intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những điều thú vị về Hoàng đế Lê Thánh Tông

Chia sẻ: Cao Tt | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

215
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Những điều thú vị về Hoàng đế Lê Thánh Tông Sử sách ca ngợi Lê Thánh Tông là vị vua “cao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài đại lược, võ giỏi văn hay mà còn học rất chăm, tay không lúc nào rời quyển sách. Các sách kinh sử, các sách lịch toán, các việc thánh thần cái gì cũng tinh thông” (Đại Việt sử ký toàn thư). Chính vì vậy trong cuộc đời, sự nghiệp của mình, Hoàng đế vĩ đại này đã để lại khá nhiều điều thú vị và những dấu ấn đặc biệt. * Lê Thánh...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những điều thú vị về Hoàng đế Lê Thánh Tông

  1. Những điều thú vị về Hoàng đế Lê Thánh Tông Sử sách ca ngợi Lê Thánh Tông là vị vua “cao siêu, anh minh quy ết đoán, có hùng tài đại lược, võ giỏi văn hay mà còn học rất chăm, tay không lúc nào rời quyển sách. Các sách kinh sử, các sách lịch toán, các việc thánh thần cái gì cũng tinh thông” (Đại Việt sử ký toàn thư). Chính vì vậy trong cuộc đời, sự nghiệp của mình, Hoàng đế vĩ đại này đã để lại khá nhiều điều thú vị và những dấu ấn đặc biệt. * Lê Thánh Tông là vị vua có giai thoại về việc thác sinh khá kỳ lạ. Tương truyền ông vốn là một tiên đồng trên trời, được sai xuống đầu thai làm vua nước Nam. Khi tiên đồng không chịu đi, Thượng đế đã nổi giận đánh vào trán chảy máu, bắt phải nhận lệnh. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: khi Thái hậu sinh, thấy trên trán vua có vết, mãi đến khi vua mất cái vết này vẫn còn. * Lê Thánh Tông là vị vua duy nhất được sinh ra trong chùa, đó là chùa Huy Văn (nay thuộc ngõ Văn Chương, quận Đống Đa, Hà Nội). Vua sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442), lúc sinh ra vua “tư trời rạng rỡ, thần sắc anh dị, tuấn tú, sáng suốt” (Đại Việt sử ký toàn thư). * Với 37 năm trị vì (1460-1497) Lê Thánh Tông là một trong những vị vua ở ngôi lâu nhất trong số các vị vua Việt Nam. * Lê Thánh Tông là người đưa chế độ khoa cử Nho học ở nước ta đi vào hoàn thiện. Trước đó thể lệ thi chưa quy củ, khoảng thời gian giữa các khoa thi không thống nhất, đến năm Bính Tuất (1466) nhà vua định lệ 3 năm tổ chức một kỳ thi. Từ đó lệ thi này được thực hiện suốt cho đến khi chế độ kho a cử Nho học chấm dứt vào năm Kỷ Mùi (1919).
  2. * Để đảm bảo việc giảng dạy ở Quốc Tử Giám, năm Đinh Hợi (1467) Lê Thánh Tông cho đặt chức Ngũ kinh bác sĩ, mỗi chức chuyên nghiên cứu, giảng dạy cho nho sinh về 5 kinh (Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu). * Để đảm bảo sự chặt chẽ và chất lượng trong việc tuyển chọn nhân tài, năm Nhâm Ngọ (1462) vua Lê Thánh Tông định ra lệ “bảo kết hương thí”. Đây là một quy định buộc các xã phải làm một “bản cam kết” trước mỗi kỳ thi để đảm bảo và chịu trách nhiệm về tư cách đạo đức của các sĩ tử là con em trong xã mình. * Để loại bớt những thí sinh yếu kém, năm Nhâm Ngọ (1462) vua Lê Thánh Tông ra quy định trước khi thi Hương, thí sinh phải làm một bài kiểm tra học lực gọi là thi Ám tả. * Lê Thánh Tông là người đặt ra lệ xướng danh, lệ này được quy định lần đầu tiên vào năm Bính Tuất (1466). Xướng danh là đọc tên những người đỗ đạt để cho tất cả đều biết; mục đích nhằm tôn vinh và khuyến khích các sĩ tử. * Vinh dự cao nhất dành cho những tân khoa đỗ trong kỳ thi Đình là được vua ban đãi yến tiệc, cấp mũ áo, cân đai và cho vinh quy về quê hương bản quán một cách vẻ vang. Lê Thánh Tông chính là người đặt ra lệ vinh quy vào năm Bính Tuất (1466). * Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên cho mở rộng và phát triển trường Quốc Tử Giám. Năm Qúy Mão (1483) ông cho xây d ựng lại Văn Miếu, đổi tên Quốc Tử Giám thành Thái Học viện, cho dựng điện Đại Thành để thờ các tiền hiền, tiên nho; xây điện Canh Phục để làm nơi túc trực của các quan lại. Vua còn cho lập thư viện đầu tiên tại đây gọi là kho Bí thư để chứa các ván in sách và các loại sách.
