VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 442 (Kì 2 - 11/2018), tr 1-5<br />
<br />
NHỮNG ĐIỂM MỚI, THÁCH THỨC VÀ TÁC ĐỘNG<br />
CỦA CHƯƠNG TRÌNH VÀ SÁCH GIÁO KHOA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG<br />
Đinh Quang Báo - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
Phan Thị Hồng The - Trường Đại học Thủ đô Hà Nội<br />
Hà Văn Dũng - Tạp chí Giáo dục<br />
Ngày nhận bài: 20/09/2018; ngày sửa chữa: 01/10/2018; ngày duyệt đăng: 20/10/2018.<br />
Abstract: The paper analyzes fundamental innovations of new education curriculum and textbook<br />
in six groups: The program follows a capacity development approach, integrated education, twostage structure, multiple textbooks, decentralization of management, and assessments by capacity<br />
approach; it also presents the challenges and implications for the education system, students,<br />
teachers and administrators. The research results will help teachers, scientists and administrators<br />
to have an overview of how to successfully implement the curriculum.<br />
Keywords: Challenges, innovations, implications, general education Curriculum, textbook.<br />
đầu ra được mô tả bằng hệ thống các năng lực chung và<br />
năng lực đặc thù, trong đó mỗi năng lực được cụ thể hóa<br />
bằng các tiêu chí, chỉ báo sắp xếp theo một logic chặt chẽ<br />
thuận tiện cho việc rèn luyện và lựa chọn nội dung kiến<br />
thức, phương pháp dạy học phù hợp với học sinh ở các<br />
lứa tuổi từ lớp 1 đến lớp 12. Các phẩm chất và năng lực<br />
đó xuyên suốt các lớp, các cấp học, các môn học, hoạt<br />
động giáo dục và dựa vào đó xác định các phương thức<br />
dạy học tích hợp, phát triển năng lực, tác động một cách<br />
trực tiếp làm thay đổi mô hình, cấu trúc sách giáo khoa.<br />
Vì vậy, song song với đổi mới chương trình phải đổi mới<br />
sách giáo khoa.<br />
- Thách thức: Chương trình và sách giáo khoa theo<br />
định hướng phát triển năng lực người học cũng đặt ra<br />
những thách thức phải vượt qua mới đạt được kết quả<br />
mong đợi. Các thách thức đó là:<br />
+ Người xây dựng chương trình môn học, hoạt động<br />
giáo dục phải có năng lực xác định và mô tả chuẩn đầu<br />
ra đủ tường minh cho việc lựa chọn lĩnh vực môn học,<br />
các môn học, các hoạt động giáo dục; cho việc lựa chọn<br />
phương pháp dạy học, cách đánh giá kết quả giáo dục;<br />
cho việc biên soạn sách giáo khoa đáp ứng mục tiêu và<br />
chuẩn đầu ra của chương trình. Như vậy, có thể xem mục<br />
tiêu và chuẩn đầu ra là bản thiết kế, còn người soạn sách<br />
giáo khoa, người dạy, người học, người quản lí chất<br />
lượng giáo dục là người đọc bản vẽ thiết kế và thi công<br />
làm ra sản phẩm là nhân cách học sinh.<br />
+ Biên soạn sách giáo khoa phải bảo đảm sao cho<br />
sách giáo khoa thực hiện được 02 chức năng cơ bản: cung<br />
cấp thông tin chính xác, khoa học và hướng dẫn quá<br />
trình sư phạm. Điều đó đòi hỏi người soạn sách giáo khoa<br />
vừa giỏi khoa học chuyên ngành, vừa tinh thông khoa<br />
học sư phạm.<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành<br />
Trung ương về “đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT đáp ứng<br />
yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định<br />
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” [1]; Nghị<br />
quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội về “đổi mới<br />
chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, góp<br />
phần đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT” [2]; Quyết định<br />
số 404/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt<br />
“Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục<br />
phổ thông” [3], Bộ GD-ĐT đã triển khai và công bố xin<br />
ý kiến dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông mới<br />
(Chương trình tổng thể) vào ngày 28/7/2017 [4]. Đây<br />
được coi là một sự thay đổi lớn trong ngành Giáo dục khi<br />
chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông<br />
chuyển từ cách tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực<br />
của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học<br />
sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh làm được<br />
cái gì qua việc học. Cách tiếp cận này là phù hợp với bối<br />
cảnh trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, để chương trình<br />
và sách giáo khoa mới triển khai đúng mục tiêu đề ra, các<br />
nhà xây dựng chương trình phải phân tích được những<br />
điểm mới và những thách thức mà chương trình mang<br />
lại, cũng như mô tả được những tác động của chương<br />
trình đến các thành tố trong hệ thống giáo dục quốc dân.<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Những điểm mới, thách thức của Chương trình và<br />
sách giáo khoa giáo dục phổ thông<br />
2.1.1. Chương trình giáo dục phổ thông theo định hướng<br />
phát triển phẩm chất, năng lực học sinh<br />
- Điểm mới: Chương trình và sách giáo khoa theo<br />
hướng phát triển phẩm chất và năng lực giúp cho việc<br />
xác định mục tiêu giáo dục được tường minh bằng Chuẩn<br />
<br />
1<br />
<br />
Email: baodq@hnue.edu.vn<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 442 (Kì 2 - 11/2018), tr 1-5<br />
<br />
Phương pháp dạy học bằng thuyết trình truyền đạt<br />
thông tin một chiều làm mất phản ứng chủ động tích cực<br />
của học sinh trong quá trình nhận thức đang phổ biến ở<br />
nhà trường phổ thông, trở thành hoạt động khó thay đổi<br />
ở cả giáo viên, học sinh và người quản lí giáo dục. Đây<br />
là vấn đề cản trở lớn cho việc đổi mới chương trình và<br />
sách giáo khoa theo hướng phát triển năng lực. Nếu<br />
không có giải pháp tích cực trong bồi dưỡng, đào tạo lại<br />
giáo viên thì mục tiêu đổi mới chương trình và sách giáo<br />
khoa sẽ khó thành hiện thực.<br />
2.1.2. Phát triển chương trình và biên soạn sách giáo<br />
khoa theo định hướng tích hợp và phân hoá<br />
- Điểm mới:<br />
Tuy chương trình hiện hành dễ hơn trong việc bảo<br />
đảm logic chặt chẽ nội dung kiến thức nội bộ các môn<br />
học, trong thiết kế, quản lí kế hoạch hoạt động giáo dục<br />
ở từng nhà trường; trong tổ chức kiểm tra, đánh giá, thi<br />
cử; trong biên soạn sách giáo khoa; trong chuẩn bị đội<br />
ngũ giáo viên… nhưng lại làm quá tải số đầu môn học và<br />
các nội dung không thật sự thiết thực, dễ bị chồng chéo,<br />
trùng lặp các nội dung kiến thức ở các môn học, các lớp,<br />
các cấp học; đặc biệt dễ làm cho nội dung rời rạc, khó<br />
tích hợp, không thuận lợi cho tổ chức, phát triển các năng<br />
lực chung, các chủ đề cốt lõi để hình thành tri thức có<br />
tính nguyên lí khoa học xuyên suốt. Mặt khác, dạy học<br />
truyền thống dựa trên tiếp cận phát triển nội dung trong<br />
từng môn học riêng lẻ (nên còn gọi là tiếp cận logic đơn<br />
tuyến) nên giá trị tích hợp phát triển năng lực là rất hạn<br />
chế. Xuất phát từ bản chất của hoạt động là phương thức<br />
bộc lộ năng lực, xét về phương diện logic khoa học là kết<br />
quả của sự liên kết, tổ hợp các thành phần kiến thức, kĩ<br />
năng của nhiều khoa học.<br />
Chương trình theo định hướng tích hợp có các môn<br />
học phản ánh lĩnh vực khoa học rộng. Theo đó, có thể<br />
