intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

NHỮNG NGUY CƠ CỦA LỰC PHÓNG XẠ

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

58
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chúng ta biết rằng lực phóng xạ (radioactivité), không được chế ngự tốt hay được sử dụng vì những mục đích không phải hòa bình, có thể làm nguy hại trầm trọng. Từ khi Hiroshima, lực phóng xạ đi đối với nguy hiểm. Sau Tchernobyl và hôm nay Fukushima, nguyên tử (nucléaire) làm sợ hãi. Những tác dụng của nucléaire lên sức khoẻ được biết rõ, ta biết rằng chất độc (poison), một lần nữa, chính là liều lượng (dose). Liều lượng này được tính bằng mSv (millistevert), đơn vị quốc tế phối hợp lượng năng lượng phát ra...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: NHỮNG NGUY CƠ CỦA LỰC PHÓNG XẠ

  1. NHỮNG NGUY CƠ CỦA LỰC PHÓNG XẠ Chúng ta biết rằng lực phóng xạ (radioactivité), không được chế ngự tốt hay được sử dụng vì những mục đích không phải hòa bình, có thể làm nguy hại trầm trọng. Từ khi Hiroshima, lực phóng xạ đi đối với nguy hiểm. Sau Tchernobyl và hôm nay Fukushima, nguyên tử (nucléaire) làm sợ hãi. Những tác dụng của nucléaire lên sức khoẻ được biết rõ, ta biết rằng chất độc (poison), một lần nữa, chính là liều lượng (dose). Liều lượng này được tính bằng mSv (millistevert), đơn vị quốc tế phối hợp lượng năng lượng phát ra và tính nhạy cảm của các mô. Thí dụ, ở Paris, sự phát xạ tự nhiên mang lại một liều lượng khoảng 2,5 mSv mỗi năm. Những tác dụng của lực phóng xạ càng nghiêm trọng và tức thời khi liều lượng càng lớn. Trong trường hợp toàn cơ thể bị tiếp xúc một cách nhanh chóng, những dấu hiệu báo trước như nôn, mửa được biểu hiện vào khoảng
  2. 700 mSv ; một liều 4500 mSv gây tử vong trong 50% các trường hợp, do tủy xương bị phá hủy ; trên 6000 mSv, liều lượng này gần như luôn luôn gây tử vong, trong vòng vài giờ, do phù não hay trong vài ngày do thành của đường tiêu hóa của bệnh nhân bị phá hủy. Ở Tchernobyl, 134 liquidateur đã bị một phát xạ (irradiation) với liều lượng rất lớn ; 28 người chết trong vòng vài tuần. Ở Fukushima, liều lượng đạt đến 400 mSv mỗi giờ và xảy ra từng nơi ; dầu làm việc ngay trong một thời gian ngắn vẫn nguy hiểm. Trái lại, c ùng những tác dụng sớm này đã được khai thác ngay năm 1901 nhằm mục đích trị liệu, bằng cách hạn chế sự tiếp xúc vào vài cơ quan, để điều trị bằng “curiethérapie” những khối u da rồi nhiều ung thư khác. Về lâu về dài hơn, ta quan sát thấy chủ yếu những ung thư mà xác suất gia tăng với liều lượng. Sau Hiroshima và Nagasaki, việc theo dõi đều đặn khoảng 90.000 người sống sót đã cho thấy, đối với những người chịu một phát xạ ít nhất 100 mSv, một đỉnh cao số các trường hợp ung thư bạch cầu (leucémie) 6 đến 7 năm sau khi bị dội bom nguyên tử và, trong những năm sau đó, một sự gia tăng số các ung thư của hầu như tất cả các cơ quan. Vào năm 2000, những trường hợp tử vong là 570 do ung thư và 250 do những bệnh không phải ung thư (tim mạch, hô hấp, tiêu hóa) mà nguồn gốc không được chắc chắn.
  3. UNG THƯ TUYỂN GIÁP Những ung thư tuyến giáp do sự hấp thụ iode phóng xạ hầu như chỉ xảy ra nơi những trẻ em nhỏ tuổi, đối với những liều ít nhất 100 mSv cho tuyến giáp. Sau Tchernobyl, 98% những trẻ em, trong nước Liên xô trước đây, đã bị một ung thư tuyến giáp gây nên bởi iode phóng xạ, đều dưới 10 tuổi lúc xảy ra tai nạn. Ở Fukushima, ta ước tính rằng do bị tiếp xúc lúc ở ngay giữa đường, vào những ngày từ 18 đến 22/3, một trẻ em ở Tokyo đã nhận 1 mSv đối với tuyến giáp. Ngoài vài “liquidateur” can thiệp ở nhà máy nguyên tử, và nếu như các vùng nơi đó lưu lượng vẫn cao, được nhanh chóng di tản và các thực phẩm hay nước uống bị ô nhiễm tránh được, ta có thể hy vọng một cách hợp lý rằng tai nạn ở Fukushima sẽ gây nên rất ít nạn nhân do lực phóng xạ. Ở Pháp, cách xa Fukushima 15.000 km theo chiều gió (2.200 km đối với Tchernobyl), nguy cơ sẽ không đáng kể. Ở mức dưới 100 mSv, các cơ chế phòng vệ của cơ thể chống lại các phóng xạ là khác nhau và xét về mặt tỷ lệ, hiệu quả hơn nhiều so với phải chống lại những liều lượng lớn, và những công trình nghiên cứu dịch tễ học không cho thấy sự gia tăng đáng kể nguy cơ bị ung thư. Vậy ta không thể ước tính số nạn nhân của một tai nạn nguyên tử bằng cách nhân số dân quan trọng với những liều rất nhỏ và bằng cách giả định rằng nguy cơ tỷ lệ với liều lượng, dầu liều lượng thấp đến đâu chăng nữa.
  4. Y khoa nguyên tử (médecine nucléaire) hàng ngày s ử dụng những sản phẩm phóng xạ để chẩn đoán, thăm dò, điều trị các bệnh tật, hiền tính hay ác tính, của rất nhiều cơ quan. Chỉ có một chống chỉ định : đàn bà có thai, để bảo vệ thai nhi. Nhưng, trái với một tin đồn được xác lập rõ, các dị dạng chỉ xuất hiện trên một liều lượng đối với thai nhi nằm giữa 100 và 200 mSv, với một sự nhạy cảm tối đã từ ngày thứ 9 đến đầu tuần lễ thứ 9, vào lúc các cơ quan được tạo thành. Về các dị tật di truyền, được truyền lại cho con cháu, chúng đã chỉ được phát hiện ở động vật, mà không bao giờ cho loài người cả.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2