  3. Ngoài ra ông còn cho xây hai bên nhà Thái H ọc, mỗi bên ba dãy, mỗi dãy 25 gian để làm nơi ở cho xá sinh (học sinh nội trú). * Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên cho dựng bia Tiến sĩ với mục đích cổ vũ việc học tập, tôn vinh những người đỗ đạt. Năm Giáp Thìn (1484) ông sai người lập những bia đầu tiên tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Kể từ đó các đời vua đều cho dựng bia Tiến sĩ sau mỗi khoa thi. * Lê Thánh Tông là vị vua cho mở nhiều khoa thi nhất, lấy được nhiều người đỗ nhất. Trong thời gian trị vì của mình ông đã cho mở 12 khoa thi Hội, lấy 501 người đỗ Tiến sĩ, trong đó có 9 Trạng nguyên, 10 Bảng nhãn và 11 Thám hoa. * Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên ban bố quân lệnh cụ thể cho từng binh chủng trong quân đội. Năm Ất Dậu (1465) vua ban bố quân lệnh gồm 31 điều về thủy trận, 32 điều về tượng trận, 27 điều về mã trận và 42 điều về bộ trận. Đồng thời ông nhấn mạnh “phàm đã có quốc gia, tất phải có võ bị”. * Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên quy định việc kiểm tra năng lực và tinh thần của quân sĩ. Năm Đinh Hợi (1476) vua định lệ tất cả quân sĩ cứ 3 năm phải qua một kỳ khảo hạch về võ nghệ nhằm chỉnh đốn và động viên tinh thần binh lính. Theo đó “cứ đến mùa đông từng kỳ, các quan khảo xét sự giảng tập của quân thủy, quân bộ, quân thị hậu và quân ngoài các đạo; nhân đấy định cách thức thưởng phạt” (Đại Việt sử ký toàn thư). * Không chỉ kiểm tra chất lượng binh sĩ, vua Lê Thánh Tông còn mở các cuộc sát hạch tướng lĩnh. Năm Nhâm Tuất (1478) ông định lệ “Đô thí” để kiểm tra võ nghệ của các tướng có trách nhiệm quản lĩnh binh sĩ, trên cơ sở đó thăng giảm chức vụ, thưởng phạt nghiêm minh.
  4. * Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên quan tâm đến vấn đề giáo dục văn hóa, tăng cường sự hiểu biết cho binh lính. Năm Đinh Hợi (1467) vua sai các quan văn thông thạo kinh sách đến giảng học, chỉ dẫn đọc sách cho quân lính, đặc biệt l à cho bộ binh và kị binh nhằm có được những người lính toàn diện, vừa giỏi võ lại hiểu biết văn. * Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên quy định rõ ràng, cụ thể việc quản lý, sử dụng vũ khí. Theo sách Việt sử thông giám c ương mục, năm Kỷ Sửu (1469) Lê Thánh Tông ra chỉ dụ cấm không ai được dấu binh khí trong nhà. Với quân đội, nếu khí giới hao mòn, khuyết mẻ phải đem đến kho vũ khí để tu tạo lại theo đúng cách thức, cấm không được tự tiện đến các nơi khác để sửa chữa hoặc làm mới. Ai trái lệnh sẽ bị khép vào tội “lưu khống chỉ vũ khí”. Các loại quân trang như áo giáp, mũ trụ, nón thủy mã, nón sơn đỏ…là những thứ của quân đội, cấm trong nhân dân mua bán, trao đổi. * Cuộc cải cách hành chính do vua Lê Thánh Tông tiến hành bắt đầu từ năm Nhâm Ngọ (1462) là cuộc cải cách lớn nhất, toàn diện nhất trên mọi lĩnh vực từ việc phân chia lại đơn vị hành chính, đổi mới hình thức tuyển dụng nhân tài, sắp xếp lại bộ máy các cơ quan từ triều đình trung ương đến địa phương… * Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên cho ban hành mẫu mực, chi tiết về văn tự, khế ước thống nhất trong cả nước vào năm Mậu Tý (1468) để tránh tình trạng lộn xộn gây khó khăn cho việc xử kiện. Năm Tân Mão (1471) vua lại định thể thức văn khế, ai không theo là trái lệ. * Lê Thánh Tông là người đầu tiên cho áp dụng chế độ “hồi tị”, bắt đầu từ năm Bính Ngọ (1486), theo đó những người có quan hệ cha con, anh em, thầy trò, bạn bè…không được cùng làm quan hay làm việc một chỗ; quan lại không được làm việc tại bản quán hoặc quê vợ…Quy định này nhằm mục đích tránh việc những