giảm số lượng môn học nhưng tăng khả năng lựa chọn,<br />
tích hợp các kiến thức khoa học khác nhau, hướng vào<br />
làm sáng tỏ những vấn đề có giá trị cốt lõi.<br />
Những ưu điểm đó là điều kiện để thiết kế chương<br />
trình giáo dục phổ thông gồm 02 giai đoạn, trong đó giai<br />
đoạn cơ bản 9 năm bảo đảm hình thành ở học sinh tri<br />
thức phổ thông nền tảng chuẩn bị cho học tiếp hoặc tham<br />
gia cuộc sống lao động; giai đoạn sau cơ bản ở Trung học<br />
phổ thông với mục tiêu phân hóa sâu tiếp cận nghề<br />
nghiệp. Tích hợp và phân hóa theo tinh thần đó đảm bảo<br />
đầu ra Trung học phổ thông là sản phẩm đã được chuẩn<br />
bị tốt hơn về khả năng học nghề tiếp theo.<br />
- Thách thức:<br />
Thiết kế môn học tích hợp rộng dễ xảy ra tình trạng<br />
ghép kiến thức một cách cơ học, hình thức khi thiết kế<br />
chương trình môn học, cấu trúc sách giáo khoa, tổ chức<br />
<br />
dạy học và đánh giá kết quả học tập... Có thể khắc phục<br />
tình trạng này bằng cách thiết kế các chủ đề dạy học tích<br />
hợp (chủ đề hội tụ), qua đó vừa thuận lợi cho phát triển<br />
năng lực vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề trong<br />
nhận thức hay thực tiễn, vừa hình thành được ở học sinh<br />
các tri thức có tính nguyên lí khoa học về bản chất sự vật,<br />
hiện tượng. Để làm được những việc này, đòi hỏi tác giả<br />
chương trình, sách giáo khoa và giáo viên phải được bồi<br />
dưỡng về lí luận và kĩ năng dạy học tích hợp.<br />
Chương trình được xây dựng theo hướng phân hoá<br />
sâu ở trung học phổ thông nhằm đáp ứng nhu cầu phát<br />
triển năng lực, năng khiếu, tiếp cận nghề nghiệp của từng<br />
học sinh. Để đạt được mục tiêu phân hoá sâu của chương<br />
trình, cần phải giải quyết một số vấn đề sau:<br />
+ Phải khảo sát hệ thống ngành nghề trong xã hội và<br />
các nhu cầu về nhân lực của mỗi ngành nghề.<br />
+ Trên cơ sở khảo sát đó, lựa chọn các tiêu chí để phân<br />
thành các nhóm ngành nghề, xác định các tổ hợp chuyên đề,<br />
môn học phù hợp với yêu cầu đào tạo cho từng nhóm ngành.<br />
+ Tổ chức tư vấn nghề nghiệp cho học sinh, xây dựng<br />
kế hoạch dạy học, trong đó biên chế lớp học theo từng<br />
nhóm học sinh có cùng lựa chọn môn học, chuyên đề.<br />
Như vậy, sẽ phát sinh nhu cầu tăng phòng học, biên chế<br />
lại đội ngũ giáo viên, và do đó tác động đến chương trình<br />
và mục tiêu đào tạo của các trường sư phạm.<br />
+ Phát triển đa dạng hệ thống các tài liệu giáo khoa<br />
cho các môn học, chuyên đề tự chọn khác nhau. Hệ thống<br />
các môn học, chuyên đề tự chọn này ngày càng tăng,<br />
tương ứng với sự phát triển các ngành đào tạo nghề và<br />
đào tạo đại học.<br />
+ Môn học có tính tổng hợp rộng ở cấp tiểu học và<br />
trung học cơ sở, phân hoá sâu ở trung học phổ thông có<br />
thể sẽ tạo ra những gián đoạn mạch logic nội dung kiến<br />
thức liên quan đến môn học và chuyên đề tự chọn ở trung<br />
học phổ thông.<br />
Giải quyết các vấn đề nảy sinh do tác động của định<br />
hướng giáo dục phân hoá của chương trình là một trong<br />
những điều kiện bảo đảm triển khai đổi mới.<br />
2.1.3. Kiểm tra, đánh giá và thi cử theo định hướng hình<br />
thành và phát triển phẩm chất, năng lực<br />
- Điểm mới:<br />
Chương trình theo định hướng phát triển phẩm chất,<br />
năng lực đòi hỏi nội dung kiểm tra, đánh giá là phẩm chất<br />
và năng lực học sinh; phương thức đánh giá là đánh giá<br />
quá trình kết hợp với đánh giá tổng kết. Nội dung và<br />
phương thức đánh giá đó sẽ khắc phục được các bất cập,<br />
