chiều kích không gian hiện thực, với các sáng tác phẩm của Nguyễn Ngọc<br />
Tư, không gian chủ yếu là không gian sông rạch Nam Bộ với những con người có tâm hồn<br />
phóng khoáng, rộng mở. Ở tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, đó là không gian khá đa<br />
dạng với những con người sống trong những lề luật ngặt nghèo của tinh thần gia trưởng,<br />
bảo thủ. Người đọc cũng có thể thấy sự khác biệt trong đời sống tinh thần, trong lối hành<br />
xử của con người, trong chất thơ thẫm đẫm ở tác phẩm của cả hai tác giả. Tất cả những<br />
điểm khác biệt đó được/ bị quy định bởi sự phân biệt mang tính chất địa - văn hóa.<br />
Từ khóa: truyện ngắn, không gian hiện thực, tinh thần gia trưởng, bảo thủ, tâm hồn<br />
phóng khoáng.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
The article is about the basic differences among short stories about the countryside<br />
written by Nguyen Ngoc Tu and Nguyen Huy Thiep. The writer shows that we can<br />
acknowledge the differences based on three main viewpoints. Firstly, that is the difference<br />
on the description which has generalized property about real space . In Nguyen Ngoc Tu’s<br />
composition, the main space is the southern rivers with open minded people. In Nguyen<br />
huy Thiep’s composition, that is the various space with paternalistic and conservative<br />
people. Readers can also see the difference in mantal life, people’s behaviour, poeticalness<br />
which have in both writers. All those differences are decided by the geographic and<br />
cultural distinction.<br />
Keywords: short stories, real space, paternalism, conservative, opened minded<br />
<br />
(*)<br />
Nguyễn Ngọc Tư và Nguyễn Huy biệt lí thú. Những điểm khác biệt trong cái<br />
Thiệp có thể coi là hai gương mặt tiêu biểu nhìn về nông dân và nông thôn giữa hai tác<br />
viết về nông thôn và nông dân trong thể giả được tạo nên bởi nhiều yếu tố, nhưng<br />
loại truyện ngắn. Khi nghiên cứu tác phẩm bao trùm tất cả là khoảng cách thế hệ và<br />
của hai nhà văn này, người đọc có thể thấy yếu tố địa dư văn hóa. Một tác giả miền<br />
những điểm gặp gỡ, cũng như những khác Bắc - nơi kết tinh truyền thống văn hóa lâu<br />
đời, có chiều sâu, nơi con người bị đè nén,<br />
(*)<br />
áp bức bởi bao định kiến với tính bảo thủ<br />
ThS, Trường THPT Khánh Hưng - Huyện Trần<br />
Văn Thời - Tỉnh Cà Mau<br />
tất yếu của những vùng văn hóa giàu<br />
<br />
92<br />
LÊ VIỆT ĐOÀN<br />
<br />
<br />
truyền thống; một ở miền Nam, miền đất Vì vậy nên dứt khỏi sông rồi thì Giang như<br />
được khai phá muộn màng của Tổ quốc, người mất hồn, sống với chồng mà “lòng<br />
với đời sống phóng khoáng, hồn nhiên, dạ nó ở đâu đó”, hở ra giờ nào đó lại hối hả<br />
rộng mở. chèo đi, chèo khơi khơi vậy rồi tấp vào một<br />
1. SỰ KHÁC BIỆT TRONG MIÊU TẢ bụi lá nào đó, ngồi ở đó một chút rồi chèo<br />
NHỮNG CHIỀU KÍCH KHÔNG GIAN về. Nhưng cuối cùng phải vì cha mà bỏ<br />
HIỆN THỰC sông, ông Chín vì con cháu mà bỏ sông, vì<br />
Hiện ra trong trong sáng tác của yêu thương nhau mà họ tự nguyện từ bỏ<br />
Nguyễn Ngọc Tư là những vùng nông thôn điều mình yêu thương. Cuộc sống “thương<br />
