intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Những mẫu truyện hay về Trạng nguyên Việt Nam: Phần 1

Chia sẻ: Lộ Minh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:106

28
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cuốn sách nhằm góp phần cung cấp thông tin về thân thế, sự nghiệp cùng một số giai thoại về các Trạng nguyên. Đồng thời, qua cuốn sách bạn đọc có thể hiểu rõ thêm về truyền thống hiếu học của nhân dân ta từ bao đời nay. Sách được chia thành 2 phần, mời các bạn cùng tham khảo phần 1 cuốn sách.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Những mẫu truyện hay về Trạng nguyên Việt Nam: Phần 1

  1. Héi ®ång chØ ®¹o xuÊt b¶n Chñ tÞch Héi ®ång pgs.TS. NguyÔn ThÕ kû Phã Chñ tÞch Héi ®ång TS. HOµNG PHONG Hµ Thµnh viªn trÇn quèc d©n TS. NguyÔn §øC TµI TS. NGUYÔN AN TI£M NguyÔn Vò Thanh H¶o V23 M· sè: CTQG - 2015 2
  2. LỜI NHÀ XUẤT BẢN Dưới chế độ thi cử thời phong kiến, để có được danh hiệu Trạng nguyên mỗi môn sinh dự thi phải vượt qua ba kỳ thi: thi Hương, thi Hội, thi Đình. Trạng nguyên là danh hiệu thuộc học vị Tiến sĩ của người đỗ cao nhất trong các khoa Đình. Khoa thi đầu tiên được tổ chức năm 1075 dưới thời nhà Lý, nhưng phải đến năm 1246 dưới đời vua Trần Thái Tông mới đặt ra định chế Tam khôi (ba vị trí đỗ đầu có tên gọi thứ tự là: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) thì mới có danh hiệu Trạng nguyên. Cuốn sách Kể chuyện Trạng nguyên Việt Nam do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật phối hợp với Nhà xuất bản Văn học xuất bản, kể về các Trạng nguyên được chính thức công nhận danh hiệu Trạng nguyên (bắt đầu từ kỳ thi năm 1246). Cuốn sách nhằm góp phần cung cấp thông tin về thân thế, sự nghiệp cùng một số giai thoại về các Trạng nguyên. Đồng thời, qua cuốn sách bạn đọc có thể hiểu rõ thêm về truyền thống hiếu học của nhân dân ta từ bao đời nay. Đây là tài liệu tham khảo, góp phần giúp cho cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị trấn trong việc tuyên 5
  3. truyền, giáo dục truyền thống, triển khai các hoạt động khuyến học của mỗi địa phương một cách thiết thực. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 12 năm 2015 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT 6
  4. LỜI NÓI ĐẦU Trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước, Việt Nam là một quốc gia văn hiến, có truyền thống hiếu học. Tiến sĩ Thân Nhân Trung ( 1418 -1499) trong bài ký đề lên bia Tiến sĩ ở Quốc Tử Giám đã viết: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế, các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết”. Hiểu rõ được tầm quan trọng ấy, từ ngày xưa, những vị minh quân đã rất quan tâm đến việc bồi dưỡng nhân tài. Bắt đầu từ đời Lý, việc giáo dục được chú trọng. Năm 1075, vua Lý Nhân Tông mở khoa thi Nho học đầu tiên ở nước ta và người đỗ đầu khoa này là Lê Văn Thịnh. Sau đó, các triều đại sau đều đặn mở các khoa thi tuyển chọn các nhân tài, mà chế độ thi cử ngày xưa hết sức nghiêm ngặt, khắt khe, phải vượt qua bốn trường thi Hương mới được dự thi Hội, đỗ rồi mới được vào thi Đình để đạt được các danh hiệu cao quý như: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa… Chính vì thế, việc sưu tầm, biên soạn những tư liệu về các Trạng nguyên Việt Nam nhằm khắc họa, 7