nhược điểm hiện hành và đặc biệt tạo được sự chuyển<br />
biến các yếu tố cơ bản của chương trình giáo dục: đòi hỏi<br />
phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển<br />
năng lực.<br />
<br />
2<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 442 (Kì 2 - 11/2018), tr 1-5<br />
<br />
- Thách thức: Theo chương trình mới, kiểm tra, đánh<br />
giá tập trung vào đánh giá phẩm chất và năng lực học<br />
sinh, phương thức kết hợp đánh giá quá trình và đánh giá<br />
tổng kết, kết hợp đánh giá và tự đánh giá, kết hợp đánh<br />
giá định tính và đánh giá định lượng. Điều đó có tác động<br />
làm chuyển biến sâu sắc đến xây dựng chuẩn kết quả giáo<br />
dục, lập ma trận thể hiện các trọng số nội dung đánh giá,<br />
thiết kế công cụ đánh giá đo lường chất lượng dạy học,<br />
sử dụng kết quả đánh giá, xác định mục đích đánh giá,<br />
phương pháp dạy và học… Những tác động đó đòi hỏi<br />
phải bồi dưỡng cho giáo viên các năng lực sư phạm để<br />
đáp ứng các yêu cầu đổi mới. Mặt khác, tuyển sinh ở đại<br />
học cần theo hướng kết hợp kết quả đánh giá quá trình và<br />
kết quả bài thi tuyển sinh.<br />
2.1.4. Chương trình được thiết kế theo hai giai đoạn<br />
- Điểm mới:<br />
Triết lí của việc thiết kế chương trình theo hai gia<br />
đoạn là thực hiện mục tiêu giáo dục phổ cập, bắt buộc<br />
cấp trung học cơ sở, tạo tiềm lực cho học sinh phát triển<br />
sau trung học phổ thông một cách linh hoạt, vừa phù hợp<br />
nhu cầu, sở thích, sở trường cá nhân vừa đáp ứng nhu cầu<br />
nhân lực đa dạng của xã hội.<br />
Để đạt được mục tiêu đó, chương trình phải đảm bảo<br />
cho học sinh có được học vấn, phẩm chất, năng lực phổ<br />
thông cốt lõi, nền tảng. Đến lượt mình, để có tri thức phổ<br />
thông cốt lõi, nền tảng, không thể không xây dựng nội<br />
dung giáo dục theo kiểu đồng tâm tích hợp xung quanh<br />
những khái niệm, quy luật, nguyên lí khoa học khái quát<br />
về thế giới khách quan tự nhiên và xã hội.<br />
Những khía cạnh đổi mới đó đến lượt mình lại chi<br />
phối việc lựa chọn các lĩnh vực nội dung giáo dục, cách<br />
xác định môn học và các hoạt động giáo dục để có thể<br />
tạo ra sự tích hợp kiến thức, kĩ năng từ các nguồn khác<br />
nhau theo các mạch logic có ý nghĩa cho nhận thức và<br />
đời sống. Các môn học trong chương trình giáo dục cấp<br />
tiểu học và cấp trung học cơ sở thường được xác định<br />
theo lĩnh vực khoa học rộng. Ví dụ: môn Khoa học tự<br />
nhiên gồm kiến thức Vật lí, Hoá học, Sinh học, Khoa học<br />
trái đất để qua đó học sinh tìm hiểu bản chất của thế giới<br />
tự nhiên được thể hiện ở các nguyên lí tồn tại và vận động<br />
của tự nhiên; môn Khoa học xã hội gồm Lịch sử, Địa lí,<br />
Xã hội học... Hệ quả của cách xác định môn học theo<br />
nguyên tắc đó là làm giảm đầu môn học ở trung học cơ<br />
sở nhưng lại tăng khả năng tích hợp và giảm áp lực cho<br />
học sinh, đồng thời tăng giá trị sử dụng kiến thức.<br />
- Thách thức:<br />
Thực hiện được chương trình hai giai đoạn sẽ nảy<br />
sinh những vấn đề cần giải quyết như: thay đổi cơ cấu<br />
đội ngũ giáo viên ở các trường trung học cơ sở. Giáo viên<br />
ở cấp học này phải chuyển từ dạy đơn môn sang dạy môn<br />
<br />
học có tính tích hợp rộng; sách giáo khoa phải được soạn<br />
lại theo cấu trúc môn học tích hợp; các trường sư phạm<br />
phải đổi mới chương trình đào tạo giáo viên; đội ngũ nhà<br />
giáo phải được bồi dưỡng, đào tạo lại…<br />
Phân hoá sâu đảm bảo cho học sinh tiếp cận nghề<br />
nghiệp sẽ chi phối việc lựa chọn nội dung, cơ cấu môn học,<br />
hoạt động giáo dục theo nguyên tắc chuyên sâu, phục vụ<br />