thật nghèo nàn, nhiều khi u tối, với những hồ” lênh đênh rày đây mai đó, chịu nhiều<br />
người nông dân khổ cực, man mác buồn. thiệt thòi so với những người trên bờ<br />
Viết về đề tài nông thôn nhưng Nguyễn nhưng cũng có thú vị riêng, những tâm tình<br />
Ngọc Tư không chỉ chú tâm miêu tả nông riêng mà chỉ những người trong cuộc mới<br />
dân bên bờ kinh ruộng lúa mà tác giả còn thấu hiểu được. Bằng khả năng quan sát<br />
đặt họ vào môi trường xa lạ và rộng lớn tinh tế và tấm lòng nhân hậu, Nguyễn Ngọc<br />
hơn. Trên sông nước Nam Bộ có nghề Tư đã vẽ nên những chân dung tâm hồn<br />
buôn bán lặt vặt các sản vật như hàng sâu sắc và giàu cảm xúc của các nhân vật<br />
bông, trái cây, đồ ăn, thức uống, tạp hóa... “thương hồ”. Đa phần họ đều nghèo khó,<br />
Họ chính là những con người làm nghề thiệt thòi về những điều kiện sống so với<br />
“thương hồ”, sống trên ghe và coi đó là những con người trên bờ nhưng họ vẫn<br />
nghề của mình. Có người cũng có nhà trên sống và yêu tha thiết dòng sông của mình<br />
bờ, còn lại là những người nghèo phần lớn như ông Chín, Giang.... Bởi vì họ biết<br />
không có miếng đất cắm dùi, gia tài chỉ có thương, biết nhớ, nên những dòng sông<br />
chiếc ghe nhỏ vừa là nơi che mưa che tưởng như vô tình ấy lúc nào cũng trôi<br />
nắng, vừa là phương tiện để mưu sinh. Cực chảy tràn trề, ăm ắp tình thương để vỗ về<br />
khổ, rày đây mai đó, dãi nắng dầm mưa và cưu mang những phận người trót mang<br />
nhưng những khách thương hồ không mấy kiếp lưu lạc hải hồ.<br />
khi cảm thấy mình thiệt thòi, họ vẫn vui Những truyện ngắn mang đậm chất<br />
sống và tự hào về nghề nghiệp của mình: đồng quê của Nguyễn Ngọc Tư thường<br />
“Đạo nào bằng đạo đi buôn bàng bạc một không gian văn hóa Nam Bộ<br />
Xuống biển lên nguồn, gạo chợ nước sông” với đời sống phóng khoáng: những buổi<br />
Chỉ trong hai câu thơ mà gói gọn được đờn ca tài tử, những buổi biểu diễn khắp<br />
hết cái thú vui hải hồ của những con người hang cùng ngõ vắng vào những mùa khô,<br />
thuộc về sông nước này. Họ yêu sống bằng hay những người hát rong lang thang với<br />
mối tình đằm thắm kì lạ, tựa như sông những bản vọng cổ buồn não ruột... Cuộc<br />
không chỉ là thiên nhiên, là môi trường sống của những người chăn vịt chạy đồng<br />
sống của mình mà nó như là một sinh thể lần đầu tiên được Nguyễn Ngọc Tư phơi<br />
có linh hồn. Vì lẽ đó mà nhân vật Giang bày một cách trần trụi và đậm đặc. Ngòi<br />
trong Nhớ sông dù đã có chồng và ở hẳn bút của chị đã vẽ ra những bức tranh tăm<br />
trên bờ nhưng vẫn không sao quên được tối chưa từng thấy của nông thôn Nam Bộ,<br />
những năm tháng sống cùng cha và em trên khắc họa những con người hình như chỉ<br />
ghe, tuy cực khổ, nhưng ấm áp và vui vẻ. sống bằng bản năng nguyên thủy của mình<br />
<br />
93<br />
NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CƠ BẢN VỀ CÁI NHÌN ĐỜI SỐNG TRONG NHỮNG…<br />
<br />
<br />
ngay giữa đồng loại trong thời hiện đại. ngộ nhận giới tính và đạo đức giết chết vẻ<br />
Tóm lại, thế giới nhân vật của Nguyễn diễm lệ trên các gương mặt thiếu nữ...”<br />
Ngọc Tư là những con người sống bằng [1;122]. Cuối cùng Chương đã ra đi, cuộc<br />