  5. phản ánh lại một cách chân thực, sinh động cuộc đời cũng như thân thế của họ là việc làm thiết thực để thể hiện lòng biết ơn, sự tự hào cũng như giáo dục truyền thống hiếu học cho thế hệ hôm nay. Cuốn sách “Kể chuyện Trạng nguyên Việt Nam” được thực hiện không nằm ngoài mục đích trên. Cuốn “Kể chuyện Trạng nguyên Việt Nam” được biên soạn dựa trên các nguồn tư liệu chính sử và các giai thoại lưu truyền trong dân gian. Tuy nhiên, đây là một đề tài khó, vì nguồn sử liệu hiếm hoi, đa phần lại là chữ Hán và chữ Nôm, nên có những Trạng nguyên vẫn chưa xác định được chính xác năm sinh, năm mất, quê quán, đồng thời những chuyện kể lại về cuộc đời, sự nghiệp cũng hết sức hiếm hoi. Vì thế, cuốn sách được viết một cách tóm lược, cô đọng nhất về cuộc đời các vị Trạng nguyên dựa trên các tiêu chí sau: Thứ nhất, chỉ giới thiệu các vị Trạng nguyên đã được phong danh hiệu Trạng nguyên. Như trên chúng tôi đã giới thiệu, ở vương triều Lý, việc học bắt đầu được quan tâm, năm 1075, vua Lý Nhân Tông mở khoa thi Nho học đầu tiên, người đỗ đầu khoa thi này là Lê Văn Thịnh, trở thành bậc khai khoa cho các nhà khoa bảng nước ta. Cho đến năm 1246, vua Trần Thái Tông cho mở khoa thi Thái học sinh, lấy đậu theo Tam giáp (Nhất giáp, Nhị giáp, Tam giáp). Năm 1247, nhà vua cho đặt lại thứ bậc trong Tam giáp. Bậc Nhất giáp có Tam khôi gồm: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Bậc Nhị giáp gọi là Hoàng giáp, Bậc Tam giáp gọi là Thái học sinh. Vì khuôn khổ sách có hạn, chúng tôi chỉ xin 8
  6. giới thiệu những vị Trạng nguyên đã được phong thứ bậc trong Tam giác từ năm 1246, còn những vị được dân gian yêu mến, kính trọng mà phong Trạng (Trạng dân gian) xin được giới thiệu trong cuốn khác. Trong cuốn sách “Các vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa qua các triều đại phong kiến Việt Nam có viết: “Kể từ khoa thi tuyển Minh Kinh bác học đầu tiên của nước ta vào năm 1075, đời vua Lý Nhân Tông đến khoa thi cuối cùng vào năm 1919 đời vua Khải Định, tổng cộng có 185 khoa thi với 2.898 vị đỗ đại khoa, trong đó có 5 thủ khoa (vì thời Lý và đầu triều Trần chưa đặt định chế Tam khôi nên chưa gọi các vị thủ khoa là Trạng nguyên) có 46 vị Trạng nguyên, 48 Bảng nhãn, 76 Thám hoa, 2.462 Tiến sĩ và 266 Phó bảng...””1. Thứ hai, để khắc họa chân dung các vị Trạng nguyên một cách sinh động với nhiều chi tiết gần gũi, đời thường, bên cạnh nguồn tư liệu chính sử mà cụ thể là tên tuổi, năm sinh, năm mất, quê quán, phần lớn chúng tôi tham khảo trong các cuốn: Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919 do GS. Ngô Đức Thọ chủ biên, Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1993; Các vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa qua các triều đại phong kiến Việt Nam do Trần Hồng Đức biên soạn, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin xuất bản năm 2006; Từ điển Văn học Việt Nam: Từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX do Lại Nguyên Ân biên soạn, Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1999; Kho tàng về các ông Trạng Việt Nam _______________ 1. Trần Hồng Đức biên soạn, Nxb. Văn hóa Thông tin, 2006. 9