trực tiếp cho học nghề, học các chuyên ngành cụ thể ở các<br />
trường trung cấp, cao đẳng, đại học. Mục đích chuẩn bị<br />
đầu vào cho giáo dục đại học được quán triệt khi thiết kế<br />
chương trình các môn học, chuyên đề học tập. Theo đó, sẽ<br />
nảy sinh những vấn đề mới cần giải quyết như: tổ chức dạy<br />
học tự chọn theo các công thức đa dạng; số môn học và<br />
chuyên đề thường xuyên tăng thêm theo nhu cầu phân hoá<br />
ngành nghề mới của xã hội; dễ nảy sinh sự lỏng lẻo logic<br />
tuyến tính của nội dung học tập ở trung học phổ thông<br />
trong khi học sinh cần phải hiểu sâu từng mặt, đồng thời<br />
phải khái quát hoá để có tri thức mang tính tổng quát cao<br />
hơn. Cơ cấu đội ngũ giáo viên cũng phải đa dạng hơn;<br />
quản lí kế hoạch dạy học ở nhà trường sẽ phức tạp hơn;<br />
phải có sự gắn kết, liên thông trong thiết kế chương trình<br />
và tổ chức dạy học ở các trường nghề, trường đại học... Vì<br />
vậy, giáo viên và cán bộ quản lí nhà trường phải được đào<br />
tạo lại, bồi dưỡng theo hướng trang bị kiến thức chuyên<br />
sâu; năng lực tư vấn nghề nghiệp, lựa chọn môn học…<br />
Những vấn đề này phải được quan tâm giải quyết thì mới<br />
bảo đảm tính hiệu quả, khả thi của chương trình mới.<br />
2.1.5. Thực hiện cơ chế một chương trình quốc gia, nhiều<br />
bộ sách giáo khoa<br />
- Điểm mới:<br />
Cơ chế một chương trình, một bộ sách giáo khoa hiện<br />
tại không đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong phú của các<br />
đối tượng sử dụng sách giáo khoa ở các vùng miền, khu<br />
vực, không khuyến khích, tận dụng được kinh nghiệm<br />
sáng tạo của nhiều cá nhân, tổ chức trong việc biên soạn<br />
sách giáo khoa, dễ dẫn đến rập khuôn, thiếu linh hoạt<br />
trong sử dụng thông tin từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau<br />
trong dạy học. Đây vốn là năng lực cốt lõi của con người<br />
thời đại công nghệ truyền thông. Với cơ chế mới sẽ đáp<br />
ứng đa dạng vùng miền, đối tượng học sinh, đặc biệt<br />
khuyến khích được sự tham gia đóng góp của nhiều cá<br />
nhân, tổ chức vào việc biên soạn sách giáo khoa, tạo được<br />
phong cách tìm kiếm lựa chọn thông tin từ nhiều nguồn<br />
học liệu khác nhau. Đây là năng lực cần có, cần rèn luyện<br />
cho cả người dạy và người học.<br />
Thực hiện cơ chế một chương trình nhiều bộ sách<br />
giáo khoa khác nhau về cấu trúc, cách lựa chọn thông tin<br />
sẽ là cơ hội cho việc đổi mới giáo dục; đổi mới phương<br />
pháp dạy học; kiểm tra, đánh giá kết quả học tập.<br />
<br />
3<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 442 (Kì 2 - 11/2018), tr 1-5<br />
<br />
- Thách thức:<br />
Cần phải thống nhất tiêu chí, yêu cầu sư phạm cơ bản<br />
để dựa vào đó biên soạn sách giáo khoa một cách sáng<br />
tạo, linh hoạt theo nhiều phương án khác nhau. Như vậy,<br />
phải công khai các quy định về yêu cầu, tiêu chuẩn biên<br />
soạn sách giáo khoa mới. Đó chính là công cụ quan lí nhà<br />
nước về sách giáo khoa.<br />
Trong giai đoạn hiện nay của nước ta, chưa có nhiều<br />
cá nhân, cơ quan sẵn sàng tổ chức biên soạn sách giáo<br />
khoa theo cơ chế xã hội hóa. Mặc khác, theo kinh nghiệm<br />
các nước, để có nhiều sách giáo khoa cho một môn học<br />
đáp ứng chương trình, nhu cầu người sử dụng thì cơ chế<br />
cạnh trang thị trường tạo một nguồn động lực kích thích<br />
quan trọng. Điều này đòi hỏi Nhà nước có cơ chế quản lí<br />
kiểm soát, khắc phục được tình trạng loạn giá, loạn sách,<br />
mà tình trạng đó đã xuất hiện ở nước ta.<br />
2.1.6. Quản lí thực hiện chương trình giáo dục theo<br />