xương bằng thịt sống xung quanh chị, đi thấm đẫm tinh thần lãng mạn, nhưng<br />
những con người dù sinh sống nơi đồng cũng thật chua xót, não nề với tâm trạng<br />
ruộng hay giữa chốn thị thành, dù làm bất hoang mang, sợ hãi. Đó chính là một bi<br />
cứ nghề nghiệp nào nhưng dưới ngòi bút kịch ở đời, trong cảm quan thống thiết của<br />
sống động của tác giả chúng ta lại cảm Nguyễn Huy Thiệp.<br />
nhận được nhiều điều về đời sống, và tính Rồi đi tìm sự thật về huyền thoại trâu<br />
cách của con người Nam Bộ với đầy đủ đen, chàng thanh niên trong Chảy đi sông<br />
những nét vốn có đặc trưng. ơi bị những người đánh cá đêm đột ngột,<br />
Nguyễn Huy Thiệp khi viết về nông vô lý ném xuống dòng sông cuộn xoáy,<br />
thôn đã cố gắng khái quát hiện thực đói không thể bấu víu vào đâu. Không ai cả.<br />
nghèo, sự tù đọng, quẫn bách của đời sống May mà có một người tốt bằng xương bằng<br />
nơi đây, mặt khác, ông cũng rất có ý thức thịt đến cứu, nhưng người này về sau lại<br />
mang đến cho người đọc cảm nhận về tính chết đuối không một ai đến cứu chị. Với<br />
chất khép kín, bảo thủ của đời sống ấy, trên nhân vật tôi - người bị đồng loại, những kẻ<br />
tinh thần gia trưởng được tác giả nhắc đi đánh cá đêm độc ác, lạnh lùng dìm xuống<br />
nhắc lại nhiều lần trong các sáng tác của nước, sống chết mặc kệ - lúc đó chỉ còn<br />
mình. Trong bữa cơm gia đình Lâm cái thứ một điều này là có thực: “Nước chảy rất<br />
trật tự trước sau đã được những người phụ xiết, nước chảy bao giờ cũng xiết. Có điều<br />
nữ trao đổi trong những câu đối thoại buồn phải cố mà bơi cho đến được bờ…”. Mấy<br />
não ruột: chục năm sau, con sông vẫn chảy, bến Cốc<br />
“Chị Hiên mời: “Các cụ xơi tự nhiên”. vẫn còn, nhưng người tốt - vị ân nhân, nữ<br />
Thằng Tiến đòi: “Cho em làm các cụ với!”. anh hùng đã cứu sống “tôi” - thì không<br />
Mẹ Lâm gạt đi: “Hỗn nào, chim bằng quả còn. Câu hỏi “Con trâu đen, con trâu đen<br />
ớt thế thì làm các cụ ra sao?” Cái Khanh trong thời thơ ấu của tôi nay ở đâu rồi?”<br />
bụm miệng cười, tôi đỏ mặt. Bà Lâm thở xoáy vào tâm can nhân vật chính trong<br />
dài: “Các cụ toàn chim to...”. Mọi người âm điệu của bài hát ngày nào - “Chảy đi<br />
cười lăn. Chỉ có bố Lâm không cười. sông ơi” - nghe thật ngọt ngào mà biết bao<br />
Khuôn mặt ông sạm đen, vất vả, nhưng bi thiết.<br />
không buồn tí nào, bình thản, vô sự.” Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp còn tô<br />
[1;187]. Từ đây người đọc dễ có cảm giác đậm bi kịch bị kết án giữa cuộc đời bằng<br />
chua xót bởi sự chà đạp nhân phẩm của con cách miêu tả con người trong thực tại như<br />
người ở một xã hội đầy rẫy những hủ tục là những chủ thể sống cô độc, bị bỏ rơi.<br />
lạc hậu, bất công. Và với Con gái thủy thần Nhân vật Chương trong Con gái thủy thần,<br />
bộ mặt của một miền quê mà nhân vật sau khi đã sống, đã ao ước sống, đã dấn<br />
Chương đã đi qua thật khủng khiếp tạo nên thân trong thế giới hiện sinh non nửa đời<br />
những nỗi ám ảnh đáng sợ: “Những định người, than thở: “Tôi vui một mình, buồn<br />
kiến, những tập tục thật nặng nề. Tôi thấy bã một mình, mơ mộng một mình…Tôi chỉ<br />