  7. do GS. Vũ Ngọc Khánh biên soạn, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin xuất bản năm 2010; Giai thoại Văn học Việt Nam do Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch biên soạn, Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1988; Kể chuyện Danh nhân Việt Nam do Nguyễn Phương Bảo An biên soạn, Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 2010; Kể chuyện thần đồng Việt Nam do Nguyễn Phương Bảo An biên soạn, Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 2010,... Chúng tôi đã sử dụng thêm nguồn tư liệu giai thoại và dã sử vẫn được lưu truyền lâu nay trong kho tàng dân gian cùng các tạp chí, tài liệu và các trang điện tử khác có liên quan. Nhân đây, cũng xin có lời cảm ơn sâu sắc đến tác giả những cuốn sách trên, đã giúp chúng tôi có thêm nguồn tư liệu quý hiếm để hoàn thành cuốn sách này. Dù đã làm việc với tinh thần nghiêm túc, cầu thị, song trong quá trình biên soạn, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý vị độc giả gần xa để những lần xuất bản sau, cuốn sách được hoàn thiện hơn. Hy vọng cuốn sách sẽ nhận được sự ủng hộ nhiệt thành của độc giả, đặc biệt là các em học sinh trong việc bổ sung các kiến thức về lịch sử, cũng như giúp các em thêm tự hào về truyền thống hiếu học của cha ông ta - những người đã góp phần vào nền văn hiến lâu đời của dân tộc Việt Nam. BẢO AN 10
  8. TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN QUAN QUANG* Nguyễn Quan Quang, người xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc (nay là xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Ông đỗ Trạng nguyên năm Bính Ngọ, niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ 15 (1246), dưới đời vua Trần Thái Tông. Làm quan trải các chức Bộc xạ, Thượng thư... khi mất được truy phong hàm Đại Tư không. GIAI THOẠI VỀ TRẠNG NGUYỄN QUAN QUANG Thuở nhỏ, nhà Quan Quang rất nghèo, không có gạo tiền ăn học, Quan Quang phải đứng ngoài sân học lỏm, dùng sân gạch làm giấy, lấy gạch non làm mực. Đứng thập thò ngoài sân, Quan Quang nhìn vào lớp học, thấy các bạn trong lớp viết chữ gì, học chữ gì, ở ngoài sân em cũng viết chữ đó, học chữ đó. Viết _______________ * Chưa rõ năm sinh, năm mất của Trạng nguyên Nguyễn Quan Quang. 11
  9. xong, Quang ngồi tô đi tô lại cho thuộc mặt chữ. Lúc thầy giảng, Quang chăm chú nghe. Vì vậy chỉ trong thời gian ngắn, mảnh sân gạch đã đầy chữ. Giờ ra chơi, học trò kẻ đi người lại trên sân nhộn nhịp, nhưng không ai để ý đến những dòng chữ ấy. Họa chăng có người để ý thì lại cho rằng, đó là trò vẽ vời của lũ trẻ nhỏ học đòi theo các anh học trò mà thôi. Đến một hôm, tan giờ học, học trò đã về hết, chỉ còn lại hai anh em Sơn và Hà học giỏi nhất lớp, thầy đồ bảo ở lại để nghe thầy giảng một bài phú khó mà hay. Giảng xong, thầy ra sân dạo, bất ngờ, ánh mắt thầy chạm phải những chữ viết trên sân. Đẹp! Đẹp quá, học trò của thầy không ai viết đẹp bằng. Thầy trầm trồ thốt lên: - Chữ viết đẹp quá! Sơn và Hà đứng ở gần đấy, cùng nghe thấy tiếng thầy, vội vàng chạy lại xem. Thầy vừa nói vừa chỉ tay xuống sân: - Chữ ai viết mà đẹp quá! Đây là một kẻ có hoa tay, không chừng là một nhân tài. - Dạ, thưa thầy! Chữ viết quả là đẹp! - Xem thật kỹ hàng chữ giữa sân, Hà phụ họa. - Thầy muốn xem ai là kẻ đứng ngoài sân để viết những chữ này. Giờ thầy bảo hai con thế này nhé! Nhờ hai con giúp thầy, ngày mai đến đây đứng vào một chỗ kín, xem ai viết, rồi báo lại thầy. Hôm sau, Sơn và Hà đứng nấp ở một chỗ kín 12