hướng tăng cường năng lực tự chủ của địa phương và<br />
nhà trường<br />
- Điểm mới:<br />
Cơ chế quản lí hiện tại dễ bảo đảm thống nhất và tiến<br />
độ thực hiện kế hoạch giáo dục trong cả nước. Vì chương<br />
trình giáo dục phổ thông hiện hành quy định khái quát mục<br />
tiêu và chuẩn đầu ra nên không phản ánh được đặc điểm,<br />
đặc thù của mỗi khu vực, mỗi tỉnh, thành, mỗi nhà trường,<br />
do đó không tận dụng được sự sáng tạo, linh hoạt của tùng<br />
địa phương và đội ngũ giáo viên và từ đó tạo ra tâm lí thụ<br />
động trông chờ vào cấp trên, ngại đổi mới, cải tiến, tính tự<br />
chịu trách nhiệm của cơ sở và giáo viên bị hạn chế. Nhiều<br />
nội dung giáo dục, đặc biệt là các giá trị truyền thống văn<br />
hóa của địa phương cần cho giáo dục học sinh không được<br />
đưa vào chương trình giáo dục nhà trường. Không tận<br />
dụng được sự tham gia của cơ sở, đặc biệt của đội ngũ<br />
đông đảo giáo viên vào quá trình phát triển chương trình,<br />
sách giáo khoa. Đây là sự lãng phí lớn về nguồn nhân lực<br />
đa dạng trong bảo đảm chất lượng giáo dục.<br />
Cơ chế quản lí mới sẽ huy động được sự tham gia đóng<br />
góp một cách trực tiếp của các địa phương, nhà trường, đội<br />
ngũ giáo viên, cộng đồng địa phương vào quá trình thực<br />
hiện chương trình giáo dục phổ thông quốc gia. Do đó, vừa<br />
làm cho chương trình giáo dục phù hợp với yêu cầu của<br />
địa phương, nhà trường, vừa tăng được tính tự chủ, tự chịu<br />
trách nhiệm của cơ sở nhà trường, khắc phục tâm lí thụ<br />
động triển khai theo mệnh lệnh từ trên xuống vốn đã thành<br />
động hình trong đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí.<br />
Phân cấp quản lí thuận lợi trong việc bổ sung nhiều nội<br />
dung giáo dục về truyền thống, đặc điểm tự nhiên, xã hội<br />
của địa phương. Tính tự chủ tạo môi trường dân chủ để mỗi<br />
nhà trường phát huy mọi nguồn lực xây dựng và khẳng định<br />
thương hiệu của mình. Quá trình tổ chức tự chủ, tự chịu<br />
<br />
trách nhiệm quản lí thực hiện chương trình giáo dục phổ<br />
thông quốc gia thông qua hoạt động phát triển nhà trường<br />
sẽ thường xuyên bồi dưỡng nâng cao được năng lực quản lí,<br />
năng lực nghề nghiệp của cán bộ, giáo viên, đặc biệt là biến<br />
mỗi nhà trường thành một đơn vị học thuật, nghiên cứu<br />
khoa học giáo dục, phát triển nghề nghiệp… Phân cấp quản<br />
lí thực hiện chương trình giáo dục không chỉ hạn chế được<br />
cách quản lí mang tính quan liêu mà còn làm cho nội dung<br />
quản lí hành chính là kết quả của sự nghiên cứu nghiêm túc<br />
khoa học giáo dục và quản lí giáo dục.<br />
- Thách thức:<br />
Cán bộ quản lí, giáo viên đã quen với cơ chế quản lí<br />
tập trung, quan liêu, vì vậy, muốn chuyển sang cơ chế<br />
phân cấp, phân quyền quản lí cho địa phương, nhà trường<br />
trên cơ sở chương trình quốc gia thì phải có sự giám sát,<br />
kiểm định chất lượng, đánh giá trong, đánh giá ngoài.<br />
Khi đã phân cấp, phân quyền quản lí thực hiện<br />
chương trình cho các cơ sở thì hoạt động kiểm soát, kiểm<br />
định phải được đặc biệt coi trọng. Để thực hiện các hoạt<br />
động này, đòi hỏi có cơ chế tổ chức các cơ quan kiểm<br />
định theo các yêu cầu, tiêu chí kiểm định.<br />
Chương trình giáo dục quốc gia quy định mục tiêu và<br />
chuẩn đầu ra, nội dung giáo dục bắt buộc, đồng thời dành<br />
thời lượng để các địa phương, nhà trường vận dụng thực<br />
hiện chương trình phù hợp với điều kiện cụ thể. Điều đó<br />
yêu cầu cán bộ quản lí giáo dục và giáo viên phải được<br />
đào tạo nghiệp vụ phát triển chương trình mới có thể<br />