tinh thần gia trưởng hủy hoại bao nhiêu số con gái thủy thần chờ đợi”. Chương là ai?<br />
phận con người. Tôi cũng đã thấy những Liệu có ai biết đến sự hiện hữu của chàng<br />
<br />
94<br />
LÊ VIỆT ĐOÀN<br />
<br />
<br />
trai này không? Nhân vật này hơn ai và những sự đổi thay cùng những mặt bất toàn<br />
hơn bao giờ hết ý thức được sự cô đơn hay ở hiện tại. Nhà văn chủ yếu tập trung thể<br />
tình trạng “bị bỏ rơi” của mình. Và thật sự hiện những tâm tư tình cảm đời thường<br />
con người càng ra sức đi kiếm tìm cái khát để thấy được những vẻ đẹp giản dị gần<br />
vọng, đời sống tự do lại càng hoài nghi dù gũi, những nỗi trăn trở nhẹ nhàng nhưng<br />
tâm nguyện bao giờ cũng muốn dâng hiến, sâu sắc.<br />
hưởng thụ, được hòa nhập, được thừa nhận Nương và Điền trong Cánh đồng bất<br />
là người với đầy đủ những cái vốn có. tận phải đối mặt với bi kịch gia đình, đối<br />
2. SỰ KHÁC BIỆT TRONG ĐỜI SỐNG mặt với sự thiếu thốn triền miên cả về vật<br />
TINH THẦN CỦA CON NGƯỜI chất và tinh thần. Hầu như lúc nào hai đứa<br />
Nguyễn Ngọc Tư đi sâu khám phá trẻ đó cũng luôn khát khao tình thương,<br />
từng ngõ ngách trong tâm hồn của nhân vật khát khao được đối đãi như những con<br />
để thấy được những tấn bi kịch tồn tại người thật sự. Bi kịch đó bắt đầu từ sự lầm<br />
trong mỗi con người giữa cuộc sống đời lạc của người mẹ cạn nghĩ, nhẹ dạ, đã đánh<br />
thường trong những mối quan hệ gần gũi đổi thân xác để lấy vật chất phù phiếm làm<br />
như quan hệ gia đình, làng xóm, tình yêu tan nát một gia đình và một người cha trượt<br />
đôi lứa… Các nhân vật trong các sáng tác dài trong thù hận. Hai đứa trẻ cô đơn đến<br />
của nhà văn thường là những con người ít cùng cực. Sự thiếu thốn tình thương khiến<br />
bộc lộ, sống khép kín, lặng lẽ như dòng chúng khát khao được chính người cha của<br />
chảy của những con sông, ẩn chứa những mình đánh đập vì còn đánh là còn quan tâm<br />
đợt sóng ngầm tạo nên những tấn bi kịch và chúng nghĩ mình vẫn còn có cha.<br />
nội tâm. Những bi kịch của những con người<br />
Đó là những day dứt, trở trăn, những trong những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư<br />
sám hối của một người cha có con gái bỏ xét cho cùng đều xuất phát từ bi kịch của<br />
nhà ra đi (vì lỡ làm mất đôi trâu); là hoàn tình thương. Và nhà văn viết về họ không<br />
cảnh bất hạnh của Diễm Thương, sự bất phải để chỉ thấy họ đau khổ bất hạnh, mà<br />
hạnh đó tạo cho cô cái vẻ ngoài “lạnh trơ, quan trọng hơn từ trong sự bất hạnh đó để<br />
vui buồn không ra” đối lập hẳn với một thấy được vẻ đẹp trong tâm hồn họ.<br />
con người bên trong đầy nhạy cảm và luôn Nguyễn Ngọc Tư không nhấn mạnh về cái<br />
khao khát tình cảm; đó là anh Hết, cô Hảo, đẹp của sự chiến thắng giữa cái ác và cái<br />
chị Hoài, ba con người đó có chung một thiện trong tâm hồn con người, cũng không<br />
hoàn cảnh là duyên nợ dở dang; bi kịch của phải là những sự đấu tranh giằng xé giữa<br />
Út Nhỏ, Tứ Hải, Tứ Phương trong Nhà phần con và phần người trong mỗi nhân<br />
cổ… Tất cả những nhân vật ấy luôn luôn vật. Nhà văn chủ yếu thông qua ngôn ngữ,<br />