  10. đáo, thấy Quang thập thò ngoài sân, mắt chăm chú nhìn về phía các học trò nhỏ đang học cuốn Tam Tự Kinh, tai lắng nghe, tay cầm hòn gạch non viết ra sân. Hai cậu bé mừng lắm, báo ngay cho thầy đồ: - Dạ thưa thầy! Người viết ngoài sân là bạn Quang ạ! Nhà bạn ấy ở ngay trong xóm này. Nghèo lắm thầy ạ, không có tiền theo học, nên phải học thế đó. Thầy đồ trầm ngâm một lát, rồi bảo Sơn và Hà: - Giờ hai con ra bảo Quang vào đây gặp thầy. Hai cậu bé vâng lời thầy, rảo bước ra sân. Nhưng Quang vừa nhác thấy bóng người bước ra, đã chạy vọt ra cổng. Sơn và Hà phải chạy theo. Gần đến nhà Quang, hai cậu mới đuổi kịp. Sơn lên tiếng gọi Quang: - Sao em lại bỏ chạy? Sợ gì mà em phải chạy thục mạng thế? Bọn anh là học trò, có phải mấy bác tuần phu, hay ông hương, ông lý đâu mà em phải sợ. - Em sợ thầy đồ không cho em viết làm bẩn sân. Em sợ thầy phạt! - Quang vừa nói vừa run. - Chữ em viết ở sân đẹp lắm, thầy đồ khen, nét chữ đẹp như phượng múa rồng bay. Thầy bảo hai anh gọi em vào gặp thầy. Hà nói thêm: - Chính thầy đồ là người phát hiện nét chữ em viết giữa sân. Em cứ vào gặp thầy, biết đâu thầy đồ cho em vào học không lấy tiền. Quang buồn rầu đáp: 13
  11. - Đi học, em lấy đâu tiền mua bút mực, lại còn sách vở và tiền dầu đèn nữa chứ. - Không lo, các anh sẽ giúp em - Hà nói tiếp - Em quay lại gặp thầy đi, nếu em không quay lại gặp thầy, thầy sẽ mắng hai anh đấy. Quang thấy hai anh Sơn, Hà nói năng dịu dàng, khéo léo, lại cũng sợ thầy đồ mắng hai anh, đành theo hai anh quay lại gặp thầy đồ. Vừa trông thấy thầy, Quang đã chào thầy, rồi lấy hết can đảm thưa: - Dạ thưa thầy! Con cả gan viết chữ làm bẩn sân của thầy, con xin nhận lỗi, xin thầy đừng phạt con. Con sẽ gánh nước rửa sân cho sạch. - Con đừng sợ! - Thầy đồ trấn an Quang - Thầy không phạt con. Con không có lỗi gì hết! Thầy phải khen con mới phải. Con viết chữ đẹp lắm. Nói rồi, thầy bảo Sơn, Hà lấy một tờ giấy trắng, một chiếc bút lông và một đĩa mực đã mài sẵn, đưa cho Quang: - Con ngồi vào đây viết thử cho thầy xem nào! - Dạ... thưa thầy... - Quang vừa thưa vừa nhìn chăm chăm vào đĩa mực, chiếc bút lông, tờ giấy trắng tinh, vừa nói - thưa thầy... con không biết cầm bút. - Được, thầy sẽ dạy con cầm bút - Thầy ân cần cầm tay Quang, đưa từng nét chữ, miệng giảng giải: - Con cứ cầm cho quen bút lông, khi nào thấy quen 14
  12. như ta quen cầm đôi đũa và cơm, lúc đó mới hết run, có hết run mới viết được. Trong thời gian chỉ khoảng nhai giập miếng trầu là Quang hết run tay, bắt đầu cầm chắc cây bút lông. Các học trò của thầy ai nấy đều nể phục, bình thường các cậu phải tập hàng tuần, có khi phải hàng tháng chưa chắc đã được như thế. Cầm được bút rồi, Quang chăm chú viết cho thầy xem. Thầy gật gù, nói: - Con giỏi lắm. Giờ con có muốn đến lớp học như các trò ở đây không? Nghe thầy hỏi, cậu bé rơm rớm