  5. người có quan hệ gần gũi khi làm việc nể nang nhau, không khách quan, bao che gây tiêu cực khiến bộ máy chính quyền hoạt động kém hiệu quả. * Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên quy định chế độ sử dụng “nhà công vụ” và tài sản công. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, tháng 4 năm Bính Tuất (1466) “cấm các quan đổi đi chỗ khác không được lấy các thứ đồ dùng ở nhà công”. Đến tháng 2 năm Canh Tuất (1490) vua “định lệ quan đổi đi nơi khác phải giao lại nhà công. Từ nay trở đi, quan các nha môn nào đổi thăng đi, về nghỉ để tang hay ốm chết…thì chỗ nhà ở và các đồ vật giao cho quan lại sai người coi giữ, đợi khi quan mới đến dùng”. * Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên quy định độ tuổi trí sĩ (nghỉ hưu) của quan lại. Tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1462) ban chiếu lệnh, theo đó độ tuổi trí sĩ của các quan văn võ là 65 tuổi; của các thư lại, giám sinh là 60 tuổi. Ai muốn nghỉ phải làm giấy xin rồi nộp cho bộ Lại để phân loại, xem xét. * Bộ Quốc triều hình luật (còn gọi là Lê triều hình luật, Bộ luật Hồng Đức) do vua Lê Thánh Tông chỉ đạo biên soạn và cho ban hành năm Qúy Mão (1483) được coi là đỉnh cao của nền lập pháp Việt Nam thời phong kiến, là bộ luật có nhiều điểm tiến bộ nhất, được sử dụng trong thời gian dài nhất và là mẫu mực vượt bậc mà không một bộ luật nào của các triều đại trước và sau đó hơn được. * Tháng 1 năm Ất Dậu (1465) lần đầu tiên trong lịch sử, các quan xử án được phân hạng theo lệnh của vua Lê Thánh Tông. Người xử kiện không có oan uổng thì được khen thưởng, hạng bình thường thì vẫn giữ làm việc, hạng kém thì bị giáng chức. * Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên cho phép các quan tướng được ban quốc tính (họ vua) có thể lấy lại tên họ cũ để tránh tình trạng “con cháu noi theo lâu
  6. ngày, sợ rằng làm mất họ cũ của tổ tiên, trái với đạo dạy người hiếu thảo” (Đại Việt sử ký toàn thư). Chiếu chỉ này được ban ra tháng 12 năm Giáp Thân (1464). * Hội Tao Đàn do vua Lê Thánh Tông thành lập năm Ất Mão (1495) tập hợp nhiều văn nhân tài giỏi được coi như hội văn học đầu tiên ở nước ta. Vua Lê Thánh Tông giữ chức Tao Đàn nguyên súy, đứng đầu 28 hội viên được gọi là Tao Đàn nhị thập bát tú. * Lần đầu tiên các đơn vị đo đạc ruộng đất như mẫu, sào, thước; các đơn vị đo lường như cân, hộc, phương, thăng, đấu…được quy định thống nhất theo một chiếu lệnh của vua Lê Thánh Tông ban hành năm Nhâm Thìn (1472). * Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên quy định việc xử lý những người lười lao động. Tháng 3 năm Tân Tị (1461) ông xuống chỉ dụ khuyến khích dân chăm lo làm ruộng, không được “chơi bời dông dài, kẻ nào có ruộng đất mà không chăm cấy trồng thì quan tư cai quản bắt trình trị tội” (Đại Việt sử ký toàn thư). * Để bảo vệ thuần phong mỹ tục Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên ra lệnh cấm việc ăn uống, tụ họp r ượu chè vô cớ, trừ các dịp “lễ giỗ chạp, cưới xin, được ân mệnh, ăn mừng, đám ma”. Lệnh này được ban hành tháng 4 năm Giáp Thìn (1484), ai vi phạm đều bị trị tội theo luật. * Năm Kỷ Sửu (1469) vua Lê Thánh Tông sai vẽ bản đồ của tất cả các phủ, châu, huyện, xã, trang, sách thuộc 13 đạo thừa tuyên trong cả nước. Đến tháng 4 năm Canh Tuất (1490) định bản đồ cả nước. Đây là lần đầu tiên nước ta có bộ bản đồ thống nhất và đầy đủ nhất. Trên đây chỉ là một số điểm thú vị và dấu ấn đặc biệt trong cuộc đời, sự nghiệp của Hoàng đế Lê Thánh Tông. Những điều này còn được thể hiện nhiều qua các
  7. hoạt động khác như quy định chế độ họp chợ, lập nhà chữa bệnh cho dân, chế độ lộc điền…Tất cả đã cho chúng ta thấy được phần nào chân dung của một vị hoàng đế vĩ đại trong lịch sử dân tộc, người có những đóng góp to lớn tạo nên một thời đại huy hoàng. Tên tuổi ông mãi mãi được các thế hệ tôn vinh, ca ngợi và kính phục.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2