ôm trong mình những nỗi niềm, đôi khi sự miêu tả hành động và nội tâm nhân vật<br />
như là mối hận không thể giải tỏa. để phát hiện những tình cảm bình dị mà<br />
Viết về nỗi đau của những con người đẹp lạ lùng của những con người nơi miền<br />
trải qua chiến tranh, Nguyễn Ngọc Tư sông nước.<br />
không nhấn mạnh những đau thương mất Những con người trong truyện ngắn<br />
mát trong quá khứ, lại càng không thể hiện của Nguyễn Ngọc Tư đều là những con<br />
sự tự vấn lương tâm của những con người người bình dị, phóng khoáng, trọng nhân<br />
sau chiến tranh soi rọi giữa quá khứ và nghĩa, giàu lòng vị tha. Những con người<br />
<br />
95<br />
NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CƠ BẢN VỀ CÁI NHÌN ĐỜI SỐNG TRONG NHỮNG…<br />
<br />
<br />
đó yêu hết thảy từng mảnh vườn, bờ ruộng, tình người cùng những vẻ đẹp lung linh<br />
dòng sông, yêu từng gương mặt thân quen ngời sáng tuy bàng bạc một nỗi buồn .<br />
cùng tiếng nói hàng ngày. Họ gắn bó với Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp luôn<br />
đất đai, sông nước, với con người. Đó là đi sâu vào phần tự nhiên, phần bản thể, bản<br />
tấm lòng của ông Tư Mốt với mảnh đất năngtrong mỗi con người. Họ là những con<br />
Mút Cà Tha, cái tình mà ông giành cho đất người cô đơn, cô độc trong cuộc sống trần<br />
cũng bởi đất và người cần ông (Thương thế. Nguyễn Huy Thiệp đã khai thác nhiều<br />
quá rau răm). Hay hình ảnh của những con về kiểu người này để phản ánh một sự thật<br />
người trong Dòng nhớ, Nhớ sông, họ gắn khi kinh tế thị trường, văn minh công<br />
bó với con thuyền, dòng sông cùng câu hát nghiệp hóa, hiện đại hóa mở ra. Lối sống<br />
nặng nợ cuộc đời. Đó còn là anh Hết hiếu thực dụng như một cơn lốc tràn vào từng<br />
thảo, yêu chung thủy chân thành, gắn bó ngõ ngách của cuộc sống. Rất nhiều người<br />
cùng bà con làng xóm. “Anh Hết lớn lên, trở nên bơ vơ lạc loài, không thể thích<br />
yêu hết thảy từng con người, từng tấc đất ở ứng được trong xã hội đó. Điều này trong<br />
cái xóm Giồng Mới. Cái xóm nhỏ ngoại ô văn học các giai đoạn trước dường như<br />
biết bao thương nhớ, những bờ rào râm bụt vắng bóng.<br />
xanh, những hàng cây đủng đỉnh xanh. Thầy giáo Triệu trong Những bài học<br />
Những người đàn ông chuyền tay nhau dỗ nông thôn, là người thành phố nhưng “bao<br />
giành đứa trẻ thiếu hơi ấm mẹ. Những giờ cũng nói rằng mẹ tôi là nông dân, còn<br />
người đàn bà cho con bú thép, khóc ngoe tôi sinh ở nông thôn! Anh Triệu sống trong<br />
trên giường”. [2;31]. Hay là những dòng cô đơn vì phải xa gia đình, anh sống độc<br />
tâm sự của Xuyến khi không nỡ xa mũi đất thân ở làng đã chín năm và bố mẹ đã từ<br />
So Le: “ Đáng lẽ phải nói như vầy, em anh. Cuối cùng thầy giáo Triệu chết khi lao<br />
thấy yêu mến, gắn bó mảnh đất này quá đi, vào ngăn con trâu điên để cứu một em nhỏ.<br />
anh à...”(Duyên phận so le). Một điều dễ Chỉ có dân làng tiễn anh. Cùng với nỗi cô<br />
nhận thấy là những con người đó không đơn của anh giáo Triệu, trong các sáng tác<br />
phải là những nhân vật chóng yêu mau về nông thôn của Nguyễn Huy Thiệp,<br />
quên, mà yêu âm thầm lặng lẽ không đòi người đọc có thể thấy mỗi nhân vật thường<br />