nước mắt, cúi đầu thưa: - Dạ thưa thầy! Con không có tiền mua bút, giấy... lại còn mực, dầu đèn nữa. Con xin thầy cho con đứng ngoài sân, học được chữ nào hay chữ ấy. Con chỉ học cho biết chữ để đọc sách, để tìm trong sách những điều hay, lẽ phải... - Con cứ đến lớp học đi. Thầy sẽ không lấy tiền học của con, mà còn cho con bút, giấy, mực nữa. Có được không? Thầy đồ vừa dứt lời, vài học trò nhao lên: - Dạ, thưa thầy! Thầy cứ nhận Quang vào học đi. Chúng con sẽ cho Quang bút, giấy ạ! - Các con lấy tiền đâu ra mà mua bút, giấy, mực cho Quang? - Thầy đồ hiền từ hỏi. 15
  13. - Thưa thầy! Chúng con sẽ xin cha mẹ. Mẹ con cũng hay thương người nghèo lắm. - Dạ thưa thầy! Nếu nhà Quang không có dầu để học thì tối tối Quang sang nhà con cùng học - Cậu bé Ngô Văn Đô ở gần nhà Quang nói xen vào. Rồi từ đó, Nguyễn Quan Quang được cắp sách tới trường như bao bạn khác. Giấy, bút, mực đã có thầy, có bạn cho. Còn dầu đèn thì khỏi lo, Quang cứ sang nhà Đô mà học. Mới đi học ít lâu, Quan Quang đã nổi tiếng thông minh, làng trên xóm dưới đều nức tiếng cậu bé thần đồng học một biết mười. Chẳng bao lâu, Quang đã thuộc làu Kinh truyện, Quang còn giúp cho bạn Đô từ học bình thường trở nên học giỏi. Khoa thi năm Bính Ngọ (1246), đời vua Trần Thái Tông, Quan Quang dự thi, đỗ Trạng nguyên. Bạn học Ngô Văn Đô cũng thi và đỗ Cử nhân. Sau khi vinh quy bái tổ, ông được vua Trần ban cho Quốc tính, lấy họ Trần là họ của mình. Vì vậy lúc bấy giờ ở trong triều gọi ông là Trần Quan Quang. Trần Quan Quang làm quan đến chức Thượng thư. Khi làm quan, ông hết lòng vì dân, vì nước, thanh liêm, chính trực, được trong triều ngoài nội mến phục cả về tài lẫn đức. Sống ở Kinh kỳ một thời gian, ông cáo quan từ chức, trở về quê nhà mở lớp dạy học, sống thanh đạm, lấy dạy học làm vui. Người quê ông cho rằng, Trạng nguyên Nguyễn Quan Quang là người khai 16
  14. sáng cho nền học ở quê hương, mở đường cho thế hệ con em quê nhà theo nếp hiếu học. Sau khi Nguyễn Quan Quang qua đời, để tưởng nhớ tới ông, dân làng dựng lên ngay ở chỗ ông ngồi dạy học một ngôi chùa, gọi là chùa Linh Khánh. Lại lập trên núi Viềng một ngôi đền, được gọi là đền Viềng để thờ ông và tôn ông là Thành hoàng của làng Tam Sơn. 17
  15. TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN HIỀN (1235 - 1255) Nguyễn Hiền người xã Dương A, huyện Thượng Hiền phủ Thiên Trường (nay thuộc thôn Dương A, xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Ông đỗ Trạng nguyên khoa thi Thái học sinh năm 1247 niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình 16, dưới đời vua Trần Thái Tông, năm ấy ông mới 12 tuổi. Nguyễn Hiền là Trạng nguyên trẻ nhất nước Nam. Khi mất ông được vua truy phong: Đại vương Thành Hoàng. GIAI THOẠI VỀ TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN HIỀN Nguyễn Hiền vốn rất thông minh, có trí nhớ tốt. Lúc sáu, bảy tuổi ông theo học một nhà sư ở chùa làng, mỗi ngày sư thầy cho học hai mươi trang sách, ông chỉ đọc qua là thuộc. Ngay từ lúc ấy, ông đã nổi tiếng là thần đồng, cũng nổi tiếng là tinh nghịch. Theo giai thoại lưu truyền trong dân gian, hồi mới lên bảy, Nguyễn Hiền 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2