thích ứng với chương trình mở.<br />
2.2. Tác động của Chương trình và sách giáo khoa giáo<br />
dục phổ thông mới<br />
2.2.1. Tác động đến hệ thống giáo dục<br />
Giáo dục phổ thông là nền tảng cho nâng cao dân trí,<br />
đào tạo nhân lực phục vụ phát triển đất nước, vì vậy bậc<br />
học phổ thông đổi mới sẽ đặt ra yêu cầu đổi mới giáo dục<br />
mầm non, đồng thời phải đáp ứng đầu vào chất lượng cao<br />
cho hệ thống giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.<br />
Đổi mới chương trình theo định hướng phân hoá<br />
mạnh, đáp ứng phân luồng, định hướng nghề nghiệp ở<br />
trung học phổ thông không chỉ tác động đến tất cả các<br />
yếu tố của chương trình phổ thông, mà còn tác động đến<br />
chương trình đào tạo của hệ thống các cơ sở dạy nghề,<br />
các cơ sở giáo dục đại học. Như vậy, đổi mới giáo dục<br />
phổ thông phải tạo đầu vào tốt cho giáo dục nghề nghiệp,<br />
giáo dục đại học, đồng thời đặt ra vấn đề hoàn thiện hệ<br />
thống giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học để các<br />
cơ sở này vừa tận dụng được kết quả định hướng nghề<br />
nghiệp từ giáo dục phổ thông (giáo dục hướng nghiệp và<br />
dạy nghề cho học sinh phổ thông).<br />
<br />
4<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 442 (Kì 2 - 11/2018), tr 1-5<br />
<br />
2.2.2. Tác động đối với đội ngũ giáo viên<br />
Chương trình giáo dục phổ thông đặt ra yêu cầu phát triển<br />
đội ngũ về số lượng và chất lượng sẽ định hướng cho việc xây<br />
dựng và thực hiện các chương trình bồi dưỡng, đào tạo giáo<br />
viên, cán bộ quản lí giáo dục. Trong đó, tập trung đào tạo lại,<br />
bồi dưỡng các năng lực nghề nghiệp theo Chuẩn nghề nghiệp<br />
giáo viên các cấp học với nội dung, phương pháp, hình thức<br />
phù hợp với giai đoạn và điều kiện từng địa phương, lấy phát<br />
triển cộng đồng nghề nghiệp nhà trường làm giải pháp cơ bản.<br />
Trước mắt tập trung bồi dưỡng, đào tạo lại năng lực dạy học,<br />
giáo dục phát triển năng lực học sinh.<br />
2.2.3. Tác động đến đội ngũ cán bộ quản lí<br />
Với sự phân cấp quản lí thực hiện chương trình thì cấp<br />
quản lí Trung ương cần đổi mới hoạt động quản lí theo hướng<br />
chú trọng kiểm soát, kiểm định và đặc biệt là ban hành các<br />
chính sách tạo điều kiện cho phát triển giáo dục, tránh áp đặt<br />
mệnh lệnh quan liêu. Cấp nhà trường là đơn vị trực tiếp thi<br />
công có chức năng phát triển chương trình hành động để triển<br />
khai chương trình quốc gia, phù hợp với bối cảnh cụ thể của<br />
nhà trường theo từng năm học đảm bảo công thức “Chương<br />
trình giáo dục bằng tổng chương trình quốc gia, chương trình<br />
địa phương, chương trình nhà trường”.<br />
Như vậy, để thực hiện chương trình và sách giáo khoa<br />
mới, cần bồi dưỡng, đào tạo lại một cách căn bản năng lực<br />
cán bộ quản lí từng cấp, trong đó năng lực quản lí phát<br />
triển chương trình, phát triển học liệu phải là trọng tâm<br />
trong những năm đầu triển khai. Có như vậy mới có thể<br />
quản lí theo phương thức chuyên môn hóa nội dung quản<br />
lí hành chính và hành chính hóa nội dung chuyên môn.<br />
2.2.4. Tác động đến các trường sư phạm<br />
Để đáp ứng được yêu cầu của chương trình giáo dục<br />
phổ thông mới, các trường sư phạm phải:<br />
- Phát triển chương trình đào tạo theo hướng hình<br />
thành và phát triển năng lực người học, từ mục tiêu, nội<br />
dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy<br />
học đến kiểm tra, đánh giá, quản lí việc dạy và học, giáo<br />
trình… để “bắt nhịp” với chương trình giáo dục phổ<br />