hỏi, không so sánh thiệt hơn lại càng không hiện lên như một khối u buồn, khép kín<br />
có những sự trả thù hằn học mà chỉ âm trong những suy nghĩ, những tâm tư của<br />
thầm đau đớn và âm thầm tha thứ. mình mà không tìm được bất kì sẻ chia<br />
Văn của Nguyễn Ngọc Tư vốn rất nào. Đó là Nhâm (Thương nhớ đồng quê),<br />
dung dị, ta thấy nhiều những con người Năng (Chăn trâu cắt cỏ), Lâm (Những bài<br />
giàu tình yêu, giàu lòng chung thủy, tuy học nông thôn), Chương (Con gái thủy<br />
thầm lặng sống khép kín nhưng có nghị lực thần), là chị Thắm (Chảy đi sông ơi), và<br />
và giàu niềm tin. Dẫu có bi kịch nhưng xét Trùm Thịnh, ông Nhiêu, lão Ba Đình,<br />
cho cùng những ngang trái đó cũng do bởi Bường, Ngọc… Trong truyện của Nguyễn<br />
quá yêu thương. Niềm yêu thương cùng sự Huy Thiệp, một mặt ta thấy đời sống hiện<br />
tin tưởng đó của nhân vật luôn tồn tại trong lên với bao lề luật khắc nghiệt với tinh thần<br />
nỗi day dứt, nỗi day dứt không ồn ào mà gia trưởng, với sự áp bức, đè nén của<br />
hoá thành những giọt nước mắt trong trẻo. phong tục, tập tục, trách nhiệm đè nặng lên<br />
Những gì ta lưu giữ lại được là giá trị của đôi vai nhân vật. Nhưng cuộc sống còn là<br />
<br />
96<br />
LÊ VIỆT ĐOÀN<br />
<br />
<br />
một cõi hoang sơ, trì đọng, một thế giới 3. NHỮNG KIỂU CHẤT THƠ KHÁC NHAU<br />
hỗn tạp xô bồ. Ở đó có những con người Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thấm<br />
tàn ác, xấu xa, đê tiện. Ở đó có những con đẫm bi kịch của mọi kiếp người, thế nhưng<br />
người vụ lợi, dối trá, lừa lọc. Với dung độc giả không thấy bế tắc, trái lại đằng sau<br />
lượng lớn các tác phẩm viết về kiểu người mỗi số phận hiện lên niềm hy vọng, cuộc<br />
này, độc giả đã cảm nhận được cái tột cùng sống sẽ đổi khác. Đây chính là chất ngọc<br />
của phần “con” ghê sợ tồn tại trong tâm mà chị tạo ra từ những trang viết của mình.<br />
hồn con người. Đây là kiểu nhân vật bị tha Chị chạm vào những mảng tối của xã hội<br />
hóa về nhân cách, bị vấy bẩn về tâm hồn, để hướng tới chân trời mơ ước, nơi mọi<br />
sống độc ác và tàn nhẫn. Họ lấy đồng tiền, khổ đau dừng lại và hạnh phúc cứ thế trải<br />
lấy quan hệ vật chất làm thước đo cho mọi rộng thênh thang. Con người sẽ giàu có<br />
giá trị. Họ tham lam, ích kỷ, thực dụng một hơn về tình yêu để con người xứng đáng<br />
cách tỉnh táo và vụ lợi một cách bỉ ổi. với danh hiệu con- người. Dẫu số phận con<br />
Với những trang viết chân thực chưa người có tủi cực đến đâu thì cái khát vọng<br />
từng thấy trong văn học Việt Nam những hướng thiện vẫn không bị tuyệt diệt, nó chỉ<br />
năm trước đó. Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn khuất lặn đâu đấy nơi đáy sâu tâm hồn đã<br />
con người không chỉ qua lăng kính của bị cái xấu và cái ác đày đoạ đến hoang<br />
người nghệ sĩ mà ông soi chiếu chúng từ lạnh, điều đó thể hiện tài năng và tấm lòng<br />
góc nhìn rất đời tư và đời thường. Nguyễn của nhà văn. Bên cạnh đó, Ngọc Tư rung<br />
Huy Thiệp đã kéo con người về gần sát với chuông báo động vấn đề gia đình, vấn đề<br />
cuộc sống đời thường chân thực và sống trẻ em trong toàn xã hội. Ngày càng nhiều<br />
động. Cuộc sống không đơn giản như nó gia đình vỡ tan, trẻ em không được nuôi<br />
vốn có mà rất phức tạp, xô bồ. dạy trong môi trường tốt nhất, tạo nên mối<br />
Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đe dọa và gánh nặng cho toàn xã hội. Gia<br />
tạo nên những làn sóng di dân từ nông thôn đình là tế bào của xã hội, muốn xây dựng<br />
đến thành thị. Thậm chí lịch sử cũng đã tạo một môi trường đạo đức xã hội lành mạnh,<br />
ra những cuộc di dân xuyên biên giới như trước hết điều kiện cần và đủ phải xây<br />
ở Việt Nam và các nước khác. Trong dựng môi trường đạo đức ngay trong chính<br />
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, người mỗi gia đình. Chị chuyền thông điệp đi,<br />
Việt Nam dù đi đâu, ở đâu cũng nặng trĩu một thông điệp rất dung dị, tự nhiên nhưng<br />
tâm thức “thương nhớ đồng quê”, được không kém phần nhiệt thành, day dứt và<br />
hiểu như là một tâm thức cộng đồng. trăn trở. Chị mất ăn mất ngủ vì những điều,<br />
Đối tượng mà Nguyễn Huy Thiệp gửi làm sao thực thi được “dân giàu nước<br />
tới bạn đọc là những con người rất gần với mạnh”, cái đói, cái nghèo và sự dốt nát<br />
đời sống thường nhật. Ông cũng có những được xoá sổ một cách triệt để trong tương<br />
trang viết rất đẹp về những tâm hồn thiên lai gần. Vì tất cả những vấn đề đó khởi<br />
lương, thánh thiện thể hiện niềm tin đối với nguồn của cái xấu và cái ác, nó có thể làm<br />
con người. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp cũng cho con người biến chất, tha hóa.<br />
đã tập trung ngòi bút của mình vào việc Nguyễn Ngọc Tư đặt cược hết niềm tin<br />
bóc trần hiện thực thuộc về những mảng vào con người và biết tìm trong họ những<br />
tối, góc khuất trong đời sống con người.. đốm lửa tinh thần để thắp sáng lên tình<br />
yêu. Nhà văn, nhà báo, người tận diệt mọi<br />
<br />
97<br />
NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CƠ BẢN VỀ CÁI NHÌN ĐỜI SỐNG TRONG NHỮNG…<br />
<br />
<br />
thói hư tật xấu có trong xã hội, nhằm mở ra giao chỉ tõe ra của ông Nhiêu; chất thơ tồn<br />
chân trời mơ ước, nơi cõi nhân sinh mọi tại trong khát vọng bứt phá của nhân vật,<br />
đau khổ của con người đứng lại và yêu trong hành trình tìm kiếm con gái Thủy<br />
thương cứ thế nhân lên. Sau những căn thần của Chương, trong cánh diều vút lên<br />
bệnh trầm kha của thời đại, những tấn bi giữa lửng lơ tiếng sáo trong buổi chiều<br />
kịch của kiếp nạn con người. Cuộc sống mộng mị trên cánh đồng với dáng lão Ba<br />
vẫn phát triển theo quy luật của riêng nó. Đình kẻ một nét gân guốc lên nền trời thăm<br />
Ngay cả khi nhân vật không ngủ được vì thẳm. Chất thơ âm ỉ trong kiếp sống quẩn<br />
bao điều đau khổ, phiền muộn. Dẫu thế, quanh mà thanh bình trên từng bờ ruộng<br />
nhưng chị tin tưởng bình minh sẽ hé rạng yên hòa, trong những nỗi niềm của Năng,<br />
trên cõi nhân sinh. Cuộc sống hạnh phúc Nhâm; chất thơ trên cái bí ẩn của dòng<br />
đến với mỗi người và mỗi nhà. Đấy là khát công đoạn qua bến Cốc với người phụ nữ<br />
vọng dựng xây, khát vọng thay đổi mà bịt khăn đen kín mặt mà ẩn dấu trong đó<br />
chính nhà văn trở trăn, mơ ước. một tấm lòng khắc khoải hướng thiện.<br />