thông mới, chẳng hạn như: vấn đề dạy tích hợp, hoạt<br />
động trải nghiệm…; mặt khác, các trường cần thay đổi<br />
cơ cấu lại các khoa chuyên môn để phù hợp hơn với thực<br />
tiễn và sát với nhiệm vụ của chương trình giáo dục phổ<br />
thông mới.<br />
- Gắn kết chặt chẽ với các trường phổ thông để sinh<br />
viên có điều kiện được trải nghiệm thực tế giảng dạy ở<br />
các trường phổ thông nhiều hơn. Có như vậy, các em mới<br />
không bị bỡ ngỡ khi ra trường và chính thức đứng lên<br />
bục giảng với tư cách là một giáo viên.<br />
- Tăng cường đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng giáo viên<br />
để kịp thời “đón đầu” đổi mới.<br />
2.2.5. Tác động đến học sinh<br />
<br />
Mọi yếu tố của chương trình đều hướng vào hình thành<br />
nhân cách cho học sinh với những đặc điểm đã được xác<br />
định trong mục tiêu giáo dục phổ thông, đó là học sinh sẽ<br />
có được tri thức phổ thông nền tảng sau khi học hết trung<br />
học cơ sở và tri thức chuyên sâu bảo đảm tiếp cận nghề<br />
nghiệp và học lên bậc cao hơn. Đó là những con người đã<br />
có các phẩm chất và năng lực chung, cốt lõi: năng lực tự<br />
học, giải quyết vấn đề, tư duy logic, năng lực sáng tạo, tự<br />
quản lí, giao tiếp, hợp tác, sử dụng ngôn ngữ, tính toán.<br />
Với những năng lực đó, học sinh tốt nghiệp trung học cơ<br />
sở đã có thể ra đời lao động, học nghề hoặc học lên cấp<br />
học trên; học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông được<br />
định hướng nghề nghiệp sâu hơn để tham gia lao động<br />
hoặc vững vàng hơn khi học các trường nghề, các trường<br />
cao đẳng, đại học về vốn kiến thức cơ sở cho ngành đào<br />
tạo, về phương pháp và các kĩ năng học tập. Đó là mục tiêu<br />
dự bị đại học của chương trình giáo dục phổ thông.<br />
3. Kết luận<br />
Phân tích những điểm mới, thách thức của chương trình<br />
và sách giáo khoa giáo dục phổ thông và đánh giá những tác<br />
động của các đổi mới chính trong chương trình giáo dục phổ<br />
thông mới cho thấy, thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW sẽ<br />
góp phần vào sự thay đổi căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt<br />
Nam nhưng cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức. Điều đó<br />
đòi hỏi sự quan tâm, đầu tư thích đáng nguồn lực con người<br />
và tài chính của Nhà nước và xã hội.<br />
Tài liệu tham khảo<br />
[1] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện<br />
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,<br />
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định<br />
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.<br />
[2] Quốc hội (2014). Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày<br />
28/11/2914 của Quốc hội về “đổi mới chương trình,<br />
sách giáo khoa giáo dục phổ thông, góp phần đổi<br />
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”.<br />
[3] Thủ tướng Chính phủ (2015). Quyết định số<br />
404/QĐ-TTg ngày 27/03/2015 của Thủ tướng Chính<br />
phủ về phê duyệt “Đề án đổi mới chương trình, sách<br />
giáo khoa giáo dục phổ thông”.<br />
[4] Bộ GD-ĐT (2017). Chương trình giáo dục phổ<br />
thông - Chương trình tổng thể.<br />
[5] Phạm Minh Hạc (2011). Triết lí giáo dục thế giới và<br />
Việt Nam. NXB Giáo dục Việt Nam.<br />
[6] Nguyễn Thị Bình (chủ biên, 2016). Hệ giá trị - mục<br />
tiêu phát triển nhân cách người học của hệ thống<br />
giáo dục. NXB Giáo dục Việt Nam.<br />
[7] Bộ GD-ĐT (2013). Hỏi - đáp về một số nội dung đổi<br />
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. NXB<br />
Giáo dục Việt Nam.<br />
<br />
5<br />
<br />