Chất thơ trong truyện của Nguyễn Trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp,<br />
Ngọc Tư về nông thôn, trải dài trên miên chất thơ còn thể hiện nơi bắt đầu những<br />
man sông nước, với những cù, tràm có quan niệm văn hóa, nghĩa là nơi bắt đầu<br />
phần hoang dã mà thơ mộng. Chất thơ da những cứu cánh cho đời sông tinh thần<br />
diết trong những câu hò xuôi ngược trên hàng nghìn năm với những thuyền thuyết<br />
từng chuyến ghe khắc khoải kiếp thương dân gian sẽ ám ảnh nhân vật suốt cuộc đời<br />
hồ (bản thân hai chữ thương hồ, với hình mình, nơi dòng sông có con trâu đen như<br />
ảnh những con người trải đời mình với một bí mật không bao giờ được giải mã,<br />
mênh mông gió, nắng đã gợi nên bao tứ nơi có câu chuyện có thể nhiều phần thêu<br />
thơ). Chất thơ rào rạt trong tiếng đập cánh dệt về mẹ Cả, về con gái Thủy Thần, chất<br />
của từng đàn vịt, trong những mảnh đời tối thơ rộn rã trong những lễ hội mang đậm<br />
sáng khác nhau nhưng đều một tấm lòng bản sắc văn hóa của mảnh đất đã có lịch sử<br />
phóng khoáng. Chất thơ trong truyện của lâu đời…<br />
Nguyễn Ngọc Tư, vì vậy, thấm đẫm trong Chất thơ trong truyện của Nguyễn Huy<br />
hồn người Nam bộ, trong không gian Nam Thiệp không trải dài trên miên man kênh<br />
bộ, và đặc biệt, trong những đoạn văn tả rạch với những điệu hò mang trong mình<br />
cảnh sông nước, trong những dòng trữ tình nó nỗi niềm và khát vọng thương hồ. Chất<br />
ngoại đề. Những tứ thơ phóng khoáng, sôi thơ ở đây hiện lên trên những cánh đồng<br />
nổi và hồn hậu. quê thương nhớ, trên những buổi chiều vần<br />
Khác với sáng tác về nông thôn của vụ như một bức tranh thủy mặc với những<br />
Nguyễn Ngọc Tư, chất thơ trong truyện ráng chiều rợn ngợp, với những ánh chớp<br />
viết về nông thôn của Nguyễn Huy Thiệp chói lòa từ cao rộng, trong những dòng<br />
lại bắt đầu nơi những con người luôn trĩu sông thao thiết chảy mang trên mình nó<br />
nặng suy tư về những triết lí nhân sinh nặng những phù sa và trầm tích văn hóa,<br />
trước một tồn tại ngổn ngang, nham nhở cùng những bài đồng dao được hát lên từ<br />
nhưng cũng đầy tính thơ. Chất thơ thể hiện những bờ môi xinh xắn của con trẻ.<br />
trong một niềm hoài vọng quá khứ, cũng Và chúng ta cũng có thể thấy chất thơ<br />
có thể là niềm thất vọng nơi ngón chân bang bạc trong phần lớn các tác phẩm này<br />
<br />
98<br />
LÊ VIỆT ĐOÀN<br />
<br />
<br />
của ông bằng những đoạn miêu tả thiên tôi đi trên con đường lung linh bảy sắc cầu<br />
nhiên, bằng những trữ tình ngoại đề, bằng vồng. Hai bên bạt ngàn là hoa ban trắng.<br />
độc thoại nội tâm nhân vật: “Bởi cái tình Này, hoa ban, một nghìn năm nữa mày có<br />
chi? Mà tôi mượn màu son phấn ra đi” trắng thế không?” (Những người thợ xẻ)<br />
(Con gái Thủy thần); “Tôi mơ thấy chúng [1;185].<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
<br />
1. Nguyễn Huy Thiệp (2001), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Phụ nữ Hà Nội.<br />
2. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ.<br />
<br />
* Nhận bài ngày: 8/5/2014. Biên tập xong : 5/6/2014. Duyệt bài: 12/6/2014.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
99<br />